1727 lines
149 KiB
Plaintext
1727 lines
149 KiB
Plaintext
\id 2KI
|
||
\ide UTF-8
|
||
\h 2 Kings
|
||
\toc1 2 Kings
|
||
\toc2 2 Kings
|
||
\toc3 2ki
|
||
\mt 2 Kings
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 1
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Dân Mô-áp nổi loạn chống dân Y-sơ-ra-ên sau khi A-háp băng hà.
|
||
\v 2 Khi ấy, A-ha-xi-a té xuống qua lan can trong phòng cao ở Sa-ma-ri và bị thương. Ông sai người gọi các sứ giả và bảo họ, “Hãy đi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn, đặng xem ta sẽ được lành thương tích không?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li người Ti-sê-be, “Hãy đi lên gặp các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và hỏi họ, ‘Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn?
|
||
\v 4 Vậy Đức Giê-hô-va phán, “Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết.” Vậy Ê-li ra đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi các sứ giả quay về gặp A-ha-xi-a, ông hỏi họ, “Sao các ngươi quay về?”
|
||
\v 6 Họ thưa rằng, “Có một người đến gặp chúng tôi và bảo rằng, ‘Hãy quay về cùng vua đã sai các ông đi và tâu rằng, “Đức Giê-hô-va có phán: ‘Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn? Vậy ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 A-ha-xi-a hỏi các sứ giả, “Người mà đã đến gặp các ngươi và nói những lời này là ai?”
|
||
\v 8 Họ trả lời, “Người đó mặc áo lông và đeo một dây thắt lưng bằng da.” Vua nói, “Đó là Ê-li người Ti-sê-be.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Sau đó vua sai một sĩ quan đi cùng năm mươi lính đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan lên gặp Ê-li khi ông đang ngồi trên đỉnh đồi và nói rằng, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo, ‘Hãy đi xuống.’”
|
||
\v 10 Ê-li trả lời viên sĩ quan, “Nếu tôi là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt ông và năm mươi người kia.” Lửa từ trời liền giáng xuống và thiêu đốt viên sĩ quan cùng năm mươi lính.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Vua A-xa-hi-a lại sai một viên sĩ quan khác đi cùng năm mươi lính đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan cũng bảo Ê-li, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo, ‘Hãy đi xuống.’”
|
||
\v 12 Ê-li trả lời viên sĩ quan, “Nếu tôi là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt ông và năm mươi người kia.” Lửa từ trời lại giáng xuống và thiêu đốt ông cùng năm mươi lính.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Tuy nhiên vua lại sai một nhóm thứ ba gồm năm mươi lính đến gặp tiên tri. Viên sĩ quan đi lên, sấp mình quỳ trước mặt Ê-li, và van nài rằng, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, tôi cầu xin ông hãy xem mạng sống của tôi và năm mươi tôi tớ của ông là quý báu trước mặt ông.
|
||
\v 14 Quả thực lửa từ trời đã giáng xuống và thiêu đốt hai viên sĩ quan trước với người của họ, nhưng bây giờ xin ông hãy xem mạng sống của tôi quý báu trước mặt ông.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói với Ê-li, “Hãy đi xuống với người ấy, đừng sợ.” Vậy Ê-li đứng dậy và đi xuống núi cùng ông ấy đến gặp vua.
|
||
\v 16 Ê-li nói với A-ha-xi-a, “Này là lời Đức Giê-hô-va phán, ‘Ngươi đã sai sứ giả đi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn. Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn? Vậy ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Vậy Vua A-ha-xi-a băng hà như lời Đức Giê-hô-va đã phán qua Ê-li. Giô-ram lên kế vị vào năm thứ hai đời Giê-hô-ram, con Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa, vì A-ha-xi-a không có con trai.
|
||
\v 18 Về những việc khác của A-ha-xi-a, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 2
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Xảy ra khi Đức Giê-hô-va sắp cất Ê-li lên trời bằng một cơn gió lốc, Ê-li và Ê-li-sê rời khỏi Ghinh-ganh.
|
||
\v 2 Ê-li bảo Ê-li-sê, “Con hãy ở lại đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Bê-tên.” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy.” Vậy họ đi xuống Bê-tên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Các môn đồ của những tiên tri tại Bê-tên đến gặp Ê-li-sê và hỏi, “Anh có biết là hôm nay Đức Giê-hô-va sẽ cất thầy của anh đi không?” Ê-li-sê trả lời, “Vâng, tôi biết, nhưng đừng nói nữa.”
|
||
\v 4 Ê-li bảo, “Ê-li-sê, con hãy chờ ở đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Giê-ri-cô.” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy.” Vậy họ đi đến Giê-ri-cô.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các môn đồ của những tiên tri ở Giê-ri-cô đến gặp Ê-li-sê và hỏi, “Anh có biết là hôm nay Đức Giê-hô-va sẽ cất thầy anh đi không?” Ê-li-sê trả lời, “Vâng, tôi biết, nhưng đừng nói nữa.”
|
||
\v 6 Ê-li bảo, “Ê-li-sê, con hãy chờ ở đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Giô-đanh.” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy.” Vậy cả hai người cùng đi tiếp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Sau đó, năm mươi người trong số các tiên tri đứng đối diện từ đàng xa, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Giô-đanh.
|
||
\v 8 Ê-li lấy chiếc áo choàng, cuộn lại, rồi đập xuống nước. Nước rẽ thành hai bên để cả hai người đi trên đất khô.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Khi họ đã băng qua sông, Ê-li nói với Ê-li-sê, “Con muốn ta làm gì cho con trước khi ta được cất lên trời?” Ê-li-sê trả lời, “Xin cho con được gấp đôi thần của thầy ngự trên thầy.”
|
||
\v 10 Ê-li trả lời, “Con vừa cầu xin một việc khó. Tuy nhiên, nếu con thấy ta khi ta được cất lên, thì điều đó sẽ xảy đến với con, nhưng nếu không thì chẳng có gì cả.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Khi họ còn đang đi đường và nói chuyện, kìa, một xe chiến mã kéo bằng ngựa lửa xuất hiện tách hai người ra, và Ê-li được cất lên trời bằng một cơn gió lốc.
|
||
\v 12 Ê-li-sê thấy vậy và la lên, “Cha tôi ơi, cha tôi ơi, xe chiến mã của Y-sơ-ra-ên và kỵ binh!” Ông không còn thấy Ê-li nữa, ông nắm quần áo của ông và xé làm hai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ông nhặt chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại và quay về đứng bên bờ sông Giô-đanh.
|
||
\v 14 Ông lấy áo choàng của Ê-li rơi lại và đập xuống nước rồi nói, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Khi ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên và Ê-li-sê băng qua sông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Khi các môn đồ của các tiên tri từ Giê-ri-cô nhìn thấy ông, họ nói, “Thần của Ê-li ngự trên Ê-li-sê!” Vậy họ đến gặp ông và sấp mình xuống đất trước mặt ông.
|
||
\v 16 Họ nói với ông, “Này, trong số các tôi tớ của ông có năm mươi người cường tráng. Xin ông hãy để họ đi tìm thầy của ông, có lẽ Thần của Đức Giê-hô-va cất ông ấy lên và quăng xuống ngọn núi hay thung lũng nào đó.” Ê-li-sê trả lời, “Không, chớ sai họ đi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Nhưng khi họ thúc giục Ê-li-sê cho đến khi ông thấy xấu hổ, ông nói “Hãy sai họ đi.” Vậy họ sai năm mươi người đi ra tìm Ê-li trong ba ngày nhưng không tìm được.
|
||
\v 18 Họ quay về gặp Ê-li-sê, khi ông đang ở tại Giê-ri-cô và ông bảo họ, “Chẳng phải tôi đã nói các anh rằng ‘Đừng nên đi?’” chăng?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Những người trong thành nói với Ê-li-sê, “Kìa, chúng tôi xin ông, địa thế trong thành phố này thì đẹp rồi, cũng như chủ tôi có thể thấy, nhưng nước thì không tốt và xứ thì không sinh ra bông trái.”
|
||
\v 20 Ê-li-sê trả lời, “Hãy đem đến cho ta một cái tô mới và bỏ muối vào,” vậy họ đem đến cho ông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Ê-li-sê đi ra con suối và đổ muối xuống đó; rồi ông nói, “Đức Giê-hô-va phán như vầy, ‘Ta đã chữa lành nguồn nước này. Kể từ nay, nó sẽ không ra sự chết chóc hoặc sanh bông trái mà không kết quả nữa.’”
|
||
\v 22 Vậy nước hóa lành cho đến ngày nay, bởi lời của Ê-li-sê.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Sau đó Ê-li-sê đi lên Bê-tên. Khi ông đang đi đường, một nhóm trẻ nam ra khỏi thành phố và nhạo báng ông, rằng, “Đi lên đi, lão hói! Đi lên đi, lão hói!”
|
||
\v 24 Ê-li-sê quay lại nhìn thấy chúng; ông nhân danh Đức Giê-hô-va mà rủa sả chúng. Khi ấy, hai con gấu cái ra khỏi rừng và cắn xé bốn mươi hai đứa trẻ trai.
|
||
\v 25 Vậy Ê-li-sê đi đến Núi Cạt-mên, và từ đó ông trở về Sa-ma-ri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 3
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ vào năm thứ mười tám trong đời Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, Giô-ram con trai A-háp lên làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông cai trị mười hai năm.
|
||
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không như cha mẹ ông; vì ông đã loại bỏ trụ đá thờ thần Ba-anh mà cha ông đã dựng.
|
||
\v 3 Tuy nhiên, ông noi theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội; ông không từ bỏ những tội lỗi đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Lúc ấy, Mê-sa vua Mô-áp nuôi chiên. Ông phải cống nộp cho vua Y-sơ-ra-ên 100. 000 chiên con và lông của 100. 000 chiên đực.
|
||
\v 5 Nhưng sau khi A-háp băng hà, vua Mô-áp nổi loạn chống vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 6 Khi đó, Vua Giô-ram rời Sa-ma-ri để tổng động viên toàn dân Y-sơ-ra-ên ra trận.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ông sai một sứ giả đến gặp vua Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, nói rằng, “Vua Mô-áp đã nổi loạn chống tôi. Vua sẽ cùng với tôi ra trận đánh Mô-áp chứ?” Giê-hô-sa-phát trả lời, “Tôi sẽ đi. Tôi cũng như vua, dân của tôi cũng như dân của vua, ngựa của tôi cũng như ngựa của vua.”
|
||
\v 8 Ông hỏi, “Chúng ta sẽ tấn công theo ngả nào?” Giô-ram trả lời, “Theo ngả hoang mạc Ê-đôm.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Vậy các vua Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và Ê-đôm hành quân lòng vòng hết bảy ngày. Ở đó người ta không tìm thấy nước cho quân đội cũng như cho ngựa và các loài động vật khác.
|
||
\v 10 Vậy vua Y-sơ-ra-ên nói, “Chuyện gì vậy? Đức Giê-hô-va đã gọi cả ba vua ra đây để dân Mô-áp đánh bại chúng ta sao?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Nhưng Giê-hô-sa-phát nói, “Ở đây không có một tiên tri nào của Đức Giê-hô-va đặng chúng ta nhờ người mà cầu vấn Đức Giê-hô-va chăng?” Một trong các tôi tớ của vua Y-sơ-ra-ên trả lời rằng, “Ê-li-sê con của Sa-phát đang ở đây, ông ấy là người đã xối nước lên tay Ê-li.”
|
||
\v 12 Giê-hô-sa-phát nói, “Lời của Đức Giê-hô-va ở với người.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-sa-phát, và vua Ê-đôm đi xuống gặp Ê-li-sê.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên, “Tôi có liên quan gì đến vua? Hãy đến gặp các tiên tri của cha mẹ vua.” Vua Y-sơ-ra-ên nói, “Không, vì Đức Giê-hô-va đã gọi cả ba vua chúng tôi để Mô-áp đánh bại chúng tôi.”
|
||
\v 14 Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va vạn quân hằng sống, là Đấng mà tôi đang đứng trước mặt, chắc chắn nếu không bởi vì tôi kính trọng sự hiện diện của Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, thì tôi sẽ không ngó ngàng gì đến vua, hay thậm chí nhìn vua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nhưng bây giờ hãy dẫn đến cho tôi một nhạc sĩ.” Khi người chơi đàn hạc khảy đàn, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên Ê-li-sê.
|
||
\v 16 Ông nói, “Đức Giê-hô-va có phán, ‘Hãy đào nhiều hầm hố trong thung lũng khô cạn này.’
|
||
\v 17 Vì Đức Giê-hô-va phán rằng, ‘Các ngươi sẽ không thấy gió, cũng không thấy mưa, nhưng thung lũng này sẽ ngập nước, các ngươi, bầy gia súc và súc vật của các ngươi sẽ uống.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Đây là một việc dễ dàng trước mặt Đức Giê-hô-va. Ngài cũng sẽ cho quý vị chiến thắng dân Mô-áp.
|
||
\v 19 Quý vị sẽ tấn công các thành kiên cố và thành trì vững chắc, đốn hạ cây cối, ngăn tất cả các con suối, và lấy đá làm cho tan hoang xứ này.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Sáng hôm sau, vào khoảng giờ dâng của tế lễ, nước từ phía Ê-đôm chảy ra; cả miền đều ngập nước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Bấy giờ, khi toàn dân Mô-áp hay tin rằng các vua đã đến đặng đánh họ, họ tập hợp lại, ai nấy đều mặc áo giáp và đóng ở biên giới.
|
||
\v 22 Sáng hôm sau, họ dậy sớm, ánh mặt trời phản chiếu trên mặt nước. Khi dân Mô-áp thấy có nước ở trước mặt, họ thấy nước đó đỏ như huyết.
|
||
\v 23 Họ kêu lên, “Đây là huyết! Các vua chắc hẳn đã tiêu diệt nhau, và họ đã giết nhau! Hỡi Mô-áp, chúng ta hãy cướp bóc chúng!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Khi dân Mô-áp đến trại của Y-sơ-ra-ên, dân Y-sơ-ra-ên đột kích và tấn công những ai chạy trốn. Quân Y-sơ-ra-ên đuổi dân Mô-áp vào xứ, giết chết họ.
|
||
\v 25 Y-sơ-ra-ên phá hủy các thành phố, mỗi người ném một cục đá vào những mảnh đất tốt và đá lấp đầy các cánh đồng màu mỡ. Họ ngăn các con suối và chặt mọi cây gỗ tốt, ngoại trừ ở Ki-rơ Ha-rê-sết, là nơi họ chừa lại đá. Nhưng lính dùng máy bắn đá tấn công nơi đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Khi Vua Mê-sa của Mô-áp thấy rằng họ đã bại trận, ông dẫn theo bảy trăm lính cầm gươm chọc thủng phòng tuyến của vua Ê-đôm, nhưng lại bại trận.
|
||
\v 27 Sau đó, ông bắt đứa con trai cả, là người lẽ ra sẽ kế vị ông, rồi thiêu nó làm vật tế thần trên tường thành. Vậy có một sự giận dữ lớn trên dân Y-sơ-ra-ên, và quân Y-sơ-ra-ên rời rút lui khỏi Vua Mê-sa và trở về xứ của họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 4
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ, vợ của một trong các môn đồ của các tiên tri đến khóc với Ê-li-sê rằng, “Tôi tớ của thầy là chồng của con đã chết, thầy biết rằng tôi tớ của thầy kính sợ Đức Giê-hô-va. Bây giờ chủ nợ đã đến bắt hai đứa con trai của con đặng làm nô lệ.”
|
||
\v 2 Ê-li-sê nói với bà, “Tôi có thể làm gì cho bà? Hãy cho tôi biết trong nhà bà đang có gì?” Bà trả lời, “Tôi tớ của thầy chẳng có thứ gì trong nhà này, ngoài cái bình dầu.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ê-li-sê bảo, “Hãy đi mượn thêm bình của hàng xóm, hãy mượn bình rỗng. Mượn càng nhiều càng tốt.
|
||
\v 4 Sau đó, hãy vào trong nhà, đóng cửa, rồi bà và các con trai bà hãy đổ dầu vào tất cả các bình đó; bình nào đầy thì để riêng ra.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vậy bà rời khỏi Ê-li-sê rồi cùng các con trai bà đóng cửa lại. Họ đem bình đến cho bà, bà đổ dầu vào đó.
|
||
\v 6 Khi các bình đầy, bà bảo các con bà, “Đem cho mẹ thêm một bình nữa.” Nhưng đứa con đáp, “Không còn bình nào nữa.” Dầu ngưng chảy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Bà đến kể cho người của Đức Chúa Trời nghe. Ông nói, “Hãy bán dầu đó để trả nợ rồi mẹ con bà hãy dùng số dầu còn lại.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Một ngày kia, Ê-li-sê đi ngang qua Su-nem, tại đó có một người phụ nữ giàu có sinh sống; bà thuyết phục ông ở lại dùng bữa. Vậy thường mỗi khi Ê-li-sê đi ngang qua, ông đều ghé vào nhà đó để dùng bữa.
|
||
\v 9 Người nữ nói với chồng bà, “Kìa, bây giờ em biết rằng người mà hay đi ngang qua đây là người thánh của Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Chúng ta hãy xây một phòng nhỏ trên mái cho Ê-li-sê, đặt trong đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn. Khi nào người ghé nhà chúng ta, thì người sẽ ở trên đó.”
|
||
\v 11 Vậy một ngày kia Ê-li-sê đi ngang qua đó, ông ở lại và nghỉ ngơi trên phòng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ê-li-sê bảo Ghê-ha-xi, tôi tớ ông, “Hãy gọi người Su-nem đó.” Khi ông đã gọi bà, bà đến đứng trước mặt ông.
|
||
\v 13 Ê-li-sê bảo tôi tớ, “Hãy nói với bà ấy, ‘Bà đã nhọc công chăm lo cho chúng tôi. Chúng tôi có thể làm gì cho bà? Chúng tôi có thể thay mặt bà tâu với vua hoặc sĩ quan quân đội?’” Bà trả lời, “Tôi vẫn sống giữa dân tôi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ê-li-sê hỏi, “Vậy chúng ta có thể làm gì cho bà ấy?” Ghê-ha-xi trả lời, “Thật ra, bà ấy không có con trai, chồng bà lớn tuổi rồi.”
|
||
\v 15 Ê-li-sê trả lời, “Hãy gọi bà ấy.” Khi ông đã gọi bà, bà đứng trước cửa.
|
||
\v 16 Ê-li-sê nói, “Năm sau, cũng vào ngày này, bà sẽ ẵm một đứa con trai.” Bà nói, “Không, thưa thầy, là người của Đức Chúa Trời, xin chớ nói dối tôi tớ của ông.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Nhưng năm sau, người nữ ấy thụ thai và sinh một con trai vào đúng lúc như Ê-li-sê đã bảo bà.
|
||
\v 18 Khi đứa trẻ đã lớn, một ngày kia nó đi cùng cha nó ra ngoài cùng với những người gặt lúa.
|
||
\v 19 Nó nói với cha nó, “Đầu của con, đầu của con.” Cha đứa bé bảo tôi tớ, “Hãy đem nó về cho mẹ nó.”
|
||
\v 20 Khi tôi tớ ẵm đứa bé về đem đến cho người mẹ, nó ngồi trên đùi bà cho đến trưa thì chết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Bà đứng dậy và đặt đứa bé nằm trên giường của người của Đức Chúa Trời, đóng cửa lại, rồi ra ngoài.
|
||
\v 22 Bà gọi chồng bà và nói, “Xin anh gọi cho em một trong các tôi tớ và chuẩn bị một con lừa để em mau chóng đến gặp người của Đức Chúa Trời rồi trở về.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Người chồng hỏi, “Sao hôm nay em muốn đến gặp ông ấy? Hôm nay chẳng phải là ngày trăng mới hoặc Sa-bát.” Bà trả lời, “Sẽ ổn thôi.”
|
||
\v 24 Vậy bà thắng yên lừa và bảo tôi tớ, “Hãy thúc lừa đi nhanh lên; khi nào tôi bảo thì hãy dừng.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vậy bà đi và đến gặp người của Đức Chúa Trời trên Núi Cạt-mên. Khi người của Đức Chúa Trời thấy bà từ đàng xa, ông bảo với Ghê-ha-xi tôi tớ ông, ‘Kìa, người nữ Su-nem ấy đang đến.
|
||
\v 26 Hãy đến gặp bà ấy và hỏi rằng, ‘Bà và chồng con bà đều ổn chứ?’” Bà trả lời, “Ổn cả.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Khi bà đến gặp người của Đức Chúa Trời trên núi, bà ôm chân ông. Ghê-ha-xi đến gần đặng xô bà ra nhưng người của Đức Chúa Trời bảo, “Hãy để bà ấy yên, vì bà đang rất buồn, Đức Giê-hô-va đã giấu ta điều gì đó và chẳng tỏ cho ta biết.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Bà nói, “Thưa thầy, có phải là tôi đã xin thầy cho tôi có một đứa con trai sao? Chẳng phải tôi đã nói rằng, ‘Xin đừng gạt tôi’?”
|
||
\v 29 Ê-li-sê bảo Ghê-ha-xi, “Hãy mặc đồ lên đường và cầm theo cây gậy của ta. Hãy cùng bà ấy về nhà. Nếu ngươi gặp bất cứ ai, đừng chào hỏi; và nếu có ai chào hỏi ngươi, thì cũng chớ trả lời người đó. Hãy đặt cây gậy của ta trên mặt đứa bé.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Nhưng người mẹ đứa bé nói, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống, và thầy còn đang sống, tôi sẽ không rời khỏi thầy.” Vậy Ê-li-sê đứng lên và đi theo bà.
|
||
\v 31 Ghê-ha-xi nhanh chóng đi trước họ và đặt cây gậy lên mặt đứa bé, nhưng nó không nói cũng không nghe. Ghê-ha-xi trở về gặp Ê-li-sê và bảo ông ấy rằng, “Đứa bé không tỉnh lại.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Khi Ê-li-sê đến nhà, đứa bé đã chết và nằm yên trên giường.
|
||
\v 33 Ê-li-sê vào trong phòng và đóng cửa lại, chỉ có ông và đứa bé, ông cầu nguyện với Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 34 Ông lên giường nằm sấp lên đứa bé; đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, tay ông trên tay nó. Ông nằm duối ra trên đứa bé, và cơ thể đứa bé bắt đầu ấm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Ê-li-sê đứng dậy đi quanh phòng rồi lại lên giường nằm duỗi ra trên người đứa bé. Đứa bé hắt hơi bảy lần và mở mắt ra!
|
||
\v 36 Ê-li-sê gọi Ghê-ha-xi và nói: “Hãy gọi người Su-nem!” Vậy ông gọi bà và bà đến trong phòng, Ê-li-sê bảo, “Hãy ẵm đứa bé.”
|
||
\v 37 Bà sấp mặt xuống đất và ôm chân ông, sau đó bà ẵm đứa bé và đi ra ngoài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Khi đó, Ê-li-sê trở lại Ghinh-ganh. Trong xứ có nạn đói kém, và các môn đồ của các tiên tri đang ngồi trước mặt ông. Ông bảo tôi tớ của ông, “Hãy bắt một cái nồi lớn trên lửa rồi nấu đậu cho các môn đồ của các tiên tri.”
|
||
\v 39 Một người trong số đó ra đồng hái rau. Ông tìm thấy một cây leo hoang rồi hái trái bỏ đầy vạt áo. Họ cắt ra, bỏ vào nồi, nhưng không biết đó là gì.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Họ múc canh cho mọi người ăn. Khi họ vừa ăn, họ la lên, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, trong nồi này có chất độc!” Và họ không thể ăn được nữa.
|
||
\v 41 Ê-li-sê nói, “Hãy đem đến một chút bột.” Ông bỏ bột vào nồi và nói, “Hãy múc ra cho mọi người ăn.” Cái nồi liền hết độc.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Một người từ Ba-anh Sa-li-sát đến gặp người của Đức Chúa Trời và đem theo một cái bị đựng mười hai ổ bánh mì lúa mạch được làm từ mùa gặt mới và một bao cốm gạo. Ông nói, “Hãy phát cho mọi người cùng ăn.
|
||
\v 43 Tôi tớ ông nói, “Gì chứ, con nên phát món này cho một trăm người sao?” Nhưng Ê-li-sê bảo, “Hãy phát cho họ, để họ ăn, vì Đức Giê-hô-va phán, ‘Họ sẽ ăn và sẽ còn dư.’
|
||
\v 44 Vậy tôi tớ của ông phát cho họ; họ ăn, và còn dư lại y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 5
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ Na-a-man, sĩ quan chỉ huy quân đội của Vua A-ram, là một người quyền thế và được quý trọng trước mặt chủ, vì Đức Giê-hô-va đã dùng ông đem lại chiến thắng cho A-ram. Ông là một người mạnh mẽ, dũng cảm, nhưng lại bị bệnh phung.
|
||
\v 2 Các toán quân A-ram đã đột kích và bắt một bé gái từ Y-sơ-ra-ên đem về hầu hạ vợ Na-a-man.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Cô bé nói với bà chủ, “Ước gì ông chủ được gặp tiên tri ở Sa-ma-ri! Ông ấy sẽ chữa lành ông chủ khỏi bệnh phung.”
|
||
\v 4 Vậy Na-a-man vào cung và thưa với vua về điều mà bé gái người Y-sơ-ra-ên đã nói.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vua A-ram nói, “Đi đi, ta sẽ gửi thư cho vua Y-sơ-ra-ên.” Na-a-man lên đường và đem theo mười ta-lâng bạc, sáu ngàn đồng vàng, và mười bộ quần áo.
|
||
\v 6 Ông cũng đem theo thư gửi vua Y-sơ-ra-ên có nội dung rằng, “Bấy giờ, khi thư này được trao cho vua, vua sẽ thấy rằng tôi đã gửi tôi tớ của tôi là Na-a-man đến gặp vua, đặng vua chữa ông ấy khỏi bệnh phung.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi vua Y-sơ-ra-ên đọc thư, ông xé quần áo mình và nói rằng, “Bộ ta là Đức Chúa Trời có quyền giết và làm cho sống, mà người này muốn ta chữa hắn khỏi bệnh phung sao? Có vẻ hắn muốn gây sự với ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, hay tin vua Y-sơ-ra-ên đã xé quần áo, ông sai người gửi lời đến vua rằng, “Sao bệ hạ xé quần áo mình? Hãy để ông ấy đến gặp tôi, rồi ông ấy sẽ biết rằng có một tiên tri ở Y-sơ-ra-ên.”
|
||
\v 9 Vậy Na-a-man đi cùng với ngựa và xe chiến mã đến trước cửa nhà Ê-li-sê.
|
||
\v 10 Ê-li-sê sai một sứ giả ra bảo, “Hãy đi tắm dưới sông Giô-đanh bảy lần, rồi da thịt của ông sẽ được lành lặn; ông sẽ được sạch.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Nhưng Na-a-man tức giận bỏ đi và nói, “Kìa, ta đã nghĩ là chắc chắn ông ấy sẽ ra đón ta rồi đứng đó cầu khẩn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông ấy, giơ tay lên trời và chữa lành bệnh phung cho ta.
|
||
\v 12 Bộ A-ba-na và Bạt-ba, hai con sông ở Đa-mách, không tốt hơn nước ở Y-sơ-ra-ên sao? Ta không thể tắm ở trong các con sông đó đặng được sạch à?” Vậy ông giận dữ ngoảnh mặt bỏ đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Sau đó, các tôi tớ của Na-a-man đến gần và nói với ông, “Thưa cha, nếu tiên tri đã truyền cho cha phải làm việc gì khó lắm, thì cha sẽ không làm sao? Huống chi khi ông ấy chỉ bảo cha là, ‘Hãy tắm thì ngươi sẽ được sạch?’”
|
||
\v 14 Ông đi xuống tắm bảy lần dưới sông Giô-đanh, theo sự hướng dẫn của người Đức Chúa Trời. Da thịt ông lại được lành lặn như thịt của đứa trẻ, và ông được chữa lành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Na-a-man và đoàn của ông trở lại gặp người của Đức Chúa Trời, ông đứng trước mặt Ê-li-sê. Ông nói, “Kìa, bây giờ tôi biết rằng chẳng có Đức Chúa Trời nào khác trên đất này ngoại trừ Đức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên. Vậy, xin ông hãy nhận một món quà từ tôi tớ ông.”
|
||
\v 16 Nhưng Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng mà ta đang đứng trước mặt, ta sẽ không nhận thứ gì cả.” Na-a-man nài nỉ Ê-li-sê nhận quà, tuy nhiên ông từ chối.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Vậy Na-a-man nói, “Nếu không, xin cho tôi tớ ông đem về đất cỡ hai con la chở được, vì kể từ bây giờ, tôi tớ ông sẽ không dâng của lễ thiêu hay lễ vật gì cho bất cứ thần nào ngoại trừ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 18 Chỉ có một điều xin Đức Giê-hô-va tha thứ cho tôi tớ ông, ấy là, khi vua của tôi vào đền thờ thần Rim-môn đặng thờ lạy, ông ấy vịn tay tôi và tôi quỳ trong đền thờ Rim-môn, khi tôi quỳ trong đền thờ Rim-môn, nguyện Đức Giê-hô-va tha thứ cho tôi tớ ông về điều này.”
|
||
\v 19 Ê-li-sê bảo ông, “Hãy đi bình an.” Vậy Na-a-man rời đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Khi ông vừa đi được một quãng ngắn, thì Ghê-ha-xi, tôi tớ của Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, tự nhủ, “Kìa, chủ ta không nhận lễ vật của Na-a-man, người A-ram đó. Có Đức Giê-hô-va hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận một chút lễ vật.”
|
||
\v 21 Vậy Ghê-ha-xi chạy theo Na-a-man. Khi Na-a-man thấy có người đang chạy theo phía sau, ông nhảy xuống xe chiến mã đến gặp và hỏi, “Mọi việc ổn chứ?”
|
||
\v 22 Ghê-ha-xi đáp, “Mọi việc đều ổn. Chủ của tôi đã sai tôi đi, nói rằng, ‘Kìa, có hai thanh niên là môn đồ của các tiên tri từ vùng cao nguyên Ép-ra-im đến gặp ta. Xin hãy cho họ một ta-lâng bạc và hai bộ quần áo.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Na-a-man trả lời, “Ta rất vui mà cho ngươi hai ta-lâng.” Na-a-man đề xuất với Ghê-ha-xi và cột hai ta-lâng bạc vào trong hai cái túi, cùng hai bộ quần áo, rồi giao hai đầy tớ khiêng đi trước mặt Ghê-ha-xi.
|
||
\v 24 Khi Ghê-ha-xi đi đến ngọn đồi, ông lấy các túi bạc rồi giấu trong nhà; sau đó ông cho họ ra về.
|
||
\v 25 Khi Ghê-ha-xi vào nhà và gặp chủ, Ê-li-sê hỏi, “Ghê-ha-xi, ngươi đã đi đâu vậy?” Ông trả lời, “Tôi tớ ông chẳng đi đâu cả.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ê-li-sê nói với Ghê-ha-xi, “Thần của ta không ở cùng ngươi khi người kia quay xe chiến mã lại gặp ngươi sao? Đây là lúc nhận tiền, quần áo, vườn ô-liu và vườn nho, chiên và bò đực, tôi trai tớ gái sao?
|
||
\v 27 Vậy bệnh phung của Na-a-man sẽ giáng trên ngươi và con cháu ngươi đời đời.” Ghê-ha-xi rời đi, ông nổi phung trắng như tuyết.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 6
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Các môn đồ của các tiên tri nói với Ê-li-sê, “Chỗ mà chúng tôi ở với thầy thật quá chật hẹp.
|
||
\v 2 Chúng ta hãy đến sông Giô-đanh, mỗi người chặt một cây rồi xây một chỗ ở cho chúng ta.” Ê-li-sê trả lời, “Hãy đi đi.”
|
||
\v 3 Một người trong số họ nói, “Xin đi cùng tôi tớ của thầy.” Ê-li-sê trả lời, “Ta sẽ đi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vậy ông đi cùng họ, và khi đến sông Giô-đanh, họ bắt đầu đốn cây.
|
||
\v 5 Nhưng có một người kia đang chặt cây, cái lưỡi rìu rớt xuống nước; ông la lên, “Ôi không, chủ tôi ơi, cái rìu con mượn người ta!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Người của Đức Chúa Trời hỏi, “Nó văng ở đâu?” Người ấy chỉ vị trí cho Ê-li-sê. Ông chặt một khúc cây, quăng xuống nước, và cái rìu sắt nổi lên.
|
||
\v 7 Ê-li-sê bảo, “Hãy vớt nó lên.” Vậy người ấy giơ tay ra lượm chiếc rìu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Bấy giờ vua A-ram đang giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Ông hội ý với các quần thần, “Trại của ta sẽ ở chỗ này và chỗ kia.”
|
||
\v 9 Người của Đức Chúa Trời sai người đến gặp vua Y-sơ-ra-ên và nói, “Xin bệ hạ cẩn thận đừng băng qua chỗ đó, vì dân A-ram sẽ xuống đó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vậy vua Y-sơ-ra-ên sai người đi đến nơi mà người của Đức Chúa Trời đã cảnh báo. Lời cảnh báo ấy đã cứu ông một vài lần.
|
||
\v 11 Vua A-ram rất bối rối về lời cảnh báo này, ông gọi các quần thần và hỏi, “Các ngươi sẽ không cho ta biết ai trong số chúng ta là nội gián của vua Y-sơ-ra-ên sao?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Một trong số các quần thần của ông trả lời, “Không, thưa bệ hạ, chủ của tôi, bởi vì tiên tri Ê-li-sê ở Y-sơ-ra-ên nói cho vua Y-sơ-ra-ên biết những lời bệ hạ nói trong phòng ngủ của bệ hạ!”
|
||
\v 13 Vua trả lời, “Hãy đi tìm Ê-li-sê để ta sai người đến bắt hắn.” Người đó trả lời, “Kìa, hắn đang ở Đô-than.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vậy vua đem ngựa, xe chiến mã, và một đội quân lớn đến Đô-than. Họ đến vào ban đêm và bao vây thành phố.
|
||
\v 15 Khi tôi tớ của người của Đức Chúa Trời dậy sớm và ra ngoài, kìa, một đội quân lớn gồm ngựa và xe chiến mã đã bao vây thành phố. Tôi tớ nói, “Ôi, chủ tôi ơi! Chúng ta sẽ làm gì?”
|
||
\v 16 Ê-li-sê trả lời, “Chớ sợ hãi, vì người của chúng ta đông hơn người của chúng nó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ê-li-sê cầu nguyện và nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, con cầu xin Ngài mở mắt cho tôi tớ của con để người đó thấy.” Vậy Đức Giê-hô-va mở mắt người tôi tớ, và ông thấy. Kìa, trên núi đầy ngựa lửa và xe chiến mã lửa xung quanh Ê-li-sê!
|
||
\v 18 Khi quân A-ram kéo xuống chỗ Ê-li-sê, ông cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng, “Xin Chúa khiến chúng bị mù.” Vậy Đức Giê-hô-va khiến chúng bị mù, y theo lời cầu xin của Ê-li-sê.
|
||
\v 19 Sau đó, Ê-li-sê bảo quân A-ram, “Các ngươi đi sai đường rồi, đây không phải là thành phố. Hãy theo ta, ta sẽ dẫn các ngươi đến gặp người mà các ngươi đang tìm.” Và ông dẫn họ đến Sa-ma-ri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Xảy ra khi họ đã vào thành Sa-ma-ri, Ê-li-sê nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, xin Chúa mở mắt những người này để họ nhìn thấy.” Đức Giê-hô-va mở mắt họ và họ thấy, kìa, họ đang ở giữa thành Sa-ma-ri.
|
||
\v 21 Vua Y-sơ-ra-ên khi thấy họ bèn hỏi Ê-li-sê, “Cha tôi ơi, tôi nên giết chúng không? Tôi có nên giết chúng chứ?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Ê-li-sê trả lời, “Bệ hạ không được giết chúng. Bệ hạ sẽ giết tù binh bằng gươm và cung sao? Hãy để bánh và nước trước mặt chúng, cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về nơi chủ của chúng.”
|
||
\v 23 Vậy vua dọn nhiều thức ăn cho họ, khi họ đã ăn uống rồi, ông cho họ trở về nơi chủ của họ. Những toán lính A-ram đó không trở lại xứ Y-sơ-ra-ên trong suốt một thời gian dài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau việc này, Bên Ha-đát, vua A-ram, triệu tập toàn quân đội rồi tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành.
|
||
\v 25 Do đó, có một nạn đói lớn ở Sa-ma-ri. Kìa, họ bao vây thành cho đến khi một cái đầu lừa được bán với giá tám mươi siếc-lơ bạc, và một phần tư lít phân bồ câu có giá bằng năm siếc-lơ bạc.
|
||
\v 26 Khi vua Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên tường thành, một người phụ nữ đến khóc với ông và nói rằng, “Xin bệ hạ, chủ của tôi, giúp tôi với.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Vua trả lời, “Nếu Đức Giê-hô-va không giúp ngươi, thì làm sao ta có thể giúp ngươi? Trên sân đạp lúa và bồn ép rượu có gì không?”
|
||
\v 28 Vua hỏi tiếp, “Điều gì làm ngươi sầu khổ?” Bà trả lời, “Người đàn bà này bảo tôi, ‘Hôm nay hãy đưa tôi con trai của chị để chúng ta ăn thịt nó, rồi ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai tôi.’”
|
||
\v 29 Vậy, chúng tôi nấu con trai tôi và ăn thịt nó, rồi hôm sau tôi bảo bà ấy, “Hãy đưa tôi con trai của chị để chúng ta ăn thịt nó”, nhưng bà ấy đã giấu con trai mình.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Khi vua nghe người phụ nữ này nói, ông xé toạc quần áo (bấy giờ ông đang đi trên tường thành), người ta thấy ông mặc một lớp vải gai bên trong.
|
||
\v 31 Ông nói, “Cầu xin Đức Chúa Trời phạt ta thật nặng, nếu hôm nay đầu của Ê-li-sê con trai Sa-phát vẫn chưa rơi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Nhưng Ê-li-sê đang ngồi trong nhà, và các trưởng lão đang ngồi với ông. Vua sai một sứ giả đi tìm ông, nhưng khi sứ giả đến gặp Ê-li-sê, ông nói với các trưởng lão, “Hãy xem tên sát nhân sai đứa con của hắn lấy đầu tôi thể nào? Kìa, khi hắn đến, hãy đóng cửa, và khóa cửa lại. Chẳng phải không có tiếng chân của chủ hắn đi phía sau hắn sao?”
|
||
\v 33 Khi ông đang nói với họ, kìa, sứ giả đã đến gặp ông. Vua hỏi, “Kìa, tai họa này đến từ Đức Giê-hô-va. Tại sao ta phải chờ đợi Đức Giê-hô-va nữa?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 7
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Ê-li-sê nói, “Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Này là lời Đức Giê-hô-va phán: ‘Ngày mai, vào giờ này, một đấu bột lọc sẽ được bán với giá một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ được bán với giá một siếc-lơ, tại cổng thành Sa-ma-ri.’”
|
||
\v 2 Khi đó, quan hộ giá đang giang tay cho vua vịn trả lời người của Đức Chúa Trời, “Kìa, ngay cả nếu Đức Giê-hô-va có mở các cửa sổ trên trời, thì làm sao điều này có thể xảy ra?” Ê-li-sê đáp, “Này, chính mắt ông sẽ thấy điều đó, nhưng ông sẽ không được ăn bất cứ phần nào.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Bấy giờ có bốn người phung đang ở ngay ngoài cổng thành. Họ nói với nhau, “Tại sao chúng ta phải ngồi đây chờ chết?
|
||
\v 4 Nếu chúng ta nói rằng chúng ta nên vào trong thành, thì trong thành đang có cơn đói kém, chúng ta sẽ chết. Nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây, chúng ta vẫn sẽ chết. Vậy thì, chúng ta hãy đến trại quân A-ram. Nếu họ cho chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống, còn nếu họ giết chúng ta, thì chúng ta cũng sẽ chết.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vậy họ đứng dậy vào lúc chạng vạng rồi vào trại quân A-ram; khi họ đến phía đầu trại, chẳng có ai ở đó.
|
||
\v 6 Vì Chúa đã khiến quân A-ram nghe tiếng xe chiến mã và tiếng vó ngựa – tiếng của một đội quân lớn khác, và họ bảo nhau rằng, “Vua Y-sơ-ra-ên đã thuê các vua Hê-tít và Ai Cập đến đánh chúng ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vậy quân lính đứng dậy và chạy trốn lúc chạng vạng; họ bỏ lại lều, ngựa, lừa, trại, và chạy thục mạng.
|
||
\v 8 Khi những người phung đến đầu trại, họ đi vào trong một lều nọ rồi ăn uống, sau đó lấy vàng bạc và quần áo rồi đem đi giấu. Họ cũng trở lại và vào một lều khác đặng lấy của cải rồi đem đi giấu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Họ nói với nhau, “Chúng ta đang làm bậy. Hôm nay là ngày có tin tốt lành, nhưng chúng ta lại không nói. Nếu đợi đến rạng đông, thì chúng ta sẽ bị trừng phạt. Vậy bây giờ, chúng ta hãy đi và báo cho hoàng gia.”
|
||
\v 10 Vậy họ đi gọi lính gác cổng thành. Họ bảo, “Chúng tôi đã đến trại quân A-ram, nhưng không có ai ở đó, không nghe tiếng ai cả, chỉ có ngựa và lừa còn được cột lại, lều vẫn còn đó.”
|
||
\v 11 Lính gác cổng báo tin, sau đó người ta thuật lại cho nhà vua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vua thức giấc vào ban đêm và bảo các quần thần, “Ta sẽ cho các ngươi biết quân A-ram đã làm gì đối với chúng ta. Chúng biết chúng ta đói, nên chúng đã ra khỏi trại đặng phục kích trong các cánh đồng. Chúng bảo nhau, ‘Khi chúng ra khỏi thành, chúng ta sẽ bắt sống chúng, rồi xông vào thành.’”
|
||
\v 13 Một trong các quần thần của vua trả lời, “Xin bệ hạ sai vài người lấy năm con ngựa còn sót lại trong thành. Họ cũng giống như dân Y-sơ-ra-ên còn sót lại – hầu hết đều đã chết; chúng ta hãy sai họ đi xem thử.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vậy họ lấy hai xe chiến mã và ngựa, vua sai họ đuổi theo quân A-ram, nói rằng, “Hãy đi xem thử.”
|
||
\v 15 Họ đuổi theo quân A-ram đến sông Giô-đanh, dọc đường đầy quân trang và quân dụng mà dân A-ram vội vã quăng đi. Các sứ giả trở về và báo cho vua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Dân chúng tràn ra ngoài và cướp trại quân A-ram. Do đó, một đấu bột lọc được bán với giá một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch được bán với giá một siếc-lơ, theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
|
||
\v 17 Vua đặt quan hộ giá đứng canh cổng, nhưng dân chúng giẫm đạp lên ông ngay tại cổng thành. Ông chết như lời người của Đức Chúa Trời đã nói khi vua đến gặp ông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Việc đó xảy ra như lời người của Đức Chúa Trời đã bảo vua, “Vào giờ này ở cổng thành Sa-ma-ri, hai đấu lúa mạch sẽ có giá một siếc-lơ, và một đấu bột lọc sẽ có giá một siếc-lơ.”
|
||
\v 19 Quan trả lời người của Đức Chúa Trời, “Kìa, ngay cả nếu Đức Giê-hô-va có mở các cửa sổ trên trời, thì làm sao điều này có thể xảy ra?” Ê-li-sê đáp, “Này, chính mắt ông sẽ thấy điều đó, nhưng ông sẽ không được ăn bất cứ phần nào.”
|
||
\v 20 Và việc này đã xảy ra cho vị quan đó, ông chết do dân chúng giẫm đạp lên ông ở cổng thành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 8
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ Ê-li-sê nói với người phụ nữ có đứa con trai được ông làm cho sống lại. Ông bảo bà, “Hãy chỗi dậy, đi với gia đình bà, đến một xứ khác và ở tại bất cứ nơi nào có thể được, vì Đức Giê-hô-va sẽ giáng một nạn đói trên xứ này trong bảy năm.”
|
||
\v 2 Vậy người phụ nữ chỗi dậy và vâng lời người của Đức Chúa Trời. Bà cùng với gia đình đến sống tại xứ Phi-li-tin trong bảy năm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Cuối bảy năm, người phụ nữ từ xứ Phi-li-tin trở về, bà đến gặp vua và nài xin vua về chuyện nhà và đất đai.
|
||
\v 4 Khi đó, vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người của Đức Chúa Trời, “Hãy kể cho ta nghe mọi việc lớn mà Ê-li-sê đã làm.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vậy, đang khi ông kể cho vua nghe về việc Ê-li-sê đã làm cho đứa trẻ đã qua đời được sống lại, chính người phụ nữ mà đứa con được sống lại đã đến van nài vua về chuyện nhà cửa và đất đai của bà. Ghê-ha-xi nói, “Thưa bệ hạ, chủ của tôi, đây là người phụ nữ đó, và đây là đứa con trai của bà mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại.”
|
||
\v 6 Khi vua hỏi người nữ về con trai bà, bà kể cho vua nghe. Vậy vua sai một quan giải quyết cho bà và nói rằng, “Hãy trả lại cho nàng tất cả những gì của nàng và tất cả huê lợi của đồng ruộng nàng kể từ ngày nàng rời khỏi xứ cho đến giờ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ê-li-sê đến Đa-mách khi Bên Ha-đát, vua A-ram đang bị bệnh. Người ta báo với vua, “Người của Đức Chúa Trời đã đến đây.”
|
||
\v 8 Vua bảo Ha-xa-ên, “Hãy đem lễ vật đến gặp người của Đức Chúa Trời, và nhờ người cầu vấn Đức Giê-hô-va rằng, ‘Liệu ta sẽ được lành bệnh chăng?’”
|
||
\v 9 Vậy Ha-xa-ên đến gặp người và đem theo lễ vật tốt nhất từ Đa-mách được chở bằng bốn mươi con lạc đà. Ha-xa-ên đến ra mắt Ê-li-sê và nói, “Con trai ông là Bên Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến gặp ông, hỏi rằng, ‘Ta sẽ được lành bệnh chăng?’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ê-li-sê trả lời, “Hãy đi nói với Bên Ha-đát, ‘Chắc chắn bệ hạ sẽ lành bệnh,’ nhưng Đức Giê-hô-va đã cho tôi thấy rằng vua chắc sẽ chết.”
|
||
\v 11 Lúc ấy Ê-li-sê nhìn chằm chằm Ha-xa-ên đến nỗi ông ấy thấy ngượng, rồi người của Đức Chúa Trời khóc.
|
||
\v 12 Ha-xa-ên hỏi, “Thưa chủ tôi, sao ông khóc?” Ông trả lời, “Vì tôi biết việc ác mà ông sẽ gây ra trên dân Y-sơ-ra-ên. Ông sẽ phóng hỏa các thành trì, ông sẽ dùng gươm giết những người thanh niên, chà nát trẻ thơ, và mổ bụng đàn bà có thai.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ha-xa-ên trả lời, “Tôi tớ ông là ai, đến nỗi làm chuyện lớn này? Tôi chỉ là một con chó.” Ê-li-sê trả lời, “Đức Giê-hô-va đã tỏ cho tôi biết rằng ông sẽ làm vua A-ram.”
|
||
\v 14 Sau đó, Ha-xa-ên rời khỏi Ê-li-sê và trở về gặp chủ mình, vua hỏi, “Ê-li-sê đã nói gì với ngươi?” Ông trả lời, “Ông ấy nói cho tôi biết rằng bệ hạ chắc chắn sẽ lành bệnh.”
|
||
\v 15 Hôm sau, Ha-xa-ên lấy một cái mền, nhúng nước, rồi đắp lên mặt Bên Ha-đát đến nỗi ông ấy chết. Rồi Ha-xa-ên lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vào năm thứ năm đời Giô-ram con trai A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-ram lên cai trị. Ông là con trai Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa. Ông bắt đầu cai trị khi Giê-hô-sa-phát làm vua Giu-đa.
|
||
\v 17 Giê-hô-ram được ba mươi hai tuổi khi lên làm vua, ông cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Giê-hô-ram đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, như nhà A-háp đã làm; vì ông cưới con gái của A-háp, và làm việc ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 19 Tuy nhiên, vì cớ tôi tớ Ngài là Đa-vít, nên Đức Giê-hô-va không muốn hủy diệt Giu-đa, vì Ngài đã phán với ông rằng Ngài sẽ luôn ban cho ông con cháu.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Trong thời của Giê-hô-ram, Ê-đôm nổi loạn chống lại quyền cai trị của Giu-đa, và lập nên một vua.
|
||
\v 21 Sau đó, Giê-hô-ram cùng với các sĩ quan chỉ huy và xe chiến mã kéo quân ra trận. Ông kéo quân vào ban đêm, tấn công và áp đảo dân Ê-đôm khi đó đang bao vây ông và các sĩ quan chỉ huy xe chiến mã. Sau đó, quân của Giê-hô-ram thoát về trại.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Vậy Ê-đôm đã nổi loạn chống lại quyền lực của Giu-đa cho đến ngày nay. Khi đó, dân Líp-na cũng nổi loạn.
|
||
\v 23 Về những việc khác của Giê-hô-ram, tất cả mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 24 Giê-hô-ram băng hà và an nghỉ với tổ phụ, người ta chôn ông chung với các tổ phụ trong thành Đa-vít. Sau đó A-ha-xi-a con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vào năm thứ hai mươi trong đời Giô-ram con trai A-háp, vua Giu-đa, A-ha-xi-a con trai Giê-hô-ram vua Giu-đa, bắt đầu cai trị.
|
||
\v 26 A-ha-xi-a được hai mươi hai tuổi khi ông lên cai trị; ông trị vì được một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-tha-li-a, cháu của Ôm-ri, vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 27 A-ha-xi-a đi theo đường lối của nhà A-háp; ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như nhà A-háp đã làm, vì A-ha-xi-a là con rể của nhà A-háp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 A-ha-xi-a cùng với Giô-ram con trai A-háp đi đánh Ha-xa-ên, vua A-ram, tại Ra-mốt Ghi-lê-át. Quân A-ram đánh cho Giô-ram bị thương.
|
||
\v 29 Vua Giô-ram trở về Giê-rê-ên để chữa lành vết thương do quân A-ram gây ra tại Ra-ma, khi ông đánh Ha-xa-ên vua A-ram. Vậy A-ha-xi-a con trai Giê-hô-ram, vua Giu-đa, đi xuống Giê-rê-ên đặng thăm Giô-ram con trai A-háp, vì Giô-ram đã bị thương.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 9
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Tiên tri Ê-li-sê gọi một trong các môn đồ của các tiên tri và bảo, “Hãy mặc đồ lên đường, lấy chai dầu này rồi đi đến Ra-mốt Ghi-lê-át.
|
||
\v 2 Khi đến đó, hãy tìm Giê-hu con trai Giê-hô-sa-phát cháu Nim-si, hãy đi vào và mời ông ấy rời khỏi các bạn mình, và dẫn vào một phòng kín.
|
||
\v 3 Sau đó lấy chai dầu xức lên đầu ông ấy và nói, ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Ta đã xức dầu ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên.”” Nói xong hãy mở cửa và chạy trốn; đừng chậm trễ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vậy người thanh niên đó, tiên tri trẻ, đến Ra-mốt Ghi-lê-át.
|
||
\v 5 Khi ông đến, kìa, các tướng lãnh quân đội đang ngồi. Tiên tri trẻ nói, “Tôi đến đây có một mục đích dành cho ông, thưa chỉ huy.” Giê-hu trả lời, “Cho ai trong chúng tôi?” Tiên tri trẻ trả lời, “Cho ông, thưa chỉ huy.”
|
||
\v 6 Vậy Giê-hu đứng dậy và đi vào trong nhà, tiên tri xức dầu lên đầu Giê-hu và nói, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta đã xức dầu cho ngươi làm vua dân sự của Đức Giê-hô-va, là dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ngươi phải giết nhà A-háp, chủ ngươi, đặng Ta báo thù huyết của các tiên tri Ta, và huyết của tất cả các tôi tớ của Giê-hô-va, là những người do chính tay Giê-sa-bên giết.
|
||
\v 8 Vì cả nhà A-háp sẽ hư mất, Ta sẽ nhổ khỏi A-háp từng người nam, dù là nô lệ hay tự do.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Ta sẽ khiến nhà A-háp giống như nhà Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát và nhà Ba-a-sa con trai A-hi-gia.
|
||
\v 10 Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên tại Giê-rê-ên, và sẽ không ai chôn bà ấy.’” Sau đó tiên tri mở cửa và chạy trốn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Giê-hu trở ra gặp các tôi tớ của chủ ông, một người hỏi, “Mọi sự ổn chứ? Sao tên khùng đó đến gặp ông?” Giê-hu trả lời, “Ông biết người đó và những điều ông ấy nói mà.”
|
||
\v 12 Họ nói, “Ông nói dối. Hãy kể cho chúng tôi nghe.” Giê-hu trả lời, “Ông ấy nói thế này và thế kia cho tôi nghe, và ông ấy cũng nói, ‘Này là lời Đức Giê-hô-va phán” Ta đã xức dầu ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên.’”
|
||
\v 13 Khi đó, mỗi người trong bọn họ nhanh chóng cởi áo choàng rồi đặt trên các bậc thang dưới chân Giê-hu. Họ thổi kèn và hô, “Giê-hu là vua.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Như vậy Giê-hu con trai Giê-hô-sa-phát, cháu Nim-si, lập mưu phản Giô-ram. Bấy giờ Giô-ram đang bảo vệ Ra-mốt Ghi-lê-át, ông và cả nhà Y-sơ-ra-ên, vì cớ Ha-xa-ên vua A-ram,
|
||
\v 15 nhưng Vua Giô-ram đã trở về Giê-rê-ên để được lành khỏi các vết thương mà quân A-ram đã đánh ông, khi ông ra trận đánh Ha-xa-ên vua A-ram. Giê-hu nói với các tôi tớ của Giô-ram, “Nếu đây là quan điểm của các ngươi, thì chớ để ai thoát và ra khỏi thành phố, đặng thuật lại tin này ở Giê-rê-ên.”
|
||
\v 16 Vậy Giê-hu cưỡi một xe chiến mã đến Giê-rê-ên; vì Giô-ram đang nghỉ ngơi tại đó. Bấy giờ A-ha-xi-a vua Giu-đa đã đi xuống gặp Giô-ram.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Lính canh đang đứng trên tháp ở Giê-rê-ên, và ông thấy nhóm của Giê-hu từ đằng xa; ông nói, “Tôi thấy một nhóm người đang đến.” Giô-ram nói, “Hãy đem cho ta một lính kỵ binh, rồi đưa ta đến gặp họ; hãy hỏi ông ấy rằng, ‘Các ông đến bình an chứ?’”
|
||
\v 18 Vậy họ sai một người phi ngựa ra gặp ông; người đó nói, “Vua hỏi: ‘Các ngươi đến hòa bình chứ?’” Giê-hu nói, “Tôi với ông có bình an liên quan gì? Hãy quay đầu và đi ngựa phía sau tôi.” Lính canh tâu với vua, “Sứ giả đã gặp họ, nhưng ông ta không quay về.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Vua lại sai một người thứ nhì cưỡi ngựa ra gặp họ và nói, “Đức vua hỏi: ‘Mọi sự bình an chứ?’” Giê-hu trả lời, “Tôi với ông có bình an liên quan gì? Hãy quay đầu và đi ngựa phía sau tôi.”
|
||
\v 20 Lính canh lại báo cáo, “Sứ giả đã đến gặp họ, nhưng ông ấy không trở về. Cách xe chiến mã được lái trông như Giê-hu con trai Nim-si lái, vì ông ta lái điên dại.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giô-ram ra lệnh, “Hãy chuẩn bị sẵn xe chiến mã cho ta.” Họ chuẩn bị xe chiến mã cho Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên và A-ha-xi-a vua Giu-đa mỗi người đánh xe chiến mã ra để gặp Giê-hu. Họ tìm thấy ông đang trên đất của Na-bốt người Giê-rê-ên.
|
||
\v 22 Khi Giô-ram thấy Giê-hu, ông hỏi, “Giê-hu, ông đến bình an chứ?” Giê-hu trả lời, “Bình an gì chứ? Khi mà Giê-sa-bên, mẹ ông, phạm quá nhiều tội thông dâm thần tượng và pháp thuật?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Vậy Giô-ram quay đầu xe chiến mã chạy trốn và bảo A-ha-xi-a, “A-ha-xi-a, có mưu phản.”
|
||
\v 24 Sau đó Giê-hu lấy hết sức giương cung ra và bắn trúng giữa hai vai Giô-ram; mũi tên xuyên thấu tim ông, ông ngã xuống trên xe chiến mã.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Giê-hu bảo thủ lĩnh Bích-ca, “Hãy nhặt xác hắn và quăng vào ruộng của Na-bốt người Giê-rê-ên. Hãy nghĩ đến lúc ngươi và ta cùng lái xe đuổi theo sau cha hắn là A-háp, Đức Giê-hô-va đã có lời tiên tri nghịch lại hắn:
|
||
\v 26 ’Chắc chắn hôm qua Ta đã thấy huyết của Na-bốt và huyết của các con trai người, Đức Giê-hô-va phán, và Ta sẽ báo đáp ngươi trong ruộng này,” Đức Giê-hô-va phán. Vậy bây giờ, hãy nhặt xác hắn và quăng vào đó, cái đồng ruộng đó, để làm đúng lời chúng ta đã được Đức Giê-hô-va phán là sẽ xảy ra.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Khi A-ha-xi-a vua Giu-đa thấy việc này, ông lên đường chạy trốn sang Bết Hác-gan. Nhưng Giê-hu đuổi theo và nói, “Hãy giết hắn trên xe chiến mã,” và họ bắn ông ngay chỗ quẹo về Gu-rơ, qua ngã Íp-lê-am. A-ha-xi-a chạy trốn qua Mê-ghi-đô và băng hà tại đó.
|
||
\v 28 Các quần thần ông đem xác ông trên một xe chiến mã đến Giê-ru-sa-lem và chôn ông trong mồ với những tổ phụ của ông tại thành Đa-vít.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Bấy giờ là năm thứ 11 của Giô-ram, con trai A-háp mà A-ha-xi-a đã bắt đầu cai trị Giu-đa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Khi Giê-hu đến gặp Giê-rê-ên, Giê-rê-ên đã nghe tin đó, bà kẻ mắt, chải tóc, và nhìn ra cửa sổ.
|
||
\v 31 Khi Giê-hu đang bước vào cổng, bà hỏi ông, “Ngươi đến bình an chứ, hỡi Xim-ri, kẻ sát nhân của chủ tôi?”
|
||
\v 32 Giê-hu nhìn lên cánh cửa và nói, “Ai đứng về phía tôi? Ai?” Có hai hay ba thái giám nhìn nhau.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Giê-hu nói, “Hãy ném bà ấy.” Vậy họ ném Giê-sa-bên xuống, một ít huyết của bà văng trên tường và ngựa, Giê-hu cũng đã giẫm bà dưới chân.
|
||
\v 34 Khi Giê-hu bước vào cung điện, ông ăn và uống. Ông nói, “Hãy xem người đàn bà bị rủa sả này và chôn bà, vì bà ấy là con gái vua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Họ đi chôn bà, nhưng họ không tìm thấy xác bà còn nguyên vẹn ngoại trừ cái sọ, chân và lòng bàn tay.
|
||
\v 36 Khi họ quay trở về và bảo Giê-hu. Ông nói, “Đây là lời Đức Giê-hô-va đã phán với tôi tớ Ngài là Ê-li người Ti-sê-bết rằng, “Trong đất Giê-rê-ên, chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên,
|
||
\v 37 và xác Giê-sa-bên sẽ được trông như phân trên các cánh đồng trong xứ Giê-rê-ên, đến nỗi không ai ở nổi, “Đây là Giê-sa-bên.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 10
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ A-háp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri cho các quan ở Giê-rê-ên, gồm các trưởng lão và quan giám hộ các con của A-háp, nói rằng,
|
||
\v 2 “Con của chủ các ngươi đang ở với các ngươi, các ngươi cũng có xe chiến mã, ngựa, thành trì kiên cố và áo giáp. Vậy, ngay khi các ngươi nhận thư này,
|
||
\v 3 hãy chọn một người giỏi nhất và xứng đáng nhất trong số các con của chủ các ngươi và cho lên kế vị cha hắn, hãy chiến đấu cho dòng dõi hoàng tộc của chủ các ngươi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Nhưng họ kinh hãi và nói với nhau, “Kìa, hai vua còn không thể đương đầu nổi Giê-hu. Vậy thì làm sao chúng ta có thể chống lại ông ấy được?”
|
||
\v 5 Khi đó, quan tổng quản hoàng cung, quan tổng quản thành phố, và các trưởng lão cùng mấy người đỡ đầu những đứa trẻ đó, đáp lại Giê-hu rằng, “Chúng tôi là tôi tớ của ông. Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông ra lệnh. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua. Xin hãy làm điều ông muốn.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Giê-hu viết một lá thư lần thứ nhì và gửi cho họ, “Nếu các ngươi đứng về phía ta, và nếu các ngươi nghe tiếng ta, hãy chặt đầu các con của chủ các ngươi, rồi đến gặp ta ở Giê-rê-ên vào giờ này ngày mai.” Bấy giờ các con của vua, gồm bảy mươi người, đang ở với các đại quan trong thành, là những người đỡ đầu họ.
|
||
\v 7 Khi nhận được thư, họ bắt các con trai của vua và giết chúng, tổng cộng bảy mươi người, rồi bỏ đầu chúng vào trong giỏ, đem đến cho Giê-hu tại Giê-rê-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Một sứ giả đến báo tin cho Giê-hu, “Họ có đem đầu các con trai của vua ấy đến đây.” Ông bảo, “Hãy chất chúng thành hai đống ở trước cổng thành cho đến sáng mai.”
|
||
\v 9 Sáng hôm sau, Giê-hu đi ra và đứng đó nói với toàn dân, “Các ngươi vô tội. Kìa, ta đã lập mưu phản chủ ta và giết hắn, nhưng ai đã giết tất cả những kẻ này?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Bây giờ các ngươi chắc chắn nhận thấy rằng không một lời nào trong lời của Đức Giê-hô-va, là lời mà Ngài đã phán về nhà A-háp, lại rơi xuống đất, vì Đức Giê-hô-va đã thực hiện lời Ngài phán qua tôi tới Ngài là Ê-li.”
|
||
\v 11 Vậy Giê-hu giết tất cả những ai còn sót lại trong nhà A-háp ở Giê-rê-ên, tất cả những đại quan, bạn bè thân cận, và tư tế của vua ấy, cho đến khi chẳng còn ai sống sót.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Sau đó Giê-hu đứng dậy và rời đi; ông đến Sa-ma-ri. Khi ông đi ngang Bết Ê-kết, tại khu chăn chiên,
|
||
\v 13 ông gặp các anh em của A-ha-xi-a vua Giu-đa. Giê-hu hỏi họ, “Các ngươi là ai?” Họ trả lời, “Chúng tôi là anh em của A-ha-xi-a, chúng tôi đi xuống đó để chào thăm các con của vua và Hoàng hậu Giê-sa-bên.”
|
||
\v 14 Giê-hu bảo người của ông, “Hãy bắt sống chúng.” Vậy họ bắt sống chúng và giết chúng ở giếng Bết Ê-kết, tổng cộng là bốn mươi hai người. Ông không chừa một ai sống sót.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Khi Giê-hu đã rời đi, ông gặp Giô-na-đáp con trai Rê-cáp đang đến đón ông. Giê-hu chào và hỏi, “Lòng ngươi có ở với ta, như lòng ta ở với ngươi không?” Giô-na-đáp trả lời, “Có.” Giê-hu nói, “Nếu có, hãy giơ tay ngươi ra.” Giô-na-đáp giơ tay ra, Giê-hu nắm tay ông và dẫn ông đến xe chiến mã.
|
||
\v 16 Giê-hu bảo, “Hãy đi với ta và xem lòng nhiệt thành của ta đối với Đức Giê-hô-va.” Vậy ông đưa Giô-na-đáp lên xe chiến mã.
|
||
\v 17 Khi đến Sa-ma-ri, Giê-hu giết tất cả con cháu của A-háp còn sót lại tại Sa-ma-ri, cho đến khi ông hủy diệt hoàng tộc của A-háp, như lời Đức Giê-hô-va đã phán qua Ê-li.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Sau đó, Giê-hu triệu tập toàn dân và nói, “A-háp thờ Ba-anh một ít, nhưng Giê-hu sẽ thờ Ba-anh nhiều hơn.
|
||
\v 19 Hãy triệu tập cho ta toàn thể tiên tri Ba-anh, những người thờ lạy thần đó, và tất cả các tư tế. Đừng bỏ sót ai, vì ta có một lễ vật lớn muốn dâng cho Ba-anh. Ai không đến sẽ bị xử tử.” Nhưng Giê-hu giả vờ làm vậy, nhằm mục đích diệt những kẻ thờ lạy Ba-anh.
|
||
\v 20 Giê-hu nói, “Hãy làm một đại hội thật trọng thể cho Ba-anh, và dành riêng một ngày cho sự kiện đó.” Vậy họ đi rao báo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giê-hu triệu tập trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên tất cả những kẻ thờ lạy Ba-anh, họ đến đông đủ, không thiếu một ai. Họ vào trong đền thờ Ba-anh, đông nghịt từ đầu này đến đầu kia.
|
||
\v 22 Giê-hu ra bảo người giữ quần áo tư tế, “Hãy đem áo choàng ra cho tất cả những người thờ lạy Ba-anh.” Vậy người đó đem áo choàng ra cho họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Giê-hu cùng với Giô-na-đáp con trai Rê-cáp đi vào trong đền thờ Ba-anh, ông bảo những kẻ thờ lạy Ba-anh, “Hãy tra tìm và đảm bảo rằng trong này không có ai là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, nhưng chỉ có những người thờ lạy Ba-anh thôi.”
|
||
\v 24 Sau đó họ vào trong đặng dâng lễ vật và của lễ thiêu. Bấy giờ Giê-hu chọn tám mươi người đứng bên ngoài, ông bảo họ, “Nếu ai trong số những kẻ mà ta giao cho các ngươi bỏ trốn, ai để tên nào trốn thoát, thì mạng người đó sẽ thế mạng cho tên đã chạy trốn.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Ngay khi Giê-hu dâng xong của lễ thiêu, ông ra lệnh cho lính canh và các sĩ quan, “Hãy vào trong và giết chúng. Chớ để ai trốn thoát.” Vậy họ dùng lưỡi gươm giết chúng, lính canh và các sĩ quan liệng chúng ra ngoài và đi vào phòng trong cùng của đền thờ Ba-anh.
|
||
\v 26 Họ lôi ra ngoài các trụ đá thiêng từ đền thờ Ba-anh và đốt chúng.
|
||
\v 27 Họ đánh sập trụ thờ Ba-anh, và phá hủy đền thờ Ba-anh, biến nó thành một nhà xí, như vẫn còn đến ngày nay.
|
||
\v 28 Đó là cách Giê-hu hủy diệt Ba-anh và loại bỏ việc thờ lạy nó khỏi Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Nhưng Giê-hu không từ bỏ các tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là những điều mà ông ấy đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội– nghĩa là, sự thờ lạy con bò vàng tại Bê-tên và Đan.
|
||
\v 30 Vậy Đức Giê-hô-va phán với Giê-hu, “Vì ngươi đã hết lòng làm điều thiện trước mặt Ta, và đã ra tay trên nhà A-háp theo trọn lòng ngươi, nên con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư.”
|
||
\v 31 Nhưng Giê-hu không hết lòng quan tâm đến việc bước đi trong luật pháp của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là những điều ông ấy đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Trong những ngày ấy, Đức Giê-hô-va bắt đầu giảm bớt các miền của Y-sơ-ra-ên, và Ha-xa-ên đánh bại dân Y-sơ-ra-ên ở các vùng biên giới Y-sơ-ra-ên,
|
||
\v 33 từ phía đông Giô-đanh, toàn xứ Ghi-lê-át, địa phận của chi phái Gát, Ru-bên, và Ma-na-se, từ A-rô-ơ, bên thung lũng Ạc-nôn, qua Ghi-lê-át đến Ba-san.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Về những việc khác của Giê-hu, tất cả những việc ông làm, sức mạnh của ông, chẳng phải được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 35 Giê-hu an giấc cùng tổ phụ ông, người ta chôn ông tại Sa-ma-ri. Sau đó, Giê-hô-a-ha, con trai ông lên kế vị.
|
||
\v 36 Giê-hu cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri được hai mươi tám năm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 11
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ khi A-tha-li-a, mẹ của A-ha-xi-a, thấy con trai bà đã chết, bà chỗi dậy và giết hết tất cả những đứa trẻ trong hoàng tộc.
|
||
\v 2 Nhưng Giê-hô-sê-ba, con gái Vua Giô-ram và là chị của A-ha-xi-a, dẫn theo Giô-ách con của A-ha-xi-a, và giấu khỏi số các con hoàng tử bị giết, đi cùng bà còn có vú nuôi của Giô-ách; bà đưa họ vào trong một phòng ngủ. Họ giấu Giô-ách khỏi A-tha-li-a để Giô-ách không bị giết.
|
||
\v 3 Giô-ách được Giê-hô-sê-ba giấu trong đền thờ Đức Giê-hô-va sáu năm, đang khi A-tha-li-a cai trị xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa sai người đi mời các quan chỉ huy hàng trăm quân người Ca-rít và vệ binh đến gặp ông tại đền thờ Đức Giê-hô-va. Ông lập giao ước với họ và yêu cầu họ thề trong đền thờ Đức Giê-hô-va. Sau đó ông chỉ cho họ xem con trai của vua.
|
||
\v 5 Ông bảo, “Này là điều các ông phải làm. Một phần ba các ông trong phiên ngày Sa-bát sẽ bảo vệ hoàng cung,
|
||
\v 6 một phần ba sẽ ở Cổng Su-rơ, và một phần ba còn lại sẽ canh cổng phía sau phòng của quân thị vệ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Và hai nhóm khác, gồm những người không phục vụ trong ngày Sa-bát, phải canh đền thờ Đức Giê-hô-va cho vua.
|
||
\v 8 Các ông phải bao quanh vua, mỗi người phải cầm vũ khí trong tay. Ai xông vào hàng ngũ các ông sẽ bị giết. Các ông phải đi theo vua khi người đi ra đi vào.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Vậy các quan chỉ huy trăm quân vâng theo mọi điều thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi người đem theo quân của mình, là những người phải phục vụ và không phục vụ trong ngày Sa-bát; họ đến gặp thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa.
|
||
\v 10 Sau đó thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao giáo và khiên của Vua Đa-vít trong đền thờ Đức Giê-hô-va cho các quan chỉ huy trăm quân.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Quân thị vệ tay cầm binh khí đứng canh từ bên phải đến bên trái đền thờ, dọc theo bàn thờ và đền thờ, bảo vệ vua tứ phía.
|
||
\v 12 Giê-hô-gia-đa dẫn hoàng tử Giô-ách ra, đội vương miện, và trao sắc lệnh giao ước cho người. Họ tôn người làm vua và xức dầu cho người. Họ vỗ tay và hô vang, “Đức vua vạn tuế!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Khi A-tha-li-a nghe tiếng huyên náo của quân thị vệ và dân chúng, bà đến gặp những người trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 14 Bà nhìn, và kìa, vua đang đứng bên cột trụ, theo nghi thức, có các quan chỉ huy và người thổi kèn đứng quanh vua. Toàn dân trong xứ vui mừng và thổi kèn. A-tha-li-a xé quần áo bà và la lớn, “Mưu phản! Mưu phản!”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa ra lệnh các quan chỉ huy trăm quân, “Hãy đem mụ ấy ra khỏi hàng ngũ. Ai theo mụ sẽ bị giết bằng gươm.” Vì thầy tế lễ đã nói, “Chớ để mụ ấy bị giết trong đền thờ Đức Giê-hô-va.”
|
||
\v 16 Vậy họ tránh đường cho bà đi ra, bà đi theo lối cổng ngựa đến hoàng cung, tại đó người ta giết bà.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Sau đó Giê-hô-gia-đa lập giao ước với Đức Giê-hô-va, Vua Giô-ách, và dân sự, rằng họ sẽ là dân sự của Đức Giê-hô-va, và ông cũng lập giao ước giữa vua và dân chúng.
|
||
\v 18 Vậy toàn dân trong xứ đến đền thờ Ba-anh và đánh sập nó. Họ đập vỡ bàn thờ Ba-anh và các hình tượng ra từng mảnh, họ giết Ma-tan, tư tế Ba-anh, trước các bàn thờ đó. Thầy tế lễ chỉ định quân thị vệ canh giữ đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Giê-hô-gia-đa đem các quan chỉ huy trăm quân, người Ca-rít, quân thị vệ, và toàn dân trong xứ dẫn vua ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va và đi theo lối cổng dành cho quân thị vệ đến hoàng cung. Vậy Giô-ách lên ngôi vua.
|
||
\v 20 Toàn dân trong xứ vui mừng, và thành phố yên ổn. Còn về A-tha-li-a, người ta dùng gươm giết bà tại hoàng cung.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giô-ách lên ngôi cai trị khi ông được bảy tuổi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 12
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ bảy trong đời Giê-hu, Giô-ách lên ngôi vua; ông trị vì bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Xi-bia, con gái Bê-e-sê-ba.
|
||
\v 2 Giô-ách làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va trong trọn đời ông, vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã dạy dỗ ông.
|
||
\v 3 Nhưng các điện thờ không được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn tế lễ và đốt hương tại đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Giô-ách bảo các thầy tế lễ, “Tất cả tiền bạc dâng cho những thứ thuộc về Đức Giê-hô-va và phải được đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va, tiền đóng góp theo định mức mỗi đầu người, và toàn bộ số tiền do dân sự được Đức Giê-hô-va khiến cho cảm động lòng đem dâng –
|
||
\v 5 các thầy tế lễ phải gom số tiền đó từ những người dâng hiến, họ phải giữ số tiền đó trong đền thờ để sửa chữa bất cứ khi nào cần.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Nhưng vào năm thứ hai mươi ba trong đời Vua Giô-ách, các thầy tế lễ không sửa sang gì trong đền thờ.
|
||
\v 7 Vua Giô-ách triệu tập thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và các thầy tế lễ khác, ông hỏi họ, “Sao các ngươi không sửa sang gì trong đền thờ vậy? Bây giờ đừng nhận tiền dâng nữa, nhưng hãy lấy số tiền đã gom để sửa chữa đền thờ và giao số tiền đó cho người nào có thể sửa chữa.”
|
||
\v 8 Vậy các thầy tế lễ đồng ý không nhận thêm tiền dâng và không phụ trách sửa đền thờ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Trái lại, thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa lấy một cái rương, đục một cái lỗ trên nắp, rồi đặt bên cạnh bàn thờ, về ở phía bên phải khi người ta đi vào đền thờ Đức Giê-hô-va. Các thầy tế lễ canh cửa đền thờ bỏ vào rương tất cả số tiền đã được dâng cho đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 10 Hễ khi nào họ thấy rương đầy tiền, quan thư ký của vua và thầy tế lễ thượng phẩm sẽ đến và bỏ tiền vào trong giỏ rồi đếm số tiền được dâng trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Họ giao số tiền đã khảo giá cho những người sửa sang đền thờ Đức Giê-hô-va. Họ trả công cho các thợ mộc và thợ xây là những người làm việc trong đền thờ Đức Giê-hô-va,
|
||
\v 12 và trả công cho thợ nề và thợ đục đá, họ dùng số tiền đó mua gỗ và đẽo đá để sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va, và thanh toán các hạng mục cần được sửa chữa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nhưng người ta không dùng số tiền được dâng cho đền thờ Đức Giê-hô-va để sắm chén bạc, kéo cắt tim đèn, chậu, kèn, hay bất cứ đồ đạc nào bằng vàng hay bạc.
|
||
\v 14 Họ trả tiền cho những người sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Hơn nữa, họ không yêu cầu người quản lý việc trả lương cho nhân công phải tính sổ, vì họ làm việc thành thật.
|
||
\v 16 Nhưng tiền thuộc của lễ chuộc tội và của lễ tạ lỗi không được đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va, vì chúng thuộc về các thầy tế lễ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Khi đó, Ha-xa-ên vua A-ram tấn công và đánh chiếm xứ Gát. Ha-xa-ên quay lại đánh Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 18 Giô-ách vua Giu-đa lấy mọi thứ của Đức Giê-hô-va mà Giê-hô-sa-phát, Giê-hô-ram và A-ha-xia, tổ phụ ông, các vua Giu-đa, đã dâng cho Đức Giê-hô-va, tức những vật thánh của Ngài, và mọi thứ bằng vàng được tìm thấy trong các nhà kho trong đền thờ Đức Giê-hô-va và của vua; ông đưa cho Ha-xa-ên vua A-ram. Sau đó Ha-xa-ên rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Về những việc khác của Giô-ách, những việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 20 Các quần thần của ông nổi dậy và lập mưu phản; họ tấn công Giô-ách trong điện Mi-lô, trên đường ông đi xuống Si-la.
|
||
\v 21 Giô-xa-ca con trai Si-mê-a, và Giê-hô-xa-bát con trai Sô-mê, tức các quần thần ông, tấn công ông và giết ông. Họ chôn Giô-ách chung với các tổ phụ trong thành Đa-vít, và A-ma-xia con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 13
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ hai mươi ba trong đời Giô-ách con trai A-ha-xia, vua Giu-đa, Giê-hô-a-ha con trai Giê-hu lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì mười bảy năm.
|
||
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và noi theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội; Giê-hô-a-ha không từ bỏ những tội lỗi đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi bừng lên Y-sơ-ra-ên, Ngài cứ phó họ vào tay Ha-xa-ên vua A-ram, và Bên Ha-đát con trai Ha-xa-ên.
|
||
\v 4 Giê-hô-a-ha khẩn nài Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va lắng nghe ông vì Ngài thấy cảnh áp bức của Y-sơ-ra-ên, cách vua A-ram đàn áp họ.
|
||
\v 5 Đức Giê-hô-va ban cho Y-sơ-ra-ên một người giải cứu, họ được thoát khỏi quyền lực của người A-ram và sống an thái trong nhà như trước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Tuy nhiên, họ không từ bỏ tội lỗi của nhà Giê-rô-bô-am, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội, họ lại phạm những tội đó. Trụ thờ thần A-sê-ra vẫn còn đặt tại Sa-ma-ri.
|
||
\v 7 Dân A-ram chỉ chừa lại cho Giê-hô-a-ha năm mươi kỵ binh, mười xe chiến mã, và mười ngàn lính bộ binh, vì vua A-ram đã phá hủy chúng và khiến giống như rơm rạ khi đạp lúa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Về những việc khác của Giê-hô-a-ha, mọi điều ông làm, quyền lực của ông, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 9 Vậy Giê-hô-a-ha an giấc cùng tổ phụ, người ta chôn ông tại Sa-ma-ri. Giê-hô-ách con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Năm thứ ba mươi bảy trong đời Giô-ách vua Giu-đa, Giê-hô-ách con trai Giê-hô-a-ha cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì mười sáu năm.
|
||
\v 11 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng lại noi theo những tội lỗi đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Về những việc khác của Giê-hô-ách, những việc ông làm, và sức mạnh của ông khi đánh A-ma-xia vua Giu-đa, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 13 Giê-hô-ách an giấc cùng tổ phụ mình, Giê-rô-bô-am lên kế vị. Giê-hô-ách được chôn tại Sa-ma-ri chung với các vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Bấy giờ Ê-li-sê bị bệnh rồi sau đó qua đời, Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên đi xuống thăm và than khóc ông. Ông nói, “Cha tôi ơi, cha tôi ơi, các xe chiến mã của Y-sơ-ra-ên và lính kỵ ơi!”
|
||
\v 15 Ê-li-sê bảo ông, “Hãy lấy cung và tên,” vậy Giê-hô-ách lấy một cây cung và vài mũi tên.
|
||
\v 16 Ê-li-sê bảo vua Y-sơ-ra-ên, “Hãy cầm cung, “ông cầm cung. Ê-li-sê đặt tay ông lên tay vua.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ê-li-sê nói, “Hãy mở cửa về hướng đông,” ông liền mở nó. Ê-li-sê bảo, “Bắn!” ông bắn. Ê-li-sê nói, “Đây là mũi tên chiến thắng của Đức Giê-hô-va, mũi tên chiến thắng quân A-ram, vì vua sẽ tấn công dân A-ram ở A-phéc cho đến khi đã tiêu diệt được chúng.”
|
||
\v 18 Ê-li-sê nói, “Hãy lấy các mũi tên,” Giê-hô-ách lấy các mũi tên. Ông bảo vua Y-sơ-ra-ên, “Hãy đập xuống đất,” ông đập xuống đất ba lần rồi ngừng lại.
|
||
\v 19 Nhưng người của Đức Chúa Trời giận ông và nói, “Lẽ ra vua nên đập xuống đất năm hay sáu lần. Rồi vua sẽ tấn công A-ram cho đến khi vua đã tiêu diệt hết chúng, nhưng bây giờ vua sẽ đánh A-ram chỉ ba lần thôi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Sau đó Ê-li-sê qua đời và được đem chôn. Bấy giờ, các toán quân Mô-áp xâm chiếm xứ vào đầu năm.
|
||
\v 21 Khi người ta đang chôn một người nọ, họ thấy một toán quân Mô-áp, họ liền quăng thây đó vào mộ Ê-li-sê. Ngay khi thây ấy đụng vào hài cốt của Ê-li-sê, người chết bèn sống lại và đứng dậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Ha-xa-ên vua A-ram đàn áp Y-sơ-ra-ên trong suốt triều đại của Giê-hô-a-ha.
|
||
\v 23 Nhưng Đức Giê-hô-va tỏ lòng nhân từ với Y-sơ-ra-ên, Ngài thương xót họ và quan tâm đến họ, vì cớ giao ước của Ngài với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Vậy Đức Giê-hô-va không diệt họ, Ngài vẫn không đuổi họ khuất mắt Ngài. Ha-xa-ên vua A-ram băng hà, và Bên Ha-đát con trai ông lên kế vị. Giê-hô-ách con trai Giê-hô-a-ha giành lại từ tay Bên Ha-đát con trai Ha-xa-ên các thành phố bị chiếm khỏi tay Giê-hô-a-ha cha ông trong cuộc chiến. Giô-ách đánh vua ấy ba lần, và thu hồi lại các thành phố ở Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 24 Ha-xa-ên vua A-ram băng hà, và Bên Ha-đát con trai ông lên kế vị.
|
||
\v 25 Giê-hô-ách con trai Giê-hô-a-ha giành lại từ tay Bên Ha-đát con trai Ha-xa-ên các thành phố bị chiếm khỏi tay Giê-hô-a-ha cha ông trong cuộc chiến. Giê-hô-ách đánh vua ấy ba lần, và thu hồi lại các thành phố ở Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 14
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ nhì trong đời Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha vua Y-sơ-ra-ên, A-ma-xi-a con Giô-ách vua Giu-đa lên ngôi cai trị.
|
||
\v 2 Ông được hai mươi lăm tuổi khi trị vì; ông cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-hô-a-đan ở thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không như Đa-vít, tổ phụ ông. Ông làm mọi điều mà Giô-ách, cha ông đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Nhưng các điện thờ vẫn không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn còn dâng tế lễ và đốt hương ở đó.
|
||
\v 5 Khi vừa thiết lập quyền cai trị, ông giết các quần thần là những người đã ám sát vua cha.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Nhưng ông không giết con của những kẻ sát nhân; ông tuân theo điều được chép trong luật pháp, Sách của Môi-se, như Đức Giê-hô-va đã truyền, “Cha mẹ sẽ không bị xử tử vì con cái, con cái cũng sẽ không bị xử tử vì cha mẹ. Trái lại, mỗi người phải bị xử tử vì tội của mình.”
|
||
\v 7 Ông giết mười ngàn lính Ê-đôm ở thung lũng Muối; ông cũng chiếm Sê-la khi ra trận và gọi đó là Giốc-thê-ên, như vẫn còn được gọi đến ngày nay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Sau đó, A-ma-xia sai sứ giả đến gặp Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha, cháu Giê-hu vua Y-sơ-ra-ên, nói rằng, “Nào, chúng ta hãy ra trận mặt đối mặt.”
|
||
\v 9 Nhưng Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên sai sứ giả trở lại gặp A-ma-xia vua Giu-đa, nói rằng, “Một cây kế ở Li-băng sai một sứ giả đến gặp cây tuyết tùng ở Li-băng và nói, ‘Hãy gả con gái ngươi cho con trai ta,’ nhưng một con thú hoang ở Li-băng đi ngang qua và giẫm lên cây kế.
|
||
\v 10 Thật ông đã đánh Ê-đôm, và lòng ông đã tâng bốc ông lên. Hãy vênh váo về chiến thắng của ông, nhưng hãy ở nhà, vì sao ông muốn tự chuốc họa và cả ông và Giu-đa đều lãnh họa?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Nhưng A-ma-xia không nghe. Vậy Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên tấn công; ông và A-ma-xia vua Giu-đa, mỗi người đối đầu tại Bết Sê-mết, thuộc địa phận Giu-đa.
|
||
\v 12 Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại trận, ai nấy đều bỏ chạy về nhà.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên bắt A-ma-xia vua Giu-đa, con Giô-ách, cháu A-ha-xia, tại Bết Sê-mết. Ông kéo quân đến Giê-ru-sa-lem và đánh sập tường thành Giê-ru-sa-lem từ Cổng Ép-ra-im đến Cổng Góc, tạo một khoảng trống dài bốn trăm cu-bít.
|
||
\v 14 Ông cướp mọi đồ dùng bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Giê-hô-va, cùng những thứ giá trị trong hoàng cung, ông bắt con tin, rồi quay về Sa-ma-ri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Về những việc khác của Giê-hô-ách, tất cả những việc ông làm, sức mạnh của ông, và cách ông đánh A-ma-xi-a vua Giu-đa, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 16 Vậy Giê-hô-ách an giấc cùng tổ phụ và được chôn tại Sa-ma-ri chung với các vua Y-sơ-ra-ên, Giê-rô-bô-am con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 A-ma-xia con trai Giô-ách, vua Giu-đa, sống thêm mười lăm năm sau khi Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha, vua Y-sơ-ra-ên băng hà.
|
||
\v 18 Về những việc khác của A-ma-xia, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 19 Người ta lập mưu phản A-ma-xia tại Giê-ru-sa-lem, nên ông trốn đến La-kích. Nhưng họ sai người đuổi theo ông đến La-kích và giết ông tại đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Họ lấy ngựa chở xác ông về và chôn chung với các tổ phụ tại thành Đa-vít.
|
||
\v 21 Toàn dân Giu-đa tôn U-xi-a, một người mới mười sáu tuổi, lên làm vua kế vị cha ông là A-ma-xia.
|
||
\v 22 Chính U-xi-a là người tái xây dựng Ê-lốt và thu hồi cho Giu-đa, sau khi Vua A-ma-xia an giấc với các tổ phụ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Năm thứ mười lăm đời A-ma-xia con trai Giô-ách, vua Giu-đa, Giê-rô-bô-am con Giê-hô-ách lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông cai trị bốn mươi mốt năm.
|
||
\v 24 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
|
||
\v 25 Ông phục hồi biên giới Y-sơ-ra-ên từ Lê-bô Ha-mát đến biển A-ra-ba, y theo lời của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán qua tiên tri Giô-na con của A-mi-tai, người ở Gát Hê-phe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Đức Giê-hô-va thấy sự đau khổ của Y-sơ-ra-ên, ai nấy cũng cảm thấy thật cay đắng, cả nô lệ và tự chủ, và chẳng có ai giải cứu Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 27 Vậy Đức Giê-hô-va nói rằng Ngài sẽ không xóa danh Y-sơ-ra-ên dưới trời; trái lại, Ngài giải cứu họ khỏi tay Giê-rô-bô-am con trai Giê-hô-ách.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Về những việc khác của Giê-rô-bô-am, các việc ông làm, quyền lực của ông, và cách ông đánh trận thu hồi Đa-mách và Ha-mát về cho Y-sơ-ra-ên, vốn thuộc về Giu-đa, chẳng phải đều được viết trong Sách Sự kiện của Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 29 Giê-rô-bô-am an giấc cùng tổ phụ, tức các vua Y-sơ-ra-ên. Xa-cha-ri con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 15
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ hai mươi bảy trong đời Giê-rô-bô-am vua Y-sơ-ra-ên, A-xa-ria con trai A-ma-xia, vua Giu-đa, lên ngôi vua.
|
||
\v 2 A-xa-ria được mười sáu tuổi khi lên ngôi. Ông trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-cô-lia, người Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi gương thân phụ ông là A-ma-xia, và làm y như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Tuy nhiên, các điện thờ không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn tế lễ và đốt hương tại đó.
|
||
\v 5 Đức Giê-hô-va giáng sự đau đớn trên vua đến nỗi ông bị phung và phải sống trong nhà riêng cho đến ngày ông băng hà. Giô-tham, con trai ông, lên kế vị và cai trị dân trong xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Về những việc khác của A-xa-ria, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 7 Vậy A-xa-ria an giấc cùng tổ phụ mình; người ta chôn ông chung với các tổ phụ ông trong thành Đa-vít. Giô-tham, con trai ông, lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Năm thứ ba mươi tám trong đời A-xa-ria, vua Giu-đa, Xa-cha-ri con trai Giê-rô-bô-am cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri trong sáu tháng.
|
||
\v 9 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va như các tổ phụ đã làm. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, tức những tội ông ấy đã xui cho Y-sơ-ra-ên phạm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Sa-lum con trai Gia-bết lập mưu phản Xa-cha-ri, tấn công ông trước mặt dân sự, rồi giết ông. Sau đó ông lên làm vua thế cho Xa-cha-ri.
|
||
\v 11 Về những việc khác của Xa-cha-ri, tất cả đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 12 Này là lời Đức Giê-hô-va đã phán với Giê-hu, “Con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đến đời thứ tư.” Vậy điều đó đã xảy ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Sa-lum con trai Gia-bết lên ngôi vua vào năm thứ ba mươi chín trong đời A-xa-ria vua Giu-đa, ông chỉ cai trị được một tháng tại Sa-ma-ri.
|
||
\v 14 Mê-na-hem con trai Ga-đi từ Tiệt-xa đem quân lên Sa-ma-ri. Ông đánh Sa-lum con Gia-bết tại Sa-ma-ri. Ông giết Sa-lum và lên ngôi thế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Về những việc khác của Sa-lum và âm mưu mà ông lập, tất cả đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 16 Sau đó Mê-na-hem tấn công Típ-sa và dân cư tại đó, và tấn công các vùng biên giới quanh Tiệt-xa, vì họ không mở cửa thành tiếp đón ông. Do đó ông tấn công thành ấy và mổ bụng tất cả phụ nữ mang thai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Năm thứ ba mươi chín trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Mê-na-hem con trai Ga-đi lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên; ông trị vì mười năm tại Sa-ma-ri.
|
||
\v 18 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Trong trọn đời ông, ông không từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Sau đó, Pun, vua A-si-ri tấn công xứ, Mê-na-hem trao cho Pun một ngàn ta-lâng bạc, để Pun giúp ông củng cố vương quốc Y-sơ-ra-ên trong tay mình.
|
||
\v 20 Mê-na-hem lấy tiền thu từ dân Y-sơ-ra-ên bằng cách yêu cầu mỗi người giàu phải đóng năm mươi siếc-lơ bạc đặng để ông cống nạp cho vua A-si-ri. Vậy vua A-si-ri trở về và không ở lại trong xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Về những việc khác của Mê-na-hem, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
|
||
\v 22 Mê-na-hem an giấc cùng tổ phụ mình, Phê-ca-hia con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Năm thứ năm mươi trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Phê-ca-hia con trai Mê-na-hem lên cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì được hai năm.
|
||
\v 24 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, tức những tội mà ông đã xui Y-sơ-ra-ên phạm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Pê-ca con trai Rê-ma-lia, thủ lĩnh dưới quyền Phê-ca-hia, lập mưu hại ông và giết ông với Ạc-gốp và A-ri-ê tại Sa-ma-ri, trong thành lũy của hoàng cung. Năm mươi người Ghi-lê-át đi với ông. Ông giết Phê-ca-hia và lên ngôi thay thế.
|
||
\v 26 Về những việc khác của Phê-ca-hia, mọi việc ông làm, đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Năm thứ năm mươi hai trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Pê-ca con trai Rê-ma-lia lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì được hai mươi năm.
|
||
\v 28 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Trong thời của Pê-ca, vua Y-sơ-ra-ên, Tích-lát Phi-lê-se vua A-si-ri đến chiếm Y-giôn, A-bên Bết-mê-a-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Ha-xơ, Ghi-lê-át, Ga-li-lê, và toàn miền Nép-ta-li. Ông bắt dân ở đó đem về A-si-ri.
|
||
\v 30 Hô-sê-a con trai Ê-la lập mưu phản Pê-ca con trai Rê-ma-lia. Ông tấn công Pê-ca và giết vua. Sau đó ông lên ngôi vua thay thế Pê-ca vào năm thứ hai mươi trong đời Giô-tham con trai A-xa-ria.
|
||
\v 31 Về những việc khác của Pê-ca, mọi việc ông làm, đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Năm thứ nhì trong đời Pê-ca con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, Giô-tham con trai A-xa-ria vua Giu-đa, lên ngôi cai trị.
|
||
\v 33 Ông được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi; ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Giô-tham làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông noi gương mọi việc mà A-xa-ria, phụ vương ông đã làm.
|
||
\v 35 Tuy nhiên, các điện thờ không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn tế lễ và đốt hương ở các điện thờ đó. Giô-tham xây cổng trên trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 36 Về những việc khác của Giô-tham, mọi việc ông làm, chẳng phải được chép trong Sách Sử ký của các Vua Giu-đa sao? Trong thời đó, Đức Giê-hô-va bắt đầu sai Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con trai Rê-ma-lia đến đánh Giu-đa. Giô-tham an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn cùng các tổ phụ trong thành Đa-vít, tổ phụ ông. A-ha, con trai ông, lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 16
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ mười bảy trong đời Pê-ca con trai Rê-ma-lia, A-cha con trai Giô-tham, vua Giu-đa, lên làm vua.
|
||
\v 2 A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi, ông cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông không làm điều thiện trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông, như Đa-vít, tổ phụ ông đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Trái lại, ông đi theo con đường của các vua Y-sơ-ra-ên; thật vậy, ông dùng con trai ông làm của lễ thiêu qua lửa, bắt chước những thói tục ghê tởm của các dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khuất mắt dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 4 Ông dâng lễ vật và đốt hương ở các nơi cao, trên đồi, và dưới gốc cây.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Sau đó, Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, kéo quân lên đánh Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-cha, nhưng không thể chế ngự được ông.
|
||
\v 6 Khi ấy, Rê-xin vua A-ram lấy lại Ê-la cho A-ram rồi đuổi người Giu-đa ra khỏi Ê-la. Vậy dân A-ram đến ở tại Ê-la cho đến ngày nay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 A-cha sai sứ giả đến gặp Tích-lát Phi-lê-se, nói rằng, “Tôi là bầy tôi và là con trai của vua. Xin vua đi lên giải cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua Y-sơ-ra-ên, là những kẻ tấn công tôi.”
|
||
\v 8 Vậy A-cha lấy bạc và vàng trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong các kho tàng của hoàng cung rồi làm lễ vật dâng cho vua A-si-ri.
|
||
\v 9 Vua A-si-ri nghe lời ông và đi lên đánh Đa-mách, chinh phục thành ấy và bắt dân trong thành làm tù binh đem qua Ki-rơ. Ông cũng giết Rê-xin vua A-ram.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vua A-cha đến Đa-mách đặng gặp Tích-lát Phi-lê-se, vua A-si-ri. Tại Đa-mách, ông thấy một bàn thờ. Ông gửi cho thầy tế lễ U-ri mô hình của bàn thờ, kiểu mẫu và thiết kế của bàn thờ ấy để làm một cái giống vậy.
|
||
\v 11 Thầy tế lễ U-ri làm một bàn thờ theo các kiểu mẫu mà Vua A-cha đã gửi từ Đa-mách. Ông làm xong bàn thờ đó trước khi Vua A-ha từ Đa-mách trở về.
|
||
\v 12 Khi trở về từ Đa-mách, vua thấy bàn thờ; ông đến bàn thờ và dâng lễ vật trên đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ông dâng của lễ thiêu và của lễ chay, đổ ra của lễ quán, và rảy huyết của lễ thù ân trên bàn thờ.
|
||
\v 14 Còn bàn thờ đồng ở trước mặt Đức Giê-hô-va – vốn ở phía trước đền thờ, nghĩa là giữa bàn thờ của ông và đền thờ Đức Giê-hô-va rồi, ông cho di dời và đặt ở phía bắc bàn thờ mới làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Sau đó, Vua A-cha ra lệnh thầy tế lễ U-ri, “Bàn thờ lớn dùng để dâng của lễ thiêu vào buổi sáng và của lễ chay vào buổi chiều, của lễ thiêu và của lễ chay của vua, cùng với của lễ thiêu của toàn dân trong xứ, của lễ chay và của lễ quán của họ. Hãy rảy lên đó huyết của của lễ thiêu và huyết của con sinh tế. Còn bàn thờ đồng sẽ được ta dùng để cầu vấn Đức Chúa Trời giúp đỡ.”
|
||
\v 16 Thầy tế lễ U-ri làm theo lệnh Vua A-cha.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Sau đó, Vua A-cha dời bỏ các tấm trám và chậu khỏi trụ nâng; ông cũng gỡ cái biển ra khỏi con bò đực bằng đồng bên dưới và đặt lên một mặt lát bằng đá.
|
||
\v 18 Vì cớ vua A-si-ri, ông dỡ bỏ lối đi có mái hiên dành cho ngày Sa-bát mà người ta đã xây trong đền thờ, cùng với lối vào đặc biệt dành cho vua bên ngoài đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Về những việc khác của A-ha và những việc ông đã làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 20 A-cha an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ ông trong thành Đa-vít. Hê-xê-kia con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 17
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ mười hai đời A-cha vua Giu-đa, Hô-sê-a con Ê-la lên ngôi vua. Ông cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri được chín năm.
|
||
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không bằng các vua Y-sơ-ra-ên ở đời trước.
|
||
\v 3 Sanh-ma-na-se vua A-si-ri kéo quân đến đánh Hô-sê-a, ông trở thành chư hầu của vua A-si-ri và phải cống nạp.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Sau đó, vua A-si-ri biết Hô-sê-a đang lập mưu phản ông, vì Hô-sê-a có sai các sứ giả đến gặp Sô, vua Ai Cập; ngoài ra, ông ấy không nộp triều cống cho vua A-si-ri như những năm trước. Vậy vua A-si-ri bắt Hô-sê-a và bỏ tù ông.
|
||
\v 5 Khi đó vua A-si-ri kéo quân đánh cả xứ, tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy trong ba năm.
|
||
\v 6 Năm thứ chín đời Hô-sê-a, vua A-si-ri chiếm Sa-ma-ri và bắt dân Y-sơ-ra-ên qua A-si-ri. Ông để họ sống tại Ha-la, bên Sông Ha-bơ ở Gô-xan, và trong các thành của người Mê-đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên bị bắt làm phu tù vì họ đã phạm tội nghịch Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, tức ra khỏi quyền cai trị của Pha-ra-ôn vua Ai Cập. Dân sự đã thờ lạy các thần khác
|
||
\v 8 và bắt chước thói tục của các vua Y-sơ-ra-ên trước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Dân Y-sơ-ra-ên lén lút phạm tội trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Họ xây điện thờ trong tất cả các thành phố, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
|
||
\v 10 Họ cũng dựng trụ thờ bằng đá và trụ thờ thần A-sê-ra trên các đồi cao và dưới gốc cây.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Họ đốt hương ở các điện thờ, như các dân khác hay làm, tức là những dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi trước mặt họ. Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác khiến Đức Giê-hô-va nổi giận;
|
||
\v 12 họ thờ thần tượng, phạm điều mà Đức Giê-hô-va đã phán, “Các ngươi chớ làm như vậy.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nhưng Đức Giê-hô-va đã dùng các nhà tiên kiến và tiên tri tỏ cho Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng, “Hãy từ bỏ đường lối gian ác của các ngươi, giữ điều răn và mạng lệnh Ta, cẩn thận giữ luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi và tôi tớ Ta là các tiên tri do Ta sai đến.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Tuy nhiên họ không nghe; trái lại, họ rất cứng đầu như tổ phụ họ, tức những người không tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
|
||
\v 15 Họ từ bỏ mạng lệnh và giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ họ, và khinh bỉ giao ước mà Ngài đã ban cho họ. Họ làm theo những thói tục vô ích và chính họ trở nên vô dụng. Họ bắt chước các dân ngoại giáo xung quanh họ, là những dân mà Đức Giê-hô-va đã bảo họ chớ bắt chước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Họ từ bỏ mọi điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời họ. Họ lấy kim loại đúc thành hai tượng bò để thờ lạy. Họ dựng một trụ thờ thần A-sê-ra, và thờ lạy các tinh tú trên trời và Ba-anh.
|
||
\v 17 Họ tế con trai và con gái họ qua lửa, họ theo bói toán và bùa ếm, phó chính mình họ vào sự làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, khiến Ngài nổi giận.
|
||
\v 18 Do đó, Đức Giê-hô-va rất giận Y-sơ-ra-ên và đuổi họ khuất mắt Ngài, không còn một ai ngoại trừ chi phái Giu-đa.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Thậm chí Giu-đa cũng không giữ điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nhưng trái lại, họ theo các thói tục ngoại giáo như Y-sơ-ra-ên đã phạm.
|
||
\v 20 Vậy Đức Giê-hô-va từ bỏ tất cả con cháu Y-sơ-ra-ên; Ngài giáng họa trên họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt họ cho đến khi Ngài đã đuổi họ khuất mắt Ngài.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Ngài xé Y-sơ-ra-ên khỏi dòng dõi hoàng tộc của Đa-vít, họ lập Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát lên làm vua. Giê-rô-bô-am dẫn Y-sơ-ra-ên đi xa khỏi Đức Giê-hô-va và xui cho họ phạm tội lỗi lớn.
|
||
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên bắt chước mọi tội lỗi của Giê-rô-bô-am và không từ bỏ chúng,
|
||
\v 23 vì vậy Đức Giê-hô-va loại bỏ họ khỏi mắt Ngài, như Ngài đã cậy các tôi tớ và tiên tri Ngài phán rằng Ngài sẽ làm điều ấy. Do đó, Y-sơ-ra-ên bị lưu đày sang A-si-ri cho đến ngày nay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Vua A-si-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cu-tha, A-va, Ha-mát và Sê-phạt-va-im, đặt trong các thành ở Sa-ma-ri thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm Sa-ma-ri và sống trong các thành ở đó.
|
||
\v 25 Khi bắt đầu định cư tại đó, họ không tôn kính Đức Giê-hô-va. Vì vậy, Đức Giê-hô-va sai sư tử đến giết họ.
|
||
\v 26 Họ tâu với vua A-si-ri rằng, “Các dân mà bệ hạ đã bắt và đặt trong các thành ở Sa-ma-ri không biết tục lệ thờ thần ở xứ đó. Do đó thần ấy đã sai sư tử đến giết họ vì họ không biết cách thờ thần ở đó.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Vua A-si-ri ra lệnh, “Hãy chọn một trong các thầy tế lễ mà các ngươi đã bắt về, hãy cho người ấy đến sống tại đó và dạy họ giữ các tục thờ thần trong xứ.”
|
||
\v 28 Vậy một trong các thầy tế lễ mà họ đã bắt khỏi Sa-ma-ri được đưa đến sống tại Bê-tên; ông dạy họ cách tôn kính Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Mỗi dân trong các thành ấy dựng thần cho riêng mình, đặt chúng ở các điện thờ mà người Sa-ma-ri đã xây.
|
||
\v 30 Dân Ba-by-lôn dựng thần Su-cốt Bê-nốt; dân Cút dựng thần Nẹt-ganh; dân Ha-mát dựng thần A-si-ma;
|
||
\v 31 dân A-vít dựng thần Níp-ha và Tạt-tác; và dân Sê-phạt-va-im thiêu con cái họ bằng lửa cho A-tra-mê-léc và A-na-mê-léc, là các thần của người Sê-phạt-va-im.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Họ cũng tôn kính Đức Giê-hô-va, và chọn ra các thầy tế lễ tại các nơi cao để dâng tế lễ thay họ trong các chùa miễu ở các điện thờ.
|
||
\v 33 Họ tôn kính Đức Giê-hô-va và cũng thờ lạy các thần của họ, theo phong tục của các nước đã bị dời đi.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Họ vẫn giữ những thói tục cũ đó cho đến nay. Họ không tôn kính Đức Giê-hô-va, không làm theo các giới mạng, sắc lệnh, luật pháp, hoặc điều răn mà Đức Giê-hô-va đã ban cho con cháu Gia-cốp – là người mà Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên –
|
||
\v 35 và với dân mà Đức Giê-hô-va đã lập giao ước và truyền rằng, “Các ngươi chớ sợ các thần khác, cũng đừng quỳ lạy chúng, thờ lạy chúng, dâng tế lễ cho chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Nhưng Đức Giê-hô-va, Đấng đã đưa tay đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập bằng đại quyền, là Đấng mà các ngươi phải tôn kính; chính Ngài là Đấng các ngươi phải phủ phục, và chính Ngài là Đấng các ngươi phải dâng lễ vật.
|
||
\v 37 Các ngươi phải giữ những giới mạng, sắc lệnh, luật pháp và điều răn Ngài đã viết cho các ngươi. Vậy các ngươi chớ sợ các thần khác,
|
||
\v 38 và chớ quên giao ước Ta đã lập với các ngươi; cũng đừng tôn kính các thần khác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Nhưng các ngươi phải tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi sức mạnh của kẻ thù nghịch.”
|
||
\v 40 Họ không chịu nghe, vì họ cứ tiếp tục phạm tội như trước.
|
||
\v 41 Vậy các dân này kính sợ Đức Giê-hô-va và cũng thờ lạy các tượng thần của họ, con cái họ cũng làm y như vậy – và con cháu họ cũng chẳng khác họ. Họ vẫn phạm tội như tổ phụ mình, cho đến ngày nay.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 18
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ vào năm thứ ba trong đời Hô-sê-a con trai Ê-la, vua Y-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con trai A-cha, vua Giu-đa lên làm vua.
|
||
\v 2 Ông lên ngôi khi được hai mươi lăm tuổi; ông cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi-gia, con gái Xa-cha-ri.
|
||
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi gương Đa-vít, tổ phụ ông đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Ông dẹp bỏ các điện thờ, hủy phá các cột thờ bằng đá, và đốn hạ trụ thờ thần A-sê-ra. Ông đập vỡ con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm, vì trong ngày đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn dâng hương cho nó; người ta gọi nó là “Nê-hu-tan”.
|
||
\v 5 Ê-xê-chia tin cậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đến nỗi sau ông và trước ông chẳng có vua Giu-đa nào giống ông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ông nương cậy Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ Ngài nhưng giữ điều răn Ngài, tức những điều Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
|
||
\v 7 Vậy Đức Giê-hô-va ở cùng Ê-xê-chia, khiến ông được thạnh vượng ở bất cứ nơi nào ông đến. Ông chống nghịch vua A-si-ri và không thuần phục vua ấy.
|
||
\v 8 Ông đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và các vùng biên giới, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Năm thứ tư đời Vua Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy đời Hô-sê-a con Ê-la – vua Y-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-si-ri đi lên tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy.
|
||
\v 10 Cuối ba năm, họ chiếm được thành, tức năm thứ sáu trong đời Ê-xê-chia, và năm thứ chín trong đời Hô-sê-a vua Y-sơ-ra-ên; như vậy Sa-ma-ri thất thủ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên qua A-si-ri và cho họ ở tại Ha-la, bên Sông Ha-bơ ở Gô-xan, và trong các thành của dân Mê-đi.
|
||
\v 12 Sở dĩ như vậy là vì họ không vâng theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời họ, họ vi phạm giao ước Ngài, vi phạm tất cả mọi điều mà Môi-se tôi tớ Ngài đã truyền. Họ không nghe và làm theo.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Năm thứ mười bốn trong đời Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-si-ri đánh tất cả các thành trì kiên cố của Giu-đa và chiếm chúng.
|
||
\v 14 Vậy Ê-xê-chia vua Giu-đa sai người gửi lời đến vua A-si-ri khi vua đang ở tại La-kích, “Tôi đã xúc phạm vua. Xin hãy lui binh. Vua muốn chi tôi cũng chịu.” Vua A-si-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa trả ba trăm ta-lâng bạc và ba mươi ta-lâng vàng.
|
||
\v 15 Vua Ê-xê-chia đưa cho vua ấy bạc được tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong các kho tàng của hoàng cung.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Sau đó, Ê-xê-chia gỡ vàng trên các cánh cửa đền thờ Đức Giê-hô-va và khỏi các trụ mà ông đã cẩn; ông trao vàng cho vua A-si-ri.
|
||
\v 17 Nhưng vua A-si-ri huy động một lực lượng quân đội lớn, sai Tạc-tan và Ráp-sa-ri là chỉ huy trưởng từ La-kích sang gặp Vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên theo các ngã đường và dừng lại ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Họ đến kênh dẫn nước của hồ thượng, chỗ dẫn đến cánh đồng của thợ nện rồi đứng đó.
|
||
\v 18 Khi đã yêu cầu được gặp Vua Ê-xê-chia, Ê-li-a-lim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, và quan thư ký Sép-na, cùng Giô-a con A-sáp – quan thái sử, ra gặp họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Quan chỉ huy bảo họ tâu với Ê-xê-chia về lời của đại đế A-si-ri, “Các ngươi dựa vào đâu mà tin?
|
||
\v 20 Các ngươi chỉ nói những lời vô bổ, cho là có quân đồng minh và sức mạnh để tranh chiến. Bây giờ các ngươi trông cậy ai? Ai cho các ngươi có lòng can đảm đặng chống nghịch ta?
|
||
\v 21 Kìa, các ngươi tin cây sậy gãy của Ai Cập, nhưng nếu ai dựa vào nó, sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Đây là sự thật về Pha-ra-ôn vua Ai Cập đối với kẻ nào tin cậy hắn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhưng nếu các ngươi tâu với ta, ‘Chúng tôi tin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi,’ phải chăng đó không phải là Đấng mà Ê-xê-chia đã dẹp các điện thờ và bàn thờ, và bảo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ lạy Ngài trước bàn thờ này tại Giê-ru-sa-lem’ sao?
|
||
\v 23 Vậy bây giờ, ta có một lời đề nghị tốt đẹp dành cho các ngươi từ chủ ta là vua A-si-ri. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi kiếm đủ người cưỡi chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Làm thế nào các ngươi có thể nhờ cậy các xe chiến mã và kỵ binh Ai Cập để chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ Ta chăng?
|
||
\v 25 Chẳng phải bởi Đức Giê-hô-va mà ta đã đến đây đặng đánh và hủy diệt sao? Đức Giê-hô-va phán với ta, ‘Hãy tấn công xứ này và diệt nó.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Sau đó Ê-li-a-kim – con trai Hinh-kia, cùng Sép-na và Giô-a nói với quan tổng tư lệnh, “Xin hãy nói với tôi tớ các ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu. Chớ nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa kẻo dân chúng trên tường thành nghe.
|
||
\v 27 Nhưng quan tổng tư lệnh trả lời họ, “Có phải chủ ta đã sai ta đến gặp chủ các ngươi và nói những lời này chăng? Ông ấy không sai ta đến gặp những người ngồi trên tường thành, tức những người sẽ phải ăn phân và uống nước tiểu của họ với các ngươi sao?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Quan chỉ huy đứng dậy và kêu lên lớn tiếng bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời của đại đế, vua A-si-ri.
|
||
\v 29 Vua bảo, “Chớ để Ê-xê-chia lừa dối các ngươi, vì ông ấy không thể cứu các ngươi khỏi quyền lực ta.
|
||
\v 30 Chớ để Ê-xê-chia dụ các ngươi tin Đức Giê-hô-va, rằng, ‘Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta; thành này sẽ không bị vua A-si-ri chiếm.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Chớ nghe lời Ê-xê-chia, vì đây là lời vua A-si-ri bảo: ‘Hãy lập hòa ước với ta và ra đây. Sau đó mỗi người sẽ ăn trong vườn nho và vườn vả và uống nước giếng mình.
|
||
\v 32 Các ngươi sẽ sống như vậy cho đến khi ta đến đem các ngươi qua xứ giống xứ các ngươi, là xứ có lúa mạch và rượu mới, một xứ đầy bánh và vườn dâu, một xứ có cây ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết.’ Chớ nghe lời Ê-xê-chia khi hắn thuyết phục các ngươi rằng, ‘Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Có thần nào của các dân đó cứu họ khỏi quyền lực vua A-si-ri chưa?
|
||
\v 34 Các thần của Ha-mát và Ạc-phát đâu rồi? Các thần của Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va đâu rồi? Chúng có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta không?
|
||
\v 35 Trong số các thần trong xứ, có thần nào đã giải cứu xứ của họ ra khỏi quyền lực ta? Làm sao Đức Giê-hô-va có thể cứu Giê-ru-sa-lem ra khỏi quyền lực ta?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Nhưng dân sự làm thinh và không trả lời nào cả, vì vua đã ra lệnh, “Chớ trả lời hắn.”
|
||
\v 37 Vậy Ê-lê-a-kim con Hinh-kia, quan tổng trưởng hoàng cung; thư ký Sép-na, Giô-a con trai A-sáp, đến gặp Ê-xê-chia, họ xé quần áo và thuật lại cho ông những lời của quan chỉ huy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 19
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Khi vua Ê-xê-chia nghe báo cáo, ông xé quần áo, mặc áo vải gai, rồi vào đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 2 Ông sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, và quan thư ký Sép-na, cùng các thầy tế lễ trưởng, tất cả đều mặc áo vải gai, đến gặp tiên tri Ê-sai con A-mốt.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Họ thưa rằng, “Ê-xê-chia có nói, ‘Hôm nay là ngày đau buồn, khiển trách, và ô nhục, vì đã đến lúc con trẻ được sinh ra, nhưng người mẹ không đủ sức để sinh.
|
||
\v 4 Có thể Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ nghe mọi lời của quan tổng tư lệnh mà chủ hắn là vua A-si-ri đã sai đến đặng thách đố Đức Chúa Trời hằng sống, và sẽ khiển trách những lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe. Vậy bây giờ xin ông cầu nguyện cho những người còn sót lại ở đây.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các quần thần của Vua Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai,
|
||
\v 6 và Ê-sai bảo họ, “Hãy nói với chủ các ông: ‘Đức Giê-hô-va phán, “Chớ sợ những lời các ngươi vừa nghe, tức những lời mà tôi tớ vua A-si-ri đã sỉ nhục Ta.
|
||
\v 7 Này, Ta sẽ đặt một thần trong nó, nó sẽ nghe một tin đồn và rút về xứ nó. Ta sẽ khiến nó ngã bởi gươm trong xứ nó.’””
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Sau đó, quan tổng tư lệnh trở lại và thấy vua A-si-ri đang đánh Líp-na, vì ông có nghe rằng vua đã rời khỏi La-kích.
|
||
\v 9 San-chê-ríp hay rằng Tiệt-ha-ca vua Ê-thi-ô-pi và Ai Cập đã động binh đánh ông, do đó ông lại sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia:
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 ”Hãy tâu với Ê-xê-chia vua Giu-đa, ‘Chớ để Đức Chúa Trời mà ngươi tin lừa dối ngươi mà nói rằng, “Giê-ru-sa-lem sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri.”
|
||
\v 11 Kìa, ngươi đã nghe những gì vua A-si-ri làm cho mọi nước khi tiêu diệt tất cả bọn chúng. Vậy ngươi sẽ được cứu chăng?
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Các thần của các dân có cứu chúng không, tức là các dân mà tổ phụ ta đã diệt: Gô-xan, Ha-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa?
|
||
\v 13 Vua Ha-mát, vua Ạc-pát, vua của các thành ở Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va đâu rồi?’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ê-xê-chia nhận thư từ các sứ giả và đọc. Sau đó ông đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va và mở thư ấy ra trước mặt Ngài.
|
||
\v 15 Ê-xê-chia nguyện cầu Đức Giê-hô-va rằng, “Lạy Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngự trên các chê-ru-bim, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời trên mọi nước trong thế gian này. Ngài đã dựng nên trời và đất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Lạy Đức Giê-hô-va, xin nghiêng tai và nghe tiếng con. Lạy Đức Giê-hô-va, xin Chúa mở mắt, nhìn, và nghe lời nói của San-chê-ríp, là những lời hắn đã dùng để nhạo báng Đức Chúa Trời hằng sống.
|
||
\v 17 Thật vậy, thưa Đức Giê-hô-va, các vua A-si-ri đã diệt các dân và các xứ.
|
||
\v 18 Chúng quăng các thần của họ vào lửa, vì các thần đó không phải là thần, chúng chỉ là công việc do tay người làm ra bằng gỗ và đá. Vậy dân A-si-ri đã diệt chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Bây giờ, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, con cầu xin Ngài giải cứu chúng con khỏi quyền lực vua ấy, để mọi vương quốc trên đất đều biết rằng Ngài, Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời duy nhất.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ê-sai con A-mốt sai một sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, nói rằng, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán, ‘Vì ngươi đã nguyện cầu lên Ta về San-chê-ríp vua A-si-ri, nên Ta đã nghe ngươi.
|
||
\v 21 Này là lời Đức Giê-hô-va phán về nó: “Trinh nữ Si-ôn sẽ khinh bỉ ngươi và nhạo báng ngươi. Con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu về ngươi.
|
||
\v 22 Ngươi đã thách đố và sỉ nhục ai? Ngươi đã lên giọng và nhướng mắt kiêu ngạo chống lại ai? Đó là chống lại Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên!
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ngươi đã dùng các sứ giả của ngươi để thách đố Chúa, và nói rằng, ‘Với đội xe chiến mã, ta đã lên tận các đỉnh núi, đến những nơi cao nhất ở Li-băng. Ta sẽ hạ những cây tuyết tùng cao ngất và cây linh sam tốt nhất, ta sẽ đến tận những nơi xa nhất, vào tận rừng rậm thâm u.
|
||
\v 24 Ta đã đào giếng và uống nước ở xứ xa lạ. Ta đã làm khô mọi sông ngòi ở Ai Cập dưới chân ta.’
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Ngươi không biết là Ta đã định từ lâu và thực hiện từ thời cổ đại sao? Bây giờ Ta sẽ thực hiện. Ngươi đến đây để phá các thành trì vững chắc thành những đống hoang tàn.
|
||
\v 26 Cư dân ở đó yếu sức, bị đánh tản lạc và xấu hổ. Chúng là thực vật trên đồng, là cỏ xanh, cỏ mọc trên mái hay ngoài đồng, bị đốt trước khi lớn lên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Nhưng Ta biết khi ngươi ngồi, lúc ngươi đi ra đi vào, và cơn giận của ngươi nghịch lại Ta.
|
||
\v 28 Vì cớ cơn giận của ngươi đối với Ta, và vì lòng ngạo mạn ngươi đã thấu đến tai Ta, Ta sẽ xỏ khoen vào mũi ngươi, tra hàm thiếc vào miệng ngươi; Ta sẽ bắt ngươi trở về con đường ngươi đi.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Này là dấu hiệu cho ngươi: Năm nay ngươi sẽ ăn vật chi mọc tự nhiên, năm sau ngươi sẽ ăn thứ lớn lên từ đó. Nhưng năm thứ ba ngươi phải trồng trọt và thu hoạch, trồng vườn nho và ăn trái trong đó.
|
||
\v 30 Những gì còn sót lại của nhà Giu-đa sẽ đâm rễ và ra trái.
|
||
\v 31 Vì từ Giê-ru-sa-lem sẽ ra những người còn sống sót, từ Núi Si-ôn sẽ ra những người sống sót. Lòng hăng hái của Đức Giê-hô-va sẽ làm việc ấy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Vậy Đức Giê-hô-va phán về vua A-si-ri: “Nó sẽ không vào thành này hoặc bắn mũi tên nào vào đây. Nó sẽ không cầm khiên đến trước thành hoặc xây lũy tấn công.
|
||
\v 33 Nó sẽ trở về bằng con đường nó đã đi; nó sẽ không vào thành này. Đây là lời tuyên bố của Đức Giê-hô-va.”
|
||
\v 34 Vì Ta sẽ bảo vệ thành này và giải cứu nó, vì cớ danh Ta và vì tôi tớ Ta là Đa-vít.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Trong đêm đó, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi ra và tấn công trại quân A-si-ri, giết 185. 000 người. Sáng sớm hôm sau người ta thức dậy thấy xác chết nằm la liệt khắp nơi.
|
||
\v 36 Vậy San-chê-ríp vua A-si-ri rời khỏi Y-sơ-ra-ên và trở về nhà tại Ni-ni-ve.
|
||
\v 37 Sau đó, khi ông đang thờ lạy trong đền Nít-róc, thần của ông, thì các con trai ông là A-tra-mê-léc và Sa-rê-xe dùng gươm giết ông. Họ chạy trốn qua xứ A-ra-rát. Sau đó Ê-sạt-ha-đôn con trai ông lên ngôi thế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 20
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong những ngày đó, Ê-xê-chia lâm bệnh đến nỗi gần chết. Tiên tri Ê-sai con A-mốt đến gặp ông và tâu rằng, “Đức Giê-hô-va phán, ‘Hãy dàn xếp việc nhà của ngươi; vì ngươi sẽ chết.’”
|
||
\v 2 Nghe xong, Ê-xê-chia quay mặt vào tường và nguyện cầu Đức Giê-hô-va,
|
||
\v 3 “Lạy Đức Giê-hô-va, xin Ngài nhớ lại là con đã trung tín trọn lòng bước đi trước mặt Ngài thể nào, và làm điều thiện trước mặt Ngài ra sao.” Rồi Ê-xê-chia khóc lớn tiếng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Trước khi Ê-sai đi vào giữa sân đền thờ, Đức Giê-hô-va bảo ông,
|
||
\v 5 “Hãy quay lại và nói với Ê-xê-chia, người lãnh đạo dân Ta, ‘Này là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ vua, phán: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, Ta đã thấy những giọt nước mắt của ngươi. Ta sẽ chữa lành ngươi vào ngày thứ ba, rồi ngươi sẽ đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm, Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này khỏi quyền lực của vua A-si-ri, và Ta sẽ bảo vệ thành này vì cớ Ta và tôi tớ Ta là Đa-vít.”’”
|
||
\v 7 Ê-sai bảo, “Hãy làm một bánh trái vả.” Họ làm bánh đó và đặt nó lên chỗ sưng nhọt của ông thì ông được lành.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ê-xê-chia bảo Ê-sai, “Dấu hiệu nào cho biết Đức Giê-hô-va sẽ chữa lành ta, và dấu hiệu nào tỏ ra rằng ta sẽ lên đền thờ Đức Giê-hô-va vào ngày thứ ba?”
|
||
\v 9 Ê-sai trả lời, “Này là dấu hiệu của Đức Giê-hô-va dành cho vua, Đức Giê-hô-va sẽ thực hiện lời Ngài phán. Bóng sẽ ngã tới mười bước, hay lùi về mười bước?”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ê-xê-chia trả lời, “Bóng ngã tới mười bước thì dễ quá. Không, hãy cho bóng lùi lại mười bước.”
|
||
\v 11 Vậy tiên tri Ê-sai kêu cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài khiến cho bóng lùi về mười bước, kể từ chỗ bóng đã di chuyển trên bậc thang A-cha.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi đó, Bê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-bi-lôn, gửi thư và quà cho Ê-xê-chia, vì ông có nghe rằng Ê-xê-chia được lành bệnh.
|
||
\v 13 Ê-xê-chia nghe đọc các thư đó, rồi ông chỉ cho các sứ giả xem khắp cung điện và những thứ quý báu, bạc, vàng, hương liệu và dầu quý, kho vũ khí, và mọi thứ trong các kho của ông. Chẳng có thứ gì trong cung, hoặc trong cả vương quốc của Ê-xê-chia mà ông lại không cho họ xem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Tiên tri Ê-sai đến gặp Vua Ê-xê-chia và hỏi, “Những người này đã nói gì với vua? Họ ở đâu đến?” Ê-xê-chia đáp, “Họ đến từ xứ Ba-bi-lôn xa xôi.”
|
||
\v 15 Ê-sai hỏi, “Họ đã thấy gì trong cung vua?” Ê-xê-chia trả lời, “Họ đã thấy mọi thứ trong nhà ta. Chẳng có thứ gì trong số những món quý báu của ta mà ta không cho họ xem.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ê-sai nói cùng Ê-xê-chia, “Vua hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va:
|
||
\v 17 ’Kìa, những ngày ấy sẽ đến khi mọi thứ trong cung ngươi, tức những thứ mà tổ phụ ngươi đã cất giữ cho đến ngày nay, sẽ bị đem qua Ba-by-lôn. Chẳng gì còn sót lại, Đức Giê-hô-va phán.
|
||
\v 18 Các con trai mà ngươi đã sanh sẽ bị bắt, chúng sẽ làm thái giám trong cung vua Ba-by-lôn.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Lời của Đức Giê-hô-va mà ông đã nói thật tốt lành.” Vì ông nghĩ, “Trong thời của ta sẽ không có hòa bình và ổn định chăng?”
|
||
\v 20 Về những việc khác của Ê-xê-chia, quyền lực ông, cách ông xây dựng hồ và máng nước, cách ông dẫn nước vào thành – chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 21 Ê-xê-chia an giấc cùng tổ phụ mình, Ma-na-se con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 21
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Ma-na-se lên ngôi vua khi được mười hai tuổi; ông cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Hếp-xi-ba.
|
||
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, tức những điều tương tự như những việc ghê tởm của các dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khuất mắt dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 3 Ông tái xây dựng các điện thờ mà phụ vương ông là Ê-xê-chia đã đánh đổ, ông xây các bàn thờ cho Ba-anh, dựng trụ thờ thần A-sê-ra, như vua Y-sơ-ra-ên là A-háp đã làm, và ông quỳ lạy trước tất cả các tinh tú và thờ lạy chúng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Ma-na-se dựng các bàn thờ ngoại giáo trong đền thờ Đức Giê-hô-va, dù Đức Giê-hô-va đã truyền, “Danh Ta sẽ ngự tại Giê-ru-sa-lem mãi mãi.”
|
||
\v 5 Ông dựng các bàn thờ cho tất cả các tinh tú trên trời ở hai sân đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 6 Ông dâng con trai ông làm của lễ thiêu qua lửa; ông thực hành thuật bói toán và yêu thuật, hội ý với những kẻ nói chuyện với người chết và vong linh. Ông phạm nhiều điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và trêu giận Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ông dựng tượng thần A-sê-ra và đặt trong đền thờ Đức Giê-hô-va. Đây là đền thờ mà Đức Giê-hô-va đã phán cùng Đa-vít và con trai người là Sa-lô-môn; Ngài phán, “Ta sẽ đặt danh Ta mãi mãi trong đền thờ này tại Giê-ru-sa-lem, là thành được Ta chọn từ các chi phái Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 8 Ta sẽ không khiến Y-sơ-ra-ên lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nữa, nếu họ cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền, và vâng giữ trọn luật pháp mà Môi-se, tôi tớ Ta đã truyền.”
|
||
\v 9 Nhưng dân sự không chịu nghe, Ma-na-se dẫn dụ họ làm điều ác thậm chí còn nhiều hơn các dân mà Đức Giê-hô-va đã hủy diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vậy Đức Giê-hô-va phán qua các tiên tri là tôi tớ Ngài,
|
||
\v 11 “Vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những điều gớm ghiếc này, làm những việc gian ác hơn tất cả mọi điều mà dân A-mô-rít trước đời nó đã làm, và xui Giu-đa phạm tội thờ lạy hình tượng do nó dựng nên,”
|
||
\v 12 vậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán, “Này, Ta sẽ giáng sự dữ trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến nó cũng đều lùng bùng lỗ tai.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem dây đo đã dùng để đo Sa-ma-ri, và dây dọi đã dùng trên nhà A-háp; Ta sẽ quét sạch Giê-ru-sa-lem, như người ta chùi cái dĩa rồi úp lại.
|
||
\v 14 Ta sẽ ném những kẻ còn sót lại của cơ nghiệp Ta và phó chúng vào tay kẻ thù chúng. Chúng sẽ trở thành nạn nhân và bị kẻ thù cướp bóc,
|
||
\v 15 vì chúng đã làm điều ác trước mặt Ta, và chọc giận Ta, kể từ ngày tổ phụ chúng ra khỏi Ai Cập cho đến giờ.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hơn nữa, Ma-na-se làm đổ nhiều huyết vô tội, cho đến khi ông làm ngập Giê-ru-sa-lem từ đầu này đến đầu kia bằng sự chết. Đây là hành động ngoài tội lỗi mà ông đã xui khiến Giu-đa phạm tội và ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 17 Về những việc khác của Ma-na-se, mọi việc ông làm, và tội lỗi ông phạm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 18 Ma-na-se an giấc cùng tổ phụ và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức vườn U-xa. A-môn con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi vua; ông cai trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Mê-su-lê-mết; bà là con gái của Ha-ru, cháu Giọt-ba.
|
||
\v 20 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như cha ông là Ma-na-se đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 A-môn theo trọn đường lối của cha mình và thờ lạy hình tượng mà ông ấy đã thờ, A-môn cũng quỳ lạy chúng.
|
||
\v 22 Ông từ bỏ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ ông, và không theo đường lối Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 23 Các quần thần của A-môn lập mưu nghịch lại ông và giết ông trong cung.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Nhưng dân trong xứ giết tất cả những kẻ lập mưu hại Vua A-môn, và họ đưa Giô-sia con trai ông lên kế vị.
|
||
\v 25 Về những việc khác của A-môn, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 26 Dân chúng chôn ông trong mộ của ông tại vườn U-xa, Giô-sia con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 22
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi vua; ông cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-đi-đa (con gái của A-đai-a, cháu Bô-cát).
|
||
\v 2 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông đi theo trọn đường lối của Đa-vít, tổ phụ ông, và không xây qua bên phải hoặc bên trái.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Năm thứ mười tám trong đời Vua Giô-si-a, ông sai Sa-phan con A-xa-lia, cháu Mê-su-lam, quan thư ký, đến đền thờ Đức Giê-hô-va và nói rằng,
|
||
\v 4 “Hãy đi gặp thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia và bảo người đếm số tiền được đem vào nhà Đức Giê-hô-va, là số tiền mà những người bảo vệ đền thờ đã nhận từ dân sự.
|
||
\v 5 Hãy trao số tiền đó cho các công nhân phụ trách đền thờ Đức Giê-hô-va, và trao cho những người làm việc trong đền thờ Đức Giê-hô-va, đặng họ sửa chữa những hư hỏng trong đền thờ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Hãy trao cho các thợ mộc, thợ xây, thợ nề, và cũng dùng món tiền ấy mua gỗ và đẽo đá để sửa đền thờ.”
|
||
\v 7 Tuy nhiên số tiền được giao cho họ không cần phải kê khai, vì họ sử dụng trung thực.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia bảo quan thư ký Sa-phan, “Ta tìm thấy Sách Luật pháp trong đền thờ Đức Giê-hô-va.” Vậy Hinh-kia trao quyển sách cho Sa-phan và ông đọc nó.
|
||
\v 9 Sa-phan đem sách ấy cho vua, và cũng tâu lại với vua, “Các quần thần của bệ hạ đã lấy số tiền trong đền thờ trao cho những người giám sát việc coi sóc đền thờ Đức Giê-hô-va.”
|
||
\v 10 Quan thư ký Sa-phan tâu cùng vua, “Thầy tế lễ Hinh-kia có đưa cho tôi một cuốn sách.” Sa-phan đọc sách ấy cho vua nghe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Khi vua đã nghe những lời luật pháp ấy, ông xé quần áo mình.
|
||
\v 12 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ Hinh-kia, A-hi-cam con Sa-phan, Ách-bơ con Mi-cai-a, quan thư ký Sa-phan, và A-sa-gia, tôi tớ của ông,
|
||
\v 13 “Hãy đi cầu vấn Đức Giê-hô-va cho ta, cho dân sự và cho cả Giu-đa, vì những lời đã được đọc trong sách này. Cơn giận lớn của Đức Giê-hô-va đã được nhen lên đối cùng chúng ta. Cơn giận ấy lớn, vì tổ phụ chúng ta đã không nghe theo những lời trong sách này đặng vâng giữ mọi điều được chép về chúng ta.”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vậy thầy tế lễ Hinh-kia, A-hi-cam, Ách-bơ, Sa-phan, và A-sai-a đến gặp nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum, con trai Tích-va, cháu Hạc-ha, người giữ tủ quần áo (bà sống ở Giê-ru-sa-lem, tại khu phố thứ nhì), và họ kể cho bà nghe.
|
||
\v 15 Bà bảo họ, “Này là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán, ‘Hãy tâu với người đã bảo các ông đến gặp tôi,
|
||
\v 16 “Đây là lời Đức Giê-hô-va phán: ‘Kìa, Ta sẽ giáng họa lên nơi này và dân cư của nó, y như những lời trong sách mà vua Giu-đa đã nghe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Vì chúng đã từ bỏ Ta và dâng hương cho các thần khác, đến nỗi chúng chọc giận Ta bằng những việc chúng làm – do đó cơn giận Ta đã nhen nhúm đối cùng nơi này, cơn giận ấy sẽ không bị dập tắt.’”
|
||
\v 18 Nhưng còn vua Giu-đa, là người đã sai các ông đến cầu vấn ý Đức Giê-hô-va, này là lời các ông sẽ tâu với người: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Về những lời ngươi đã nghe:
|
||
\v 19 ’vì lòng ngươi mềm mại, và vì ngươi hạ mình trước mặt Đức Giê-hô-va khi ngươi nghe điều Ta phán nghịch lại nơi này cùng dân cư của nó, rằng chúng sẽ trở thành một nơi hoang tàn và một lời nguyền rủa, và vì ngươi đã xé áo ngươi và khóc trước mặt Ta, nên Ta cũng đã nghe ngươi’ –Đức Giê-hô-va tuyên bố như vậy.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 ‘Kìa, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ phụ ngươi; ngươi sẽ được chôn trong mồ mả yên bình, mắt ngươi sẽ không thấy bất kỳ tai họa nào mà Ta sẽ giáng trên nơi này cùng cư dân của nó.’” Vậy họ trở về thuật lại thông điệp đó cho vua nghe.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 23
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Vua sai các sứ giả đi mời tất cả trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 2 Sau đó vua lên đền thờ Đức Giê-hô-va, đi cùng ông là toàn dân Giu-đa và cư dân thành Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ, tiên tri, và cả dân sự, từ nhỏ tới lớn. Ông đọc cho họ nghe mọi lời trong sách giao ước mà người ta tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Vua đứng bên cây trụ và lập một giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa hết lòng và hết linh hồn bước theo Đức Giê-hô-va, giữ điều răn Ngài, các sắc lệnh giao ước, luật thánh, củng cố những lời trong giao ước đã được chép trong sách này. Toàn dân sự đồng ý giữ giao ước.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia, các thầy tế lễ cấp dưới, những người gác cổng, đem ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va tất cả vật dụng được làm cho Ba-anh và A-sê-ra, và hết thảy các vì tinh tú trên trời. Ông đốt chúng bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng ở Thung Lũng Kít-rôn và đem tro của chúng đến Bê-tên.
|
||
\v 5 Ông diệt các tư tế thờ thần tượng mà các vua Giu-đa đã lập để dâng hương tại các điện thờ ở những thành phố của Giu-đa và các nơi xung quanh Giê-ru-sa-lem – tức những kẻ dâng hương cho Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, và tất cả các ngôi sao trên trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ông đem trụ thờ thần A-sê-ra ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va, ông đem ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem và mang đến Thung lũng Kít-rôn rồi đốt nó. Ông nghiền nát thành bụi và quăng bụi ấy lên mồ mả của thường dân.
|
||
\v 7 Ông dọn dẹp sạch các phòng của bọn mại dâm nam trong đền thờ Đức Giê-hô-va, là nơi những người nữ dệt vải cho A-sê-ra.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Giô-si-a đem hết thảy các thầy tế lễ ra khỏi các thành ở Giu-đa và làm ô uế các điện thờ mà các thầy tế lễ đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e-sê-ba. Ông tiêu hủy các điện thờ ở cổng, là các điện thờ ở lối vào Cổng Giô-suê, do viên thống đốc thành phố tên là Giô-suê xây dựng. Các điện thờ này nằm ở bên trái cổng thành là nơi người ta đi vào thành.
|
||
\v 9 Thậm chí dù các tư tế của những điện thờ đó không được phép phục vụ ở bàn thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, nhưng họ được phép ăn bánh không men, như các thầy tế lễ anh em khác của họ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Giô-si-a làm ô uế Tô-phết trong thung lũng Ben Hin-nôm, để không ai có thể dâng con trai hay con gái mình làm của lễ thiêu qua lửa cho thần Mô-lết.
|
||
\v 11 Ông trừ bỏ những con ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng cho thần mặt trời. Chúng ở khu vực lối vào đền thờ Đức Giê-hô-va, gần phòng của quan thái giám Na-than Mê-léc. Giô-si-a đốt các xe chiến mã của thần mặt trời.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vua Giô-si-a phá hủy các bàn thờ trên lầu của A-cha, là phòng mà các vua Giu-đa đã xây, và các bàn thờ mà Ma-na-se để ở hai sân đền thờ Đức Giê-hô-va. Giô-si-a nghiền nát chúng thành vụn và quăng chúng vào Thung lũng Kít-rôn.
|
||
\v 13 Giô-si-a làm ô uế các điện thờ ở phía đông Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Hủy diệt mà Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã xây cho Át-tô-rết, thần tượng gớm ghiếc của dân Si-đôn; Kê-mốt, thần tượng gớm ghiếc của dân Mô-áp; và Minh-côm, thần tượng gớm ghiếc của dân Am-môn.
|
||
\v 14 Vua Giô-si-a đập bể các trụ thờ bằng đá, đốn các trụ thờ thần A-sê-ra rồi quăng vào đó đầy xương người.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Giô-si-a cũng phá bỏ bàn thờ tại Ba-bên và điện thờ mà Giê-rô-bô-am con Nê-bát, là kẻ xui khiến Y-sơ-ra-ên phạm tội, đã xây dựng. Ông đốt bàn thờ ở điện thờ và đập nát ra bụi; ông cũng đốt trụ thờ thần A-sê-ra.
|
||
\v 16 Khi Giô-si-a nhìn quanh khu vực, ông thấy có các mộ ở triền đồi. Ông sai người đến lấy xương ra khỏi các mồ mả; sau đó ông thiêu chúng trên bàn thờ để làm ô uế nó. Điều này ứng với lời Đức Giê-hô-va đã phán qua người của Đức Chúa Trời, là người tiên đoán trước những điều này.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ông hỏi, “Mộ đó của ai?” Dân trong thành trả lời, “Đó là mộ người của Đức Chúa Trời đến từ Giu-đa và ông ấy đã nói về những điều mà bệ hạ vừa làm đối với bàn thờ ở Bê-tên.”
|
||
\v 18 Vậy Giô-si-a bảo, “Hãy để yên mộ đó. Không ai được dời hài cốt của ông ấy.” Vậy họ để yên hài cốt của người, cùng với hài cốt của tiên tri đến từ Sa-ma-ri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Tất cả đền thờ và điện thờ trong các thành ở Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã lập đặng chọc giận Đức Giê-hô-va – đều bị Giô-si-a dẹp bỏ. Ông dẹp bỏ chúng y như đã làm tại Bê-tên.
|
||
\v 20 Ông cũng giết tất cả các tư tế của các điện thờ trên các bàn thờ tại đó, và thiêu xương người trên các bàn thờ ấy. Sau đó ông quay về Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Vua ra lệnh cho toàn dân, “Hãy giữ Lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, như có chép trong sách giao ước này.”
|
||
\v 22 Không có một Lễ Vượt qua nào được tổ chức như vậy từ thời các quan xét cai trị Y-sơ-ra-ên cho đến thời các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
|
||
\v 23 Tuy vậy, Lễ Vượt qua này thật sự được cử hành vào năm thứ mười tám trong đời Vua Giô-si-a; lễ ấy dành cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Giô-si-a cũng diệt trừ những kẻ đồng bóng và thầy bói. Ông cũng loại bỏ những vật thờ, thần tượng, và mọi thứ gớm ghiếc trong xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, nhằm củng cố lời luật pháp đã được chép trong sách mà thầy tế lễ Hinh-kia tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 25 Trước thời của Giô-si-a, không có vua nào như ông, một người trọn lòng, linh hồn, và hết sức theo Đức Giê-hô-va, làm trọn luật pháp của Môi-se. Cũng không có vua nào về sau giống như Giô-si-a.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va không bỏ cơn thạnh nộ to lớn của Ngài, cơn thịnh nộ ấy đã được nhen nhóm nghịch lại Giu-đa vì tội thờ ngoại giáo mà Ma-na-se đã chọc giận Ngài.
|
||
\v 27 Vậy Đức Giê-hô-va phán, “Ta cũng sẽ loại bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã loại bỏ Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ quăng thành phố này mà Ta đã chọn, là thành Giê-ru-sa-lem, và nhà mà Ta đã phán, “Danh Ta sẽ ngự tại đó.’”
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Về những việc khác của Giô-si-a, mọi việc ông làm, đều chẳng được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 29 Trong thời của ông, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai Cập, kéo quân đi đánh vua A-si-ri bên Sông Ơ-phơ-rát. Vua Giô-si-a nghênh chiến Nê-cô trong chiến trận, và bị Nê-cô giết chết tại Mê-ghi-đô.
|
||
\v 30 Các quần thần của Giô-si-a đem xác ông lên xe chiến mã đi từ Mê-ghi-đô về Giê-ru-sa-lem và chôn trong mộ của ông. Sau đó tiên tri trong xứ chọn Giê-hô-a-ha con Giô-si-a, họ xức dầu cho ông, và lập ông lên làm vua kế vị cho cha ông.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Giê-hô-a-ha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi vua, và ông cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan; bà là con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
|
||
\v 32 Giê-hô-a-ha làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như những gì mà tổ phụ ông đã làm.
|
||
\v 33 Pha-ra-ôn Nê-cô bắt ông và xiềng xích ông trở về Ríp-la ở xứ Ha-mát, để ông không cai trị ở Giê-ru-sa-lem. Sau đó Nê-cô bắt Giu-đa phải nộp một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim con Giô-si-a lên làm vua thế cho Giô-si-a cha ông, và đổi tên ông thành Giê-hô-gia-kim. Nhưng ông bắt Giê-hô-a-ha sang Ai Cập, rồi Giê-hô-a-ha chết tại đó.
|
||
\v 35 Giê-hô-gia-kim nộp bạc và vàng cho Pha-ra-ôn. Ông đánh thuế cả xứ để nộp theo lệnh của Pha-ra-ôn. Ông buộc mỗi người dân trong xứ thanh toán bằng bạc và tiền để trao cho Pha-ra-ôn Nê-cô.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi, ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Xê-bi-đát; con gái của Phê-đai-a ở Ru-ma.
|
||
\v 37 Giê-hô-gia-kim làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, y như tổ phụ ông đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 24
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong thời Giê-hô-gia-kim, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn tấn công Giu-đa; Giê-hô-gia-kim phải thuần phục ông trong ba năm. Sau đó Giê-hô-gia-kim trở về và nổi nghịch chống lại Nê-bu-cát-nết-sa.
|
||
\v 2 Đức Giê-hô-va sai các toán quân Canh-đê, A-ram, Mô-áp, và Am-môn đến đánh Giê-hô-gia-kim; Ngài sai họ đến đánh Giu-đa để hủy diệt nước ấy. Việc này ứng với lời Đức Giê-hô-va đã phán qua tôi tớ Ngài là các tiên tri.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chắc chắn theo lệnh của Đức Giê-hô-va, việc này xảy đến trên Giu-đa, đặng loại bỏ họ khỏi mắt Ngài, vì cớ những tội lỗi Ma-na-se đã phạm,
|
||
\v 4 và cũng vì cớ huyết vô tội ông đã làm đổ, khiến Giê-ru-sa-lem ngập huyết vô tội. Đức Giê-hô-va không muốn bỏ qua chuyện đó.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Về những việc khác của Giê-hô-gia-kim, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
|
||
\v 6 Giê-hô-gia-kim an giấc cùng tổ phụ, và Giê-hô-gia-kin con trai ông lên kế vị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vua Ai Cập không còn ra khỏi xứ của ông ấy đặng tấn công, vì vua Ba-by-lôn đã chinh phục tất cả mọi xứ trước kia do vua Ai Cập kiểm soát, từ khe Ai Cập đến Sông Ơ-phơ-rát.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Giê-hô-gia-kin lên ngôi vua khi được mười tám tuổi; ông cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Nê-hút-ta, con gái của Ên-na-than, người thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 9 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va – y như cha ông đã làm.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Khi ấy, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem và bao vây thành phố.
|
||
\v 11 Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến cổng thành trong khi binh lính của ông đang bao vây thành,
|
||
\v 12 Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa cùng với mẫu hậu, các quần thần, hoàng tử, và triều thần ra ngoài thành để đầu hàng vua Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bắt ông vào năm thứ tám trong đời ông cai trị.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nê-bu-cát-nết-sa cướp mọi thứ có giá trị trong đền thờ Đức Giê-hô-va, và trong hoàng cung. Ông cắt mọi vật bằng vàng mà Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã làm trong đền thờ Đức Giê-hô-va, theo lời Đức Giê-hô-va đã phán là sẽ xảy đến.
|
||
\v 14 Ông lưu đày dân cư Giê-ru-sa-lem, tất cả các trưởng lão, binh lính, mười ngàn tù binh, các thợ thủ công và thợ rèn. Không còn ai trong xứ ngoại trừ những người nghèo nhất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nê-bu-cát-nết-sa bắt Giê-hô-gia-kin đem lưu đày tại Ba-by-lôn cùng với mẫu hậu, các hoàng hậu, triều thần, và những người quyền quý trong xứ. Ông bắt họ ra khỏi Giê-ru-sa-lem và lưu đày tại Ba-by-lôn.
|
||
\v 16 Có bảy ngàn lính, một ngàn thợ thủ công và thợ rèn, tất cả những người có khả năng chiến đấu – đều bị vua Ba-by-lôn bắt đem đi lưu đày tại Ba-by-lôn.
|
||
\v 17 Vua Ba-by-lôn lập Mát-ta-ni, chú của Giê-hô-gia-kin, lên ngôi kế vị, và đổi tên ông thành Sê-đê-kia.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi; ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
|
||
\v 19 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va – như mọi điều mà Giê-hô-gia-kim đã làm.
|
||
\v 20 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, Ngài giáng những sự việc này trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Ngài đuổi họ khuất mắt Ngài. Sau đó, Sê-đê-kia nổi loạn chống vua Ba-by-lôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 25
|
||
\cl
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ chín đời Vua Sê-đê-kia, nhằm ngày mười tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem. Ông đóng quân bên ngoài thành và dựng lũy bao vây thành.
|
||
\v 2 Do đó, thành phố bị bao vây đến năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia cai trị.
|
||
\v 3 Đến ngày chín tháng tư, xảy ra một nạn đói khủng khiếp trong thành đến nỗi dân chúng không còn thức ăn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Thành phố sau đó bị thất thủ, tất cả lính chiến đều bỏ chạy trong đêm qua lối cổng thành giữa hai tường thành, gần vườn ngự uyển, dù quân Canh-đê đang bao vây thành. Vua đi theo hướng về Ả-rập.
|
||
\v 5 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo Vua Sê-đê-kia và bắt kịp ông trong đồng bằng của thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Toàn bộ quân đội của ông đều bị đánh tan tác.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Chúng bắt vua và nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la, là nơi họ tuyên án ông.
|
||
\v 7 Chúng tàn sát các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông. Sau đó, vua Ba-by-lôn móc mắt ông, xiềng ông bằng xích đồng, rồi dẫn qua Ba-by-lôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Bấy giờ là ngày bảy tháng năm, nhằm năm thứ chín thuộc triều đại Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn và là quan chỉ huy quân thị vệ, đến Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 9 Ông phóng hỏa đền thờ của Đức Giê-hô-va, hoàng cung, cùng tất cả nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông cũng phóng hỏa các tòa nhà quan trọng.
|
||
\v 10 Quân Ba-by-lôn dưới sự chỉ huy của quan thị vệ hủy phá tường thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Với những người còn sót trong thành, những người đào ngũ theo vua Ba-by-lôn, và số dân còn lại – quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt đem đi lưu đày.
|
||
\v 12 Nhưng quan thị vệ chừa lại một số người nghèo nhất trong xứ để làm việc ở vườn nho và ngoài đồng.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Còn các trụ cột bằng đồng, cái giá đồng và bể đồng trong đền thờ Đức Giê-hô-va, quân Canh-đê đập nát và đem đồng về Ba-by-lôn.
|
||
\v 14 Những cái nồi, xẻng, kéo cắt tim đèn, muỗng, và những dụng cụ bằng đồng mà các thầy tế lễ dùng để phục vụ trong đền thờ - cũng bị dân Canh-đê cướp mất.
|
||
\v 15 Cái nồi để bỏ tro và các chậu bằng vàng, cùng những thứ làm bằng bạc – quan chỉ huy quân thị vệ của vua cũng cướp mất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Hai trụ cột, cái bể, và các giá mà Sa-lô-môn làm cho đền thờ Đức Giê-hô-va chứa nhiều đồng đến nỗi không thể cân được.
|
||
\v 17 Trụ thứ nhất cao mười tám cu-bít, có đầu bằng đồng. Đầu trụ cao ba cu-bít, có lưới rèm và quả lựu xung quanh, tất cả đều làm bằng đồng. Trụ thứ nhì và lưới rèm cũng giống như trụ thứ nhất.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Quan thị vệ bắt thầy tế lễ thượng phẩm Sê-ra-gia làm tù binh, cùng với phó tế Sô-phô-ni, và ba người giữ cổng.
|
||
\v 19 Ông cũng bắt một tướng chỉ huy quân đội, năm cố vấn của vua còn sót trong thành, quan đặc trách việc chiêu mộ quân lính, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành làm tù binh.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Sau đó, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt họ và đem nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la.
|
||
\v 21 Vua Ba-by-lôn giết họ ở Ríp-la trong xứ Ha-mát. Như vậy, Giu-đa bị bắt lưu đày biệt xứ.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Với những người còn sót lại trong xứ Giu-đa, là những người mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn đã chừa lại, ông giao Ghê-đa-lia con trai A-hi-cam, cháu Sa-phan phụ trách.
|
||
\v 23 Bấy giờ khi tất cả các quan thị vệ cùng người của họ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia lên làm thống đốc, thì họ đi từ Ghê-đa-lia đến Mích-pa. Những người này là Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con Ka-rết, Sê-ra-gia con trai Tan-hu-nê người Nê-tô-phát, và Gia-a-xa-nia con trai Mác-ca-thít – họ và những người của họ.
|
||
\v 24 Ghê-đa-lia thề cùng họ và người của họ, “Chớ sự các quan người Canh đê. Hãy sống trong xứ và thuần phục vua Ba-by-lôn, các ông sẽ bình an.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Nhưng nhằm tháng bảy, Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc dòng dõi hoàng tộc, đi cùng mười người đi đánh Ghê-đa-lia. Ghê-đa-lia chết cùng những người Giu-đa và Ba-by-lôn ở với ông tại Mích-pa.
|
||
\v 26 Sau đó cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, các tướng chỉ huy quân đội trỗi dậy và đến Ai Cập, vì họ sợ người Ba-by-lôn.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, nhằm ngày hai mươi bảy tháng mười hai, khi Ê-vin Mê-rô-đác lên làm vua Ba-by-lôn, ông thả Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi tù.
|
||
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Ông nói chuyện tử tế với vua Giu-đa và cho ông ấy một địa vị cao hơn địa vị của các vua khác đang bị quản thúc với ông tại Ba-by-lôn.
|
||
\v 29 Ê-vin Mê-rô-đác cho Giê-hô-gia-kin cởi bỏ bộ quần áo tù, Giê-hô-gia-kin được ăn uống bình thường trên bàn của vua trong suốt đời còn lại.
|
||
\v 30 Ông thường xuyên được trợ cấp thực phẩm hàng ngày trong suốt cuộc đời còn lại.
|