\v 1 Tôi là sứ đồ Phao-lô. Tôi không làm sứ đồ bởi người ta hay qua trung gian người ta, mà là bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu và Đức Chúa Cha, Đấng khiến Ngài sống lại từ cõi chết.
\v 2 Và với hết thảy anh em đang ở với tôi, tôi viết thư này gửi các Hội thánh tại Ga-la-ti.
\v 6 Thật ngạc nhiên vì anh em đã nhanh chóng đi theo một Phúc âm khác. Tôi lấy làm lạ vì anh em đang khước từ Đấng đã gọi anh em bởi ân sủng của Chúa Cứu Thế.
\v 7 Có Phúc âm nào khác đâu, mà chỉ có mấy kẻ gây rối cho anh em và muốn xuyên tạc Phúc âm của Chúa Cứu Thế đó thôi.
\v 8 Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên sứ nào trên trời, công bố cho anh em một Phúc âm khác với Phúc âm mà chúng tôi đã công bố cho anh em, thì kẻ đó phải bị nguyền rủa.
\v 9 Tôi đã nói rồi, và nay tôi lặp lại: “Nếu ai đó công bố cho anh em một Phúc âm nào khác với Phúc âm mà anh em đã chấp nhận, thì kẻ đó phải bị nguyền rủa.”
\v 10 Bây giờ tôi tìm cách lấy lòng người ta hay Đức Chúa Trời đây? Phải chăng tôi đang tìm cách làm hài lòng người ta? Nếu tôi vẫn gắng sức làm hài lòng người ta thì tôi không phải là tôi tớ của Chúa Cứu Thế.
\v 13 Anh em đã nghe biết cuộc đời của tôi lúc trước trong Do Thái giáo – thể nào tôi đã bức hại vô cùng hung bạo Hội thánh của Đức Chúa Trời, khiến Hội thánh tan tác.
\v 14 Tôi tiến bộ vượt xa nhiều anh em người Do Thái của mình trong Do Thái giáo. Tôi sốt sắng quá mức về các truyền thống của cha ông mình.
\v 2 Lên đó vì Đức Chúa Trời tỏ cho tôi biết rằng tôi phải đi. Tôi trình bày cho họ Phúc âm mà tôi công bố giữa vòng các dân ngoại quốc. (Nhưng tôi chỉ nói chuyện riêng với những người có vẻ như là các lãnh đạo quan trọng). Tôi làm vậy để bảo đảm rằng mình không chạy vô ích.
\v 3 Ngay cả Tít, người cùng đi với tôi, là người Hy Lạp, cũng không bị buộc phải chịu cắt bì.
\v 4 Chúng tôi đã làm như vậy, vì có mấy người giả làm anh em len lỏi vào giữa chúng tôi theo dõi sự tự do mà chúng tôi có được trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Họ muốn bắt chúng tôi làm nô lệ cho luật pháp.
\v 5 Nhưng chúng tôi không nhượng bộ họ, cho dù chỉ trong khoảnh khắc, hầu cho chân lý của Phúc âm cứ đứng vững đối với anh em.
\v 6 Nhưng những người được cho là lãnh đạo đó chẳng đóng góp gì thêm cho tôi. Dầu họ có là gì đi nữa thì cũng chẳng quan trọng đối với tôi. Đức Chúa Trời không thiên vị ai cả.
\v 7 Thay vào đó, họ thấy rằng tôi đã được giao trách nhiệm công bố Phúc âm cho người chưa chịu cắt bì, cũng như Phi-e-rơ có trách nhiệm công bố Phúc âm cho người chịu cắt bì.
\v 8 Đức Chúa Trời, Đấng hành động trong Phi-e-rơ để giao cho ông chức sứ đồ đối với người chịu cắt bì, cũng hành động trong tôi để tôi làm sứ đồ cho người ngoại quốc.
\v 9 Khi mà Gia-cơ, Sê-pha, và Giăng, những người được công nhận là người gây dựng hội thánh, hiểu được ân sủng đã ban cho tôi, họ đã giao kết tay hữu hiệp thông với Ba-na-ba và tôi. Họ làm vậy để chúng tôi đi đến các dân ngoại quốc, còn họ thì đến với những kẻ chịu cắt bì.
\v 10 Họ cũng muốn chúng tôi nhớ đến người nghèo, là điều tôi cũng rất sốt sắng thực hiện.
\v 11 Khi Sê-pha đến An-ti-ốt thì tôi có công khai phản đối vì ông hành xử sai trái.
\v 12 Trước khi những người do Gia-cơ sai phái đến nơi thì Sê-pha ăn chung với mấy người ngoại quốc. Nhưng khi những người đó đến, ông lại thôi, và tách mình riêng ra. Ông sợ mấy kẻ chủ trương cắt bì kia.
\v 13 Những người Do Thái khác cũng hành xử giả dối cùng với Sê-pha. Hậu quả là thậm chí Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn theo thói đạo đức giả của họ.
\v 14 Nhưng khi tôi thấy họ không đi đúng theo chân lý của Phúc âm, tôi đã nói với Sê-pha trước mặt mọi người: “Nếu anh là người Do Thái mà lại sống theo cách người ngoại quốc thay vì theo cách Do Thái, thì sao anh lại ép người ngoại quốc sống giống người Do Thái được?”
\v 15 Chúng tôi vốn sanh ra đã là người Do Thái chứ không phải là “những người ngoại quốc có tội”
\v 16 Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng chẳng người nào được xưng công chính nhờ việc làm theo luật pháp. Thay vào đó, người ta được xưng công chính nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chúng tôi đã đặt lòng tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu để được xưng công bình nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế chứ không phải nhờ việc làm theo luật pháp, vì chẳng có xác thịt nào sẽ được xưng công chính nhờ việc làm theo luật pháp.
\v 17 Nhưng nếu chúng tôi vẫn thấy mình có tội khi tìm cách được Đức Chúa Trời xưng công bình trong Chúa Cứu Thế, thì phải chăng Chúa Cứu Thế trở thành kẻ phục vụ tội lỗi? Không có chuyện đó!
\v 20 Tôi đã bị đóng đinh vào cậy thập tự với Chúa Cứu Thế. Giờ thì không còn là tôi sống nữa, mà là Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Cuộc đời mà tôi hiện sống trong thể xác đây là tôi sống bởi đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, Đấng đã yêu tôi và hy sinh vì tôi.
\v 21 Tôi không muốn vô hiệu hóa ân sủng của Đức Chúa Trời, vì nếu có sự công chính nhờ luật pháp thì Chúa Cứu Thế đã chịu chết một cách vô ích.
\v 1 Hỡi các anh em Ga-la-ti dại dột, con mắt tà ác của ai đã hãm hại anh em? Chẳng phải Chúa Cứu Thế Giê-xu chịu đóng đinh trên cây thập tự đã được bày ra trước mắt anh em đó sao?
\v 2 Tôi muốn hỏi anh em chỉ một điều này: Anh em nhận được Thánh Linh bởi việc làm theo luật pháp hay bởi tin những gì mình nghe?
\v 3 Sao anh em lại dại dột như vậy? Phải chăng anh em đã khởi đầu trong Thánh Linh chỉ để đạt đến kết cuộc trong xác thịt như hiện nay?
\v 6 Giống như tổ phụ Áp-ra-ham đã “tin Đức Chúa Trời và điều đó được kể là công bình cho ông.”
\v 7 Cũng như vậy, anh em phải hiểu rằng những ai tin mới là con của Áp-ra-ham.
\v 8 Kinh Thánh đã thấy trước rằng Đức Chúa Trời sẽ xưng công chính người ngoại quốc bởi đức tin. Phúc âm này đã được rao báo trước cho Áp-ra-ham, rằng: “Mọi dân tộc sẽ được phước nơi con.”
\v 9 Vậy nên những ai có đức tin thì được phước với Áp-ra-ham, là người có đức tin.
\v 10 Mọi kẻ cậy việc làm của luật pháp đều chịu sự nguyền rủa. Vì có lời chép rằng: “Đáng nguyền rủa mọi kẻ không tuân giữ tất cả những điều được chép trong sách luật để thực hiện cho trọn.”
\v 11 Giờ đây, rõ ràng rằng Đức Chúa Trời chẳng xưng người nào là công chính bởi luật pháp, vì “người công chính sẽ sống nhờ đức tin.”
\v 12 Nhưng luật pháp không xuất phát từ đức tin, mà thay vào đó, “người nào làm theo những điều của luật pháp sẽ nhờ đó mà sống.”
\v 13 Chúa Cứu Thế đã chuộc chúng ta khỏi sự nguyền rủa của luật pháp khi Ngài chịu nguyền rủa thế cho chúng ta, vì có lời chép: “Đáng nguyền rủa mọi kẻ bị treo trên cây gỗ.”
\v 14 Mục đích là để phước lành ban cho Áp-ra-ham có thể đến với người ngoại quốc trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, hầu cho chúng ta có thể nhờ đức tin nhận được lời hứa về Đức Thánh Linh
\v 15 Hỡi anh em, tôi nói theo cách của con người. Khi đã đạt đến một thỏa thuận trong bản hợp đồng giữa hai người với nhau thì theo luật chẳng ai có thể hủy nó đi hoặc tự ý thêm bất kì điều gì vào đó.
\v 16 Bấy giờ, những lời hứa được dành cho Áp-ra-ham và cho hậu tự của ông. Lời ấy không nói “cho các hậu tự của con” như chỉ về nhiều người, mà chỉ nói “cho hậu tự của con” để chỉ về một người duy nhất, tức là Chúa Cứu Thế.
\v 17 Tôi muốn nói thế này: Luật pháp vốn xuất hiện 430 năm về sau này không vô hiệu hóa giao ước đã được Đức Chúa Trời thiết lập trước đó.
\v 18 Nếu cơ nghiệp có được là nhờ luật pháp thì cơ nghiệp ấy không còn được ban cho bởi lời hứa. Nhưng Đức Chúa Trời đã ban cơ nghiệp cho Áp-ra-ham qua một lời hứa.
\v 19 Vậy, vì sao luật pháp được ban bố? Luật pháp được thêm vào vì cớ những vi phạm, cho đến khi hậu tự của Áp-ra-ham đến với những kẻ Ngài đã được hứa cho. Luật pháp đã được ban hành qua các thiên sứ bởi tay một người trung gian.
\v 21 Vậy, phải chăng luật pháp đi ngược lại lời hứa của Đức Chúa Trời? Tuyệt đối không! Vì nếu có một luật nào được ban cho có thể khiến người ta sống, thì sự công chính hẳn có được nhờ luật ấy.
\v 22 Thay vào đó, Kinh thánh đã giam hết mọi vật dưới quyền tội lỗi. Đức Chúa Trời làm vậy để lời Ngài hứa cứu chúng ta bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu được ban cho những ai tin.
\v 8 Trước đây, khi anh em chưa biết Đức Chúa Trời, anh em là nô lệ cho những thứ mà về bản chất chẳng phải là thần gì cả.
\v 9 Nhưng hiện nay, anh em đã biết Đức Chúa Trời, hay đúng hơn, anh em đã được Đức Chúa Trời biết, thì sao anh em lại quay về với các nguyên lý sơ đẳng yếu đuối và vô ích đó nữa?
\v 13 Anh em biết rằng ấy là vì thân thể đau yếu mà lúc đầu tôi đã công bố Phúc âm cho anh em.
\v 14 Và mặc dù tình trạng thể chất của tôi là cớ thử thách cho anh em, nhưng anh em đã không khinh khi hay khước từ tôi. Trái lại, anh em lại tiếp tôi như thiên sứ của Đức Chúa Trời, như thể tôi chính là Chúa Cứu Thế
\v 15 Vậy thì sự vui sướng đó của anh em bây giờ ở đâu rồi? Vì tôi làm chứng cho anh em rằng, nếu được, anh em cũng đã móc mắt của mình mà hiến tặng tôi.
\v 16 Vậy thì, phải chăng tôi đã trở thành kẻ thù của anh em vì đã nói thật với anh em?
\v 24 Những việc này có thể được hiểu theo nghĩa hình bóng, vì hai phụ nữ này giống như hai giao ước. Một giao ước là tại núi Si-nai, vốn sinh ra những đứa con nô lệ. Đó là A-ga.
\v 25 A-ga chính là núi Si-nai tại A-ra-bi. Bà ấy tượng trưng cho thành Giê-ru-sa-lem hiện nay, vì thành này đang ở dưới ách nô lệ cùng với con cái mình.
\v 26 Nhưng Giê-ru-sa-lem ở trên cao thì được tự do, tức là mẹ của chúng ta.
\v 27 Như có lời chép rằng: “Nào, ngươi là phụ nữ son sẻ, chưa hề sinh nở, hãy vui mừng; Ngươi là kẻ chưa từng bụng mang dạ chữa, hay cười lên và lớn tiếng reo vui; Vì con cái của người phụ nữ son sẻ nhiều lắm thay, nhiều hơn con cái của người nữ có chồng.”
\v 30 Nhưng Kinh Thánh nói gì? “Hãy đuổi người phụ nữ nô lệ và con của nàng đi. Vì con của người nữ nô lệ sẽ không được thừa kế cùng với con của người nữ tự do.”
\v 31 Vậy nên, thưa anh em, chúng ta không phải là con của người nữ nô lệ, mà là của người nữ tự do.
\v 5 Vì nhờ Đức Thánh Linh, bởi đức tin, chúng ta đang trông chờ sự bảo đảm về sự công chính.
\v 6 Vì trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, chịu cắt bì hay không chịu cắt bì đều chẳng ý nghĩa gì. Nhưng chỉ có đức tin hành động qua tình yêu thương mới quan trọng.
\v 9 Một chút men cũng khiến cho cả đống bột bị lên men.
\v 10 Tôi có lòng tin chắc trong Chúa rằng anh em sẽ không suy nghĩ khác đi. Kẻ làm rối trí anh em sẽ gánh chịu sự đoán phạt dành cho mình, dầu họ có là ai đi nữa.
\v 13 Hỡi anh em, Đức Chúa Trời đã kêu gọi anh em đến tự do. Chỉ có điều là đừng sử dụng quyền tự do của mình tạo cơ hội cho xác thịt, mà thay vào đó, hãy phục vụ lẫn nhau bằng tình yêu thương.
\v 14 Vì toàn bộ luật pháp được làm trọn trong một điều răn thôi, đó là “con phải yêu thương người đồng loại như bản thân.”
\v 15 Nhưng nếu anh em cắn nuốt nhau thì hãy cẩn thận, để người này khỏi bị người kia tiêu diệt.
\v 16 Hãy nhờ Thánh Linh mà bước đi, thì anh em sẽ không làm trọn các ham muốn của xác thịt.
\v 17 Xác thịt có những ham muốn nghịch với Thánh Linh, và Thánh Linh cũng có những ưa muốn nghịch với xác thịt. Hai bên chống nghịch nhau như vậy thì anh em không thể làm điều mình muốn làm.
\v 18 Nếu Thánh Linh dẫn dắt anh em, thì anh em không ở dưới luật pháp.
\v 20 hình tượng, ma thuật, thù địch, tranh cạnh, ghen tị, nóng giận, ganh đua, bất hòa, bè phái,
\v 21 đố kị, say sưa, chè chén ồn ào, cùng các việc khác tương tự. Tôi cảnh cáo anh em, như tôi đã cảnh cáo trước đây, rằng những kẻ làm các việc như thế sẽ không hưởng được nước Đức Chúa Trời.
\v 1 Thưa anh em, nếu có ai bị vướng mắc vào một tội nào, thì anh em là người thuộc linh phải phục hồi người đó với tinh thần dịu dàng. Chính anh em cũng phải coi chừng để khỏi bị cám dỗ.
\v 2 Hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Chúa Cứu Thế.
\v 11 Hãy xem tôi viết cho anh em bằng chính tay mình, chữ lớn làm sao!
\v 12 Những kẻ muốn gây ấn tượng về xác thịt ép anh em phải chịu cắt bì. Họ làm vậy chỉ để khỏi phải chịu bức hại về thập tự giá của Chúa Cứu Thế đấy thôi.
\v 13 Thậm chí những kẻ chịu cắt bì đó cũng chẳng tuân giữ luật pháp nữa. Thay vì vậy, họ muốn anh em chịu cắt bì để họ có thể hãnh diện về xác thịt của anh em.
\v 14 Nhưng nguyện tôi không bao giờ khoe khoang, hãnh diện về điều gì khác ngoại trừ thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta. Ấy là nhờ Ngài mà thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh và tôi đối với thế gian cũng vậy.
\v 15 Vì được cắt bì hay không cắt bì đều chẳng là gì cả, mà quan trọng là trở nên tạo vật mới.
\v 16 Nguyện xin sự bình an và thương xót giáng trên hết thảy mọi người sống theo luật này, và trên dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời.