vi_tn_Rick/2sa/12/21.md

1.8 KiB

Thông tin chung:

Những câu nầy có những câu hỏi đế nhận mạnh rằng Đa-vít nhận ra rằng Đức Giê-hô-va đã cho phép chuyện này xảy ra.

Biết đâu Đức Giê-hô-va sẽ thương xót ta, và cho nó được sống?

Đa-vít đặt ra câu hỏi nầy để nhấn mạnh rằng không ai biết được liệu Đức Giê-hô-va sẽ để cho đứa trẻ đó sống hay không. Có thể dịch câu hỏi nầy thành một câu khẳng định. Có thể dịch câu hỏi nầy thành một câu khẳng định. Tham khảo cách dịch: “Không ai biết chắc liệu Đức Giê-hô-va có thương xót ta mà để cho đứa trẻ được sống hay không.” (Xem: rc://vi/ta/man/translate/figs-rquestion)

Nhưng bây giờ nó đã chết thì tại sao ta phải kiêng ăn làm gì?

Đa-vít đặt ra câu hỏi nầy để nhấn mạnh rằng ông chẳng còn lí do gì để phải kiêng ăn. Có thể dịch câu hỏi nầy thành một câu khẳng định. Tham khảo cách dịch: “Bây giờ thì nó đã mất nên có kiêng ăn nữa cũng không ích gì” (Xem: rc://vi/ta/man/translate/figs-rquestion)

Ta có thể mang nó trở lại được sao?

Đa-vít đặt ra câu hỏi nầy để nhấn mạnh rằng đứa trẻ không thể sống lại được. Có thể dịch câu hỏi nầy thành một câu khẳng định. “Ta không thể khiến nó sống trở lại được” (Xem: rc://vi/ta/man/translate/figs-rquestion)

Ta sẽ đi đến với nó

Đa-vít ngụ ý rằng ông sẽ đến chỗ đứa trẻ ở sau khi nó qua đời. Tham khảo cách dịch: “Khi ta qua đời ta sẽ đi đến chỗ của nó” (Xem: rc://vi/ta/man/translate/figs-explicit)