vi_ulb/49-GAL.usfm

257 lines
26 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id GAL
\ide UTF-8
\h Ga-La-Ti
\toc1 Ga-La-Ti
\toc2 Ga-La-Ti
\toc3 gal
\mt Ga-La-Ti
\s5
\c 1
\cl Chương 1
\p
\v 1 Tôi là sứ đồ Phao-lô. Tôi không làm sứ đồ bởi người ta hay qua trung gian người ta, mà là bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu và Đức Chúa Cha, Đấng khiến Ngài sống lại từ cõi chết.
\v 2 Và với hết thảy anh em đang ở với tôi, tôi viết thư này gửi các Hội thánh tại Ga-la-ti.
\s5
\v 3 Anh em được ân sủng và bình an từ Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu,
\v 4 là Đấng đã hy sinh vì tội lỗi chúng ta, để có thể cứu chúng ta khỏi thời đại gian ác hiện nay, theo ý muốn của Đức Chúa Trời và Cha chúng ta.
\v 5 Ngài được vinh quang đời đời mãi mãi.
\s5
\p
\v 6 Thật ngạc nhiên vì anh em đã nhanh chóng đi theo một Phúc âm khác. Tôi lấy làm lạ vì anh em đang khước từ Đấng đã gọi anh em bởi ân sủng của Chúa Cứu Thế.
\v 7 Có Phúc âm nào khác đâu, mà chỉ có mấy kẻ gây rối cho anh em và muốn xuyên tạc Phúc âm của Chúa Cứu Thế đó thôi.
\s5
\v 8 Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên sứ nào trên trời, công bố cho anh em một Phúc âm khác với Phúc âm mà chúng tôi đã công bố cho anh em, thì kẻ đó phải bị nguyền rủa.
\v 9 Tôi đã nói rồi, và nay tôi lặp lại: “Nếu ai đó công bố cho anh em một Phúc âm nào khác với Phúc âm mà anh em đã chấp nhận, thì kẻ đó phải bị nguyền rủa.”
\v 10 Bây giờ tôi tìm cách lấy lòng người ta hay Đức Chúa Trời đây? Phải chăng tôi đang tìm cách làm hài lòng người ta? Nếu tôi vẫn gắng sức làm hài lòng người ta thì tôi không phải là tôi tớ của Chúa Cứu Thế.
\s5
\p
\v 11 Thưa anh em, tôi muốn anh em biết rằng Phúc âm mà tôi công bố không phải là do người ta truyền cho đâu.
\v 12 Tôi không tiếp nhận nó từ con người, cũng không ai dạy nó cho tôi, mà đó là bởi sự mặc khải của Chúa Cứu Thế Giê-xu dành cho tôi
\s5
\v 13 Anh em đã nghe biết cuộc đời của tôi lúc trước trong Do Thái giáo thể nào tôi đã bức hại vô cùng hung bạo Hội thánh của Đức Chúa Trời, khiến Hội thánh tan tác.
\v 14 Tôi tiến bộ vượt xa nhiều anh em người Do Thái của mình trong Do Thái giáo. Tôi sốt sắng quá mức về các truyền thống của cha ông mình.
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời đã vui lòng chọn tôi từ trong lòng mẹ, và bởi ân điển Ngài đã kêu gọi tôi
\v 16 mặc khải Con của Ngài ra trong tôi, hầu tôi công bố Ngài ra giữa vòng các dân ngoại quốc. Tôi không tức khắc bàn với thịt và máu,
\v 17 tôi cũng không lên Giê-ru-sa-lem gặp những người đã làm sứ đồ trước tôi. Thay vào đó tôi đi A-ra-bi, rồi quay trở về Đa-mách.
\s5
\v 18 Sau đó ba năm, tôi lên Giê-ru-sa-lem thăm Sê-pha và ở lại với ông mười lăm ngày.
\v 19 Nhưng tôi không gặp sứ đồ nào khác, ngoại trừ Gia-cơ, em Chúa.
\v 20 Trước mặt Đức Chúa Trời, tôi không nói dối về những điều tôi viết cho anh em đây.
\s5
\v 21 Sau đó, tôi đến các vùng Sy-ri và Si-li-si.
\v 22 Vẫn chưa được các Hội thánh tại vùng Giu-đê trong Chúa Cứu Thế biết giáp mặt,
\v 23 họ chỉ nghe rằng: “Người đã từng bức hại chúng ta giờ đây lại công bố đức tin mà anh ta đã tìm cách tiêu diệt.”
\v 24 Chính vì vậy, họ tôn vinh Đức Chúa Trời vì cớ tôi.
\s5
\c 2
\cl Chương 2
\p
\v 1 Sau đó, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giê-ru-sa-lem cùng với Ba-na-ba. Tôi cũng đưa cả Tít cùng đi.
\v 2 Lên đó vì Đức Chúa Trời tỏ cho tôi biết rằng tôi phải đi. Tôi trình bày cho họ Phúc âm mà tôi công bố giữa vòng các dân ngoại quốc. (Nhưng tôi chỉ nói chuyện riêng với những người có vẻ như là các lãnh đạo quan trọng). Tôi làm vậy để bảo đảm rằng mình không chạy vô ích.
\s5
\v 3 Ngay cả Tít, người cùng đi với tôi, là người Hy Lạp, cũng không bị buộc phải chịu cắt bì.
\v 4 Chúng tôi đã làm như vậy, vì có mấy người giả làm anh em len lỏi vào giữa chúng tôi theo dõi sự tự do mà chúng tôi có được trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Họ muốn bắt chúng tôi làm nô lệ cho luật pháp.
\v 5 Nhưng chúng tôi không nhượng bộ họ, cho dù chỉ trong khoảnh khắc, hầu cho chân lý của Phúc âm cứ đứng vững đối với anh em.
\s5
\v 6 Nhưng những người được cho là lãnh đạo đó chẳng đóng góp gì thêm cho tôi. Dầu họ có là gì đi nữa thì cũng chẳng quan trọng đối với tôi. Đức Chúa Trời không thiên vị ai cả.
\v 7 Thay vào đó, họ thấy rằng tôi đã được giao trách nhiệm công bố Phúc âm cho người chưa chịu cắt bì, cũng như Phi-e-rơ có trách nhiệm công bố Phúc âm cho người chịu cắt bì.
\v 8 Đức Chúa Trời, Đấng hành động trong Phi-e-rơ để giao cho ông chức sứ đồ đối với người chịu cắt bì, cũng hành động trong tôi để tôi làm sứ đồ cho người ngoại quốc.
\s5
\v 9 Khi mà Gia-cơ, Sê-pha, và Giăng, những người được công nhận là người gây dựng hội thánh, hiểu được ân sủng đã ban cho tôi, họ đã giao kết tay hữu hiệp thông với Ba-na-ba và tôi. Họ làm vậy để chúng tôi đi đến các dân ngoại quốc, còn họ thì đến với những kẻ chịu cắt bì.
\v 10 Họ cũng muốn chúng tôi nhớ đến người nghèo, là điều tôi cũng rất sốt sắng thực hiện.
\s5
\p
\v 11 Khi Sê-pha đến An-ti-ốt thì tôi có công khai phản đối vì ông hành xử sai trái.
\v 12 Trước khi những người do Gia-cơ sai phái đến nơi thì Sê-pha ăn chung với mấy người ngoại quốc. Nhưng khi những người đó đến, ông lại thôi, và tách mình riêng ra. Ông sợ mấy kẻ chủ trương cắt bì kia.
\s5
\v 13 Những người Do Thái khác cũng hành xử giả dối cùng với Sê-pha. Hậu quả là thậm chí Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn theo thói đạo đức giả của họ.
\v 14 Nhưng khi tôi thấy họ không đi đúng theo chân lý của Phúc âm, tôi đã nói với Sê-pha trước mặt mọi người: “Nếu anh là người Do Thái mà lại sống theo cách người ngoại quốc thay vì theo cách Do Thái, thì sao anh lại ép người ngoại quốc sống giống người Do Thái được?”
\s5
\v 15 Chúng tôi vốn sanh ra đã là người Do Thái chứ không phải là “những người ngoại quốc có tội”
\v 16 Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng chẳng người nào được xưng công chính nhờ việc làm theo luật pháp. Thay vào đó, người ta được xưng công chính nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chúng tôi đã đặt lòng tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu để được xưng công bình nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế chứ không phải nhờ việc làm theo luật pháp, vì chẳng có xác thịt nào sẽ được xưng công chính nhờ việc làm theo luật pháp.
\s5
\v 17 Nhưng nếu chúng tôi vẫn thấy mình có tội khi tìm cách được Đức Chúa Trời xưng công bình trong Chúa Cứu Thế, thì phải chăng Chúa Cứu Thế trở thành kẻ phục vụ tội lỗi? Không có chuyện đó!
\p
\v 18 Vì nếu tôi tái lập lại sự lệ thuộc của mình vào việc tuân giữ luật pháp, là điều mà tôi đã phá bỏ, thì tôi cho thấy mình chính là kẻ phạm luật.
\v 19 Vì thông qua uật pháp mà tôi đã chết đối với luật pháp, để tôi có thể sống cho Đức Chúa Trời.
\s5
\v 20 Tôi đã bị đóng đinh vào cậy thập tự với Chúa Cứu Thế. Giờ thì không còn là tôi sống nữa, mà là Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Cuộc đời mà tôi hiện sống trong thể xác đây là tôi sống bởi đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, Đấng đã yêu tôi và hy sinh vì tôi.
\v 21 Tôi không muốn vô hiệu hóa ân sủng của Đức Chúa Trời, vì nếu có sự công chính nhờ luật pháp thì Chúa Cứu Thế đã chịu chết một cách vô ích.
\s5
\c 3
\cl Chương 3
\p
\v 1 Hỡi các anh em Ga-la-ti dại dột, con mắt tà ác của ai đã hãm hại anh em? Chẳng phải Chúa Cứu Thế Giê-xu chịu đóng đinh trên cây thập tự đã được bày ra trước mắt anh em đó sao?
\v 2 Tôi muốn hỏi anh em chỉ một điều này: Anh em nhận được Thánh Linh bởi việc làm theo luật pháp hay bởi tin những gì mình nghe?
\v 3 Sao anh em lại dại dột như vậy? Phải chăng anh em đã khởi đầu trong Thánh Linh chỉ để đạt đến kết cuộc trong xác thịt như hiện nay?
\s5
\v 4 Phải chăng anh em đã chịu đủ thứ để chẳng được gì, nếu quả là vô ích?
\v 5 Đấng ban Thánh Linh cho anh em và thực hiện những việc năng quyền giữa vòng anh em đã làm vậy bởi việc làm luật pháp hay bởi nghe với lòng tin?
\s5
\p
\v 6 Giống như tổ phụ Áp-ra-ham đã “tin Đức Chúa Trời và điều đó được kể là công bình cho ông.”
\v 7 Cũng như vậy, anh em phải hiểu rằng những ai tin mới là con của Áp-ra-ham.
\v 8 Kinh Thánh đã thấy trước rằng Đức Chúa Trời sẽ xưng công chính người ngoại quốc bởi đức tin. Phúc âm này đã được rao báo trước cho Áp-ra-ham, rằng: “Mọi dân tộc sẽ được phước nơi con.”
\v 9 Vậy nên những ai có đức tin thì được phước với Áp-ra-ham, là người có đức tin.
\s5
\v 10 Mọi kẻ cậy việc làm của luật pháp đều chịu sự nguyền rủa. Vì có lời chép rằng: “Đáng nguyền rủa mọi kẻ không tuân giữ tất cả những điều được chép trong sách luật để thực hiện cho trọn.”
\v 11 Giờ đây, rõ ràng rằng Đức Chúa Trời chẳng xưng người nào là công chính bởi luật pháp, vì “người công chính sẽ sống nhờ đức tin.”
\v 12 Nhưng luật pháp không xuất phát từ đức tin, mà thay vào đó, “người nào làm theo những điều của luật pháp sẽ nhờ đó mà sống.”
\s5
\p
\v 13 Chúa Cứu Thế đã chuộc chúng ta khỏi sự nguyền rủa của luật pháp khi Ngài chịu nguyền rủa thế cho chúng ta, vì có lời chép: “Đáng nguyền rủa mọi kẻ bị treo trên cây gỗ.”
\v 14 Mục đích là để phước lành ban cho Áp-ra-ham có thể đến với người ngoại quốc trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, hầu cho chúng ta có thể nhờ đức tin nhận được lời hứa về Đức Thánh Linh
\s5
\v 15 Hỡi anh em, tôi nói theo cách của con người. Khi đã đạt đến một thỏa thuận trong bản hợp đồng giữa hai người với nhau thì theo luật chẳng ai có thể hủy nó đi hoặc tự ý thêm bất kì điều gì vào đó.
\v 16 Bấy giờ, những lời hứa được dành cho Áp-ra-ham và cho hậu tự của ông. Lời ấy không nói “cho các hậu tự của con” như chỉ về nhiều người, mà chỉ nói “cho hậu tự của con” để chỉ về một người duy nhất, tức là Chúa Cứu Thế.
\s5
\v 17 Tôi muốn nói thế này: Luật pháp vốn xuất hiện 430 năm về sau này không vô hiệu hóa giao ước đã được Đức Chúa Trời thiết lập trước đó.
\v 18 Nếu cơ nghiệp có được là nhờ luật pháp thì cơ nghiệp ấy không còn được ban cho bởi lời hứa. Nhưng Đức Chúa Trời đã ban cơ nghiệp cho Áp-ra-ham qua một lời hứa.
\s5
\p
\v 19 Vậy, vì sao luật pháp được ban bố? Luật pháp được thêm vào vì cớ những vi phạm, cho đến khi hậu tự của Áp-ra-ham đến với những kẻ Ngài đã được hứa cho. Luật pháp đã được ban hành qua các thiên sứ bởi tay một người trung gian.
\v 20 Người trung gian tức hàm ý có hơn một người, nhưng Đức Chúa Trời chỉ là một.
\s5
\p
\v 21 Vậy, phải chăng luật pháp đi ngược lại lời hứa của Đức Chúa Trời? Tuyệt đối không! Vì nếu có một luật nào được ban cho có thể khiến người ta sống, thì sự công chính hẳn có được nhờ luật ấy.
\v 22 Thay vào đó, Kinh thánh đã giam hết mọi vật dưới quyền tội lỗi. Đức Chúa Trời làm vậy để lời Ngài hứa cứu chúng ta bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu được ban cho những ai tin.
\s5
\v 23 Trước khi có đức tin nơi Chúa Cứu Thế, chúng ta đã bị nhốt và cầm giữ bởi luật pháp cho đến khi đức tin được tỏ ra.
\v 24 Vì thế, luật pháp đã trở nên người giám sát chúng ta cho đến khi Chúa Cứu Thế đến, để chúng ta có thể được xưng công chính bởi đức tin.
\v 25 Nhưng bây giờ, đức tin đã đến rồi, nên chúng ta không còn cần người giám sát nữa.
\p
\v 26 Vì tất cả anh em đều là con của Đức Chúa Trời nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\s5
\v 27 Vì hết thảy anh em được báp-têm vào trong Chúa Cứu Thế đều đã mặc lấy Chúa Cứu Thế.
\v 28 Cho nên hiện nay, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả anh em đều là một trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\v 29 Nếu anh em thuộc về Chúa Cứu Thế, thì anh em là con cháu của Áp-ra-ham, tức là những kẻ thừa kế theo lời hứa.
\s5
\c 4
\cl
\p
\v 1 Tôi muốn nói là bao lâu mà người thừa kế còn bé thì anh ta chẳng khác gì một nô lệ, cho dù anh ta là chủ nhân của toàn bộ tài sản.
\v 2 Nhưng anh em phải ở dưới quyền của người giám sát cũng như người được ủy thác cho đến thời điểm người cha đã định.
\s5
\v 3 Chúng ta cũng vậy, khi còn là trẻ con, chúng ta bị làm nô lệ cho các nguyên lý sơ đẳng của trời đất.
\v 4 Nhưng khi thời điểm đã đến, Đức Chúa Trời đã sai phái Con của Ngài, do một phụ nữ sinh ra, sinh ra ở dưới luật pháp.
\v 5 Để rồi Ngài có thể cứu chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, hầu chúng ta có thể nhận được quyền làm con.
\s5
\v 6 Bởi vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, là Thần Linh kêu “A-ba, Cha.”
\v 7 Vậy nên, vì anh em không còn là nô lệ nữa, mà là con. Và nếu anh em đã là con thì anh em cũng là kẻ thừa kế bởi Đức Chúa Trời.
\s5
\p
\v 8 Trước đây, khi anh em chưa biết Đức Chúa Trời, anh em là nô lệ cho những thứ mà về bản chất chẳng phải là thần gì cả.
\v 9 Nhưng hiện nay, anh em đã biết Đức Chúa Trời, hay đúng hơn, anh em đã được Đức Chúa Trời biết, thì sao anh em lại quay về với các nguyên lý sơ đẳng yếu đuối và vô ích đó nữa?
\s5
\v 10 Giờ mà anh em vẫn cẩn thận giữ những ngày đặc biệt, ngày trăng mới, mùa và năm.
\v 11 Tôi lo sợ cho anh em, tôi sợ rằng theo cách nào đó mà công lao khó nhọc của tôi với anh em trở nên vô ích.
\s5
\v 12 Thưa anh em, tôi nài xin anh em hãy trở nên giống như tôi, vì tôi cũng đã trở nên giống như anh em. Anh em chẳng làm gì sai đối với tôi.
\p
\v 13 Anh em biết rằng ấy là vì thân thể đau yếu mà lúc đầu tôi đã công bố Phúc âm cho anh em.
\v 14 Và mặc dù tình trạng thể chất của tôi là cớ thử thách cho anh em, nhưng anh em đã không khinh khi hay khước từ tôi. Trái lại, anh em lại tiếp tôi như thiên sứ của Đức Chúa Trời, như thể tôi chính là Chúa Cứu Thế
\s5
\v 15 Vậy thì sự vui sướng đó của anh em bây giờ ở đâu rồi? Vì tôi làm chứng cho anh em rằng, nếu được, anh em cũng đã móc mắt của mình mà hiến tặng tôi.
\v 16 Vậy thì, phải chăng tôi đã trở thành kẻ thù của anh em vì đã nói thật với anh em?
\s5
\v 17 Những người đó nhiệt tìm kiếm anh em, nhưng không phải vì ý tốt. Họ chỉ muốn anh em tách rời khỏi tôi để đi theo họ.
\v 18 Lòng nhiệt thành vì mục đích tốt thì lúc nào cũng tốt, không chỉ khi tôi có mặt với anh em.
\s5
\v 19 Hỡi con cái bé nhỏ của tôi, vì các con mà tôi lại một lần nữa phải chịu cơn đau chuyển dạ, cho đến khi Chúa Cứu Thế thành hình trong các con!
\v 20 Tôi muốn có mặt tại chỗ với các con ngay bây giờ và thay đổi giọng điệu, vì tôi rất bối rối về các con.
\s5
\p
\v 21 Hãy cho tôi biết, anh em là kẻ muốn ở dưới luật pháp, mà anh em không nghe điều luật pháp dạy sao?
\v 22 Tuy nhiên vì có lời chép rằng: Áp-ra-ham có hai con trai, một người do người phụ nữ nô lệ sinh ra và một người do người phụ nữ tự do sinh ra.
\v 23 Nhưng người con của người phụ nữ nô lệ được sinh ra bởi xác thịt, còn người con của người phụ nữ tự do thì được sinh ra bởi lời hứa.
\s5
\v 24 Những việc này có thể được hiểu theo nghĩa hình bóng, vì hai phụ nữ này giống như hai giao ước. Một giao ước là tại núi Si-nai, vốn sinh ra những đứa con nô lệ. Đó là A-ga.
\v 25 A-ga chính là núi Si-nai tại A-ra-bi. Bà ấy tượng trưng cho thành Giê-ru-sa-lem hiện nay, vì thành này đang ở dưới ách nô lệ cùng với con cái mình.
\s5
\v 26 Nhưng Giê-ru-sa-lem ở trên cao thì được tự do, tức là mẹ của chúng ta.
\v 27 Như có lời chép rằng: “Nào, ngươi là phụ nữ son sẻ, chưa hề sinh nở, hãy vui mừng; Ngươi là kẻ chưa từng bụng mang dạ chữa, hay cười lên và lớn tiếng reo vui; Vì con cái của người phụ nữ son sẻ nhiều lắm thay, nhiều hơn con cái của người nữ có chồng.”
\s5
\p
\v 28 Nhưng thưa anh em, giống như y-sác anh em chính là con của lời hứa.
\v 29 Thời đó, người con sinh ra theo xác thịt bức hại người con sinh ra theo Thánh Linh. Bây giờ cũng tương tự như vậy.
\s5
\v 30 Nhưng Kinh Thánh nói gì? “Hãy đuổi người phụ nữ nô lệ và con của nàng đi. Vì con của người nữ nô lệ sẽ không được thừa kế cùng với con của người nữ tự do.”
\v 31 Vậy nên, thưa anh em, chúng ta không phải là con của người nữ nô lệ, mà là của người nữ tự do.
\s5
\c 5
\cl
\p
\v 1 Chúa Cứu Thế đã giải thoát chúng ta để chúng ta được tự do. Vậy nên, hãy đứng vững và đừng để cho mình lại mắc vào ách nô lệ nữa.
\v 2 Tôi, Phao-lô, nói cho anh em biết, rằng nếu anh em chịu cắt bì, thì Chúa Cứu Thế chẳng ích lợi gì cho anh em hết.
\s5
\v 3 Tôi xác chứng một lần nữa với mọi người chịu cắt bì rằng họ phải vâng giữ trọn cả luật pháp.
\v 4 Tất cả những anh em “được xưng công chính” bởi luật pháp đều đã lìa khỏi Chúa Cứu Thế; anh em đã đánh mất ân sủng rồi.
\s5
\v 5 Vì nhờ Đức Thánh Linh, bởi đức tin, chúng ta đang trông chờ sự bảo đảm về sự công chính.
\v 6 Vì trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, chịu cắt bì hay không chịu cắt bì đều chẳng ý nghĩa gì. Nhưng chỉ có đức tin hành động qua tình yêu thương mới quan trọng.
\p
\v 7 Anh em chạy giỏi. Ai đã ngăn không cho anh em vâng theo chân lý?
\v 8 Sự xui khiến đó không đến từ Đấng kêu gọi anh em.
\s5
\v 9 Một chút men cũng khiến cho cả đống bột bị lên men.
\v 10 Tôi có lòng tin chắc trong Chúa rằng anh em sẽ không suy nghĩ khác đi. Kẻ làm rối trí anh em sẽ gánh chịu sự đoán phạt dành cho mình, dầu họ có là ai đi nữa.
\s5
\v 11 Thưa anh em, nếu tôi vẫn còn rao giảng việc cắt bì thì tại sao tôi vẫn bị bức hại? Nếu vậy thì chướng ngại về thập tự giá sẽ bị phá bỏ.
\v 12 Tôi ước gì những kẻ dẫn dụ anh em sẽ tự cắt mình luôn đi.
\s5
\p
\v 13 Hỡi anh em, Đức Chúa Trời đã kêu gọi anh em đến tự do. Chỉ có điều là đừng sử dụng quyền tự do của mình tạo cơ hội cho xác thịt, mà thay vào đó, hãy phục vụ lẫn nhau bằng tình yêu thương.
\v 14 Vì toàn bộ luật pháp được làm trọn trong một điều răn thôi, đó là “con phải yêu thương người đồng loại như bản thân.”
\v 15 Nhưng nếu anh em cắn nuốt nhau thì hãy cẩn thận, để người này khỏi bị người kia tiêu diệt.
\s5
\p
\v 16 Hãy nhờ Thánh Linh mà bước đi, thì anh em sẽ không làm trọn các ham muốn của xác thịt.
\v 17 Xác thịt có những ham muốn nghịch với Thánh Linh, và Thánh Linh cũng có những ưa muốn nghịch với xác thịt. Hai bên chống nghịch nhau như vậy thì anh em không thể làm điều mình muốn làm.
\v 18 Nếu Thánh Linh dẫn dắt anh em, thì anh em không ở dưới luật pháp.
\s5
\p
\v 19 Các việc làm của xác thịt thật rõ ràng. Đó là: vô luân, bất khiết, tham muốn,
\v 20 hình tượng, ma thuật, thù địch, tranh cạnh, ghen tị, nóng giận, ganh đua, bất hòa, bè phái,
\v 21 đố kị, say sưa, chè chén ồn ào, cùng các việc khác tương tự. Tôi cảnh cáo anh em, như tôi đã cảnh cáo trước đây, rằng những kẻ làm các việc như thế sẽ không hưởng được nước Đức Chúa Trời.
\s5
\v 22 Nhưng trái của Thánh Linh là yêu thương, vui mừng, bình an, kiên nhẫn, tử tế, nhân hậu, trung tín,
\v 23 hiền hòa, tự chủ. Chẳng có luật pháp nào nghịch lại các điều thể ấy.
\v 24 Những người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-xu đã đóng đinh xác thịt cùng với những ham mê và tham muốn xấu xa của nó rồi.
\s5
\p
\v 25 Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Linh, thì chúng ta cũng hãy nhờ Thánh Linh mà bước đi.
\v 26 Chúng ta đừng kiêu căng tự phụ, trêu tức nhau, hay đố kỵ nhau.
\s5
\c 6
\cl
\p
\v 1 Thưa anh em, nếu có ai bị vướng mắc vào một tội nào, thì anh em là người thuộc linh phải phục hồi người đó với tinh thần dịu dàng. Chính anh em cũng phải coi chừng để khỏi bị cám dỗ.
\v 2 Hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Chúa Cứu Thế.
\s5
\v 3 Nếu có người nào tưởng mình là quan trọng trong khi mình chẳng là gì cả, tức người đó tự lừa dối mình.
\v 4 Người đó phải xem xét việc của riêng mình, rồi thì tự người đó sẽ có cái để hãnh diện mà không đi so sánh mình với ai khác.
\v 5 Mỗi người đều sẽ tự mang gánh nặng của mình.
\s5
\p
\v 6 Những ai được học Lời Chúa phải chia sẻ mọi vật tốt mình có cho thầy dạy mình.
\v 7 Đừng để bị lừa dối, Đức Chúa Trời không bị chế nhạo. Vì ai gieo giống gì sẽ gặt nấy.
\v 8 Ai gieo cho bản chất tội lỗi sẽ gặt lấy sự hủy diệt, còn người gieo cho Thánh Linh thì sẽ gặt sự sống vĩnh hằng từ Thánh Linh.
\s5
\v 9 Chúng ta không nên chán nản khi làm lành, vì đến đúng thời điểm chúng ta sẽ gặt hái kết quả, nếu chúng ta không bỏ cuộc.
\v 10 Vậy nên, trong lúc có cơ hội, chúng ta hãy làm lành cho mọi người. Đặc biệt, chúng ta hãy làm việc tốt cho những người trong gia đình đức tin.
\s5
\p
\v 11 Hãy xem tôi viết cho anh em bằng chính tay mình, chữ lớn làm sao!
\v 12 Những kẻ muốn gây ấn tượng về xác thịt ép anh em phải chịu cắt bì. Họ làm vậy chỉ để khỏi phải chịu bức hại về thập tự giá của Chúa Cứu Thế đấy thôi.
\v 13 Thậm chí những kẻ chịu cắt bì đó cũng chẳng tuân giữ luật pháp nữa. Thay vì vậy, họ muốn anh em chịu cắt bì để họ có thể hãnh diện về xác thịt của anh em.
\s5
\v 14 Nhưng nguyện tôi không bao giờ khoe khoang, hãnh diện về điều gì khác ngoại trừ thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta. Ấy là nhờ Ngài mà thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh và tôi đối với thế gian cũng vậy.
\v 15 Vì được cắt bì hay không cắt bì đều chẳng là gì cả, mà quan trọng là trở nên tạo vật mới.
\v 16 Nguyện xin sự bình an và thương xót giáng trên hết thảy mọi người sống theo luật này, và trên dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời.
\s5
\p
\v 17 Ước gì từ nay trở đi không ai gây rắc rối cho tôi, vì tôi có mang trên mình các dấu vết của Chúa Jê-sus.
\p
\v 18 Nguyện xin ân sủng của Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta ở cùng tâm thần anh em. A-men.