3568 lines
254 KiB
Plaintext
3568 lines
254 KiB
Plaintext
\id ISA
|
||
\ide UTF-8
|
||
\h Isaiah
|
||
\toc1 Isaiah
|
||
\toc2 Isaiah
|
||
\toc3 isa
|
||
\mt Isaiah
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 1
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Khải tượng mà Ê-sai con trai A-mốt đã thấy liên quan đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong thời các vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia của nước Giu-đa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Hỡi các tầng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; vì Giê-hô-va phán: “Ta đã nuôi nấng và dưỡng dục con cái, nhưng chúng lại phản loạn với Ta.
|
||
\v 3 Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, nhưng Y-sơ-ra-ên không biết, Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Khốn cho đất nước phạm tội, một dân tộc trĩu nặng lỗi lầm, dòng giống của kẻ làm dữ, những đứa con làm chuyện đồi bại! Chúng đã từ bỏ Giê-hô-va, chúng đã khinh dễ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, chúng đã xa lánh Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì sao các ngươi vẫn còn chịu bị đánh? Vì sao các ngươi lại cứ mãi phản loạn? Cả cái đầu đều ốm, cả tấm lòng đều yếu mỏn.
|
||
\v 6 Từ gang bàn chân cho đến đỉnh đầu chẳng có chỗ nào không bị tổn thương; chỉ toàn là thương tích, vết bầm, và vết thương mới còn để hở; chúng vẫn chưa được rịt lại, chưa được rửa sạch, chưa được băng bó, chưa được bôi dầu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Xứ sở các ngươi bị tàn hại; thành quách các ngươi bị đốt cháy; ruộng đồng các ngươi thì — những kẻ xa lạ hủy phá chúng ngay trước mặt các ngươi — bị bỏ phế, bị người ngoại quốc phá sạch.
|
||
\v 8 Con gái Si-ôn bị bỏ lại như túp lều trong vườn nho, như nhà kho trong vườn dưa, như thành bị vây hãm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Nếu Giê-hô-va của các đạo binh không chừa cho chúng ta một ít người sót lại thì chúng ta đã giống như Sô-đôm, chúng ta đã giống như Gô-mô-rơ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hỡi giới cai trị Sô-đôm, hãy nghe lời Giê-hô-va; hỡi dân chúng Gô-mô-rơ, hãy lắng tai nghe luật pháp của Đức Chúa Trời chúng ta:
|
||
\v 11 Giê-hô-va phán: “Muôn vàn sinh tế của các ngươi có ý nghĩa gì đối với Ta? Ta đã chán ngấy các của lễ thiêu bằng chiên đực, và mỡ của thú được vỗ béo; Ta cũng chẳng vui thích máu của bò đực, chiên con hoặc dê.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi các ngươi đến ra mắt Ta, ai đòi các ngươi phải làm vậy, để rồi giẫm đạp lên sân đền của Ta?
|
||
\v 13 Hãy thôi đem các của lễ vô nghĩa đó đi; Ta ghê tởm mùi hương rồi; còn các cuộc nhóm họp vào ngày trăng mới và ngày Sa-bát — Ta không chịu được các dịp hội họp đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ta ghét ngày trăng mới cùng các lễ hội đã được ấn định của các ngươi; chúng chỉ là gánh nặng đối với Ta; Ta đã chán chê chúng rồi.
|
||
\v 15 Cho nên khi các ngươi giơ tay cầu nguyện, thì Ta che mắt lại; cho dù các ngươi có dâng lên nhiều lời cầu khẩn thì Ta cũng chẳng nghe; tay các ngươi đã vấy máu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hãy tắm rửa và làm sạch mình đi; hãy loại bỏ các việc ác của các ngươi khỏi trước mặt Ta; hãy thôi làm dữ;
|
||
\v 17 hãy học làm lành; hãy tìm kiếm sự công bình, giúp đỡ người bị áp bức, cư xử công bình với kẻ côi cút, bênh vực giới quả phụ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Giê-hô-va phán: “Hãy đến, rồi chúng ta cùng nhau tranh luận; dầu tội lỗi các ngươi như hồng điều cũng sẽ trắng như tuyết; dầu nó có như màu đỏ thẳm thì cũng sẽ giống như lông chiên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Nếu các ngươi sẵn lòng và vâng lời thì các ngươi sẽ được ăn vật tốt của xứ.
|
||
\v 20 Nhưng nếu các ngươi từ chối và nổi loạn thì gươm sẽ ăn nuốt các ngươi,” vì miệng của Giê-hô-va đã phán lời ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Thể nào thành trung tín đã trở thành gái điếm! Lúc trước nó thật công bình — nó vốn công chính, nhưng giờ thì nó toàn là bọn sát nhân.
|
||
\v 22 Bạc các ngươi đầy tạp chất, rượu ngươi bị lẫn với nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Giới quan tướng các ngươi là kẻ phản nghịch và bạn của kẻ trộm; ai cũng thích được hối lộ và tìm kiếm của đút lót. Chúng không bênh vực kẻ côi cút, lời khẩn xin của quả phụ cũng chẳng đến được trước mặt chúng nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Vậy nên đây là tuyên bố của Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Năng Quyền của Y-sơ-ra-ên: “Bất hạnh thay cho chúng nó! Ta sẽ báo thù các cừu địch Ta, và báo trả các kẻ thù mình;
|
||
\v 25 Ta sẽ trở tay chống lại ngươi, luyện lọc hết cặn bã của ngươi, và cất đi mọi tội lỗi ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ta sẽ lập lại các quan xử án ngươi giống như lúc trước, phục hồi lại các trạng sư của ngươi như lúc ban đầu; sau đó ngươi sẽ được gọi là thành công chính, thị trấn trung tín.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Si-ôn sẽ được chuộc bởi sự công bình, những kẻ biết ăn năn của nó sẽ được cứu bởi sự công chính.
|
||
\v 28 Kẻ phản loạn cùng kẻ phạm tội sẽ cùng bị tiêu diệt, và kẻ lìa bỏ Giê-hô-va sẽ bị trừ khử.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 “Vì ngươi sẽ xấu hổ về các cây sồi linh thiêng mình ước muốn, ngươi sẽ bị mất mặt vì những khu vườn mình đã chọn.
|
||
\v 30 Vì ngươi sẽ như cây sồi khô lá, như khu vườn thiếu nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Người mạnh sức sẽ như bùi nhùi, công việc nó giống như tia lửa; cả hai sẽ cùng cháy mà chẳng ai dập tắt được.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 2
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Những điều Ê-sai con trai A-mốt đã thấy trong một khải tượng, về nước Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 2 Vào những ngày về sau này, núi của nhà Giê-hô-va sẽ được lập cao hơn tất cả các núi, và sẽ được tôn cao lên trên các đồi; tất cả các dân sẽ đổ về đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Nhiều dân sẽ đến nói: “Hãy đến, chúng ta sẽ đi lên núi của Giê-hô-va, lên nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp, để Ngài dạy chúng ta một số đường lối Ngài, rồi chúng ta bước đi trong các nẻo Ngài.” Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời của Giê-hô-va ra từ Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Ngài sẽ phân xử giữa các quốc gia và sẽ đưa ra phán quyết cho nhiều dân tộc; họ sẽ lấy gươm của họ rèn thành lưỡi cày, và lấy cái giáo rèn thành lưỡi liềm; nước này sẽ không vung gươm chống lại nước kia, cũng không còn luyện tập chinh chiến nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Hỡi nhà Gia-cốp, hãy đến, chúng ta sẽ bước đi trong ánh sáng của Giê-hô-va.
|
||
\v 6 Vì Chúa đã từ bỏ dân Ngài, là nhà của Gia-cốp, do họ đầy dẫy các thói tục từ đông phương, làm những người giải điềm như dân Phi-li-tin, và giao kết với con cái người ngoại quốc.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Xứ chúng đầy bạc, vàng, và của cải chúng thì vô kể; xứ chúng cũng đầy dẫy ngựa, còn xe ngựa thì vô số.
|
||
\v 8 Xứ chúng cũng đầy dẫy tượng thần; chúng phụng thờ sản phẩm của chính tay mình, những thứ do chính các ngón tay chúng tạo ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Con người ta sẽ phải cúi mình, các cá nhân sẽ suy vi; vậy nên đừng chấp nhận họ.
|
||
\v 10 Hãy đi vào những nơi có đá và ẩn mình trong đất mà tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài.
|
||
\v 11 Trong ngày đó, cái nhìn cao kỳ của người ta sẽ bị hạ xuống, lòng kiêu ngạo của con người sẽ bị hạ bệ, và chỉ có Giê-hô-va được tôn lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vì sẽ có một ngày Giê-hô-va của các đạo binh sẽ chống lại mọi kẻ kiêu ngạo và lên mình, cùng mọi kẻ ngạo mạn, và họ sẽ bị hạ xuống —
|
||
\v 13 cùng mọi cây bá hương của Li-ban cao kỳ và lên mình, cùng mọi cây sồi của Ba-san,
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 cùng mọi ngọn núi cao, cùng mọi quả đồi ngạo nghễ,
|
||
\v 15 cùng mọi ngọn tháp cao, cùng mọi tường thành kiên cố,
|
||
\v 16 cùng mọi tàu bè Ta-rê-si, cùng mọi thuyền buồm đẹp đẽ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Lòng kiêu ngạo của người ta sẽ bị hạ xuống, tính cao kỳ của con người sẽ đổ sập; chỉ Giê-hô-va được tôn lên trong ngày đó.
|
||
\v 18 Tượng thần sẽ hoàn toàn qua đi.
|
||
\v 19 Người ta sẽ vào trong các hang đá, vào các hầm dưới đất để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va, cùng vẻ rực rỡ của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài trổi dậy để làm khiếp hãi đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Trong ngày đó, người ta sẽ cất bỏ các tượng thần bằng bạc, bằng vàng mà họ đã làm ra cho mình để phụng thờ — họ sẽ ném chúng cho chuột chũi và dơi.
|
||
\v 21 Người ta sẽ vào hang đá và vào kẽ đá để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài chỗi dậy để làm kinh hãi đất.
|
||
\v 22 Hãy thôi nhờ cậy con người, là loài có hơi sống trong lỗ mũi, vì những gì họ làm có được gì đâu?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 3
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Này, Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh sắp rút đi trụ chống đỡ lẫn cây trượng khỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, tức toàn bộ nguồn cung cấp bánh, mọi nguồn cung cấp nước,
|
||
\v 2 trang anh hùng, người chiến binh, quan xử án, nhà tiên tri, kẻ giải điềm, trưởng lão;
|
||
\v 3 quan cai đội, thân hào, mưu sĩ, nghệ nhân, thuật sĩ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 “Ta sẽ cắt đặt các thanh niên lãnh đạo họ, và giới trẻ sẽ cai trị họ.
|
||
\v 5 Dân chúng bị áp bức, người này áp bức người kia, láng giềng áp bức lẫn nhau; trẻ con sẽ lên mặt xem thường người cao tuổi, kẻ chẳng ra gì sẽ thách thức người đáng kính.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Người ta thậm chí nắm lấy người anh em trong nhà cha mình và nói: ‘Người còn áo choàng; hãy cai quản chúng tôi, và giải quyết tình trạng tồi tệ này.’
|
||
\v 7 Trong ngày đó, người kia sẽ lớn tiếng bảo: ‘Tôi không cứu chữa được đâu; tôi chẳng còn bánh hoặc quần áo gì cả. Các ngươi đừng chọn tôi lãnh đạo dân chúng.'
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Vì Giê-ru-sa-lem bị tan hoang, Giu-đa đã sụp đổ, vì lời nói lẫn việc làm của chúng chống nghịch lại Giê-hô-va, xem thường thẩm quyền rất lớn của Ngài.
|
||
\v 9 Vẻ mặt của chúng làm chứng chống lại chúng; chúng nói về tội lỗi mình chẳng khác nào Sô-đôm, chẳng cần giấu giếm. Bất hạnh thay cho chúng! Vì chúng đã tự chuốc lấy thảm họa cho mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hãy nói cho người công chính biết họ sẽ bình an vô sự; vì người sẽ ăn trái của việc mình làm.
|
||
\v 11 Bất hạnh thay cho kẻ ác! Hắn sẽ không được hanh thông, vì hắn sẽ nhận lấy những gì tay hắn đã gây ra.
|
||
\v 12 Ôi dân Ta — trẻ con áp chế chúng, phụ nữ cai trị chúng. Hỡi dân Ta, giới lãnh đạo dẫn dắt các người đi lạc lối, khiến các người bị lầm đường.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Giê-hô-va trỗi dậy để xét xử; Ngài chờ dậy để xét đoán dân Ngài.
|
||
\v 14 Giê-hô-va sẽ tuyên phạt giới trưởng lão và các quan chức trong dân Ngài: “Các ngươi đã ăn sạch vườn nho; đồ cưỡng chiếm của dân nghèo ở trong nhà các ngươi.
|
||
\v 15 Sao các ngươi chèn ép dân Ta và áp bức người nghèo khó?” Đó là tuyên bố của Chúa, là Giê-hô-va của các đạo binh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Giê-hô-va phán các con gái Si-ôn kiêu kỳ, bước đi đầu ngẫng cao, liếc mắt đưa tình, dáng đi ỏng ẹo, chân khua lẻng kẻng.
|
||
\v 17 Vậy nên Chúa sẽ khiến đầu của con gái Si-ôn đóng vảy bệnh, và Giê-hô-va sẽ khiến chúng bị hói.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Trong ngày đó, Chúa sẽ lột hết nữ trang đẹp đẽ trên mắt cá chúng nó, cùng với đồ cài tóc, các món trang sức hình lưỡi liềm,
|
||
\v 19 bông tai, vòng đeo tay, khăn voan; khăn
|
||
\v 20 trùm đầu, chuyền mắt cá, thắt lưng, hộp hương, và bùa may mắn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Ngài sẽ lột mất nhẫn và đá quý đeo mũi;
|
||
\v 22 áo hội hè, áo khoác, mạng che mặt, túi xách;
|
||
\v 23 gương soi, đồ bằng vải lanh mỏng, vật đội đầu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sẽ có mùi hôi thay vì hương thơm; dây thừng thay vì nịt lưng; hói đầu thay vì tóc kiểu; vải thô quấn mình thay vì áo choàng; dấu sắt nung thay vì vẻ đẹp.
|
||
\v 25 Giới nam nhi các ngươi sẽ ngã chết vì gươm, những kẻ trai tráng các ngươi sẽ tử trận.
|
||
\v 26 Các cổng Giê-ru-sa-lem sẽ than vãn, khóc thương; nó sẽ ngồi trơ trọi một mình dưới đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 4
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong ngày đó bảy phụ nữ sẽ nắm lấy một người đàn ông và bảo: “Bọn em sẽ tự lo bánh ăn, tự sắm đồ mặc, chỉ cần cho chúng em mang danh của anh để khỏi bị xấu hổ.”
|
||
\v 2 Trong ngày đó, nhánh của Giê-hô-va sẽ đẹp đẽ và rực rỡ, trái cây trong xứ thì ngon ngọt và thú vị đối với những kẻ sống sót tại Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Khi đó, ai còn sót lại tại Si-ôn, ai còn ở lại Giê-ru-sa-lem, sẽ được gọi là thánh, tức mọi kẻ được ghi nhận đang sống tại Giê-ru-sa-lem,
|
||
\v 4 khi Chúa đã rửa sạch sự ô uế của các con gái Si-ôn, và thanh tẩy các vết máu khỏi giữa vòng Giê-ru-sa-lem, bởi thần linh công bình, bởi thần linh thiêu đốt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Rồi Giê-hô-va sẽ phủ lên toàn vùng núi Si-ôn cùng chỗ nhóm hội của nó mây với khói vào ban ngày, ngọn lửa soi sáng vào ban đêm; một cái vòm che phủ mọi vinh quang.
|
||
\v 6 Nó sẽ là chỗ trú nóng làm bóng che ban ngày, nơi ẩn náu được bảo vệ khỏi bão táp, mưa sa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 5
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hãy để ta hát tặng người rất yêu dấu ta, một bài ca của bạn yêu dấu ta về vườn nho người. Bạn rất yêu dấu của ta có một vườn nho trên một ngọn đồi mầu mỡ.
|
||
\v 2 Người đào xới, dọn sạch sỏi đá, rồi trồng lên đó giống nho thượng hảo hạng. Người xây một cái tháp ngay chính giữa vườn, và cũng xây một bàn ép rượu. Người trông đợi nó sẽ sinh ra trái nho tốt, nhưng nó lại sinh trái nho dại.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Thế thì giờ đây, hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa, hãy phân xử giữa Ta và vườn nho Ta.
|
||
\v 4 Còn điều gì có thể làm được cho vườn nho Ta mà Ta chưa làm cho nó chăng? Vì sao khi Ta trông mong nó sinh trái nho ngon thì nó lại sinh trái nho dại?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Bây giờ Ta sẽ cho các ngươi biết việc Ta sẽ làm cho vườn nho mình; Ta sẽ bứng hàng rào đi; Ta sẽ biến nó thành đồng cỏ; Ta sẽ phá sập tường nó, và nó sẽ bị người ta giẫm đạp lên.
|
||
\v 6 Ta sẽ bỏ hoang nó, và nó sẽ không được cắt tỉa, cuốc xới. Rồi tầm xuân và gai gốc sẽ mọc lên; Ta cũng sẽ ban lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống trên nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vì vườn nho của Giê-hô-va chính là nhà Y-sơ-ra-ên, và người của Giu-đa là cây mà Ngài ưa thích; Ngài trông đợi sự công bình nhưng thay vào đó lại có giết chóc; Ngài trông đợi sự công chính, nhưng thay vào đó là tiếng kêu cứu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Bất hạnh thay cho kẻ thêm nhà vào nhà, thêm ruộng vào ruộng, cho đến khi chẳng còn chỗ, và chỉ còn lại mình ở trong xứ!
|
||
\v 9 Giê-hô-va của các đạo binh đã cho ta biết là nhiều ngôi nhà sẽ trống trơn chẳng có ai ở, kể cả những ngôi nhà to lớn, nguy nga.
|
||
\v 10 Vì mười mẫu vườn nho sẽ chỉ sinh được một vại, và một ô-me hạt giống chỉ sinh được một ê-pha.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Bất hạnh thay cho những kẻ thức dậy lúc sáng sớm để tìm đến thức uống say, nấn ná đến tối cho đến khi rượu đốt cháy mình!
|
||
\v 12 Chúng tiệc tùng với đàn hạt, đàn luýt, trống lắc, sáo và rượu, nhưng lại không nhận biết công việc của Giê-hô-va, chẳng suy xét các việc tay Ngài làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Cho nên dân ta đã bị lưu đày vì thiếu trí hiểu; giới lãnh đạo chúng nó phải nhịn đói, còn dân chúng thì chịu khát.
|
||
\v 14 Vì vậy sự chết càng thèm khát hơn và đã há miệng thật lớn; thành phần ưu tú, dân chúng, giới lãnh đạo, các tay ăn chơi và những kẻ sung sướng giữa vòng họ đều xuống âm phủ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Người ta bị hạ bệ, kẻ quyền thế bị hạ xuống, mắt cao kỳ bị đánh hạ.
|
||
\v 16 Giê-hô-va của các đạo binh được tôn lên trong sự công bình Ngài, và Đức Chúa Trời là Đấng Thánh cho thấy Ngài là thánh bởi sự công chính của Ngài.
|
||
\v 17 Rồi chiên sẽ ăn như ăn trong đồng cỏ mình, chiên con sẽ gặm cỏ trong chốn hoang tàn của kẻ giàu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Bất hạnh thay cho kẻ dùng dây kiêu căng kéo theo việc sai trái mình, dùng dây kéo xe kéo theo tội lỗi mình;
|
||
\v 19 là kẻ nói: “Đức Chúa Trời hãy mau đi, Chúa hãy sớm hành động đi, để chúng tôi thấy việc xảy ra; nguyện các chương trình của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên thành hình và được thực hiện để chúng tôi biết chúng ra sao!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Bất hạnh thay cho kẻ gọi dữ là lành, lành là dữ; xem tối là sáng, sáng là tối; xem đắng là ngọt, ngọt là đắng!
|
||
\v 21 Bất hạnh thay cho kẻ khôn ngoan theo mắt mình, kẻ khôn khéo theo sự hiểu biết riêng của mình!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Bất hạnh thay cho kẻ giỏi uống rượu, có tài pha thức uống say;
|
||
\v 23 nhận tiền để miễn tội cho kẻ ác, và tước đoạt quyền của người vô tội!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Vì vậy, như ngọn lửa thiêu nuốt gốc rạ, như cỏ khô cháy rụi trong lửa thì cũng vậy, rễ chúng sẽ mục rữa, và hy vọng của chúng cũng bay đi như tro bụi, vì chúng đã khước từ luật pháp của Giê-hô-va của các đạo binh và khinh dễ lời Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vậy nên cơn giận của Giê-hô-va nổi lên cùng dân Ngài, và Ngài đã đưa tay ra nghịch lại họ, trừng phạt họ; các núi run rẩy và các thây họ khác nào rác rưởi trên đường phố. Dầu vậy, cơn giận của Ngài vẫn không nguôi đi, Ngài vẫn giáng tay lên để đánh họ nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ngài sẽ giương lên một cờ hiệu cho một dân ở xa và sẽ huýt sáo gọi chúng từ tận cùng trái đất. Kìa, chúng sẽ vội đến ngay tức thì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Giữa vòng chúng không ai mệt mỏi, vấp ngã; chẳng ai chợp mắt, ngủ nghỉ; chẳng có ai nới thắt lưng hoặc bị đứt quai dép;
|
||
\v 28 các mũi tên chúng đều nhọn, tất cả cung đều giương sẵn; móng ngựa chúng giống đá lửa, bánh xe thì như bão tố.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Tiếng rống của chúng giống sư tử, chúng sẽ gầm thét như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm rống và vồ lấy mối rồi lôi đi mà chẳng ai giải cứu được.
|
||
\v 30 Trong ngày đó chúng sẽ gầm lên trước con mồi của mình như biển cuồng nộ. Nếu người nào đảo mắt nhìn qua xứ này, họ sẽ thấy tối tăm và hoạn nạn, vì ánh sáng đã bị mây che tối.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 6
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào năm vua Ô-xia qua đời, tôi thấy Chúa ngồi trên ngôi; Ngài cao cả và oai nghi, vạt áo Ngài đầy khắp đền thờ.
|
||
\v 2 Bên trên Ngài là các sê-ra-phin; mỗi đấng có sáu cánh; hai cánh che mặt, hai cánh che chân, hai cánh để bay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Các sê-ra-phin nói lớn với nhau: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay Giê-hô-va của các đạo binh! Cả trái đất đầy vinh quang Ngài.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Các cửa cùng ngạch cửa đều rúng động vì những tiếng kêu lớn đó, còn ngôi đền thì đầy khói.
|
||
\v 5 Lúc đó, tôi nói: “Bất hạnh cho tôi! Tôi tận số rồi vì tôi là người có môi uế tục, tôi sống giữa một dân có môi uế tục, vì mắt tôi đã thấy Vua, là Giê-hô-va, tức Giê-hô-va của các đạo binh!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Khi ấy, một sê-ra-phin bay đến chỗ tôi; tay người cầm than lửa đỏ mà người đã dùng cái gắp lấy từ bàn thờ.
|
||
\v 7 Người để than chạm vào miệng tôi và nói: “Này, than này đã chạm vào môi anh; lỗi anh đã được cất đi, tội anh đã được chuộc.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Tôi nghe tiếng của Chúa phán: “Ta sẽ sai phái ai đây; ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “Con đây; xin Chúa sai con.”
|
||
\v 9 Ngài bảo: “Hãy đi nói với dân này rằng hãy nghe nhưng đừng hiểu; hãy thấy, nhưng đừng nhận biết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hãy khiến lòng của dân này nên chai đá, khiến tai chúng bị điếc, mắt chúng bị mù, kẻo mắt chúng thấy được, tai chúng nghe được, lòng chúng hiểu được, và chúng sẽ trở về để được chữa lành.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Tôi thưa: “Trong bao lâu nữa, thưa Chúa?” Chúa đáp: “Cho đến khi các thành điêu tàn, không còn dân cư, nhà không còn người ở, và đất trở nên hoang vu,
|
||
\v 12 cho đến khi Giê-hô-va đã đưa dân chúng đi xa và tình trạng hiu quạnh của xứ lan rộng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Thậm chí nếu chỉ một phần mười số dân còn lại trong xứ thì họ cũng sẽ lại bị tiêu diệt; như cây dẻ, cây sồi bị đốn mà vẫn còn lại thân, thì hạt giống thánh cũng ở trong gốc nó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 7
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào thời của A-cha, con trai Giô-tham, cháu Ô-xia, vua nước Giu-đa, Rê-xin, vua xứ A-ram, và Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, kéo lên Giê-ru-sa-lem gây chiến, nhưng không thắng được.
|
||
\v 2 Có tin báo cho nhà Đa-vít rằng A-ram liên minh với Ép-ra-im. A-cha lẫn dân chúng đều kinh hãi trong lòng, như cây trong rừng bị gió lay động.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Lúc đó, Giê-hô-va bảo Ê-sai: “Hãy cùng con trai ngươi là Sê-a Gia-súp đi gặp A-cha tại cuối kênh dẫn nước của hồ thượng, trên đường đến cánh đồng thợ giặt.
|
||
\v 4 Hãy bảo người: ‘Hãy cẩn thận, cứ bình tĩnh, đừng sợ hãi hay kinh khiếp vì hai khúc gỗ đang âm ỉ này, tức cơn thạnh nộ của Rê-xin và A-ram, cũng như của Phê-ca, con trai Rê-ma-lia.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 A-ram, Ép-ra-im và con trai của Rê-ma-lia đã lập mưu ác đối với ngươi; chúng bảo:
|
||
\v 6 “Chúng ta hãy tiến đánh Giu-đa và khiến chúng khiếp đảm, rồi chúng ta sẽ vào đó và lập người của chúng ta làm vua, tức con trai của Ta-bê-ên.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Chúa Giê-hô-va phán: “Sẽ không có chuyện đó. Việc ấy sẽ không xảy ra,
|
||
\v 8 vì đầu của A-ram là Đa-mách, đầu của Đa-mách là Rê-xin. Trong sáu mươi năm nữa, Ép-ra-im sẽ tan tành và không còn là một dân nữa.
|
||
\v 9 Đầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri, đầu của Sa-ma-ri là con trai Rê-ma-lia. Nếu các ngươi không kiên định trong đức tin thì các ngươi hẵn sẽ không đứng vững được.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Chúa lại phán với A-cha:
|
||
\v 11 “Hãy xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho một dấu hiệu; hãy cầu xin dấu đó ở dưới vực sâu hoặc trên trời cao.”
|
||
\v 12 Nhưng A-cha- nói: “Ta sẽ không xin, cũng chẳng thử Giê-hô-va.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Vì vậy, Ê-sai đáp: “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe đây. Các ngươi thử lòng kiên nhẫn của dân chúng vẫn chưa đủ sao mà nay lại cũng thử lòng kiên nhẫn của Đức Chúa Trời ta nữa?
|
||
\v 14 Vậy nên chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu hiệu: này, một thiếu nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và sẽ đặt tên cho nó là Em-ma-nu-ên.
|
||
\v 15 Nó sẽ ăn sữa đông và mật khi biết từ chối điều dữ và chọn điều lành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vì trước khi đứa trẻ biết từ chối điều dữ và chọn điều lành thì xứ của hai vua mà các người sợ đó sẽ bị tan hoang.
|
||
\v 17 Giê-hô-va sẽ khiến xảy đến trên các người, trên dân chúng các ngươi, và trên nhà cha các ngươi những ngày như chưa từng có kể từ khi Ép-ra-im ly khai khỏi Giu-đa — Ngài sẽ đưa vua A-si-ri đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Lúc đó, Giê-hô-va sẽ huýt gọi con ruồi từ các dòng suối xa xăm của Ai Cập, và gọi con ong từ xứ A-si-ri.
|
||
\v 19 Tất cả chúng sẽ đến đậu trong mọi hẽm núi, trong mọi kẽ đá, trên mọi bui gai cùng mọi đồng cỏ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Khi ấy, Chúa sẽ dùng lưỡi dao cạo thuê mướn bên kia sông Ơ-phơ-rát — tức vua A-si-ri — Ngài sẽ cạo đầu các ngươi, lông chân các ngươi; Ngài cũng sẽ cạo sạch râu các ngươi.
|
||
\v 21 Vào ngày đó, mỗi người sẽ nuôi một bò cái tơ và hai con cừu,
|
||
\v 22 và nhờ lượng sữa dồi dào do chúng cung cấp, nên họ sẽ ăn sữa đông, vì mọi người còn lại trong xứ sẽ ăn sữa đông và mật ong.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Lúc đó, những nơi có cả ngàn gốc nho đáng giá một ngàn siếc-lơ bạc sẽ chẳng còn gì ngoài tầm xuân và gai gốc.
|
||
\v 24 Người ta sẽ đến đó dùng cung mà săn bắn, vì toàn xứ chỉ có tầm xuân và gai gốc.
|
||
\v 25 Người ta sẽ tránh xa mọi ngọn đồi lúc trước đã được cuốc xới, vì sợ tầm xuân và gai gốc; mà đó sẽ là nơi bò, cừu gặm cỏ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 8
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giê-hô-va phán với tôi “Hãy lấy một tấm bảng rồi viết lên đó tên ‘Ma-he Sa-la Hát Bát.’
|
||
\v 2 Ta sẽ triệu tập các nhân chứng đáng tin cậy để chứng thực cho Ta, đó là U-ri, thầy tế lễ, và Xa-cha-ri, con trai Giê-bê-rê-kia.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Tôi đi đến nhà nữ tiên tri; người thụ thai và sinh một bé trai. Rồi Giê-hô-va phán với tôi “Hãy đặt tên nó là ‘Ma-he Sa-la Hát Bát.’
|
||
\v 4 Vì trước khi đứa bé biết kêu ‘Cha ơi’ và ‘Mẹ ơi,’ thì của cải của Đa-mách và chiến lợi phẩm của Sa-ma-ri sẽ bị vua A-si-ri đem đi hết.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Giê-hô-va lại phán với tôi:
|
||
\v 6 “Vì dân này đã khước từ dòng nước êm đềm của Si-lô-ê, mà lại vui sướng về Rê-xin và con trai Rê-ma-lia,
|
||
\v 7 nên Chúa sẽ dẫn nước sông lớn đến trên chúng, mạnh mẽ, cuồn cuộn, tức vua của A-si-ri cùng mọi vinh quang người. Nước sẽ dâng cao khắp mọi kênh rạch nó và tràn lên bờ sông,
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 rồi tràn đến Giu-đa, khiến ngập lụt và tiếp tục cho đến khi dâng đến cổ các ngươi. Này, Em-ma-nu-ên, các cánh dang rộng của nó sẽ phủ kín toàn xứ ngươi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Các dân sẽ bị đập tan. Hãy nghe đây, hỡi các ngươi là những xứ ở xa: hãy tự trang bị cho chiến tranh và bị đập nát; hãy tự vũ trang và bị đập nát vụn.
|
||
\v 10 Hãy cứ lên kế hoạch nhưng sẽ chẳng thực hiện được; hãy ban lệnh để rồi lệnh sẽ chẳng được thi hành, vì Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Đặt bàn tay mạnh sức của Ngài lên tôi, Giê-hô-va phán với tôi và cảnh báo tôi không được bước đi trong đường lối của dân này.
|
||
\v 12 Điều gì mà dân này gọi là âm mưu thì các ngươi đừng gọi đó là âm mưu; các ngươi không cần sợ điều chúng nó sợ, và cũng đừng kinh hãi.
|
||
\v 13 Giê-hô-va của các đạo binh thì các ngươi phải tôn thánh, các ngươi phải kính sợ Ngài, và Ngài là Đấng các ngươi phải kinh khiếp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ngài sẽ trở nên nơi thánh; nhưng Ngài sẽ là hòn đá đập chúng, một tảng đá khiến chúng té ngã — đối với cả hai nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ là cái bẫy và cái lưới cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 15 Nhiều kẻ sẽ vấp lên đó mà té ngã và nát thây, bị sập bẫy và bị bắt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hãy buộc chặt lời chứng của tôi, hãy niêm phong bản ghi chép chính thức rồi trao nó lại cho các môn đệ tôi.
|
||
\v 17 Tôi sẽ chờ đợi Giê-hô-va, Đấng ẩn mặt khỏi nhà Gia-cốp; tôi sẽ trông đợi Ngài.
|
||
\v 18 Này, tôi cùng các con trai mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi — chúng tôi là dấu hiệu và điềm lạ trong Y-sơ-ra-ên bởi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng ngự trên núi Si-ôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Người ta sẽ nói với các ngươi: “Hãy hỏi ý ông đồng, bà cốt và các pháp sư,” tức những kẻ cứ lẩm nhẩm, thì thầm các câu thần chú. Nhưng một dân tộc lại không nên hỏi ý Đức Chúa Trời của mình sao? Họ phải thay mặt người sống mà cầu hỏi kẻ chết sao?
|
||
\v 20 Cho nên các ngươi phải lưu ý luật pháp và lời chứng! Nếu chúng không nói những lời như vậy thì đó là vì chúng không có ánh sáng ban mai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Chúng sẽ đi qua xứ này, thật khốn khổ, đói khát. Khi chúng đói, chúng sẽ nổi thạnh nộ và rủa vua mình cùng Đức Chúa Trời của mình, vì chúng ngửa mặt lên trời.
|
||
\v 22 Chúng sẽ nhìn đất và thấy hoạn nạn, bóng tối, và tình trạng ảm đạm ngột ngạt. Chúng sẽ bị đuổi vào một xứ tối tăm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 9
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đối với kẻ đã chịu đau đớn thì sẽ được xua tan ảm đạm. Trước đó Ngài đã làm bẻ mặt vùng Sa-bu-lôn và vùng Nép-ta-li, nhưng về sau này Ngài sẽ khiến rạng rỡ con đường đi ra biển, bên kia sông Giô-đanh, tức vùng Ga-li-lê của các dân.
|
||
\v 2 Những kẻ đi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng; những kẻ đã sống trong xứ thuộc bóng sự chết thì ánh sáng đã chiếu rọi trên họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúa đã khiến dân tộc đông lên gấp bội, Chúa đã tăng thêm niềm hân hoan của họ; họ vui mừng trước mặt Chúa như vui mừng lúc gặt hái, như người ta vui mừng khi chia nhau chiến lợi phẩm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì cái ách gánh nặng của nó, cây đòn gán trên đôi vai nó, cây roi của kẻ áp bức nó, thì Chúa đã đập nát như trong ngày Ma-đi-an.
|
||
\v 5 Vì mọi chiếc giày đã giẫm đạp trong lúc hỗn độn cùng quần áo đã vấy máu sẽ bị đốt cháy, làm mồi cho lửa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vì một con trẻ đã sinh ra cho chúng ta, một con trai được ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ ở trên vai người; danh người sẽ được gọi là Mưu Sĩ Kỳ Diệu, Đức Chúa Trời Quyền Năng, Cha Đời Đời, Hoàng Tử Bình An.
|
||
\v 7 Quyền cai trị và sự bình an của Ngài sẽ gia tăng không dứt, khi Ngài ngồi trên ngôi Đa-vít cai trị nước, dùng sự công bình, chính trực khiến nước vững chắc, dài lâu từ nay cho đến đời đời. Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Chúa đã truyền phán một lời kết án Gia-cốp, và nó giáng xuống Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 9 Mọi người sẽ biết, kể cả Ép-ra-im và dân cư Sa-ma-ri, là kẻ kiêu hãnh nói với tấm lòng ngạo mạn, rằng:
|
||
\v 10 “Gạch đã đổ, nhưng chúng ta sẽ xây lại bằng đá đẽo; cây sung đã bị đốn, nhưng chúng ta sẽ dùng bá hương thay vào đó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Vậy nên Giê-hô-va sẽ đưa Rê-xin, kẻ địch của nó lên, và khích động các kẻ thù nghịch nó,
|
||
\v 12 tức dân A-ram ở phía đông, và dân Phi-li-tin ở phía tây. Chúng sẽ há hoắc miệng ngoạm lấy Y-sơ-ra-ên. Vì đang lúc thạnh nộ Giê-hô-va sẽ không dừng lại, mà tay Ngài sẽ vẫn giáng đánh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Thế nhưng dân chúng vẫn không quay lại với Đấng đã đánh mình, cũng chẳng tìm kiếm Giê-hô-va của các đạo binh.
|
||
\v 14 Vì vậy, Giê-hô-va trong một ngày sẽ chặt đứt khỏi Y-sơ-ra-ên cả đầu và đuôi, cả cành cọ lẫn cây sậy.
|
||
\v 15 Đầu là giới lãnh đạo cùng giới quyền quý; đuôi là bọn tiên tri dạy điều dối trá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Những kẻ lãnh đạo dân này khiến họ lầm lạc, còn người dân được lãnh đạo thì bị nuốt chửng.
|
||
\v 17 Vậy nên Chúa sẽ chẳng vui về giới trai trẻ họ, Ngài cũng chẳng thương xót kẻ côi cút và các góa phụ, vì ai cũng vô đạo và làm dữ, miệng nào cũng nói toàn lời xuẩn ngốc. Do mọi điều đó nên cơn thạnh nộ Ngài không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giáng đánh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Sự gian ác đốt cháy như lửa; nó thiêu nuốt tầm xuân và gai gốc; nó thậm chí thiêu cháy bụi rậm trong rừng, khiến bốc lên thành trụ khói.
|
||
\v 19 Vì cơn thạnh nộ trào dâng của Giê-hô-va của các đạo binh mà xứ bị thiêu đốt, còn dân chúng thì giống như củi dành cho lửa. Chẳng ai dung thứ anh em mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Chúng sẽ lóc lấy thịt từ bàn tay phải mình những vẫn cứ đói; chúng sẽ ăn thịt trên bàn tay trái mình những vẫn chẳng no. Mỗi người thậm chí ăn thịt cánh tay mình.
|
||
\v 21 Ma-na-se ăn nuốt Ép-ra-im, Ép-ra-im ăn nuốt Ma-na-se; chúng cùng nhau tiến đánh Giu-đa. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va sẽ không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giáng đánh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 10
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bất hạnh thay cho kẻ ban hành các phép tắc bất công, đưa ra những sắc luật không hợp lẽ.
|
||
\v 2 Chúng tước mất công lý của người thiếu thốn, cướp đi quyền của kẻ nghèo trong dân Ta, cưỡng chiếm đồ đạc của các góa phụ, và biến kẻ mồ côi thành miếng mồi của mình!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Các ngươi sẽ làm gì vào ngày phán xét khi sự hủy diệt từ xa ập đến? Các ngươi sẽ chạy đến với ai để cầu cứu, và sẽ để của cải mình ở đâu?
|
||
\v 4 Chẳng còn lại gì, khi các ngươi luồn cúi giữa các tù nhân hoặc ngã xuống giữa vòng những kẻ bị giết. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn giáng đánh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Bất hạnh thay cho dân A-si-ri, là gậy tày của cơn thạnh nộ Ta, là cây roi Ta dùng để thể hiện cơn giận của mình!
|
||
\v 6 Ta sai nó tiến đánh một đất nước ngạo mạn, một dân tộc đang chịu cơn giận trào sôi của Ta. Ta ra lệnh cho nó chiếm đoạt chiến lợi phẩm, bắt đi các nạn nhân, và giẫm đạp lên chúng như bùn ngoài đường phố.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Nhưng đó không phải là ý định nó, cũng chẳng phải là lối suy nghĩ của nó. Ý định trong lòng nó là tiêu diệt và loại bỏ nhiều dân tộc.
|
||
\v 8 Vì nó nói: “Chẳng phải mọi quan tướng của ta đều là vua cả sao?
|
||
\v 9 Chẳng phải Ca-nô cũng giống như Cạt-kê-mít, Ha-mát cũng giống như Ạt-bát, Sa-ma-ri cũng giống như Đa-mách, sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vì tay ta đã thắng hơn các nước thờ hình tượng với những tượng chạm khắc còn lớn hơn các tượng thần ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri,
|
||
\v 11 cho nên, ta lại chẳng làm cho Giê-ru-sa-lem và các tượng thần nó như đã làm cho Sa-ma-ri cùng các hình tượng vô tích sự ở đó sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi Chúa đã làm thành công việc Ngài đối với núi Si-ôn và Giê-ru-sa-lem, Ngài sẽ phán: “Ta sẽ phạt lời nói từ lòng ngạo mạn của vua A-si-ri cùng những ánh mắt cao ngạo của nó.”
|
||
\v 13 Vì nó nói: “Ta đã hành động bởi sức mạnh và bởi sự khôn ngoan của mình. Ta có hiểu biết, và ta đã di dời ranh giới giữa các dân. Ta đã lấy đi các kho báu của chúng và, như một kẻ mạnh sức, ta đã phế bỏ những kẻ đang ngự trị trên ngai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Tay ta đã đoạt lấy của cải của các dân như bắt tổ chim, ta đã thâu tóm toàn cõi đất như người đi lượm trứng bị bỏ rơi. Chẳng có chim nào đập cánh, hay mở mỏ kêu la.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Cái rìu lại đi khoe khoang về mình trước kẻ múa rìu sao? Cái cưa lại tự tâng bốc mình lên cao hơn kẻ dùng cưa sao? Làm thế khác nào cây roi nâng được kẻ giơ nó lên, hoặc gậy tày đỡ được người ta lên vậy.
|
||
\v 16 Vậy nên Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sẽ khiến các chiến binh tinh nhuệ nó bị gầy mòn và dưới vinh quang nó sẽ nhóm lên một đám cháy giống như lửa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ánh sáng của Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên đám cháy, và Đấng Thánh của nó sẽ thành ngọn lửa; lửa đó sẽ đốt cháy và thiêu hủy các gai gốc cùng các bụi tầm xuân nó.
|
||
\v 18 Giê-hô-va sẽ thiêu đốt vinh quang của rừng cây nó và đất đai phì nhiêu của nó, cả linh hồn lẫn thể xác nó sẽ giống như khi cuộc đời của người đau yếu bị mai một đi.
|
||
\v 19 Số cây trong rừng của nó sẽ còn lại rất ít, đến nỗi một đứa trẻ cũng đếm được.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Trong ngày đó, dân sót lại của Y-sơ-ra-ên, là gia đình Gia-cốp đã thoát nạn, sẽ không còn lệ thuộc vào kẻ đã đánh bại mình, mà sẽ nhờ vào Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 21 Một phần sót lại của Gia-cốp sẽ trở về với Đức Chúa Trời quyền năng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vì cho dù số dân các ngươi đông như cát trên bờ biển, thì cũng chỉ một phần sót lại sẽ trở về. Sự hủy diệt đã được định, theo như sự công chính dư dật đòi hỏi.
|
||
\v 23 Vì Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sắp thi hành sự hủy diệt đã định trên khắp xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Vì vậy, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh phán: “Hỡi dân Ta đang sống tại Si-ôn, chớ sợ người A-si-ri. Chúng sẽ dùng roi đánh các ngươi và giáng gậy nghịch cùng các ngươi, như người Ai Cập đã làm.
|
||
\v 25 Đừng sợ nó, vì chỉ sau một thời gian ngắn cơn giận của Ta đối với các ngươi sẽ chấm dứt, và cơn thạnh nộ của Ta sẽ khiến nó bị hủy diệt.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Rồi Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cầm roi đánh chúng nó, như khi Ngài đánh bại dân Ma-đi-an tại vầng đá Ô-rép. Ngài sẽ giáng roi trên biển và giơ nó lên như Ngài đã làm tại Ai Cập.
|
||
\v 27 Trong ngày đó, gánh nặng của Ngài được đỡ khỏi vai ngươi, ách Ngài gỡ xuống khỏi cổ ngươi, và ách đó sẽ bị hủy diệt, vì cổ các ngươi sẽ to béo quá đối với nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Kẻ thù đã đến A-giát và đã đi qua Mi-gơ-rôn; nó tàng trữ đồ tiếp tế tại Mích-ma.
|
||
\v 29 Chúng nó đã vượt qua đèo và đóng tại Ghê-ba. Ra-ma run sợ, còn Ghi-bê-a của Sau-lơ đã trốn chạy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Hãy la lớn lên, hỡi con gái Ga-lim! Hãy lưu ý, hỡi La-ít! A-na-tốt các ngươi thật tội nghiệp!
|
||
\v 31 Mát-mê-na đang chạy trốn, dân cư Ghê-bim cũng chạy tìm chỗ an toàn.
|
||
\v 32 Chính ngày này nó sẽ dừng quân tại Nóp và đưa nắm đấm dọa dẫm núi của con gái Si-ôn, tức đồi Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Kìa, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dùng cú giáng kinh hãi chặt đứt các cành cây; các cây cao lớn nhất sẽ bị đốn hạ, những kẻ kiêu kỳ sẽ bị hạ xuống.
|
||
\v 34 Ngài sẽ dùng rìu chặt cây cối rậm rạp trong rừng, và Li-ban trong sự oai nghi của nó sẽ sụp đổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 11
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Sẽ có một cái chồi mọc lên từ gốc Y-sai, và một nhánh từ gốc rễ ấy sẽ sinh trái.
|
||
\v 2 Thần Linh của Giê-hô-va sẽ ngự trên người, là linh khôn ngoan và am hiểu, linh dạy dỗ và sức mạnh, linh hiểu biết và kính sợ Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Kính sợ Chúa là niềm vui thích của người; người sẽ không đánh giá theo điều mắt mình thấy, cũng không phân định theo điều tai mình nghe.
|
||
\v 4 Thay vào đó, người sẽ lấy sự công chính phán xét kẻ nghèo và đoán định cách công bằng cho kẻ khiêm nhường trên đất. Ngài sẽ đánh trái đất bằng cây roi nơi miệng Ngài, và dùng hơi thở của môi Ngài mà giết chết kẻ ác.
|
||
\v 5 Sự công chính sẽ làm nịt lưng Ngài, sự thành tín sẽ làm đai ràng hông Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Muông sói sẽ sống cùng chiên con, báo đốm sẽ nằm với dê con, còn bò con, sư tử tơ và bê được vỗ béo sẽ ở cùng nhau. Một đứa bé sẽ dắt chúng.
|
||
\v 7 Bò và gấu sẽ cùng gặm cỏ, và các con chúng sẽ nằm chung với nhau. Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Trẻ con đang bú sẽ chơi bên hang rắn, trẻ vừa dứt sữa sẽ đặt tay lên ổ rắn độc.
|
||
\v 9 Chúng sẽ không làm hại hay giết chết ai trên toàn núi thánh Ta; vì đất sẽ tràn đầy sự hiểu biết Giê-hô-va, như nước tràn ngập biển.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Trong ngày đó, gốc Y-sai sẽ đứng vững làm ngọn cờ cho các dân. Các nước sẽ tìm kiếm người, và nơi an nghỉ người sẽ vẻ vang.
|
||
\v 11 Trong ngày đó, Chúa sẽ lại đưa tay ra phục hồi lại phần sót lại của dân Ngài vẫn còn ở tại A-si-ri, Ai Cập, Pha-trô, Cút, Ê-lam, Si-nê-a, Ha-mát, cùng các hải đảo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ngài sẽ dựng lên một ngọn cờ cho các dân và sẽ nhóm lại từ bốn góc đất những kẻ bị xua đuổi của Y-sơ-ra-ên cũng như những kẻ lưu lạc của Giu-đa.
|
||
\v 13 Ngài sẽ chấm dứt lòng ganh tị của Ép-ra-im, và những kẻ ác cảm với Giu-đa sẽ bị diệt khỏi đất. Ép-ra-im sẽ không ganh tị Giu-đa, Giu-đa sẽ không còn thù địch với Ép-ra-im.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Thay vì vậy, chúng sẽ đột kích vào các đồi của Phi-li-tin ở phía tây, cùng cướp bóc dân ở phía đông. Chúng sẽ tấn kích Ê-đôm và Mô-áp, và dân Am-môn sẽ tuân phục chúng.
|
||
\v 15 Giê-hô-va sẽ hoàn toàn hủy diệt vịnh của biển Ai Cập. Với ngọn gió nóng, Ngài sẽ vung tay trên sông Ơ-phơ-rát và chia nó thành bảy con suối, khiến người ta có thể đi dép mà băng qua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Sẽ có một con đường lớn cho dân sót lại của Ngài từ A-si-ri trở về, như đã có đối với Y-sơ-ra-ên khi họ từ đất Ai Cập lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 12
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong ngày đó, các ngươi sẽ nói: “Giê-hô-va ôi, con sẽ cảm tạ Ngài. Vì dầu Ngài nổi giận với con, nhưng cơn giận Ngài đã xây khỏi, và Ngài đã yên ủi con.
|
||
\v 2 Này, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của con; con sẽ tin cậy và không sợ hãi vì Giê-hô-va, phải, chính Giê-hô-va là sức lực và bài ca của con. Ngài đã trở nên sự cứu rỗi con.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Các ngươi sẽ vui mừng kéo nước từ giếng cứu rỗi.
|
||
\v 4 Vào ngày đó, các ngươi sẽ bảo: “Hãy cảm tạ Giê-hô-va và kêu cầu danh Ngài; hãy rao công việc Ngài ra giữa các dân, công bố rằng danh Ngài được tôn cao.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Hãy hát ca ngợi Giê-hô-va, vì Ngài đã thực hiện những kỳ công; nguyện điều này được biết đến trên khắp đất.
|
||
\v 6 Hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy kêu lên và lớn tiếng vui mừng, vì Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ở giữa các ngươi thật vĩ đại.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 13
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời công bố về Ba-by-lôn mà Ê-sai, con trai A-mốt, tiếp nhận:
|
||
\v 2 Trên ngọn núi trọc, hãy dựng lên một cờ hiệu, hãy kêu réo chúng, vẫy gọi chúng vào các cổng của giới quyền quý.
|
||
\v 3 Ta đã truyền cho những người thánh của Ta, thật, Ta đã kêu gọi các chiến binh của Ta thi hành cơn giận Ta, tức những chiến binh hả hê cách kiêu hãnh của Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Có tiếng của đám đông trong vùng núi non, như tiếng của nhiều người! Đó là tiếng náo động của các nước, giống như khi nhiều dân tộc tập trung lại! Giê-hô-va của các đạo binh đang huy động quân đội chuẩn bị cho chiến trận.
|
||
\v 5 Chúng đến từ một miền đất xa xăm, ở tận chân trời. Đó chính là Giê-hô-va với các công cụ phán xét của Ngài, để hủy diệt toàn xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hãy gào lên, vì ngày của Giê-hô-va đã gần; nó đến cùng với sự hủy diệt của Đấng Toàn Năng.
|
||
\v 7 Vậy nên mọi tay đều mềm nhũn, mọi lòng đều tan chảy.
|
||
\v 8 Chúng sẽ kinh hãi; các cơn đau đớn và sầu khổ ập lên chúng, như người phụ nữ đau đẻ. Chúng sẽ kinh ngạc nhìn nhau; mặt chúng sẽ rực cháy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Này, ngày của Giê-hô-va đến kèm theo cơn giận tàn bạo, cơn thạnh nộ trào dâng.
|
||
\v 10 Sao trên trời và cùng các chòm sao sẽ không tỏa sáng. Mặt trời thậm chí mới mọc lên đã tối đen, mặt trăng thì không chiếu soi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Ta sẽ phạt thế giới vì sự gian tà nó, phạt kẻ ác vì tội lỗi chúng. Ta sẽ trừ bỏ thái độ cao ngạo của kẻ kiêu căng và đánh hạ sự ngạo mạn của kẻ tàn độc.
|
||
\v 12 Ta sẽ khiến người ta ra hiếm hoi hơn vàng nguyên chất, nhân loại trở nên khó tìm hơn vàng ròng Ô-phia.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Vì vậy, Ta sẽ khiến các tầng trời run rẩy, còn đất sẽ bị lay động khỏi chỗ nó, bởi cơn thạnh nộ của Giê-hô-va của các đạo binh, trong ngày Ngài phừng phừng nổi giận.
|
||
\v 14 Giống như con linh dương bị săn đuổi hay con chiên không có kẻ chăn, mỗi người sẽ quay hướng sang dân tộc mình và sẽ trốn chạy về quê hương mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Mọi kẻ bị phát hiện sẽ bị giết chết, và mọi kẻ bị bắt đi sẽ chết bởi gươm.
|
||
\v 16 Con nhỏ chúng sẽ bị đập nát thây trước mắt chúng. Nhà chúng sẽ bị cướp phá, vợ chúng sẽ bị cưỡng hiếp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Kìa, Ta sắp khích động quân Mê-đi tấn công chúng; quân ấy chẳng màng đến bạc, cũng chẳng ham thích vàng.
|
||
\v 18 Mũi tên chúng sẽ xuyên qua các trai tráng. Chúng sẽ chẳng thương xót trẻ sơ sinh, và cũng chẳng tha mạng trẻ con.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Rồi Ba-by-lôn, vương quốc đáng ngưỡng phục nhất trong các nước, vẻ rực rỡ của lòng kiêu hãnh người Canh-đê, nó sẽ bị Đức Chúa Trời hạ bệ như Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
|
||
\v 20 Nó sẽ chẳng có dân cư hay người ở từ đời này sang đời khác. Dân Ả-rập sẽ không dựng lều tại đó, các mục đồng cũng không chăn dắt bầy mình ở đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Nhưng thú hoang của sa mạc sẽ nghỉ ở đó. Nhà chúng sẽ đầy chim cú; đà điểu và dê rừng sẽ nhảy lăn tăn tại đó.
|
||
\v 22 Linh cẩu sẽ tru tréo trong các pháo đài chúng, lừa rừng kêu la trong các cung điện đẹp đẽ của chúng. Giờ nó đã gần, ngày tàn của nó sẽ chẳng còn xa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 14
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giê-hô-va sẽ thương xót Gia-cốp; Ngài sẽ lại chọn Y-sơ-ra-ên và phục hồi họ lại trong xứ mình. Dân ngoại quốc sẽ liên kết với họ và gia nhập vào nhà Gia-cốp.
|
||
\v 2 Các dân sẽ đưa họ về xứ. Rồi nhà Y-sơ-ra-ên sẽ đem chúng nó vào trong xứ của Giê-hô-va làm đầy tớ trai, đầy tớ gái. Họ sẽ bắt về những kẻ đã bắt mình, và sẽ cai trị những kẻ đã áp bức mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Trong ngày Giê-hô-va cho các ngươi được nghỉ ngơi sau khi đã chịu khổ sở, đau đớn, sau khi bị cưỡng bức lao động khổ sai,
|
||
\v 4 các ngươi sẽ hát bài ca này để nhạo cười vua Ba-by-lôn: “Làm sao mà kẻ áp bức phải tận chung, cơn giận kiêu căng phải chấm dứt!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Giê-hô-va đã bẻ cây gậy của quân ác, cây trượng của bọn cai trị đó;
|
||
\v 6 trong cơn thạnh nộ nó đã tới tấp giáng đòn xuống các dân, cai trị các nước một cách giận dữ, hà hiếp họ chẳng nương tay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Cả trái đất nghỉ ngơi và yên tịnh; người ta bắt đầu ca hát vui mừng.
|
||
\v 8 Thậm chí cây tùng, cây bách cũng cùng cây bá hương Li-ban hoan hỉ về ngươi; chúng bảo: ‘Vì mày đã bị hạ, nên chẳng còn tay tiều phu nào lên đốn bọn tao.’
|
||
\v 9 Âm phủ bên dưới cũng háo hức đón ngươi khi ngươi xuống đó. Nó vì ngươi mà đánh thức những kẻ đã chết, tức mọi vua trên đất, toàn thể vua của các dân, khiến chúng đứng lên khỏi ngai mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hết thảy chúng sẽ nói với ngươi, rằng: ‘Mày đã ra yếu đuối như bọn tao. Mày cũng chẳng khác gì bọn tao.
|
||
\v 11 Sự lộng lẫy của mày đã bị hạ xuống âm phủ cùng với tiếng đàn cầm của mày. Giòi trải ra làm nệm cho mày, sâu bọ là mền của mày.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Hỡi sao mai, con trai của buổi sáng, mày từ trời sa xuống là thế nào! Hỡi kẻ đi chinh phục các nước kia, mày bị đốn hạ xuống đất là sao!
|
||
\v 13 Mày đã tự nhủ trong lòng: ‘Ta sẽ lên trời, ta sẽ nhấc ngai ta lên trên các vì sao của Đức Chúa Trời, rồi ta sẽ ngồi trên núi nhóm hội, tại các vùng cực của phương bắc.
|
||
\v 14 Ta sẽ lên cao hơn các đám mây; Ta sẽ khiến mình giống như Đức Chúa Trời Chí Cao!’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nhưng giờ thì mày bị hạ xuống tận âm phủ, xuống tận các vực sâu của hỏa ngục.
|
||
\v 16 Người nào thấy mày sẽ chằm chằm nhìn mày; họ sẽ dò xét mày. Họ sẽ bảo: “Phải chăng đây là kẻ đã khiến đất run sợ, khiến các nước rúng động, kẻ biến thế giới ra sa mạc,
|
||
\v 17 kẻ hủy diệt các thành nó và không để cho tù nhân trở về nhà?’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Hết thảy vua của các nước, tất cả họ đều nằm ngủ cách hiển vinh trong lăng mộ mình.
|
||
\v 19 Còn mày thì lại bị quăng khỏi mồ mả mình như cành cây bị quăng đi; kẻ chết phủ lên mày như cái áo, tức những kẻ bị gươm đâm - những kẻ đi xuống các bia mộ của hỏa ngục.
|
||
\v 20 Giống như xác chết bị giẫm đạp dưới chân, mày sẽ không bao giờ được hiệp với họ trong lăng tẩm vì mày đã hủy phá xứ của mình. Là kẻ đã giét dân mình, mày là con của kẻ làm dữ và sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Ngươi hãy sửa soạn tàn sát con cái nó vì tội lỗi của tổ phụ chúng nó, để chúng nó khỏi trỗi dậy chiếm hữu đất và xây thành lập ấp khắp thế giới. Giê-hô-va phán:
|
||
\v 22 “Ta sẽ lại trỗi dậy đánh chúng.” Giê-hô-va phán: “Ta sẽ diệt khỏi Ba-by-lôn danh tiếng, con cháu và hậu tự nó.
|
||
\v 23 Ta cũng sẽ biến nó thành nơi ở của loài nhím, thành các ao nước, và Ta sẽ dùng chổi hủy diệt mà quét sạch nó,” Giê-hô-va phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Giê-hô-va của các đạo binh đã thề rằng: “Chắc chắn việc sẽ xảy đến như Ta đã dự tính; việc sẽ diễn ra như Ta đã trù định:
|
||
\v 25 Ta sẽ đánh tan quân A-si-ri trong xứ Ta, và sẽ giẫm đạp nó dưới chân trên các núi Ta. Rồi ách nó sẽ được dỡ khỏi chúng, gánh nặng nó sẽ được cất bỏ khỏi vai chúng.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Đây là chương trình được trù định cho toàn trái đất, đây là bàn tay giáng lên trên mọi dân tộc.
|
||
\v 27 Vì Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định việc này; ai sẽ ngăn được Ngài? Tay Ngài đã giáng lên thì ai có thể khiến rút lại?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Vào năm vua A-cha qua đời thì có lời này:
|
||
\v 29 Này, xứ Phi-li-tin, ngươi chớ hân hoan vì cây roi đã đánh ngươi bị gãy. Vì từ gốc rễ của con rắn sẽ xuất hiện một rắn hổ lục, và hậu tự nó sẽ là một con rắn bay hung hăng.
|
||
\v 30 Con trưởng của kẻ nghèo sẽ ăn, và người thiếu thốn sẽ nằm ngủ yên ổn. Ta sẽ giết chết gốc rễ mày bằng nạn đói, vốn khiến mọi kẻ còn sót lại của mày phải chết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Này, cổng, hãy tru lên; này thành, hãy kêu lớn; này, đất Phi-li-tin, tất cả các ngươi sẽ tan chảy đi. Vì từ phương bắc xuất hiện một đám khói, và chẳng có ai đi sai lạc khỏi hàng ngũ mình.
|
||
\v 32 Người ta sẽ trả lời thế nào cho các sứ giả của nước đó? Hãy đáp: Giê-hô-va đã thành lập Si-ôn, và những kẻ khốn cùng trong dân Ngài sẽ tìm được nơi ẩn náu tại đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 15
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời rao báo về Mô-áp. Thật, chỉ trong một đêm mà thành A của Mô-áp bị tang hoang và tiêu hủy; thật chỉ trong một đêm mà thành Kiệt của Mô-áp bị tàn phá và sụp đổ.
|
||
\v 2 Chúng đã lên đền miếu, dân thành Đi-hôn đi lên những nơi cao mà khóc; Mô-áp than khóc Nê-bô và Mê-đê-ba. Mọi đầu đều cạo nhẵn, mọi râu đều cắt trụi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúng mặc đồ tang ngoài đường phố; trên sân thượng lẫn nơi quãng trường, mọi người đều than khóc, thương tiếc trong nước mắt.
|
||
\v 4 Hết-bôn và Ê-lê-a-lê đều kêu cứu; tiếng chúng vang đến tận Gia-hát. Vậy nên các chiến binh Mô-áp cầu cứu; trong lòng chúng run sợ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Lòng tôi kêu la vì Mô-áp; dân lánh nạn của nó chạy đến Xoa và Ê-lát Sê-li-sia. Chúng vừa khóc vừa leo dốc Lu-hít; trên đường đến Hô-rô-na-im chúng kêu gào về sự hủy diệt mình.
|
||
\v 6 Nước ở Nim-ri đã cạn khô; cỏ thì héo, cỏ non cũng chết cả, chẳng thứ gì còn xanh.
|
||
\v 7 Của cải họ đã tạo dựng hoặc cất giữ họ đều đem qua bên kia suối các cây liễu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Tiếng kêu khóc đã lan ra cùng khắp lãnh thổ Mô-áp; tiếng than vãn vọng đến tận Ê-la-im và Bê-e Ê-lim.
|
||
\v 9 Vì nước tại Đi-môn thì đầy máu; nhưng Ta thậm chí sẽ giáng xuống Đi-môn thêm nữa. Một con sư tử sẽ tấn công những kẻ chạy thoát khỏi Mô-áp, cũng như những kẻ còn ở lại trong xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 16
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hãy gửi chiên đực cho kẻ cai trị xứ này từ Sê-la trong hoang mạc, đến núi của con gái Si-ôn.
|
||
\v 2 Đàn chim vỡ tổ bị tan tác thể nào thì các phụ nữ Mô-áp cũng giống như vậy tại các khúc cạn của sông Ạc-nôn
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 “Hãy chỉ dạy, hãy thực thi công lý; giữa ban trưa hãy cung cấp bóng mát như trong ban đêm; hãy che giấu những kẻ chạy nạn; đừng giao nộp họ.
|
||
\v 4 Hãy để dân tị nạn Mô-áp sống giữa vòng các ngươi; hãy cho họ nơi ẩn náu trước kẻ hủy diệt.” Vì sự áp bức sẽ dứt, sự hủy diệt sẽ ngưng, những kẻ giày xéo sẽ biến mất khỏi đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Một ngai sẽ được thiết lập trong sự thành tín và một người từ lều Đa-vít sẽ trung tín ngự trên ngai. Người sẽ phán xử cũng như sẽ kiếm sự công bình và làm điều ngay thẳng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Chúng ta có nghe biết sự kiêu căng của Mô-áp, thái độ ngạo mạn, sự khoe khoang, cùng cơn giận nó. Nhưng sự khoe khoang của nó chỉ là lời rỗng tuếch.
|
||
\v 7 Vậy nên Mô-áp than khóc Mô-áp, ai cũng khóc than. Các ngươi thương tiếc những bánh nho của Kiệt Ha-rê-sết mà đã bị san phẳng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Những đồng ruộng của Hết-bôn đã khô héo, các gốc nho của Síp-ma cũng vậy. Vua chúa các nước đã giẫm đạp các gốc nho tuyển đã từng vươn đến Gia-ê-xe và lan đến sa-mạc. Các chồi nó vươn rộng ra; chúng lan ra tận biển.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Thật, Ta sẽ cùng Gia-ê-xe khóc cho vườn nho Síp-na. Hỡi Hết-bôn, cùng Ê-lê-a-lê, Ta sẽ tưới các ngươi bằng nước mắt. Vì trên các đồng ruộng trái mùa hạ và mùa gặt, Ta đã làm dứt tiếng reo vui.
|
||
\v 10 Niềm sung sướng, hân hoan không còn nơi các vườn cây trái; trong vườn nho các ngươi chẳng có tiếng ca hát, cũng không tiếng reo mừng. Chẳng có ai đạp nho làm rượu trong thùng ép vì ta sẽ làm ngưng tiếng reo hò của kẻ đạp nho.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Vậy nên lòng Ta vì Mô-áp mà thở dài như đàn hạt, dạ Ta cũng vậy vì Kiệt Hê-rê-sết.
|
||
\v 12 Dầu Mô-áp có nhọc công đi lên nơi cao và vào đền miếu để cầu nguyện, thì lời cầu xin nó sẽ chẳng được gì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Đó là lời Giê-hô-va đã phán về Mô-áp trước đây.
|
||
\v 14 Giê-hô-va lại phán: “Trong vòng ba năm nữa, vinh quang của Mô-áp sẽ biến mất; cho dù dân nó đông thì phần còn sót lại sẽ rất ít và chẳng đáng kể.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 17
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời rao báo về Đa-mách. Này, Đa-mách sẽ không còn là một thành nữa; nó sẽ chỉ là đống đổ nát.
|
||
\v 2 Các thành của A-rô-e sẽ bị bỏ hoang. Chúng sẽ là nơi các bầy chiên nằm nghỉ mà chẳng phải sợ ai cả.
|
||
\v 3 Thành quách Ép-ra-im sẽ biến mất, ngôi nước của Đa-mách cũng biến mất, và dân sót lại của A-ram sẽ giống như vinh quang của dân Y-sơ-ra-ên — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Trong ngày đó, vinh quang của Gia-cốp sẽ mờ nhạt đi, da thịt mập mạp nó sẽ trở nên gầy guộc.
|
||
\v 5 Sự thể sẽ giống như khi thợ gặt túm lấy cây lúa đứng và dùng tay gặt lấy bông lúa. Nó sẽ giống như khi người ta mót bông lúa trong thung lũng Rê-pha-im.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Tuy nhiên, sẽ còn sót lại cho kẻ đi mót, như khi cây ô liu bị rung lắc: chỉ còn vài ba trái trên đầu chót, bốn năm trái trên những nhánh cao nhất của cây sai quả.
|
||
\v 7 Trong ngày đó người ta sẽ ngước trông Đấng tạo dựng mình, và mắt họ sẽ hướng về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Họ sẽ không nhìn về bàn thờ, là công việc của bàn tay mình, cũng không nhìn những thứ ngón tay mình làm ra, như các trụ tượng A-sê-ra hay hình tượng mặt trời.
|
||
\v 9 Trong ngày đó, các thành vững chắc của họ sẽ giống như những sườn đồi rậm rạp hoang phế, bị bỏ rơi vì cớ dân Y-sơ-ra-ên và sẽ trở thành nơi hiu quạnh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vì các ngươi đã quên Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi mình và làm ngơ vầng đá sức lực mình. Vậy nên các ngươi đã trồng những loại cây thú vị, bày ra những cây ghép ngoại lai
|
||
\v 11 trong ngày các ngươi trồng cây, dựng rào, vun xới. Chẳng bao lâu hạt giống các người sẽ mọc lên, nhưng mùa gặt hát sẽ thất bát trong ngày buồn thảm, sầu khổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Thật bất hạnh! Tiếng náo động của nhiều dân tộc, tiếng ầm ầm như biển cả dậy sóng, cùng tiếng xông tới của các dân, chúng xông lên như dòng nước cuồn cuộn!
|
||
\v 13 Các dân sẽ gầm thét như tiếng nhiều dòng nước tràn tới, nhưng Đức Chúa Trời sẽ quở trách chúng. Chúng sẽ chạy xa và bị săn đuổi như cỏ rơm trên núi bị gió đùa đi, như cỏ dại quay cuồng giữa cơn bão.
|
||
\v 14 Lúc chiều tối, kìa, thật kinh khủng! Rồi trước khi trời sáng, chúng đều biến mất; đó là phần của kẻ cướp phá chúng ta, số phận của kẻ cướp bóc chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 18
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Thật bất hạnh cho xứ vỗ cánh xào xạc ở bên kia các dòng sông Ê-thi-ô-bi;
|
||
\v 2 là xứ sai phái sứ giả vượt biển trong những chiếc thuyền cối đi trên nước. Hỡi các sứ giả lẹ làng các ngươi, hãy đi đến một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Tất cả các ngươi là dân cư trên thế giới và những người sống trên trái đất, khi cờ hiệu được kéo lên trên các núi, hãy nhìn xem; khi kèn trổi lên, hãy lắng tai nghe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Ta sẽ từ nơi ở mình âm thầm theo dõi, như cái nóng hậm hực giữa ánh nắng, như đám sương giữa sức nóng của mùa gặt hái.”
|
||
\v 5 Trước ngày thu hoạch, khi mùa hoa đã qua và bông hoa sắp kết thành quả, Ngài sẽ dùng lưỡi hái mà cắt đứt các nhánh non, cùng đốn hạ và đem đi những cành xòe tán ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Chúng sẽ cùng bị bỏ lại cho các loài chim núi và cho các loài thú trên đất.
|
||
\v 7 Khi đó, một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi, dân ấy sẽ đem lễ vật đến cho Giê-hô-va của các đạo binh tại nơi mang danh Ngài, tức núi Si-ôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 19
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời rao báo về Ai Cập. Này, Giê-hô-va cưỡi trên đám mây nhanh lẹ và sắp đến Ai Cập; các tượng thần Ai Cập run rẩy trước mặt Ngài, còn lòng dân Ai Cập thì tan chảy trong họ.
|
||
\v 2 “Ta sẽ khích động người Ai Cập chống lại người Ai Cập: kẻ thì tranh chiến với anh em mình, người thì tranh chấp với láng giềng mình; thành này chống lại thành kia, nước này chống lại nước khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Tinh thần đất nước Ai Cập sẽ bị sút giảm từ bên trong. Ta sẽ làm hỏng lời luận bàn của nó, cho dù chúng có cầu hỏi các tượng thần, linh người chết, giới đồng bóng, thông linh.
|
||
\v 4 Ta sẽ phó người Ai Cập vào tay một ông chủ hà khắc, và một vua hung bạo sẽ cai trị họ — đó là lời tuyên phán của Chúa, tức Giê-hô-va của các đạo binh.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Nước biển sẽ khô đi, sông cũng khô cạn nước.
|
||
\v 6 Sông ngòi trở nên hôi thối; các suối Ai Cập xuống thấp và khô đi; cây sậy, cây lau sẽ khô héo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Bãy sậy ở sông Nin, gần bờ sông Nin, và hết thảy cánh đồng gieo trồng ở sông Nin sẽ khô cằn, trở thành bụi, và bay đi.
|
||
\v 8 Ngư phủ sẽ kêu khóc, tiếc thương, và mọi kẻ đánh bắt cá trên sông Nin sẽ khóc than, những kẻ thả lưới trên sông sẽ đau buồn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Thợ chải sợi lanh cùng những kẻ dệt vải trắng đều tái mặt.
|
||
\v 10 Giới thợ dệt Ai Cập sẽ tuyệt vọng; mọi kẻ làm thuê sẽ đau khổ trong lòng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Các quan tướng Xô-an đều ngu xuẩn. Lời khuyên từ các cố vấn thông thái của Pha-ra-ôn đều vô nghĩa. Làm sao các ngươi có thể nói với Pha-ra-ôn: “Tôi là con nhà thông thái, con của các vua thời xưa” cho được?
|
||
\v 12 Vậy thì người khôn ngoan của các ngươi ở đâu? Hãy để chúng tỏ bày và cho các ngươi biết Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định thế nào đối với Ai Cập?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Các quan tướng của Xô-an đều xuẩn ngốc, các quan tướng của Mem-phi đều bị lừa; những kẻ làm hòn đá góc của các bộ tộc Ai Cập đã khiến nó lầm lạc.
|
||
\v 14 Giê-hô-va đã pha trộn vào giữa vòng chúng nó một tinh thần vặn vẹo, nên chúng đã khiến Ai Cập bị lầm lạc trong mọi việc nó làm, như một kẻ say rượu lảo đảo khi buồn nôn.
|
||
\v 15 Chẳng ai giúp gì được cho Ai Cập, dầu là đầu hay đuôi, cành cọ hay đám sậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Trong ngày đó, dân Ai Cập sẽ giống như người phụ nữ. Chúng sẽ run rẩy và sợ hãi vì bàn tay giơ cao của Giê-hô-va của các đạo binh giáng trên mình.
|
||
\v 17 Đất Giu-đa sẽ trở thành cớ khiến Ai Cập chao đảo. Khi có ai đó nhắc chúng về xứ này thì chúng sẽ sợ hãi, vì chương trình mà Giê-hô-va đang lên để hành hại chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Trong ngày đó sẽ có năm thành trong đất Ai Cập nói tiếng Ca-na-an và thề trung thành với Giê-hô-va của các đạo binh. Một trong các thành này sẽ được gọi là Thành Mặt Trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Trong ngày đó sẽ có một bàn thờ cho Giê-hô-va ngay giữa đất Ai Cập, và một trụ đá cho Giê-hô-va tại vùng biên giới.
|
||
\v 20 Đó sẽ là dấu hiệu và lời chứng về Giê-hô-va của các đạo binh trong đất Ai Cập. Khi chúng kêu cầu Giê-hô-va vì các kẻ áp bức mình, thì Ngài sẽ sai phái một vị cứu tinh và đấng bảo vệ, và Ngài sẽ giải cứu chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giê-hô-va sẽ được biết đến tại Ai Cập và dân Ai Cập sẽ nhìn biết Giê-hô-va trong ngày đó. Chúng sẽ thờ phượng Ngài bằng các sinh tế và của lễ, cũng như thề nguyện với Giê-hô-va và hoàn nguyện.
|
||
\v 22 Giê-hô-va sẽ hành hại Ai Cập, Ngài hành hại rồi chữa lành. Chúng sẽ trở lại với Giê-hô-va; Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của chúng và chữa lành cho chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Trong ngày đó sẽ có một con đường lớn nối Ai Cập với A-si-ri; người A-si-ri sẽ đến Ai Cập, người Ai Cập sẽ đến A-si-ri; rồi người Ai Cập sẽ thờ phượng cùng với người A-si-ri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Trong ngày đó, Y-sơ-ra-ên sẽ hiệp với Ai Cập và A-si-ri thành một nhóm tay ba, trở nên nguồn phước ngay giữa cõi đất;
|
||
\v 25 Giê-hô-va của các đạo binh sẽ ban phước cho chúng, rằng: “Phước cho Ai Cập, là dân Ta; phước cho A-si-ri, là công việc của tay Ta; phước cho Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp Ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 20
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào năm Ta-tân đến Ách-đốt, theo sự sai phái của vua A-si-ri là Sa-gôn, hắn công thành Ách-đốt và chiếm lấy thành.
|
||
\v 2 Lúc đó, Giê-hô-va phán với Ê-sai, con trai A-mốt, rằng: “Hãy đi, cởi bỏ vải thô khỏi thắt lưng con, cũng cởi dép khỏi chân con.” Người làm theo, bước đi mình trần, chân không.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Giê-hô-va phán: “Như đầy tớ Ta là Ê-sai đi mình trần, chân không trong ba năm, như là dấu và điềm liên quan đến Ai Cập và liên quan đến Ê-thi-ô-bi —
|
||
\v 4 thì cũng vậy, vua A-si-ri sẽ bắt dẫn đi người Ai Cập và lưu đày người Ê-thi-ô-bi, cả già lẫn trẻ đều mình trần, chân không, mông hở, cả một sự nhục nhã đối với Ai Cập.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Người ta sẽ kinh sợ và xấu hổ vì cớ Ê-thi-ô-bi, hy vọng của chúng, và vì cớ Ai Cập, vinh quang của chúng.
|
||
\v 6 Vào ngày đó, dân cư sống tại các vùng duyên hải này sẽ bảo: ‘Đích thực đây là nguồn hy vọng của chúng ta, nơi chúng ta tìm đến để nhờ giải cứu khỏi vua A-si-ri; giờ thì chúng ta làm sao thoát được?’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 21
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời rao báo về vùng sa mạc ở miền duyên hải. Từ hoang mạc, từ một vùng đất đáng sợ, nó ập đến, như gió lốc càng quét qua Nê-ghép.
|
||
\v 2 Tôi nhận được một khải tượng kinh khiếp: kẻ bội phản phản bội; kẻ hủy diệt giết chóc. Này, Ê-lam, hãy đi lên và tiến đánh; này, Mê-đi, hãy bao vây; Ta sẽ chấm dứt mọi sự rên siết của nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vì vậy, vùng thắt lưng của tôi đau quặn; các cơn đau như cơn đau của người phụ nữ chuyển dạ ập lên tôi; tôi quỵ xuống vì lời mình nghe; tôi bối rối vì điều mình thấy.
|
||
\v 4 Tim tôi đập thình thịch; tôi rùng mình ớn lạnh; cái đêm mà tôi từng ước muốn đã biến thành điều kinh sợ đối với tôi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Người ta dọn bàn, họ trải thảm rồi ăn, uống; hỡi các quan tướng, hãy chỗi dậy và lấy dầu xức cho thuẫn khiên của các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Hãy đi bố trí một người bảo vệ; người đó phải báo cáo lại điều mình thấy.
|
||
\v 7 Khi thấy một cỗ xe song mã, lính kỵ đi cặp, người cưỡi lừa, người cưỡi lạc đà, thì nó phải lưu ý và cảnh giác.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Người canh gác la lên: “Thưa chúa, mỗi ngày tôi đứng suốt trên tháp canh, tại chỗ mình tôi đứng thâu đêm.”
|
||
\v 9 Kìa, có một người đánh xe chiến mã xuất hiện cùng với một toán lính, là lính kỵ đi theo cặp. Người này la lớn: “Ba-by-lôn đã đổ, đã đổ rồi, và mọi tượng chạm khắc các thần nó đều vỡ tan xuống đất rồi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hỡi người dân bị áp chế, chà đạp của tôi, là con cái của sân đạp lúa tôi! Những gì tôi được nghe từ Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì tôi công bố lại cho các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Lời rao báo về Đu-ma. Có người từ Sê-i-rơ gọi tôi: “Này, anh lính canh đêm qua thế nào? Anh lính canh ơi, đêm qua thế nào rồi?”
|
||
\v 12 Người lính canh đáp: “Ban ngày đến, ban đêm cũng đến; nếu ngươi muốn hỏi thì cứ hỏi, rồi quay trở lại.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Lời rao báo về A-ra-bi. Những đoàn thương nhân Đê-đan các ngươi nghỉ đêm trong sa mạc A-ra-bi.
|
||
\v 14 Hãy đem nước cho người bị khát; hỡi dân cư đất Thê-ma, hãy mang bánh cho dân chạy nạn.
|
||
\v 15 Vì chúng đã chạy trốn thanh gươm, là thanh gươm tuốt trần, trốn cây cung giương sẵn, trốn gánh nặng của chiến tranh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Trong vòng một năm nữa, như người lao động làm thuê trong năm sẽ được chứng kiến, mọi vinh quang của Kê-đa sẽ mất hết.
|
||
\v 17 Chỉ còn lại một ít cung thủ, tức các chiến binh của Kê-đa,” vì đó là điều Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 22
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời ra báo về thung lũng khải tượng: Vì cớ gì mà các ngươi lại lên hết trên mái nhà vậy?
|
||
\v 2 Một cái thành ồn ào, một thị trấn vui chơi, ăn uống; kẻ chết của các người không chết vì gươm, chúng cũng chẳng chết trận.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Mọi kẻ cai trị các ngươi đều cùng chạy trốn, nhưng chúng bị bắt lại mà không cần cung tên, hết thảy chúng đều bị bắt lại và bị khống chế; chúng đã trốn chạy từ rất xa.
|
||
\v 4 Vậy nên tôi nói: “Đừng nhìn tôi, tôi sẽ khóc thảm thiết; đừng tìm cách an ủi tôi về sự hủy diệt con gái của dân mình.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì Giê-hô-va của các đạo binh định ra một ngày náo động, giẫm đạp, đầy hỗn loạn trong thung lũng khải tượng, ngày thành trì bị sụp đổ và người ta kêu cứu núi đồi.
|
||
\v 6 Ê-lam cầm ống tên lên, với xe ngựa và lính kỵ, còn Ki-rơ để trần thuẫn nó.
|
||
\v 7 Rồi các thung lũng tốt đẹp nhất của các ngươi sẽ đầy xe ngựa chiến, còn lính kỵ sẽ dàn quân ở cổng thành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Chúa đã cất đi sự che chở của Giu-đa; trong ngày đó các ngươi sẽ trông chờ vào số vũ khí trong Cung điện Rừng.
|
||
\v 9 Các ngươi đã thấy thành Đa-vít có nhiều chỗ hư hại, và các ngươi đã thâu trữ nước của hồ dưới.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Các ngươi đếm số nhà cửa tại Giê-ru-sa-lem, rồi phá dỡ các ngôi nhà để củng cố vách thành.
|
||
\v 11 Các ngươi làm một hồ giữa hai vách tường thành để trữ nước của ao cũ. Nhưng các ngươi lại không đếm xỉa đến Đấng tạo dựng thành phố cách đây đã lâu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Trong ngày đó, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh kêu gọi phải khóc lóc, tiếc thương, cạo đầu, mặc vải thô.
|
||
\v 13 Nhưng kìa, thay vì vậy, người ta lại ăn mừng, vui sướng, mổ bò, giết chiên, ăn thịt, uống rượu; hãy ăn uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết.
|
||
\v 14 Giê-hô-va của các đạo binh đã bày tỏ trong tai tôi: “Thậm chí đến chết chắc chắn các ngươi cũng không được tha tội này,” Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Hãy đi đến nhà Sép-na, viên quản lý trông coi nhà này, và nói:
|
||
\v 16 “Ngươi có gì ở đây, và ngươi là ai mà lại đục cho mình một phần mộ? ngươi đã đục một ngôi mộ ở trên cao, khoét cho mình một nơi yên nghỉ trong đá!’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Này, Giê-hô-va sắp quẳng ngươi đi, hỡi kẻ quyền lực kia, Ngài sẽ ném ngươi xuống; Ngài sẽ túm chặt ngươi.
|
||
\v 18 Chắc chắn Ngài sẽ quơ ngươi vòng vòng rồi ném ngươi như trái bóng vào một xứ sở rộng mênh mông. Ngươi sẽ chết ở đó, là nơi có các xe chiến mã của ngươi; Ngươi sẽ là sự sỉ nhục của nhà chủ mình!
|
||
\v 19 “Ta sẽ phế truất ngươi và hạ bệ ngươi. Ngươi sẽ bị kéo xuống.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Trong ngày đó Ta sẽ kêu gọi đầy tớ ta là Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia.
|
||
\v 21 Ta sẽ lấy áo ngươi mặc cho người, và thắt cho người cân đai của ngươi; Ta cũng sẽ lấy thẩm quyền của ngươi trao vào tay người. Người sẽ làm cha của dân cư Giê-ru-sa-lem và của nhà Giu-đa.
|
||
\v 22 Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít lên vai người; khi người mở thì chẳng ai đóng; khi người đóng thì chẳng ai mở.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ta sẽ khiến người vững chắc như đinh đóng cột, và người sẽ thành ngôi vinh hiển cho nhà cha mình.
|
||
\v 24 Chúng sẽ mặc cho người mọi vinh quang của nhà cha người, con cháu, hậu tự, mọi vật chứa bé nhỏ, từ chén tách cho đến tất cả các bình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Trong ngày đó — đây là lời phán của Giê-hô-va của các đạo binh — cái chốt đóng vào nơi chắc chắn sẽ long ra, gãy lìa, rơi rụng, và sức nặng máng lên đó sẽ bị tụt đứt — vì Giê-hô-va đã phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 23
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Lời rao báo về Ty-rơ. Này, các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì chẳng có nhà ở hay bến cảng nào cho các ngươi; đó là điều đã tỏ cho chúng biết từ xứ Kit-tim.
|
||
\v 2 Các ngươi là dân cư vùng duyên hải, là các thương nhân thành Si-đôn, vốn chuyên đi biển và có những đại lý cung cấp hàng hóa cho, hãy sững sờ.
|
||
\v 3 Theo đường biển, ngũ cốc của vùng Si-hô, mùa màng của sông Nin được đem đến Ty-rơ; nó là nơi mua bán của các nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Hỡi Si-đôn, hãy hổ thẹn; vì, hỡi kẻ hùng mạnh trên biển, biển cả đã lên tiếng, rằng: “Ta chưa từng đau đẻ hay sinh con; ta cũng chưa từng nuôi nấng thanh niên, hoặc dưỡng dục thiếu nữ.”
|
||
\v 5 Khi tin này đến Ai Cập, người ta sẽ thương tiếc Ty-rơ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hãy vượt biển qua Ta-rê-si; các ngươi là dân cư vùng duyên hải, hãy than khóc.
|
||
\v 7 Việc này đã xảy đến cho ngươi chưa, hỡi thành vui sướng, có gốc gác từ thời xưa, có đôi chân từng đưa mình đến những vùng đất xa lạ để lập cư?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ai đã hoạch định điều này nghịch lại Ty-rơ, là kẻ ban vương miện, có thương nhân là những ông hoàng và giới buôn bán được trọng vọng trên đất?
|
||
\v 9 Giê-hô-va của các đạo binh hoạch định việc ấy để hạ nhục tánh kiêu hãnh cùng mọi vinh quang nó, để làm xấu hổ mọi kẻ được trọng vọng của nó trên đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hỡi con gái Ta-rê-si, hãy cày đất mình như người ta cày sông Nin. Chẳng còn thương trường tại Ty-rơ.
|
||
\v 11 Giê-hô-va đã đưa tay Ngài ra trên biển, và Ngài đã làm rúng động các nước; Ngài đã truyền lệnh về Phê-nê-xi, để hủy phá các đồn lũy nó.
|
||
\v 12 Ngài phán: “Hỡi con gái Si-đôn, là trinh nữ bị áp chế kia, ngươi sẽ chẳng được vui mừng trở lại đâu. Hãy trỗi dậy vượt biển qua Chíp-rơ; cho dù ở đó ngươi cũng chẳng được yên nghỉ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Hãy xem xứ của dân Canh-đê. Dân đó đã không còn tồn tại; người A-si-ri đã biến nó thành vùng đất hoang cho thú rừng. Chúng dựng tháp bủa vây; chúng phá sập cung đền; chúng biến nó thành đống đổ nát.
|
||
\v 14 Hỡi các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì nơi trú ẩn của các ngươi đã bị phá hủy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Vào ngày đó, Ty-rơ sẽ bị quên lãng trong bảy mươi năm, tương đương một đời vua. Cuối bảy mươi năm đó, việc xảy đến tại Ty-rơ sẽ giống như trong bài hát của gái điếm.
|
||
\v 16 Hỡi cô gái điếm bị lãng quên kia, hãy lấy đàn hạt mà đi dạo quanh thành; hãy chơi cho giỏi, hát cho nhiều, để được người ta nhớ đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Sau bảy mươi năm, Giê-hô-va sẽ giúp Ty-rơ, và nó sẽ trở lại nghề cũ. Nó sẽ hành nghề buôn hương với tất cả các nước trên mặt đất.
|
||
\v 18 Lợi nhuận và thu nhập của nó sẽ được hiến cho Giê-hô-va, mà không cất giữ, cũng không để dành lại. Hàng hóa nó sẽ cung cấp thực phẩm, áo quần lâu bền cho những kẻ sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 24
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Kìa, Giê-hô-va sắp làm cho trái đất ra trống vắng, khiến nó hoang vu, phá hủy bề mặt nó, và rải dân cư nó ra.
|
||
\v 2 Khi đó thầy tế lễ sẽ như dân thường; ông chủ sẽ như đầy tớ trai; bà chủ sẽ như đầy tớ gái; người bán sẽ như kẻ mua; con nợ sẽ như chủ nợ; kẻ lấy lãi sẽ như người trả lãi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Trái đất sẽ bị tàn phá hết và hoàn toàn suy kiệt; vì Giê-hô-va đã phán lời này.
|
||
\v 4 Trái đất sẽ teo tóp, héo mòn đi, thế giới co quắt lại, tan biến, lớp người ưu tú trên đất gầy mòn đi.
|
||
\v 5 Đất bị dân cư nó làm cho ô uế vì chúng đã vi phạm luật pháp, làm trái quy định, phá bỏ giao ước đời đời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vậy nên đất bị rủa sả và dân cư nó mắc tội. Dân cư trên đất bị cháy thiêu, chỉ còn lại ít người.
|
||
\v 7 Rượu mới khô sạch, cây nho tàn héo, mọi kẻ yêu đời đều than vãn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Tiếng trống vui đã dứt, cuộc chè chén của kẻ vui mừng đã tàn, tiếng đàn hoan lạc đã tắt.
|
||
\v 9 Người ta không còn uống rượu hoặc ca hát, và rượu trở đắng cho người uống.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Cái thành hỗn loạn đã đổ xuống, nhà nhà đóng kín cửa và trống không.
|
||
\v 11 Người ta kêu la ngoài đường vì rượu; mọi hân hoan đều tắt lịm, niềm vui sướng trong xứ biến mất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Trong thành chỉ còn cảnh tan hoang, cổng thành thì đổ nát.
|
||
\v 13 Vì đây là điều sẽ xảy đến giữa vòng các dân trên khắp đất, như khi người ta đập cây ô liu, như việc mót lượm khi mùa hái nho đã xong.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Người ta sẽ cất tiếng tung hô sự oai nghiêm của Giê-hô-va, và sẽ từ hướng biển mà reo mừng.
|
||
\v 15 Vậy nên ở phương đông hãy tôn vinh Giê-hô-va, giữa các hải đảo hãy dâng vinh hiển cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Từ chốn tận cùng của trái đất chúng tôi có nghe tiếng hát, rằng: “Chúc cho kẻ công chính được vinh hiển!” Nhưng tôi bảo: “Tôi thật tiều tụy, tôi đã suy kiệt, thật bất hạnh cho tôi! Kẻ phản bội thì bội phản; thật, kẻ phản bội rất tráo trở.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Sự kinh hãi, hầm, bẫy giáng trên các ngươi là dân cư trên đất.
|
||
\v 18 Ai chạy thoát khỏi tiếng kinh hãi sẽ rơi xuống hầm, kẻ lên được khỏi hầm sẽ bị mắc vào bẫy. Các cửa sổ trên trời sẽ mở ra, và các nền trái đất sẽ rúng động.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Trái đất sẽ vỡ tan; trái đất sẽ bị xé ra; trái đất sẽ rung chuyển mạnh.
|
||
\v 20 Trái đất sẽ chao đảo như người say và đong đưa tới lui như chiếc võng. Sự vi phạm của nó sẽ đè nặng trên nó, và nó sẽ đổ xuống, không dậy được nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ hình phạt đạo binh thiên sứ trên cao cùng các vua hạ giới dưới đất.
|
||
\v 22 Chúng sẽ bị dồn lại như kẻ tù dưới hầm, và sẽ bị nhốt vào ngục; sau nhiều ngày chúng sẽ bị kết tội.
|
||
\v 23 Rồi mặt trăng sẽ xấu hổ, mặt trời bị nhuốc nhơ, vì Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cai trị trên núi Si-ôn và tại Giê-ru-sa-lem trong vinh quang trước mặt các trưởng lão.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 25
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con; con sẽ tôn cao Chúa, con sẽ ca ngợi danh Ngài; vì với lòng thành tín trọn vẹn, Ngài đã làm những việc kỳ diệu, là những việc được hoạch định từ lâu.
|
||
\v 2 Chúa đã biến thành kiên cố ra đống đổ nát, thành lũy của người ngoại quốc không còn là thành nữa.
|
||
\v 3 Vì vậy, một dân hùng mạnh sẽ tôn vinh Chúa; một thành của các dân tàn bạo sẽ kính sợ Chúa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì Chúa là chốn dung thân cho kẻ nghèo, là Đấng bảo vệ người thiếu thốn trong lúc cùng khốn, là nơi tránh bão, là bóng che nắng nóng, khi sự cuồng nộ của bọn hung ác giống như trận cuồng phong quật vào vách tường.
|
||
\v 5 Chúa sẽ chế ngự tiếng náo động của người ngoại quốc như sức nóng giữa lúc nắng hạn; cái nóng bị bóng mây chế ngự thể nào thì bài ca của kẻ tàn bạo cũng bị dập tắt như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Trên núi này, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dọn cho mọi dân một bữa tiệc bằng thức béo, bằng rượu thượng hạng, bằng thịt mềm, một bữa tiệc bằng bã rượu.
|
||
\v 7 Tại núi này Ngài sẽ trừ bỏ cái màn che phủ trên mọi dân, tấm khăn dệt trên mọi nước.
|
||
\v 8 Ngài sẽ nuốt chửng sự chết mãi mãi, và Chúa Giê-hô-va sẽ lau hết nước mắt trên mọi gương mặt; Chúa sẽ cất khỏi đất sự sỉ nhục của dân mình, vì Giê-hô-va đã phán lời này.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Trong ngày đó, người ta sẽ bảo: “Này, đây là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã trông đợi Ngài, và Ngài sẽ cứu chúng ta. Đây chính là Giê-hô-va; chúng ta đã trông đợi Ngài, chúng ta sẽ sung sướng, vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài.”
|
||
\v 10 Vì tay Chúa sẽ đặt trên núi này; và Mô-áp sẽ bị giẫm đạp tại chỗ nó, như rơm rạ bị giẫm đạp trong hố phân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Chúng sẽ sải tay ra giữa hố, như người bơi lội sải tay bơi; nhưng Giê-hô-va sẽ trừ khử tánh kiêu căng nó cho dù tay nó có vùng vẫy.
|
||
\v 12 Các vách tường cao của thành lũy ngươi Ngài sẽ san phẳng, xuống tận bụi đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 26
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong ngày đó người ta sẽ hát bài ca này trong xứ Giu-đa: Chúng ta có một thành vững chắc; Đức Chúa Trời lấy sự cứu rỗi làm thành lũy nó.
|
||
\v 2 Hãy mở cổng ra để dân công chính trung kiên vào thành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Kẻ nào để trí mình nương dựa vào Ngài thì Ngài sẽ gìn giữ được hoàn toàn bình an, vì người tin cậy Ngài.
|
||
\v 4 Hãy mãi mãi tin cậy Giê-hô-va; vì Chúa, tức Giê-hô-va, là vầng đá muôn đời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì Chúa sẽ đánh đổ kẻ sống kiêu ngạo; thành kiên cố Ngài sẽ triệt phá, hạ nó xuống đất; Ngài sẽ san phẳng nó ra tro bụi.
|
||
\v 6 Nó sẽ bị bàn chân kẻ nghèo giẫm lên, bị người thiếu thốn giày đạp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Hỡi Đấng Công Chính, đường của người công chính thì bằng phẳng; Ngài khiến con đường người công chính ra ngay thẳng.
|
||
\v 8 Đúng vậy, hỡi Giê-hô-va, theo cách Ngài đoán xét, chúng con trông đợi Ngài; danh Chúa và tiếng tăm của Ngài chính là niềm ao ước của chúng con.
|
||
\v 9 Đang ban đêm con đã khao khát Ngài; thật, linh hồn ở trong con sốt sắng tìm kiếm Ngài. Vì khi sự phán xét của Chúa diễn ra trên đất thì dân cư trên thế giới học biết sự công chính.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Nguyện ơn cứ được tỏ cho kẻ ác, nhưng nó sẽ chẳng học biết công chính. Trong đất người ngay thẳng, hắn vẫn hành xử gian ác và chẳng nhìn thấy sự oai nghi của Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Giê-hô-va ôi, tay Chúa giáng lên mà chúng chẳng để ý. Nhưng chúng sẽ thấy lòng nhiệt thành Chúa đối với dân này và bị xấu hổ, vì lửa của các kẻ thù Ngài sẽ thiêu nuốt chúng.
|
||
\v 12 Giê-hô-va ôi, Ngài sẽ cho chúng con được bình an; vì, thật, Chúa cũng đã hoàn tất mọi việc cho chúng con.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Hỡi Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của chúng con, đã có những chủ khác cai trị chúng con; nhưng chúng con chỉ ca ngợi danh Ngài thôi.
|
||
\v 14 Chúng đã chết, chúng sẽ không sống nữa; chúng đã khuất, chúng sẽ chẳng sống lại. Thật, Chúa đã đến phán xét và tiêu diệt chúng, xóa sạch mọi ký ức về chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Giê-hô-va ôi, Chúa đã khiến dân này đông lên, Ngài đã khiến họ thêm nhiều; Chúa được tôn kính; Chúa đã mở rộng ranh giới đất này.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Giê-hô-va ôi, trong lúc gian nan, chúng đã nhìn lên Chúa; chúng thậm chí tụng niệm thần chú để xua đuổi cái ác khi Chúa sửa phạt.
|
||
\v 17 Thai phụ gần giờ sinh nở, bị đau đớn và kêu la lúc chuyển dạ thì, Chúa ôi, chúng con cũng giống như vậy trước mặt Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Chúng con đã thai nghén, chúng con đã quặn thắt, nhưng dường như thể chúng con chỉ sinh ra gió. Chúng con không đem đến sự cứu rỗi trên đất, mà dân cư thế gian cũng chẳng được sinh ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Người chết của Chúa sẽ sống; thân xác đã chết của chúng con sẽ trỗi dậy. Hỡi những kẻ nằm trong cát bụi, hãy thức dậy hát mừng; vì sương móc của Chúa là sương móc dược thảo, và đất sẽ buông kẻ chết là con mồi của nó ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Hỡi dân Ta, hãy đi vào phòng mình rồi đóng cửa lại; hãy ẩn mình một thời gian cho đến khi sự phẫn nộ đã qua.
|
||
\v 21 Vì, kìa, Giê-hô-va sắp từ nơi Ngài đến để hình phạt dân cư trái đất vì tội lỗi chúng; đất sẽ để ra lộ máu đã bị đổ, và sẽ không còn chôn giấu những kẻ đã bị giết chết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 27
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong ngày đó, Giê-hô-va sẽ dùng thanh gươm cứng, lớn và kinh khiếp để trừng phạt con rắn lẹ làng Lê-vi-a-than, tức con rắn Lê-vi-a-than luồng lách, và Ngài sẽ giết chết con quái vật ở dưới biển.
|
||
\v 2 Trong ngày đó: Hãy hát về một vườn nho sinh rượu.
|
||
\v 3 “Ta, Giê-hô-va, là Đấng bảo vệ nó; Ta tưới nó hằng ngày; đêm ngày Ta canh giữ nó để chẳng ai làm hại nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Ta không giận, ôi, ước gì có tầm xuân và gai gốc! Ta sẽ xung trận đấu địch với nó; Ta sẽ đốt sạch chúng nó chung với nhau;
|
||
\v 5 trừ khi chúng biết quý sự bảo vệ của Ta và làm hòa với Ta; chúng phải làm hòa với Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Về sau này, Gia-cốp sẽ đâm rễ; Y-sơ-ra-ên sẽ nở hoa, ra nụ; và trái của chúng sẽ đầy khắp mặt đất.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Giê-hô-va có đánh Gia-cốp như Ngài đánh các dân đã đánh họ chăng? Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên có bị tàn sát như các dân mà họ đã tàn sát chăng?
|
||
\v 8 Chúa đã tranh biện y như vậy mà đày Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên đi; Ngài dùng ngọn gió khắc nghiệt đuổi họ đi trong ngày có gió đông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Cho nên theo cách này mà tội của Gia-cốp sẽ được chuộc, vì đó sẽ là kết quả đầy đủ của việc nó lìa bỏ tội lỗi mình. Ngài sẽ khiến toàn thể đá bàn thờ ra như phấn bị nghiền nát, và chẳng có tượng A-sê-ra hay bàn thờ xông hương nào còn đứng vững.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vì thành kiên cố đổ nát, nhà cửa bị bỏ hoang như hoang mạc. Đó là nơi bò tơ gặm cỏ; tại đó nó nằm nghỉ và ăn các nhánh mình.
|
||
\v 11 Khi các nhánh lớn bị khô héo thì chúng gãy xuống. Mấy bà sẽ đến lấy mà chụm lửa, vì đây không phải là một dân hiểu biết. Vậy nên Đấng tạo dựng chúng chẳng thương xót chúng, Đấng tạo ra chúng không khoan dung với chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ đập lúa từ dòng chảy của sông Ơ-phơ-rát cho đến khe suối Ai Cập, và, hỡi dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ được thâu về từng người một.
|
||
\v 13 Trong ngày đó sẽ có tiếng kèn lớn thổi lên; những kẻ bị sắp diệt vong trong xứ A-si-ri sẽ đến, và những kẻ bị hất hủi tại đất Ai Cập sẽ thờ phượng Giê-hô-va trên núi thánh tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 28
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bất hạnh thay cho vòng hoa ngạo mạn của bọn say rượu ở Ép-ra-im, cùng đóa hoa đang phai tàn về vẻ đẹp rạng rỡ nó, ở trên đầu thung lũng phì nhiêu của những kẻ bị rượu khuất phục!
|
||
\v 2 Kìa, Chúa có một đấng năng quyền, mạnh mẽ; như cơn bão mưa đá, là cơn bão hủy diệt, như cơn giông tố ào ào ập đến. Ngài sẽ dùng tay mình mà đánh trái đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vòng hoa ngạo mạn của những kẻ say sưa Ép-ra-im sẽ bị giẫm đạp dưới chân.
|
||
\v 4 Đóa hoa phai tàn của vẻ đẹp rạng rỡ nó trên đầu thung lũng phì nhiêu sẽ như trái vả chín đầu tiên trước mùa hạ mà khi ai đó bắt gặp thì hái vào tay và nuốt ực.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Trong ngày đó, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ trở nên vương miện vinh hiển, một mão miện đẹp đẽ cho số dân Ngài còn sót lại,
|
||
\v 6 một linh công chính cho kẻ ngồi xét xử, và sức mạnh cho những kẻ đẩy lùi quân địch tại cổng thành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Nhưng thậm chí những kẻ này cũng lảo đảo vì rượu vang và nghiêng ngã vì rượu mạnh. Thầy tế lễ và tiên tri loạng choạng vì rượu mạnh, chúng bị rượu vang nuốt chửng. Chúng nghiêng ngã vì rượu mạnh, lảo đảo trong thị kiến, loạng choạng khi phân xử.
|
||
\v 8 Thật, chúng mửa ra đầy bàn, chẳng còn chỗ nào sạch.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Nó còn dạy tri thức cho ai nữa? Nó còn giải nghĩa sứ điệp cho ai được? Phải chăng cho những đứa bé mới cai sữa, cho trẻ con vừa thôi bú?
|
||
\v 10 Vì mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Thật, Ngài sẽ dùng môi giễu cợt và lưỡi xa lạ mà phán với dân này.
|
||
\v 12 Trong quá khứ, Ngài phán với họ: “Đây là chỗ yên nghỉ, hãy để cho kẻ mỏi mệt được nghỉ ngơi; đây là nơi yên tịnh,” nhưng chúng đâu có nghe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Vậy nên lời của Giê-hô-va đối với chúng sẽ là mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút; để rồi chúng sẽ đi và té ngữa, bị vỡ nát, bị mắc bẫy và bị bắt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vậy, hãy nghe lời Giê-hô-va, Đấng các ngươi chế nhạo, cũng là Đấng cai trị dân này tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 15 Các ngươi nói: “Chúng ta đã kết ước với sự chết; chúng ta đã thỏa thuận với âm phủ. Vậy nên khi sự đoán phạt kinh khiếp đi qua thì sẽ không đụng đến được chúng ta, vì chúng ta đã lấy sự dối trá làm nơi nương náu, lấy sự giả dối làm nơi ẩn núp.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vì vậy, Chúa Giê-hô-va phán: “Này, Ta sẽ đặt tại Si-ôn một tảng đá nền, là đá đã được thử nghiệm, đá góc quý báu, nền tảng vững chắc. Kẻ nào tin sẽ không xấu hổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ta sẽ lấy công lý làm thước đo, lấy sự công chính làm dây mực. Mưa đá sẽ quét sạch nơi nương náu dối trá, nước lũ sẽ tràn ngập chỗ các ngươi trú ẩn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Giao ước của các ngươi với sự chết sẽ bị hủy, thỏa thuận của các người với âm phủ sẽ không còn. Khi lũ dữ tràn qua, các ngươi sẽ bị nó nhận chìm.
|
||
\v 19 Khi tràn qua, nó sẽ phủ lút các ngươi; cứ mỗi sáng nó lại tràn qua, ngày đêm gì nó cũng vẫn đến. Sứ điệp khi hiểu được sẽ gây ra nỗi kinh hoàng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Vì giường ngắn quá người ta không duỗi mình được, mền hẹp quá họ không quấn mình được.
|
||
\v 21 Giê-hô-va sẽ trỗi dậy như trên núi Phê-ra-xim; Ngài sẽ thức tỉnh như ở thung lũng Ghi-bê-ôn, để làm công việc mình, là công việc kỳ lạ, và thực hiện công việc lạ thường của Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vậy nên bây giờ đừng chế nhạo nữa, kẻo xiềng xích các ngươi sẽ siết chặt thêm. Tôi được nghe từ Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh một sắc chỉ về việc tiêu diệt trái đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Hãy để ý nghe tiếng tôi; hãy chú tâm nghe lời tôi.
|
||
\v 24 Phải chăng nhà nông suốt ngày cày đất gieo giống chỉ lo cày không thôi? Phải chăng người cứ vỡ đất và bừa mãi?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Khi đã làm đất xong xuôi, người lại không gieo tiểu hồi, đại hồi, cấy lúa mì theo hàng, lúa mạch vào đúng chỗ, đại mạch ở bờ rìa sao?
|
||
\v 26 Đức Chúa Trời người chỉ dẫn người; Ngài chỉ dạy người cách khôn ngoan.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Hơn nữa, người không dùng búa đập đại hồi, cũng không dùng bánh xe cán lên đại hồi; nhưng người lại dùng gậy mà đập tiểu hồi.
|
||
\v 28 Hạt lúa thì xay ra làm bánh, nhưng không được quá mịn, và dầu nó đi qua dưới bánh xe và chân ngựa, nhưng ngựa không giẫm nát nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Điều này cũng từ nơi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng chỉ dạy tuyệt vời và khôn ngoan trổi vượt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 29
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bất hạnh thay cho A-ri-ên, là thành A-ri-ên nơi Đa-vít đóng trại! Hết năm này sang năm khác; cứ để các kỳ lễ diễn ra.
|
||
\v 2 Nhưng Ta sẽ vây hãm A-ri-ên, và nó sẽ tiếc thương, than khóc; và nó đối với Ta sẽ như A-ri-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía, dùng rào cọc vây bọc ngươi, và Ta sẽ dựng công sự hãm đánh ngươi.
|
||
\v 4 Ngươi sẽ bị đánh hạ và từ dưới đất ngươi sẽ lên tiếng; lời nói từ dưới đất của ngươi sẽ chẳng ai nghe thấy. Tiếng của ngươi sẽ như ma quỷ ra từ đất, và tiếng ngươi sẽ rất yếu ớt từ bụi đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Lũ quân xâm chiếm ngươi sẽ như bụi nhỏ, và đám người bạo tàn sẽ như trấu bay đi. Việc ấy sẽ xảy đến thình lình, tức thì.
|
||
\v 6 Ngươi sẽ bị Giê-hô-va của các đạo binh hình phạt bằng sấm sét, động đất, tiếng ồn lớn, gió mạnh và bão tố dữ dội, cùng với ngọn lửa thiêu nuốt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Việc này sẽ giống như một giấc mơ, một khải tượng trong ban đêm: Một đám quân thuộc mọi dân sẽ tranh chiến với A-ri-ên và thành trì nó. Chúng sẽ tiến đánh nó cùng các cộng sự nó để dồn ép nó.
|
||
\v 8 Việc sẽ như người đói nằm mơ thấy mình được ăn, nhưng khi thức dậy thì bao tử vẫn trống rỗng. Nó sẽ như người khát mơ thấy mình uống nước, nhưng khi thức giấc lại muốn lã đi vì vẫn còn khát. Thật, đoàn lũ các dân tranh chiến với núi Si-ôn cũng như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Hãy kinh ngạc và sững sờ; hãy khiến mình bị mù và mù lòa đi! Hãy say, nhưng chẳng phải vì rượu; hãy đi lảo đảo nhưng chẳng phải do rượu.
|
||
\v 10 Vì Giê-hô-va đã trút đổ lên các ngươi thần ngủ mê. Ngài đã bịt mắt giới tiên tri các ngươi; Ngài đã trùm đầu giới tiên kiến các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Mọi sự mặc khải đối với các ngươi đã nên giống như chữ nghĩa trong cuốn sách bị niêm phong mà người ta trao cho một kẻ biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi,” nhưng người đáp lại: “Tôi không đọc được vì sách bị niêm phong rồi.”
|
||
\v 12 Nếu sách được trao cho kẻ không biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi,” thì nó sẽ đáp: “Tôi có biết đọc đâu.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Chúa phán: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng lưỡi và tôn kính Ta bằng môi miếng, còn lòng chúng nó thì cách xa Ta. Việc chúng nó tôn kính Ta chỉ là răn giới do người ta dạy cho.
|
||
\v 14 Vậy nên, này, Ta sẽ cứ thực hiện việc kỳ lạ giữa dân này, hết việc lạ này đến việc lạ khác. Sự khôn ngoan của kẻ khôn sẽ hư hoại đi, sự hiểu biết của kẻ dẽ dặt sẽ biến mất.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Bất hạnh thay cho kẻ che giấu Giê-hô-va các toan tính mình và thực hiện công việc trong bóng tối. Chúng bảo: “Ai thấy được chúng ta, có ai biết chúng ta đâu?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Các ngươi đảo lộn mọi thứ! Có nên xem thợ gốm giống như đất sét, để rồi sản phẩm lại nói về người làm ra mình rằng: “Ông ta đâu có làm ra tôi,” hay món đồ nói về kẻ đã tạo ra nó rằng: “Ông ta đâu hiểu biết gì?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Chỉ ít lâu nữa thôi Li-ban sẽ bị biến thành đồng ruộng, và đồng ruộng sẽ trở nên khu rừng.
|
||
\v 18 Trong ngày đó, kẻ điếc sẽ nghe được lời của cuốn sách, còn mắt của người mù sẽ nhìn thấy được từ trong bóng tối dày đặc.
|
||
\v 19 Kẻ bị áp bức sẽ lại vui mừng nơi Giê-hô-va, và kẻ nghèo giữa vòng người ta sẽ hân hoan về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Vì kẻ nhẫn tâm sẽ không còn, kẻ nhạo báng sẽ tiêu vong. Mọi kẻ ưa thích làm ác sẽ bị diệt mất,
|
||
\v 21 tức kẻ dùng lời lẽ biến người ta thành kẻ vi phạm. Chúng đặt bẫy tại cổng thành cho người đi tìm công lý và dùng lời dối trá dìm người công chính xuống.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vậy nên đây là lời Giê-hô-va — tức Giê-hô-va đã cứu chuộc Áp-ra-ham — phán về nhà Gia-cốp: “Gia-cốp sẽ chẳng bị xấu hổ nữa, mặt nó sẽ không còn tái nữa.
|
||
\v 23 Nhưng khi nó thấy các con trai mình, là công việc của tay Ta, chúng sẽ tôn thánh danh Ta. Chúng sẽ tôn thánh danh Đấng Thánh của Gia-cốp và chúng sẽ kính sợ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 24 Những kẻ có tâm thần sai lạc sẽ hiểu biết, và kẻ hay than phiền sẽ học biết tri thức.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 30
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bất hạnh thay cho con cái phản nghịch. Chúng lập kế hoạch chẳng do Ta; chúng liên minh với các dân chẳng bởi Thần Linh Ta chỉ dẫn, cho nên chúng tội càng thêm tội.
|
||
\v 2 Chúng khởi đi xuống Ai Cập mà chưa hỏi ý Ta. Chúng tìm sự bảo vệ của Pha-ra-ôn và nương náu dưới bóng Ai Cập.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vì vậy, các ngươi sẽ xấu hổ về sự bảo vệ của Pha-ra-ôn, và thấy sỉ nhục về việc đi núp bóng Ai Cập,
|
||
\v 4 cho dù các quan tướng nó đã ở tại Xô-an và các sứ giả nó đã đến Ha-ne.
|
||
\v 5 Chúng đều sẽ hổ thẹn về một dân không thể cứu giúp mình, là kẻ chẳng giúp đỡ cũng không hỗ trợ gì, mà lại khiến cho xấu hổ, mất mặt.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Lời rao báo về các con thú vùng Nê-ghép: Vượt qua vùng đất gian nan, nguy hiểm của sư tử cái, sư tử đực, rắn lục và rắn lửa bay, chúng vận chuyển của cải mình trên lưng lừa, các báu vật mình trên bướu lạc đà, đến một dân không giúp gì cho mình được.
|
||
\v 7 Vì sự trợ giúp của Ai Cập là vô ích; vì vậy, Ta đã gọi nó là Ra-háp, kẻ chỉ biết ngồi yên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Bây giờ, hãy đi và viết lời này trên một tấm bảng trước mặt chúng, chép nó vào một cuốn sách, để có thể được lưu giữ lại như lời chứng trong thời gian tới.
|
||
\v 9 Vì đây là một dân phản trắc, là con cái nói dối, những đứa con không chịu nghe lời chỉ dạy của Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Chúng nói với các đấng tiên kiến: “Đừng tiên kiến làm gì;” và với các nhà tiên tri: “Đừng tiên báo cho chúng tôi thẳng sự thật; hãy nói cho chúng tôi những lời êm tai; hãy nói tiên tri những điều hão huyền;
|
||
\v 11 hãy tách khỏi đường, hãy lìa khỏi lối; hãy đem Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đi cho khuất mắt chúng tôi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vậy nên Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán: “Vì các ngươi khước từ lời này mà đi tin vào sự áp bức, lừa lọc, và cậy vào đó,
|
||
\v 13 nên tội này đối với các ngươi sẽ giống như một mảng vỡ lồi ra trên vách tường cao sắp đổ xuống, sập xuống thình lình, ngay tức thì.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Chúa sẽ đập vỡ nó như chiếc bình của thợ gốm bể ra; Ngài sẽ chẳng tiếc nó, đến nỗi sẽ chẳng tìm được trong các mảnh vỡ nó một miếng đủ lớn để lấy lửa từ bếp hoặc để múc nước trong bình chứa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán: “Các ngươi được cứu khi quay trở lại và yên nghỉ; các ngươi được sức mạnh là nhờ yên lặng và tin cậy. Nhưng các ngươi lại không chịu.
|
||
\v 16 Vì các ngươi bảo rằng: ‘Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn,’ nên các ngươi sẽ trốn chạy; và rằng: ‘Chúng tôi sẽ phóng ngựa thật lẹ,’ nên những kẻ đuổi theo các ngươi cũng nhanh lẹ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Một người đe dọa sẽ khiến cả ngàn người chạy trốn; chỉ năm người đe dọa các ngươi sẽ tháo chạy cho đến khi số còn lại của các ngươi giống như trụ cờ chơ vơ trên đỉnh núi, hoặc như lá cờ trên ngọn đồi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Nhưng Giê-hô-va chờ đợi để thi ân cho các ngươi. Vậy nên Ngài sẽ được tôn cao, sẵn sàng thương xót các ngươi. Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời công bình; phước cho người trông đợi Ngài.
|
||
\v 19 Vì sẽ có một dân sống tại Si-ôn, tức tại Giê-ru-sa-lem, và các ngươi sẽ chẳng khóc than nữa. Ngài hẵn sẽ khoan dung với các ngươi khi nghe tiếng ngươi kêu xin. Khi Ngài nghe thì Ngài sẽ đáp lời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Cho dù Giê-hô-va ban cho các ngươi bánh hoạn nạn, nước tai vạ, thì thầy giáo các ngươi sẽ chẳng ẩn mặt nữa, mà chính mắt các ngươi sẽ thấy thầy mình
|
||
\v 21 Khi các ngươi quay sang phải hay khi các ngươi ngoảnh sang trái, tai các ngươi sẽ nghe có tiếng nói đằng sau mình, rằng: “Đường đây, hãy theo đó mà đi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Các ngươi sẽ phế bỏ các tượng chạm dát bạc và tượng đúc vàng của mình. Các ngươi sẽ ném chúng đi như vật dơ dáy. Các ngươi sẽ bảo chúng: “Cút khỏi đây.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ngài sẽ ban mưa cho hạt giống các ngươi gieo xuống đất, và ban lương thực dư dật từ đất sinh ra. Mùa màng thu hoạch sẽ dồi dào.
|
||
\v 24 Bò, lừa cày ruộng sẽ ăn rơm rạ chọn lọc mà người ta đã dùng xẻng và chỉa để xới ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Trên mọi núi cao, đồi cao sẽ có khe và suối nước tuôn chảy trong ngày tàn sát kinh khiếp, khi các ngọn tháp bị sụp đổ.
|
||
\v 26 Ánh sáng của mặt trăng sẽ như ánh sáng mặt trời, còn ánh sáng mặt trời sẽ sáng hơn gấp bảy lần, giống như ánh sáng của bảy ngày. Giê-hô-va sẽ buộc lại chỗ bị gãy đổ của dân Ngài và chữa lành các thương tích Ngài đã gây ra cho họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Này, danh Giê-hô-va từ phương xa đến, bừng cháy vì cơn giận của Ngài và chìm ngập trong đám khói dày đặc. Môi Ngài đầy sự thạnh nộ, lưỡi Ngài như đám lửa thiêu nuốt.
|
||
\v 28 Hơi thở Ngài như dòng nước tràn dâng lên đến nửa cổ, để sàng sảy các dân bằng cái rây hủy diệt. Hơi thở Ngài là dây cương nơi hàm của các dân, khiến chúng đi lạc đường.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Các ngươi sẽ hát như trong đêm người ta giữ lễ thánh, và vui sướng trong lòng, như khi người ta đem theo cây sáo đi đến núi của Giê-hô-va, tức đến Vầng Đá của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Giê-hô-va sẽ khiến các ngươi nghe thấy sự oai nghi của tiếng Ngài và tỏ ra cánh tay hành động của Ngài bằng cơn thạnh nộ dữ dội, bằng các ngọn lửa, kèm theo cuồng phong, mưa bão và mưa đá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Vì khi nghe tiếng Giê-hô-va, A-si-ri sẽ tan tành; Ngài sẽ đánh chúng bằng trượng.
|
||
\v 32 Và mỗi khi Giê-hô-va vung gậy đã định trên họ thì sẽ có tiếng nhạc của trống lắc và đàn hạc kèm theo khi Ngài giao tranh, chiến đấu với chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Vì một lò thiêu đã được sửa soạn từ lâu. Thật, nó được sắm sẵn cho vua, và Đức Chúa Trời đã làm ra nó vừa sâu vừa rộng. Giàn thiêu đã sẵn lửa và nhiều củi. Hơi thở của Giê-hô-va như dòng suối diêm sinh sẽ đốt cháy nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 31
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bất hạnh thay cho kẻ đi xuống Ai Cập cầu cứu, nhờ ngựa, cậy xe (vì chúng nhiều) và lính kỵ (vì chúng đông), nhưng lại chẳng quan tâm đến Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, cũng không tìm kiếm Giê-hô-va!
|
||
\v 2 Trong khi Ngài khôn ngoan, có quyền giáng họa, và không nuốt lời mình. Ngài sẽ trỗi dậy nghịch cùng nhà gian ác và cự địch những ai đồng lõa với kẻ phạm tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ai Cập chỉ là loài người, chẳng phải Đức Chúa Trời, ngựa chúng nó chỉ là thịt xương, chẳng phải thần. Khi Giê-hô-va đưa tay ra thì kẻ trợ giúp cũng vấp ngã, mà kẻ được trợ giúp cũng té nhào; cả hai sẽ cùng bị diệt vong.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Như sư tử, thậm chí chỉ là sư tử tơ, gầm gừ trên con mồi bị xé thịt của mình, cho dù cả bọn chăn chiên có đến để hù dọa nó thì nó vẫn chẳng run sợ tiếng hù dọa hoặc rón rén bỏ đi khi nghe tiếng họ; thì cũng vậy, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ xuống mà chiến đấu trên núi Si-ôn, trên ngọn đồi đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chim khi đang bay thế nào thì Giê-hô-va của các đạo binh cũng sẽ che chở Giê-ru-sa-lem giống như vậy; Ngài sẽ che chở và giải cứu khi Ngài đi qua và sẽ bảo toàn nó.
|
||
\v 6 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy quay về với Đấng các ngươi đã cự tuyệt.
|
||
\v 7 Vì trong ngày đó mỗi người sẽ trừ khử các tượng thần bằng bạc, tượng thần bằng đồng do chính tay mình đã phạm tội tạo ra.
|
||
\v 8 A-si-ri sẽ ngã dưới thanh gươm; một thanh gươm chẳng phải bởi con người sẽ tiêu diệt nó. Nó sẽ chạy trốn thanh gươm đó, và giới thanh thiếu niên nó sẽ phải thi hành lao động cưỡng bức.
|
||
\v 9 Vì kinh khiếp chúng sẽ mất hết lòng tin, và các quan tướng nó sẽ sợ hãi khi nhìn thấy cờ hiệu của Giê-hô-va.” — Đó là lời phán của Giê-hô-va, Đấng có lửa tại Si-ôn, có chảo lửa tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 32
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Này, sẽ có một vua dùng sự công chính trị vì, còn các quan tướng lấy công lý mà cai trị.
|
||
\v 2 Mỗi người sẽ như một chỗ núp gió, nơi tránh bão, như suối nước ở nơi khô hạn, như bóng che của vầng đá lớn trong một xứ mỏi mệt.
|
||
\v 3 Khi ấy, mắt của kẻ nhìn thấy sẽ chẳng bị mờ, tai của kẻ nghe sẽ nghe chăm chú.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Kẻ hấp tấp sẽ suy xét chín chắn đầy hiểu biết, và người cà lăm sẽ nói rõ ràng thật dễ dàng.
|
||
\v 5 Kẻ ngu xuẩn sẽ không còn được kể là đáng tôn quý, kẻ lừa lọc sẽ không còn được gọi là người đạo đức.
|
||
\v 6 Vì kẻ ngu thì ăn nói ngu dại, mưu định trong lòng nó chỉ là công việc tà ác, vô đạo, và nó nói phạm Giê-hô-va cách sai trái. Nó khiến bụng kẻ đói trống rỗng, còn kẻ khát thì nó chẳng cho nước uống.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Đường lối của kẻ lừa lọc là xấu xa. Nó nghĩ ra các mưu ác, dùng lời dối trá mà hãm hại kẻ nghèo, ngay cả khi kẻ nghèo nói lời phải.
|
||
\v 8 Còn người cao thượng thì suy tính những điều cao thượng; và nhờ các việc làm cao thượng mình mà người cứ đứng vững.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Các ngươi hạng phụ nữ nhàn rỗi, hãy chờ dậy mà nghe tiếng Ta; các ngươi là bọn thiếu nữ vô tư lự, hãy nghe Ta nói,
|
||
\v 10 Vì, hỡi giới phụ nữ thảnh thơi kia, chỉ trong hơn một năm nữa thôi thì lòng tự tin các ngươi sẽ đổ xuống, vì mùa hái nho sẽ thất bát, vụ thu hoạch sẽ không còn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Hỡi các phụ nữ nhàn hạ, hãy run sợ; hỡi những kẻ tự tin kia, hãy bối rối; hãy cỡi trang phục đẹp đẽ ra mà để mình trần; hãy lấy bao bố quấn ngang lưng.
|
||
\v 12 Các người sẽ than vãn về những cánh đồng tươi mát, về những cây nho sai quả.
|
||
\v 13 Xứ của dân ta sẽ mọc đầy gai gốc, tầm xuân, thậm chí trong các ngôi nhà từng một thời vui sướng tại một thành phố ăn chơi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vì cung điện bị từ bỏ, thành đông đúc bị bỏ hoang; đồi và tháp canh sẽ thành ra hang động mãi mãi, nơi lừa rừng vui thú, và là đồng cỏ của bầy vật;
|
||
\v 15 cho đến khi Thần Linh từ trên đổ xuống trên chúng ta, đồng hoang trở thành đồng ruộng phì nhiêu, còn đồng ruộng phì nhiêu thì được xem như khu rừng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Khi ấy, sự công bình sẽ ở trong hoang mạc; sự công chính sẽ ngụ trong đồng ruộng phì nhiêu.
|
||
\v 17 Việc làm của công chính sẽ là bình an; kết quả của công chính sẽ là sự yên tịnh và tin tưởng đời đời.
|
||
\v 18 Dân ta sẽ sống tại nơi ở bình an, trong những ngôi nhà an toàn, ở những nơi nghỉ ngơi yên tĩnh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Nhưng cho dù có mưa đá, khu rừng bị hủy phá, thành phố bị tang hoang,
|
||
\v 20 thì các ngươi, là kẻ gieo giống bên mọi dòng suối, kẻ cho bò và lừa mình ra đi ăn cỏ, vẫn sẽ được phước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 33
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bất hạnh thay cho các ngươi, kẻ hủy diệt mà chưa bị hủy diệt! Bất hạnh thay cho các ngươi, kể bội phản mà chưa bị phản bội! Khi các ngươi thôi hủy diệt thì các ngươi sẽ bị hủy diệt. Khi các ngươi ngưng bội phản thì người ta sẽ phản bội các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Giê-hô-va ôi, xin hãy khoan dung đối với chúng con; chúng con trông đợi Ngài. Xin Chúa làm cánh tay của chúng con mỗi buổi sáng, làm sự cứu rỗi của chúng con trong lúc khốn cùng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Nghe tiếng động lớn, các dân đều trốn chạy; khi Chúa trỗi dậy thì các nước chạy tứ tán.
|
||
\v 4 Chiến lợi phẩm các ngươi được gom lại như châu chấu tụ tập lại; châu chấu nhảy thể nào thì người ta cũng nhảy vồ chụp nó thể ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Giê-hô-va được tôn cao. Ngài ngự ở nơi cao. Ngài sẽ khiến cho Si-ôn đầy sự công bình, chính trực.
|
||
\v 6 Ngài sẽ là sự ổn định cho thời đại các ngươi, là ơn cứu rỗi tràn tuôn, là sự khôn ngoan cùng tri thức; sự kính sợ Giê-hô-va là châu báu Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Kìa, các sứ thần của chúng đang kêu khóc trên đường phố; giới ngoại giao kỳ vọng hòa bình khóc lóc đắng cay.
|
||
\v 8 Đường lộ thì vắng vẻ; chẳng còn lữ khách. Hiệp ước bị vi phạm, nhân chứng bị coi khinh, và thành phố bị xem thường.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Xứ sở khóc than, hao mòn đi; Li-ban bối rối và tàn héo; Sa-rôn giống như sa mạc phẳng lì; Ba-san và Cạt-mên thì trụi lá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Giê-hô-va phán: “Bấy giờ Ta sẽ trỗi dậy; bấy giờ Ta sẽ được nâng lên; bấy giờ Ta sẽ được tôn cao.
|
||
\v 11 Các ngươi thai nghén trấu, và các ngươi sinh ra gốc rạ; hơi thở các ngươi là lửa thiêu nuốt chính các ngươi.
|
||
\v 12 Các dân sẽ bị đốt cháy thành vôi, như bụi gai bị chặt và đốt đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Các ngươi là kẻ ở xa, hãy nghe biết những gì Ta đã làm; còn các ngươi là kẻ ở gần, hãy biết sức mạnh Ta.”
|
||
\v 14 Những kẻ có tội tại Si-ôn sợ hãi; các kẻ vô đạo thì run rẩy. Ai trong chúng ta có thể ở cùng lửa hừng hực? Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Đó là kẻ bước đi cách công chính và ăn nói thành thật; kẻ coi khinh lợi lộc do áp bức, từ chối nhận hối lộ, không mưu tính phạm tội bạo hành, chẳng chăm nhìn sự dữ.
|
||
\v 16 Ngươi sẽ sống ở nơi cao; chốn phòng vệ của ngươi sẽ là pháo đài bằng đá; đồ ăn, nước uống của ngươi sẽ được chu cấp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Mắt các ngươi sẽ chiêm ngưỡng vua trong vẻ đẹp của người; họ sẽ ngắm nhìn miền đất bao la.
|
||
\v 18 Lòng các ngươi sẽ hồi tưởng lại nỗi kinh hoàng; thầy dạy luật ở đâu, kẻ cân tiền bạc ở đâu? Kẻ đếm các đồn lũy ở đâu?
|
||
\v 19 Các ngươi sẽ không còn thấy những kẻ kênh kiệu, là dân nói thứ tiếng xa lạ mà các ngươi chẳng hiểu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành của các kỳ lễ chúng ta; mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem là nơi ở yên tịnh, là lều trại không bị dời đi, các cọc nó sẽ không bao giờ bị nhổ, các dây chằng nó chẳng bao giờ đứt.
|
||
\v 21 Thay vào đó, Giê-hô-va trong sự oai nghi Ngài sẽ ở với chúng ta, tại một nơi có các sông, suối lớn. Sẽ chẳng có chiến hạm nào qua lại trên đó, cũng chẳng có tàu lớn nào đi qua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vì Giê-hô-va là thẩm phán của chúng ta, Giê-hô-va là Đấng ban luật lệ, Giê-hô-va làm vua chúng ta. Ngài sẽ cứu chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Các dây buộc bị chùng; chúng không giữ chặt được cột buồm; chúng không thể giương buồm lên; khi người ta chia nhau vô vàn chiến lợi phẩm, thậm chí kẻ què cũng lấy được trong đó.
|
||
\v 24 Dân cư sẽ không nói: “Tôi bệnh;” những người sống ở đó sẽ được tha tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 34
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hỡi các nước, hãy đến gần mà nghe; hỡi các dân, hãy chú ý! Hãy nghe đây, hỡi đất cùng mọi loài sống trên đất, thế gian cùng mọi thứ ra từ đó.
|
||
\v 2 Vì Giê-hô-va nổi giận với các nước, nổi thạnh nộ với quân đội của chúng; Ngài đã diệt sạch chúng, bỏ mặc cho chúng bị tàn sát.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Thây của chúng sẽ bị để vậy mà không được chôn cất; mùi tử khí phảng phất khắp mọi nơi, còn núi non thì đầm đìa máu.
|
||
\v 4 Mọi ngôi sao trên trời sẽ lịm tắt và bầu trờ sẽ bị cuộn lại như cuốn sách; toàn bộ sao trời sẽ tàn lụi, như lá nho héo tàn rơi rụng, như trái vả chín rụng khỏi cây.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì khi thanh gươm Ta đã uống no say trên trời thì, kìa, nó sẽ xuống hành hại Ê-đôm, là dân Ta để riêng ra đặng tiêu diệt.
|
||
\v 6 Gươm của Giê-hô-va nhỏ máu và vấy mỡ, là máu của chiên con và dê, là mỡ từ trái cật của chiên đực. Vì Giê-hô-va có một vật hiến tế ở Bốt-ra, một cuộc tàn sát lớn tại đất Ê-đôm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Bò rừng sẽ bị tàn sát cùng với chúng, bò tót tơ sẽ bị giết chết cùng với bò tót đã lớn. Đất chúng nó sẽ say vì máu, bụi tro chúng nó sẽ mập lên vì béo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Vì đó sẽ là ngày Giê-hô-va báo thù, là năm Ngài báo trả chúng nó vì cớ Si-ôn.
|
||
\v 9 Các khe suối Ê-đôm sẽ biến thành hắc ín, tro bụi nó thành lưu huỳnh, đất đai nó thành hắc ín bừng cháy.
|
||
\v 10 Nó sẽ cháy cả ngày lẫn đêm; khói nó sẽ bốc lên mãi; từ thế hệ này sang thế hệ khác nó sẽ là hoang địa; đời đời sẽ chẳng có ai đi qua đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Chim rừng và thú hoang sẽ sống tại đó; loài cú và loài quạ sẽ làm tổ ở đó. Chúa sẽ giăng trên nó dây đo tàn phá và dây dọi hủy diệt.
|
||
\v 12 Giới quyền quý nó sẽ chẳng còn lại gì để có thể gọi là vương quốc, còn các quan tướng nó sẽ chẳng là gì cả.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Gai gốc sẽ mọc um tùm trong cung đền nó, còn đồn lũy nó thì đầy tầm ma và cỏ dại. Nó sẽ thành chỗ trú của chó rừng, nơi ở của đà điểu.
|
||
\v 14 Thú hoang và linh cẩu sẽ tụ tập tại đó, dê rừng thì gọi nhau. Thú săn mồi ban đêm cũng ở đó và tìm được nơi nghỉ cho mình.
|
||
\v 15 Chim cú sẽ làm tổ, để trứng, ấp trứng cho nở và che chở con mình. Thật, ở đó loài diều hâu sẽ tụ tập lại, trống mái theo cặp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hãy tìm kiếm trong sách của Giê-hô-va; sẽ chẳng thiếu loài nào. Chẳng con nào không đủ đôi; vì miệng Giê-hô-va đã truyền cho chúng, và thần linh Ngài đã nhóm chúng lại.
|
||
\v 17 Ngài đã bắt thăm về chỗ của chúng, tay Ngài đã dùng dây đo phân ranh cho chúng. Chúng sẽ chiếm ngụ nơi ấy mãi mãi; chúng sẽ ở tại đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 35
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Chốn đồng hoang và A-ra-ba sẽ vui sướng; sa mạc sẽ hân hoan và trổ hoa như bông hồng.
|
||
\v 2 Nó sẽ trổ thật nhiều bông và hân hoan vui mừng, ca hát; vinh quang của Li-ban sẽ được ban cho nó, cùng với sự rực rỡ của Cạt-mên và Sa-rôn; người ta sẽ thấy vinh quang của Giê-hô-va, sự chói lọi của Đức Chúa Trời chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Hãy khiến bàn tay yếu đuối nên mạnh, và làm cho vững đầu gối run rẩy.
|
||
\v 4 Hãy nói với những kẻ có lòng sợ hãi: “Phải mạnh mẽ lên, đừng nhát sợ! Kìa, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đến đem theo sự báo thù, cùng sự báo trả của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đến cứu chúng ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Lúc ấy mắt kẻ mù sẽ thấy, tai kẻ điếc sẽ nghe.
|
||
\v 6 Bấy giờ, kẻ què sẽ nhảy như con nai, lưỡi câm sẽ ca hát, vì nước phun ra từ A-ra-ba, khe suối chảy trong hoang mạc.
|
||
\v 7 Cát nóng bỏng sẽ biến thành hồ, đất khô cằn biến thành suối nước; tại nơi ở của chó rừng, nơi chúng vẫn nằm nghỉ, sẽ là cỏ xanh cùng với sậy và cói.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Sẽ có một con đường gọi là Đường Thánh. Kẻ ô uế sẽ không đi trên đường. Mà đường sẽ dành cho kẻ bước đi trong đó. Chẳng có kẻ ngu dại nào đi trên đó.
|
||
\v 9 Sẽ chẳng có sư tử ở đó, cũng chẳng có thú dữ nào trên đường.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Những kẻ được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn ca hát, niềm hân hoan vĩnh cửu sẽ ở trên đầu họ; họ sẽ sung sướng, mừng vui; sự buồn rầu và than vãn sẽ trốn mất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 36
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, vua A-si-ri là San-chê-ríp tiến đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa rồi chiếm lấy.
|
||
\v 2 Sau đó vua A-si-ri sai quan tổng binh từ La-ki dẫn theo đạo quân hùng hậu đến gặp vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Hắn tới gần cống dẫn nước của ao thượng, trên con đường đến cánh đồng của những thợ giặt.
|
||
\v 3 Các quan chức Y-sơ-ra-ên ra ngoài thành nói chuyện với chúng gồm Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, Sép-na, thư ký vua, và quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Viên tổng binh nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng vua lớn, tức vua A-si-ri, nói thế này: ‘Lòng tin của ngươi dựa vào đâu vậy?
|
||
\v 5 Ngươi chỉ phát biểu những lời vô ích, rằng mình có mưu luận và sức mạnh để đối đầu. Vậy, ngươi đang cậy vào ai nhỉ? Ai đã khiến ngươi cả gan phản loạn chống lại ta?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Kìa, ngươi đang cậy Ai Cập, là cây sậy giập nát ngươi dùng làm gậy chống, nhưng khi ai tựa vào nó, thì nó đâm thủng tay kẻ ấy. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, là vậy đó đối với người nào nương tựa nó.
|
||
\v 7 Còn nếu ngươi đáp: “Chúng tôi tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi,” thì này, chẳng phải ngươi đã dẹp bỏ các đền miếu và bàn thờ của Ngài, rồi nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi phải thờ phượng trước bàn thờ này tại Giê-ru-sa-lem” đó sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Vậy nên, bây giờ, ta muốn gửi đến ngươi đề nghị này từ chúa thượng ta, là vua A-si-ri. Ta sẽ cho ngươi hai ngàn con ngựa, nếu ngươi có thể tìm đủ người cưỡi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Liệu ngươi có thể chống lại thậm chí chỉ huy đạo quân ít ỏi nhất giữa vòng các đầy tớ của chúa thượng ta không? Vậy mà ngươi lại cậy vào Ai Cập để có xe binh và lính kỵ!
|
||
\v 10 Rồi đâu phải ta đi lên đây để đánh diệt xứ này mà không có ý của Giê-hô-va? Giê-hô-va đã phán với ta: “Hãy tiến đánh xứ này rồi diệt nó đi.”’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Lúc đó, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, cùng Sép-na và Giô-ách, nói với viên tổng binh: “Xin hãy dùng tiếng A-ram nói chuyện với các tôi tớ ông, vì chúng tôi hiểu được thứ tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng thứ tiếng của dân Giu-đa vì nó sẽ vào tai của những người ở trên thành.”
|
||
\v 12 Nhưng viên tổng binh đáp: “Phải chăng chủ ta phái ta đến nói những lời này với chủ các ngươi và chính các ngươi? Chẳng phải người phái ta đến nói với những kẻ ngồi trên thành đó, là kẻ sẽ ăn phân mình, uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi sao?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Rồi viên tổng binh đứng nói lớn bằng thứ tiếng của dân Giu-đa, rằng: “Hãy nghe lời của vua lớn, tức vua A-si-ri.
|
||
\v 14 Vua bảo: ‘Chớ để Ê-xê-chia lừa dối các ngươi, vì hắn sẽ không thể giải cứu các ngươi đâu.
|
||
\v 15 Đừng để Ê-xê-chia dụ các ngươi tin cậy Giê-hô-va, rằng: “Giê-hô-va hẵn sẽ giải cứu chúng ta; thành sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri đâu.”’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Đừng nghe theo Ê-xê-chia, vì đây là lời vua A-si-ri: ‘Hãy làm hòa với ta và bỏ thành mà ra gặp ta. Rồi mọi người trong các ngươi sẽ được ăn trái của cây nho, trái của cây vả mình, uống nước từ trong bình mình.
|
||
\v 17 Các ngươi sẽ được vậy cho đến khi ta đến đem các ngươi vào một xứ giống như chính xứ của các ngươi đây, là xứ có ngũ cốc và rượu mới, xứ có bánh và vườn nho.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi, rằng: ‘Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta.’ Có thần nào của các dân đã giải cứu họ khỏi quyền lực của vua A-si-ri chưa?
|
||
\v 19 Các thần của Ha-mát và Ạt-bát đâu rồi? Rồi các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Chúng có giải cứu Sa-ma-ri khỏi sức mạnh của ta chăng?
|
||
\v 20 Trong số mọi thần của các xứ đó, có thần nào giải cứu được xứ nó khỏi quyền lực ta, để rồi Giê-hô-va cũng có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi quyền lực ta?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Nhưng dân chúng im lặng, chẳng đáp lại, vì lệnh của vua là: “Đừng đáp lời hắn.”
|
||
\v 22 Rồi Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp, đến gặp vua, quần áo rách tươm, thuật lại cho vua nghe những lời của quan tổng binh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 37
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Khi vua Ê-xê-chia nghe lời tường thuật của họ, vua xé áo mình và lấy vải thô mặc vào, rồi đi đến nhà của Giê-hô-va.
|
||
\v 2 Vua sai Ê-li-a-kim, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng các trưởng lão trong giới thầy tế lễ, tất cả đều mặc vải thô, đến gặp tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Họ nói với ông “Vua Ê-xê-chia bảo: ‘Đây là ngày tai họa, quở phạt và sỉ nhục, giống như khi đứa bé sắp ra đời mà người mẹ lại không đủ sức sinh con mình ra.
|
||
\v 4 Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ nghe lời của quan tổng binh được chủ hắn là vua A-si-ri sai đến để thách thức Đức Chúa Trời hằng sống và sẽ quở phạt các lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe. Giờ đây xin ông hãy dâng lời cầu nguyện vì số người sót lại vẫn còn ở đây.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vậy là các tôi tớ của Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai,
|
||
\v 6 và Ê-sai bảo họ: “Hãy nói với chúa thượng các ngươi thế này: ‘Giê-hô-va phán: “Đừng sợ vì những lời mà các ngươi đã nghe các tôi tớ vua A-si-ri nói phạm đến Ta.
|
||
\v 7 Này, Ta sẽ đặt một linh trong nó, để nó sẽ nghe thuật lại thế này thế nọ, và sẽ quay về xứ. Ta sẽ khiến nó ngã chết vì gươm ngay tại trong xứ mình.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi đó, quan tổng binh trở về và thấy vua A-si-ri đang đánh Líp-na, vì hắn nghe tin vua đã rút khỏi La-ki.
|
||
\v 9 Rồi San-chê-ríp nghe Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi và Ai Cập, đã huy động quân đánh mình, nên hắn lại sai sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, với lời lẽ thế này:
|
||
\v 10 “Hãy bảo Ê-xê-chia, vua Giu-đa: ‘Chớ để Đức Chúa Trời mà ngươi tin cậy đánh lừa ngươi, rằng: “Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Này, ngươi đã nghe những gì các vua A-si-ri đã làm cho mọi xứ khi diệt sạch chúng. Còn ngươi sẽ được giải cứu sao?
|
||
\v 12 Thần của các dân tộc mà cha ông ta đã tiêu diệt, như Gô-xan, Cha-ran, Rết-sép, và dân Ê-đen tại Tê-la-sa – những thần đó có cứu được chúng không?
|
||
\v 13 Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của các thành Sê-phạt-va-im, của Hê-na, và Y-va đâu cả rồi?’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ê-xê-chia nhận thư từ các sứ giả và đọc. Rồi vua đi lên nhà của Giê-hô-va mở bức thư ra trước mặt Ngài.
|
||
\v 15 Ê-xê-chia cầu nguyện cùng Giê-hô-va, rằng:
|
||
\v 16 “Lạy Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Chúa ngự trên các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời tể trị mọi vương quốc trên đất. Chúa đã dựng nên trời, đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Giê-hô-va ôi, xin hãy lắng tai nghe. Giê-hô-va ôi, xin mãy mở mắt xem, và nghe các lời của San-chê-ríp, là lời hắn đã gửi đến chế nhạo Đức Chúa Trời hằng sống.
|
||
\v 18 Ôi, Giê-hô-va, đúng là các vua A-si-ri đã hủy diệt mọi dân cùng xứ sở của họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Chúng đã quăng hết các thần của họ vào lửa, vì đó đâu phải thần thánh gì mà chỉ là công việc bằng gỗ, bằng đá do tay người ta làm ra. Vậy nên người A-si-ri mới diệt chúng được.
|
||
\v 20 Giờ đây, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, hãy cứu chúng con khỏi quyền lực của hắn, để mọi nước trên đất biết rằng chỉ một mình Ngài là Giê-hô-va.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Bấy giờ, Ê-sai, con trai A-mốt, gửi một sứ điệp cho vua Ê-xê-chia, rằng: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: ‘Vì ngươi đã cầu nguyện với Ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri,
|
||
\v 22 cho nên đây là lời của Giê-hô-va phán về nó: “Trinh nữ Si-ôn khinh bỉ ngươi, nhạo cười ngươi; con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu về ngươi.
|
||
\v 23 Ngươi thách thức và xúc phạm ai? Ngươi đã lên giọng và nhướng mắt chống lại ai một cách kiêu ngạo? Ấy là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ngươi đã dùng các tôi tớ mình mà thách thức Chúa, rằng: ‘Nhờ có nhiều binh xa mà ta đã lên được các chót núi, những đỉnh cao ngất của Li-ban. Ta sẽ đốn hạ những cây bá hương cao vút, cùng cây tùng, cây bách đẹp đẽ nhất của nó tại đó, và Ta sẽ vào những vùng cao xa xôi nhất, tức rừng cây sai quả của nó.
|
||
\v 25 Ta đã đào giếng và uống nước xứ lạ; ta đã làm khô cạn mọi dòng sông của Ai Cập dưới lòng bàn chân mình.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ngươi chưa từng nghe biết Ta đã định việc đó từ lâu và đã phác thảo nó từ ngàn xưa sao? Giờ thì Ta đang biến nó thành hiện thực. Ngươi có mặt ở đây để khiến các thành quách vững chắc ra đống đổ nát.
|
||
\v 27 Dân cư chúng nó, vốn sức mọn, bị tan tác và sỉ nhục. Chúng như cây ngoài đồng, như cỏ xanh, là cỏ trên mái nhà hoặc cỏ ngoài đồng, trước gió đông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Nhưng ta biết khi ngươi ngồi xuống, khi ngươi đi ra, đi vào, khi ngươi nổi giận với Ta.
|
||
\v 29 Vì cớ ngươi nổi giận với Ta, và vì sự ngạo mạn của ngươi đã đến tai ta, nên ta sẽ xỏ móc Ta vào mũi ngươi, tra khớp Ta vào miệng ngươi; Ta sẽ khiến ngươi trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Đây sẽ là dấu hiệu cho ngươi: Năm nay các ngươi sẽ ăn hoa quả mọc hoang, rồi trong năm thứ hai, ăn những gì từ đó sinh ra. Nhưng đến năm thứ ba các ngươi phải trồng tỉa và gặt hái, trồng vườn nho và ăn trái nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Dân còn sót còn lại của nhà Giu-đa sẽ đâm rễ và sinh trái.
|
||
\v 32 Vì từ Giê-ru-sa-lem sẽ ra một dân sót; từ núi Si-ôn sẽ xuất hiện số người sống sót.’ Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc này.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Vì vậy, Giê-hô-va phán lời này về vua A-si-ri: “Nó sẽ chẳng vào trong thành, cũng chẳng bắn một mũi tên nào ở đây. Nó cũng sẽ không đem thuẫn đến trước thành, cũng không dựng lũy công hãm thành.
|
||
\v 34 Nó sẽ theo con đường mình đã đến mà trở về; nó sẽ không vào thành. Đó là lời rao báo của Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Vì Ta sẽ bảo vệ thành này và giải cứu nó, vì cớ chính mình và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Lúc ấy, thiên sứ của Giê-hô-va đi ra tấn kích trại của quân A-si-ri, giết chết 185. 000 lính. Khi người ta dậy vào lúc sáng sớm thì thấy xác chết vương vãi khắp nơi.
|
||
\v 37 Vậy là San-chê-ríp, vua A-si-ri, bỏ Y-sơ-ra-ên trở về quê nhà và ở tại Ni-ni-ve.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Về sau, khi hắn đang thờ phụng trong đền của thần mình là Nít-róc, thì hai con trai hắn là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se lấy gươm giết chết hắn. Rồi chúng trốn thoát vào xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai hắn, nối ngôi trị vì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 38
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong giai đoạn đó, Ê-xê-chia mắc bệnh gần chết. Vậy, tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, đến gặp vua, nói với vua: “Giê-hô-va phán: ‘Hãy thu xếp việc nhà đi, vì con sẽ chết chứ chẳng sống đâu.’”
|
||
\v 2 Ê-xê-chia quay mặt vào tường cầu nguyện cùng Giê-hô-va.
|
||
\v 3 Vua thưa: “Ôi, Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại thể nào con đã trọn đời trung tín bước đi trước mặt Chúa, cũng như đã làm điều thiện trước mặt Ngài ra sao.” Rồi Ê-xê-chia khóc nức nở.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Lúc đó, có lời của Giê-hô-va đến với Ê-sai, rằng:
|
||
\v 5 “Hãy đến nói với Ê-xê-chia, kẻ dẫn dắt dân Ta, rằng: ‘Đây là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ Đa-vít ông: Ta đã nghe lời cầu nguyện của con, và đã thấy nước mắt con. Này, Ta sẽ thêm cho đời con mười lăm năm nữa.
|
||
\v 6 Ta cũng sẽ giải cứu con cùng thành này khỏi quyền lực của vua A-si-ri, và sẽ bảo vệ thành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Đây là dấu hiệu Ta, Giê-hô-va, ban cho con, cho thấy Ta sẽ thực hiện điều Ta đã phán:
|
||
\v 8 Này, Ta sẽ khiến bóng trên cầu thang của A-cha lùi lại mười bậc.” Vậy là bóng lùi lại mười nấc trên cầu thang mà nó đã đi qua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Còn đây là lời cầu nguyện được ghi lại của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sau khi vua mắc bệnh và rồi được khỏi:
|
||
\v 10 “Tôi đã nói rằng mới sống được nửa đời mình sẽ đi qua các cửa âm phủ; mình phải đến đó sống phần đời còn lại.
|
||
\v 11 Tôi đã nói mình sẽ chẳng còn nhìn thấy Giê-hô-va, tức Giê-hô-va trên đất của kẻ sống; mình sẽ chẳng còn được nhìn nhân gian hay dân cư trần thế.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Cuộc đời tôi bị cất khỏi tôi và mang đi như túp lều của kẻ chăn chiên; Tôi đã cuốn cuộc đời mình lại như người thợ dệt; Chúa sắp cắt đứt tôi khỏi khung củi; giữa ngày và đêm, Chúa sắp kết liễu cuộc đời tôi.
|
||
\v 13 Tôi kêu la cho đến sáng; Chúa bẻ gãy hết các xương tôi như sư tử; giữa ngày và đêm, Chúa sẽ dứt mạng sống tôi đi
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Tôi kêu chiêm chiếp như chim nhạn; tôi gù như chim bồ câu; mắt tôi mòn mỏi vì ngước nhìn lên. Ôi Chúa, con bị đè ép; xin cứu giúp con.
|
||
\v 15 Tôi sẽ nói gì đây? Ngài đã phán với tôi, và Ngài cũng đã thực hiện; tôi sẽ bước đi chậm rãi trọn các năm tháng mình vì tôi quá thảm sầu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ôi, Chúa, các nỗi đau đớn mà Chúa đưa đến thật có ích cho con; xin hãy ban lại cho con mạng sống mình; Chúa đã phục hồi sự sống và sức khỏe con.
|
||
\v 17 Chính vì ích lợi của mình mà con đã trãi qua nỗi đau buồn đó. Chúa đã cứu con khỏi hầm hủy diệt; vì Ngài đã quăng hết mọi tội con ra sau lưng Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Vì âm phủ chẳng biết cảm tạ Chúa; những kẻ xuống vực không còn trông cậy nơi sự thành thật của Ngài.
|
||
\v 19 Kẻ sống, chỉ người sống, mới biết dâng lời cảm tạ Chúa, như con làm ngày nay; người cha sẽ cho con cái mình biết sự chân thật của Chúa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Giê-hô-va sẽ cứu tôi, và chúng tôi sẽ đàn ca vui mừng trọn những ngày của cuộc đời mình trong nhà của Giê-hô-va.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Trước đó, Ê-sai có bảo: “Hãy lấy một bánh trái vả đắp lên chỗ ung nhọt, thì vua sẽ được lành.”
|
||
\v 22 Ê-xê-chia cũng có hỏi: “Có dấu hiệu nào cho thấy ta sẽ được lên nhà của Giê-hô-va?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 39
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào thời đó, Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-by-lôn, gửi thư và lễ vật cho Ê-xê-chia, vì hắn có nghe tin vua đau nhưng được bình phục.
|
||
\v 2 Ê-xê-chia rất hài lòng về việc này; vua cho các sứ giả xem kho chứa các báu vật mình — những món đồ bằng bạc, bằng vàng, hương liệu, dầu quý, kho chứa vũ khí, cùng mọi thứ khác có trong các kho chứa của vua. Chẳng có thứ gì trong cung hoặc trong cả vương quốc mà Ê-xê-chia không cho chúng xem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vậy, tiên tri Ê-sai đến gặp vua Ê-xê-chia, hỏi: “Những người đã đó nói gì với vua? Họ từ đâu đến vậy?” Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ phương xa, từ đất nước Ba-by-lôn.”
|
||
\v 4 Ê-sai hỏi: “Họ đã xem gì trong cung vua?” Ê-xê-chia đáp: “Họ xem mọi thứ trong cung ta. Chẳng có thứ quý giá nào của ta mà ta không cho họ xem.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vậy là Ê-sai nói với Ê-xê-chia: “Xin vua hãy nghe lời của Giê-hô-va của các đạo binh đây:
|
||
\v 6 ‘Này, sắp đến ngày mọi vật trong cung ngươi, các thứ mà tổ phụ ngươi đã chứa trong kho cho đến ngày nay, sẽ bị lấy đem qua Ba-by-lôn. Sẽ chẳng còn thứ gì cả, Giê-hô-va phán.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Và các con trai từ ngươi mà ra, gọi ngươi là cha — chúng sẽ bị bắt đi, và chúng sẽ trở thành các thái giám trong cung vua Ba-by-lôn.’”
|
||
\v 8 Ê-xê-chia đáp lại Ê-sai: “Lời của Giê-hô-va mà ông đã nói ra đó tốt lắm.” Vì vua nghĩ: “Thời mình vẫn còn thanh bình, ổn định.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 40
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đức Chúa Trời phán: “Hãy yên ủi, hãy yên ủi dân Ta.
|
||
\v 2 Hãy nói dịu dàng với Giê-ru-sa-lem; và loan báo cho nó rằng việc tranh chiến của nó đã dứt, tội lỗi nó đã được tha, và nó đã phải nhận chịu gấp đôi từ tay Giê-hô-va vì mọi tội lỗi mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Có tiếng kêu lên: “Hãy sửa soạn con đường của Giê-hô-va trong hoang mạc; ở A-ra-ba, hãy làm thẳng đường lộ cho Đức Chúa Trời chúng ta.”
|
||
\v 4 Mọi thung lũng sẽ được nâng lên, mọi núi đồi sẽ bị san phẳng; đất gồ ghề sẽ được ban bằng, những chỗ gập ghềnh sẽ thành chốn phẳng phiu;
|
||
\v 5 vinh quang của Giê-hô-va sẽ được bày tỏ, và mọi người sẽ cùng được nhìn thấy, vì miệng của Giê-hô-va đã phán điều đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Có tiếng bảo: “Hãy hô lên.” Một tiếng khác đáp: “Tôi phải hô gì đây?” “Mọi xác phàm đều là cỏ, và mọi sự thành tín của người ta khác nào bông hoa ngoài đồng.
|
||
\v 7 Cỏ khô, hoa tàn khi hơi thở của Giê-hô-va thổi trên nó; thật loài người chỉ là cỏ thôi.
|
||
\v 8 Cỏ khô, hoa tàn, nhưng lời Đức Chúa Trời sẽ còn mãi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Hỡi Si-ôn, kẻ đem tin mừng, hãy lên một ngọn núi cao; hãy ra sức cất tiếng lên; hãy loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem. Hãy kêu lên thật lớn; đừng sợ hãi.
|
||
\v 10 Hãy nói với các thành của Giu-đa: “Đức Chúa Trời ngươi ở đây!” Kìa, Chúa Giê-hô-va hiện đến như người chiến binh thắng trận, và Ngài dùng cánh tay mạnh mẽ mình mà cai trị. Kìa, phần thưởng của Ngài ở cùng Ngài, và những kẻ Ngài đã cứu đi trước Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Ngài sẽ nuôi đàn chiên Ngài như người chăn; Ngài sẽ gom chiên con vào tay mình rồi ôm chúng vào lòng, và dịu dàng dắt chiên cái đang nuôi con.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ai đã từng dùng lòng bàn tay đong nước, từng đo vòm trời, từng chứa bụi đất trong giỏ, từng cân núi trên bàn cân, từng cân đồi trên cán cân?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ai đã hiểu được tâm trí của Giê-hô-va, hoặc làm người cố vấn chỉ bảo Ngài?
|
||
\v 14 Ngài đã tiếp nhận lời chỉ giáo của ai? Ai đã hướng dẫn Ngài cách làm việc này, việc nọ, và dạy Ngài tri thức, hoặc chỉ cho Ngài cách đạt đến sự hiểu biết?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Kìa, các nước như một giọt nước trong thùng, khác nào bụi trên bàn cân; kìa, Chúa cân các hòn đảo như hạt bụi.
|
||
\v 16 Li-ban không có đủ củi lửa, thú hoang nó cũng không đủ để làm của lễ thiêu.
|
||
\v 17 Mọi nước đều thiếu kém trước mặt Ngài; Ngài xem họ chẳng là gì cả.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Vậy thì các ngươi ví Đức Chúa Trời với ai? Các ngươi sẽ so Ngài với tượng thần nào?
|
||
\v 19 Hình tượng — một người thợ đúc ra nó; người thợ bạc dùng vàng bọc nó lại rồi làm dây chuyền đeo cho nó.
|
||
\v 20 Để dâng lễ vật, người ta chọn một khúc cây không mục nát; rồi tìm một thợ khéo để tạc ra một hình tượng đứng được mà không ngã.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Từ ban đầu người ta chưa nói cho các ngươi sao? Từ khi lập nền trái đất các ngươi vẫn chưa hiểu sao?
|
||
\v 22 Chúa là Đấng ngự trên vòng trái đất; dân cư khác nào cào cào trước mặt Ngài. Chúa trương các tầng trời ra như bức màn và giăng nó ra như chiếc lều để ở.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ngài làm cho các vua chúa ra hư không, khiến những kẻ cai trị trên đất nên tầm thường.
|
||
\v 24 Kìa, chúng chỉ mới được trồng; kìa, chúng chỉ mới được gieo; kìa, chúng chưa kịp đâm rễ xuống đất thì Ngài thổi trên chúng nó, và chúng nó héo tàn, rồi gió thổi chúng đi như trấu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Đấng Thánh phán: “Vậy, các ngươi sẽ so Ta với ai? Ta giống như đấng nào?”
|
||
\v 26 Hãy nhìn lên trời! Ai đã tạo ra mọi tinh tú kia? Ngài tạo ra chúng theo nhóm và gọi đích danh từng vì sao. Nhờ sức mạnh vĩ đại và quyền năng lớn lao của Chúa mà chẳng thiên thể nào bị thiếu mất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Hỡi Gia-cốp, sao ngươi nói, và hỡi Y-sơ-ra-ên, sao ngươi dám tuyên bố, rằng: “Đường lối tôi bị khuất khỏi mắt Giê-hô-va; Đức Chúa Trời tôi chẳng quan tâm bênh vực tôi?”
|
||
\v 28 Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Đức Chúa Trời đời đời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng các chốn tận cùng trái đất, chẳng mệt nhọc hay mòn mỏi; sự hiểu biết của Ngài là vô hạn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Ngài ban năng lực cho kẻ mệt nhọc, và sức mới cho kẻ yếu sức.
|
||
\v 30 Thậm chí người trẻ tuổi cũng mệt nhọc, mòn mỏi, giới thanh niên cũng vấp váp, té ngã;
|
||
\v 31 nhưng ai trông đợi Giê-hô-va sẽ phục hồi sức lực; họ sẽ bay lượn như chim đại bàng; họ sẽ chạy mà không mệt nhọc; họ sẽ đi mà không đuối sức.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 41
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 “Các ngươi là những xứ vùng duyên hải, hãy yên lặng mà nghe; ước gì các dân phục hồi sức mạnh; ước gì chúng đến gần và lên tiếng; mong sao chúng ta cùng đến gần mà tranh luận.
|
||
\v 2 Ai đã khích động kẻ này từ phương đông? Ai triệu tập người đến phục vụ đúng thể thức? Ngài phó các dân vào tay người và khiến người khuất phục các vua; người dùng gươm khiến họ ra như bụi, dùng cung khiến họ ra như gốc rạ bị gió thổi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Người săn đuổi chúng, vượt qua cách an toàn, theo con đường thần tốc mà bàn chân người hầu như không chạm đến.
|
||
\v 4 Ai đã thi hành và hoàn tất các việc này? Ai đã triệu tập các thế hệ từ ban đầu? Ấy chính Ta, Giê-hô-va, Đấng trước hết và cũng có mặt với những kẻ cuối cùng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các đảo đã thấy và sợ hãi; các vùng đất xa xăm run rẩy; chúng tiến lại và đến nơi.
|
||
\v 6 Ai cũng giúp đỡ người ở cạnh mình; mọi người đều nói với nhau: ‘Hãy vững lòng.’
|
||
\v 7 Thợ mộc khích lệ thợ vàng, thợ dùng búa khích lệ thợ dùng đe, khi nói về mối hàn, rằng: ‘Tốt lắm.’ Họ dùng đinh giữ chặt để nó khỏi ngã nhào.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Nhưng ngươi là Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta, là Gia-cốp mà Ta đã chọn, là dòng dõi của Áp-ra-ham, bạn hữu Ta,
|
||
\v 9 là kẻ Ta đã đem về từ những nơi tận cùng của trái đất, kẻ Ta đã gọi từ những nơi xa xăm, kẻ mà Ta đã bảo: ‘Con là đầy tớ Ta;’ Ta đã chọn con, chẳng khước từ con.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Đừng sợ, vì Ta ở với con. Đừng lo lắng, vì Ta là Đức Chúa Trời con. Ta sẽ ban sức cho con, Ta sẽ giúp đỡ con, và Ta sẽ dùng tay phải toàn thắng của Ta mà nâng đỡ con.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Này, mọi kẻ nổi giận với con — chúng sẽ hổ thẹn và bị sỉ nhục; những kẻ chống đối con — chúng sẽ chẳng là gì cả và sẽ tiêu vong.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Con sẽ tìm nhưng chẳng thấy các kẻ đối địch mình; những kẻ tranh chiến với con sẽ chẳng là gì, hoàn toàn chẳng là gì cả.
|
||
\v 13 Vì Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, sẽ nắm tay phải con, và nói với con: ‘Đừng sợ; Ta đang giúp con đây.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Đừng sợ, hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ giúp đỡ các ngươi” — đó là lời tuyên bố của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 15 “Này, ta khiến ngươi ra giống chiếc xe tuốt lúa mới với hai cạnh sắc bén; các ngươi sẽ tuốt các ngọn núi và nghiền nát chúng; các ngươi sẽ khiến các đồi ra giống như trấu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Các ngươi sẽ sàng sảy chúng, rồi gió sẽ đùa chúng đi; gió sẽ khiến chúng tan tác. Các ngươi sẽ vui mừng nơi Giê-hô-va, các ngươi sẽ vui mừng nơi Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Những kẻ bị áp bức, thiếu thốn tìm kiếm nước mà chẳng có, nên lưỡi họ khô rốc vì khát; Ta, Giê-hô-va, sẽ đáp lời cầu xin của họ; Ta, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ chẳng từ bỏ họ.
|
||
\v 18 Ta sẽ tạo ra các dòng suối chảy xuống triền núi, những con suối chính giữa thung lũng; Ta sẽ biến sa mạc thành cái ao, và vùng đất khô thành suối nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Trong đồng hoang sẽ mọc lên cây tuyết tùng, cây keo, cây thường xanh, và cây ô liu; Ta sẽ khiến trong sa mạc mọc lên cây tùng, cây thông và cây bách.
|
||
\v 20 Ta làm vậy để người ta thấy, nhận ra, và cùng hiểu, rằng chính tay Giê-hô-va đã làm việc này, rằng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã tạo ra nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giê-hô-va phán: “Hãy trình bày trường hợp của các ngươi.” Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lập luận vững chắc nhất bênh vực các tượng thần mình đi.”
|
||
\v 22 Hãy để chúng trình bày cho chúng ta lý lẽ riêng của chúng; hãy để chúng lên công bố cho chúng ta việc sẽ xảy ra, để chúng ta biết rõ những việc này. Hãy để chúng nói cho chúng ta biết về những lời tiên báo trước đây, để chúng ta có thể ngẫm nghĩ các việc đó và biết nó được ứng nghiệm thế nào.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Hãy nói về những việc tương lai để chúng ta biết các ngươi đúng là thần; hãy làm điều gì đó, thiện ác gì cũng được, để chúng ta sợ hãi và cảm kích.
|
||
\v 24 Kìa, tượng thần các ngươi không ra gì, và công việc các ngươi làm cũng chẳng được chi. Ai chọn lựa các ngươi thật đáng kinh tởm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Ta đã khiến xuất hiện một kẻ từ phương bắc, và nó đến; từ hướng mặt trời mọc ta gọi đến kẻ biết kêu cầu danh Ta, và nó sẽ giẫm đạp các vua chúa như bùn đất, như người thợ gốm giẫm đạp lên đất sét.
|
||
\v 26 Ai đã loan báo việc này từ ban đầu, để chúng ta biết? Và đã loan tin ấy trước khi có thời gian, để chúng ta nói rằng: “Người nói đúng?” Thật, chẳng ai trong chúng nó ban lệnh; thật, chẳng ai nghe các ngươi nói gì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Ta trước hết đã nói với Si-ôn: “Này, chúng đây”; Ta đã sai người loan tin đến Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 28 Khi ta nhìn xem thì chẳng có người nào, chẳng ai trong chúng nó có lời luận bàn khôn ngoan, tức kẻ có thể đáp lại khi Ta hỏi.
|
||
\v 29 Kìa, tất cả chúng đều không là gì; và công việc chúng làm cũng chẳng ra chi; hình tượng đúc của chúng nó chỉ là gió và rỗng tuếch.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 42
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Kìa, tôi tớ Ta, kẻ Ta nâng đỡ; kẻ được Ta lựa chọn, kẻ Ta lấy làm vui thích. Ta đã đặt Thần Ta trên người; người sẽ đem lại sự công chính cho các dân.
|
||
\v 2 Người sẽ không kêu gào hoặc la hét, cũng không cố khiến cho tiếng mình được nghe thấy ngoài phố.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Người sẽ không bẻ cây sậy bị giập, người không dập tắt tim đèn sắp tàn; người sẽ trung tín thi hành sự công chính.
|
||
\v 4 Người sẽ không mệt mỏi, ngã lòng cho đến khi đã thiết lập nền công chính trên đất; các xứ ven biển sẽ trông chờ luật pháp của người.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Đây là lời phán của Đức Chúa Trời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo nên các tầng trời và giăng nó ra; Đấng trải đất ra và ban sự sống trong đất; Đấng ban hơi thở cho loài người trên đất, ban sự sống cho cư dân nó:
|
||
\v 6 “Ta, Giê-hô-va, Đấng đã kêu gọi con trong sự công chính và sẽ nắm tay con. Ta sẽ gìn giữ con và đặt con làm giao ước cho dân này, làm ánh sáng cho các dân ngoại,
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 để mở mắt kẻ mù, giải thoát kẻ tù tội khỏi ngục, kẻ ngồi trong bóng tối ra khỏi chốn giam cầm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ta là Giê-hô-va, đó là danh Ta; Ta sẽ không nhường bớt vinh quang mình cho ai khác, cũng không san sẻ lòng tôn kính Ta cho tượng chạm.
|
||
\v 9 Này, những việc về trước đã ứng nghiệm, giờ đây Ta sẽ công bố những sự việc sau này. Trước khi chúng khởi diễn ra thì Ta sẽ nói cho các ngươi biết.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hỡi các kẻ đi biển, cùng mọi vật dưới biển; hỡi các vùng đất ven biển cùng dân cư ở đó, hãy hát cho Giê-hô-va một bài ca mới, hãy từ nơi đầu cùng đất hát ca ngợi Ngài.”
|
||
\v 11 Nguyện sa mạc và chốn thị thành la lên, và các làng mạc nơi dân Kê-đa sống reo vui! Nguyện các dân cư Sê-la ca hát; hãy để chúng reo hò từ trên các đỉnh núi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Nguyện chúng dâng vinh quang cho Giê-hô-va, và công bố sự ngợi khen Ngài tại các vùng duyên hải.
|
||
\v 13 Giê-hô-va sẽ ra trận như một chiến binh; Ngài sẽ tiến lên như người lính chiến. Ngài sẽ giục lòng hăng say mình. Ngài sẽ la lớn, phải, Ngài sẽ thét lên tiếng hô xung trận; Ngài sẽ cho quân thù chứng kiến năng lực Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ta nín lặng đã lâu; Ta vẫn còn nín lặng và kìm nén; giờ thì Ta sẽ la lên như người phụ nữ chuyển dạ; Ta sẽ thở hổn hển, gấp gáp.
|
||
\v 15 Ta sẽ phá tan núi đồi và làm cây cỏ chúng nó khô héo; Ta sẽ biến các dòng sông thành đảo, và khiến các đầm lầy khô cạn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ta sẽ đưa kẻ mù đi theo con đường chúng không rành; Ta sẽ dắt chúng đi trên các lối chúng chưa biết. Ta sẽ biến bóng tối thành ánh sáng trước mặt chúng, khiến các nơi khúc khuỷu ra ngay thẳng. Ta sẽ làm các việc này, Ta không bỏ đâu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Những kẻ cậy nơi tượng chạm, và nói với tượng đúc rằng: “Người là thần tôi” — chúng sẽ phải quay trở lui, chúng sẽ phải rất xấu hổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Các ngươi là kẻ điếc, hãy nghe đây; các ngươi là kẻ mù, hãy nhìn để mà thấy.
|
||
\v 19 Ai bị mù, nếu không phải là đầy tớ Ta? Hoặc điếc như sứ giả Ta sai phái? Ai bị mù như kẻ Ta đã lập giao ước với họ, hoặc mù như đầy tớ của Giê-hô-va?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ngươi nhìn thấy nhiều điều mà lại chẳng hiểu: tai vẫn mở, mà chẳng ai nghe.
|
||
\v 21 Giê-hô-va lấy làm vui mà tán dương sự công chính Ngài và tôn vinh luật pháp Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhưng đây là một dân đã bị cướp bóc, chiếm đoạt; chúng đều bị sập hố, bị giam trong tù; chúng ta trở thành vật bị cưỡng đoạt mà chẳng có ai giải cứu, hoặc nói: “Hãy đem chúng về!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ai giữa vòng các ngươi chịu nghe điều này? Ai sẽ bằng lòng lắng tai nghe sau này?
|
||
\v 24 Ai đã phó Gia-cốp cho kẻ cướp, phó Y-sơ-ra-ên cho kẻ cưỡng đoạt? Chẳng phải là Giê-hô-va, Đấng chúng ta đã phạm tội chống nghịch, sao? Chúng đã từ chối bước đi trong các đường lối Ngài, không chịu vâng giữ luật pháp Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vậy nên Ngài trút đổ cơn giận sôi sục lên chúng nó, khiến chúng phải chịu chiến tranh tàn khốc. Lửa bừng cháy chung quanh, nhưng chúng chẳng nhận ra; lửa thiêu cháy chúng, nhưng chúng chẳng để tâm đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 43
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Nhưng, bây giờ, hỡi Gia-cốp, hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi, Đấng dựng nên ngươi: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi; Ta đã lấy tên người gọi ngươi, ngươi thuộc về Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Khi ngươi đi qua nước, Ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ không bị phủ lút. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa sẽ không làm hại ngươi.
|
||
\v 3 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Cứu Chúa ngươi. Ta đã ban Ai Cập làm giá chuộc ngươi, ban Ê-thi-ô-bi và Sê-ba thế chỗ ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì ngươi thật quí giá và đặc biệt trước mặt Ta, nên Ta yêu ngươi; vậy nên Ta sẽ dùng kẻ khác để đổi lấy ngươi, và các dân khác để thế mạng cho ngươi.
|
||
\v 5 Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi; Ta sẽ đem con cháu ngươi về từ phương đông, tập hợp ngươi lại từ phương tây.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ta sẽ nói với phương bắc: ‘Hãy buông ra;’ và với phương nam: ‘Không được giữ lại;’ Hãy đem các con trai Ta về từ phương xa, và các con gái Ta từ các vùng đất hẻo lánh,
|
||
\v 7 tức mọi kẻ nào được xưng bằng danh Ta, những kẻ Ta đã dựng nên vì vinh quang Ta; Ta đã tạo thành họ — phải, Ta đã làm ra họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hãy đem những kẻ có mắt mà đui mù, những kẻ có tai mà điếc này ra.
|
||
\v 9 Tất cả các nước hãy tụ họp lại, các dân hãy tập hợp lại. Ai trong số chúng nó đã có thể tuyên bố điều này và loan báo cho chúng ta những việc ngày trước? Hãy cứ để chúng đưa ra nhân chứng để chứng tỏ mình đúng, hãy để chúng nghe và xác nhận: ‘Đúng như vậy.’” tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Giê-hô-va phán: “Ngươi là nhân chứng cho Ta, và là đầy tớ được Ta lựa chọn, để ngươi được biết và tin Ta, và hiểu rằng Ta là Đấng đó. Trước Ta chẳng có thần nào được tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác.
|
||
\v 11 Chính Ta là Giê-hô-va, ngoại trừ Ta chẳng đấng cứu rỗi nào.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ta đã tuyên phán, cứu rỗi và công bố; chẳng có thần nào khác giữa vòng các ngươi. Các ngươi là nhân chứng cho Ta.” Giê-hô-va phán: “Ta là Đức Chúa Trời.
|
||
\v 13 Từ bữa nay trở đi, Ta chính là Đấng ấy; chẳng ai có thể giải cứu ai khỏi tay Ta. Ta hành động và ai có thể vô hiệu hóa?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Này là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Vì các ngươi mà Ta phái đến Ba-by-lôn và hạ hết chúng xuống thành dân chạy nạn, biến các câu nói vui mừng của dân Ba-by-lôn thành những bài ai ca.
|
||
\v 15 Ta là Giê-hô-va, Đấng Thánh của các ngươi, Đấng Tạo thành Y-sơ-ra-ên, là Vua các ngươi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Này là lời của Giê-hô-va (Đấng mở lối xuyên qua biển, mở đường vượt qua sóng nước,
|
||
\v 17 Đấng sai phái xe binh và ngựa, quân đội và đạo binh hùng mạnh. Chúng cùng nhau té ngã; chúng sẽ chẳng bao giờ trỗi dậy nữa; chúng bị dập, bị tắt đi như tim đèn cháy.)
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 “Đừng nghĩ đến các việc trước đây, cũng đừng xem xét những việc thời xưa.
|
||
\v 19 Này, Ta sắp thực hiện một việc mới mẻ; giờ thì nó khởi sự diễn ra; các ngươi không nhận thấy sao? Ta sẽ làm ra một con đường trong sa mạc, cùng các dòng suối nơi đồng hoang.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Các loài dã thú ngoài đồng, như chó rừng và đà điểu, sẽ tôn vinh Ta, vì Ta ban nước trong đồng hoang, và sông ngòi trong sa mạc, cho tuyển dân Ta uống,
|
||
\v 21 tức dân mà Ta đã tạo thành vì chính Ta, để chúng truyền lại lời ca ngợi Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhưng, hỡi Gia-cốp, ngươi không kêu cầu Ta; hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi đã chán Ta.
|
||
\v 23 Ngươi chẳng đem dâng chiên mình làm của lễ thiêu cho Ta; ngươi cũng chẳng dùng sinh tế mà tôn vinh Ta. Ta không chất gánh nặng cho các ngươi bằng các của lễ chay, cũng không làm phiền các ngươi bằng việc dâng hương.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ngươi chẳng dùng tiền mua cho ta xương bồ, cũng không dâng cho ta mỡ sinh tế; nhưng lại khiến ta nặng gánh vì tội các ngươi, làm phiền ta vì các việc làm xấu xa mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Ta, thật, chính Ta là Đấng vì chính mình mà xóa bôi các vi phạm ngươi; và Ta sẽ không nhớ lại các tội của ngươi nữa.
|
||
\v 26 Hãy nhắc nhớ Ta việc đã xảy ra. Chúng ta hãy cùng tranh luận; hãy trình bày cớ sự của mình, để ngươi được thanh minh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Thủy tổ ngươi mắc tội, giới lãnh đạo ngươi cũng phạm tội nghịch Ta.
|
||
\v 28 Vì vậy, Ta sẽ khiến các quan chức đền thánh ra ô uế. Ta sẽ phó Gia-cốp để bị diệt vong, phó Y-sơ-ra-ên để chịu sỉ nhục.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 44
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Nghe này, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã chọn:
|
||
\v 2 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi và dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Đấng sẽ giúp đỡ ngươi: “Đừng sợ, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, hỡi Giê-su-run, kẻ Ta đã chọn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ta sẽ đổ nước xuống trên mảnh đất đang khát, và khiến suối chảy nơi đất khô; Ta sẽ đổ Thần Ta trên hậu tự ngươi, đổ phước xuống trên con cháu ngươi.
|
||
\v 4 Chúng sẽ vươn lên giữa đám cỏ, như cây liễu bên suối nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Người này sẽ nói: ‘Tôi thuộc về Giê-hô-va;’ kẻ khác sẽ được gọi bằng tên Gia-cốp, và kẻ khác nữa sẽ viết thành “Người thuộc Đức Giê-hô-va,' và chính tên Người bởi tên của Y-sơ-ra-ên.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Đây là lời phán của Giê-hô-va — Vua của Y-sơ-ra-ên, cũng là Đấng Cứu Chuộc nó, tức Giê-hô-va của các đạo binh: “Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng; ngoài Ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Có ai giống như Ta chăng? Hãy cứ để nó lên tiếng và giải trình cho Ta các việc đã xảy ra từ khi Ta lập dân Ta thời xa xưa, cũng như công bố những việc sẽ đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Chớ kinh khiếp, cũng đừng sợ hãi. Chẳng phải Ta đã công bố cho các ngươi từ lâu, và đã rao báo nó, hay sao? Các ngươi là nhân chứng cho Ta: Ngoài Ta ra còn có Đức Chúa Trời nào nữa? Chẳng có Vầng Đá nào khác; Ta chẳng biết ai cả.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Những kẻ nắn nên hình tượng đều chẳng ra gì cả; các vật chúng lấy làm vui thích đó là vô giá trị; các nhân chứng của chúng không thấy, cũng chẳng biết gì, và chúng sẽ bị sỉ nhục.
|
||
\v 10 Ai lại làm ra hoặc đúc nên một tượng thần chẳng có giá trị gì?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Đó, mọi kẻ liên hệ với nó đều phải xấu hổ; các tay thợ khéo cũng chỉ là người phàm. Cứ để chúng cùng bày tỏ lập trường; chúng sẽ co rúm lại và phải xấu hổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Thợ rèn dùng dụng cụ làm việc trên than lửa tạo ra nó. Hắn dùng búa tạo hình và dùng cánh tay mạnh thực hiện công việc. Bụng đói, sức lực yếu đi; hắn chẳng uống nước, nên mệt lả.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Thợ mộc thì dùng dây đo gỗ, dùng bút đánh dấu. Hắn dùng công cụ đẽo gọt, dùng com-pa khắc họa. Hắn đẽo nó theo hình người, có dáng vẻ một người đẹp đẽ, rồi cho nó ở trong miếu thờ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Hắn đốn cây bá hương, hoặc chọn cây dẻ, cây sồi. Hắn chọn cho mình các cây trên rừng. Hắn trồng cây tùng, nhờ mưa làm cho lớn lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Rồi người ta dùng cây đó chụm lửa và sưởi ấm. Phải, người ta nhóm lửa và nướng bánh. Rồi từ cây đó người ta cũng làm ra vị thần và cúi lạy nó; người ta tạo nên một tượng thần rồi sấp mình xuống bái lạy.
|
||
\v 16 Họ lấy một ít gỗ chụm lửa, dùng lửa đó nấu ăn. Họ ăn và được no bụng. Họ cũng sưởi ấm mình và bảo: “Chà, ấm quá, mình đã thấy lửa rồi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Với phần gỗ còn lại họ dùng tạo ra một vị thần, đẽo gọt theo ảnh tượng mình; rồi họ sấp mình thờ lạy nó, sùng bái nó, và cầu nguyện với nó, rằng: “Xin cứu con, vì người là thần của con.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Họ chẳng biết, cũng chẳng hiểu gì, vì mắt họ bị mù nên không thấy được, và lòng họ không nhận thức được.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Chẳng ai suy nghĩ, chẳng ai hiểu biết để tự hỏi: “Mình đã lấy một phần cây chụm lửa; phải, mình đã nướng bánh trên than nó. Mình cũng đã nướng thịt trên than ấy và ăn rồi. Vậy mà giờ mình lại lấy phần cây còn lại làm ra thứ kinh tởm này để phụng thờ sao? Mình đi cúi lạy một khúc cây sao?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Dường như thể người ta đang ăn tro; lòng mê muội đã khiến họ đi sai lạc. Họ không thể tự giải cứu mình, cũng chẳng nói: “Cái thứ trên tay phải mình đây chỉ là giả thần.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, vì ngươi là tôi tớ Ta: Ta đã tạo thành ngươi; ngươi là đầy tớ Ta: hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ không quên ngươi đâu.
|
||
\v 22 Ta đã xóa sạch các việc làm loạn nghịch của ngươi, vốn như đám mây dày đặc, và các tội lỗi ngươi, giống như đám mây; hãy trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Hỡi các tầng trời, hãy hát lên, vì Giê-hô-va đã hành động; hỡi vùng hạ giới bên dưới đất, hãy la lên; hỡi các núi, và rừng cùng với mọi cây cối, hãy bật lên tiếng ca; vì Giê-hô-va đã cứu chuộc Gia-cốp, và sẽ tỏ lộ vinh quang Ngài giữa Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng tạo thành ngươi từ trong lòng mẹ: “Ta là Giê-hô-va, Đấng tạo dựng mọi vật; chỉ một mình Ta giăng các tầng trời ra và nắn nên trái đất.
|
||
\v 25 Chính Ta đã khiến những kẻ báo điềm bị hố và khiến những kẻ giải điềm phải xấu hổ; chính Ta đảo lộn sự khôn khéo của kẻ khôn và khiến lời bàn của các sứ giả nó ra ngu dại.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Chính Ta, Giê-hô-va — Đấng làm thành lời công bố của tôi tớ Ta và thực hiện lời rao báo của các sứ giả Ta về Giê-ru-sa-lem, rằng: ‘Thành sẽ có dân ở;’ và về các thành của Giu-đa, rằng: ‘Chúng sẽ được tái thiết, và Ta sẽ dựng lại các nơi hoang tàn của nó’ —
|
||
\v 27 Đấng phán với biển sâu: ‘Hãy khô đi, Ta sẽ làm khô các dòng nước của mày’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 — Đấng phán về Si-ru, rằng: ‘Nó là tôi tớ Ta, nó sẽ thi hành mọi ý chỉ Ta’ — nó sẽ ra sắc chỉ về Giê-ru-sa-lem, rằng: ‘Thành phải được xây dựng lại,’ và về đền thờ, rằng: ‘Nền ngươi sẽ được lập.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 45
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va phán với kẻ được xức dầu của Ngài, tức Si-ru, kẻ có tay phải được Ngài cầm nắm, để khuất phục các dân trước mặt mình, giải giáp các vua, và mở các cửa trước mặt, để các cổng cứ luôn mở:
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 “Ta sẽ đi trước mặt ngươi và san phẳng các núi; Ta sẽ phá vỡ các cửa bằng đồng, cắt vụn các then bằng sắt,
|
||
\v 3 và Ta sẽ cho ngươi các báu vật của bóng tối cùng tài sản được giấu đi, để ngươi biết rằng chính Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, gọi đích danh ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì cớ tôi tớ Ta là Gia-cốp, và kẻ Ta lựa chọn là Y-sơ-ra-ên, Ta đã gọi đích danh ngươi; Ta ban cho ngươi tước vị tôn trọng, dầu ngươi chưa biết Ta.
|
||
\v 5 Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác; chẳng có Đức Chúa Trời nào ngoài Ta. Ta sẽ trang bị cho ngươi đánh trận, dầu ngươi chưa biết Ta;
|
||
\v 6 để mọi người từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng tây đều biết rằng ngoài Ta ra không có Đức Chúa Trời nào khác: Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối; Ta đem đến bình an và mang đến tai họa; Ta là Giê-hô-va, Đấng làm mọi việc này.
|
||
\v 8 Hỡi các tầng trời, hãy từ trên mưa xuống! Bầu trời phải giáng mưa cứu rỗi công chính. Đất phải hấp thụ nó, để sự cứu rỗi đâm chồi, và sự công chính cùng mọc lên. Ta, Giê-hô-va, đã tạo nên cả hai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Bất hạnh thay cho kẻ tranh cãi với Đấng tạo ra mình! Một mảnh sành giữa vòng mọi mảnh sành dưới đất! Có thể nào đất sét nói với thợ gốm: ‘Ông làm gì vậy?’ hay: ‘Ông tạo ra cái gì thế — khi làm ông không có tay sao?’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Bất hạnh thay cho kẻ nói với người làm cha: ‘Ông sinh ra cái gì vậy?’ hoặc nói với một phụ nữ: ‘Bà sinh ra cái gì thế kia?’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng tạo thành nó: ‘Liên quan những việc sẽ đến, ngươi chất vấn Ta về con cái Ta đó sao? Phải chăng ngươi muốn bảo Ta phải làm gì với công việc của tay Ta?’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 ‘Ta đã tạo ra trái đất và dựng nên con người trên đất. Chính tay Ta đã giăng các tầng trời ra, và Ta đã ra lệnh mọi ngôi sao phải hiện hữu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ta đã dấy Si-ru lên trong sự công chính, và Ta sẽ ban bằng mọi nẻo đường của nó. Nó sẽ xây dựng thành Ta; nó sẽ cho dân bị lưu đày của Ta hồi hương mà không đòi trả giá hoặc đút lót,” Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Đây là lời của Giê-hô-va phán: “Huê lợi của Ai Cập và hàng hóa của Ê-thi-ô-bi cùng với dân Sa-bê, là giống người cao lớn, sẽ được mang đến cho ngươi. Chúng sẽ thuộc về ngươi. Chúng sẽ đi theo ngươi, mang xiềng mà đến. Chúng sẽ quỳ xuống trước ngươi và nài xin: ‘Rõ ràng Đức Chúa Trời ở với các ngươi, ngoài Ngài chẳng có ai khác.’”
|
||
\v 15 Thật, Chúa là Đức Chúa Trời tự ẩn mình đi, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng cứu rỗi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Chúng cả thảy đều sẽ cùng xấu hổ và mất mặt; những kẻ khắc chạm hình tượng sẽ phải sống trong sự sỉ nhục.
|
||
\v 17 Nhưng Y-sơ-ra-ên sẽ được Giê-hô-va cứu vớt bởi ơn cứu rỗi đời đời; các ngươi sẽ chẳng bao giờ lại bị xấu hổ hay sỉ nhục.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng làm nên các tầng trời, là Đức Chúa Trời thật, đã tạo dựng đất, Ngài làm ra nó và khiến nó đứng vững. Ngài đã tạo ra nó không phải là vô ích, mà đã thiết kế nó để cho người ta ở: “Ta là Giê-hô-va, chẳng có ai ngang hàng với Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Ta chưa từng nói riêng với ai tại nơi nào đó ẩn khuất. Ta không nói với dòng dõi Gia-cốp ‘Các ngươi tìm Ta vô ích!’ Ta là Giê-hô-va, Đấng nói năng thành thật; Ta tuyên phán những điều phải.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Hãy tập hợp lại và đến! Các ngươi là dân chạy nạn từ giữa các nước, hãy tụ họp lại! Chúng chẳng hiểu biết gì, những kẻ khiêng tượng chạm và cầu nguyện với các thần không cứu được ai ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Hãy đến gần và nói rõ cho Ta, trưng ra bằng chứng! Cứ để chúng mưu tính với nhau. Ai đã tỏ ra việc này từ lâu rồi? Ai đã loan báo nó? Không phải chính Ta, Giê-hô-va, sao? Chẳng có Đức Chúa Trời nào khác ngoại trừ Ta, là Đức Chúa Trời công chính, là Đấng cứu rỗi; ngoài Ta chẳng có Chúa nào khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Hỡi mọi vùng đất xa xôi, hãy hướng về Ta và được cứu; vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào khác.
|
||
\v 23 'Ta chỉ chính mình mà thề khi ban ra sắc chỉ công chính của Ta, và nó sẽ không được thu hồi: Mọi đầu gối sẽ quỳ xuống, mọi lưỡi sẽ thề trước mặt Ta,
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 rằng: “Sự sự cứu rỗi và sức mạnh chỉ có nơi Giê-hô-va mà thôi.’” Mọi kẻ nổi giận với Ngài sẽ khúm núm một cách xấu hổ trước mặt Ngài.
|
||
\v 25 Trong Giê-hô-va, toàn thể con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ được xưng công chính; họ sẽ hãnh diện về Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 46
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Thần Bên sấp xuống, thần Nê-bô cúi mình; các tượng thần chúng đè nặng lên những con thú chở chúng. Các tượng thần chúng chở đi đây đó là gánh nặng cho các con thú đã mỏi mệt.
|
||
\v 2 Cùng với nhau, chúng cúi mình thật thấp và quỳ lạy; chúng không cứu được các hình tượng ấy, mà chính chúng lại phải bị lưu đày xa xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cốp, cùng hết thảy các ngươi là kẻ sót lại của nhà Gia-cốp, những kẻ đã được Ta bồng ẳm từ trước khi sinh ra, và đem ra khỏi lòng mẹ.
|
||
\v 4 Thậm chí cho đến khi các ngươi già cả thì Ta vẫn là Đấng ấy, ngay cả cho đến lúc tóc các ngươi bạc trắng thì Ta vẫn sẽ bồng ẳm các ngươi. Ta đã tạo thành các ngươi thì Ta sẽ nâng đỡ các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi đến nơi an bình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các ngươi sẽ ví Ta với ai? Ta giống ai để các ngươi có thể so sánh?
|
||
\v 6 Chúng trút vàng trong bao ra, cân bạc trên cân. Chúng mướn thợ bạc làm ra một vị thần; rồi cúi mình xuống mà thờ lạy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Chúng vác nó trên vai và khiêng đi; chúng đặt nó vào chỗ, rồi nó cứ đứng mãi đó mà chẳng đi đâu được. Chúng kêu la với nó, nhưng nó không đáp lại, cũng chẳng cứu giúp được ai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hãy suy gẫm những điều này; đừng bao giờ bỏ qua, hỡi những kẻ phản nghịch các ngươi.
|
||
\v 9 Hãy ngẫm nghĩ về những việc ngày xưa, những việc thời trước, vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có chúa nào khác; Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào giống như Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ta công bố những việc cuối cùng từ ban đầu, và báo trước những việc chưa xảy ra; chính Ta phán: “Chương trình Ta sẽ được thành, Ta sẽ làm điều mình muốn.”
|
||
\v 11 Ta gọi chim săn mồi từ phương đông, tức người Ta lựa chọn từ một xứ xa; thật, Ta đã phán thì Ta sẽ làm thành; Ta đã định thì Ta sẽ thực hiện.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Hãy nghe Ta, hỡi các ngươi là dân ương ngạnh, không chịu làm điều công chính.
|
||
\v 13 Ta sẽ đem sự công chính Ta đến gần; nó không ở xa, còn sự cứu rỗi Ta thì không trì hoãn; Ta sẽ ban sự cứu rỗi cho Si-ôn và sự đẹp đẽ Ta cho Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 47
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hỡi trinh nữ Ba-by-lôn, hãy đến và ngồi trong tro bụi; hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi xuống đất vì không còn ngai. Ngươi sẽ chẳng còn được gọi là đáng yêu và mảnh mai nữa.
|
||
\v 2 Hãy lấy cối đá mà xay bột; hãy gỡ khăn voan, cỡi bỏ áo thụng, để chân trần mà lội qua suối.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Sự lõa lồ ngươi sẽ bị phô bày, thật, sự xấu hổ ngươi sẽ lộ ra; Ta sẽ báo thù và sẽ chẳng chừa lại một người.
|
||
\v 4 Đấng Cứu Chuộc chúng ta, danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 5 Hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi yên lặng và đi vào bóng tối; vì ngươi sẽ không còn được gọi là Nữ hoàng của các vương quốc nữa đâu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ta đã nổi giận với dân mình; Ta đã làm ô uế cơ nghiệp mình và phó nó vào tay ngươi, nhưng ngươi chẳng tỏ lòng thương xót nó; ngươi đã gán cái ách quá nặng nề trên người già cả.
|
||
\v 7 Ngươi bảo: “Ta sẽ làm nữ hoàng tối cao cai trị mãi mãi.” Ngươi chẳng để tâm vào những điều này, cũng chẳng suy xét hậu quả sẽ thế nào.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Vậy nên, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ thích vui thú và tại vị vững chắc, kẻ nói trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng còn ai khác giống như ta; ta sẽ chẳng bao giờ mang thân góa phụ, cũng chẳng bao giờ mất con.”
|
||
\v 9 Nhưng hai việc này sẽ xảy đến cho ngươi cùng lúc trong cùng một ngày: bị mất con và thành ra góa phụ; nó sẽ ập xuống trên ngươi đầy trọn, cho dù ngươi có các trò ma thuật và nhiều thần chú, bùa phép.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ngươi đã cậy vào sự gian ác mình; ngươi nói: “Chẳng ai thấy ta;” sự thông thái và hiểu biết đã dẫn ngươi đi sai lạc, nhưng ngươi tự nhủ trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng có ai khác giống như ta.”
|
||
\v 11 Tai họa sẽ chế ngự ngươi; ngươi sẽ không thể dùng các bùa chú mà xua nó đi. Sự hủy diệt sẽ đổ ập trên ngươi; ngươi sẽ không thể ngăn cản. Tai ương sẽ thình lình giáng xuống trước khi ngươi kịp nhận ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Hãy tiếp tục dùng bùa chú mê hoặc và đủ thứ phép thuật mà ngươi vẫn chăm chỉ thực hành từ thuở nhỏ; biết đâu ngươi sẽ làm được, biết đâu ngươi sẽ xua được tai ách đi.
|
||
\v 13 Ngươi kiệt sức vì có quá nhiều lời bàn bạc; hãy để những kẻ đó đứng lên cứu ngươi — tức những kẻ xem trời, xem sao, những kẻ công bố kỳ trăng mới — hãy để chúng cứu ngươi khỏi những việc sẽ xảy đến cho ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Này, chúng sẽ ra giống như gốc rạ. Lửa sẽ thiêu rụi chúng. Chúng sẽ không tự cứu mình được khỏi quyền ngọn lửa. Chúng chẳng có than để sưởi ấm, chẳng có bếp lửa để ngồi kề!
|
||
\v 15 Chúng sẽ nhọc công mà chẳng giúp được gì, tức những kẻ mà ngươi buôn bán cùng từ thời trẻ; chúng mạnh ai nấy đi đường mình; chẳng còn ai để cứu ngươi cả.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 48
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Nghe này, hỡi Gia-cốp, là những kẻ được gọi bằng tên Y-sơ-ra-ên, xuất thân là hậu tự Giu-đa; những kẻ chỉ danh Giê-hô-va mà thề và cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, nhưng không thật lòng, hoặc chẳng theo cách công chính.
|
||
\v 2 Vì họ tự xưng mình là dân thành thánh và tin cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 “Ta đã công bố các việc ấy từ lâu; nó ra từ chính miệng Ta, và Ta đã tỏ bày nó; rồi thình lình Ta thực hiện, và việc diễn ra.
|
||
\v 4 Vì Ta biết ngươi cố chấp, gân cổ ngươi cứng như sắt, còn trán ngươi chắc như đồng,
|
||
\v 5 nên Ta đã công bố những việc này trước cho ngươi; trước khi nó xảy ra thì Ta đã cho ngươi biết, kẻo ngươi bảo: ‘Tượng thần tôi làm đó,’ hay: ‘tượng chạm, tượng đúc của tôi đã định trước các việc ấy.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ngươi đã nghe các việc này; hãy nhìn toàn bộ dấu hiệu này; rồi xem ngươi có dám bảo lời Ta nói là không đúng chăng. Từ nay trở đi, Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc mới, những việc còn giữ kín mà ngươi chưa từng biết.
|
||
\v 7 Bây giờ mới có các việc ấy chứ chẳng phải đã có từ trước, và ngươi chưa từng nghe biết nó trước đây, để ngươi không thể bảo: ‘À, tôi biết các việc ấy rồi.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ngươi chưa từng nghe; ngươi chưa từng biết; các việc ấy chưa được tỏ ra cho tai ngươi nghe trước đây. Vì Ta biết ngươi rất lừa lọc, và từ lúc mới sinh ngươi đã là đứa phản loạn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Vì cớ danh Ta, Ta sẽ gác lại cơn thạnh nộ mình, và vì thanh danh Ta, Ta sẽ kìm nén để khỏi hủy diệt ngươi.
|
||
\v 10 Này, Ta đã luyện lọc ngươi, nhưng chẳng phải như luyện bạc; Ta đã tinh luyện ngươi trong lò hoạn nạn.
|
||
\v 11 Vì cớ chính mình, vì chính Ta mà Ta sẽ hành động; vì thể nào Ta lại để cho danh Ta bị sỉ nhục? Ta sẽ không nhường vinh quang mình cho bất kỳ ai khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã gọi: Ta là Đấng đó; Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng.
|
||
\v 13 Thật, tay Ta đã đặt nền trái đất, tay phải Ta đã giăng các tầng trời; khi Ta gọi thì chúng đồng đứng lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Toàn thể các ngươi hãy tập hợp lại và nghe đây; ai giữa vòng các ngươi đã loan báo các việc này? Một đồng sự của Giê-hô-va sẽ hoàn thành mục đích của Ngài nghịch cùng Ba-by-lôn. Nó sẽ thực hiện ý chỉ của Giê-hô-va nghịch lại người Canh-đê.
|
||
\v 15 Ta, chính Ta đã phán; thật, Ta đã gọi nó, Ta đã đem nó đến, và nó sẽ làm thành tựu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hãy đến gần ta, và nghe lời này; từ ban đầu ta vẫn không nói điều gì thầm kín; khi việc xảy ra thì ta đã có mặt; giờ đây Chúa Giê-hô-va đã sai phái ta, cùng với Thần Linh Ngài.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng chỉ dạy ngươi cách để thành đạt, dẫn dắt ngươi theo con đường ngươi phải đi.
|
||
\v 18 Ước gì các ngươi chịu vâng giữ các điều răn Ta! Được vậy thì sự bình an và thạnh vượng ngươi đã tuôn chảy như dòng sông, sự cứu rỗi đã dào dạt như sóng biển.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Dòng dõi ngươi đã đông đúc như cát, con cái từ ruột gan ngươi sẽ nhiều như hạt cát; tên tuổi chúng đã chẳng bị diệt và xóa sạch trước mặt Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Hãy ra khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy trốn khỏi người Canh-đê! Hãy loan báo việc này bằng tiếng kêu vang động! Hãy công bố, khiến nó vọng đến các miền đất xa xôi! Hãy nói: ‘Giê-hô-va đã cứu chuộc tôi tớ Ngài là Gia-cốp.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Họ chẳng khát nước khi Ngài dẫn họ qua sa mạc; Ngài đã khiến nước từ tảng đá chảy ra cho họ; Ngài chẻ toạc đá ra, và nước phun trào.
|
||
\v 22 Kẻ ác chẳng được bình an đâu — Giê-hô-va phán.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 49
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hãy nghe ta đây, hỡi các vùng đất ven biển! Hãy chú ý, hỡi các dân ở xa. Giê-hô-va đã gọi đích danh ta khi ta mới sinh ra, khi mẹ ta đưa ta vào đời.
|
||
\v 2 Ngài đã khiến miệng ta tựa thanh gươm bén; Ngài giấu ta dưới bóng của tay Ngài; Ngài biến ta thành mũi tên bóng loáng; Ngài cất giữ ta trong ống tên của Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ngài phán với ta: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi là đầy tớ Ta, bởi ngươi Ta sẽ tỏ ra vinh quang mình.”
|
||
\v 4 Dầu ta từng nghĩ rằng ta đã nhọc công vô ích, ta đã phí hao sức lực mà chẳng được gì, nhưng sự công bình ta ở nơi Giê-hô-va, phần thưởng ta ở nơi Đức Chúa Trời ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Giờ đây, Giê-hô-va đã phán, Ngài đã lập ta làm tôi tớ Ngài từ lúc mới sinh, để đem Gia-cốp trở lại cùng Ngài, để tập họp Y-sơ-ra-ên về với Ngài. Ta được tôn trọng trong mắt Giê-hô-va, và Đức Chúa Trời đã trở nên sức mạnh ta.
|
||
\v 6 Ngài phán: “Làm tôi tớ ta để lập lại các bộ tộc của Gia-cốp và phục hồi những kẻ sống sót của Y-sơ-ra-ên là việc nhỏ nhoi quá đối với ngươi. Ta sẽ khiến ngươi nên ánh sáng cho các dân ngoại, để ngươi làm sự cứu rỗi của ta cho những nơi tận cùng của trái đất.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc, và Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán với kẻ có cuộc đời bị khinh rẻ, bị các dân thù ghét, và là tôi mọi của những kẻ cai trị: “Các vua sẽ thấy ngươi và đứng lên, các quan tướng sẽ thấy ngươi và sấp mình xuống, vì cớ Giê-hô-va, Đấng thành tín, tức Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã chọn ngươi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Vào thời điểm Ta định để thi ân Ta sẽ đáp lời ngươi, trong ngày cứu rỗi Ta sẽ giúp đỡ ngươi; Ta sẽ bảo vệ ngươi, và ban ngươi làm giao ước cho các dân, hầu tái thiết xứ sở, phân chia lại sản nghiệp hiện bị đổ nát.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Ngươi sẽ nói với kẻ tù: ‘Hãy ra đi;’ với kẻ ở trong ngục tối: ‘Hãy ra ngoài sáng.’ Họ sẽ được nuôi ăn dọc đường, và trên các triền dốc trơ trọi sẽ là đồng cỏ cho họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Họ sẽ không đói, cũng không khát; hơi nóng hay mặt trời cũng không làm hại họ, vì Đấng thương xót họ sẽ dẫn dắt họ; Ngài sẽ dắt họ đến suối nước.
|
||
\v 11 Ta sẽ khiến mọi núi Ta biến thành đường đi, và ban bằng các con đường của Ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Kìa, những người này sẽ đến từ phương xa, một số từ phương bắc và phương tây; số khác từ xứ Si-nim.
|
||
\v 13 Hỡi các tầng trời, hãy hát lên; hỡi trái đất, hãy vui mừng; hỡi các núi, hãy cất tiếng ca! Vì Giê-hô-va yên ủi dân Ngài và sẽ thương xót dân khốn khổ của mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Nhưng Si-ôn bảo: “Giê-hô-va đã lìa bỏ tôi, Chúa đã quên tôi rồi.”
|
||
\v 15 “Có thể nào người phụ nữ quên cho con nhỏ mình bú, và như thế chẳng thương cảm con trai mình đã sinh ra chăng? Thật, họ có thể quên, nhưng ta sẽ chẳng quên ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Này, Ta đã chạm khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta; các tường thành ngươi luôn ở trước mặt Ta.
|
||
\v 17 Con cái ngươi sẽ vội trở về, trong khi những kẻ tiêu diệt các ngươi bỏ đi.
|
||
\v 18 Hãy nhìn quanh và chứng kiến, tất cả chúng nó đang tập hợp lại và đến với ngươi. Như Ta đang sống — đây là lời công bố của Giê-hô-va — thì cũng vậy, đích thực ngươi sẽ đeo chúng như đeo nữ trang; ngươi sẽ mang chúng vào như cô dâu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Dầu ngươi chỉ là chốn tan hoang, đổ nát, một xứ sở hoang tàn, nhưng giờ thì ngươi sẽ quá chật hẹp cho số cư dân, và những kẻ ăn nuốt ngươi sẽ ở cách xa ngươi.
|
||
\v 20 Con cái sinh ra trong thời ngươi gặp cảnh tang chế sẽ nói vào tai ngươi: ‘Ở đây chật hẹp quá đối với chúng con, hãy sắp xếp chỗ cho chúng con ở với.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Rồi ngươi sẽ tự hỏi: ‘Ai đã sinh mấy đứa trẻ này cho mình? Mình đã mất con, đã son sẻ, bị lưu đày và ly hôn. Ai đã nuôi nấng những đứa trẻ này? Kìa, mình hoàn toàn đơn chiếc; bọn trẻ này ở đâu ra?’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Đây là lời phán của Chúa Giê-hô-va: “Này, Ta sẽ giáng tay trên các nước; ta sẽ giương cờ hiệu Ta cho các dân. Chúng sẽ bồng bế các con trai ngươi, mang vác các con gái ngươi đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Các vua sẽ làm cha nuôi ngươi, các hoàng hậu làm cô bảo mẫu ngươi; họ sẽ sấp mặt xuống đất trước ngươi và liếm bụi nơi chân ngươi; họ sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va; kẻ trông đợi Ta sẽ không bị xấu hổ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ai có thể đoạt lấy chiến lợi phẩm của người chiến binh, hoặc giải cứu tù binh khỏi tay bạo chúa?
|
||
\v 25 Nhưng đây là lời phán của Giê-hô-va: “Thật, tù binh sẽ được cứu khỏi tay người lính, và chiến lợi phẩm sẽ được thu hồi; vì Ta sẽ chống lại kẻ thù ngươi và cứu con cái ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Rồi Ta sẽ bắt kẻ áp bức ngươi tự ăn thịt; và chúng sẽ say máu của chính mình, như thể say rượu; cả nhân loại sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng cứu ngươi, Đấng chuộc ngươi, tức Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 50
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Chứng từ ly hôn của Ta với mẹ các ngươi đâu nào? Ta đã bán các ngươi cho chủ nợ nào của Ta kia? Kìa, các ngươi bị bán là vì tội lỗi mình, và vì sự phản loạn của các ngươi mà mẹ các ngươi bị đuổi đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Tại sao Ta đến mà chẳng có ai ở đó? Vì sao Ta gọi mà chẳng người nào đáp lại? Phải chăng tay Ta ngắn quá nên không chuộc được ngươi? Phải chăng Ta chẳng có quyền để giải thoát ngươi? Này, Ta quở thì biển khô cạn; Ta biến sông ngòi thành sa mạc; cá ở đó chết vì thiếu nước và thối rữa.
|
||
\v 3 Ta lấy bóng tối mặc cho bầu trời; Ta lấy vải thô phủ lên nó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Chúa Giê-hô-va đã ban cho ta cái lưỡi như lưỡi của người được dạy dỗ, để ta nói ra lời nâng đỡ kẻ mỏi mệt; Ngài đánh thức ta mỗi buổi sáng; Ngài đánh thức tai ta để nghe như kẻ được dạy dỗ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chúa Giê-hô-va đã mở tai ta, nên ta không bội nghịch, mà ta cũng chẳng quay trở lui.
|
||
\v 6 Ta đưa lưng cho những kẻ đánh mình, đưa má cho những kẻ nhổ râu mình; ta chẳng che mặt lại khi bị sỉ vả và phỉ nhổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vì Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta, nên ta không bị sỉ nhục; vậy là ta đã khiến mặt mình ra như đá lửa, vì ta biết rằng mình sẽ không bị hổ thẹn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Đấng xưng công chính cho ta đang ở gần. Ai chống lại ta đâu? Hãy đứng đối đầu với ta đi. Ai cáo tội ta? Hãy cứ đến gần ta đây.
|
||
\v 9 Này, Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta. Ai sẽ kết tội ta? Này, chúng nó sẽ thảy đều mòn rách như cái áo; mối sẽ ăn sạch chúng nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ai giữa vòng các ngươi kính sợ Giê-hô-va? Ai vâng theo tiếng của đầy tớ Ngài? Ai đang bước đi trong bóng tối mà không có ánh sáng? Kẻ đó hãy tin nơi danh của Giê-hô-va và nương dựa vào Đức Chúa Trời mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Này, tất cả các ngươi là kẻ đốt lửa, thắp đuốc cho mình: hãy bước đi trong ánh lửa các ngươi, trong ngọn lửa mà các ngươi đã đốt lên đó. Đây là điều các ngươi đã nhận từ nơi Ta; các ngươi sẽ nằm xuống trong chỗ đau đớn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 51
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Các ngươi là kẻ theo đuổi sự công chính, kẻ tìm kiếm Giê-hô-va, hãy nghe Ta: hãy nhìn vầng đá từ đó các ngươi được đục ra, hầm đá từ đó các ngươi được cắt ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Hãy nhìn xem Áp-ra-ham, cha các ngươi, và Sa-ra, người đã sinh các ngươi; vì khi người chỉ là một kẻ đơn độc thì Ta đã kêu gọi người. Ta đã ban phước cho người và khiến người đông thêm lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Thật, Giê-hô-va sẽ yên ủi Si-ôn; Ngài sẽ yên ủi mọi nơi hoang tàn của nó; Ngài đã khiến đồng hoang nó ra giống như Ê-đen, và các đồng bằng sa mạc cạnh thung lũng sông Giô-đanh ra giống như vườn của Đức Chúa Trời; nơi nó người ta sẽ thấy có niềm hân hoan, vui sướng, cùng lời cảm tạ và tiếng hát ca.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 “Hỡi dân Ta, hãy nghe cho rõ; hỡi dân Ta, hãy lắng nghe Ta nói! Vì Ta sẽ ban ra một sắc chỉ, và sẽ khiến sự công chính Ta thành ánh sáng cho các nước.
|
||
\v 5 Sự công chính Ta đã gần; sự cứu rỗi Ta sẽ hiện ra, và tay Ta sẽ đoán xét các dân; các vùng đất ven biển sẽ trông đợi Ta; vì chúng sẽ tha thiết mong chờ cánh tay Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hãy ngước mắt lên trời và nhìn xuống đất bên dưới, vì các tầng trời sẽ tan biến như khói, đất sẽ mòn cũ như cái áo, và cư dân nó sẽ chết như ruồi. Nhưng sự cứu rỗi Ta cứ còn đến đời đời, sự công chính Ta chẳng bao giờ dứt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Hỡi dân biết điều phải, kẻ có luật pháp Ta trong lòng: Đừng sợ người ta nhục mạ, cũng đừng nản lòng vì bị chúng ngược đãi.
|
||
\v 8 Vì nhộng sẽ ăn sạch chúng như chiếc áo, mọt sẽ ăn chúng như len; nhưng sự công chính Ta sẽ còn mãi, sự cứu rỗi Ta sẽ trải suốt mọi thế hệ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Hỡi cánh tay Giê-hô-va, hãy thức dậy, xin thức dậy, hãy mặc lấy sức mạnh. Hãy thức dậy như trong thời xưa, như trong các thế hệ của thời cổ đại. Chẳng phải Chúa là Đấng đã tiêu diệt con quái vật biển, đã đâm con rồng, đó sao?
|
||
\v 10 Chẳng phải Chúa đã khiến biển cạn, làm khô nước của vực sâu, biến các vực thẳm của biển thành con đường cho dân được chuộc của Ngài đi qua, hay sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Kẻ đã được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn với tiếng reo mừng và niềm vui sướng đời đời trên đầu mình; niềm vui sướng, hân hoan sẽ đuổi kịp họ, còn sự buồn rầu, than khóc sẽ bỏ trốn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 “Ta, chính Ta là Đấng yên ủi các ngươi. Vì sao các ngươi lại sợ người phàm, vốn sẽ chết, tức các con trai loài người, được tạo nên như loài cỏ?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Vì sao các ngươi lại quên Đấng tạo dựng mình là Giê-hô-va? Chính Ngài đã giăng các tầng trời ra và đặt các nền của trái đất. Ngày nào các ngươi cũng kinh sợ cơn nóng giận của kẻ áp bức khi nó định hủy diệt. Cơn giận của kẻ áp bức đâu rồi?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Kẻ mang nặng xiềng xích Giê-hô-va sẽ nhanh chóng giải thoát; họ sẽ không chết và phải xuống âm phủ, mà họ cũng chẳng thiếu bánh ăn.
|
||
\v 15 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng khuấy động biển, khiến nổi sóng ầm ầm — Giê-hô-va của các đạo binh là danh Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi, và Ta đã bao phủ ngươi dưới bóng bàn tay Ta, để Ta dựng nên các tầng trời, đặt nền trái đất, và phán với Si-ôn, rằng: ‘Ngươi là dân Ta.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Hỡi Giê-ru-sa-lem, dậy đi, hãy dậy đi. Ngươi đã uống chén thạnh nộ của Giê-hô-va từ chính tay Ngài; ngươi đã uống chén, là chén xây xẩm, và ngươi đã uống cạn.
|
||
\v 18 Chẳng có ai trong số các con trai nó sinh ra dẫn dắt nó; chẳng có ai giữa vòng các con trai nó đã nuôi nấng nắm tay nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Cả hai tai họa đó đã xảy đến cho ngươi — tàn phá và hủy diệt, đói kém và gươm đao — ai sẽ chia buồn với ngươi? Ai sẽ an ủi ngươi?
|
||
\v 20 Các con trai ngươi đều ngất xỉu; chúng nằm khắp mọi góc đường, như con linh dương mắc bẫy lưới; chúng hứng trọn cơn thạnh nộ của Giê-hô-va, tức sự quở phạt của Đức Chúa Trời ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Nhưng, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ bị áp bức và say khước, nhưng chẳng phải vì rượu:
|
||
\v 22 Chúa Giê-hô-va các ngươi, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng bênh vực dân Ngài, phán như vầy: “Này, Ta đã cất chén xây xẩm khỏi tay ngươi — tức chén thạnh nộ của ta — để ngươi sẽ không uống nó nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ta sẽ đặt chén ấy vào tay những kẻ hành hạ ngươi, những kẻ đã nói với ngươi: ‘Nằm xuống để bọn tao bước qua’; lưng ngươi trở nên như mặt đất, như con đường cho chúng bước lên.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 52
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hỡi Si-ôn, dậy đi, thức dậy đi, hãy mặc lấy sức mạnh mình; hỡi Giê-ru-sa-lem, là thành thánh, hãy mặc áo đẹp của ngươi vào; vì kẻ chưa chịu cắt bì và kẻ ô uế sẽ chẳng bao giờ vào nơi ngươi nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Hãy giũ cho mình sạch hết bụi bặm; hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ngồi dậy; hỡi kẻ tù, tức con gái Si-ôn, hãy cởi bỏ xiềng xích khỏi cổ ngươi.
|
||
\v 3 Vì này là lời phán của Giê-hô-va: “Các ngươi đã bị bán như cho, nên các ngươi cũng sẽ được chuộc lại mà không nhờ tiền bạc.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va phán: “Thuở ban đầu, dân Ta xuống trú ngụ tại Ai Cập; gần đây A-si-ri lại áp bức chúng.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bây giờ, Ta được gì đây, vì dân Ta bị đem đi mà không được trả một đồng?” Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Giới lãnh đạo chúng nó than khóc, còn danh Ta thì bị xúc phạm suốt cả ngày.
|
||
\v 6 Vậy nên dân Ta sẽ biết danh Ta; vào ngày đó, họ sẽ biết rằng Ta chính là Đấng phán lời này. Đúng, chính Ta đây!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Những sứ giả đem tin lành, loan tin bình an, mang tin vui mừng, rao báo sự cứu rỗi, những kẻ nói với Si-ôn, rằng: “Đức Chúa Trời ngươi trị vì” — bàn chân họ trên các núi đồi đẹp đẽ biết bao!
|
||
\v 8 Hãy nghe, các lính canh ngươi lên tiếng, họ cùng reo vui, vì họ sẽ tận mắt nhìn thấy Giê-hô-va trở về Si-ôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Hỡi các tàn tích của Giê-ru-sa-lem, hãy cùng cất tiếng ca vui mừng; vì Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài; Ngài đã chuộc Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 10 Giê-hô-va đã tỏ lộ cánh tay thánh Ngài trước mặt mọi dân tộc; cả trái đất sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Hãy đi, hãy đi đi, hãy đi khỏi nơi đó; đừng đụng đến vật gì ô uế; hãy ra khỏi giữa nó; hãy thanh tẩy mình đi, hỡi các ngươi là kẻ mang vật dụng của Giê-hô-va.
|
||
\v 12 Vì các ngươi sẽ không ra đi cách vội vả, cũng không ra đi trong sự hốt hoảng; vì Giê-hô-va sẽ đi trước các ngươi; và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ đi sau bảo vệ các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Này, đầy tớ ta sẽ hành xử khôn ngoan và việc người sẽ được thành; người sẽ nên cao trọng và được tôn lên; người sẽ được tôn lên rất cao.
|
||
\v 14 Như nhiều người nhìn thấy ngươi mà kinh sợ — diện mạo của người bị biến dạng, không còn giống như dáng vẻ con người, cho nên nhìn người rất khác mọi người
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 — thì cũng vậy người sẽ khiến nhiều nước sửng sốt; các vua sẽ câm miệng vì cớ người. Điều chưa ai nói cho biết thì họ sẽ thấy, điều họ chưa từng được nghe thì họ sẽ hiểu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 53
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Có ai tin điều chúng ta đã nghe? Và cánh tay của Giê-hô-va đã được tỏ ra cho ai?
|
||
\v 2 Vì người đã lớn lên trước mặt Giê-hô-va như một cây non, như cái mầm từ đất khô; người chẳng có diện mạo đặc biệt hoặc dáng vẻ oai nghi; khi chúng ta nhìn thấy người, chẳng có gì đẹp đẽ hấp dẫn chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Người bị người ta khinh rẻ, khước từ; là con người thống khổ, đã quen chịu đau đớn. Người bị khinh dễ như kẻ người ta che mặt lại chẳng thèm nhìn; và chúng ta chẳng xem người ra gì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Nhưng, thật, người đã mang tật bệnh của chúng ta, gánh các nỗi buồn phiền của chúng ta; vậy mà chúng ta lại tưởng người đang bị Đức Chúa Trời hình phạt, bị Đức Chúa Trời đánh đập, hành hạ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Nhưng người đã bị đâm vì các việc bội nghịch của chúng ta; người bị chà đạp vì tội lỗi chúng ta. Người chịu hình phạt để chúng ta được hòa thuận, nhờ các vết thương người mà chúng ta được chữa lành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Tất cả chúng ta đều giống như chiên đi lạc; mỗi người đi theo đường riêng mình, và Giê-hô-va đã chất trên người tội lỗi của hết thảy chúng ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Người bị áp chế; nhưng khi người tự hạ mình thì người chẳng mở miệng; như chiên con bị dắt đi làm thịt, như con chiên trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng mở miệng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Do bị ép buộc và xét xử mà người bị kết tội; có ai thuộc thế hệ đó còn nghĩ đến người? Nhưng người đã bị diệt khỏi đất kẻ sống; vì những vi phạm của dân ta mà người phải chịu hình phạt.
|
||
\v 9 Chúng định đặt mồ người chung với bọn tội phạm, với người giàu khi người chết, dầu người chẳng làm điều gì thô bạo, miệng người chẳng từng nói lời dối trá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Nhưng ý muốn của Đức Chúa Trời là nghiền nát người và khiến người đau yếu; và nếu người dâng mạng sống mình làm của lễ đền tội thì người sẽ nhìn thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ dài thêm, và mục đích của Đức Chúa Trời sẽ nhờ người mà được thành.
|
||
\v 11 Sau khi người chịu khổ, người sẽ nhìn thấy và được mãn nguyện nhờ hiểu biết việc mình đã làm. Tôi tớ công chính của Ta sẽ xưng công bình nhiều người; người sẽ mang tội lỗi của họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vì vậy, Ta sẽ ban phần cho người giữa vòng đám đông dân chúng, và người sẽ chia chiến lợi phẩm cùng nhiều người, vì người xả thân chịu chết và bị liệt vào hàng tội nhân. Người đã mang tội lỗi của nhiều người và cầu thay cho những kẻ phạm tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 54
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giê-hô-va phán: “Hãy hát lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, kẻ chưa từng sinh con; hãy cất tiếng hát mừng và la lớn, hỡi kẻ chưa từng trải qua cơn đau chuyển dạ. Vì con cái của người phụ nữ lẻ loi lại nhiều hơn con cái của người phụ nữ có chồng.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Hãy cơi nới lều trại ngươi và giương các tấm bạt thêm ra, đừng hẹp hòi; hãy nối dài dây thừng và làm vững các cọc ngươi.
|
||
\v 3 Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái, và con cháu ngươi sẽ chinh phục các nước, tái định cư trong các thành bị bỏ hoang.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Đừng sợ vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, cũng đừng nản lòng vì ngươi sẽ không bị sỉ nhục; ngươi sẽ quên đi nỗi xấu hổ thời trẻ mình và sự sỉ nhục khi bị ruồng bỏ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì Đấng tạo dựng ngươi chính là chồng ngươi; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh. Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là Đấng Cứu Chuộc ngươi; Ngài được xưng là Đức Chúa Trời của cả trái đất.
|
||
\v 6 Vì Giê-hô-va đã kêu gọi ngươi trở về như người vợ bị bỏ, tâm thần sầu muộn, như người phụ nữ lấy chồng lúc còn trẻ rồi bị khước từ, Đức Chúa Trời ngươi phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 “Vì Ta đã bỏ ngươi trong một lúc, nhưng sẽ lấy lòng thương xót lớn mà thâu ngươi lại.
|
||
\v 8 Đang cơn nóng giận, Ta ẩn mặt với ngươi trong chốc lát; nhưng rồi sẽ lấy lòng thành tín đời đời mà thương xót ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Vì điều này đối với Ta cũng giống như nước lụt thời Nô-ê; Ta đã thề hứa nước lụt thời Nô-ê sẽ chẳng bao giờ lại tràn ra trên đất thể nào, thì Ta cũng thề sẽ chẳng giận ngươi hay quở phạt ngươi nữa.
|
||
\v 10 Dầu núi có đổ sập, đồi có lay chuyển, thì lòng thành tín Ta cũng không lìa khỏi ngươi, giao ước bình an của Ta cũng chẳng chuyển lay — Giê-hô-va, Đấng thương xót ngươi phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Này, hỡi kẻ chịu hoạn nạn, phải trải qua bão táp phong ba mà chẳng được yên ủi, Ta sẽ lấy ngọc lam lát đường ngươi, lấy ngọc bích lập nền ngươi.
|
||
\v 12 Ta sẽ lấy hồng ngọc làm các chót tháp ngươi, lấy đá lấp lánh làm các cổng ngươi, và lấy đá quý làm tường lũy ngoại vi của ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Mọi con cái ngươi sẽ được Giê-hô-va dạy dỗ; các con ngươi sẽ được sự bình an lớn.
|
||
\v 14 Ta sẽ lập ngươi lại trong sự công chính. Ngươi sẽ không còn bị bức hại, vì ngươi sẽ chẳng sợ hãi và chẳng có việc gì kinh khiếp đến gần ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Này, nếu có ai đó gây rắc rối thì đó chẳng phải là do Ta; kẻ nào gây chuyện với ngươi thì nó sẽ sa bại. Kìa,
|
||
\v 16 Ta đã tạo ra người thợ biết thổi lửa và chuyên rèn đúc vũ khí; Ta cũng đã tạo ra kẻ hủy diệt để tàn phá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Mọi thứ khí giới làm ra chống lại ngươi sẽ thất bại; và ngươi sẽ kết tội mọi kẻ cáo tội ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 55
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 “Mọi người nào khát, hãy đến uống nước! Các ngươi là kẻ không có tiền, hãy đến mua mà ăn! Hãy đến mua rượu và sữa mà không cần tiền, không tốn kém.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Sao các ngươi cân bạc để mua thứ chẳng phải là bánh? Và chịu khó nhọc để đổi lấy thứ chẳng làm cho no? Hãy nghe Ta cho kỹ, ăn món ngon và khiến mình vui thích nơi đồ béo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Hãy lắng tai và đến với Ta! Hãy nghe mà được sống! Nhất định Ta sẽ lập một giao ước đời đời với các ngươi, thực hiện các việc thành tín dành cho Đa-vít.
|
||
\v 4 Kìa, Ta đã đặt ngươi làm chứng nhân cho các nước, làm thủ lĩnh, chỉ huy các dân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Này, ngươi sẽ chiêu tập một nước ngươi chẳng biết; và một nước chưa biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi vì cớ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã làm rạng danh ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hãy tìm kiếm Giê-hô-va trong lúc có thể tìm được; hãy kêu cầu Ngài khi Ngài ở gần.
|
||
\v 7 Kẻ ác phải từ bỏ con đường mình, người tội phải từ bỏ ý tưởng mình. Họ phải quay về với Giê-hô-va, rồi Ngài sẽ xót thương, và về cùng Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng tha thứ dồi dào.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 “Vì — đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va — ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta,
|
||
\v 9 vì các tầng trời cao hơn đất thể nào, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng thể ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vì, như mưa và tuyết từ trời đổ xuống mà không trở lại nếu chưa dầm thấm đất, khiến đất sinh sản cây con và cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, bánh cho kẻ ăn,
|
||
\v 11 thì lời Ta ra từ miệng Ta cũng vậy: nó sẽ không trở về cách vô ích, mà sẽ làm trọn điều Ta muốn, hoàn thành việc Ta sai nó làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vì các ngươi sẽ ra đi trong sự vui mừng và được dắt đưa đi cách bình an; trước mặt các ngươi, núi và đồi sẽ trổi tiếng reo vui, mọi cây ngoài đồng sẽ vỗ tay.
|
||
\v 13 Tùng bách sẽ mọc lên thay cho bụi gai; cây sim sẽ mọc thay cho thạch nam, và việc đó sẽ tôn cao Giê-hô-va, làm rạng danh Ngài, như một dấu hiệu đời đời không bị diệt mất.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 56
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Hãy tuân giữ điều phải, thực hành điều công bình; vì sự cứu rỗi Ta đã gần, và sự công chính ta sắp được tỏ lộ.
|
||
\v 2 Phước cho người làm như vậy, cũng như ai nắm chặt lấy nó. Họ tuân giữ ngày Sa-bát, không phàm tục hóa nó, kiềm giữ tay mình để khỏi làm điều gì xấu xa.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Đừng có người ngoại quốc nào đã đi theo Giê-hô-va mà lại nói: “Hẵn Giê-hô-va sẽ loại bỏ tôi khỏi dân Ngài.” Kẻ đã hoạn đừng bảo: “Này, tôi chỉ là cây khô.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì đây là lời Giê-hô-va phán: “Đối với những kẻ hoạn biết tuân giữ ngày Sa-bát Ta và chọn điều đẹp lòng Ta, kiên định trong giao ước Ta thì,
|
||
\v 5 để lưu danh họ, Ta sẽ lập một đài kỷ niệm trong nhà Ta, trong thành Ta — như thế còn quý hơn là có con trai, con gái; Ta sẽ ban cho họ một đài kỷ niệm vĩnh cửu chẳng bị hủy phá.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Cũng vậy, những người ngoại quốc liên kết với Giê-hô-va để phục vụ Ngài, những kẻ yêu mến danh Giê-hô-va và thờ phượng Ngài, mọi kẻ tuân giữ ngày Sa-bát và giữ để nó khỏi bị uế tục, cùng kẻ trung kiên với giao ước của Ta,
|
||
\v 7 “Những kẻ này Ta sẽ đem lên núi thánh Ta và khiến họ vui mừng trong nhà cầu nguyện Ta; của lễ thiêu và sinh tế của họ sẽ được chấp nhận trên bàn thờ Ta. Vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc,
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va, Đấng nhóm họp lại những kẻ bơ vơ của Y-sơ-ra-ên — và nhóm họp những kẻ khác nữa cùng với họ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Hỡi các loài thú hoang ngoài đồng, hãy đến mà ăn nuốt, toàn bộ thú rừng chúng bay!
|
||
\v 10 Mọi kẻ canh giữ họ đều đui mù; chúng chẳng hiểu; chúng đều là chó câm; chúng chẳng sủa được; chỉ mơ mộng, nằm nghỉ, ham ngủ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Những con chó đó háu ăn; chúng chẳng bao giờ thấy đủ; chúng là kẻ chăn chẳng hiểu biết; chúng đều đi theo đường riêng của mình, ai cũng thèm muốn lợi bất nghĩa.
|
||
\v 12 Chúng bảo: “Hãy đến, chúng ta sẽ uống rượu vang cùng rượu mạnh; ngày mai sẽ như bữa nay, một ngày vô cùng tuyệt vời.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 57
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Người công chính bỏ mạng nhưng chẳng ai để tâm suy nghĩ; người trung nghĩa bị đem đi, nhưng chẳng ai hiểu người công chính được đưa đi tránh tai họa.
|
||
\v 2 Người đi vào chốn an bình; những kẻ bước đi trong sự ngay thẳng được an nghỉ ở giường mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Nhưng, các ngươi là con trai của phù thủy, con cái của kẻ ngoại tình và người phụ nữ bán dâm, hãy lại gần đây.
|
||
\v 4 Các ngươi đang trêu chọc ai đó? Các ngươi mở mồm, le lưỡi xỉa xói ai đó? Chẳng phải các ngươi là con cái bội nghịch, con cái lọc lừa đó sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các ngươi tự sưởi ấm bằng cách ngủ với nhau dưới các gốc sồi, dưới mọi cây xanh, hỡi những kẻ giết con cái mình nơi lòng sông khô cạn, dưới các mô đá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Lẫn trong những thứ nhẵn bóng dưới thung lũng sông là các thứ được phân chia cho các ngươi. Chúng là vật sùng kính của các ngươi. Các ngươi dâng của lễ quán cho chúng, cùng của lễ chay. Ta có nên vui thích về các việc này chăng?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Các ngươi đã sắm sửa giường mình trên một ngọn núi cao; các ngươi cũng lên đó mà dâng sinh tế.
|
||
\v 8 Các ngươi dựng các biểu tượng mình đằng sau cửa và trụ cửa; các ngươi lìa bỏ Ta, cởi bỏ quần áo, rồi lên chiếc giường mà các ngươi đã cơi nới. Các ngươi lập giao ước với chúng; các ngươi yêu thích giường của chúng; các ngươi ngắm nhìn sự trần truồng của chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Các ngươi đem dầu đến gặp vua; các ngươi thêm thật nhiều nước hoa. Các ngươi sai sứ đi xa; các ngươi xuống tận âm phủ.
|
||
\v 10 Các ngươi mòn mỏi vì đường xa, nhưng lại chưa bao giờ nói: “Chẳng có hy vọng gì.” Các ngươi tìm được sự sống trong tay; vậy nên các ngươi không suy yếu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 “Các ngươi lo ngại ai? Các ngươi sợ ai đến độ các ngươi hành xử cách gian dối như vậy, đến độ các ngươi chẳng nhớ đến Ta hoặc để tâm đến Ta? Vì Ta đã yên lặng lâu quá nên các ngươi chẳng sợ Ta nữa.
|
||
\v 12 Ta sẽ công bố mọi việc công chính các ngươi và kể ra mọi điều các ngươi đã làm, nhưng chúng sẽ chẳng ích gì cho các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Khi các ngươi kêu la, ước gì các hình tượng mà các ngươi sưu tập đó giải cứu các ngươi. Nhưng không, gió sẽ đùa chúng đi hết thảy, một hơi thở cũng đủ đem chúng đi hết. Còn kẻ nương náu nơi Ta sẽ thừa hưởng đất và sẽ sở hữu núi thánh Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ngài sẽ bảo: ‘Hãy xây dựng, xây dựng đi! Hãy mở đường! Hãy di dời các đá gây vấp váp khỏi đường đi của dân Ta!’”
|
||
\v 15 Vì này là lời của Đấng cao cả và siêu việt, Đấng sống đời đời, danh Ngài là thánh: “Ta ngự ở nơi cao và thánh, nhưng cũng ở với kẻ có tâm thần tan vỡ, khiêm cung, để làm hồi sinh tâm thần của kẻ khiêm nhường, là tươi tỉnh tấm lòng của người biết ăn năn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vì Ta sẽ không cáo tội luôn luôn, cũng chẳng tức giận mãi mãi, vì như vậy tâm linh của người ta sẽ suy sụp trước mặt Ta, tức những sinh mạng mà Ta đã tạo ra.
|
||
\v 17 Vì tội tham tàn của nó mà ta nổi giận, và Ta đã hình phạt nó; Ta đã giấu mặt đi và giận dữ, nhưng nó vẫn trở lui theo con đường của lòng mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Ta đã nhìn thấy mọi đường lối nó, nhưng Ta sẽ chữa lành nó. Ta sẽ dẫn dắt nó, cũng như vỗ về và yên ủi những kẻ than tiếc nó,
|
||
\v 19 và Ta làm nên trái của môi miếng. Chúc bình an, bình an cho những kẻ ở xa lẫn những kẻ ở gần — Giê-hô-va phán — Ta sẽ chữa lành chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Nhưng kẻ ác giống như biển động, chẳng thể nghỉ yên, nước nó khuấy tung sình lầy lên.
|
||
\v 21 Chẳng có sự bình an cho kẻ ác — Đức Chúa Trời phán vậy.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 58
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 “Hãy kêu la cho lớn, đừng kìm nén, hãy cất tiếng lên như cái kèn, rao báo cho dân ta sự bội nghịch của chúng, và cho nhà Gia-cốp biết tội lỗi mình.
|
||
\v 2 Vậy mà chúng lại tìm kiếm Ta mỗi ngày và muốn biết đường lối Ta, như một dân thực hành sự công chính và chưa lìa bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời mình. Chúng cầu Ta ban các phán quyết công chính; chúng vui thích khi Đức Chúa Trời đến gần.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúng bảo: ‘Sao chúng tôi kiêng ăn mà Chúa chẳng thấy? Sao chúng tôi hạ mình mà Chúa không để ý?’ Kìa, trong ngày các ngươi kiêng ăn thì các ngươi vẫn tìm lạc thú và áp bức mọi kẻ làm công cho mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Kìa, các ngươi kiêng ăn để cãi cọ, tranh chấp, đánh đấm bằng nắm tay gian ác của mình; các ngươi đâu có kiêng ăn để tiếng mình được nghe thấy trên trời.
|
||
\v 5 Đó phải chăng là cách kiêng ăn mà Ta ưa muốn: Một ngày để người ta hạ mình xuống, cúi gập đầu như cây sậy, nằm trên vài thô và bụi tro? Ngươi thật gọi đó là kiêng ăn, là ngày làm đẹp lòng Giê-hô-va, ư?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Cách kiêng ăn mà Ta ưa thích chẳng phải là tháo cùm hung ác, mở dây buộc ách, trả tự do cho người bị áp bức, bẻ gãy mọi ách, hay sao?
|
||
\v 7 Đó chẳng phải là chia bánh cho người đói, đem người nghèo và kẻ vô gia cư về nhà mình, sao?” Khi các ngươi thấy ai đó trần truồng thì các ngươi phải mặc đồ cho; các ngươi cũng đừng ẩn mặt trước những người bà con, họ hàng của mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Bấy giờ, ánh sáng của các ngươi sẽ tỏ rạng như bình minh, và ngươi sẽ nhanh chóng được chữa lành; sự công chính các ngươi sẽ đi trước các ngươi, và vinh quang của Giê-hô-va sẽ bảo vệ đằng sau các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Bấy giờ, các ngươi sẽ kêu, và Giê-hô-va sẽ đáp lại; các ngươi sẽ cầu xin cứu giúp, và Ngài sẽ đáp: “Ta đây.” Nếu các ngươi cất khỏi giữa vòng mình cái ách, ngón tay cáo tội và lời nói tàn độc,
|
||
\v 10 nếu các ngươi giúp bánh cho kẻ đói và đáp ứng nhu cầu của kẻ khốn cùng; được vậy thì ánh sáng các ngươi sẽ mọc lên giữa bóng tối, và bóng tối các ngươi sẽ giống như giữa ban ngày.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Rồi Giê-hô-va sẽ cứ luôn dắt đưa các ngươi và thỏa đáp các ngươi ở những nơi thiếu nước, và Ngài sẽ khiến cứng chắc xương cốt các ngươi. Các ngươi sẽ như khu vườn được tưới, như dòng suối có nước chẳng bao giờ cạn tắt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Một số các ngươi sẽ tái thiết các nơi đổ nát ngày xưa; các ngươi sẽ dựng lại các tàn tích thuộc nhiều đời trước; các ngươi sẽ được gọi là “Kẻ trùng tu vách thành,” “Kẻ tái thiết đường phố để cư ngụ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nếu các ngươi giữ bàn chân mình để khỏi đi lại trong ngày Sa-bát, và không tìm lạc thú riêng trong ngày thánh của ta; nếu các ngươi xưng ngày Sa-bát là niềm vui và nếu các ngươi xưng các việc của Giê-hô-va là thánh và đáng tôn trọng; nếu các ngươi giữ ngày Sa-bát khi gác lại công việc riêng, không tìm kiếm lạc thú riêng và không nói lời theo ý riêng mình;
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 “bấy giờ các ngươi sẽ tìm được sự vui thích nơi Giê-hô-va; và Ta sẽ khiến các ngươi cưỡi trên các nơi cao trên đất; Ta sẽ lấy sản nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ các ngươi, để nuôi các ngươi — vì miệng của Giê-hô-va đã phán như vậy.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 59
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Này, tay của Giê-hô-va chẳng ngắn đến nỗi không cứu được; tai Ngài cũng chẳng nặng đến nỗi không nghe được.
|
||
\v 2 Tuy nhiên, chính việc làm tội lỗi các ngươi đã ngăn cách các ngươi với Đức Chúa Trời mình, chính tội lỗi các ngươi đã khiến Ngài ẩn mặt với các ngươi và không nghe các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vì bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi nhuốm tội. Môi các ngươi nói dối, lưỡi các ngươi nói lời hiểm độc.
|
||
\v 4 Không ai lấy lẽ công chính mà kêu nài, chẳng ai lấy sự chân thật mà biện hộ cho mình. Chúng cậy vào những lời sáo rỗng và ăn nói dối trá; chúng cưu mang chuyện phiền toái và sinh ra tội lỗi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chúng ấp trứng rắn độc và dệt mạng nhện. Ai ăn trứng của chúng sẽ chết, và nếu trứng giập thì sẽ nở ra rắn độc.
|
||
\v 6 Mạng chúng dệt thì không dùng làm áo được, chúng không thể che thân bằng hàng của mình. Đồ chúng làm ra là sản phẩm tội lỗi, bàn tay của chúng làm chuyện hung bạo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Bàn chân chúng chạy đi làm ác, lẹ làng làm đổ máu vô tội. Ý tưởng của chúng là ý tưởng tội lỗi; bạo hành và hủy diệt là con đường chúng đi.
|
||
\v 8 Chúng chẳng biết đường bình an, chẳng có sự công bằng trong các đường lối chúng. Chúng khiến các lối đi cong quẹo; ai đi trong các lối đó chẳng biết bình an.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Vậy nên sự công bình vẫn cách xa chúng ta, sự công chính cũng không đến với chúng ta. Chúng ta trông chờ ánh sáng, nhưng lại thấy bóng tối; chúng ta tìm kiếm sự rạng rỡ, nhưng vẫn bước trong sự tối tăm.
|
||
\v 10 Chúng ta mò tìm vách tường như kẻ mù, như người khiếm thị. Giữa ban ngày mà chúng ta vấp chân như lúc chạng vạng; giữa vòng kẻ mạnh sức mà chúng ta lại như người đã chết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Chúng ta gầm gừ như gấu, rên rỉ như chim bồ câu; chúng ta trông chờ sự công bằng, nhưng chẳng có; trông chờ sự giải cứu, nhưng nó thật xa vời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vì các vi phạm của chúng tôi trước mặt Ngài thật là nhiều, và tội lỗi chúng tôi làm chứng chống lại chúng tôi; vì các vi phạm của chúng tôi ở với chúng tôi, và chúng tôi biết các tội mình.
|
||
\v 13 Chúng tôi đã bội nghịch mà chối bỏ Giê-hô-va và trở lòng không chịu theo Đức Chúa Trời mình. Chúng tôi đã nói lời bạo ngược và phản loạn, cưu mang trong lòng thái độ oán trách cùng lời dối trá.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Lẽ công bằng phải lùi lại, còn sự công chính phải đứng đằng xa; vì sự thật bị vấp ngã ở chốn công cộng, còn điều phải thì chẳng đến được.
|
||
\v 15 Lòng trung thành đã biến mất, và kẻ lìa bỏ điều ác trở thành nạn nhân. Giê-hô-va nhìn thấy điều đó và Ngài không hài lòng vì chẳng có lẽ công bằng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ngài thấy chẳng có người nào, và ngạc nhiên vì không có ai can thiệp. Vì vậy, chính tay Ngài đem đến sự cứu rỗi cho người, và sự công chính Ngài nâng đỡ người.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ngài lấy sự công chính làm áo giáp, đội lên đầu nón cứu rỗi. Ngài mặc áo báo thù và lấy lòng nhiệt thành làm áo choàng.
|
||
\v 18 Ngài báo trả chúng về những việc chúng đã làm, tức sự phán xét thịnh nộ dành cho kẻ đối địch Ngài, sự báo oán dành cho kẻ thù Ngài, hình phạt dành cho các hải đảo như là phần của chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Như vậy, từ phương tây, người ta sẽ kinh sợ danh Giê-hô-va, và từ hướng mặt trời mọc, người ta sẽ kinh sợ vinh quang Ngài. Vì Ngài sẽ đến như dòng suối cuồn cuộn, nhờ hơi thở của Giê-hô-va thổi giục.
|
||
\v 20 “Một Đấng cứu chuộc sẽ đến với Si-ôn và với những kẻ từ bỏ các việc làm bội nghịch của Gia-cốp — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Về phần Ta — Giê-hô-va phán — Thần Ta vốn ở trên các ngươi, cùng với lời mà Ta đã đặt vào miệng các ngươi, sẽ không lìa khỏi miệng các ngươi, cũng không lìa khỏi miệng con cái các ngươi, hoặc lìa khỏi miệng của cháu chắt các ngươi — Giê-hô-va phán — từ nay cho đến đời đời.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 60
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Hãy đứng lên, chiếu sáng ra; vì ánh sáng ngươi đã đến, và vinh quang Giê-hô-va đã hiện ra trên ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Dầu bóng tối sẽ che phủ trái đất, sự tối tăm dày đặc bao trùm lên các dân; nhưng Giê-hô-va sẽ phủ bao ngươi, vinh quang Ngài sẽ tỏa rạng trên ngươi.
|
||
\v 3 Các dân sẽ đến cùng ánh sáng ngươi, các vua sẽ đến với sự sáng chói lòa đang hiện ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Hãy nhìn quanh để thấy. Tất cả họ đều tập hợp lại và đến cùng ngươi. Con trai ngươi từ xa đến, còn con gái ngươi được họ bồng ẳm.
|
||
\v 5 Rồi ngươi sẽ nhìn và hớn hở, lòng ngươi sẽ vui sướng tràn dâng, vì sự giàu có của biển cả tuôn đổ trên ngươi, tài sản của các dân sẽ đến với ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Từng đoàn lạc đà sẽ tràn ngập chỗ ngươi, các lạc đà một gu của Ma-đi-an và Ê-pha; họ đều đến từ Sê-ba; họ sẽ mang theo vàng cùng trầm hương, và sẽ hát ca ngợi Giê-hô-va.
|
||
\v 7 Mọi bầy vật của Kê-đa sẽ tập hợp lại chỗ ngươi, chiên đực của Nê-ba-giốt sẽ đáp ứng các nhu cầu của ngươi; chúng sẽ là những của lễ được nhậm trên bàn thờ Ta; và Ta sẽ làm rạng rỡ nhà vinh hiển của Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Những kẻ bay như mây, như chim bồ câu về chuồng đó là ai vậy?
|
||
\v 9 Các xứ ven biển trông mong Ta, và đi đầu là các tàu bè Ta-rê-si, đem các con trai ngươi về từ phương xa, cùng với bạc và vàng của chúng, vì cớ danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vì cớ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, bởi Ngài đã tôn quý ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Các con trai dân ngoại quốc sẽ xây lại các vách thành ngươi, các vua chúng nó sẽ phục vụ ngươi; vì đang cơn giận Ta đã phạt ngươi, nhưng để thi ân, Ta sẽ thương xót ngươi.
|
||
\v 11 Các cổng ngươi cũng sẽ luôn để mở; chúng sẽ không bị đóng lại, dù là ngày hay đêm, để tài sản của các dân được đem vào, cùng với các vua của chúng bị dẫn theo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Thật, các dân và các nước không thần phục ngươi sẽ tiêu vong; các dân đó sẽ bị tuyệt diệt.
|
||
\v 13 Cây bách, cây tùng, cây thông, là vinh quang của Li-ban, sẽ cùng đến chỗ ngươi, để tô điểm nơi thánh của Ta; và Ta sẽ làm vinh hiển chỗ Ta đặt chân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Con trai của những kẻ đã hạ nhục ngươi sẽ đến sấp mình xuống; chúng sẽ sấp xuống nơi chân ngươi; chúng sẽ gọi ngươi là Thành của Giê-hô-va, là Si-ôn của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Thay vì cứ để cho ngươi bị ruồng bỏ và thù ghét, không có ai qua lại, Ta sẽ khiến ngươi thành ra niềm kiêu hãnh đến muôn đời, thành sự vui mừng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
|
||
\v 16 Ngươi cũng sẽ uống sữa của các dân, và bú vú của các vua; ngươi sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng Cứu Rỗi và Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Thay vì đồng, Ta sẽ đem cho vàng, thay vì sắt, Ta sẽ đem cho bạc; thay vì gỗ, Ta sẽ đem cho đồng, thay vì đá, ta sẽ đem cho sắt. Ta sẽ cắt đặt hòa bình làm kẻ cai quản ngươi, sự công bình làm kẻ cai trị ngươi.
|
||
\v 18 Trong xứ ngươi sẽ chẳng còn nghe về bạo hành, sự tàn hại và hủy phá cũng không còn nghe thấy trong lãnh thổ ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Mặt trời sẽ không còn làm ánh sáng cho ngươi vào ban ngày; ánh trăng cũng không còn chiếu sáng ngươi lúc ban đêm; mà Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, và là Đức Chúa Trời ngươi, vinh quang của ngươi.
|
||
\v 20 Mặt trời ngươi sẽ không lặn nữa, mặt trăng ngươi cũng không tàn và biến mất; vì Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Hết thảy dân ngươi sẽ đều công chính; họ sẽ chiếm hữu xứ đến muôn đời, tức nhánh mà Ta trồng, là công việc của tay Ta, để Ta được vinh hiển.
|
||
\v 22 Kẻ nhỏ bé sẽ thành cả ngàn, kẻ tầm thường sẽ thành cả dân tộc; Ta, Giê-hô-va, sẽ sớm làm thành các việc này vào đúng thời điểm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 61
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Thần của Chúa Giê-hô-va ở trên ta, vì Giê-hô-va đã xức dầu cho ta để công bố tin mừng cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta chữa lành kẻ có lòng tan vỡ, rao sự tự do cho kẻ tù tội, mở cửa ngục tù giải thoát kẻ bị xiềng xích.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Ngài đã sai ta công bố năm thi ân của Giê-hô-va, ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta, cùng yên ủi kẻ than vãn —
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 để ban cho họ khăn xếp thay vì tro bụi, dầu vui mừng thay vì than khóc, áo ngợi khen thay vì tâm thần buồn chán; để gọi họ là những cây sồi công chính, là cây Giê-hô-va trồng để Ngài được vinh hiển.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Họ sẽ xây dựng lại các tàn tích xưa; họ sẽ phục hồi các nơi hoang phế trước đây. Họ sẽ tái thiết những thành bị đổ nát, những nơi hoang tàn từ nhiều thế hệ trước.
|
||
\v 5 Dân ngoại quốc sẽ đứng chăn bầy cho các ngươi, bọn con trai của người nước ngoài sẽ làm công trong đồng ruộng và vườn nho các ngươi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của Giê-hô-va; người ta sẽ gọi các ngươi là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Các ngươi sẽ được hưởng tài sản của các dân, và các ngươi sẽ kiêu hãnh về của cải chúng nó.
|
||
\v 7 Thay vì xấu hổ, các ngươi sẽ nhận được gấp đôi; thay vì sỉ nhục, chúng sẽ vui mừng về phần được chia cho mình. Như vậy, chúng sẽ được chia phần đất gấp đôi; niềm vui đời đời sẽ thuộc về chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Vì Ta, Giê-hô-va, yêu thích sự công bình, và ghét sự cướp bóc cùng sự bất công hung bạo. Ta sẽ báo lại cho chúng một cách thành tín, và Ta sẽ lập với chúng một giao ước đời đời.
|
||
\v 9 Con cháu chúng nó sẽ được biết đến giữa các nước, dòng dõi chúng nó sẽ nổi tiếng giữa các dân. Mọi kẻ nào thấy đều nhìn biết chúng nó, công nhận rằng chúng nó là dân được Giê-hô-va ban phước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ta sẽ rất vui mừng nơi Giê-hô-va; ta sẽ thật vui sướng nơi Đức Chúa Trời ta. Vì Ngài đã mặc cho ta áo cứu rỗi; Ngài đã mặc cho ta chiếc áo công chính, như chú rể diện khăn đội đầu, như cô dâu trang điểm châu ngọc.
|
||
\v 11 Vì như đất khiến cây cỏ đâm chồi, như vườn khiến cây cối lớn lên thể nào, thì Chúa Giê-hô-va cũng sẽ khiến sự công chính và ngợi khen mọc lên trước mặt mọi dân, mọi nước giống như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 62
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vì cớ Si-ôn, Ta sẽ chẳng im tiếng, vì cớ Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ không nín lặng, cho đến khi sự công chính nó chói rạng, và sự cứu rỗi nó cháy sáng như ngọn đuốc.
|
||
\v 2 Các dân sẽ nhìn thấy sự công chính ngươi, mọi vua sẽ nhìn thấy vinh quang ngươi. Ngươi sẽ được gọi bằng một tên mới mà Giê-hô-va sẽ chọn cho.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ngươi cũng sẽ là một vương miện hoa mỹ trong tay Giê-hô-va, một chiếc khăn đội đầu thể hiện vương quyền trong tay Đức Chúa Trời mình.
|
||
\v 4 Ngươi sẽ không còn bị nói đến như “Đồ bị ruồng bỏ”; xứ ngươi cũng sẽ chẳng còn bị gọi là “Đất hiu quạnh” nữa. Thật, ngươi sẽ được gọi là “Kẻ Ta vui thích,” và xứ ngươi sẽ được gọi là “Kẻ có chồng,” vì Giê-hô-va vui thích về ngươi, và xứ ngươi sẽ có chồng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Như người thanh niên đi cưới một thiếu nữ, thì cũng vậy, các con trai ngươi sẽ cưới ngươi; chàng rể vui mừng về vợ mới mình thể nào, thì Giê-hô-va cũng sẽ vui mừng về ngươi thể ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt người canh gác trên các tường thành ngươi; chúng nó chẳng nín lặng, dầu là ngày hay đêm. Các ngươi là kẻ vẫn nhắc nhở Giê-hô-va, đừng có ngưng nghỉ.
|
||
\v 7 Đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài tái lập Giê-ru-sa-lem và khiến nó thành cớ ngợi khen trên đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Giê-hô-va đã dùng bàn tay hữu và cánh tay quyền năng Ngài mà thề, rằng: “Chắc chắn Ta sẽ không ban lúa mì ngươi làm lương thực cho kẻ thù ngươi nữa. Dân ngoại quốc sẽ chẳng còn uống rượu mới mà các ngươi đã làm ra.
|
||
\v 9 Vì những kẻ gặt hái lúa mì sẽ được ăn nó và ca ngợi Giê-hô-va; những kẻ hái nho sẽ được uống rượu trong hành lang của nơi thánh Ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hãy đi qua, đi qua cổng thành! Hãy sửa soạn lối đi cho dân chúng! Hãy xây đắp, xây đắp đường lộ! Hãy dọn sạch đá! Hãy giương cờ hiệu cho các dân!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Kìa, Giê-hô-va đã loan báo cho các nơi tận cùng trái đất, rằng: “Hãy nói với con gái Si-ôn: Này, Đấng Cứu Rỗi ngươi đang đến! Kìa, Ngài đem phần thưởng theo, phần thưởng Ngài đi trước Ngài.”
|
||
\v 12 Người ta sẽ gọi ngươi là “Dân thánh, kẻ được chuộc của Giê-hô-va,” và ngươi sẽ được gọi là “Nơi được tìm đến, thành không bị ruồng bỏ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 63
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Ai từ Ê-đôm, từ Bốt-ra đến mà mặc đồ đỏ thế kia? Ai vận trang phục quân vương, đang bước đi đầy tự tin vì uy lực lớn lao của mình vậy? Chính là Ta, Đấng phán lời công chính và có trọn quyền cứu rỗi.
|
||
\v 2 Sao đồ Ngài mặc lại nhuộm đỏ, giống như người vừa đạp nho nơi bàn ép rượu vậy?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ta đã đạp nho nơi bàn ép rượu một mình, chẳng có ai từ các dân cùng tham gia. Ta đã giẫm lên chúng nó đang lúc thạnh nộ, và giày đạp chúng nó trong cơn giận dữ mình. Máu chúng nó bắn tóe lên quần áo Ta và vấy đỏ toàn bộ y phục Ta.
|
||
\v 4 Vì Ta trông đợi đến ngày báo thù, và năm cứu chuộc của Ta đã đến.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Ta nhìn mà chẳng thấy ai giúp đỡ. Ta ngạc nhiên vì chẳng có người nào hỗ trợ, nhưng chính tay Ta đã đem về cho Ta chiến thắng, chính cơn giận phừng phừng của Ta là động lực thúc đẩy.
|
||
\v 6 Đang cơn giận, Ta giày đạp các dân, khiến chúng say trong cơn thạnh nộ Ta, và khiến máu chúng nó văng tóe ra trên đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Tôi sẽ nói về các việc làm thành tín của Giê-hô-va, các công việc đáng ca ngợi của Giê-hô-va. Tôi sẽ nói về mọi việc mà Giê-hô-va đã làm cho chúng ta, cũng như về lòng nhân từ lớn lao của Ngài đối với nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài đã thể hiện ơn thương xót như vậy đối với chúng ta vì lòng bao dung của Ngài, kèm theo nhiều việc làm thành tín.
|
||
\v 8 Vì Ngài phán: “Thật, họ là dân ta, những đứa con chẳng bội tín.” Ngài trở nên Đấng Cứu Rỗi họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Trong mọi sự khốn khổ họ chịu thì Ngài cũng khốn khổ, và thiên sứ từ trước mặt Ngài đã giải cứu họ. Bởi tình yêu thương và lòng khoan dung mà Ngài đã cứu họ; Ngài đã nâng họ lên và bồng ẵm họ suốt thời xa xưa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Nhưng họ đã bội nghịch và làm buồn Thánh Linh Ngài. Vậy nên Ngài trở thành kẻ thù của họ chống lại họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Dân Ngài nhớ về thời Môi-se thuở xưa. Họ bảo: “Đức Chúa Trời mà đã cứu dân chúng khỏi lòng biển cùng với những kẻ chăn bầy của Ngài ở đâu? Đức Chúa Trời mà đã đặt Thánh Linh Ngài giữa vòng họ ở đâu vậy?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Đâu rồi Đức Chúa Trời mà đã khiến quyền năng mình đi kèm tay phải của Môi-se cũng như phân rẽ nước trước mặt họ, để tạo lập một danh đời đời cho Ngài?
|
||
\v 13 Đâu rồi Đức Chúa Trời, Đấng đã dắt đưa họ qua nước sâu? Như ngựa chạy trên đất bằng phẳng, họ chẳng bị sẩy chân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Thần Linh của Giê-hô-va cho họ an nghỉ, như đàn gia súc được vào thung lũng. Ngài dẫn dắt dân Ngài như vậy, để khiến người ta phải ca ngợi danh Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Từ trên trời, xin Chúa hãy nhìn xuống, từ nơi ngự thánh và vinh quang của Ngài, xin hãy xem. Lòng nhiệt thành cùng các việc quyền năng Ngài đâu rồi? Ngài chẳng thương cảm và động lòng trắc ẩn đối với chúng con.
|
||
\v 16 Vì Chúa là Cha chúng con, dầu Áp-ra-ham không biết chúng con, dầu Y-sơ-ra-ên không nhận ra chúng con, nhưng Ngài, Giê-hô-va, là Cha chúng con. Từ thời xưa thì Ngài đã mang danh là ‘Đấng Cứu Chuộc chúng con.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Giê-hô-va ôi, sao Chúa lại khiến chúng con đi lạc khỏi đường lối Chúa và làm cho lòng chúng con chai đá, chẳng còn tuân phục Ngài? Xin hãy vì các tôi tớ Ngài, là các bộ tộc làm cơ nghiệp Ngài, mà quay trở lại.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Chỉ trong thời gian ngắn dân Ngài được sở hữu nơi thánh Ngài, nhưng rồi kẻ thù chúng con giày đạp nó.
|
||
\v 19 Chúng con đã trở nên như kẻ chưa bao giờ được Ngài cai trị, kẻ chưa bao giờ được xưng bằng danh Ngài.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 64
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 “Ôi, ước gì Chúa mở toang các tầng trời và ngự xuống! Núi non hẳn rúng động trước sự hiện diện của Ngài,
|
||
\v 2 như khi lửa đốt cháy củi vụn, như khi lửa làm sôi nước. Ôi, ước gì danh Ngài được các kẻ thù địch Ngài biết đến, ước gì các dân run rẩy trước mặt Ngài!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ngày trước, khi Chúa làm những việc diệu kỳ mà chúng con không ngờ, thì Ngài đã ngự xuống và núi non phải run sợ trước mặt Ngài.
|
||
\v 4 Từ xưa, chẳng ai từng nghe hay nghĩ đến, cũng chẳng mắt nào thấy có Đức Chúa Trời nào ngoài Ngài, Đấng làm việc này việc nọ cho kẻ trông đợi Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chúa đến cứu giúp những kẻ vui mừng thực hành điều phải, những kẻ lưu ý đến các đường lối Ngài và vâng giữ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vì chúng con đều trở nên như kẻ ô uế, mọi việc công chính của chúng con giống như miếng giẻ bẩn thỉu. Chúng con đều khô héo đi như chiếc lá, tội lỗi chúng con như gió đùa mình đi.
|
||
\v 7 Chẳng có ai kêu cầu danh Chúa, ra sức nắm lấy Ngài, vì Chúa đã ẩn mặt với chúng con và bỏ mặc chúng con cho tội lỗi mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Dầu vậy, Giê-hô-va ôi, Chúa là Cha chúng con; chúng con là đất sét. Chúa là thợ gốm; và chúng con đều là công việc của tay Ngài.
|
||
\v 9 Hỡi Giê-hô-va, xin đừng quá giận, cũng chớ mãi nhớ đến các tội của chúng con. Xin hãy đoái xem hết thảy chúng con, là dân Chúa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Các thành thánh Ngài đã trở nên hoang mạc; Si-ôn đã trở nên hoang vắng, Giê-ru-sa-lem thành chốn quạnh hiu.
|
||
\v 11 Đền thánh đẹp đẽ của chúng con, nơi cha ông chúng con ca ngợi Ngài, đã bị lửa thiêu hủy, và mọi thứ thân thiết đều tan hoang.
|
||
\v 12 Giê-hô-va ôi, sao Ngài vẫn có thể giữ yên lặng và khiến chúng con chịu sỉ nhục?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 65
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 “Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng cầu hỏi Ta tìm gặp; Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng tìm kiếm Ta tìm được. Ta đã phán với một dân chưa kêu cầu danh Ta, rằng: ‘Ta đây! Ta đây!’
|
||
\v 2 Suốt ngày Ta đã đưa tay ra hướng về một dân ương ngạnh, đi trong con đường chẳng thánh lành, cứ bước theo ý tưởng và toan tính riêng của mình!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúng là dân không ngừng xúc phạm Ta, cúng tế trong các khu vườn, dâng hương trên gạch ngói.
|
||
\v 4 Chúng ngồi nơi mồ mả, canh giữ thâu đêm, rồi ăn thịt heo với nước thịt bẩn trong bát đĩa mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chúng bảo: ‘Đứng tránh ra, đừng lại gần, vì tôi thánh sạch hơn các người.’ Các thứ này là khói trong mũi Ta, là đám lửa cháy suốt ngày.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Này, trước mặt Ta có lời chép: Ta sẽ chẳng giữ im lặng, vì Ta sẽ báo trả; Ta sẽ báo lại chúng nó vào lòng chúng nó,
|
||
\v 7 về tội lỗi chúng nó cùng tội lỗi cha ông chúng nó,” Giê-hô-va phán vậy. “Ta sẽ báo trả chúng nó vì đã dâng hương trên các núi và đã chế nhạo Ta trên các đồi. Vì vậy Ta sẽ đong vào lòng chúng các việc chúng đã làm trong quá khứ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Giê-hô-va phán thế này: “Như khi người ta thấy có nước cốt trong chùm nho, và bảo: ‘Đừng làm hư, vì trong đó còn dưỡng chất,’ thì cũng vậy, đây là điều Ta sẽ làm vì các tôi tớ mình: Ta sẽ không diệt hết chúng nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Ta sẽ đem về các con cháu của Gia-cốp và của Giu-đa, rồi chúng sẽ sở hữu các núi Ta. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sở hữu xứ, và các tôi tớ Ta sẽ sống ở đó.
|
||
\v 10 Sa-rôn sẽ trở nên đồng cỏ cho các bầy chiên, thung lũng A-cô sẽ là nơi nghỉ ngơi cho các đàn gia súc, cho dân Ta, là kẻ tìm kiếm Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Nhưng các ngươi là kẻ lìa bỏ Giê-hô-va, kẻ quên núi thánh Ta, kẻ dọn tiệc cho thần May Mắn, kẻ rót đầy rượu pha cho thần gọi là Số Mệnh —
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ta sẽ định cho các ngươi phải chịu gươm đao, và tất cả các ngươi sẽ bị tàn sát, vì khi Ta gọi, các ngươi chẳng đáp lại; khi Ta phán, các ngươi chẳng chịu nghe; thay vì vậy, các ngươi lại làm ác trước mặt Ta, và cố tình làm điều Ta không vui thích.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Này, các tôi tớ Ta sẽ được ăn, còn các ngươi phải chịu đói; này, các tôi tớ Ta sẽ được uống, còn các ngươi phải chịu khát; này, các tôi tớ Ta sẽ hoan hỉ, còn các ngươi phải chịu nhục.
|
||
\v 14 Này, các tôi tớ Ta sẽ reo mừng vì vui sướng trong lòng, còn các ngươi sẽ khóc lóc vì đau đớn trong lòng, và sẽ than vãn vì tâm thần bị nhàu nát.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Danh các ngươi lưu lại thì những kẻ được chọn của Ta sẽ dùng để nguyền rủa; Ta, Chúa Giê-hô-va, sẽ giết chết các ngươi; Ta sẽ gọi các tôi tớ Ta bằng một tên khác.
|
||
\v 16 Ai công bố một phước lành trên đất sẽ được Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, ban phước. Ai thề hứa trên đất tức là thề nguyện bằng danh Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, vì các hoạn nạn trước đó đã được quên hết, chúng đã khuất khỏi mắt Ta.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Vì này, Ta sẽ dựng nên trời mới và đất mới; các việc trước sẽ chẳng còn được nhớ đến hay nhắc lại nữa.
|
||
\v 18 Nhưng các ngươi sẽ sung sướng và vui mừng mãi mãi về những gì Ta sẽ tạo dựng. Này, Ta sẽ dựng nên Giê-ru-sa-lem làm niềm hoan hỉ, và dân thành ấy làm niềm vui thích.
|
||
\v 19 Ta sẽ vui mừng về Giê-ru-sa-lem, và sung sướng về dân Ta; nơi nó sẽ chẳng còn nghe thấy sự khóc lóc, kêu la nữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Tại đó sẽ chẳng bao giờ lại có trẻ nhỏ chết yểu; cũng chẳng còn người già chết trước kỳ. Người chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là chết trẻ. Kẻ có tội chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là bị rủa.
|
||
\v 21 Chúng sẽ cất nhà rồi sống trong đó; chúng sẽ trồng vườn nho rồi ăn trái nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Sẽ không còn có chuyện kẻ này xây nhà nhưng lại có kẻ khác vào ở; một người trồng nhưng người khác được ăn; vì số ngày của dân Ta sẽ như số ngày của cây. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sống lâu hơn công trình của tay mình.
|
||
\v 23 Họ sẽ không nhọc công vô ích, cũng không sinh con để rồi kinh sợ. Vì chúng là con cái của những kẻ được Giê-hô-va ban phước, cùng với dòng dõi của chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Trước khi chúng kêu thì Ta đã đáp lại; trong lúc chúng còn đang nói thì Ta đã nghe.
|
||
\v 25 Sói với chiên con sẽ gặm cỏ chung với nhau, còn sư tử sẽ ăn rơm như bò; nhưng tro bụi sẽ là thức ăn của loài rắn. Chúng sẽ không còn làm hại hay hủy diệt trên khắp núi thánh Ta,” Giê-hô-va phán vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 66
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giê-hô-va phán thế này: “Trời là ngai Ta, đất là bệ chân Ta. Vậy thì đâu là nhà mà các ngươi sẽ xây cho Ta? Đâu là nơi Ta nghỉ ngơi?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Tay Ta đã tạo ra mọi vật này; nhờ vậy mới có mọi thứ ấy — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Kẻ được Ta đẹp ý là kẻ có tâm thần tan vỡ, ăn năn, kẻ nghe lời Ta mà run sợ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Kẻ giết thịt con bò cũng là kẻ giết người; kẻ hiến tế chiên con cũng đi bẻ cổ chó; kẻ dâng của lễ chay lại dâng máu heo; kẻ dâng hương tưởng niệm cũng xưng tụng cái ác. Chúng đã chọn con đường riêng cho mình, và chúng vui thích về các việc gớm ghiếc của mình.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Thì cũng vậy, Ta sẽ chọn hình phạt cho chính chúng; Ta sẽ giáng trên chúng điều chúng sợ hãi, vì khi Ta gọi chẳng ai đáp lại; khi Ta phán chẳng ai lắng nghe. Chúng đã làm chuyện tà ác trước mặt Ta và cố ý làm những việc Ta chẳng vui thích.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Hãy nghe lời của Giê-hô-va phán, hỡi các ngươi là kẻ nghe lời Ngài mà run sợ: “Những anh em các ngươi thù ghét và loại bỏ các ngươi vì cớ Ta, đã bảo: ‘Nguyện Giê-hô-va được vinh hiển rồi bọn tao sẽ thấy niềm vui của chúng bay,’ nhưng chúng sẽ phải xấu hổ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Từ thành phố vọng lại tiếng hỗn độn của chiến trận, tiếng ra từ đền thờ, tiếng Giê-hô-va báo trả các kẻ thù Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Trước khi chuyển dạ nó đã sinh nở; trước khi chịu đau đớn nó đã sinh con trai.
|
||
\v 8 Ai đã từng nghe một chuyện như vậy? Ai đã từng thấy những việc như thế? Có xứ nào lại ra đời trong một ngày? Có dân tộc nào lại được thành lập trong chốc lát? Vậy mà vừa khi Si-ôn chuyển dạ thì nó đã sinh ra con cái.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Phải chăng Ta mở dạ mẹ rồi lại không để cho hài nhi sinh ra? Phải chăng Ta tạo dựng đứa bé được đầy đủ hình hài rồi giữ nó lại? — Đức Chúa Trời ngươi phán hỏi như vậy.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Hãy hoan hỉ cùng với Giê-ru-sa-lem và vui vì nó, hỡi những ai yêu quý nó; hãy cùng vui với nó, hỡi những ai đã từng than khóc vì nó!
|
||
\v 11 Vì các ngươi sẽ được bú và no lòng; nhờ vú nó các ngươi sẽ được yên ủi; vì các ngươi sẽ được uống thỏa thuê và vui thích nhờ vinh quang tột bậc của nó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Ta sẽ tuôn đổ sự thịnh vượng xuống trên nó như dòng sông, và của cải của các dân như dòng suối dâng tràn. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa nó, được nó ẳm bồng, và được vỗ về trên đầu gối nó.
|
||
\v 13 Người mẹ yên ủi con mình thể nào thì Ta cũng sẽ yên ủi các ngươi như vậy, và các ngươi sẽ được khuây khỏa tại Giê-ru-sa-lem.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Các ngươi sẽ chứng kiến việc này, rồi lòng các ngươi sẽ vui sướng, xương cốt ngươi sẽ đầy sức sống như cỏ non. Tay của Giê-hô-va sẽ được tỏ ra cho các tôi tớ Ngài, nhưng Ngài sẽ nổi giận với các kẻ thù của Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Vì, kìa, Giê-hô-va đang hiện đến trong lửa, các xe chiến mã Ngài xông tới như gió bão, mang theo cơn giận phừng phừng cùng sự quở phạt bừng cháy của Ngài.
|
||
\v 16 Vì Giê-hô-va thi hành sự đoán phạt nhân loại bằng lửa và bằng thanh gươm Ngài. Số những kẻ bị Ngài giết chết sẽ nhiều lắm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Chúng biệt mình ra và khiến mình nên thánh, để chúng được vào các khu vườn, đi theo những kẻ ăn thịt heo và những thứ kinh tởm như chuột chẳng hạn. “Chúng sẽ xong đời — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Vì Ta biết các việc làm chúng nó cùng ý tưởng chúng nó. Sắp đến lúc Ta tập hợp mọi dân thuộc mọi thứ tiếng lại. Chúng sẽ đến và sẽ thấy vinh quang Ta.
|
||
\v 19 Ta sẽ đặt một dấu hiệu giữa chúng. Rồi Ta sẽ sai những kẻ sống sót của chúng đến các nước: Đến Ta-rê-si, Phun, Lút, là các cung thủ giương cung mình, đến Tu-banh, Gia-van, và đến các vùng duyên hải xa xôi nơi chưa từng nghe biết về Ta hoặc nhìn thấy vinh quang Ta. Chúng sẽ công bố vinh quang Ta ra giữa các dân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Chúng sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ mọi nước trở về, như lễ vật dâng lên cho Giê-hô-va. Chúng sẽ đến Giê-ru-sa-lem, núi thánh Ta, bằng ngựa, bằng xe chiến mã, bằng xe ngựa kéo, bằng la và bằng lạc đà — Giê-hô-va phán như vậy. Vì dân Y-sơ-ra-ên sẽ dùng chén thanh sạch mà đem của lễ chay vào nhà Giê-hô-va.
|
||
\v 21 Thậm chí Ta sẽ chọn một số người này làm thầy tế lễ và người Lê-vi — Giê-hô-va phán như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vì như trời mới và đất mới mà Ta sẽ dựng nên sẽ cứ tồn tại trước mặt Ta, thì cũng vậy, dòng dõi các ngươi sẽ cứ tồn tại, danh các ngươi sẽ vẫn còn mãi — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
|
||
\v 23 Từ tháng này đến tháng kia, hết ngày Sa-bát này đến ngày Sa-bát khác, mọi người sẽ đến sấp mình xuống trước mặt Ta — Giê-hô-va phán như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Chúng sẽ đi ra và nhìn thấy thây của những kẻ đã bội nghịch chống lại Ta, vì sâu ăn chúng nó sẽ chẳng chết, lửa thiêu đốt chúng nó sẽ chẳng bị tắt; và đó sẽ là điều ghê tởm đối với mọi xác phàm.”
|