vi_ulb/44-JHN.usfm

2050 lines
135 KiB
Plaintext
Raw Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id JHN
\ide UTF-8
\h Giăng
\toc1 Giăng
\toc2 Giăng
\toc3 jhn
\mt Giăng
\s5
\c 1
\cl
\p
\v 1 Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.
\v 2 Ngôi Lời này từ ban đầu đã ở với Đức Chúa Trời.
\v 3 Tất cả mọi vật được tạo dựng bởi Ngài, và nếu không có Ngài thì chẳng có tạo vật nào được tạo dựng.
\s5
\v 4 Trong Ngài là sự sống, và sự sống đó là ánh sáng của cả nhân loại.
\v 5 Ánh sáng soi trong bóng tối, và bóng tối không dập tắt ánh sáng.
\s5
\v 6 Có một người được Đức Chúa Trời sai phái, tên là Giăng.
\v 7 Giăng đã đến như nhân chứng để làm chứng về ánh sáng, hầu nhờ ông mọi người đều tin.
\v 8 Giăng không phải là ánh sáng, nhưng ông đã đến để làm chứng về ánh sáng.
\s5
\v 9 Đó là ánh sáng thật vào trần gian soi sáng mọi người.
\s5
\v 10 Ngài ở trong thế giới, và nhờ Ngài mà thế giới đã được dựng nên, nhưng thế nhân lại chẳng nhìn biết Ngài.
\v 11 Ngài đến thế giới của mình, nhưng dân Ngài chẳng tiếp nhận Ngài.
\s5
\v 12 Nhưng những ai tiếp nhận Ngài, tức những người tin danh Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền trở nên con cái Đức Chúa Trời,
\v 13 là những người đã được sanh ra không bởi khí huyết, không phải bởi lòng dục của xác thịt, cũng không phải bởi ý muốn con người, mà là bởi Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Ngôi Lời đã trở thành nhục thể sống giữa chúng tôi. Chúng tôi đã ngắm nhìn vinh quang của Ngài, như vinh quang của Con Người độc nhất vô nhị đến từ Cha, đầy dẫy ân sủng và chân lý.
\v 15 Giăng đã làm chứng về Ngài khi nói lớn tiếng, rằng: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Đấng đến sau tôi vượt trội hơn tôi, vì Ngài có trước tôi.’”
\s5
\v 16 Vì nhờ sự đầy đủ của Ngài mà tất cả chúng ta đều nhận được hết ơn này đến ơn khác.
\v 17 Vì luật pháp được ban bố qua Môi-se. Ân sủng và chân lý được ban cho qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\v 18 Chưa từng có ai nhìn thấy Đức Chúa Trời. Duy chỉ Con Người độc nhất, vốn chính là Đức Chúa Trời, Đấng ở trong lòng Cha, chính Ngài bày tỏ Cha cho chúng ta.
\s5
\v 19 Đây là lời chứng của Giăng, khi những người Do Thái sai những thầy tế lễ và người Lê- vi từ Giê-ru-sa-lem đến hỏi ông: “Anh là ai?”
\v 20 Ông đã trả lời thật rõ ràng, không chối cãi, rằng: “Tôi không phải là Chúa Cứu Thế.”
\v 21 Họ hỏi lại ông: “Vậy thì anh là ai? Có phải là Ê-li không?” Ông trả lời: “Không phải.” Họ lại hỏi: “Anh có phải là nhà tiên tri không?” Ông đáp: “Không.”
\s5
\v 22 Họ hỏi tiếp: “Vậy, anh là ai, để chúng tôi có thể trả lời cho những người đã sai chúng tôi đi? Anh tự nhận mình là ai nào?
\v 23 Ông đáp: “Tôi là tiếng của người kêu trong đồng vắng, rằng: Hãy làm cho đường của Chúa ra bằng phẳng, như tiên tri Ê-sai đã nói.”
\s5
\v 24 Có những người do người Pha-ri-si sai đến. Họ chất vấn ông, rằng:
\v 25 “Vậy, nếu anh không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là Ê-li, cũng không phải là nhà tiên tri, sao anh lại làm phép báp-têm?”
\s5
\v 26 Giăng trả lời họ rằng: “Tôi làm phép báp-têm bằng nước. Nhưng có một Đấng đứng ngay giữa các ông mà các ông không nhận ra.
\v 27 Đấng ấy đến sau tôi. Tôi không xứng đáng để tháo dây giày của Ngài.”
\v 28 Những việc này xảy ra tại Bê-tha-ni bên kia sông Giô-đanh, nơi Giăng đã làm phép báp-têm.
\s5
\v 29 Qua ngày hôm sau, Giăng thấy Chúa Giê-xu đến chỗ mình, thì nói rằng: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi thế nhân đi!
\v 30 Đây chính là Đấng mà tôi đã nói đến, rằng: Đấng đến sau tôi trổi hơn tôi, vì Ngài có trước tôi
\v 31 Tôi không nhận ra Ngài, nhưng ấy là để Ngài được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên, nên tôi đã đến làm báp-têm bằng nước.”
\s5
\v 32 Giăng làm chứng, rằng: “Tôi đã thấy Đức Thánh Linh từ trời giáng xuống như chim bồ câu, và đậu trên Ngài.
\v 33 Tôi không nhận ra Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm báp-têm bằng nước đã phán cùng tôi, rằng: Đấng mà con sẽ thấy Đức Thánh Linh đáp đậu lên, thì đó chính là Đấng làm báp - têm bằng Đức Thánh Linh.
\v 34 Tôi đã thấy và cũng đã làm chứng rằng đây là Con Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 35 Ngày hôm sau, khi Giăng một lần nữa đứng đó với hai môn đồ của mình,
\v 36 thì họ thấy Chúa Giê-xu đi ngang qua. Giăng kêu lên: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 37 Hai môn đồ nghe Giăng nói như vậy, liền đi theo Chúa Giê-xu.
\v 38 Chúa Giê-xu quay lại thấy họ đang đi theo Ngài, thì Ngài hỏi: “Các anh cần gì?” Họ trả lời: “Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy đang ở đâu?”
\v 39 Ngài nói với họ: “Các anh cứ đến xem.” Họ đến và thấy chỗ Ngài đang ở, họ ở lại với Ngài ngày hôm đó, vì lúc ấy đã vào khoảng giờ thứ mười.
\s5
\v 40 Một trong hai người nghe Giăng nói và đi theo Chúa Giê-xu đó là Anh-rê, em trai của Si-môn Phi-e-rơ.
\v 41 Anh-rê trước hết tìm gặp anh mình là Si-môn rồi thuật lại, rằng: “Bọn em đã thấy Đấng Mê-si” (dịch ra là Chúa Cứu Thế)
\v 42 Ông đưa anh mình đến với Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu nhìn Phi-e-rơ rồi nói: “Anh là Si-môn, con ông Giăng. Anh sẽ được gọi là Sê-pha” (nghĩa là Phi-e-rơ).
\s5
\v 43 Ngày hôm sau, khi Chúa Giê-xu muốn rời nơi đó để đi đến Ga-li-lê, Ngài tìm gặp Phi-líp và nói với ông: “Hãy theo Thầy.”
\v 44 Phi-líp là người ở Bết-sai-đa, đồng thành với Anh-rê và Phi-e-rơ.
\v 45 Phi-líp đi gặp Na-tha-na-ên và nói với ông: “Bọn tôi đã gặp Đấng được nói đến trong luật pháp Môi-se và các sách tiên tri đó là Chúa Giê-xu, con ông Giô-sép, người Na-xa-rét.”
\s5
\v 46 Na-tha-na-ên hỏi lại ông: “Có gì hay ho ra từ Na-xa-rét được sao?” Phi-líp đáp: “Cứ đến xem.”
\v 47 Chúa Giê-xu thấy Na-tha-na-ên đến với Ngài, thì nhận xét về ông, rằng: “Chà, một người Y-sơ-ra-ên đích thực, bên trong chẳng có gì gian dối!”
\v 48 Na-tha-na-ên hỏi Ngài: “Làm sao Thầy biết tôi?” Chúa Giê-xu đáp: “Trước khi Phi-líp gọi anh, lúc anh còn ở dưới cây vả, thì Thầy đã thấy anh.”
\s5
\v 49 Na-tha-na-ên thưa: “Ra-bi, Thầy là Con Đức Chúa Trời! Thầy là Vua của Y-sơ-ra-ên!”
\v 50 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Phải chăng anh tin vì Thầy nói với anh: Thầy đã thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ thấy những việc kỳ diệu hơn nữa kìa.”
\v 51 Chúa Giê-xu tiếp: “Thầy nói thật với anh em, anh em sẽ thấy thiên đàng mở ra, và thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Người.”
\s5
\c 2
\cl
\p
\v 1 Ba ngày sau, có một đám cưới tại thành Ca-na trong xứ Ga-li-lê, và mẹ của Chúa Giê-xu ở đó.
\v 2 Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài được mời đến dự đám cưới.
\s5
\v 3 Khi rượu đã hết, mẹ của Chúa Giê-xu nói với Ngài: “Họ đã hết rượu.”
\v 4 Chúa Giê-xu đáp: “Thưa bà, điều đó có liên can gì đến Tôi? Giờ của Tôi chưa đến.”
\v 5 Mẹ của Ngài nói cùng những đầy tớ: “Hãy làm bất cứ điều gì cậu ấy bảo.”
\s5
\v 6 Ở đó có sáu cái chum bằng đá được người Do Thái dùng cho nghi thức tẩy rửa, mỗi cái chứa được tám mươi đến một trăm hai mươi lít nước,
\v 7 Chúa Giê-xu nói với họ: “Hãy đổ nước đầy mấy cái chum đi.” Vậy, họ đổ nước đầy đến miệng.
\v 8 Rồi Ngài nói với các đầy tớ: “Hãy múc ra mang đến cho người quản lý bộ phận phục vụ.” Họ làm theo.
\s5
\v 9 Người quản lý nếm thử nước mà giờ đây đã biến thành rượu, nhưng anh không biết từ đâu mà có (dầu các đầy tớ đã múc nước này đều biết). Rồi người quản lý gọi chàng rể đến
\v 10 và nói với anh: “Ai cũng đãi rượu ngon trước, sau đó mới đến rượu rẻ tiền hơn, khi khách đã uống say. Nhưng anh lại giữ rượu ngon đến tận lúc này.”
\s5
\v 11 Phép lạ này ở Ca-na trong xứ Ga-li-lê là khởi đầu những phép lạ mà Chúa Giê-xu thực hiện để bày tỏ vinh quang của Ngài, vậy nên các môn đồ của Ngài tin Ngài.
\s5
\v 12 Sau việc này, Chúa Giê-xu, mẹ Ngài, các em trai cùng các môn đồ của Ngài đi xuống thành Ca-bê-na-um, và họ lưu lại đó mấy ngày.
\s5
\v 13 Khi sắp đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giê-xu đi lên Giê-ru-sa-lem.
\v 14 Ngài thấy có những người bán chiên, bò và bồ câu trong đền thờ. Cũng có những người đổi tiền ngồi ở đó.
\s5
\v 15 Vậy, Ngài lấy dây bên một chiếc roi và đuổi hết bọn họ ra khỏi đền thờ, cùng với chiên và bò. Ngài đổ tiền của những người đổi tiền và lật bàn của họ.
\v 16 Với những người bán bồ câu, Ngài nói: “Hãy mang mấy thứ này ra khỏi đây. Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán.”
\s5
\v 17 Các môn đồ của Ngài nhớ lại lời đã chép, rằng: “Lòng nhiệt thành về nhà Ngài sẽ thiêu đốt tôi.”
\v 18 Rồi giới thẩm quyền Do Thái phản ứng, hỏi Ngài: “Ông làm những việc này thì sẽ tỏ cho chúng tôi dấu hiệu nào?”
\v 19 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy phá đền thờ này đi, trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại.”
\s5
\v 20 Giới thẩm quyền Do Thái nói: “Phải mất bốn mươi sáu năm để xây dựng đền thờ này, vậy mà ông chỉ cần ba ngày để dựng lại sao?”
\v 21 Tuy nhiên, Ngài đang nói về đền thờ là thân thể Ngài.
\v 22 Về sau, khi Ngài từ cõi chết sống lại, các môn đồ nhớ lại Ngài đã nói điều này, thì họ tin Kinh Thánh và lời Chúa Giê-xu đã nói.
\s5
\v 23 Khi Ngài ở Giê-ru-sa-lem vào dịp Lễ Vượt Qua, trong kỳ lễ, có nhiều người tin danh Ngài khi thấy những phép lạ mà Ngài đã làm.
\v 24 Tuy nhiên, Chúa Giê-xu không tin họ vì Ngài biết rõ mọi người.
\v 25 Ngài chẳng cần ai làm chứng về người ta vì Ngài biết trong lòng người ta như thế nào.
\s5
\c 3
\cl
\p
\v 1 Có một người Pha-ri-si tên Ni-cô-đem, là thành viên của Tòa Công Luận Do Thái.
\v 2 Ông này đến với Chúa Giê-xu vào ban đêm, và nói với Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết rằng Thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến, vì không ai có thể làm những dấu lạ mà Thầy đã làm đó nếu không được Đức Chúa Trời ở cùng.”
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Tôi nói thật, người nào không sanh lại thì không thể thấy nước Đức Chúa Trời.”
\v 4 Ni-cô-đem hỏi lại Ngài: “Một người đã già thì làm sao có thể sanh lại được? Người đó đâu có thể trở vào lòng mẹ để được sanh thêm một lần, phải vậy không?”
\s5
\v 5 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi nói thật, nếu ai không được sanh bởi nước và Đức Thánh Linh, thì người đó không thể nào vào nước của Đức Chúa Trời.
\v 6 Điều gì sanh bởi xác thịt là xác thịt, điều gì sanh bởi Thánh Linh là thần khí.
\s5
\v 7 Đừng ngạc nhiên về điều Tôi nói với ông: Ông phải sanh lại.
\v 8 Gió thổi đâu cũng được. Ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió đến từ đâu hay gió sẽ đi đâu. Người được sanh bởi Thánh Linh cũng như vậy.”
\s5
\v 9 Ni-cô-đem đáp: “Làm sao lại có thể như vậy được?”
\v 10 Chúa Giê-xu trả lời ông: “Ông là giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên mà lại không hiểu những điều này ư?
\v 11 Tôi nói thật, chúng tôi nói điều chúng tôi biết, và chúng tôi xác chứng điều chúng tôi đã thấy. Nhưng dân chúng các ông lại không chấp nhận lời chứng của chúng tôi.
\s5
\v 12 Tôi nói cho các ông những việc dưới đất, mà các ông còn không tin, thì làm sao các ông tin được những việc thuộc cõi trời?
\v 13 Chưa có ai lên trời ngoại trừ Đấng từ trời xuống, là Con Người.
\s5
\v 14 Ông Môi-se đã treo con rắn lên trong hoang mạc thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy
\v 15 để tất cả những tin ai Ngài sẽ có được sự sống đời đời.
\s5
\v 16 Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế nhân, đến nỗi Ngài ban tặng Con Một của Ngài, để bất cứ ai tin Con sẽ không bị hư vong mà được sự sống đời đời.
\v 17 Vì Đức Chúa Trời không sai phái Con vào trần gian để lên án thế nhân, nhưng để thế nhân nhờ Con mà được cứu.
\v 18 Ai tin Con thì không bị lên án. Còn ai không tin thì đã bị lên án rồi bởi không tin đến danh Con độc nhất của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 19 Lý do của việc đoán xét là thế này: ánh sáng đã vào trần gian, nhưng người ta lại yêu thích bóng tối hơn ánh sáng vì việc làm của họ là ác.
\v 20 Vì mọi người làm ác đều ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng, để việc mình làm khỏi bị phơi bày ra.
\v 21 Tuy nhiên, ai thực hành chân lý thì đến với ánh sáng để việc làm của mình được tỏ lộ ra, rằng chúng đã được thực hiện từ lòng vâng phục Đức Chúa Trời.
\s5
\v 22 Sau việc này, Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài đi vào địa phận xứ Giu-đê. Ngài dành thời gian ở đó với họ và làm phép báp-têm.
\v 23 Lúc bấy giờ, Giăng cũng đang làm phép báp-têm tại Ạt-nôn gần Sa-lim vì có nhiều nước ở đó. Dân chúng đến chỗ ông chịu báp-têm,
\v 24 vì lúc ấy, Giăng chưa bị bắt giam.
\s5
\v 25 Kế đó, có một cuộc tranh luận giữa một số môn đồ của Giăng và một người Do Thái về nghi thức tẩy rửa
\v 26 Họ đã đến gặp Giăng và nói với ông: “Thưa thầy, người đã từng ở với thầy bên kia sông Giô-đanh mà thầy đã làm chứng cho hiện ông ta đang làm báp-têm và mọi người đều đến với ông ấy.”
\s5
\v 27 Giăng đáp: “Nếu không phải từ trời ban cho thì không ai có thể nhận được bất cứ điều gì.
\v 28 Chính anh em có thể chứng thực lời thầy đã nói, rằng: Tôi không phải là Chúa Cứu Thế, mà là người được sai đến trước Ngài.
\s5
\v 29 Ai cưới cô dâu thì người đó là chàng rể. Đứng nghe ngóng, bạn của chàng rể rất đỗi vui mừng vì nghe tiếng của chàng rể. Đó chính là niềm vui mãn nguyện của thầy.
\v 30 Ngài phải càng nổi bật lên, còn thầy thì phải lu mờ đi.
\s5
\v 31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả. Ai thuộc cõi trần thì ra từ cõi trần và nói những việc thuộc cõi trần. Đấng đến từ trời thì ở trên tất cả.
\v 32 Ngài làm chứng về những việc Ngài đã thấy và nghe, nhưng không người nào tiếp nhận lời chứng của Ngài.
\v 33 Ai đã nhận lời chứng của Ngài tức người đó xác nhận rằng Đức Chúa Trời là Chân Thần.
\s5
\v 34 Đấng Đức Chúa Trời sai đến thì nói lời của Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh cho Ngài không giới hạn.
\v 35 Cha yêu thương Con và đã giao mọi quyền vào tay Con.
\v 36 Ai tin Con thì có sự sống đời đời, còn ai bất phục Con sẽ không thấy sự sống, và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục ở trên người đó.”
\s5
\c 4
\cl
\p
\v 1 Khi Chúa Giê-xu biết người Pha-ri-si đã nghe Ngài gọi và làm phép báp-têm cho nhiều môn đồ hơn Giăng
\v 2 (mặc dù chính Chúa Giê-xu không làm phép báp têm mà là các môn đồ của Ngài làm),
\v 3 thì Ngài rời khỏi Giu-đê để đi đến Ga-li-lê.
\s5
\v 4 Trong chuyến đi Ngài phải đi ngang qua Sa-ma-ri.
\v 5 Vậy là Ngài đến một thị trấn trong vùng Sa-ma-ri gọi là Si-kha, gần phần đất mà Gia-cốp đã chia cho con trai mình là Giô-sép.
\s5
\v 6 Ở đó có Giếng Gia-cốp. Chúa Giê-xu vì đi đường mỏi mệt nên Ngài ngồi xuống bên giếng. Lúc ấy là vào buổi trưa.
\v 7 Một phụ nữ Sa-ma-ri đến giếng múc nước, và Chúa Giê-xu nói với chị: “Chị cho Tôi uống nước với.”
\v 8 Vì các môn đồ của Ngài đã đi vào trong thị trấn để mua lương thực.
\s5
\v 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri hỏi lại Ngài: “Làm sao một người Do Thái như ông lại hỏi xin tôi, một người đàn bà Sa-ma-ri, nước uống?” Vì người Do Thái không tiếp xúc với người Sa-ma-ri.
\v 10 Chúa Giê-xu trả lời chị: “Nếu chị biết được tặng phẩm của Đức Chúa Trời và người đang nói với chị: “Xin cho Tôi uống nước là ai thì chị đã hỏi xin và người đó đã ban cho chị nước sống.”
\s5
\v 11 Người phụ nữ đáp: “Thưa ông, ông không có đồ múc nước, và giếng thì sâu. Vậy, ông sẽ lấy đâu ra nước sống đó?
\v 12 Ông đâu thể nào lớn hơn tổ phụ Gia-cốp của chúng tôi, người đã để giếng lại cho chúng tôi, rồi chính người, cùng các con và gia súc người, cũng uống nước dưới giếng này.”
\s5
\v 13 Chúa Giê-xu đáp: “Ai uống nước giếng này sẽ bị khát lại,
\v 14 nhưng ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước Tôi cho sẽ trở thành một mạch nước trào dâng thành ra sự sống đời đời.”
\s5
\v 15 Người phụ nữ nói với Ngài: “Thưa ông, xin cho tôi nước ấy để tôi không bị khát và không phải đến đây để lấy nước.”
\v 16 Chúa Giê-xu bảo chị: “Hãy đi, gọi chồng chị và hãy quay lại đây.”
\s5
\v 17 Người phụ nữ đáp lại Ngài: “Tôi không có chồng.” Chúa Giê-xu đáp: “Chị nói: Tôi không có chồng, là đúng
\v 18 vì chị đã có năm người chồng, và người mà chị hiện đang có thì không phải là chồng chị! Điều này chị nói đúng!”
\s5
\v 19 Người phụ nữ nói với Ngài: “Thưa ông, tôi thấy ông là một nhà tiên tri.
\v 20 Tổ tiên của chúng tôi thờ phượng trên núi này, nhưng người Do Thái các ông lại nói Giê-ru-sa-lem mới là nơi người ta thờ phượng.”
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu đáp lại chị: “Này chị, sắp đến lúc các người không thờ phượng Cha trên núi này, mà cũng không phải tại Giê-ru-sa-lem.
\v 22 Dân các người thờ phượng điều mình không biết. Còn chúng tôi thì thờ phượng điều chúng tôi biết, vì sự cứu rỗi xuất phát từ người Do Thái.
\s5
\v 23 Tuy nhiên, giờ sắp điểm, và hiện đã đến rồi, khi những người thờ phượng chân chính sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý, vì Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Ngài như vậy.
\v 24 Đức Chúa Trời là Thần, nên ai tôn thờ Ngài phải tôn thờ bằng tâm linh và chân lý.”
\s5
\v 25 Người phụ nữ nói với Ngài: “Tôi biết đấng Mê-si (tức đấng được gọi là Chúa Cứu Thế) sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ công bố mọi việc cho chúng ta.”
\v 26 Chúa Giê-xu nói với chị: “Tôi, người đang nói với chị đây, chính là Đấng ấy.”
\s5
\v 27 Ngay lúc đó, các môn đồ Ngài trở về. Họ không hiểu vì sao Ngài lại nói chuyện với người phụ nữ ấy, nhưng không ai hỏi: “Thầy cần gì?” hay: “Sao Thầy lại nói chuyện với chị ta?”
\s5
\v 28 Vậy là người phụ nữ bỏ lại bình nước và vào lại thị trấn nói với mọi người:
\v 29 “Hãy đến xem người đã cho tôi biết mọi việc tôi đã làm. Đây không phải là Chúa Cứu Thế sao?”
\v 30 Họ từ trong thị trấn kéo ra gặp Ngài.
\s5
\v 31 Trong lúc đó, các môn đồ nài nỉ Ngài, rằng: “Thầy ăn chút gì đi đã.”
\v 32 Nhưng Ngài đáp lại họ: “Thầy có thức ăn mà anh em không biết.”
\v 33 Vì vậy, các môn đồ hỏi nhau: “Có ai đó đã đem gì cho Ngài ăn rồi phải không?”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thức ăn của Thầy là làm theo ý muốn của đấng đã sai phái Thầy và hoàn thành công việc của Ngài.
\v 35 Chẳng phải anh em nói: Còn bốn tháng nữa thì sẽ đến mùa thu hoạch sao? Thầy bảo anh em, hãy ngước lên và xem các đồng lúa, đã sẵn chín cho mùa gặt!
\v 36 Người thợ gặt đã nhận tiền công và thu gom hoa lợi cho sự sống đời đời, để rồi người gieo kẻ gặt đều được cùng nhau vui mừng.
\s5
\v 37 Vì ở đây câu nói Người này gieo, kẻ khác gặt thật chẳng sai.
\v 38 Thầy sai phái anh em gặt hái điều mà anh em không gieo. Những người khác đã lao nhọc, còn anh em thì vào hưởng công lao của họ.”
\s5
\v 39 Nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin Ngài nhờ lời thuật lại của người phụ nữ, rằng: “Ngài đã nói với tôi mọi việc mà tôi đã làm.”
\v 40 Vậy nên khi những người Sa-ma-ri đến gặp Ngài, họ xin Ngài ở lại với họ, và Ngài ở lại đó hai ngày.
\s5
\v 41 Có thêm nhiều người nữa đã tin khi nghe lời Ngài.
\v 42 Họ nói với người phụ nữ: “Chúng tôi tin không phải chỉ nhờ lời chị thuật lại, mà còn vì chính chúng tôi đã nghe, và giờ chúng tôi biết rằng đây thật sự là Đấng Cứu Thế của nhân loại.”
\s5
\v 43 Sau hai ngày đó, Ngài lên đường đến Ga-li-lê.
\v 44 Vì chính Chúa Giê-xu đã tuyên bố rằng nhà tiên tri không được tôn trọng tại quê hương mình.
\v 45 Khi Ngài đến Ga-li-lê, người Ga-li-lê đã chào đón Ngài. Họ đã thấy những điều mà Ngài làm tại Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ, vì họ cũng đã đi dự lễ.
\s5
\v 46 Ngài lại đến Ca-na trong xứ Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Có một quan chức triều đình có người con trai mắc bệnh.
\v 47 Khi nghe Chúa Giê-xu đã rời Giu-đê trở lại Ga-li-lê, thì ông đến gặp Chúa Giê-xu và khẩn xin Ngài xuống chữa lành cho cậu con trai sắp chết của mình.
\s5
\v 48 Chúa Giê-xu nói với ông: “Nếu ông không thấy các dấu hiệu cũng như phép mầu thì ông đâu có tin.””
\v 49 Viên quan đáp lại Ngài: “Thưa Ngài, xin hãy đi xuống trước khi con tôi chết.”
\v 50 Chúa Giê-xu bảo ông: “Hãy về đi, con ông sống rồi.” Ông tin lời Chúa Giê-xu bảo mình, nên về.
\s5
\v 51 Trong lúc ông đang đi đường, các đầy tớ gặp ông cho biết cậu con trai vẫn sống.
\v 52 Ông hỏi họ cậu bắt đầu thấy khỏe vào giờ nào. Họ đáp: “Cậu hết sốt ngày hôm qua, lúc giờ thứ bảy.”
\s5
\v 53 Người cha nhận ra đó chính là giờ Chúa Giê-xu nói với ông: “Con trai ông sống rồi.” Vậy ông và cả nhà mình đều tin.
\v 54 Đây là phép lạ thứ hai mà Chúa Giê-xu làm khi Ngài rời Giu-đê đi đến Ga-li-lê.
\s5
\c 5
\cl
\p
\v 1 Sau việc này, có một một kỳ lễ của người Do Thái, nên Chúa Giê-xu đi lên Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Bấy giờ, tại Giê-ru-sa-lem, chỗ cửa chiên, có một cái hồ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Bết-sai-đa. Nó có năm cổng với mái che.
\v 3 Rất đông người đau yếu, mù lòa, què quặt, bại liệt nằm tại các hiên cổng này.
\f +
\ft Các bản cổ xưa đáng tin cậy nhất bỏ đi cụm từ, câu 3
\fqa “chờ nước động.”
\fqa*
\f*
\s5
\v 5 Ở đó có một anh kia bị tàn tật đã ba mươi tám năm.
\v 6 Khi Chúa Giê-xu thấy anh nằm đó, và sau khi Ngài biết anh đã ở đó lâu ngày rồi, Ngài hỏi anh: “Anh có muốn được lành không?”
\s5
\v 7 Người bệnh đáp: “Thưa ông, tôi không quen biết ai để đỡ tôi xuống hồ, khi nước động. Khi tôi đang xoay xở thì đã có người khác xuống rồi.”
\v 8 Chúa Giê-xu nói với anh: “Hãy đứng dậy, ôm chõng lên mà đi.”
\s5
\v 9 Lập tức, anh được lành; anh ôm chõng lên, rồi bước đi. Hôm đó là ngày Sa-bát.
\s5
\v 10 Những người Do Thái nói với anh đã được lành bệnh: “Hôm nay là ngày Sa-bát, anh không được phép mang chõng đi như vậy.”
\v 11 Anh đáp lại: “Người đã chữa lành cho tôi bảo tôi: Hãy ôm chõng lên mà đi.
\s5
\v 12 Họ hỏi anh: “Người đã nói với anh Hãy ôm chõng lên rồi đi đó là ai?”
\v 13 Tuy nhiên, người được chữa lành không biết đó là ai vì Chúa Giê-xu đã âm thầm rời đi, lẫn vào đám đông đang có mặt ở nơi đó.
\s5
\v 14 Về sau, Chúa Giê-xu tìm gặp anh trong đền thờ và nói với anh: “Này, anh đã khỏe rồi đó! Đừng phạm tội nữa, kẻo có điều tồi tệ hơn xảy đến cho anh đấy.”
\v 15 Vậy là anh đi nói với những người Do Thái rằng chính Chúa Giê-xu đã chữa lành cho mình.
\s5
\v 16 Vì những việc này mà những người Do Thái bức hại Chúa Giê-xu, vì Ngài đã thực hiện những việc ấy trong ngày Sa-bát.
\v 17 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thậm chí ngay lúc này đây Cha Tôi cũng làm việc, và Tôi đây cũng thế.”
\v 18 Vì vậy, người Do Thái lại càng tìm cách để giết Ngài vì Ngài không chỉ vi phạm ngày Sa-bát, mà còn gọi Đức Chúa Trời là Cha làm ra mình ngang hàng với Đức Chúa Trời.
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Tôi nói thật, Con không thể tự mình làm việc gì, ngoại trừ những gì Con thấy Cha làm, vì bất cứ việc gì Cha làm thì Con cũng làm.
\v 20 Vì Cha yêu Con, và bày tỏ cho Con mọi điều mà chính Cha làm, và Ngài sẽ bày tỏ cho Con những việc lớn hơn nữa để các ông phải kinh ngạc.
\s5
\v 21 Vì như Cha khiến người chết sống lại và ban cho họ sự sống thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho người nào Con muốn thể ấy.
\v 22 Vì Cha không phán xét ai nữa, mà Ngài đã trao trọn quyền phán xét cho Con
\v 23 để mọi người tôn kính Con như tôn kính Cha. Ai không tôn kính Con thì cũng không tôn kính Cha là Đấng sai phái Con.
\s5
\v 24 Tôi nói thật, ai nghe lời Tôi mà tin Đấng sai phái Tôi thì được sự sống đời đời và sẽ không bị phán xét, nhưng vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.
\s5
\v 25 Tôi nói thật, giờ sắp điểm và hiện đã đến rồi, khi người chết nghe tiếng của Con Đức Chúa Trời, và những ai nghe sẽ được sống.
\s5
\v 26 Như Cha có sự sống trong Ngài thể nào, thì Ngài cũng ban cho Con có sự sống trong mình thể ấy,
\v 27 và Cha đã ban cho Con quyền thi hành sự phán xét vì Con là Con Người.
\s5
\v 28 Đừng ngạc nhiên về điều này, vì sẽ đến lúc tất cả những người ở trong mồ mả nghe tiếng của Ngài
\v 29 và bước ra: ai đã làm lành thì sống lại để được sống, còn ai đã làm ác thì sống lại để chịu phán xét.
\s5
\v 30 Tôi không tự mình làm được việc gì. Tôi nghe thể nào thì Tôi phán xét thể ấy, và sự phán xét của Tôi là công chính vì Tôi không làm theo ý riêng, mà là theo ý muốn của Đấng sai phái mình.
\v 31 Nếu Tôi tự làm chứng về mình, thì lời chứng của Tôi không đáng tin.
\v 32 Có Đấng khác làm chứng cho Tôi, và Tôi biết lời chứng của Ngài về Tôi là xác thực.
\s5
\v 33 Các ông đã sai người đến gặp Giăng, và Giăng đã làm chứng cho chân lý.
\v 34 Tuy nhiên, lời chứng Tôi có được không phải đến từ con người. Tôi nói những điều này để các ông có thể được cứu.
\v 35 Giăng là ngọn đèn đang cháy sáng, và các ông sẵn lòng vui mừng trong ánh sáng tạm thời của người.
\s5
\v 36 Nhưng lời chứng mà Tôi có được lớn hơn lời chứng của Giăng, vì những công tác mà Cha đã giao cho Tôi hoàn thành, tức những việc mà Tôi thực hiện, chính các việc đó làm chứng về Tôi rằng Cha đã sai phái Tôi.
\v 37 Cha, Đấng đã sai phái Tôi chính Ngài đã làm chứng về Tôi. Các ông chưa nghe tiếng Ngài, cũng chưa từng nhìn thấy hình dạng Ngài bao giờ.
\v 38 Lời Ngài không cứ ở trong các ông, vì các ông không tin Đấng mà Ngài sai phái.
\s5
\v 39 Các ông tra cứu Kinh Thánh vì tưởng rằng mình tìm được sự sống đời đời trong đó, trong khi chính Kinh Thánh này lại làm chứng về Tôi.
\v 40 Vậy mà các ông lại không sẵn lòng đến với Tôi để có sự sống đời đời.
\s5
\v 41 Tôi chẳng cần người ta khen tặng,
\v 42 nhưng Tôi biết các ông chẳng có lòng yêu mến Đức Chúa Trời trong mình.
\s5
\v 43 Tôi đã nhân danh Cha Tôi mà đến, nhưng các ông không tiếp Tôi. Nếu có ai khác tự lấy danh nghĩa riêng mà đến, thì các ông sẽ tiếp họ.
\v 44 Làm sao các ông tin được, khi mà các ông nhận lời khen tặng của nhau thay vì tìm kiếm sự khen ngợi từ Đức Chúa Trời duy nhất?
\s5
\v 45 Đừng nghĩ rằng chính Tôi sẽ buộc tội các ông trước mặt Cha. Có một người khác buộc tội các ông, đó là Môi-se, người mà các ông kỳ vọng.
\v 46 Nếu các ông tin Môi-se, thì các ông sẽ tin Tôi, vì người viết về Tôi.
\v 47 Nhưng nếu các ông không tin những điều người viết, thì làm sao các ông tin lời Tôi cho được?”.
\s5
\c 6
\cl
\p
\v 1 Sau những việc này, Chúa Giê-xu đi qua bờ bên kia Biển Ga-li-lê, còn gọi là Biển Ti-bê-ri-át.
\v 2 Một đám đông đi theo Ngài, vì họ được chứng kiến các dấu lạ mà Ngài thực hiện cho những kẻ đau yếu.
\v 3 Chúa Giê-xu đi lên sườn núi và ngồi xuống với các môn đồ của Ngài.
\s5
\v 4 (Lúc đó, Lễ Vượt Qua của người Do Thái đã đến gần)
\v 5 Khi Chúa Giê-xu ngẩng lên và thấy một đoàn rất đông dân chúng kéo đến, Ngài hỏi Phi-líp: “Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu cho những người này ăn?”
\v 6 (Chúa Giê-xu hỏi vậy để thử Phi-líp, chứ chính Ngài biết điều mình sẽ làm là gì rồi.)
\s5
\v 7 Phi-líp đáp lại Ngài: “Hai trăm đơ-ni-ê bánh sẽ không đủ phát cho mỗi người thậm chí chỉ chút ít thôi.”
\v 8 Một trong những môn đồ của Ngài là Anh-rê, em trai của Si-môn Phi-e-rơ, nói với Chúa Giê-xu:
\v 9 “Ở đây có một cậu bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng nhiều người như thế này thì làm sao đủ?”
\s5
\v 10 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy bảo mọi người ngồi xuống.” (Lúc bấy giờ có nhiều cỏ ở nơi đó) Vậy là các ông ngồi xuống, con số ước chừng năm ngàn người.
\v 11 Rồi Chúa Giê-xu cầm bánh lên và, sau khi cảm tạ, Ngài phân phát cho những người đang ngồi. Kế đó Ngài cũng phân phát cá theo cách tương tự, tùy sức họ muốn ăn bao nhiêu cũng được.
\v 12 Khi người ta đã ăn no nê, Ngài bảo các môn đồ: “Hãy thu gom những miếng bánh vụn còn dư, để không lãng phí chút nào.”
\s5
\v 13 Vậy họ thu gom hết và được mười hai giỏ đầy những mẫu bánh từ năm cái bánh lúa mạch tức những mẫu bánh thừa sau khi người ta ăn xong.
\v 14 Khi dân chúng thấy dấu lạ mà Ngài đã làm đó, họ bảo: “Đây đúng là nhà tiên tri phải đến trần gian.”
\v 15 Khi Chúa Giê-xu nhận ra họ định đến ép Ngài làm vua, thì Ngài lại rút lui ở một mình trên núi.
\s5
\v 16 Khi trời tối, các môn đồ xuống lại biển hồ.
\v 17 Họ lên thuyền định vượt biển để đến Ca-bê-na-um. (Lúc ấy trời đã tối mà Chúa Giê-xu vẫn chưa đến với họ.)
\v 18 Lúc bấy giờ, có một trận gió lớn khiến biển động mạnh.
\s5
\v 19 Khi các môn đồ đã chèo được khoảng năm cây số, họ thấy Chúa Giê-xu đi bộ trên mặt nước đến gần thuyền, nên hoảng sợ.
\v 20 Nhưng Ngài bảo họ: “Thầy đây! Đừng sợ.”
\v 21 Vậy là họ muốn rước Ngài lên thuyền, còn thuyền thì cập vào bờ chỗ họ định đến.
\s5
\v 22 Ngày hôm sau, đám đông còn đứng bên kia biển hồ thấy rằng chỉ có một chiếc thuyền, trong khi Chúa Giê-xu lại không lên thuyền với các môn đồ, mà để họ đi một mình.
\v 23 (Tuy nhiên, có mấy chiếc thuyền đến từ Ti-bê-ri-át gần nơi họ đã ăn bánh sau khi Chúa tạ ơn.)
\s5
\v 24 Vậy, khi đám đông thấy rằng không có Chúa Giê-xu cũng như các môn đồ Ngài ở đó, thì họ xuống thuyền đi sang Ca-bê-na-um để tìm Chúa Giê-xu.
\v 25 Sau khi tìm thấy Ngài ở bờ hồ bên kia, họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đến đây khi nào?”
\s5
\v 26 Chúa Giê-xu đáp lại họ, rằng: “Tôi nói thật, các người tìm Tôi không phải vì các người đã chứng kiến các dấu lạ, mà vì các người đã được ăn bánh no nê.
\v 27 Đừng làm việc vì thức ăn mau hư thối, mà hãy làm việc vì thức ăn còn mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các người, vì Đức Chúa Cha đã ấn chứng cho Ngài.
\s5
\v 28 Họ hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm gì, để có thể thực hiện công việc của Đức Chúa Trời?
\v 29 Chúa Giê-xu đáp: “Công việc của Đức Chúa Trời là các ông phải tin Đấng mà Ngài đã sai đến.”
\s5
\v 30 Vậy, họ hỏi Ngài: “Thầy sẽ làm dấu lạ nào để chúng tôi thấy và tin? Thầy sẽ làm gì nào?
\v 31 Cha ông của chúng tôi đã ăn ma na trong hoang mạc, như có chép: Ngài đã ban cho họ bánh ăn từ trời.’”
\s5
\v 32 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Tôi nói thật, chẳng phải Môi-se đã ban bánh từ trời cho các người đâu, mà chính Cha Tôi mới đang ban bánh đích thực từ trời cho các người đây.
\v 33 Vì bánh của Đức Chúa Trời là bánh từ trời xuống ban sự sống cho nhân gian.”
\v 34 Vậy là họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, xin cứ luôn cho chúng tôi bánh ấy.”
\s5
\v 35 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi là bánh sự sống, ai đến cùng Tôi sẽ không đói, và ai tin Tôi sẽ không bao giờ khát.
\v 36 Tuy nhiên, Tôi đã nói cho các người rằng các người đã thấy Tôi, mà các người vẫn không tin.
\v 37 Mọi người Cha cho Tôi sẽ đến với Tôi, và ai đến với Tôi thì chắc chắn Tôi không xua đuổi.
\s5
\v 38 Vì Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng của mình, nhưng làm theo ý muốn của Đấng đã sai phái Tôi.
\v 39 Và đây là ý muốn của Đấng đã sai phái Tôi: đó là, mọi người nào Ngài ban cho Tôi thì Tôi không được để mất một ai, mà phải khiến họ sống lại vào ngày cuối cùng.
\v 40 Vì ý muốn của Cha Tôi là mọi người thấy Con và tin Con sẽ có sự sống đời đời; và Tôi sẽ khiến họ sống lại vào ngày cuối cùng.
\s5
\v 41 Vậy là những người Do Thái lằm bằm về Ngài vì Ngài nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.”
\v 42 Họ nói: “Chẳng phải đây là Giê-xu, con trai của Giô-sép, sao? Cha mẹ hắn chúng ta đều biết cả, sao hắn lại nói rằng Ta đến từ trời được?”
\s5
\v 43 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Các ông đừng lằm bằm với nhau nữa.
\v 44 Không ai có thể đến với Tôi trừ khi Cha, Đấng sai phái Tôi, kéo người đó đến, còn Tôi sẽ khiến người đó sống lại trong ngày cuối cùng.
\v 45 Trong các sách tiên tri có chép: “Họ đều sẽ được Đức Chúa Trời dạy dỗ. Mọi người đã nghe và học nơi Cha đều đến với Tôi.
\s5
\v 46 Chẳng phải là có ai đã thấy Cha đâu, ngoại trừ Đấng đến từ Đức Chúa Trời Đấng ấy đã thấy Cha.
\v 47 Tôi nói thật, ai tin thì được sự sống đời đời.
\s5
\v 48 Tôi là bánh sự sống.
\v 49 Cha ông các người đã ăn ma-na trong hoang mạc, rồi chết.
\s5
\v 50 Đây là bánh từ trời xuống, nên người nào ăn sẽ không chết.
\v 51 Tôi là bánh sống từ trời xuống. Nếu ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Bánh mà Tôi sẽ cho để thế nhân được sống chính là thịt Tôi.”
\s5
\v 52 Người Do Thái nổi giận và bắt đầu tranh cãi nhau, rằng: “Làm sao gã này có thể cho chúng ta ăn thịt của hắn được?”
\v 53 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi nói thật, nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống huyết của Ngài, thì các người sẽ không có sự sống trong mình.”
\s5
\v 54 Người nào ăn thịt Tôi và uống huyết Tôi thì có sự sống đời đời, và Tôi sẽ khiến người đó sống lại vào ngày cuối cùng.
\v 55 Vì thịt Tôi là đồ ăn thật, và huyết Tôi là đồ uống đích thực.
\v 56 Người ăn thịt Tôi và uống huyết Tôi thì cứ ở trong Tôi, và Tôi ở trong người đó.
\s5
\v 57 Như Cha hằng sống đã sai Tôi đến, và Tôi nhờ Cha mà sống, thì người ăn thịt Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà sống.
\v 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các người ăn rồi cũng chết. Người nào ăn bánh này sẽ sống đời đời.”
\v 59 Chúa Giê-xu nói các lời này trong nhà hội, khi Ngài dạy dỗ ở Ca-bê-na-um.
\s5
\v 60 Nhiều môn đồ của Ngài khi nghe như vậy, đã bảo: “Lời dạy này khó nghe quá, ai mà chấp nhận được?”
\v 61 Vì tự biết rằng các môn đồ đang lằm bằm về điều này, nên Chúa Giê-xu nói với họ: “Lời đó khiến anh em khó chịu sao?
\s5
\v 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi Ngài ở trước đây thì sao?
\v 63 Chính Thánh Linh mới ban sự sống. Xác thịt chẳng ích gì. Lời Thầy nói với anh em đều là linh, và những lời ấy là sự sống.
\s5
\v 64 Vậy mà một số anh em không tin.” Vì Chúa Giê-xu biết từ đầu ai là người không tin, cũng như ai là kẻ sẽ phản bội Ngài.
\v 65 Ngài nói: Chính là bởi điều này mà Thầy nói với anh em rằng không ai có thể đến với Thầy trừ khi người ấy được Cha ban cho phúc đó.”
\s5
\v 66 Sau việc này, nhiều môn đồ của Ngài đã rút lui, không theo Ngài nữa.
\v 67 Chúa Giê-xu hỏi mười hai môn đệ: “Anh em không muốn bỏ Thầy luôn chứ?”
\v 68 Si-môn Phi-e-rơ trả lời Ngài rằng: “Lạy Chúa, chúng tôi biết đến với ai? Ngài có lời sự sống đời đời;
\v 69 chúng tôi đã tin và biết rằng Ngài là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 70 Chúa Giê-xu nói với họ: “Chẳng phải Thầy đã chọn mười hai anh em sao? Vậy mà một người trong anh em lại là quỷ”
\v 71 Ngài nói về Giu-đa con trai của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, vì chính ông ta, một trong mười hai môn đệ, sẽ phản bội Chúa Giê-xu.
\s5
\c 7
\cl
\p
\v 1 Sau các việc này, Chúa Giê-xu chỉ đi lại trong vùng Ga-li-lê; Ngài không muốn đến Giu-đê vì người Do Thái đang lập mưu giết Ngài.
\v 2 Kỳ lễ của người Do Thái, tức Lều Trại, đã gần.
\s5
\v 3 Vậy, các em trai Chúa nói với Ngài: “Hãy bỏ đây mà đi đến Giu-đê để các môn đồ của anh cũng thấy được những việc anh làm.
\v 4 Không ai muốn nhiều người biết đến mình mà lại đi hành động cách kín đáo. Nếu anh làm các việc này thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ đi.”
\s5
\v 5 Vì ngay cả các em trai Ngài cũng không tin Ngài.
\v 6 Chúa Giê-xu nói với họ: “Giờ của anh vẫn chưa đến, nhưng giờ của các em lúc nào cũng sẵn.
\v 7 Thế nhân không thể ghét bỏ các em, nhưng họ ghét anh vì anh làm chứng về họ rằng các việc họ làm là gian ác.
\s5
\v 8 Các em cứ đi lên dự lễ; còn anh sẽ không dự lễ này vì giờ của anh chưa đến.”
\v 9 Nói vậy rồi thì Ngài cứ ở lại vùng Ga-li-lê.
\s5
\v 10 Tuy nhiên, sau khi các em Ngài đã lên dự lễ, thì Ngài cũng đi, nhưng đi một cách kín đáo chứ không công khai.
\v 11 Người Do Thái tìm Ngài trong kỳ lễ. Họ hỏi nhau: “Hắn đâu rồi?”
\s5
\v 12 Giữa vòng dân chúng người ta bàn tán nhiều về Ngài. Người thì nói: “Ông ta là người đức độ.” Kẻ lại bảo: “Không đâu, hắn chỉ dẫn dụ dân chúng.”
\v 13 Nhưng không ai công khai phát biểu về Ngài vì họ sợ người Do Thái.
\s5
\v 14 Vào giữa kỳ lễ, Chúa Giê-xu lên đền thờ và bắt đầu giảng dạy.
\v 15 Người Do Thái rất ngạc nhiên, rằng: “Nhờ đâu mà ông này hiểu biết nhiều như vậy? Ông ta chưa bao giờ học mà.”
\v 16 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Đạo lý Tôi dạy không phải là của Tôi, mà là của Đấng sai phái Tôi.
\s5
\v 17 Ai muốn làm theo ý muốn của Đấng ấy thì sẽ biết đạo lý Tôi đến từ Đức Chúa Trời, hay do Tôi tự mình giảng ra.
\v 18 Ai tự mình giảng dạy thì mưu cầu vinh quang cho riêng mình, nhưng ai tìm vinh quang cho Đấng sai phái mình thì người đó là người chân chính, nơi anh ta chẳng có điều bất chính nào.
\s5
\v 19 Chẳng phải Môi-se đã ban luật pháp cho các ông sao? Nhưng chẳng ai trong các ông làm theo luật pháp. Vì sao các ông lại muốn giết Tôi?”
\v 20 Đám đông trả lời: “Ông bị quỷ ám rồi! Ai muốn giết ông nào?”
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Tôi đã làm một việc, khiến tất cả các ông đều ngạc nhiên.
\v 22 Môi-se ban phép cắt bì cho các ông (không phải phép đó xuất phát từ Môi-se, mà là từ các tổ phụ), và các ông thực hiện cắt bì cho người nam trong ngày Sa-bát.
\s5
\v 23 Nếu người đàn ông chịu cắt bì vào ngày Sa-bát để khỏi vi phạm luật Môi-se, thì sao các ông lại nổi giận với Tôi vì Tôi chữa lành hoàn toàn cho một người vào ngày Sa-bát?
\v 24 Đừng xét đoán theo vẻ bề ngoài, mà hãy xét đoán cách công bằng.”
\s5
\v 25 Một số người là dân Giê-ru-sa-lem nói: “Chẳng phải đây là người họ vẫn tìm cách giết đó sao?”
\v 26 Hãy xem hắn phát biểu công khai mà họ chẳng nói gì với hắn cả. Có thể nào các lãnh đạo đã thực nhìn nhận hắn là Chúa Cứu Thế rồi chăng?
\v 27 Nhưng chúng ta biết gã này gốc gác từ đâu, còn Chúa Cứu Thế, khi Ngài đến, thì chẳng ai biết gốc gác của Ngài cả.”
\s5
\v 28 Giảng dạy trong đền thờ, Chúa Giê-xu nói lớn tiếng: “Các ông biết Tôi, cũng biết Tôi xuất thân từ đâu. Tôi không tự ý đến, Đấng sai phái Tôi là thật, mà các ông lại không biết Ngài.
\v 29 Tôi thì biết Ngài vì Tôi từ Ngài mà đến, và Ngài đã sai phái Tôi.”
\s5
\v 30 Họ tìm cách bắt Ngài, nhưng không ai đụng đến Ngài vì giờ Ngài chưa đến.
\v 31 Tuy nhiên, nhiều người trong dân chúng tin Ngài. Họ nói: “Khi Chúa Cứu Thế đến, liệu Ngài sẽ làm nhiều dấu lạ hơn người này đã làm chăng?”
\v 32 Người Pha-ri-si nghe dân chúng xì xào những lời đó về Chúa Giê-xu, thì họ cùng với các trưởng tế sai cảnh vệ đi bắt Ngài.
\s5
\v 33 Vậy, Chúa Giê-xu nói: “Tôi chỉ ở với các ông ít lâu nữa thôi, rồi Tôi đi về với Đấng đã sai phái Tôi.”
\v 34 Các ông sẽ tìm Tôi những sẽ không gặp; nơi Tôi đi các ông sẽ không đến được.”
\s5
\v 35 Vậy là người Do Thái hỏi nhau: “Gã này sẽ đi đâu mà chúng ta lại không thể tìm được? Phải chăng gã sẽ đến với những kiều bào sống rải rác giữa vòng người Hy Lạp và dạy cho dân Hy Lạp?
\v 36 Ý của hắn là gì khi nói: Các người sẽ tìm Tôi nhưng không gặp; nơi Tôi đi các người không thể đến được?”
\s5
\v 37 Vào ngày cuối, là ngày quan trọng trong kỳ lễ, Chúa Giê-xu đứng đó nói lớn: “Ai khát hãy đến với Tôi mà uống.
\v 38 Ai tin Tôi thì sông nước sống sẽ tuôn chảy từ bên trong người đó, như Kinh Thánh đã chép.”
\s5
\v 39 Ngài nói điều này chỉ về Đức Thánh Linh mà những ai tin Ngài sẽ nhận được; Đức Thánh Linh lúc đó chưa được ban xuống vì Chúa Giê-xu chưa được tôn vinh.
\s5
\v 40 Khi một số người trong đám đông nghe những lời đó, thì họ nói: “Đây đúng là nhà tiên tri.”
\v 41 Số khác nói: “Đây là Chúa Cứu Thế.” Nhưng cũng có một số bảo: “Sao, Chúa Cứu Thế xuất thân từ Ga-li-lê à?
\v 42 Chẳng phải Kinh Thánh nói rằng Chúa Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi Đa-vít và được sanh tại Bết-lê-hem, là quê hương của Đa-vít sao?”
\s5
\v 43 Vậy là có sự chia rẽ giữa dân chúng vì cớ Ngài.
\v 44 Một số họ muốn bắt Ngài, nhưng chẳng ai đụng đến Ngài.
\s5
\v 45 Rồi các cảnh vệ quay trở về gặp các trưởng tế và người Pha-ri-si. Những người này hỏi họ: “Sao các anh không điệu hắn về đây?”
\v 46 Các cảnh vệ đáp: “Trước nay chưa từng có ai phát biểu như ông này.”
\s5
\v 47 Vậy, mấy người Pha-ri-si nói: “Các anh cũng bị lừa luôn rồi sao?
\v 48 Có nhà lãnh đạo hay người Pha-ri-si nào tin hắn chưa?
\v 49 Đám người chẳng biết gì về luật pháp này - họ thật đáng nguyền rủa!”
\s5
\v 50 Ni-cô-đem nói với họ (ông là người Pha-ri-si đã đến gặp Chúa Giê-xu trước đây):
\v 51 “Luật chúng ta có cho phép kết án một người mà chưa trước hết nghe đương sự cung khai và biết đương sự làm những gì hay không?”
\v 52 Họ đáp lại ông: “Ông cũng là dân Ga-li-lê chắc? Ông cứ tra xét, rồi sẽ thấy không có nhà tiên tri nào xuất thân từ Ga-li-lê đâu.”
\s5
\v 53
\f +
\ft Các bản cổ xưa đáng tin cậy nhất không có Giăng 7: 53-8: 11
\f* Rồi mọi người về nhà mình.
\s5
\c 8
\cl
\p
\v 1
\f +
\ft Xem phần ghi chú cho Giăng 7: 53-8: 11 ở trên.
\f* Chúa Giê-xu lên núi Ô-liu.
\v 2 Vào lúc sáng sớm, Ngài lại đến đền thờ, và mọi người kéo đến với Ngài; Ngài ngồi xuống dạy dỗ họ.
\v 3 Các giáo sư luật và người Pha-ri-si mang đến một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ để chị ở ngay chính giữa.
\s5
\v 4
\f +
\ft Xem phần ghi chú cho Giăng 7: 53-8: 11 ở trên.
\f* Rồi họ nói với Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy, người phụ nữ này đã bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
\v 5 Trong luật pháp, Môi-se dạy chúng ta phải ném đá những người như vậy; Thầy có ý kiến gì về trường hợp này?”
\v 6 Họ nói vậy để gài bẫy Ngài, hầu có lý do buộc tội Ngài, nhưng Chúa Giê-xu cúi xuống và dùng ngón tay Ngài viết viết lên đất.
\s5
\v 7
\f +
\ft Xem phần ghi chú cho Giăng 7: 53-8: 11 ở trên.
\f* Khi họ tiếp tục hỏi, Ngài đứng dậy bảo họ: “Ai giữa vòng các ông không có tội, thì người đó hãy ném đá chị này trước đi.”
\v 8 Rồi Ngài lại cúi xuống và dùng ngón tay mình viết viết lên đất.
\s5
\v 9
\f +
\ft Xem phần ghi chú cho Giăng 7: 53-8: 11 ở trên.
\f* Khi nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Cuối cùng, chỉ còn lại một mình Chúa Giê-xu, cùng với người phụ nữ ở chính giữa.
\v 10 Chúa Giê-xu đứng dậy nói với chị: “Chị kia, mấy người cáo tội chị đâu cả rồi? Không ai buộc tội chị sao?”
\v 11 Chị đáp: “Không ai cả, thưa Chúa.” Chúa Giê-xu nói: “Tôi cũng không buộc tội chị. Chị đi đi, từ đây về sau đừng phạm tội nữa.”]
\s5
\v 12 Chúa Giê-xu lại nói với dân chúng, rằng: “Tôi là ánh sáng của thế giới; ai theo Tôi sẽ không đi trong bóng tối, nhưng có ánh sáng của sự sống.”
\v 13 Mấy người Pha-ri-si nói với Ngài: “Thầy tự làm chứng về mình; lời chứng của Thầy không xác thực.”
\s5
\v 14 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Thậm chí nếu Tôi có tự làm chứng về mình, thì lời chứng của Tôi vẫn xác thực. Tôi biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu, còn các ông không biết Tôi từ đâu đến hay sẽ đi đâu.
\v 15 Các ông xét đoán theo xác thịt; Tôi không xét đoán ai hết.
\v 16 Nhưng nếu Tôi xét đoán, thì sự xét đoán của Tôi là đúng vì không chỉ có một mình Tôi, mà còn có Cha, là Đấng sai phái Tôi.
\s5
\v 17 Đúng vậy, và trong luật pháp của các ông có ghi rằng lời chứng của hai người là xác thực.
\v 18 Tôi tự làm chứng về mình, và Cha là đấng sai Tôi đến làm chứng về Tôi.”
\s5
\v 19 Họ hỏi Ngài: “Cha của Thầy đâu?” Chúa Giê-xu trả lời: “Các ông không biết Tôi cũng không biết Cha Tôi; nếu các ông biết Tôi, thì cũng biết Cha Tôi.”
\v 20 Ngài nói những lời này gần nơi đặt rương tiền dâng khi Ngài dạy dỗ trong đền thờ, nhưng không ai bắt Ngài vì giờ của Ngài chưa đến.
\s5
\v 21 Ngài lại nói với họ: “Tôi sẽ ra đi; các ông sẽ tìm Tôi và sẽ chết trong tội mình. Nơi Tôi đi các ông không đến được.”
\v 22 Người Do Thái nói: “Phải chăng hắn sẽ tự vẫn, khi nói: Nơi Tôi đi các ông không đến được'?”
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu nói với họ: “Các ông từ dưới mà có, còn Tôi thì từ trên. Các ông thuộc về trần gian này, còn Tôi không thuộc cõi trần.
\v 24 Cho nên Tôi mới nói với các ông rằng các ông sẽ chết trong tội mình. Trừ khi các ông tin Tôi là Hằng Hữu, còn không thì các ông sẽ chết trong tội mình.”
\s5
\v 25 Vậy nên họ hỏi Ngài: “Thầy là ai?” Chúa Giê-xu nói với họ: “Như Tôi đã nói với các ông từ đầu.
\v 26 Tôi có nhiều chuyện nói và phán xét các ông. Nhưng Đấng đã sai phái Tôi là thật; và những điều Tôi nghe nơi Ngài thì Tôi nói lại cho thế nhân.”
\v 27 Họ không hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Cha.
\s5
\v 28 Chúa Giê-xu tiếp: “Khi các ông treo Con Ngươi lên, thì các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và Tôi chẳng tự mình làm điều gì. Tôi nói theo như Cha đã dạy Tôi.
\v 29 Đấng sai phái Tôi ở cùng Tôi; Ngài không để Tôi đơn độc, vì Tôi luôn làm những điều vui lòng Ngài.”
\v 30 Khi Chúa Giê-xu nói những điều này thì có nhiều người tin Ngài.
\s5
\v 31 Chúa Giê-xu nói với những người Do Thái đã tin Ngài: “Nếu các ông cứ ở trong lời Tôi thì các ông thật là môn đồ của Tôi;
\v 32 các ông sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ cho các ông được tự do.”
\v 33 Họ đáp lại Ngài: “Chúng tôi là con cháu Áp-ra-ham và chưa hề làm nô lệ của bất cứ ai; sao Thầy nói: Các ông sẽ được tự do?”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Tôi nói thật để các ông biết, ai phạm tội là nô lệ của tội lỗi.
\v 35 Nô lệ không ở mãi trong nhà, nhưng con thì cứ ở đó luôn.
\v 36 Vì vậy, nếu Con giải phóng các ông, thì các ngươi sẽ thật được tự do.
\s5
\v 37 Tôi biết các ông là con cháu Áp-ra-ham; các ông tìm cách giết Tôi vì lời Tôi chẳng có chỗ trong các ông.
\v 38 Tôi nói những điều Tôi thấy nơi Cha Tôi, còn các ông thì cũng làm những việc các ông nghe nơi cha mình.
\s5
\v 39 Họ đáp lại Ngài, rằng: “Cha của chúng tôi là Áp-ra-ham.” Chúa Giê-xu nói với họ: “Nếu các ông là con cháu của Áp-ra-ham thì các ông sẽ làm công việc của Áp-ra-ham.
\v 40 Ấy thế mà các ông lại tìm cách giết Tôi, người đã nói cho các ông biết chân lý nghe từ nơi Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham không làm như vậy.
\v 41 Các ông làm công việc của cha các ông.” Họ nói với Ngài: “Chúng tôi sinh ra đâu phải là con hoang; chúng tôi có một Cha, là Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 42 Chúa Giê-xu nói với họ: “Nếu Đức Chúa Trời là Cha của các ông, thì các ông sẽ yêu mến Tôi, vì Tôi ra từ Đức Chúa Trời, và từ Ngài mà đến; vì Tôi không tự ý đến, mà Ngài sai phái Tôi đến.
\v 43 Vì sao các ông không hiểu lời Tôi nói? Ấy là vì các ông không nghe nổi lời của Tôi.
\v 44 Các ông do cha mình là ma quỷ mà có, và các ông muốn làm theo dục vọng của cha mình. Từ ban đầu hắn là kẻ giết người và không ở trong chân lý, vì chẳng có chân lý nơi hắn. Khi hắn nói dối, thì hắn nói theo bản chất của mình bởi vì hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá.
\s5
\v 45 Nhưng, vì Tôi nói thật, nên các ông không tin Tôi.
\v 46 Ai trong các ông chứng minh được Tôi có tội? Nếu Tôi nói thật, sao các ông không tin Tôi?
\v 47 Ai thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe lời của Ngài; các ông không nghe lời Ngài vì các ông không thuộc về Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 48 Người Do Thái đáp lại Ngài: “Chúng tôi chẳng có nói ông là hạng người Sa-ma-ri bị quỉ ám đó sao?”
\v 49 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi không bị quỉ ám; nhưng Tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông thì hạ nhục Tôi.
\s5
\v 50 Tôi không tìm kiếm vinh quang riêng cho mình; có một Đấng tìm kiếm và phán xét.
\v 51 Tôi nói thật với các ông, nếu ai vâng giữ lời Tôi, người đó sẽ không bao giờ thấy sự chết.”
\s5
\v 52 Người Do Thái nói với Ngài: “Giờ thì chúng tôi biết ông bị quỉ ám. Áp-ra-ham và các tiên tri đều chết; nhưng ông lại nói: Nếu ai giữ lời Tôi, thì người đó sẽ không bao giờ nếm biết sự chết.
\v 53 Ông đâu có lớn hơn tổ phụ đã chết của chúng tôi là Áp-ra-ham, phải vậy không? Các tiên tri cũng đã chết. Ông tự cho mình là ai nào?”
\s5
\v 54 Chúa Giê-xu đáp: “Nếu Tôi tự tôn vinh mình, thì vinh quang của Tôi chẳng là gì cả; chính Cha Tôi tôn vinh Tôi, mà Ngài lại là Đấng các ông xưng là Đức Chúa Trời của mình.
\v 55 Các ông không biết Ngài, nhưng Tôi biết Ngài. Nếu Tôi nói: Tôi không biết Ngài, thì Tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng Tôi biết Ngài và giữ lời Ngài.
\v 56 Cha các ông là Áp-ra-ham đã vui mừng nhìn thấy ngày của Tôi; người đã thấy và mừng rỡ.”
\s5
\v 57
\v 57 Người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa đến năm mươi tuổi, và ông đã thấy Áp-ra-ham chưa?”
\v 58 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Tôi nói thật với các ông, Tôi HẰNG HỮU, cả trước khi Áp-ra-ham sinh ra.”
\v 59 Vậy là họ lượm đá định ném Ngài, nhưng Chúa Giê-xu lánh đi và ra khỏi đền thờ.
\s5
\c 9
\cl
\p
\v 1 Đang khi đi đường, Chúa Giê-xu thấy một người mù từ lúc mới sinh.
\v 2 Các môn đồ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, ai phạm tội mà khiến anh này khi sinh ra đã bị mù chính anh ta hay cha mẹ anh ta”
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu đáp: “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ của anh ta, nhưng ấy là để công việc của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong anh ta.
\v 4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai phái Thầy trong lúc ban ngày. Đêm đến thì không ai có thể làm việc.
\v 5 Trong lúc Thầy ở trần gian thì Thầy là ánh sáng của thế giới.”
\s5
\v 6 Sau khi nói mấy lời ấy, Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng hòa thành bùn, và xức lên mắt của anh này.
\v 7 Ngài nói với anh: “Hãy đi rửa ở ao Si-lô-ê (có nghĩa là được sai đi).” Vậy là anh đi rửa mắt và quay trở lại, thì nhìn thấy được.
\s5
\v 8 Những người hàng xóm của anh và những người đã nhìn thấy anh ăn xin lúc trước nói: “Chẳng phải đây là cái anh vẫn thường ngồi xin ăn sao?”
\v 9 Một số nói: “Đúng là anh ta.” Số khác bảo: “Không phải đâu, nhưng giống anh ta lắm.” Còn anh mù thì xác nhận: “Chính là tôi đây.”
\s5
\v 10 Họ hỏi anh: “Thế làm sao mắt anh sáng được vậy?”
\v 11 Anh đáp: “Người tên là Giê-xu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi: Hãy đi đến ao Si-lô-ê rửa. Vậy là tôi đến đó rửa, và mắt tôi lại thấy được.”
\v 12 Họ hỏi anh: “Người ấy đâu rồi?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
\s5
\v 13 Họ đưa anh từng bị mù này đến chỗ mấy người Pha-ri-si.
\v 14 Hôm Chúa Giê-xu hòa bùn và chữa cho anh được sáng mắt là ngày Sa-bát.
\v 15 Vậy, những người Pha-ri-si lại hỏi anh làm thế nào mà được sáng mắt. Anh ta trả lời họ: “Ông ấy xức bùn lên mắt tôi, tôi đi rửa và bây giờ đã thấy được.”
\s5
\v 16 Một số người Pha-ri-si nhận xét: “Gã này không phải từ Đức Chúa Trời đến, vì hắn không tuân giữ ngày Sa-bát.” Số khác lại nói: “Làm sao một người có tội lại có thể làm những dấu lạ như thế này?” Thế là họ chia phe ra.
\v 17 Vậy nên họ lại hỏi anh mù: “Anh có ý kiến gì về người đã mở mắt cho mình?” Anh mù đáp: “Ông ta là một nhà tiên tri.”
\v 18 Những người Do Thái vẫn không tin câu chuyện về anh trước đây bị mù mà giờ đây lại được sáng mắt cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh ta đến.
\s5
\v 19 Họ hỏi cha mẹ anh: “Đây có phải là con của ông bà mà ông bà nói đã bị mù từ lúc mới sinh không? Làm thế nào giờ anh ta lại nhìn thấy được?”
\v 20 Cha mẹ của anh trả lời họ: “Chúng tôi biết rằng đây là con trai của chúng tôi và nó đã bị mù lúc mới sinh.
\v 21 Làm cách nào giờ nó lại nhìn thấy được và ai mở mắt cho nó, thì chúng tôi không biết. Hãy hỏi nó. Nó đã lớn rồi. Nó có thể tự trả lời.”
\s5
\v 22 Cha mẹ của anh nói vậy vì họ sợ người Do Thái. Vì người Do Thái đã thỏa thuận rằng nếu ai xưng nhận Giê-xu là Chúa Cứu Thế thì người đó sẽ bị trục xuất khỏi nhà hội.
\v 23 Bởi vậy nên cha mẹ anh mới nói: “Nó đã đủ lớn. Hãy hỏi nó.”
\s5
\v 24 Vậy là một lần nữa, họ cho gọi người mù lại và hỏi anh: “Hãy tôn vinh Đức Chúa Trời. Chúng ta biết gã đó là kẻ có tội.”
\v 25 Anh mù đáp: Ông ta có tội hay không tôi không biết. Điều tôi biết là: Tôi đã bị mù, nhưng bây giờ lại thấy được.”
\s5
\v 26 Rồi họ hỏi anh: “Gã ấy đã làm gì cho anh? Gã mở mắt anh như thế nào?”
\v 27 Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông không nghe! Sao các ông lại muốn nghe thêm lần nữa? Chẳng phải các ông cũng muốn trở thành môn đồ của người đấy chứ?”
\v 28 Họ sỉ vả anh, rằng: “Mày mới là môn đồ của ông ta, còn bọn tao là môn đồ của Môi-se.
\v 29 Chúng ta biết Đức Chúa Trời có phán với Môi-se, nhưng còn gã này thì chúng ta không biết từ đâu đến.”
\s5
\v 30 Anh đáp: “Sao nghe lạ vậy? Ông ta mở mắt tôi mà các ông lại không biết ông ta từ đâu đến.
\v 31 Chúng ta biết Đức Chúa Trời không nghe người có tội, còn ai tôn thờ Ngài và làm theo ý muốn Ngài thì Ngài nghe người đó.
\s5
\v 32 Vì từ thuở khai thiên lập địa chưa hề nghe có bất cứ ai mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
\v 33 Nếu người này không phải đến từ Đức Chúa Trời, thì ông ta chẳng làm được gì cả.”
\v 34 Họ đáp lại anh: “Các người toàn là hạng sinh ra trong tội lỗi, mà nay lại muốn dạy khôn tụi này à?” Rồi họ trục xuất người khỏi nhà hội.
\s5
\v 35 Chúa Giê-xu nghe họ đã trục xuất anh khỏi nhà hội. Ngài tìm gặp anh và hỏi: “Anh có tin Con Người không?”
\v 36 Anh ta trả lời: “Người ấy là ai để tôi tin, thưa Chúa?”
\v 37 Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh đã thấy người, và đó là người đang nói chuyện với anh đây.”
\v 38 Anh đáp: “Thưa Chúa, tôi tin.” Rồi anh thờ lạy Ngài.
\s5
\v 39 Chúa Giê-xu nói: “Tôi đã đến thế gian này để đoán xét, cho những người không thấy được thấy và khiến ai thấy trở nên mù.”
\v 40 Mấy người Pha-ri-si đang có mặt ở đó nghe vậy, thì hỏi Ngài: “Bộ chúng tôi cũng mù luôn sao?”
\v 41 Chúa Giê-xu đáp: “Nếu các ông mù thì các ông không có tội, nhưng vì các ông nói: Chúng tôi thấy nên tội các ông vẫn còn đó.”
\s5
\c 10
\cl
\p
\v 1 Tôi nói thật với các ông, người không vào chuồng chiên bằng cổng mà mà lại vào chuồng bằng cách khác, thì đó là quân trộm cướp.
\v 2 Người vào bằng cổng mới là người chăn chiên.
\s5
\v 3 Người gác cổng mở cửa cho anh. Chiên nghe tiếng anh, và anh gọi tên chiên mình rồi dắt chúng ra ngoài.
\v 4 Khi anh đã đem hết chiên ra, anh đi trước chiên, còn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người chăn.
\s5
\v 5 Chiên sẽ không đi theo người lạ, mà sẽ tránh người lạ, vì chúng không quen tiếng của người lạ.”
\v 6 Chúa Giê-xu kể ẩn dụ này cho họ, nhưng họ không hiểu những điều Ngài nói với họ đó có ngụ ý gì.
\s5
\v 7 Rồi Chúa Giê-xu lại nói tiếp với họ: “Tôi nói thật với các ông, Tôi là cái cửa của chiên.
\v 8 Tất cả những người đến trước Tôi đều là kẻ trộm cướp, nhưng chiên không nghe tiếng của họ.
\s5
\v 9 Tôi là cái cổng. Nếu ai bởi Tôi mà vào thì sẽ được cứu; người đó sẽ vào ra và tìm thấy đồng cỏ.
\v 10 Kẻ trộm đến chỉ để trộm cắp, giết chóc và hủy diệt. Còn Tôi đến để chiên có sự sống và sự sống sung mãn.
\s5
\v 11 Tôi là người chăn chiên nhân lành. Người chăn nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên.
\v 12 Kẻ chăn thuê không phải là người chăn và chiên không thuộc về hắn, nên khi thấy muông sói đến thì hắn bỏ chiên mà chạy. Sói bắt chúng đi và khiến chúng tan lạc.
\v 13 Hắn bỏ chạy vì hắn là người chăn thuê, không chăm lo cho bầy chiên.
\s5
\v 14 Tôi là người chăn nhân lành, Tôi quen chiên Tôi và chiên Tôi quen Tôi.
\v 15 Cha biết Tôi và Tôi biết Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình vì chiên.
\v 16 Tôi có những chiên khác không thuộc về bầy này. Tôi cũng phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe tiếng Tôi, để rồi sẽ chỉ có một bầy và một người chăn.
\s5
\v 17 Lý do Cha yêu Tôi là vì Tôi hy sinh mạng sống để rồi được lại.
\v 18 Không ai có thể cất mạng sống của Tôi đi, mà là do tôi tự nguyện hy sinh. Tôi có quyền hy sinh mạng sống mình, và Tôi có quyền lấy lại. Tôi đã nhận lãnh mạng lệnh này từ Cha Tôi.”
\s5
\v 19 Lại có sự chia rẽ giữa vòng những người Do Thái vì các lời Chúa Giê-xu nói đó.
\v 20 Nhiều người trong số họ bảo: “Gã này bị quỉ ám và mất trí rồi. Sao các ông lại đi nghe gã ta?”
\v 21 Những người khác thì nói: “Các phát biểu thế này không phải của một người bị quỉ ám. Quỉ có thể mở mắt cho người mù ư?”
\s5
\v 22 Rồi đến Lễ Cung Hiến tại Giê-ru-sa-lem.
\v 23 Lúc ấy là mùa đông, và Chúa Giê-xu đang đi lại trên hành lang Sa-lô-môn trong đền thờ.
\v 24 Lúc ấy, người Do Thái vây quanh Ngài, hỏi: “Thầy cứ để cho chúng tôi thắc mắc đến bao giờ? Nếu Thầy là Chúa Cứu Thế thì cứ nói rõ cho chúng tôi biết.”
\s5
\v 25 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi đã nói với các ông, mà các ông không tin. Những việc mà Tôi nhân danh Cha thực hiện đều làm chứng cho Tôi.
\v 26 Nhưng các ông không tin vì các ông không phải là chiên của Tôi.
\s5
\v 27 Chiên của Tôi nghe tiếng Tôi; Tôi quen chúng và chúng theo Tôi.
\v 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; chúng sẽ không chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp chúng khỏi tay Tôi.
\s5
\v 29 Cha Tôi là Đấng lớn hơn hết đã ban chúng cho Tôi, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Cha.
\v 30 Tôi với Cha là một.”
\v 31 Vậy là người Do Thái lại nhặt đá định ném Ngài.
\s5
\v 32 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi đã tỏ cho các ông thấy nhiều việc lành từ Cha. Vì việc nào trong số đó mà các ông định ném đá Tôi?
\v 33 Người Do Thái đáp lại Ngài: “Chúng Tôi không ném đá ông vì việc lành nào cả, nhưng là vì ông đã phạm thượng: ông là người mà dám nói mình là Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Chẳng phải trong luật pháp các ông có chép: Ta đã nói: “Các ngươi là thần”hay sao”?”
\v 35 Nếu luật pháp gọi những người nhận được lời Đức Chúa Trời là thần (và lời Kinh Thánh không thể bị hủy bỏ)
\v 36 thì sao các ông lại bảo Đấng được Đức Chúa Trời biệt riêng và sai phái vào trần gian là phạm thượng vì lời mà Tôi nói, rằng: Tôi là Con Đức Chúa Trời?
\s5
\v 37 Nếu Tôi không làm công tác của Cha Tôi, thì đừng tin Tôi.
\v 38 Nhưng nếu Tôi làm các việc đó, cho dù các ông không tin Tôi, thì cũng hãy tin các việc Tôi làm, để các ông biết và hiểu rằng Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Cha.”
\v 39 Một lần nữa, họ lại tìm cách bắt Chúa Giê-xu, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.
\s5
\v 40 Chúa Giê-xu lại bỏ đi qua bên kia sông Giô-đanh, nơi Giăng làm phép báp-têm lúc đầu, và ở đó.
\v 41 Nhiều người đến với Chúa Giê-xu. Họ cứ bảo: “Đúng là Giăng chẳng làm dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng nói về người này đều đúng.”
\v 42 Tại đó có nhiều người tin Chúa Giê-xu.
\s5
\c 11
\cl
\p
\v 1 Có một người tên La-xa-rơ bị bệnh. Anh là người ở Bê-tha-ni, tức làng của Ma-ri và Ma-thê.
\v 2 Ma-ri này là người về sau xức dầu thơm cho Chúa rồi dùng tóc mình lau chân Ngài, và người bệnh tên La-xa-rơ là anh của cô.
\s5
\v 3 Hai chị em nhờ người báo tin cho Chúa Giê-xu, rằng: “Thưa Chúa, người Ngài yêu đang bị bệnh.”
\v 4 Khi Chúa Giê-xu nghe tin đó, Ngài bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, để Con Đức Chúa Trời nhờ đó được tôn vinh.”
\s5
\v 5 Chúa Giê-xu yêu mến Ma-thê, cũng như em gái của cô và La-xa-rơ.
\v 6 Khi nghe tin La-xa-rơ bị bệnh, Chúa Giê-xu đã lưu lại nơi Ngài đang ở thêm hai ngày.
\v 7 Sau đó, Ngài nói với các môn đồ: “Chúng ta hãy trở lại Giu-đê.”
\s5
\v 8 Các môn đồ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người Do Thái mới đây đã tìm cách ném đá Thầy, mà nay Thầy định quay lại đó sao?”
\v 9 Chúa Giê-xu đáp: “Chẳng phải một ngày có mười hai giờ là ban ngày sao? Nếu người nào đi vào ban ngày, sẽ không vấp ngã nhờ có ánh sáng chiếu rọi.
\s5
\v 10 Nhưng nếu đi trong ban đêm, người ấy sẽ vấp ngã vì không có sự sáng nơi mình.”
\v 11 Chúa Giê-xu nói như vậy, và sau khi nói các lời ấy, Ngài bảo: “La-xa-rơ bạn chúng ta đang ngủ, nhưng Thầy sẽ đi đánh thức anh ta dậy.”
\s5
\v 12 Thế là các môn đồ nói với Ngài: “Thưa Chúa, nếu anh ấy ngủ, thì sẽ bình phục thôi.”
\v 13 Thật ra, Chúa Giê-xu nói về sự chết của La-xa-rơ, nhưng họ lại tưởng Ngài nói anh đang ngủ nghỉ.
\v 14 Vậy nên Chúa Giê-xu nói rõ ra cho họ: “La-xa-rơ chết rồi.
\s5
\v 15 Vì anh em mà Thầy vui mừng rằng mình không có mặt ở đó, để anh em tin. Chúng ta hãy đến chỗ anh ấy.”
\v 16 Thô-ma, được gọi là Đi-đim, nói với các môn đồ đồng bạn: “Chúng ta cũng hãy đi để cùng chết với Chúa Giê-xu.”
\s5
\v 17 Khi Chúa Giê-xu đến nơi, Ngài thấy La-xa-rơ đã được chôn trong mộ bốn ngày.
\v 18 Bê-tha-ni ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đó chừng ba cây số.
\v 19 Nhiều người Do Thái đã đến thăm Ma-thê và Ma-ri để an ủi hai cô về người anh trai.
\v 20 Khi Ma-thê nghe Chúa Giê-xu đến, cô đi gặp Ngài, nhưng Ma-ri vẫn ngồi ở nhà.
\s5
\v 21 Ma-thê nói với Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, nếu có Ngài ở đây, thì anh tôi đâu có chết.
\v 22 Thậm chí vào lúc này đây, tôi biết Thầy xin Đức Chúa Trời điều gì, thì Ngài sẽ ban cho.”
\v 23 Chúa Giê-xu nói với cô: “Anh của chị sẽ sống lại.”
\s5
\v 24 Ma-thê thưa: “Tôi biết anh ấy sẽ sống lại vào ngày cuối cùng.”
\v 25 Chúa Giê-xu nói với cô: “Thầy là sự sống lại và sự sống; người nào tin Thầy sẽ sống mặc dù đã chết rồi;
\v 26 còn ai sống mà tin Thầy sẽ không bao giờ chết. Chị có tin như vậy không?”
\s5
\v 27 Cô đáp lại Ngài: “Vâng, thưa Chúa, tôi tin Ngài là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, Đấng phải vào trần gian.”
\v 28 Nói xong, cô đi kêu Ma-ri, em mình, riêng ra, và nói: Thầy đã đến và đang gọi em.”
\v 29 Khi Ma-ri nghe vậy, cô liền đứng lên đi gặp Chúa Giê-xu.
\s5
\v 30 Lúc ấy, Chúa Giê-xu chưa vào trong làng mà vẫn còn ở chỗ Ma-thê đã gặp Ngài.
\v 31 Những người Do Thái ở với Ma-ri trong nhà, đang an ủi cô, khi thấy cô vội vàng đứng dậy chạy ra ngoài, thì chạy theo; họ tưởng cô ra mộ để khóc.
\v 32 Còn Ma-ri, khi đến chỗ Chúa Giê-xu và thấy Ngài, cô sụp xuống nơi chân Ngài và thưa: “Lạy Chúa, nếu có Ngài ở đây, thì anh tôi không chết.”
\s5
\v 33 Khi Chúa Giê-xu thấy cô khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, thì Ngài đau lòng và bối rối;
\v 34 Ngài hỏi: “Các người để anh ta ở đâu?” Họ đáp lại Ngài: “Xin Chúa hãy đến xem.”
\v 35 Chúa Giê-xu khóc
\s5
\v 36 Những người Do Thái bảo nhau: “Hãy xem ông ấy yêu mến La-xa-rơ đến mức nào!”
\v 37 Nhưng có mấy người giữa vòng họ nói: “Chẳng lẽ ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể khiến cho người này khỏi chết sao?”
\s5
\v 38 Rồi Chúa Giê-xu lại thấy đau lòng. Ngài đi đến ngôi mộ, là một cái hang có tảng đá đậy lại.
\v 39 Chúa Giê-xu bảo: “Hãy lăn hòn đá đi.” Ma-thê, em của người chết La-xa-rơ, nói với Chúa: “Thưa Chúa, đến lúc này thì chắc xác đang bị phân hủy, vì anh ấy đã chết bốn ngày rồi.”
\v 40 Chúa Giê-xu nói với cô: “Chẳng phải Thầy đã nói với chị là nếu tin thì chị sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời sao?”
\s5
\v 41 Vậy là họ lăn hòn đá ra. Chúa Giê-xu ngước mắt lên trời và nói: “Thưa Cha, Con cám ơn Cha vì đã nghe lời cầu xin của Con.
\v 42 Con biết Cha luôn nghe con, nhưng ấy là vì đám đông đang đứng xung quanh con đây mà con nói điều này, để họ tin rằng Cha đã sai con đến.”
\s5
\v 43 Nói xong Ngài kêu lớn tiếng, rằng: “Anh La-xa-rơ, hãy bước ra đi!”
\v 44 Người chết đi ra, tay chân vẫn còn quấn vải liệm, và mặt cũng vậy. Chúa Giê-xu nói với họ: “Hãy tháo vải liệm để anh ấy đi.”
\s5
\v 45 Nhiều người Do Thái đến thăm Ma-ri và thấy việc Chúa Giê-xu làm, thì tin Ngài.
\v 46 Nhưng cũng có mấy người đi gặp những người Pha-ri-si thuật lại các việc mà Chúa Giê-xu đã làm.
\s5
\v 47 Vậy, các trưởng tế và những người Pha-ri-si nhóm nhau lại tại tòa công luận và nói: “Chúng ta sẽ làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ.
\v 48 Nếu chúng ta để mặc hắn như vậy, thì mọi người sẽ tin theo hắn; rồi người La-mã sẽ đến chiếm nơi này cùng cả xứ của chúng ta.”
\s5
\v 49 Tuy nhiên, một người trong số họ là Cai-phe, ông là thầy thượng tế đương nhiệm năm đó, nói với họ: “Các ông không biết gì cả.
\v 50 Các ông chẳng xét đến chuyện hơn thiệt cho mình: thà một người chết cho dân tộc còn hơn là cả đất nước bị diệt vong.”
\s5
\v 51 Điều này không phải do ông ta tự nói ra; mà vì là thầy thượng tế đương nhiệm trong năm đó, nên ông ta nói tiên tri rằng Chúa Giê-xu sẽ chết vì dân tộc;
\v 52 mà không chỉ vì dân tộc này thôi đâu, nhưng Chúa Giê-xu cũng hợp nhất con dân Đức Chúa Trời đang tan lạc khắp mọi nơi.
\v 53 Vậy là từ ngày đó trở đi, họ lên kế hoạch giết chết Chúa Giê-xu.
\s5
\v 54 Chúa Giê-xu không còn đi lại công khai ở giữa vòng người Do Thái, nhưng Ngài rời khỏi nơi đó để đến vùng gần nơi hoang mạc, vào trong thành có tên là Ép-ra-im, và Ngài ở đó với các môn đồ của mình.
\v 55 Bấy giờ, Lễ Vượt Qua đã gần đến, và nhiều người từ vùng quê đi lên Giê-ru-sa-lem để thanh tẩy mình trước kỳ lễ Vượt Qua.
\s5
\v 56 Họ tìm kiếm Chúa Giê-xu, và nói với nhau khi đứng trong đền thờ, rằng: “Các ông nghĩ sao? Hắn sẽ không đến dự lễ à?”
\v 57 Các trưởng tế và những người Pha-ri-si đã ra lệnh rằng nếu người nào biết Chúa Giê-xu ở đâu, thì phải báo để họ bắt giữ Ngài.
\s5
\c 12
\cl
\p
\v 1 Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giê-xu đến Bê-tha-ni, nơi có La-xa-rơ, người mà Ngài đã khiến sống lại.
\v 2 Họ đã chuẩn bị bữa tối cho Ngài ở đó; Ma-thê thì phục vụ, còn La-xa-rơ là một trong những người ngồi tại bàn với Ngài.
\v 3 Lúc đó, Ma-ri lấy một cân dầu thơm rất quý, làm từ cây cam tùng, xức chân Chúa Giê-xu, và dùng tóc mình lau chân Ngài; cả nhà ngào ngạt mùi thơm của dầu.
\s5
\v 4 Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong các môn đồ của Ngài, kẻ sẽ phản bội Ngài, nói rằng:
\v 5 “Sao không đem bán dầu thơm này để lấy ba trăm đơ-ni-ê rồi chia cho người nghèo?”
\v 6 Hắn nói vậy, không phải vì lo cho người nghèo nhưng vì hắn là kẻ trộm: hắn giữ túi tiền và hay lấy tiền trong đó chi dùng cho mình.
\s5
\v 7 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy để cho chị ấy giữ cái mà chị đã để dành cho ngày chôn cất tôi.
\v 8 Các ông luôn có người nghèo bên mình, nhưng không phải lúc nào cũng có Tôi đâu.”
\s5
\v 9 Một đám đông người Do Thái biết Chúa Giê-xu ở đó, nên kéo đến, không phải chỉ vì Chúa Giê-xu, mà cũng để nhìn thấy La-xa-rơ, người mà Chúa Giê-xu đã khiến từ cõi chết sống lại.
\v 10 Những trưởng tế đã âm mưu với nhau rằng họ cũng sẽ giết luôn La-xa-rơ;
\v 11 bởi vì do anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ để tin Chúa Giê-xu.
\s5
\v 12 Hôm sau, một đám đông dân chúng đến dự lễ. Khi họ nghe rằng Chúa Giê-xu sắp vào Giê-ru-sa-lem,
\v 13 họ lấy những cành cọ đi ra đón Ngài, và hô to, rằng: “Hô-sa-na! Chúc tụng Đấng nhơn danh Chúa mà đến, là Vua Y-sơ-ra-ên!”
\s5
\v 14 Chúa Giê-xu gặp một con lừa con nên Ngài cưỡi lên, như có lời chép, rằng:
\v 15 “Này, con gái Si-ôn, đừng sợ. Kìa, Vua ngươi ngự đến, cưỡi trên lưng lừa con.”
\s5
\v 16 Lúc đầu, các môn đồ của Ngài không hiểu những việc này; nhưng khi Chúa Giê-xu được vinh hiển, họ nhớ lại rằng những điều này đã được viết về Ngài và người ta đã làm những việc ấy cho Ngài.
\s5
\v 17 Đoàn dân từng ở với Chúa Giê-xu khi Ngài gọi La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến ông từ cõi chết sống lại đã làm chứng cho mọi người.
\v 18 Cũng chính vì lý do này mà có đoàn người từ trong thành đi ra đón Ngài, vì họ đã được nghe Ngài làm phép lạ này.
\v 19 Vì thế, những người Pha-ri-si nói với nhau: “Xem kìa, các ông không làm gì được đâu; cả thiên hạ đều theo hắn.”
\s5
\v 20 Có mấy người Hy Lạp trong số những người lên thờ phượng tại lễ hội.
\v 21 Những người này đến gặp Phi-líp, là người Bết-sai-đa ở Ga-li-lê, và nhờ ông, rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giê-xu.”
\v 22 Phi-líp đi nói với Anh-rê, rồi Anh-rê và Phi-líp cùng đến thưa với Chúa Giê-xu.
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu trả lời họ rằng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh.
\v 24 Thầy nói thật với anh em, nếu hột giống lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu nó chết đi thì sẽ kết quả nhiều.
\s5
\v 25 Người nào yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; nhưng ai ghét mạng sống mình trong đời này sẽ giữ lại được để đổi lấy sự sống đời đời.
\v 26 Nếu ai phục vụ Thầy thì phải theo Thầy; Thầy ở đâu thì người phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Nếu ai phục vụ Thầy thì Cha sẽ tôn quý người đó.
\s5
\v 27 Hiện linh hồn của Thầy đang bối rối? Thầy sẽ nói gì đây? “Phải chăng? Cha ơi! xin cứu con khỏi giờ nầy?” Nhưng vì lý do này mà con đã đến giờ này.
\v 28 Cha ơi, xin hãy làm vinh danh Cha.” Khi đó, có tiếng nói từ trời vọng xuống, rằng: “Ta đã làm vinh danh Ta rồi, và sẽ còn làm nữa.”
\v 29 Đám đông đứng gần đó nghe tiếng ấy thì nói đó là tiếng sấm rền. Những người khác thì nói: “Tiếng thiên sứ nói với ông ấy đấy.”
\s5
\v 30 Chúa Giê-xu đáp lại: “Tiếng này vọng xuống không phải vì Tôi, mà là vì các ông.
\v 31 Giờ là lúc thế gian này bị phán xét: Giờ đây, kẻ cai trị thế gian này sẽ bị tống xuất.
\s5
\v 32 Còn Tôi, khi Tôi bị treo lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người đến với mình.”
\v 33 Ngài phán điều này để chỉ cách mà Ngài sẽ chết.
\s5
\v 34 Đoàn dân hỏi lại Ngài: “Chúng tôi có nghe luật pháp nói rằng Chúa Cứu Thế sẽ còn đời đời. Sao ông lại nói: Con Người phải bị treo lên? Con Người này là ai?”
\v 35 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Ánh sáng còn ở với các ông ít lâu nữa thôi. Hãy bước đi trong lúc các ông có ánh sáng, trước khi bóng tối phủ xuống trên các ông. Người bước đi trong bóng tối không biết mình đi đâu.
\v 36 Trong lúc các ông có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng để các ông trở nên con của sự sáng.” Chúa Giê-xu nói những lời đó rồi thì Ngài bỏ đi ẩn mình khỏi họ.
\s5
\v 37 Mặc dù Chúa Giê-xu đã làm nhiều dấu lạ trước mặt họ, nhưng họ vẫn không tin Ngài
\v 38 để cho ứng nghiệm lời tiên tri Ê-sai đã nói: “Lạy Chúa, ai tin lời tường trình của chúng tôi? Và cánh tay Chúa đã tỏ ra cho ai?”
\s5
\v 39 Vì lý do này, họ không thể tin, vì Ê-sai cũng đã nói:
\v 40 “Ngài đã khiến mắt họ mù, làm cho lòng họ chai cứng; kẻo mắt họ thấy được, lòng họ hiểu được, rồi họ quay trở lại và ta sẽ chữa lành họ.”
\s5
\v 41 Ê-sai nói những lời này vì ông trông thấy vinh quang của Chúa Giê-xu và nói về Ngài.
\v 42 Tuy vậy, thậm chí có nhiều người trong giới lãnh đạo tin Chúa Giê-xu; nhưng vì sợ những người Pha-ri-si, nên họ không dám thừa nhận điều này, để khỏi bị cấm tới lui nhà hội.
\v 43 Họ thích được người ta khen ngợi hơn là Đức Chúa Trời.
\s5
\v 44 Chúa Giê-xu nói lớn tiếng: “Ai tin Tôi thì không chỉ tin Tôi thôi đâu, mà cũng tin Đấng sai phái Tôi,
\v 45 và ai thấy Tôi tức cũng đã thấy Đấng sai phái Tôi.
\s5
\v 46 Tôi đã đến như ánh sáng chiếu rọi vào trần gian, để ai tin Tôi thì không còn ở trong bóng tối.
\v 47 Người nào nghe lời Tôi mà không giữ lấy thì Tôi cũng không phán xét, vì Tôi đến không phải để phán xét thế nhân, mà để cứu thế nhân.
\s5
\v 48 Người nào khước từ Tôi và không chịu tiếp nhận lời Tôi thì đã có điều xét xử họ: chính lời Tôi nói sẽ xét xử họ vào ngày cuối cùng.
\v 49 Vì Tôi không nói theo ý riêng của mình. Thay vì vậy, chính Cha là Đấng sai Tôi Ngài truyền lệnh cho Tôi biết phải nói lời nào và giảng dạy điều gì.
\v 50 Tôi biết mạng lệnh của Ngài là sự sống đời đời; cho nên lời mà Tôi nói thì Tôi nói theo như Cha đã nói cho Tôi biết.”
\s5
\c 13
\cl
\p
\v 1 Trước Lễ Vượt Qua, vì Chúa Giê-xu biết rằng đã đến thời điểm Ngài phải lìa thế giới này mà về với Cha, Ngài đã yêu thương những người thuộc về Ngài trong đời này, thì Ngài yêu cho đến cuối cùng.
\v 2 Bấy giờ, ma quỉ đã đặt vào lòng của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con trai của Si-môn, ý định phản bội Chúa Giê-xu.
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu biết rằng Cha đã giao tất cả mọi điều vào tay Ngài, và Ngài từ Đức Chúa Trời đến thì sẽ trở về cùng Đức Chúa Trời.
\v 4 Ngài đứng dậy khỏi bữa ăn tối, cởi áo ngoài ra, lấy khăn quấn ngang lưng.
\v 5 Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đồ, rồi Ngài lau chân họ bằng chiếc khăn mà Ngài đã quấn quanh mình.
\s5
\v 6 Ngài đến chỗ Si-môn Phi-e-rơ, nhưng Phi-e-rơ nói với Ngài: “Thưa Chúa, Ngài định rửa chân cho tôi sao?”
\v 7 Chúa Giê-xu trả lời ông, rằng: “Điều Thầy sắp làm bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này sẽ hiểu.”
\v 8 Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Ngài sẽ không rửa chân cho tôi bao giờ.” Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, thì anh chẳng có phần gì với Thầy hết.”
\v 9 Si-môn Phi-e-rơ thưa: “Thưa Chúa, xin đừng chỉ rửa chân thôi, mà cũng rửa luôn tay và đầu tôi nữa.”
\s5
\v 10 Chúa Giê-xu nói với ông: “Người nào đã tắm rồi thì không cần rửa gì khác ngoài bàn chân, vì toàn thân đã sạch; anh em đã được sạch nhưng không phải tất cả.”
\v 11 Vì Chúa Giê-xu biết kẻ sẽ phản bội Ngài, nên Ngài nói: “Không phải tất cả các con đều được sạch.”
\s5
\v 12 Sau khi đã rửa chân họ xong và mặc áo vào, Chúa Giê-xu ngồi xuống lại rồi nói với họ: “Anh em có biết Thầy vừa làm gì cho anh em không?
\v 13 Anh em gọi Thầy là Thầy,Chúa, anh em nói phải vì Thầy đúng như vậy.
\v 14 Nếu Thầy là Thầy, là Chúa mà lại rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
\v 15 Vì Thầy đã nêu gương để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.
\s5
\v 16 Thầy nói thật với anh em, đầy tớ không lớn hơn chủ; sứ giả cũng không lớn hơn người đã sai mình.
\v 17 Nếu anh em biết điều này và thực hiện, thì anh em được phước.
\v 18 Thầy không nói về tất cả anh em, vì Thầy biết người Thầy đã chọn nhưng Thầy nói điều này để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Kẻ từng ăn bánh của tôi lại trở mặt chống lại tôi.
\s5
\v 19 Thầy nói điều này cho anh em trước khi việc xảy ra, để khi nó xảy ra, thì anh em tin rằng Thầy là Đấng Hằng Hữu.
\v 20 Thầy nói thật với anh em, ai tiếp Thầy tức tiếp người Thầy sai phái, và ai tiếp Thầy cũng là tiếp Đấng sai phái Thầy.”
\s5
\v 21 Khi Chúa Giê-xu nói như vậy thì tâm thần Ngài bối rối; Ngài xác nhận: “Thầy nói thật với anh em, một người giữa vòng anh em sẽ phản bội Thầy.”
\v 22 Các môn đồ nhìn nhau, không biết Ngài đang nói về ai.
\s5
\v 23 Tại bàn, có một môn đồ đang ngồi tựa vào ngực Ngài, ấy là người được Chúa Giê-xu yêu thương.
\v 24 Si-môn Phi-e-rơ ra hiệu cho môn đồ này, rằng: “Hãy cho chúng tôi biết Thầy đang nói về ai vậy.”
\v 25 Môn đồ đó tựa lại vào ngực Chúa Giê-xu và hỏi Ngài: “Thưa Chúa, người đó là ai?”
\s5
\v 26 Chúa Giê-xu đáp: “Đó là kẻ Thầy sẽ nhúng bánh này và trao cho.” Vậy, Ngài nhúng bánh và trao cho Giu-đa con trai của Si-môn Ích-ca-ri-ốt.
\v 27 Sau khi hắn nhận miếng bánh, thì Sa-tan nhập vào lòng hắn. Chúa Giê-xu nói với hắn: “Điều anh sắp làm, hãy làm nhanh đi.”
\s5
\v 28 Không ai đang dùng bữa biết vì sao Chúa Giê-xu nói với hắn như vậy.
\v 29 Một số người nghĩ rằng vì Giu-đa là người giữ tiền, nên Chúa Giê-xu bảo hắn đi mua những thứ cần dùng cho kỳ lễ, hoặc lấy tiền giúp người nghèo.
\v 30 Sau khi Giu-đa nhận lấy bánh, hắn lập tức đi ra ngoài; lúc ấy là buổi tối.
\s5
\v 31 Khi Giu-đa đi rồi, Chúa Giê-xu nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Đức Chúa Trời được tôn vinh nơi Người.
\v 32 Đức Chúa Trời sẽ tôn vinh Con Người nơi chính Ngài, và Ngài sẽ lập tức tôn vinh Con Người.
\v 33 Hỡi các con bé nhỏ, ta ở với các con ít lâu nữa thôi. Các con sẽ tìm ta, và như ta đã phán cùng người Do Thái, Nơi Tôi đi, các người không thể đến được. Giờ ta cũng nói điều này với các con.
\s5
\v 34 Ta ban cho các con một điều răn mới, ấy là các con phải yêu mến nhau; như ta đã yêu thương các con thể nào thì các con phải yêu thương nhau thể ấy.
\v 35 Nếu các con yêu thương nhau thì bởi đó người ta sẽ biết rằng các con là môn đồ ta.”
\s5
\v 36 Si-môn Phi-e-rơ nói với Ngài: “Thưa Chúa, Ngài sẽ đi đâu?” Chúa Giê-xu đáp: “Nơi Thầy sẽ đi thì bây giờ anh em chưa đi theo Thầy được, nhưng sau này, anh em sẽ theo.”
\v 37 Phi-e-rơ nói với Ngài: “Thưa Chúa, vì sao tôi lại không thể theo Ngài lúc này? Tôi sẽ hy sinh mạng sống vì Ngài.”
\v 38 Chúa Giê-xu đáp: “Anh sẽ hy sinh mạng sống vì Thầy sao? Thầy nói thật với anh, trước khi gà gáy anh sẽ chối Thầy ba lần.”
\s5
\c 14
\cl
\p
\v 1 “Đừng bối rối trong lòng. Anh em tin Đức Chúa Trời, thì cũng hãy tin Thầy.
\v 2 Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không phải vậy thì Thầy đã nói cho anh em rồi, vì Thầy sẽ đi để sửa soạn một chỗ cho anh em.
\v 3 Nếu Thầy đi và sửa soạn cho anh em một chỗ, thì Thầy cũng sẽ trở lại đón anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu thì anh em cũng sẽ ở đó.
\s5
\v 4 Anh em biết đường đi đến nơi Thầy đi.”
\v 5 Thô-ma hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, chúng tôi không biết Ngài đi đâu thì làm sao biết đường được?
\v 6 Chúa Giê-xu nói với ông: “Thầy là đường đi, chân lý, và sự sống; chẳng bởi Thầy thì không ai đến với Cha được.
\v 7 Nếu anh em biết Thầy, thì anh em cũng biết Cha Thầy; từ giờ trở đi, anh em đã biết Ngài và đã thấy Ngài rồi đó.”
\s5
\v 8 Phi-líp nói với Chúa: “Thưa Chúa, hãy chỉ Cha chúng tôi, và với chúng tôi, vậy là đủ rồi.”
\v 9 Chúa Giê-xu nói với ông: “Thầy đã ở với anh em lâu như vậy mà anh vẫn chưa biết Thầy sao, Phi-líp? Ai đã thấy Thầy tức đã thấy Cha; sao anh lại bảo: Hãy chỉ Cha cho chúng tôi?
\s5
\v 10 Anh em không tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy sao? Những lời Thầy nói với anh em Thầy không nói theo ý mình; mà chính cha, Đấng sống trong Thầy, đang thực hiện công việc của Ngài.
\v 11 Khi Thầy nói Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy, thì anh em hãy tin Thầy; còn không thì cũng hãy tin Thầy vì chính những việc Thầy đã làm.
\s5
\v 12 Thầy nói thật với anh em, ai tin Thầy thì sẽ làm những việc mà Thầy làm; người đó thậm chí sẽ làm những việc lớn hơn nữa vì Thầy sẽ đi đến với Cha.
\v 13 Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy cầu xin thì Thầy sẽ thực hiện để Cha được tôn vinh nơi Con.
\v 14 Nếu anh em nhân danh Thầy xin điều gì, Thầy sẽ làm điều đó cho.
\s5
\v 15 Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.
\v 16 Thầy sẽ xin Cha, Ngài sẽ ban cho anh em Đấng yên ủi khác để ở với anh em đời đời,
\v 17 tức Thần lẽ thật. Thế gian không nhận được Ngài bởi vì họ không biết, cũng không thấy Ngài. Nhưng anh em biết Ngài, vì Ngài ở với anh em và sẽ ở trong anh em.
\s5
\v 18 Thầy sẽ không bỏ anh em một mình; Thầy sẽ quay trở lại với anh em.
\v 19 Không bao lâu nữa, người đời sẽ chẳng còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy. Bởi vì Thầy sống, thì anh em cũng sẽ sống.
\v 20 Vào ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, rằng anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.
\s5
\v 21 Ai có điều răn của Thầy và vâng giữ thì đó là người yêu mến Thầy; ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến; Thầy sẽ yêu mến người đó và tỏ cho người đó biết Thầy.”
\v 22 Giu-đa (không phải là Ích-ca-ri-ốt) hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, sao Ngài chỉ tỏ mình cho chúng tôi mà không phải cho thế nhân?”
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Ai yêu mến Thầy sẽ vâng giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người đó; chúng ta sẽ đến với người đó, và sẽ ở với người đó.
\v 24 Ai không yêu mến Thầy thì không vâng giữ lời Thầy. Lời mà anh em nghe không phải là của Thầy, mà là của Cha, Đấng sai phái Thầy.
\s5
\v 25 Thầy nói những điều này cho anh em trong lúc Thầy vẫn còn sống giữa anh em.
\v 26 Tuy nhiên, Đấng yên ủi, tức Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhơn danh Thầy sai đến, sẽ dạy anh em mọi việc và nhắc lại cho anh em nhớ mọi điều Thầy đã nói với anh em.
\v 27 Thầy để sự bình an lại cho anh em; Thầy cho anh em sự bình an của Thầy. Thầy không cho anh em sự bình an như trần gian cho. Anh em đừng bối rối, cũng đừng sợ hãi.
\s5
\v 28 Anh em đã nghe Thầy nói: Thầy sẽ ra đi, rồi sẽ quay trở lại với anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em đã vui mừng vì Thầy sẽ về với Cha, bởi Cha lớn hơn Thầy.
\v 29 Thầy đã nói cho anh em biết trước khi việc xảy ra, để khi nó xảy ra thì anh em tin.
\v 30 Thầy sẽ không nói với anh em thêm nhiều nữa, vì kẻ cầm quyền thế giới này sắp đến. Hắn không có quyền gì trên Thầy,
\v 31 nhưng để thế nhân biết rằng Thầy yêu mến Cha, và thực hiện những việc Cha truyền bảo, y như điều răn Ngài ban cho Thầy. Hãy đứng dậy, chúng ta phải rời khỏi nơi này.”
\s5
\c 15
\cl
\p
\v 1 “Thầy là cây nho thật, Cha Thầy là người trồng nho.
\v 2 Cành nào trong Thầy mà không sinh trái thì Ngài chặt bỏ, và Ngài tỉa sạch cành nào sinh trái để kết quả nhiều hơn.
\s5
\v 3 Anh em đã được sạch nhờ sứ điệp mà Thầy truyền dạy.
\v 4 Hãy cứ ở trong Thầy, thì Thầy ở trong anh em. Như cành nho không thể tự nó sanh trái nếu nó không cứ ở trong cây nho, thì anh em cũng vậy, nếu anh em không cứ ở trong Thầy.
\s5
\v 5 Thầy là gốc nho; anh em là cành. Người nào cứ ở trong Thầy, và Thầy trong họ, thì người đó kết nhiều quả, vì ở ngoài Thầy thì anh em không làm gì được.
\v 6 Nếu ai không cứ ở trong Thầy, thì người đó bị quăng ra ngoài giống như cành khô; ngươi ta thu gom những cành đó quăng vào lửa, thì chúng cháy rụi.
\v 7 Nếu anh em cứ ở trong Thầy và lời Thầy cứ ở trong anh em, anh em hãy xin điều mình muốn, thì điều đó sẽ được thực hiện cho anh em.
\s5
\v 8 Nhờ điều này mà Cha Thầy được tôn vinh, đó là: anh em kết quả nhiều và trở nên môn đồ của Thầy.
\v 9 Cha đã yêu thương Thầy thể nào, thì Thầy cũng yêu thương anh em thể ấy; hãy cứ ở trong tình yêu của Thầy.
\s5
\v 10 Nếu anh em giữ điều răn của Thầy, thì anh em sẽ cứ ở trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ điều răn của Cha Thầy và cứ ở trong tình yêu của Ngài.
\v 11 Thầy đã nói những điều này cho anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để niềm vui của anh em được đầy trọn.
\s5
\v 12 Đây là điều răn của Thầy, đó là: anh em phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
\v 13 Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người xả thân vì bạn mình.
\s5
\v 14 Anh em là bạn của Thầy nếu anh em làm những điều Thầy truyền dạy.
\v 15 Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ thì không biết việc chủ mình làm. Mà Thầy đã gọi anh em là bạn, vì Thầy đã tỏ cho anh em mọi việc Thầy nghe nơi Cha Thầy.
\s5
\v 16 Anh em không chọn Thầy, nhưng Thầy đã chọn và lập anh em, để anh em ra đi kết quả, và để trái của anh em được trường tồn. Để rồi điều gì mà anh em nhân danh Thầy cầu xin Cha, thì Ngài ban cho anh em.
\v 17 Thầy truyền bảo anh em những lời này, để anh em yêu thương nhau.
\s5
\v 18 Nếu thế nhân ghét anh em, thì anh em hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước rồi.
\v 19 Nếu anh em thuộc về trần thế thì người đời sẽ yêu anh em như người của họ; nhưng vì anh em không thuộc về trần thế và vì Thầy đã chọn anh em từ giữa trần thế, cho nên người đời ghét anh em.
\s5
\v 20 Hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với anh em: Đầy tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ bức hại Thầy thì họ cũng sẽ bức hại anh em; nếu họ giữ lời Thầy, thì họ cũng sẽ giữ lời của anh em.
\v 21 Vì danh của Thầy, họ sẽ lấy mọi điều này mà đãi anh em, vì họ không biết Đấng sai phái Thầy.
\v 22 Nếu Thầy không đến phán bảo họ thì họ chẳng có tội; nhưng giờ thì họ không có cớ gì để bào chữa tội mình.
\s5
\v 23 Ai ghét Thầy thì cũng ghét Cha Thầy nữa.
\v 24 Nếu Thầy không thực hiện giữa vòng họ những việc mà chẳng có ai khác làm, thì họ đã chẳng mắc tội; nhưng giờ đây họ đã thấy và ghét Thầy lẫn Cha Thầy.
\v 25 Điều này xảy ra để ứng nghiệm lời được chép trong luật pháp của họ, rằng: Họ ghét ta vô cớ.
\s5
\v 26 Khi Đấng Yên Ủi đến, tức Đấng mà Thầy sẽ từ Cha phái đến, là Thần Linh Chân Lý ra từ Cha, thì Ngài sẽ làm chứng về Thầy.
\v 27 Anh em cũng làm chứng nữa vì anh em đã ở với Thầy ngay từ đầu.
\s5
\c 16
\cl
\p
\v 1 “Thầy đã nói những điều này cho anh em, để anh em khỏi vấp ngã.
\v 2 Họ sẽ trục xuất anh em khỏi nhà hội; thật, sẽ đến lúc kẻ giết anh em lại cứ tưởng rằng làm vậy là giúp ích cho Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Họ sẽ làm các việc ấy vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy.
\v 4 Thầy đã nói những điều này cho anh em để đến lúc việc xảy ra, anh em nhớ lại lời Thầy đã báo trước cho anh em như thế nào. Thầy không cho anh em biết những việc này lúc đầu vì lúc đó Thầy đang ở với anh em.
\s5
\v 5 Tuy vậy, giờ thì Thầy đi về với Đấng đã sai phái Thầy; vậy mà chẳng ai trong anh em hỏi: Thầy sẽ đi đâu?
\v 6 Vì Thầy đã nói những điều này cho anh em, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền.
\v 7 Tuy nhiên, Thầy nói thật với anh em: Thầy đi là tốt hơn cho anh em; vì nếu Thầy không đi thì Đấng Yên Ủi sẽ không đến với anh em; còn nếu Thầy đi, thì Thầy sẽ sai phái Ngài đến.
\s5
\v 8 Khi Đấng Yên Ủi đến, Ngài sẽ khiến thế nhân ý thức về tội lỗi, về sự công chính, và về sự phán xét —
\v 9 về tội lỗi vì họ không tin Thầy;
\v 10 về sự công chính vì Thầy đi về với Cha, và anh em sẽ không thấy Thầy nữa;
\v 11 và về sự phán xét vì kẻ cai trị trần gian này đã bị phán xét.
\s5
\v 12 Thầy có nhiều điều để nói với anh em, nhưng bây giờ anh em sẽ không hiểu.
\v 13 Tuy nhiên, khi Thần Linh Chân Lý đến thì Ngài sẽ dẫn anh em vào toàn bộ chân lý; vì Ngài không nói theo ý mình, mà Ngài sẽ nói những điều Ngài được nghe; và Ngài sẽ công bố cho anh em những việc phải xảy ra.
\v 14 Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những điều thuộc về Thầy mà công bố cho anh em.
\s5
\v 15 Mọi sự Cha có đều là của Thầy; cho nên Thầy nói là Đức Thánh Linh sẽ lấy những điều thuộc về Thầy mà công bố cho anh em.
\v 16 Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn thấy Thầy; rồi ít lâu sau anh em sẽ lại thấy Thầy.”
\s5
\v 17 Vậy là có mấy người trong số các môn đồ hỏi nhau: “Thầy nói với chúng ta: Ít lâu nữa anh em sẽ không còn thấy Thầy, rồi nói: Ít lâu sau anh em sẽ lại thấy Thầy, và: Vì Thầy đi về với Cha thế là thế nào?”
\v 18 Họ thắc mắc: “Thầy nói: Ít lâu nữa nghĩa là sao? Chúng ta chẳng hiểu Ngài nói gì cả.”
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu thấy họ nóng lòng muốn hỏi Ngài, nên Ngài Nói với họ: “Phải chăng anh em đang thắc mắc về lời Thầy nói, rằng: Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn thấy Thầy; rồi ít lâu sau đó, anh em sẽ thấy Thầy?
\v 20 Thầy nói thật với anh em, anh em sẽ khóc lóc, than van, còn người đời sẽ vui mừng; anh em sẽ buồn rầu, nhưng sự buồn thảm của anh em sẽ biến thành vui mừng.
\v 21 Người phụ nữ buồn lo trong cơn đau chuyển dạ vì giờ sinh con đã tới; nhưng khi sinh con rồi thì chị không còn nhớ đến cơn đau của mình nữa vì chị vui mừng rằng một đứa bé đã được sinh ra trong đời.
\s5
\v 22 Anh em cũng vậy, hiện anh em đang buồn rầu, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em; rồi lòng anh em sẽ vui mừng, và không ai có thể tước đoạt niềm vui của anh em.
\v 23 Vào ngày đó anh em sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa. Thầy nói thật với anh em, nếu anh em cầu xin Cha điều gì, thì Cha sẽ nhân danh Thầy mà ban cho anh em.
\v 24 Cho đến lúc này, anh em vẫn chưa nhân danh Thầy cầu xin điều gì cả; hãy xin thì anh em sẽ được, để niềm vui của anh em được đầy trọn.
\s5
\v 25 Thầy đã nói những điều này với anh em bằng lối nói khó hiểu, nhưng sẽ đến lúc Thầy không còn nói với anh em bằng ngôn ngữ khó hiểu nữa, mà thay vào đó sẽ nói cho anh em biết rõ ràng về Cha.
\s5
\v 26 Trong ngày đó, anh em sẽ nhân danh Thầy cầu xin, và Thầy không còn nói với anh em Thầy sẽ cầu xin Cha thế cho anh em;
\v 27 vì chính Cha yêu thương anh em bởi anh em đã yêu mến Thầy và bởi anh em đã tin rằng Thầy đến từ Cha.
\v 28 Thầy từ Cha đến, và Thầy đã vào trần gian này; rồi Thầy lại sẽ lìa trần gian trở về với Cha.”
\s5
\v 29 Các môn đồ của Ngài thưa: “Kìa, giờ thì Thầy nói rõ ràng mà không còn dùng ẩn dụ nữa.
\v 30 Bây giờ, chúng tôi biết rằng Thầy biết mọi sự, và Thầy chẳng cần ai hỏi Thầy việc gì. Do vậy, chúng tôi tin rằng Thầy đã từ Đức Chúa Trời đến.”
\v 31 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Bây giờ anh em tin chưa?
\s5
\v 32 Kìa, giờ đến, và thật đã đến rồi, khi anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngã, và anh em sẽ bỏ Thầy một mình. Nhưng Thầy không lẻ loi vì có Cha ở với Thầy.
\v 33 Thầy nói những điều này cho anh em, để anh em có sự bình an trong Thầy. Anh em sẽ bị khốn đốn trong trần thế, nhưng hãy vững lòng: Thầy đã thắng thế gian rồi.”
\s5
\c 17
\cl
\p
\v 1 Chúa Giê-xu nói như vậy rồi, thì Ngài ngước mắt lên trời, thưa: Lạy Cha, giờ đã điểm; xin hãy tôn vinh Con của Cha, để Con ấy cũng tôn vinh Cha
\v 2 như Cha đã ban cho Con ấy quyền trên mọi xác thịt để Con ấy ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã giao cho mình.
\s5
\v 3 Sự sống đời đời đó chính là nhìn biết Cha, Chân Thần duy nhất, và Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng mà Cha sai phái.
\v 4 Con đã tôn vinh Cha trên đất vì đã hoàn tất công việc Cha giao cho Con làm.
\v 5 Giờ đây, Cha ơi, xin hãy tôn vinh Con với chính mình Cha bằng vinh quang mà Con đã có cùng với Cha trước khi tạo lập thế giới.
\s5
\v 6 Con đã tỏ danh Cha cho những người Cha giao cho Con từ trong trần gian. Họ thuộc về Cha; Cha giao họ cho Con, và họ đã tuân giữ lời Cha.
\v 7 Bây giờ, họ biết rằng bất cứ điều gì Cha ban cho Con đều đến từ Cha,
\v 8 vì những lời mà Cha ban cho Con đó thì con đã truyền lại cho họ. Họ đã nhận lấy và thực sự biết rằng Con từ Cha mà đến, và họ tin rằng rằng Cha sai phái Con.
\s5
\v 9 Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế nhân, nhưng cho những người Cha đã giao cho Con, vì họ thuộc về Cha.
\v 10 Mọi điều của Con là của Cha, và những gì của Cha là của Con; Con được tôn vinh nơi họ.
\v 11 Con không ở trần gian nữa, nhưng những người này đang ở trần gian, còn Con về cùng Cha. Lạy Cha Thánh, xin gìn giữ họ trong danh Cha, là danh Cha đã cho Con, để họ hiệp làm một, như chúng ta là một.
\s5
\v 12 Trong khi Con ở với họ, Con giữ họ trong danh Cha, là danh Cha đã cho Con; Con đã bảo vệ họ, và không một ai trong họ chết mất, ngoại trừ đứa con của sự trầm luân, để Kinh Thánh được ứng nghiệm.
\v 13 Giờ đây Con về với Cha, nhưng con nói những điều này để niềm vui của Con được đầy trọn trong họ.
\v 14 Con đã ban cho họ lời Cha; thế nhân đã ghét họ vì họ không thuộc về trần thế, cũng như con không thuộc về trần thế.
\s5
\v 15 Con không cầu xin Cha đem họ ra khỏi trần thế, mà là xin Cha giữ họ khỏi ma quỷ.
\v 16 Họ không thuộc về trần thế cũng như Con không thuộc về trần thế.
\v 17 Xin hãy biệt riêng họ cho Cha bằng chân lý; lời Cha là chân lý.
\s5
\v 18 Cha đã sai Con trong trần gian, và Con đã sai họ trong trần gian.
\v 19 Vì họ mà Con đã biệt riêng chính mình cho Cha, để chính họ cũng được biệt riêng cho Cha trong chân lý.
\s5
\v 20 Con không chỉ cầu xin cho những người này, mà còn cầu xin cho những người nhờ lời họ mà tin Con,
\v 21 để tất cả họ đều hiệp một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Con cầu xin cho họ cũng được ở trong chúng ta, để thế nhân tin rằng Cha đã sai Con.
\s5
\v 22 Vinh quang mà Cha đã cho Con vinh quang ấy Con cũng đã cho họ, để họ hiệp một, như chúng ta là một
\v 23 Con ở trong họ, và Cha ở trong Con, để họ được hiệp nhất trọn vẹn; để thế nhân biết Cha đã sai phái Con, và Cha yêu thương họ cũng như yêu thương Con vậy.
\s5
\v 24 Cha ơi, những người Cha đã giao cho Con Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con, để họ nhìn thấy vinh quang của Con, là vinh quang Cha đã cho Con: vì Cha đã yêu thương Con từ trước khi tạo lập thế giới.
\s5
\v 25 Cha công chính ơi, thế nhân không biết Cha, nhưng Con đã biết Cha; và những người nầy biết rằng Cha đã sai Con đến.
\v 26 Con đã bày tỏ danh Cha cho họ, và Con sẽ còn bày tỏ nữa, để tình yêu mà Cha đã dành cho Con ở trong họ, và chính Con cũng ở trong họ nữa.”
\s5
\c 18
\cl
\p
\v 1 Sau khi Chúa Giê-xu nói những lời này, Ngài đi với các môn đồ sang bên kia thung lũng Kết-rôn; tại đó có một khu vườn, Ngài cùng các môn đồ vào đó.
\v 2 Giu-đa là người sắp phản bội Ngài, cũng biết nơi này, vì Chúa Giê-xu thường đến đây với các môn đồ.
\v 3 Vậy là Giu-đa dẫn một toán lính cùng với những cảnh vệ từ các trưởng tế và người Pha-ri-si đến đó, mang theo đèn, đuốc và khí giới.
\s5
\v 4 Chúa Giê-xu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên Ngài bước tới hỏi họ: “Các ông tìm ai?”
\v 5 Họ trả lời Ngài rằng: “Giê-xu người Na-xa-rét.” Chúa Giê-xu nói với họ: “Chính Tôi đây.” Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng đứng đó với bọn lính.
\s5
\v 6 Khi Ngài nói với họ: “Chính Tôi đây,” thì họ lùi lại và té xuống đất.
\v 7 Rồi Ngài hỏi họ một lần nữa: “Các ông tìm ai?” Họ lại trả lời: “Giê-xu người Na-xa-rét.”
\s5
\v 8 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi đã nói với các ông là chính Tôi đây. Vậy, nếu các ông tìm Tôi, thì hãy để những người khác đi.”
\v 9 Điều này để làm ứng nghiệm lời Ngài đã nói, rằng: “Con không để mất một ai trong những người Cha đã giao cho Con.”
\s5
\v 10 Rồi Si-môn Phi-e-rơ, lúc đó có một thanh gươm, liền rút gươm ra, đánh đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm và chém đứt tai phải của anh nầy. Đầy tớ đó tên là Man-chu.
\v 11 Chúa Giê-xu bảo Phi-e-rơ: “Hãy nạp gươm anh vào vỏ! Chén mà Cha đã ban cho, Thầy lại không uống sao?”
\s5
\v 12 Vậy, toán lính và viên chỉ huy, cùng với các cảnh vệ người Do Thái, bắt Chúa Giê-xu và trói Ngài lại.
\v 13 Trước tiên, họ dẫn Ngài đến An-ne, vì ông này là cha vợ của Cai-phe, thầy thượng tế đương nhiệm của năm đó.
\v 14 Cai-phe chính là người đã cho những người Do Thái lời khuyên rằng nên để một người chết vì toàn dân.
\s5
\v 15 Si-môn Phi-e-rơ đi theo sau Chúa Giê-xu, và một môn đồ khác cũng vậy. Môn đồ đó quen biết với thầy thượng tế, nên đã vào bên trong sân của thầy thượng tế cùng với Chúa Giê-xu.
\v 16 nhưng Phi-e-rơ thì đứng bên ngoài cửa. Vậy nên môn đồ quen biết với thầy tế lễ thượng phẩm đó đi ra nói với cô đầy tớ giữ cửa, rồi đem Phi-e-rơ vào.
\s5
\v 17 Cô đầy tớ nói với Phi-e-rơ: “Chẳng phải ông cũng là một trong những môn đồ của người này sao?” Phi-e-rơ chối: “Đâu có.”
\v 18 Lúc ấy, có các đầy tớ và cảnh vệ đứng đó; vì trời lạnh, họ đốt một đống lửa than để sưởi ấm. Phi-e-rơ cũng đứng đó với họ, và cũng đang sưởi ấm.
\s5
\v 19 Thầy thượng tế hỏi Chúa Giê-xu về môn đồ Ngài và sự dạy dỗ của Ngài.
\v 20 Chúa Giê-xu trả lời ông ta: “Tôi đã giảng dạy công khai trước thiên hạ; Tôi luôn dạy dỗ trong nhà hội và trong đền thờ nơi mọi người Do Thái nhóm họp lại. Tôi chưa phát biểu điều gì lén lút cả.
\v 21 Sao ông lại hỏi Tôi? Hãy hỏi những người đã nghe Tôi để biết Tôi nói gì. Những người ấy biết các lời Tôi phát biểu.”
\s5
\v 22 Khi Chúa Giê-xu nói như vậy thì một trong các cảnh vệ đứng gần đó dùng tay đánh Ngài và hỏi: “Mày dám trả lời thầy thượng tế kiểu đó sao?”
\v 23 Chúa Giê-xu đáp: “Nếu Tôi nói gì xúc phạm thì cứ chỉ rõ ra Tôi xúc phạm chỗ nào? Còn nếu Tôi trả lời phải, thì sao anh lại đánh Tôi?”
\v 24 Rồi An-ne sai giải Chúa Giê-xu vẫn đang bị trói đến thầy thượng tế Cai-phe.
\s5
\v 25 Lúc bấy giờ, Phi-e-rơ đang đứng sưởi ấm. Những người kia nói với ông: “Chẳng phải anh cũng là một trong những môn đồ của hắn sao?” Ông liền chối, rằng: “Làm gì có.”
\v 26 Một trong những đầy tớ của thầy thầy thượng tế, là bà con với người bị Phi-e-rơ chém đứt tai, nói: “Bộ tôi không thấy lúc ông ở trong vườn với hắn sao?”
\v 27 Phi-e-rơ lại chối một lần nữa, tức thì gà gáy.
\s5
\v 28 Rồi họ dẫn Chúa Giê-xu từ chỗ Cai-phe đến dinh tổng đốc. Lúc đó là buổi sáng sớm. Họ không vào trong dinh để khỏi bị ô uế và để có thể ăn Lễ Vượt Qua.
\v 29 Vì vậy, Phi-lát đi ra gặp họ và hỏi “Các ông cáo người này tội gì?”
\v 30 Họ trả lời ông ta: “Nếu hắn không phải là tên gian ác thì chúng tôi không giao nộp cho quan làm gì.”
\s5
\v 31 Vì thế, Phi-lát nói với họ: “Các Chính các ông cứ đem anh ta đi và xử theo luật của các ông ấy.” Người Do Thái đáp lại ông ta: “Chúng tôi không được phép xử tử bất cứ ai.”
\v 32 Họ nói vậy để ứng nghiệm lời Chúa Giê-xu đã nói, tức lời Ngài cho biết Ngài sẽ chết cách nào.
\s5
\v 33 Vậy là Phi-lát vào lại trong dinh và gọi Chúa Giê-xu đến. Ông ta hỏi Ngài: “Có phải anh là vua dân Do Thái không?”
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Tự ý ông hỏi Tôi như vậy, hay có ai khác bảo ông hỏi?”
\v 35 Phi-lát trả lời: “Tôi có phải là người Do Thái đâu? Chính dân tộc anh và các trưởng tế đã giao anh cho tôi kia mà. Anh đã làm gì vậy?”
\s5
\v 36 Chúa Giê-xu đáp: “Vương quốc của Tôi không thuộc về trần gian này. Nếu vương quốc của Tôi thuộc về trần gian, thì tôi tớ của Tôi sẽ chiến đấu để Tôi không bị nộp cho người Do Thái. Thực sự thì vương quốc của Tôi không từ hạ giới.”
\v 37 Phi-lát hỏi Ngài: “Vậy, anh là vua sao?” Chúa Giê-xu đáp: “Chính ông nói Tôi là vua. Lý do Tôi sinh ra, và lý do Tôi đã vào trần gian, ấy là để Tôi xác chứng cho chân lý. Người nào thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi.”
\s5
\v 38 Phi-lát hỏi Ngài: “Chân lý là gì?” Nói xong, ông ta lại đi ra gặp người Do Thái và nói với họ: “Tôi chẳng thấy anh này phạm tội nào cả.
\v 39 Theo thông lệ của các ông thì tôi sẽ phóng thích cho các ông một người tù vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ông có muốn tôi tha Vua của người Do Thái cho các ông không?”
\v 40 Vậy là họ la lên: “Đừng tha gã này, mà hãy tha Ba-ra-ba”. Mà Ba-ra-ba lại là một tên cướp.
\s5
\c 19
\cl
\p
\v 1 Rồi Phi-lát bắt Chúa Giê-xu và đánh đòn Ngài.
\v 2 Bọn lính làm một mão miện bằng gai đội lên đầu Chúa Giê-xu, và lấy áo choàng màu tía mặc cho Ngài.
\v 3 Họ đến bên Ngài và tâu: “Kính chào Vua dân Do Thái!” rồi dùng tay đánh Ngài.
\s5
\v 4 Một lần nữa Phi-lát lại đi ra nói với dân chúng: “Này, tôi đưa anh ta ra để các ông biết rằng tôi chẳng thấy anh ta có tội gì.”
\v 5 Chúa Giê-xu đi ra, đầu đội mão gai, mình mặc áo tía. Phi-lát nói với họ: “Này, anh ta đây!”
\v 6 Khi các trưởng tế và cảnh vệ thấy Chúa Giê-xu, họ la lớn: “Hãy đóng đinh hắn, hãy đóng đinh hắn trên cây thập hình!” Phi-lát bảo họ: “Mấy người hãy tự đem anh ấy đi mà đóng đinh, vì tôi không thấy anh ta có tội gì cả.”
\s5
\v 7 Người Do Thái đáp lại Phi-lát: “Chúng tôi có luật và chiếu theo luật đó hắn phải chết vì hắn tự nhận mình là Con Đức Chúa Trời.”
\v 8 Khi Phi-lát nghe họ phát biểu như vậy thì ông ta càng thêm sợ hãi;
\v 9 ông ta trở vào dinh một lần nữa và hỏi Chúa Giê-xu: “Anh xuất thân từ đâu?” Nhưng Chúa Giê-xu không trả lời ông ta.
\s5
\v 10 Phi-lát nói với Ngài: “Anh không trả lời tôi à? Anh không biết là tôi có quyền phóng thích anh, và cũng có quyền đóng đinh anh trên cây thập tự hay sao?”
\v 11 Chúa Giê-xu đáp đáp lại ông ta: “Ông chẳng có quyền gì đối với Tôi nếu từ trên cao không ban quyền đó cho ông. Cho nên kẻ nộp Tôi cho ông phạm tội nặng hơn.”
\s5
\v 12 Nghe Ngài đáp lại như vậy, Phi-lát tìm cách phóng thích Ngài, nhưng người Do Thái la lớn, rằng: “Nếu ngài thả hắn thì ngài không phải là bạn của Sê-sa: Ai tự xưng mình là vua tức là nói nghịch với Sê-sa.”
\v 13 Khi Phi-lát nghe vậy thì ông ta đưa Chúa Giê-xu ra ngoài và ngồi vào ghế xử án tại chỗ gọi là Ba-vê, trong tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ga-ba-tha.
\s5
\v 14 Lúc đó là ngày chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua, vào khoảng giờ thứ sáu. Phi-lát nói với người Do Thái: “Này, vua của các ông đây!”
\v 15 Họ la lớn lên: “Hãy tống khứ hắn đi, hãy tống khứ hắn đi; hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự!” Phi-lát hỏi họ: “Tôi sẽ đóng đinh vua các người sao?” Các trưởng tế đáp: “Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Sê-sa.”
\v 16 Vậy là Phi-lát giao Chúa Giê-xu cho họ để đóng đinh Ngài.
\s5
\v 17 Họ dẫn Chúa Giê-xu và Ngài đi ra, tự mình vác cây thập tự đến nơi có tên là Cái Sọ, trong tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha.
\v 18 Họ đóng đinh Chúa Giê-xu ở đó, cùng với hai người khác, mỗi bên một người, còn Chúa Giê-xu ở giữa.
\s5
\v 19 Phi-lát cũng viết một tấm bảng rồi gắn lên cây thập hình. Trên đó có dòng chữ: GIÊ-XU NA-XA-RÉT, VUA DÂN DO THÁI.
\v 20 Có nhiều người Do Thái đọc được tấm bảng này vì nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh ở gần thành phố. Bảng được viết bằng tiếng Hy-bá, La-tinh và Hy Lạp.
\s5
\v 21 Các trưởng tế người Do Thái nói với Phi-lát: “Xin đừng viết là Vua dân Do Thái, nhưng hãy viết: “Hắn nói: Ta là vua dân Do Thái.”
\v 22 Phi-lát đáp: “Lời tôi viết thì tôi đã viết rồi.”
\s5
\v 23 Sau khi quân lính đóng đinh Chúa Giê-xu vào cây thập tự rồi, thì chúng lấy y phục của Ngài chia làm bốn phần, mỗi đứa một phần; chúng cũng lấy áo dài của Ngài. Áo dài này là một tấm vải liền từ trên xuống dưới, không có đường may.
\v 24 Vậy nên họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, nhưng hãy bắt thăm xem ai được.” Việc xảy ra như vậy để lời Kinh thánh này được ứng nghiệm: “Họ chia nhau y phục tôi, bắt thăm lấy áo dài tôi.”
\s5
\v 25 Chính bọn lính làm chuyện này. Mẹ Chúa Giê-xu, chị của mẹ Ngài, tức Ma-ri vợ của Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len— các phụ nữ này đứng cạnh cây thập tự của Chúa Giê-xu.
\v 26 Khi Chúa Giê-xu thấy mẹ mình và môn đồ mà Ngài yêu đứng cạnh đó, thì Ngài nói với mẹ: “Thưa bà, đó là con bà!”
\v 27 Rồi Ngài nói với môn đồ kia: “Này anh, đó là mẹ anh!” Từ giờ đó, môn đồ ấy đem bà về nhà mình.
\s5
\v 28 Sau việc này, Chúa Giê-xu biết rằng mọi việc đã hoàn tất, nên, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Ngài nói: “Tôi khát nước.”
\v 29 Ở đó có một cái bình chứa đầy giấm, nên họ lấy một miếng bọt biển nhúng đầy giấm đính vào cành bài hương, rồi đưa đến miệng Ngài.
\v 30 Nếm giấm ấy xong, Chúa Giê-xu nói: “Xong rồi!” Rồi Ngài gục đầu xuống, trút linh hồn.
\s5
\v 31 Hôm ấy là ngày chuẩn bị, và sợ các thây vẫn còn treo trên cây thập hình trong ngày Sa-bát (vì ngày Sa-bát đó rất quan trọng), nên người Do Thái yêu cầu Phi-lát cho đánh gãy ống chân những người bị xử tử, và hạ xác họ xuống.
\v 32 Vậy, lính đến đánh gãy ống chân của người thứ nhất, rồi người thứ hai, tức những người bị đóng đinh cùng với Chúa Giê-xu.
\v 33 Khi đến chỗ Chúa Giê-xu, họ thấy Ngài đã chết rồi, nên không đánh gãy chân Ngài.
\s5
\v 34 Nhưng có một tên lính lấy giáo đâm ngang sườn Ngài, tức thì máu và nước trào ra.
\v 35 Chính nhân chứng tận mắt làm chứng về việc này, và lời chứng của người đó là xác thực. Anh biết những gì mình nói là thật, để các người cũng tin.
\s5
\v 36 Những điều nầy xảy ra để làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh, rằng: “Chẳng một xương nào của Ngài sẽ bị gãy.”
\v 37 Lại có lời Kinh thánh nầy nữa: “Họ sẽ nhìn xem người mà mình đã đâm.”
\s5
\v 38 Sau những việc này, Giô-sép người A-ri-ma-thê, một môn đồ nhưng âm thầm theo Chúa Giê-xu vì sợ người Do Thái, đến xin Phi-lát cho nhận thi hài của Chúa Giê-xu. Phi-lát chấp thuận. Vậy, Giô-sép đến và mang thi hài của Ngài đi.
\v 39 Ni-cô-đem cũng đến; ông là người trước đây đã gặp Chúa Giê-xu trong ban đêm. Ông đem theo khoảng một trăm cân mộc dược trộn với lô hội.
\s5
\v 40 Họ lấy thi hài của Chúa Giê-xu và dùng vải lanh tẩm thuốc thơm quấn lại như phong tục liệm xác của người Do Thái.
\v 41 Tại nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh có một khu vườn; và trong khu vườn đó có một ngôi mộ mới, chưa chôn ai.
\v 42 Vì hôm ấy là ngày chuẩn bị của người Do Thái, và ngôi mộ ấy ở gần, nên họ đã đặt Chúa Giê-xu vào đó.
\s5
\c 20
\cl
\p
\v 1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, Ma-ri Ma-đơ-len đến mộ; cô thấy tảng đá đã được lăn đi khỏi ngôi mộ.
\v 2 Vậy, cô chạy đi gặp Si-môn Phi-e-rơ cùng môn đồ kia, là người Chúa Giê-xu yêu, và nói: “Người ta đã dời Chúa khỏi mộ, không biết họ để Ngài ở đâu?”
\s5
\v 3 Phi-e-rơ và môn đồ kia bước ra đi đến mộ.
\v 4 Cả hai người cùng chạy; môn đồ kia chạy nhanh hơn Phi-e-rơ và đến mộ trước.
\v 5 Anh cúi xuống nhìn vào và thấy các mãnh vải lanh nằm đó, nhưng không bước vào bên trong.
\s5
\v 6 Si-môn Phi-e-rơ đến sau anh, bước vào mộ. Ông thấy vải lanh nằm đó,
\v 7 và cả khăn quấn đầu Ngài nữa. Tấm khăn không nằm chung với vải lanh, nhưng được quấn lại đặt riêng một chỗ.
\s5
\v 8 Rồi môn đồ kia, tức người đã đến mộ trước, cũng vào theo; anh thấy và tin.
\v 9 Vì cho đến lúc đó họ vẫn chưa hiểu Kinh Thánh dạy rằng Chúa Giê-xu phải từ cõi chết sống lại.
\v 10 Rồi hai môn đồ lại trở về nhà.
\s5
\v 11 Nhưng Ma-ri thì đứng bên ngoài mộ mà khóc; khi khóc, cô cúi xuống nhìn vào trong mộ.
\v 12 Cô thấy hai thiên sứ mặc áo trắng đang ngồi, một ở phía đầu, một ở phía chân, chỗ đặt thi thể của Chúa Giê-xu.
\v 13 Hai thiên sứ hỏi cô: “Chị kia, sao chị khóc?” Cô trả lời họ: “Vì người ta đã đem Chúa tôi đi mất, và tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu.”
\s5
\v 14 Khi nói như vậy, cô quay lại và thấy Chúa Giê-xu đứng đó, nhưng không biết đó là Chúa Giê-xu.
\v 15 Chúa Giê-xu nói với cô: “Chị kia, sao chị khóc? Chị tìm ai?” Tưởng đó là người làm vườn, nên cô đáp lại: “Thưa ông, nếu ông đã dời Ngài đi, xin cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, rồi tôi sẽ đến đem về.”
\s5
\v 16 Chúa Giê-xu gọi cô: “Ma-ri.” Cô quay lại và thưa với Ngài bằng tiếng A-ram: “Ra-bi,” nghĩa là: “Thầy”.
\v 17 Chúa Giê-xu nói với cô: “Đừng chạm vào Thầy, vì Thầy chưa lên cùng Cha; nhưng hãy đi đến các anh em của chị và nói với họ rằng Thầy sẽ lên cùng Cha Thầy và Cha của anh em, Chúa của Thầy và Chúa của anh em.”
\v 18 Ma-ri Ma-đơ-len đi nói với các môn đồ rằng: “Tôi đã thấy Chúa,” và cho biết Ngài đã nói các lời đó với cô.
\s5
\v 19 Vào tối ngày hôm đó, tức ngày thứ nhất trong tuần, trong khi các cửa chỗ các môn đồ đều đóng vì sợ những người Do Thái, thì Chúa Giê-xu đến đứng ngay giữa họ, rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em.”
\v 20 Khi nói xong, Ngài cho họ xem hai tay và sườn của mình. Khi các môn đồ thấy Chúa, họ đều vui mừng.
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu lại nói với họ: “Bình an cho anh em. Như Cha đã sai phái Thầy thể nào thì Thầy cũng sai phái anh em thể ấy.”
\v 22 Khi Chúa Giê-xu nói lời này, Ngài hà hơi trên họ và bảo: “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh.
\v 23 Anh em tha tội cho ai thì tội của họ được tha; còn anh em cầm tội ai lại thì tội họ bị cầm lại.”
\s5
\v 24 Thô-ma, một trong mười hai môn đệ, được gọi là Đi-đim, không có mặt với các môn đồ khi Chúa Giê-xu đến.
\v 25 Các môn đồ khác sau đó nói với ông: “Chúng tôi đã thấy Chúa.” Ông đáp lại họ: “Nếu tôi không thấy dấu đinh trên tay Ngài, không đặt ngón tay tôi vào dấu đinh, không chạm tay tôi vào sườn của Ngài, thì tôi không tin.”
\s5
\v 26 Tám ngày sau các môn đồ lại ở trong nhà, có Thô-ma ở đó với họ. Trong khi các cửa đều đóng, thì Chúa Giê-xu đến đứng giữa họ, và nói: “Bình an cho anh em.”
\v 27 Rồi Ngài bảo Thô-ma: “Hãy đặt ngón tay anh vào đây, và xem bàn tay Thầy; cũng hãy lấy tay anh đặt vào sườn Thầy đây; đừng vô tín nhưng hãy tin.”
\s5
\v 28 Thô-ma đáp lại Ngài, rằng: “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi.”
\v 29 Chúa Giê-xu nói với ông: “Bởi vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin. Phước cho những người chưa thấy mà tin.”
\s5
\v 30 Chúa Giê-xu còn làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đồ mà không được ghi chép trong sách này;
\v 31 nhưng các việc này được ghi lại để các người tin rằng Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, và để khi các người tin thì nhờ danh Ngài mà được sự sống.
\s5
\c 21
\cl
\p
\v 1 Sau các việc này, Chúa Giê-xu lại tỏ mình ra cho các môn đồ tại Biển Ti-bê-ri-át; Ngài tỏ mình ra như thế này:
\v 2 Si-môn Phi-e-rơ đang có mặt với Thô-ma, gọi là Đi-đim; Na-tha-na-ên, người Ca-na trong xứ Ga-li-lê; các con trai của Xê-bê-đê; và hai môn đồ khác của Ngài.
\v 3 Si-môn Phi-e-rơ nói với họ: “Tôi đi đánh cá đây.” Họ đáp lại ông: “Chúng tôi cũng sẽ đi với anh.” Họ ra đi, xuống thuyền, nhưng cả đêm đó họ không bắt được gì.
\s5
\v 4 Khi trời rạng sáng, Chúa Giê-xu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đồ không nhận ra đó là Chúa Giê-xu.
\v 5 Chúa Giê-xu hỏi họ: “Này các chú, có gì ăn không?” Họ trả lời Ngài: “Không.”
\v 6 Ngài bảo họ: “Hãy quăng lưới bên phải thuyền, thì các chú sẽ thấy cá.” Họ quăng lưới như Ngài bảo, nhưng không thể kéo lưới lên vì có rất nhiều cá.
\s5
\v 7 Môn đồ Chúa Giê-xu yêu nói với Phi-e-rơ: “Chúa đó.” Khi Si-môn Phi-e-rơ nghe đó là Chúa, thì ông lấy áo ngoài khoác lên mình (vì lúc đó ông ăn mặc rất sơ sài) rồi nhảy xuống biển.
\v 8 Các môn đồ kia theo vào bờ trên thuyền (vì họ không ở xa bờ, chỉ cách khoảng một trăm mét thôi), và họ kéo theo chiếc lưới đầy cả.
\v 9 Khi lên bờ, họ thấy tại đó có đám lửa than với cá đang nướng ở trên, và có bánh nữa.
\s5
\v 10 Chúa Giê-xu bảo họ: “Hãy đem đến đây một ít cá mà anh em mới bắt đó.”
\v 11 Khi ấy Phi-e-rơ đi lên và kéo lưới vào bờ, đầy ắp cá, có đến một trăm năm mươi ba con; mặc dù có nhiều cá như vậy, nhưng lưới không bị rách.
\s5
\v 12 Chúa Giê-xu nói với họ: “Hãy lại ăn sáng”. Không một môn đồ nào dám hỏi: “Ngài là ai?” Họ biết đó là Chúa.
\v 13 Chúa Giê-xu đến lấy bánh và cá đưa cho họ.
\v 14 Đây là lần thứ ba Chúa Giê-xu bày tỏ mình cho các môn đồ sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
\s5
\v 15 Sau khi họ ăn sáng xong, Chúa Giê-xu hỏi Si-môn Phi-e-rơ: “Này, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy hơn những người này chăng?” Phi-e-rơ đáp: “Vâng, có, thưa Chúa; Ngài biết rằng tôi yêu Ngài.” Chúa Giê-xu nói với ông: “Hãy chăm nuôi các chiên con của Thầy.”
\v 16 Ngài lại hỏi ông lần thứ hai: “Này, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy không?” Phi-e-rơ trả lời Ngài: “Vâng, có, thưa Chúa; Ngài biết rằng tôi yêu Ngài.” Chúa Giê-xu nói với ông: “Hãy chăn chiên của Thầy.”
\s5
\v 17 Ngài lại hỏi ông lần thứ ba: “Này, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy không?” Phi-e-rơ buồn rầu vì Chúa Giê-xu đã hỏi mình đến ba lần: “Anh có yêu Thầy không?” Ông thưa với Ngài: “Lạy Chúa, Ngài biết hết mọi việc; Ngài biết rằng tôi yêu Ngài.” Chúa Giê-xu nói với ông: “Hãy chăm nuôi chiên của Thầy.”
\v 18 Thầy nói thật với anh, khi anh còn trẻ, anh tự mình mặc đồ và muốn đi đâu cũng được; nhưng khi anh đã già thì anh sẽ đưa tay ra để người khác mặc đồ cho mình và đưa mình đến nơi mình không muốn đi.”
\s5
\v 19 Ngài nói điều nầy để chỉ về cách Phi-e-rơ sẽ chết để tôn vinh Đức Chúa Trời. Nói mấy lời này xong, Ngài bảo ông: “Hãy theo Thầy.”
\s5
\v 20 Phi-e-rơ quay lại, thấy môn đồ Chúa Giê-xu yêu đang đi theo sau đây là người trong bữa ăn tối đã dựa vào ngực Chúa Giê-xu, rồi hỏi: “Thưa Chúa, ai là kẻ phản Ngài?”
\v 21 Khi thấy anh, Phi-e-rơ hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, còn chú này sẽ thế nào?”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu đáp: “Nếu Thầy muốn chú ấy đợi cho tới lúc Thầy đến thì can hệ gì đến anh? Anh hãy theo Thầy.”
\v 23 Vậy là có lời đồn giữa vòng các anh em rằng môn đồ đó sẽ không chết. Nhưng Chúa Giê-xu đâu có nói với Phi-e-rơ rằng môn đồ đó sẽ không chết, mà chỉ nói: “Nếu Thầy muốn chú ấy đợi cho tới lúc Thầy đến thì can hệ gì đến anh”đó thôi.
\s5
\v 24 Chính môn đồ ấy làm chứng về những việc nầy; anh đã ghi chép lại các việc ấy, và chúng ta biết lời chứng của anh là xác thực.
\v 25 Chúa Giê-xu còn làm nhiều việc khác nữa. Nếu cứ ghi chép hết từng việc, thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không thể chứa hết những sách được viết ra.