vi_ulb/26-EZK.usfm

2402 lines
279 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id EZK
\ide UTF-8
\h Ê-Xê-Chi-Ên
\toc1 Ê-Xê-Chi-Ên
\toc2 Ê-Xê-Chi-Ên
\toc3 ezk
\mt Ê-Xê-Chi-Ên
\s5
\c 1
\cl
\p
\v 1 Năm thứ ba mươi, ngày mùng năm tháng tư, lúc ta đang sống giữa vòng những kẻ phu tù bên bờ sông Kê-ba. Các từng trời mở ra, và ta thấy những mặc thị của Đức Chúa Trời.
\v 2 Mùng năm tháng ấy — là năm thứ năm làm phu tù của vua Giê-hô-gia-kin,
\v 3 lời của Đức Giê-hô-va đến với quyền phép cho thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên, con trai Bu-xi, ở trong đất người Canh-đê bên bờ sông Kê-ba; tay Đức Giê-hô-va giáng trên ông ở đó.
\s5
\p
\v 4 Kìa, ta thấy có luồng gió bão đến từ phương bắc — một đám mây lớn với lửa loé sáng ở trong nó và sự sáng rực xung quanh nó rồi bên trong nó, và ngọn lửa có màu hổ phách ở trong đám mây.
\v 5 Từ giữa nó là hình bốn tạo vật sống. Hình trạng chúng là như vầy: chúng có hình ảnh giống như một người,
\v 6 nhưng chúng, mỗi con có bốn mặt, và là một tạo vật có bốn cánh.
\s5
\v 7 Chân nó thẳng, các bàn chân như bàn chân bò con đực sáng ngời như đồng bóng loáng.
\v 8 Tuy nhiên, chúng có bàn tay của con người dưới những cánh nó, ở bốn bên. Vì hết thảy bốn tạo vật, mặt và cánh của chúng như vầy:
\v 9 đôi cánh của chúng chạm vào đôi cánh của tạo vật kế bên, và chúng không xây trở khi đi; thay vì thế, mỗi con cứ đi thẳng trước mặt.
\s5
\p
\v 10 Dáng vẻ khuôn mặt của chúng thì giống như mặt của một người, kế đó, mặt của con sư tử bên phải, kế đó, mặt của con bò bên trái, và sau cùng, mặt của chim ưng.
\v 11 Mặt của chúng là như thế, và đôi cánh giang ra phía trên cao, mỗi tạo vật có hai cánh tiếp giáp nhau, và cũng có hai cánh che thân mình của chúng nữa.
\v 12 Mỗi con cứ đi thẳng tới, bất cứ đâu Đức Thánh Linh điều khiển chúng đi, chúng đi mà không xây mình lại.
\s5
\v 13 Các tạo vật sống trông giống như các hòn than đỏ lửa, hay giống như mấy cây đuốc; lửa loé lên cũng di động giữa vòng các tạo vật, và có chớp nhoáng loé lên nữa.
\v 14 Các vật sống ấy chạy tới chạy lui thật nhanh, và chúng trông giống như chớp nhoáng.
\s5
\p
\v 15 Khi ấy, ta nhìn xem các vật sống; có một cái bánh xe trên đất bên cạnh các tạo vật nầy.
\v 16 Đây là diện mạo và cấu trúc của mấy cái bánh xe; mỗi bánh xe giống như bích ngọc, và hết thảy bốn bánh đều như nhau; chúng trông giống như bánh xe nầy xen kẻ với bánh xe kia vậy.
\s5
\v 17 Khi mấy cái bánh xe di động, chúng đi bất cứ hướng nào mà không phải xây lại.
\v 18 Giống như mấy cái vành xe, chúng cao và dễ sợ, vì mấy cái vành xe đều đầy những mắt.
\s5
\p
\v 19 Khi nào các tạo vật sống di động, các bánh xe cũng di động bên cạnh chúng. Khi các tạo vật sống cất lên khỏi đất, các bánh xe cũng cất lên y như vậy.
\v 20 Bất cứ đâu Đức Thánh Linh chuyển tới, chúng di động đến chỗ mà Đức Thánh Linh muốn đi; mấy cái bánh xe dấy lên bên cạnh chúng, vì linh của các tạo vật sống ở trong mấy cái bánh xe.
\v 21 Khi các tạo vật sống di chuyển, mấy cái bánh xe cũng di chuyển; và khi các tạo vật đứng yên, mấy cái bánh xe cũng đứng yên; khi các tạo vật sống dấy lên khỏi đất, thì mấy cái bánh xe cũng dấy lên kề bên, một khi linh của các tạo vật sống ở trong mấy cái bánh xe.
\s5
\p
\v 22 Ở trên đầu của các tạo vật sống là thứ trông giống như một vòng khung mở rộng; nó giống như pha lê dễ sợ, trải ra ở trên đầu chúng nó.
\v 23 Dưới vòng khung đó, hai cánh của từng tạo vật sè thẳng ra, và tiếp giáp với hai cánh của tạo vật khác. Từng tạo vật sống ấy cũng có đôi cánh che thân chúng nữa — mỗi con có hai cánh che chính thân của mình.
\s5
\v 24 Khi ấy ta nghe tiếng của cánh chúng nó! Giống như nước lớn ầm ầm. Giống như tiếng của Đấng Toàn Năng. Bất cứ khi nào có tiếng của giông bão. Tiếng ấy om sòm như tiếng một đạo binh vậy. Khi nào chúng đứng yên, chúng hạ đôi cánh xuống.
\v 25 Và một giọng nói từ trên vòng khung trên đầu chúng bất cứ khi nào chúng đứng yên và hạ thấp đôi cánh xuống.
\s5
\p
\v 26 Bên trên vòng khung trên đầu chúng có hình như cái ngai, giống như bích ngọc, và trên ngai ấy là hình trạng giống như một người ở trên nó.
\s5
\v 27 Tôi thấy một hình trạng trông giống như kim loại bóng láng trong đó, từ hông người trở lên; từ hông người trở xuống trông giống như lửa và sự bóng láng chung quanh.
\v 28 Nó trông giống như chiếc cầu vồng hiện ra trong đám mây vào ngày trời có mưa — và như sự sáng láng chung quanh nó. Sự nầy xuất hiện giống như hình trạng sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va. Khi ta nhìn thấy điều đó, ta sấp mặt xuống, và ta nghe một giọng nói đang phán.
\s5
\c 2
\cl
\p
\v 1 Tiếng ấy phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy đứng dậy trên chân ngươi; khi ấy ta sẽ phán cùng ngươi.”
\v 2 Khi ấy, Đức Thánh Linh bắt lấy ta khi Ngài phán cùng ta và đỡ ta đứng dậy trên chân ta, và ta nghe Ngài phán cùng ta.
\p
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, ta sẽ sai ngươi đến cùng dân Y-sơ-ra-ên, đến với các dân loạn nghịch đã nổi dậy chống lại ta — cả hai: chúng nó và tổ phụ chúng nó đã phạm tội chống nghịch ta cho đến chính ngày nầy!
\s5
\v 4 Các dòng dõi của họ có bộ mặt ngoan cố và lòng cứng cỏi. Ta sẽ sai ngươi đến cùng chúng nó. Và ngươi sẽ nói với chúng: “Đây là điều Chúa Giê-hô-va phán!”
\v 5 Một là chúng sẽ nghe, hoặc sẽ không chịu nghe. Chúng là nhà loạn nghịch, nhưng ít nhất chúng nó cũng biết rằng có một đấng tiên tri ở giữa chúng.
\s5
\v 6 Còn ngươi, hỡi con người, chớ sợ chúng nó hoặc lời lẽ của chúng nó. Đừng sợ, mặc dù ngươi đang ở với gai gốc chà chuôm và dù ngươi đang sống giữa ổ bọ cạp. Đừng sợ lời lẽ của chúng hoặc mất tinh thần bởi bộ mặt của chúng, một khi chúng là nhà loạn nghịch.
\s5
\v 7 Nhưng, ngươi sẽ nói lời của ta cho chúng, dù nghe hay không nghe, vì chúng rất loạn nghịch.
\v 8 Nhưng ngươi, hỡi con người, hãy nghe điều ta phán cùng ngươi. Chớ loạn nghịch giống như nhà nổi loạn ấy. Hãy há miệng ngươi ra rồi ăn lấy vật ta sắp sửa ban cho ngươi.”
\s5
\p
\v 9 Khi ấy ta nhìn xem, và có một bàn tay giơ đến ta; tay ấy cầm một quyển sách cuộn.
\v 10 Quyển sách ấy mở ra trước mặt ta, có chữ đã chép, cả trước và sau, và viết trên đó là những lời ca thương, than thở, khốn nạn.
\s5
\c 3
\cl
\p
\v 1 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, thứ mà ngươi thấy, hãy ăn đi! Hãy ăn quyển sách cuộn nầy, rồi đi nói với nhà Y-sơ-ra-ên.”
\v 2 Thế là ta mở miệng ra, và Ngài cho ta ăn quyển sách cuộn ấy.
\p
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy cho bao tử ngươi ăn và làm đầy ruột ngươi với quyển sách cuộn nầy mà ta đã ban cho ngươi.” Vậy, ta ăn quyển sách đó, và nó ngọt giống như mật trong miệng ta.
\s5
\p
\v 4 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy đi đến nhà Y-sơ-ra-ên rồi nói lời ta cho họ.
\v 5 Vì ngươi không phải được sai đến cùng một dân nói tiếng lạ hoặc ngôn ngữ khó hiểu, mà là đến cùng nhà Y-sơ-ra-ên —
\v 6 chẳng phải đến với một dân nói tiếng lạ hoặc ngôn ngữ khó hiểu mà ngươi không thể hiểu lời lẽ của chúng nó! Nếu ta sai ngươi đến cùng chúng nó, chúng nó sẽ nghe ngươi.
\v 7 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng chịu nghe ngươi đâu, vì chúng nó không muốn nghe ta. Vì cả nhà Y-sơ-ra-ên đều cứng trán cứng lòng.
\s5
\v 8 Nầy, ta làm cho mặt ngươi ra ngoan cố giống như bộ mặt chúng nó và trán ngươi ra cứng giống như trán của chúng nó.
\v 9 Ta làm cho trán ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá lửa! Đừng sợ chúng hay ngã lòng vì bộ mặt chúng nó, một khi chúng nó là nhà loạn nghịch!”
\s5
\p
\v 10 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, mọi lời mà ta phán cùng ngươi — hãy nhận chúng vào lòng và nghe theo chúng với hai lỗ tai của ngươi!
\v 11 Khi ấy, hãy đi đến cùng những kẻ phu tù, đến cùng dân sự ngươi, rồi nói với họ. Hãy nói với chúng nó: Đây là lời của Chúa Giê-hô-va, dù chúng nó có chịu nghe hay không.
\s5
\p
\v 12 Bấy giờ Thần cất ta lên, và ta nghe sau lưng tiếng ầm ầm giống như động đất lớn: “Phước thay là sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va từ nơi ngự của Ngài!”
\v 13 Ta cũng nghe tiếng cánh của các tạo vật sống khi chúng chạm nhau, và tiếng của những cái bánh xe kề các vật ấy, và tiếng của động đất lớn lắm.
\s5
\v 14 Thần cất ta lên rồi đem ta đi; và ta đi với sự cay đắng nóng nảy trong hồn ta, vì tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta cách mạnh mẽ!
\v 15 Vậy, Ta đi đến các phu tù ở Tên-A-bíp, họ sống dọc theo bờ sông Kê-ba, và ta ở lại đó trong bảy ngày, ở giữa họ với sự kinh ngạc phủ lút.
\s5
\p
\v 16 Thế rồi, việc xảy ra sau bảy ngày, lời của Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
\v 17 “Hỡi con người, ta đã lập ngươi lên làm người canh cho nhà Y-sơ-ra-ên, vậy hãy nghe lời ra từ miệng ta, và công bố cho họ biết lời cảnh cáo của ta.
\v 18 Khi ta nói với kẻ dữ: Mầy chắc sẽ chết và nếu ngươi không cảnh cáo nó hay không nói ra lời cảnh cáo với kẻ dữ về những việc ác để nó được sống — kẻ dữ đó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi.
\v 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ dữ, và nó không xây khỏi sự gian ác của nó hoặc khỏi những việc làm gian ác của nó, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ngươi đã cứu lấy mạng của mình.
\s5
\p
\v 20 Và nếu người công bình xây khỏi sự công bình mình rồi cư xử cách bất công, khi ấy ta đặt hòn đá vấp chân trước mặt nó, và nó sẽ chết, một khi ngươi không cảnh cáo nó. Nó sẽ chết trong tội lỗi nó, và ta sẽ không nhớ đến những việc công bình mà nó đã làm, nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi.
\v 21 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo người công bình thôi đừng phạm tội nữa hầu cho người không còn phạm tội nữa, người chắc sẽ sống, một khi người đã được cảnh cáo; và ngươi đã giải cứu chính mạng sống mình.”
\s5
\p
\v 22 Vậy, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên ta, và Ngài phán cùng ta: “Hãy chờ dậy! Hãy xuống vùng đồng bằng, và ta sẽ phán cùng ngươi tại đó.”
\v 23 Ta chờ dậy rồi xuống vùng đồng bằng, và sự vinh hiển Đức Giê-hô-va đang ngự ở đó, giống như sự vinh hiển ta đã thấy bên bờ sông Kê-ba; vậy ta bèn sấp mặt xuống đất.
\s5
\p
\v 24 Thần đến cùng ta rồi đỡ ta đứng trên chân mình; và Ngài phán cùng ta như vầy: “Hãy đi, tự giam mình trong nhà ngươi,
\v 25 vì nầy, hỡi con người, người ta sẽ lấy dây trói ngươi, và ngươi không thể đi ra giữa vòng chúng nó được nữa.
\s5
\v 26 Ta sẽ khiến lưỡi ngươi dính với đốc vọng trong miệng ngươi, ngươi sẽ bị câm; và ngươi sẽ không có khả năng quở trách chúng nó được, một khi chúng là nhà loạn nghịch.
\v 27 Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi để ngươi sẽ nói với chúng nó như vầy: Đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Ai muốn nghe, hãy nghe; ai không muốn nghe, thì đừng nghe, vì chúng nó là nhà loạn nghịch.”
\s5
\c 4
\cl
\p
\v 1 Hỡi con người, ngươi hãy lấy một miếng ngói cho mình rồi đặt nó trước mặt ngươi. Khi ấy hãy vẽ thành Giê-ru-sa-lem lên đó.
\v 2 Rồi hãy bao vây nghịch cùng nó, xây dựng đồn lũy chống lại nó. Mở một cuộc vây hãm nghịch cùng nó, và đóng trại chung quanh nó. Hãy đặt nhiều mũi nhọn ở chung quanh nó.
\v 3 Và ngươi, hãy lấy một cái chảo sắt, rồi sử dụng nó làm thành cái tường sắt giữa ngươi và thành. Hãy hướng mặt ngươi nghịch cùng nó và cái thành, vì nó sẽ bị vây. Vậy, hãy bao vây chống lại nó! Đó sẽ là một dấu cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\p
\v 4 Kế đó, hãy nằm nghiêng qua phía trái và đặt tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên lên mình ngươi; ngươi sẽ mang lấy tội lỗi bao nhiêu ngày ngươi nằm đó nghịch cùng nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Chính ta đã định cho ngươi một ngày tiêu biểu cho từng năm chúng nó bị sửa phạt, 390 ngày! Đồng thời, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\p
\v 6 Khi người đã xong những ngày ấy, rồi lần thứ nhì ngươi khá nằm nghiêng bên phải, vì ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta phân cho ngươi một ngày thay cho một năm.
\v 7 Và ngươi để mặt nghịch cùng Giê-ru-sa-lem đang bị vây lấy, với tay ngươi để trần, và ngươi sẽ nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 8 Vì nầy! Ta dùng dây trói ngươi để ngươi sẽ chẳng xây qua bên nầy hay bên kia, cho đến những ngày ngươi vây thành đã xong.
\s5
\p
\v 9 Cũng hãy lấy cho mình lúa mì, mạch nha, đậu, đậu lăng, kê và đại mạch; để hết chúng vào một cái bình, làm bánh ăn cho mình tuỳ theo số ngày ngươi nằm nghiêng đó. Trong 390 ngày người sẽ ăn nó.
\v 10 Đây sẽ là đồ ăn mà ngươi sẽ ăn: trọng lượng hai mươi siếc-lơ cho một ngày. Ngươi sẽ ăn nó từ lúc nầy sang lúc khác.
\v 11 Và ngươi uống nước, lường ra một phần sáu hin và ngươi sẽ uống nó lần lần.
\s5
\v 12 Ngươi sẽ ăn bánh ấy như bánh mạch nha, nhưng ngươi sẽ hấp nó bằng phân người trước mắt chúng nó.
\v 13 Vì Đức Giê-hô-va phán: “Điều nầy ý nói dân Y-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh không sạch, ở đó giữa các nước mà ta sẽ trục xuất chúng nó.”
\s5
\p
\v 14 Nhưng ta nói: “Than ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Tôi chưa hề bị ô uế! Tôi chưa hề ăn bất cứ gì đã chết hay bất cứ thứ chi bị thú vật giết, từ nhỏ đến giờ, và thịt gớm ghiếc không hề lọt vào miệng tôi.
\p
\v 15 Vậy Ngài phán cùng ta: “Hãy xem. Ta ban cho ngươi phân bò thay vì phân người để ngươi dùng nó mà hấp bánh.”
\s5
\p
\v 16 Ngài cũng phán cùng ta: “Kìa, hỡi con người! Ta sẽ bẻ gậy bánh trong Giê-ru-sa-lem, và chúng nó sẽ lường bánh ăn nước uống, trong lo sợ và run rẩy.
\v 17 Vì chúng nó thiếu bánh và nước, mỗi một người sẽ mất tinh thần và hao mòn trong tội lỗi mình.”
\s5
\c 5
\cl
\p
\v 1 “Khi ấy ngươi, hỡi con người, hãy lấy cho mình một cái gươm bén như dao cạo râu. Rồi đưa qua trên đầu và râu ngươi, rồi dùng cân để cân và chia tóc của ngươi.
\v 2 Hãy đốt một phần ba râu tóc đó với lửa ngay giữa thành khi những ngày vây thành đã mãn. Và hãy lấy một phần ba khác, rồi dùng gươm mà đánh nó tại chung quanh thành. Khi ấy hãy rải một phần ba cuối cùng ở trong gió, và chính ta sẽ tuốt gươm đuổi theo sau dân sự.
\s5
\v 3 Nhưng hãy lấy một ít tóc trong số đó cột vào vạt áo choàng mình.
\v 4 Khi ấy, hãy lấy một ít tóc quăng vào trong lửa và đốt nó trong lửa; từ đó sẽ có lửa phát ra lan đến cả nhà Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\p
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Đây là thành Giê-ru-sa-lem ở giữa các dân tộc, ta đặt để nó, và ta đặt các các nước bao xung quanh nó.
\v 6 Nhưng nó đã chối bỏ luật lệ ta với sự gian ác hơn các dân, và phép tắc ta nhiều hơn các nước chung quanh nó. Và chúng chối bỏ những sự xét đoán của ta và không bước theo các phép tắc ta.”
\s5
\p
\v 7 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Vì các ngươi là rối loạn hơn các dân chung quanh các ngươi, và không bước theo các phép tắc ta hay làm theo luật lệ ta, hoặc không làm theo luật lệ của các dân tộc chung quanh các ngươi.”
\p
\v 8 Vì cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Nầy! Ta, chính ta sẽ hành động nghịch cùng ngươi! Ta sẽ thi hành các sự phán xét ở giữa ngươi cho các dân tộc đều thấy.
\s5
\v 9 Ta sẽ làm cho các ngươi điều ta đã không làm và cũng một thể ấy ta sẽ chẳng làm lại nữa, vì cớ mọi việc làm gớm ghiếc của các ngươi.
\v 10 Vậy nên, ở giữa các ngươi, những người làm cha sẽ ăn thịt con cái mình, và con cái sẽ ăn thịt cha của chúng, một khi ta thi hành sự phán xét giáng trên các ngươi và tan rải hết thảy các ngươi những kẻ còn lại đi mọi hướng.
\s5
\v 11 Vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời tuyên bố của Chúa Giê-hô-va — điều nầy là chắc chắn vì các ngươi đã làm ô uế nơi thánh ta với những sự xấu hổ đáng ghét và với mọi việc làm đáng tởm, chính ta sẽ làm giảm đi dân số các ngươi, mắt ta sẽ không thương hại các ngươi, và ta sẽ chẳng buông tha các ngươi đâu.
\v 12 Một phần ba các ngươi sẽ chết bởi dịch lệ, và chúng sẽ bị đói kém làm hao mòn ở giữa ngươi. Một phần ba sẽ ngã dưới lưỡi gươm ở chung quanh ngươi. Khi ấy ta sẽ tan rải một phần ba các ngươi theo bốn hướng, ta cũng sẽ rút gươm đuổi theo chúng nó nữa.
\s5
\p
\v 13 Khi ấy cơn thạnh nộ của ta sẽ được trọn, và ta sẽ khiến cơn giận ta yên nghỉ đối với chúng nó. Ta lấy làm thoả lòng, và chúng nó sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va đã phán trong cơn thạnh nộ ta khi ta đã hoàn tất cơn giận ta nghịch cùng chúng nó.
\p
\v 14 Ta sẽ khiến các ngươi ra hoang vu và một sự nhuốc nhơ cho các dân ở chung quanh ngươi trước mắt kẻ đi ngang qua.
\s5
\v 15 Vậy, Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành một thứ cho các dân khác xét đoán và chế giễu các ngươi, một lời cảnh cáo và một sự kinh khiếp cho các dân ở chung quanh các ngươi. Ta sẽ thi hành sự phán xét nghịch cùng các ngươi trong sự giận dữ và thạnh nộ, và với một sự quở trách dữ dằn — Đức Giê-hô-va đã tuyên bố như thế!
\v 16 Ta sẽ bắn những mũi tên độc của đói kém nghịch cùng các ngươi, chúng sẽ trở thành phương tiện mà với chúng ta sẽ huỷ diệt các ngươi. Vì ta sẽ thêm sự đói kém giáng trên các ngươi và sẽ bẻ gậy bánh của các ngươi đi.
\v 17 Ta sẽ giáng nạn đói kém và tai vạ nghịch cùng các ngươi để các ngươi sẽ bị mồ côi. Dịch lệ và huyết sẽ trải qua các ngươi và ta sẽ sai gươm đến nghịch cùng các ngươi — Ta, Đức Giê-hô-va đã công bố ra điều nầy!”
\s5
\c 6
\cl
\p
\v 1 Lời Đức Giê-hô-va đến cùng ta và phán:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi nghịch cùng các núi Y-sơ-ra-ên rồi nói tiên tri với chúng.
\v 3 Hãy nói: Hỡi các núi Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe lời của Chúa Giê-hô-va! Chúa Giê-hô-va phán điều nầy với các núi và với các đồi, hầm hố, và đồng trũng như vầy: Nầy! Ta sẽ dẫn gươm đến nghịch cùng các ngươi, và ta sẽ tiêu diệt các nơi cao của các ngươi.
\s5
\v 4 Khi ấy, bàn thờ các ngươi sẽ bị hoang vu và các trụ của các ngươi sẽ bị huỷ diệt, và ta sẽ ném bỏ những kẻ chết của các ngươi trước mặt thần tượng của chúng.
\v 5 Ta sẽ đặt những xác chết của dân Y-sơ-ra-ên trước mặt thần tượng chúng nó, và rải cốt các ngươi quanh bàn thờ các ngươi.
\s5
\v 6 Hễ nơi nào các ngươi ở, các thành sẽ bị hủy hoại và các nơi cao sẽ bị hoang vu, đến nỗi các bàn thờ sẽ bị hủy hoại hoang tàn. Khi ấy chúng sẽ bị đập bể và biến mất, các trụ sẽ bị gãy vỡ và mọi công việc của các ngươi sẽ bị quét sạch.
\v 7 Những kẻ chết sẽ ngã xuống giữa các ngươi, và các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 8 Nhưng ta sẽ giữ lại giữa các ngươi một số dân sót, và sẽ có người thoát khỏi gươm giữa các nước, khi các ngươi bị tan rải khắp các xứ.
\v 9 Khi ấy, những kẻ nào được thoát ấy sẽ suy gẫm về ta giữa các nước mà chúng nó bị đùa đến làm phu tù, ta lấy làm buồn bực bởi tấm lòng tà dâm của chúng đã xây khỏi ta, và bởi ánh mắt đã hành dâm theo thần tượng chúng nó. Khi ấy chúng nó sẽ tỏ sự gớm ghiếc ra nơi mặt vì sự gian ác mà chúng nó đã phạm với mọi sự đáng tởm của chúng.
\v 10 Chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va. Đó là lý do mà ta đã nói ta sẽ giáng điều ác nầy cho chúng nó.
\s5
\p
\v 11 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy vỗ tay giậm chân các ngươi! Hãy nói: “Than ôi!” vì cớ mọi sự gớm ghiếc gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên! Vì nó sẽ ngã xuống bởi gươm dao, đói kém, và dịch lệ.
\v 12 Kẻ nào ở xa sẽ chết vì dịch lệ, và kẻ nào ở gần sẽ ngã bởi gươm. Người nào còn sống và sống sót sẽ chết bởi đói kém; theo phương thức nầy ta sẽ làm cho trọn sự giận của ta nghịch cùng họ.
\s5
\v 13 Khi ấy, các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, khi kẻ chết của chúng nó nằm giữa đám thần tượng, xung quanh bàn thờ chúng, trên mỗi gò cao — trên mọi đỉnh núi, và dưới từng cây xanh và cây sồi rậm — khắp những nơi mà chúng nó dâng hương cho các thần tượng mình.
\v 14 Ta sẽ tỏ ra quyền phép của ta và khiến cho xứ bị hoang vu và tàn nát, từ đồng vắng cho đến Đíp-lát, khắp mọi nơi chúng sinh sống. Khi ấy, chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\c 7
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến và phán cùng ta:
\v 2 Ngươi, hỡi con người — Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng đất Y-sơ-ra-ên: Sự cuối cùng! Sự cuối cùng đã đến cho bốn góc đất!
\s5
\v 3 Bây giờ, sự cuối cùng giáng trên các ngươi, vì Ta sẽ sai cơn thạnh nộ ta giáng trên các ngươi, và ta sẽ phán xét các ngươi tuỳ theo mọi đường lối các ngươi, khi ấy ta sẽ giáng mọi sự gớm ghiếc trên các ngươi.
\v 4 Vì mắt ta chẳng nhìn xem các ngươi với sự thương hại, và ta sẽ chẳng buông tha cho các ngươi; nhưng ta sẽ giáng đường lối các ngươi trên các ngươi, và những sự gớm ghiếc của các ngươi sẽ ở giữa các ngươi, nhơn đó các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tai vạ! Hết tai vạ nầy đến tai vạ khác! Kìa, nó đang đến!
\v 6 Sự cuối cùng chắc chắn đang tới đến; sự cuối cùng tỉnh thức mà nghịch cùng các ngươi! Kìa, nó đang đến!
\v 7 Số phận các ngươi đang đến với các ngươi, những ai ở trong xứ. Thì giờ đã đến; ngày huỷ diệt gần rồi, và núi non sẽ chẳng còn được vui mừng nữa.
\s5
\v 8 Bây giờ, ta ao ước đổ ra cơn giận ta nghịch cùng các ngươi và làm trọn cơn thạnh nộ giáng trên các ngươi khi ta đoán xét các ngươi theo đường lối các ngươi, và đem hết mọi sự gớm ghiếc giáng trên các ngươi.
\v 9 Vì mắt ta sẽ chẳng nhìn xem cách thương hại, và ta sẽ không buông tha các ngươi đâu. Như ta đã nói, Ta sẽ làm cho các ngươi; và những sự gớm ghiếc của các ngươi sẽ ở giữa các ngươi để các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng sửa phạt các ngươi.
\s5
\p
\v 10 Nầy! Ngày đang đến! Sự bại hoại đã tới đến. Cây gậy đã trổ ra với nụ kiêu ngạo.
\v 11 Bạo lực đã dấy lên thành cây gậy gian ác — không một ai trong đám đông chúng nó, không một ai trong sự giàu có của họ, không một sự sang trọng nào của họ còn đấy nữa.
\s5
\v 12 Giờ đã đến; ngày ấy đến gần rồi. Nguyện kẻ mua chớ vui, kẻ bán chớ than vãn, một khi cơn giận của ta giáng trên cả đoàn dân đông!
\v 13 Vì kẻ bán sẽ không trở về với thứ đã được bán bao lâu họ còn sống, kể từ khi sự khải thị nghịch cùng đoàn dân đông; họ sẽ không trở về, vì không một người nào sống trong tội lỗi mình sẽ được bổ sức lại!
\s5
\v 14 Họ đã thổi kèn lên và khiến cho mọi sự ra sẵn sàng, nhưng chẳng có ai ra trận; một khi cơn giận ta giáng trên cả đoàn dân đông!
\p
\v 15 Gươm hiện đang ở bên ngoài, còn dịch lệ và đói kém thì đang ở bên trong các toà nhà. Kẻ nào đang ở ngoài đồng sẽ chết bởi gươm, đang khi đói kém và dịch lệ sẽ vồ nuốt kẻ ở trong thành.
\v 16 Nhưng một số người sống sót sẽ thoát khỏi giữa chúng, và họ sẽ đi lên trên núi. Giống như bầy chim bò câu trong đồng bằng, hết thảy họ sẽ than vãn — mỗi người vì tội lỗi mình.
\s5
\v 17 Mọi tay đều mòn mỏi và từng đầu gối đều yếu giống như nước,
\v 18 và họ sẽ mặc lấy bao gai, và sự kinh khiếp phủ lấy họ; và sự xấu hổ sẽ ở trên từng bộ mặt, mọi đầu đều trọc trọi.
\v 19 Chúng sẽ quăng bạc mình trên đường phố và vàng của chúng sẽ bị chối từ. Bạc và vàng của chúng sẽ không thể cứu chúng nơi ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va. Mạng sống của chúng sẽ không được cứu, và cơn đói khát của chúng sẽ không được thoả, vì tội lỗi của chúng đã trở thành vầng đá vấp chơn.
\s5
\v 20 Chúng chiếm lấy các thứ trang sức trong sự kiêu ngạo và chúng tạo thành các thứ hình tượng gớm ghiếc — những hành vi đáng tởm mà chúng đã làm với các thứ ấy, vì lẽ đó, ta khiến các thứ nầy ra ô uế cho chúng!
\v 21 Và ta sẽ phó các thứ ấy cho người lạ như chiến lợi phẩm và cho kẻ dữ trên đất làm chiến lợi phẩm, và chúng sẽ làm ô uế những kẻ ấy.
\v 22 Khi ấy, Ta sẽ xây mặt khỏi chúng nó khi họ làm ô uế nơi ta ưa thích; những kẻ trộm cướp sẽ vào đó và làm ô uế nó.
\s5
\p
\v 23 Hãy làm xiềng xích, vì xứ đầy dẫy với sự phán xét bằng huyết, và thành phố đầy sự bạo lực.
\v 24 Vậy, Ta sẽ đem những kẻ hung ác nhất trong các dân ngoại đến, và họ sẽ chiếm lấy nhà chúng nó, và ta sẽ đem dấu chấm hết cho sự kiêu căng của kẻ mạnh, vì các nơi thánh của chúng sẽ bị ô uế!
\v 25 Sự sợ hãi sẽ đến! Chúng nó sẽ tìm sự bình an, nhưng sẽ chẳng có sự bình an nào hết!
\s5
\v 26 Hết tai vạ nầy đến tai vạ khác, hết tiếng đồn nầy đến tiếng đồn khác! Khi ấy chúng nó sẽ tìm sự hiện thấy nơi vị tiên tri, nhưng luật pháp lìa khỏi thầy tế lễ, và mưu luận lìa khỏi các trưởng lão.
\v 27 Vua sẽ than vãn và quan trưởng sẽ mặc lấy sự thất vọng, trong khi tay của dân sự trong đất đều run rẩy lo sợ. Tuỳ theo các đường lối riêng của chúng, Ta sẽ đãi chúng nó y như thế! Và ta sẽ xét đoán chúng với các tiêu chuẩn riêng của chúng cho đến khi chúng nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\c 8
\cl
\p
\v 1 Năm thứ sáu và tháng thứ sáu, nhằm ngày mùng năm của tháng, khi ta đang ngồi trong nhà, và các trưởng lão Giu-đa ngồi trước mặt ta, thì tay Chúa Giê-hô-va một lần nữa giáng trên ta ở đó.
\v 2 Vậy, ta thấy, và kìa, có một hình trạng giống như một người, với hình trạng giống như lửa từ hông người trở xuống! Và từ hai bên hông người trở lên thì như hình trạng sáng chói giống như kim loại sáng láng!
\s5
\v 3 Và người ấy giơ ra như hình bàn tay rồi nắm lấy ta bởi tóc trên đầu ta; Thần cất ta lên giữa đất và trời, trong các sự hiện thấy từ Đức Chúa Trời, người đem ta đến thành Giê-ru-sa-lem, nơi lối vào cổng trong phía bắc, ở đó hình tượng kích thích sự ghen tương đang đứng.
\v 4 Và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, dáng dấp người y như ta đã thấy ở ngoài đồng, đứng ở đó.
\s5
\p
\v 5 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy ngước mắt về phía bắc.” Vậy, ta ngước mắt về phía bắc, và về phía bắc cổng dẫn đến bàn thờ, ở đó tại lối vào, là hình tượng của sự ghen tương.
\p
\v 6 Vậy Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi thấy mọi việc họ đang làm không? Đây là những sự gớm ghiếc lớn mà nhà Y-sơ-ra-ên đang làm ở đây để khiến cho ta đi xa khỏi nơi thánh ta! Nhưng ngươi sẽ còn thấy nhiều sự gớm ghiếc lớn khác nữa!”
\s5
\p
\v 7 Khi ấy, Ngài đưa ta đến lối vào hành lang, và ta nhìn xem, có một cái lỗ trên tường.
\v 8 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy xoi chỗ tường ấy.” Vậy, ta xoi chỗ tường ấy, và ở đó có một cánh cửa!
\p
\v 9 Thế rồi Ngài phán cùng ta: “Hãy đi và xem những sự gian ác gớm ghiếc mà chúng nó đang làm ở đây.”
\s5
\v 10 Vậy, ta bước vào rồi xem thấy, và kìa! Có từng hình tượng côn trùng và thú vật gớm ghiếc! Từng hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên đã khắc ở chung quanh tường.
\v 11 Bảy mươi trưởng lão của nhà Y-sơ-ra-ên có mặt ở đó, và Gia-a-xa-nia, con trai Sa-phan, đang đứng ở giữa họ. Họ đang đứng trước các hình tượng, và từng người có lư hương trên tay, mùi hương rất thơm bay lên.
\s5
\p
\v 12 Khi ấy Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi thấy những điều các trưởng lão nhà Y-sơ-ra-ên đang làm trong nơi tối tăm không? Mỗi người làm việc nầy trong các gian phòng kín với hình tượng mình, vì chúng nói: Đức Giê-hô-va không thấy chúng ta đâu! Đức Giê-hô-va đã lìa bỏ đất nầy!’”
\v 13 Và Ngài phán cùng ta: “Hãy xây lại rồi thấy những sự gớm ghiếc lớn khác nữa mà chúng nó đang làm!”
\s5
\p
\v 14 Kế đó, Ngài đưa ta đến lối vào cổng nhà Đức Giê-hô-va nằm ở phía bắc, và kìa! Những phụ nữ đang ngồi ở đó than khóc Tham-mu.
\v 15 Vậy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy việc nầy? Hãy xây qua một lần nữa thì ngươi sẽ thấy nhiều sự gớm ghiếc lớn hơn các việc nầy nữa!”
\s5
\p
\v 16 Và Ngài đưa ta vào hành lang trong của nhà Đức Giê-hô-va, và kìa! Ở lối vào đền thờ Đức Giê-hô-va, giữa hiên cửa và bàn thờ, đã có hai mươi lăm người xây lưng về phía đền thờ Đức Giê-hô-va và mặt họ hướng về phía đông, và họ đang thờ lạy Sê-mét, tức thần Mặt Trời.
\s5
\p
\v 17 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy điều nầy? Có phải đây là việc nhỏ đối với nhà Giu-đa khi thực hiện những sự gớm ghiếc mà họ đang làm ở đây? Vì họ đã làm đầy dẫy đất với bạo lực, và xây lại chọc giận ta, họ lấy các nhánh cây đưa lên mũi mình.
\v 18 Vậy, ta cũng sẽ làm giữa vòng họ; mắt ta chẳng thương xót chút nào, và ta không buông tha họ đâu. Dầu họ kêu la om sòm nơi tai ta, ta chẳng thèm nghe họ nữa.”
\s5
\c 9
\cl
\p
\v 1 Thế rồi, khi ta lắng nghe, Ngài kêu lớn tiếng: “Hãy để cho những người lính đứng canh thành phố, mỗi người với khí giới mình trong tay.”
\v 2 Và kìa! Có sáu người đến từ cửa thượng đối diện phía bắc, mỗi người với vũ khí trong tay. Và có một người giữa vòng họ mặc vải gai với dụng cụ của văn sĩ ở bên hông. Thế là sáu người bước vào trong, đứng bên bàn thờ bằng đồng.
\s5
\p
\v 3 Khi ấy sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên dấy lên từ chê-ru-bim, nó thường ở đó, cho đến ngạch cửa nhà. Và Ngài gọi người mặc vải gai, có dụng cụ của văn sĩ ở bên hông.
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng người: “Hãy đi qua giữa thành — giữa thành Giê-ru-sa-lem — đánh dấu trên trán những người nào than thở khóc lóc về mọi sự gớm ghiếc đã được làm ra ở giữa thành nầy.”
\s5
\p
\v 5 Khi ấy, Ngài phán cùng những người kia khi tôi đang lắng nghe: “Hãy đi qua thành phố, theo sau người kia rối hãy giết đi! Đừng để mắt ngươi có chút thương xót nào, và đừng buông tha
\v 6 người già, kẻ trẻ, gái đồng trinh, trẻ nhỏ hay đàn bà. Hãy giết đi hết thảy! Nhưng chớ lại gần kẻ nào có dấu ghi trên trán. Hãy khởi sự từ nơi thánh của ta!” Thế là họ khởi sự với các người già cả ở trước ngôi nhà.
\s5
\p
\v 7 Ngài phán cùng họ: “Hãy làm cho ngôi nhà ra ô uế, và làm cho các hành lang đầy những xác chết! Hãy làm đi! Thế là họ tiếp tục đi ra tấn công thành phố.
\v 8 Rồi khi họ tấn công nó, ta thấy ta có một mình và ta sấp mặt xuống đất, kêu la như sau: “Ôi, hỡi Chúa Giê-hô-va! Liệu Ngài sẽ hủy diệt dân sót của Y-sơ-ra-ên khi đổ ra cơn giận Ngài trên thành Giê-ru-sa-lem sao?
\s5
\p
\v 9 Ngài phán cùng tôi: “Sự gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa cực kỳ lớn. Đất đầy những máu và trong thành đầy sự trái ngược, một khi họ nói: Đức Giê-hô-va đã lìa bỏ đất nầy, và Đức Giê-hô-va chẳng thấy chi hết.
\v 10 Vì thế, mắt ta sẽ chẳng nhìn với sự thương xót, và ta không buông tha chúng. Thay vì thế, ta sẽ khiến hết thảy mọi sự đổ lại trên đầu chúng nó.”
\p
\v 11 Và kìa! Người mặc áo vải gai, là người có dụng cụ của văn sĩ ở bên hông trở lại. Người tường trình như sau: “Tôi đã làm mọi sự mà Ngài đã căn dặn.”
\s5
\c 10
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, ta nhìn xem mái vòm trên đầu của chê-ru-bim; một thứ xuất hiện bên trên chúng giống như đá bích ngọc, có hình trạng như cái ngai.
\v 2 Và Đức Giê-hô-va phán cùng người mặc vải gai như sau: “Hãy vào giữa mấy cái bánh xe, bên dưới chê-ru-bim, lấy đầy hai bàn tay ngươi những than lửa từ giữ chê-ru-bim rồi rải chúng ra trên thành.” Thế rồi người ấy bước vào khi ta đang quan sát.
\s5
\p
\v 3 Chê-ru-bim đứng bên phải ngôi nhà khi người ấy bước vào, và một đám mây đầy dẫy hành lang trong.
\v 4 Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ chê-ru-bim rồi đứng trên ngạch cửa nhà; sự vinh hiển ấy đầy dẫy ngôi nhà với đám mây, và hành lang loé sáng sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va.
\v 5 Khi ấy, tôi nghe thấy tiếng của các cặp cánh chê-ru-bim nơi hành lang ngoài, giống như tiếng của Đức Chúa Trời Toàn Năng khi Ngài phán.
\s5
\p
\v 6 Khi Đức Giê-hô-va truyền cho người mặc vải gai như sau: “Hãy lấy lửa từ giữa mấy cái bánh xe ở giữa các chê-ru-bim”, thì người ấy bước vào và đứng bên một bánh xe.
\v 7 Một chê-ru-bim chìa tay ra giữa các chê-ru-bim vói lấy lửa có ở giữa các chê-ru-bim, nhấc tay lên rồi đặt vào tay của người mặc vải gai. Người nầy tiếp lấy rồi lui ra.
\v 8 Tôi thấy nơi chê-ru-bim một thứ giống như bàn tay người ta ở dưới cánh của chúng.
\s5
\p
\v 9 Vậy, ta nhìn xem, thì kìa! Bốn cái bánh xe bên cạnh các chê-ru-bim — một bánh xe bên một chê-ru-bim — và bề ngoài mấy cái bánh xe giống như bích ngọc.
\v 10 Chúng xuất hiện y như hình trạng bốn cái bánh xe ấy, bốn cái có đồng một hình như bánh xe nầy ở trong bánh xe kia.
\v 11 Khi chúng nó di chuyển, chúng đi theo bất kỳ hướng nào; chúng không xây lại khi chúng di chuyển đến chỗ mà cái đầu hướng tới. Khi đi chúng chẳng xây lại.
\s5
\v 12 Toàn thân của chúng — gồm lưng, tay, cánh của chúng — bao phủ đầy những mắt, và những con mắt cũng bao phủ quanh bốn cái bánh xe nữa.
\v 13 Như ta lắng nghe, mấy cái bánh xe được gọi: “Hãy lao tới đi.”
\v 14 Các chê-ru-bim có bốn mặt: mặt thứ nhất là mặt chê-ru-bim, mặt thứ nhì là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử; mặt thứ tư là mặt chim ưng.
\s5
\p
\v 15 Khi ấy chê-ru-bim — đây là những tạo vật sống mà ta đã thấy bên bờ sống Kê-ba — dấy lên.
\v 16 Bất cứ khi nào chê-ru-bim di chuyển, mấy cái bánh xe sẽ đi kề với chúng; và bất cứ khi nào chê-ru-bim giương cánh ra để cất lên khỏi đất, mấy cái bánh xe không xây trở. Chúng vẫn ở bên cạnh chê-ru-bim.
\v 17 Khi các chê-ru-bim đứng yên, các bánh xe đứng yên, và khi chúng cất lên, mấy cái bánh xe cùng cất lên với chúng, vì thần của tạo vật sống ấy có ở trong các bánh xe.
\s5
\p
\v 18 Khi ấy sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va ra khỏi ngạch cửa nhà và đứng trên các chê-ru-bim.
\v 19 Các chê-ru-bim giương cánh cất lên khỏi đất trước mắt ta khi chúng đi ra, mấy cái bánh xe cũng làm y như thế bên cạnh chúng. Chúng đứng ở lối vào phía đông nhà Đức Giê-hô-va, và sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên giáng trên chúng từ trên cao.
\s5
\p
\v 20 Đây là các tạo vật sống mà ta đã thấy dưới quyền Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bên bờ sông Kê-ba, và ta biết chúng là chê-ru-bim!
\v 21 Chúng có bốn mặt và bốn cánh mỗi chê-ru-bim, và có hình bàn tay người ở dưới cánh của chúng;
\v 22 và hình trạng của mặt chúng thì giống như những cái mặt mà ta đã thấy trong sự hiện thấy bên bờ sông Kê-ba, và mỗi một cái mặt đều hướng tới đàng trước.
\s5
\c 11
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, Thần cất ta lên và đưa ta đến cổng phía đông nhà Đức Giê-hô-va, đối diện phía đông; và kìa! Nơi lối vào cửa có hai mươi lăm người. Ta thấy Gia-a-xa-nia con trai A-xua, và Phê-la-tia con trai Bê-na-gia, giữa vòng các cấp lãnh đạo dân sự.
\s5
\v 2 Thần phán cùng ta: “Hỡi con người, đây là những người mưu tính sự gian ác, và họ quyết những điều gian trá trong thành nầy.
\v 3 Chúng nói rằng: “Thì giờ xây nhà cửa không phải là lúc nầy; thành nầy là nồi, và chúng ta là thịt.”
\v 4 Vậy nên, hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng nó. Hỡi con người, hãy nói tiên tri đi!”
\s5
\p
\v 5 Lúc đó Thần của Đức Giê-hô-va giáng trên ta và Ngài phán cùng ta: “Hãy nói đi: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên; y như các ngươi nói; vì ta biết những điều có trong lý trí các ngươi.
\v 6 Các ngươi đã giết rất nhiều người trong thành nầy, và làm cho các đường phố nó đầy xác chết.
\p
\v 7 Cho nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Những kẻ các ngươi đã giết, thi thể họ các ngươi để ở giữa thành Giê-ru-sa-lem, ấy là thịt, và thành nầy là nồi. Nhưng các ngươi sẽ bị đem ra khỏi giữa thành ấy.
\s5
\v 8 Các ngươi sợ gươm, vì thế ta sẽ khiến gươm đến trên các ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 9 Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa thành nầy, và sẽ phó các ngươi trong tay các dân ngoại, vì ta sẽ đem sự phán xét nghịch cùng các ngươi.
\v 10 Các ngươi sẽ ngã bởi gươm. Ta sẽ xét đoán các ngươi bên trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên để các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Thành nầy sẽ chẳng phải là nồi nấu nướng của các ngươi, các ngươi cũng sẽ chẳng phải là thịt ở giữa nó. Ta sẽ xét đoán các ngươi bên trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên.
\v 12 Khi ấy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, các ngươi đã không bước theo luật lệ ta và không giữ theo các mạng lịnh ta. Thay vì thế, các ngươi đã làm theo mạng lịnh của các nước chung quanh mình.”
\s5
\p
\v 13 Và khi ta nói tiên tri, thì Phê-la-tia, con trai Bê-na-gia, ngã chết. Vậy, ta bèn sấp mặt xuống đất và kêu lên lớn tiếng rằng: “Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Liệu Ngài sẽ tiêu diệt hoàn toàn số dân sót của Y-sơ-ra-ên sao?
\s5
\p
\v 14 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta như vầy:
\v 15 Hỡi con người, anh em ngươi! Các anh em ngươi! Những người bà con của ngươi và cả nhà Y-sơ-ra-ên! Hãy nói với hết thảy họ, những người sống trong thành Giê-ru-sa-lem: Họ đã lìa xa Đức Giê-hô-va! Đất nầy đã được ban cho chúng ta làm cơ nghiệp của chúng ta.
\s5
\p
\v 16 Vậy nên, hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: mặc dù ta dời chúng xa khỏi trong các nước, và dù ta tan rải chúng nó giữa nhiều xứ, ta là nơi thánh cho chúng nó trong một thời gian ngắn ở những xứ mà chúng nó đi đến.
\p
\v 17 Vậy nên, hãy nói: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ giữa các dân, và thâu lấy các ngươi từ những nước mà các ngươi đã bị tan rải, và ta sẽ ban cho các ngươi đất Y-sơ-ra-ên.
\p
\v 18 Khi ấy, chúng nó sẽ đi đến đó và sẽ trừ bỏ mọi vật đáng ghét và mọi sự gớm ghiếc ra khỏi chỗ đó.
\s5
\v 19 Và ta sẽ ban cho chúng nó một tấm lòng, và ta đặt thần mới trong chúng khi chúng đến gần ta; ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi xác thịt chúng nó, và ban cho chúng tấm lòng bằng thịt,
\v 20 hầu cho chúng nó sẽ bước theo luật lệ ta, chúng sẽ giữ theo các mạng lịnh ta và làm theo. Khi ấy chúng sẽ làm dân sự ta, và ta là Đức Chúa Trời của chúng nó.
\v 21 Nhưng đối với những kẻ bước theo sự ham mê của vật đáng ghét và những sự gớm ghiếc của chúng, ta sẽ làm cho cách ăn ở chúng nó giáng trên đầu chúng nó. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\p
\v 22 Bấy giờ, chê-ru-bim giương cánh cất lên và mấy cái bánh xe ở bên cạnh chúng, và sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cũng cất lên bên trên chúng nó.
\v 23 Và sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ giữa thành và đứng trên núi về phía đông của thành.
\s5
\v 24 Và Thần cất ta lên và đưa ta vào trong xứ Canh-đê, đến với những kẻ phu tù, trong sự hiện thấy từ Thần của Đức Chúa Trời. Và sự hiện thấy mà ta đã thấy cất lên ở bên trên ta.
\v 25 Khi ấy ta công bố cho những kẻ phu tù biết mọi sự của Đức Giê-hô-va mà ta đã thấy.
\s5
\c 12
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, ngươi sống ở giữa nhà loạn nghịch, ở đó chúng nó có mắt để thấy mà chúng không thấy; và có tai để nghe song chẳng nghe, vì chúng là nhà loạn nghịch!
\s5
\p
\v 3 Vậy, về ngươi, hỡi con người; hãy sửa soạn đồ đạc đi làm phu tù, rồi khởi dời đi giữa ban ngày trước mắt chúng, vì ta sẽ đày ngươi trước mắt chúng nó từ chỗ nầy sang chỗ kia. Có lẽ chúng sẽ khởi sự nhìn thấy, mặc dầu chúng là nhà loạn nghịch.
\s5
\v 4 Và ngươi sẽ đem theo đồ đạc để đi đày lúc ban ngày, trước mắt chúng nó; hãy đi ra lúc chiều trước mắt chúng nó theo cách kẻ bị đi đày.
\v 5 Hãy đục một cái lỗ qua tường trước mắt chúng nó, rồi đi ra qua ngõ đó.
\v 6 Trước mắt chúng nó, hãy vác đồ đạc ngươi lên vai, rồi đem chúng đi lúc trời tối. Hãy che mặt ngươi lại, vì ngươi không nhìn thấy đất, một khi ta đã đặt ngươi làm một dấu cho nhà Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\p
\v 7 Vậy ta làm theo điều nầy, y như ta đã được căn dặn. Ta mang đồ đạc đi đày lúc ban ngày, và đến chiều bằng tay của mình, ta đục một cái lỗ qua tường. Lúc trời tối, ta vác đồ đạc mình đi, nhấc chúng lên vai trước mắt chúng nó.
\s5
\p
\v 8 Khi sớm mai, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 9 “Hỡi con người, có phải nhà Y-sơ-ra-ên, là nhà loạn nghịch ấy, hỏi ngươi rằng: Ngươi làm gì vậy?
\p
\v 10 Hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: hành động nầy mang tính tiên tri liên quan đến nhà vua trong Giê-ru-sa-lem, và cả nhà Y-sơ-ra-ên ở giữa đó.
\s5
\v 11 Hãy nói: Ta là dấu cho các ngươi. Như ta đã làm, cũng vậy điều đó sẽ thực hiện cho họ; họ sẽ đi đày, và bước vào cuộc phu tù.
\v 12 Nhà vua có mặt giữa chúng nó sẽ vác đồ đạt trên vai mình mà đi ra trong lúc trời tối, và chúng nó đi ngang qua bức tường. Họ sẽ đục lỗ qua bức tường rồi đem đồ đạc của họ ra. Người sẽ che mặt lại, vì mắt người sẽ không còn nhìn thấy đất nầy nữa.
\v 13 Ta cũng sẽ trải lưới ta trên người và người sẽ mắc vào bẫy ta; khi ấy ta sẽ đưa người qua Ba-by-lôn, là đất của người Canh-đê, nhưng người sẽ không nhìn thấy đất ấy. Người sẽ chết ở đó.
\s5
\v 14 Ta cũng tan rải theo mọi hướng hết thảy những kẻ ở quanh người, họ cần phải trợ giúp người và toàn thể quân đội người, ta sẽ sai gươm theo sau chúng.
\p
\v 15 Khi ấy, chúng sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, lúc ta tan rải chúng giữa các dân và phân tán chúng khắp các xứ.
\v 16 Nhưng ta sẽ buông tha một ít người từ giữa vòng chúng thoát khỏi gươm dao, đói kém, dịch lệ, hầu cho chúng có thể ghi lại mọi sự gớm ghiếc của chúng trong các xứ mà ta đưa chúng nó đến, để chúng sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!”
\s5
\p
\v 17 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta như vầy:
\v 18 “Hỡi con người, hãy ăn bánh với sự run rẩy, và uống nước với sự lay động và lo lắng.
\s5
\v 19 Khi ấy, hãy nói với dân trong đất rằng: Đức Giê-hô-va phán về dân cư Giê-ru-sa-lem, và đất của Y-sơ-ra-ên: Chúng nó sẽ ăn bánh với sự run rẩy, và uống nước trong sự lay động, một khi đất nầy bị hoang vu lên tới mức đầy trọn của nó vì cớ sự cường bạo của hết thảy những kẻ sống ở đó.
\v 20 Các thành đông dân sẽ trở nên hoang vu, và đất sẽ trống trơn; để các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 21 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 22 “Hỡi con người, câu châm ngôn mà các ngươi có trong xứ của Y-sơ-ra-ên có nghĩa gì khi nói: Thời thế kéo dài, mọi sự hiện thấy chẳng ứng nghiệm?
\v 23 Vì lẽ đó, hãy nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đặt dấu chấm hết cho câu châm ngôn nầy để dân Y-sơ-ra-ên không còn dùng đến nó nữa. Khi ấy, hãy nói cùng chúng rằng: Thời thế sắp đến, và từng sự hiện thấy sẽ ứng nghiệm.
\s5
\v 24 Vì sẽ chẳng còn có một sự hiện thấy giả dối nào hoặc một sự bói khoa nào đáng ưa trong nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 25 Vì ta là Đức Giê-hô-va! Ta phán, và cưu mang lời mà ta đã phán. Sự việc không còn chậm trễ nữa. Vì ta sẽ phán lời nầy trong thời buổi của các ngươi, hỡi nhà loạn nghịch, và ta sẽ làm thành nó — Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\p
\v 26 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 27 “Hỡi con người, kìa! Nhà Y-sơ-ra-ên đã nói: Sự hiện thấy mà người nầy thấy tính từ bây giờ trở đi, và người nói tiên tri về thời kỳ còn xa lắm.
\p
\v 28 Vì lẽ đó, hãy nói với chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Lời của ta sẽ chẳng còn trì trệ nữa, nhưng lời mà ta đã phán sẽ được làm thành — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va."
\s5
\c 13
\cl
\p
\v 1 Một lần nữa, lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng như vầy:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng các tiên tri đang nói tiên tri trong Y-sơ-ra-ên, và hãy nói với những kẻ nói tiên tri theo chính lý trí của họ: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 3 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho các tiên tri ngu ngốc theo thần riêng mình, mà chưa từng thấy ai cả!
\v 4 Hỡi Y-sơ-ra-ên, các tiên tri của ngươi là loài cáo sống trong chốn hoang vu.
\s5
\v 5 Các ngươi chưa lên nơi đổ vỡ trên bức tường chung quanh nhà Y-sơ-ra-ên để tu sửa nó, để chống đỡ trong ngày chiến trận của Đức Giê-hô-va.
\v 6 Dân sự có những sự hiện thấy giả dối và những lời tiên đoán phỉnh phờ, những kẻ nào nói: “Đấy là lời công bố của Đức Giê-hô-va.” Nhưng Đức Giê-hô-va đã không sai chúng nó, tuy nhiên chúng nó đã làm cho dân sự hy vọng sứ điệp của chúng sẽ là đúng.
\v 7 Các ngươi không nên có những sự hiện thấy giả dối và đừng đưa ra những lời tiên đoán phỉnh phờ, người nào trong các ngươi nói: “Đấy là lời công bố của Đức Giê-hô-va” khi chính ta đâu đã phán như thế bao giờ.
\s5
\p
\v 8 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì các ngươi có những sự hiện thấy giả dối, và đã nói ra những lời dối trá — vì lẽ ấy đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va nghịch cùng các ngươi:
\v 9 Tay ta sẽ nghịch cùng các tiên tri nào có những sự hiện thấy giả dối và đưa ra các lời tiên đoán phỉnh phờ. Chúng nó sẽ không được ở trong hội chúng của dân ta nữa, hoặc không được ghi vào sổ trong nhà Y-sơ-ra-ên nữa; họ không được vào trong đất của Y-sơ-ra-ên. Để các ngươi sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 10 Vì cớ điều nầy, và vì chúng nó dẫn dân ta đi sai lạc, chúng nói: “Bình an” khi chẳng có bình an chi hết, chúng đang xây bức tường mà chúng sẽ tô lên với vôi trắng.
\v 11 Hãy nói với kẻ nào đang tô vôi trắng lên tường, Tường ấy sẽ sụp đổ; sẽ có mưa to đổ xuống, và ta sẽ sai mưa đá đến để làm cho tường phải sụp xuống, và gió bão sẽ đánh sập nó.
\v 12 Hãy xem, bức tường sẽ sụp xuống. Phải chăng nhiều người khác chẳng nói cùng ngươi rằng: “Lớp vôi trắng mà các ngươi đã tô lên tường giờ ở đâu?”’
\s5
\p
\v 13 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến gió bão đến đương cơn giận ta, và sẽ có lũ lụt đến theo mưa trong sự thạnh nộ ta! Trong cơn giận phừng ta, mưa đá sẽ huỷ diệt nó hoàn toàn!
\v 14 Vì ta sẽ làm sụp bức tường mà các ngươi đã tô vôi lên đó, và ta diệt nó sát đất và làm cho các nền nó bày ra trơ trụi. Vậy, tường sẽ sụp xuống, và các ngươi sẽ bị diệt hết thảy ở giữa nó. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 15 Vì ta sẽ huỷ diệt bức tường đương cơn giận và kẻ nào tô vôi lên đó. Ta sẽ nói với ngươi rằng: “Tường chẳng còn nữa, kẻ tô vôi cũng vậy —
\v 16 tức là các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, những ai nói tiên tri về Giê-ru-sa-lem và kẻ nào có những sự hiện thấy về bình an cho thành ấy. Nhưng chẳng có bình an chi hết — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”’
\s5
\p
\v 17 Vậy, hỡi con người, hãy hướng mặt nghịch cùng con gái của dân sự ngươi, kẻ nào nói tiên tri theo ý riêng mình, và hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng.
\v 18 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những phụ nữ nào thêu thứ bùa mê đeo trên đầu của họ và may voan đeo trên đầu dù là kích cỡ nào, dùng để săn linh hồn. Lẽ nào các ngươi săn dân ta rồi cứu lấy chính mạng sống các ngươi sao?
\s5
\v 19 Các ngươi báng bổ ta giữa vòng dân sự ta vì mấy nắm mạch nha, mấy miếng bánh vụn, để giết những người nào sẽ không đáng chết, và để bảo tồn sinh mạng của những kẻ không đáng sống, vì cớ lời lẽ dối trá của các ngươi nói cùng dân sự ta, những người đã nghe các ngươi nói.
\s5
\p
\v 20 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng các thứ bùa thêu mà các ngươi dùng để gài bẫy sinh mạng dân sự giống như thể họ là loài chim vậy. Thực vậy, ta sẽ tước chúng ra khỏi cánh tay các ngươi; và những ai các ngươi đã bẫy họ giống như các loài chim — ta sẽ thả họ đi.
\v 21 Ta cũng sẽ xé khăn voan các ngươi rồi giải cứu dân ta ra khỏi tay các ngươi, để chúng nó sẽ không bị bẫy trong tay các ngươi nữa. Và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 22 Vì các ngươi làm nãn lòng người công bình với lời lẽ dối trá, mặc dù ta không muốn họ phải ngã lòng, và vì các ngươi khích lệ thay vì hành động với kẻ dữ hầu cho nó không xây bỏ đường xấu mình để cứu lấy mạng sống của nó —
\v 23 vì cớ đó, các ngươi sẽ không còn có những sự hiện thấy giả dối, hay đưa ra những lời tiên đoán phỉnh phờ nữa, vì ta sẽ cứu dân ta ra khỏi tay các ngươi. Và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.”’
\s5
\c 14
\cl
\p
\v 1 Một vài trưởng lão kia của Y-sơ-ra-ên đến cùng ta, ngồi trước mặt ta.
\v 2 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta như vầy:
\v 3 “Hỡi con người, những kẻ nầy mang thần tượng mình ở trong lòng họ và đặt trước mặt mình hòn đá vấp chơn tội lỗi của họ. Lẽ nào ta để cho chúng nó cầu hỏi ta một chút gì sao?
\s5
\v 4 Vì lẽ đó, hãy loan báo điều nầy cho họ, hãy nói cùng chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hễ người nào trong nhà Y-sơ-ra-ên mang thần tượng mình trong lòng, hay kẻ nào đặt vầng đá vấp chơn tội lỗi mình trước mặt mình, và người ấy đến cùng nhà tiên tri — thì ta, Đức Giê-hô-va sẽ trả lời cho nó tuỳ theo số thần tượng đông nhiều của nó.
\v 5 Ta sẽ làm như vậy hầu cho ta bắt được nhà Y-sơ-ra-ên từ trong tấm lòng của họ vì đã xa lánh ta qua các hình tượng của chúng nó.
\s5
\p
\v 6 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy ăn năn và xây khỏi hình tượng của các ngươi! Hãy xây mặt các ngươi khỏi mọi sự gớm ghiếc của các ngươi!
\s5
\p
\v 7 Vì mỗi người từ nhà Y-sơ-ra-ên và từng khách lạ trú ngụ trong Y-sơ-ra-ên, họ lìa bỏ ta, họ mang thần tượng mình ở trong lòng và đặt vầng đá vấp phạm tội lỗi mình trước mặt mình, và ai đến cùng nhà tiên tri để tìm kiếm ta — Ta, Đức Giê-hô-va, chính ta sẽ trả lời cho nó.
\v 8 Vậy, ta sẽ sấp mặt lại nghịch cùng người ấy, khiến người thành một dấu và một câu châm ngôn, vì ta sẽ dứt bỏ người ấy khỏi giữa dân ta; và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 9 Nếu một tiên tri bị gạt mà thốt ra sứ điệp, khi ấy ta, Đức Giê-hô-va, sẽ dối gạt tiên tri ấy; ta sẽ chìa tay ra nghịch cùng người ấy và diệt nó khỏi giữa dân Y-sơ-ra-ên ta.
\v 10 Và họ sẽ mang lấy tội lỗi của chính họ; tội lỗi của vị tiên tri sẽ y như tội lỗi của kẻ cầu hỏi từ nơi người.
\v 11 Vì cớ điều nầy, nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng còn xa lánh mà không theo ta nữa, chúng cũng không làm ô uế mình nữa bởi các vi phạm của chúng. Chúng nó sẽ là dân ta, và ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\p
\v 12 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 13 “Hỡi con người, khi một đất phạm tội nghịch cùng ta đến nỗi ta chìa tay ra nghịch cùng nó và bẻ gãy gậy bánh của nó, giáng cho nó sự đói kém và dứt bỏ cả người và thú vật ra khỏi xứ;
\v 14 khi ấy, dầu có ba người nầy —Nô-ê, Đa-ni-ên, và Gióp — có mặt ở trong xứ, họ cũng chỉ cứu được mạng sống mình bởi sự công bình mình — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 15 Nếu ta sai loài thú dữ trải qua trong đất và khiến nó ra hoang vu hầu cho nó trơ trọi chẳng ai đi qua nữa vì cớ loài thú ấy,
\v 16 thì dẫu trong xứ có ba người đó — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ không cứu được con trai con gái ruột của mình; chỉ mạng sống họ được cứu, nhưng đất sẽ ra hoang vu!
\s5
\p
\v 17 Hoặc nếu ta sai gươm dao nghịch cùng xứ ấy, hãy nói: Hỡi gươm dao, hãy trải qua đất và dứt bỏ hết cả người và thú vật ra khỏi nó
\v 18 thì dẫu trong đất có ba người đó — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ chẳng cứu được thậm chí con trai con gái ruột của mình; chỉ mạng sống của chính họ mới được cứu mà thôi.
\s5
\p
\v 19 Hoặc nếu ta sai ôn dịch đến trong xứ ấy và đổ cơn giận ta ra nghịch cùng nó qua việc làm đổ huyết, để dứt bỏ hết người và vật,
\v 20 thì dẫu có Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp trong xứ — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ chẳng cứu được con trai con gái ruột của mình, chỉ mạng sống của chính họ được cứu bởi sự công bình của họ mà thôi.
\s5
\p
\v 21 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chắc chắn ta sẽ làm cho mọi việc ra tồi tệ bằng cách sai đến bốn sự sửa phạt —gươm dao, đói kém, thú dữ, và ôn dịch — nghịch cùng Giê-ru-sa-lem để dứt bỏ khỏi nó người và thú vật.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, kìa! Một số dân sót sẽ được chừa lại trong nó, những kẻ sống sót nào sẽ đi ra với con trai con gái. Kìa! Chúng sẽ đi ra đến cùng ngươi, và ngươi sẽ thấy đường lối cùng các việc làm của chúng nó thì sẽ thấy yên ủi về sự sửa phạt mà ta đã giáng trên Giê-ru-sa-lem, và về mọi sự khác mà ta đã sai đến nghịch cùng xứ.
\v 23 Những kẻ sống sót sẽ yên ủi ngươi khi ngươi nhìn thấy đường lối và việc làm chúng nó, thì ngươi sẽ nhìn biết mọi sự nầy ta đã làm nghịch cùng nó, ta đã làm ra chúng chẳng phải là vô ích đâu — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\c 15
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, có lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta rằng:
\v 2 “Hỡi con người, cây nho so với bất kỳ cây nào khác, với nhiều nhánh ở giữa các cây rừng, thì tốt hơn ở chỗ nào?
\v 3 Có phải người ta lấy gỗ từ cây nho để tạo ra cái gì chứ? Hoặc có phải họ dùng nó làm đinh để treo vật gì được chăng?
\v 4 Hãy xem đi! Nếu nó bị ném vào lửa để làm củi, và nếu lửa đã thiêu hai đầu của nó và luôn khúc giữa, nó có còn tốt để tạo ra thứ gì khác được chăng?
\s5
\v 5 Hãy xem đi! Khi nó còn nguyên, chẳng dùng nó để tạo ra thứ chi được; chắc chắn là khi lửa đã thiêu đốt rồi, khi ấy nó chẳng còn dùng để tạo ra thứ chi có ích được nữa!
\p
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Không giống như cây cối ở trong rừng, ta đã ban cây nho cho lửa làm củi; ta sẽ làm một thể ấy cho dân cư Giê-ru-sa-lem
\s5
\v 7 Vì ta sẽ để mặt ta nghịch cùng chúng nó. Dù chúng nó sẽ ra khỏi lửa, nhưng lửa sẽ thiêu đốt chúng nó; vì vậy ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta để mặt nghịch cùng chúng nó.
\v 8 Khi ấy ta sẽ biến đất nầy thành xứ hoang bỏ đi vì chúng nó đã phạm tội — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\c 16
\cl
\p
\v 1 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy báo cho Giê-ru-sa-lem biết về mọi sự gớm ghiếc của nó,
\v 3 và hãy công bố: Chúa Giê-hô-va phán điều nầy cùng Giê-ru-sa-lem: Khởi đầu và sự sanh ra của ngươi diễn ra trong xứ Ca-na-an; cha ngươi là một người A-mô-rít, còn mẹ ngươi là người Hê-tít.
\s5
\v 4 Vào ngày ngươi ra đời, mẹ ngươi không cắt rốn ngươi, cũng không rửa ngươi trong nước hoặc xát ngươi bằng muối, hay chưa quấn tả quanh ngươi.
\v 5 Chẳng có mắt nào thương xót ngươi đặng làm một việc nào trong các việc đó cho ngươi vì lòng thương xót ngươi! Vào ngày ngươi chào đời, với sự gớm ghiếc dành cho đời sống ngươi, ngươi bị quăng ra giữa đồng trống.
\s5
\p
\v 6 Nhưng ta đi ngang qua ngươi, và ta thấy ngươi quằn quại trong chính máu mình, vậy ta phán cùng ngươi trong huyết ngươi: “Hãy sống!”
\v 7 Ta khiến ngươi lớn lên giống như một cây mọc trong đồng ruộng. Ngươi nẩy nở, lớn lên, và ngươi trở nên một món trang sức đẹp đẽ lắm. Ngực ngươi dậy lên và tóc ngươi dài ra, dầu ngươi bị trần truồng và ở lỗ.
\s5
\p
\v 8 Ta đi ngang qua ngươi một lần nữa, ta nhìn thấy ngươi và hãy xem đi! Thì yêu đương đã đến với ngươi, vậy ta trải áo xống ta lên trên ngươi và che sự trần truồng ngươi. Khi ấy, ta đã thề cùng ngươi và đưa ngươi vào một giao ước — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và ngươi thuộc về ta.
\s5
\p
\v 9 Vậy, ta dùng nước rửa ngươi và làm cho sạch máu vấy mình ngươi, rồi ta xức dầu cho ngươi.
\v 10 Ta mặc áo thêu cho ngươi và xỏ giày da vào chơn ngươi; ta quấn ngươi bằng vải gai mịn và che ngươi bằng lụa là.
\v 11 Kế đó, ta điểm trang ngươi bằng đồ trang sức và ta xỏ vòng vào tay, rồi mang kiềng vào cổ ngươi.
\v 12 Ta tra khoen nơi mũi rồi đeo hoa vào tai, và đội vương miện đẹp lên đầu ngươi.
\s5
\v 13 Vậy, ngươi được điểm trang với vàng và bạc, và ngươi mặc lấy vải gai mịn, vải lụa, và áo quần có thêu thùa; ngươi ăn thứ bột hạng nhất, mật ong và dầu rồi ngươi trở nên cực kỳ xinh đẹp, và ngươi đã trở thành một quận chúa.
\v 14 Danh tiếng ngươi nổi lên giữa các nước vì cớ sự đẹp đẽ ngươi, vì sự đẹp ấy là hoàn hảo với sự oai nghi mà ta đã ban cho ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 15 Nhưng ngươi tin tưởng nơi chính sắc đẹp mình, và ngươi đã hành động giống như ả điếm vì cớ tiếng tăm ngươi; ngươi tỏ ra các hành động đĩ điếm trên người nào đi ngang qua. Ngươi trở thành tài sản của những kẻ ấy!
\v 16 Khi ấy ngươi lấy quần áo mình rồi ngươi đến với họ ở các chùa miễu được trang hoàng với đủ loại màu sắc, và ngươi đã hành xử như ả điếm với họ. Đây là những điều không nên có! Điều ấy chẳng nên có!
\s5
\v 17 Ngươi đã lấy những đồ trang sức trọng thể bằng vàng và bạc mà ta đã ban cho ngươi, và ngươi làm cho mình các thứ giống như nam giới, và ngươi đã hành xử với chúng giống như ả điếm đã làm.
\v 18 Ngươi lấy quần áo có thêu thùa rồi đắp cho chúng nó, và ngươi lấy dầu và hương liệu của ta bày ra trước mặt chúng nó.
\v 19 Còn bánh của ta bằng bột nhất hạng, dầu và mật mà ta đã ban cho ngươi — ta cho ngươi ăn — ngươi đem bày ra trước mặt chúng nó để tạo ra mùi thơm tho. Điều nầy thật đã xảy ra! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 20 Khi ấy, ngươi bắt con trai con gái mà ngươi đã sanh ra cho ta, rồi ngươi dâng chúng nó làm của lễ cho các hình tượng để bị nuốt đi. Có phải các hành vi đĩ điếm của các ngươi là việc nhỏ mọn sao?
\v 21 Ngươi đã giết con cái ta, rồi dâng chúng nó lên làm của lễ bằng lửa cho các hình tượng.
\v 22 Trong mọi sự gớm ghiếc và các hành động đĩ điếm của ngươi, ngươi không tưởng đến những ngày ấu thơ, khi ngươi hãy còn trần truồng và ở lỗ cả người còn vấy máu của ngươi.
\s5
\p
\v 23 “Khốn nạn! Khốn nạn cho ngươi! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — thêm vào mọi sự gian ác nầy,
\v 24 ngươi xây cho mình một chỗ đầy lễ lạc, rồi đã dựng lên một cái miễu ở từng chốn công cộng.
\s5
\v 25 Ngươi xây chùa miễu ở đầu từng con đường và làm cho sự đẹp đẽ ngươi ra gớm ghiếc, vì ngươi đã giang hai chân ra cho mọi người đi ngang qua và làm ra nhiều hành động đĩ điếm.
\v 26 Ngươi đã hành động giống như đĩ điếm với người Ai-cập, là kẻ lân cận ngươi có những ham muốn nhục dục mạnh mẽ, và ngươi đã phạm nhiều hành động đĩ điếm khiến ta phải nổi cơn thạnh nộ.
\s5
\v 27 Vậy, hãy nhìn đi! Ta sẽ đánh ngươi với bàn tay của ta và dứt bỏ đồ ăn của ngươi. Ta sẽ trao sự sống ngươi cho kẻ thù của ngươi, tức các con gái của dân Phi-li-tin, để khiến ngươi phải xấu hổ vì cớ lối sống dâm đảng của ngươi.
\v 28 Ngươi đã hành xử như gái điếm với người A-si-ri vì ngươi không lấy làm thoả mãn. Ngươi hành xử giống như gái điếm mà vẫn không lấy làm thoả mãn.
\v 29 Ngươi đã làm nhiều hành vi của đĩ điếm trong xứ của các thương buôn xứ Canh-đê, và thậm chí điều nầy đã không làm cho ngươi thấy thoả mãn!
\s5
\p
\v 30 Tại sao tấm lòng của ngươi yếu đuối dường ấy chứ? — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ngươi đã làm mọi sự nầy, những việc làm của đàn bà tà dâm không biết xấu?
\v 31 Khi ngươi dựng lên những chỗ lễ lạc của ngươi nơi đầu mỗi con đường và dựng lên các chùa miễu ở nơi công cộng, thực sự ngươi không phải là đứa điếm đĩ, một khi ngươi từ chối không chịu ai trả công cho các hành vi của mình!
\s5
\p
\v 32 Ngươi là thứ đàn bà dâm đảng, ngươi tiếp người lạ thay vì chồng mình!
\v 33 Người ta trả công cho từng ả điếm, nhưng ngươi dâng tiền công mình cho hết thảy tình nhân của ngươi và hối lộ chúng để đến với chúng từ khắp mọi nơi vì các hành vi đĩ điếm của ngươi.
\v 34 Vậy, có một sự khác biệt giữa ngươi và các người nữ khác kia, một khi chẳng có ai đến với ngươi đặng yêu cầu ngươi ngủ với họ. Thay vì thế, ngươi trả tiền cho họ! Không có ai trả tiền cho ngươi cả!
\s5
\p
\v 35 Vì lẽ đó, hỡi ngươi, ả điếm kia, hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 36 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đã đổ ra sự dâm dục và phơi bày các chi thể riêng của ngươi qua các hành vi đĩ điếm của ngươi với hết thảy các tình nhân ngươi và với hết thảy các hình tượng gớm ghiếc của ngươi, và vì cớ huyết của con cái ngươi đã dâng cho các hình tượng ngươi;
\v 37 vì lẽ đó, nầy! Ta sẽ nhóm hết thảy tình nhân của ngươi mà ngươi đã gặp, hết thảy những kẻ ngươi yêu và mọi kẻ ngươi ghét, và ta sẽ nhóm chúng nó lại từ mọi phía đến nghịch cùng ngươi. Ta sẽ phơi bày các chi thể riêng của ngươi ra cho chúng thấy hết sự trần truồng của ngươi!
\s5
\v 38 Vì Ta sẽ sửa phạt ngươi vì sự tà dâm và sự đổ huyết ra, và ta sẽ giáng trên ngươi cơn thạnh nộ và sự ghen tương ta.
\v 39 Ta sẽ trao ngươi vào trong tay chúng nó hầu cho chúng nó sẽ quăng ngươi xuống những chỗ lễ lạc và phá đỗ các chùa miễu của ngươi, và chúng nó sẽ lột quần áo ngươi và tước hết đồ trang sức của ngươi; chúng nó sẽ để cho ngươi ở lỗ và trần truồng.
\s5
\v 40 Khi ấy, chúng nó sẽ đem một số dân đông đến nghịch cùng ngươi và lấy đá ném ngươi, và chúng sẽ dùng gươm xẻo ngươi.
\v 41 Và chúng sẽ đốt nhà ngươi và sẽ làm ra nhiều hành động phán xét ngươi trước mắt nhiều người nữ, vì ta sẽ đặt dấu chấm hết cho thái độ đĩ điếm của ngươi và ngươi sẽ không trả tiền công cho bất kỳ ai trong số chúng nữa.
\v 42 Khi ấy, ta sẽ thôi không giận ngươi nữa; cơn thạnh nộ ta sẽ lìa khỏi ngươi, vì ta đã vừa lòng, và sẽ không còn cưu giận nữa.
\s5
\p
\v 43 Vì ngươi không nhớ những ngày mình còn thơ ấu khi ngươi khiến ta lay động với giận dữ về mọi việc nầy — kìa! Chính ta cũng đem sự sửa phạt đến cho cách xử sự ngươi giáng trên đầu ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — để ngươi sẽ không còn hành xử cách gian ác trong mọi lối gớm ghiếc của ngươi nữa!
\s5
\p
\v 44 Nầy! Hễ người nào nói ra những câu châm ngôn về ngươi, họ sẽ nói: “Mẹ nào, con nấy!”
\v 45 Ngươi là con gái của mẹ ngươi, là kẻ chán ghét chồng con mình; và ngươi là em gái các chị ngươi, họ đã chán ghét chồng con mình. Mẹ ngươi là người Hê-tít, và cha ngươi là một người A-mô-rít!
\s5
\v 46 Chị ngươi là Sa-ma-ri cùng các con gái nó là những kẻ sống ở phương bắc, trong khi em gái ngươi là những kẻ sống ở phương nam của ngươi, tức là Sô-đôm cùng các con gái nó.
\s5
\v 47 Giờ đây, đừng bước theo các lối của chúng hay bắt chước theo các hành động gớm ghiếc của chúng, giống như thể đó là những việc nhỏ mọn. Thực vậy, ngươi còn tệ lậu hơn mọi sự mà chúng nó đã làm nữa.
\v 48 Như ta hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — Sô-đôm, em gái ngươi và con gái của nó, chưa phạm nhiều điều ác như ngươi và các con gái ngươi đã phạm!
\s5
\p
\v 49 Kìa! Đây là tội lỗi của Sô-đôm em gái ngươi cùng các con gái nó: nó kiêu ngạo trong sự nhàn rỗi nó, vô tư và chẳng quan tâm đến bất cứ việc gì cả. Nó không trợ giúp cho tay kẻ nghèo nàn và thiếu thốn.
\v 50 Nó sống cao ngạo và phạm những hành vi gớm ghiếc trước mặt ta, vậy ta gạt bỏ chúng nó đi giống như ngươi đã thấy.
\s5
\v 51 Sa-ma-ri chưa phạm đến phân nửa tội lỗi mà ngươi đã phạm; thay vì thế, ngươi đã phạm nhiều sự gớm ghiếc hơn chúng nó đã phạm, và ngươi đã tỏ ra rằng các chị em của ngươi thì tốt hơn ngươi vì cớ mọi sự gớm ghiếc mà ngươi đã phạm!
\v 52 Đặc biệt là ngươi, tỏ ra chính sự xấu hổ ngươi; theo cách thức nầy thì ngươi đã tỏ ra rằng các chị em ngươi đã sống tốt hơn ngươi, vì cớ tội lỗi mà ngươi đã phạm trong các đường lối gớm ghiếc đó. Giờ đây, các chị em ngươi dường như tốt đẹp hơn ngươi. Đặc biệt là ngươi, tỏ ra chính sự xấu hổ của ngươi, vì trong đường lối nầy ngươi đã tỏ ra rằng các chị em ngươi đã sống tốt hơn ngươi.
\s5
\p
\v 53 Vì ta sẽ phục hồi lại số phận của họ — số phận của Sô-đôm và các con gái nó, và số phận của Sa-ma-ri và các con gái nó; nhưng số phận của ngươi sẽ ở giữa chúng nó.
\v 54 Về việc tính sổ các sự nầy, ngươi sẽ tỏ ra sự xấu hổ của ngươi; ngươi sẽ bị sỉ nhục vì cớ mọi sự mà ngươi đã làm, và theo cách thức nầy ngươi sẽ trở thành một sự yên ủi cho chúng.
\v 55 Cũng vậy, các chị em gái ngươi, Sô-đôm và các con gái nó sẽ được phục hồi trở lại như khi xưa, và Sa-ma-ri cùng các con gái nó sẽ được phục hồi lại như tình trạng trước đây. Khi ấy, ngươi cùng các con gái ngươi sẽ được phục hồi lại như tình trạng trước đây.
\s5
\v 56 Sô-đôm em gái ngươi thậm chí không còn được nhắc tới bởi miệng ngươi trong những ngày ngươi sống kiêu ngạo,
\v 57 trước khi sự gian ác ngươi lộ ra. Nhưng giờ đây, ngươi là đối tượng của sự khinh chê cho các con gái Ê-đôm và cho hết thảy con gái Phi-li-tin ở chung quanh ngươi. Người ta thảy đều xem khinh ngươi.
\v 58 Ngươi sẽ tỏ ra sự xấu hổ ngươi và các hành động gớm ghiếc của ngươi — đây là lời công bố của Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 59 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đối xử ngươi y như ta đối xử với bất kỳ ai xem khinh lời thề mà người ấy thốt ra, người ấy đã phá vỡ giao ước.
\s5
\v 60 Nhưng chính ta sẽ nhớ lại giao ước ta đã lập với ngươi trong lúc ngươi còn thơ ấu, và ta sẽ lập một giao ước đời đời với ngươi.
\v 61 Khi ấy, ngươi sẽ nhớ lại mọi đường lối của ngươi và thấy xấu hổ khi ngươi tiếp nhận những chị em ngươi. Ta sẽ ban chúng cho ngươi làm con gái, nhưng không phải vì cớ giao ước của ngươi đâu.
\s5
\v 62 Chính ta sẽ lập giao ước ta với ngươi, và ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va!
\v 63 Vì cớ các việc nầy, ngươi sẽ nhớ lại mọi sự và thấy xấu hổ, cho nên ngươi chẳng còn mở miệng ra nữa vì cớ sự xấu hổ ngươi, khi ta đã tha thứ cho ngươi mọi điều mà ngươi đã làm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\c 17
\cl
\p
\v 1 Lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy ra câu đố và nói một ví dụ cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Một con chim ưng lớn với hai cánh lớn và lông cánh thật dài, đầy lông, và có nhiều màu sắc đến Li-ban và lấy ngọn cây hương bách đi.
\v 4 Nó bẻ các nhành non rồi đem chúng đến xứ Ca-na-an; nó trồng nhành ấy trong một thành của các thương buôn.
\s5
\p
\v 5 Nó cũng lấy một hột giống của xứ, và đem trồng nó chỗ đất dọn sẵn cho việc gieo giống. Nó trồng hột giống ấy bên cạnh dòng nước giống như cây liễu.
\v 6 Hột giống nứt mộng rồi trở thành một gốc nho phủ cả đất. Các nhánh nó hướng lên cao, và bộ rễ nó lan ra dưới đất. Vậy, nó trở thành một gốc nho và đâm tược nứt chồi.
\s5
\p
\v 7 Nhưng có chim ưng lớn khác, đội cánh thật rộng và lông nhiều. Và kìa! Gốc nho nầy, bộ rễ của nó hướng về phía chim ưng, rồi nó đốc ra nhiều nhánh hướng về chim ưng từ chỗ nó được trồng để nó được tưới tiêu.
\v 8 Nó được trồng nơi đất tốt bên dòng nước lớn hầu cho nó đâm tược, ra trái, trở nên cây nho tốt.
\s5
\p
\v 9 Hãy nói với dân sự: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cây nho ấy sẽ thạnh mậu sao? Chim ưng kia chẳng moi rễ nó rồi ngắt trái nó, hầu cho lá nó khô héo hết? Không cần có nhiều cánh tay mạnh, cũng không cần nhiều người để làm trốc rễ nó.
\v 10 Kìa, sau khi nó được trồng, nó có thạnh mậu không? Có phải lá nó héo đi khi gió đông đụng đến nó không? Nó sẽ hoàn toàn héo đi trong chính luống đất của nó."
\s5
\p
\v 11 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 12 “Hãy nói cùng nhà loạn nghịch: Có phải các ngươi không biết các việc nầy có nghĩa gì sao? Kìa! Nhà vua xứ Ba-by-lôn đã kéo đến Giê-ru-sa-lem rồi bắt vua và các quan trưởng nó và đem họ đi với mình về Ba-by-lôn.
\s5
\v 13 Thế rồi ông ta chọn một dòng dõi của hoàng tộc, lập giao ước với người, và buộc người phải thề. Và ông ta đem hết những người có quyền lực ra khỏi xứ,
\v 14 đặng cho nước phải suy yếu đi và không tự dấy lên được. Bằng cách giữ giao ước mình, xứ sẽ tồn tại.
\s5
\v 15 Nhưng vua của Giê-ru-sa-lem nổi loạn chống lại ông ta bằng cách sai các sứ thần mình đến Ai-cập xin giúp ngựa và quân đội. Liệu người có thành công hay không? Người thực hiện các việc nầy có thoát được không? Nếu người vi phạm giao ước, người có thoát được không?
\p
\v 16 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — người chắc chắn sẽ chết trong xứ của nhà vua đã lập người làm vua, là vua đã xem khinh lời thề mình và người đã phá vỡ giao ước của mình. Người sẽ chết tại giữa Ba-by-lôn.
\s5
\v 17 Còn Pha-ra-ôn với quân đội hùng mạnh của mình và tập trung nhiều lính chiến sẽ không bảo vệ người tại chiến trường, khi quân đội Ba-by-lôn đắp lũy dựng đồn để hủy diệt nhiều người.
\v 18 Vì nhà vua đã xem khinh lời thề của mình bằng cách phá vỡ giao ước. Kìa, người đã giơ tay mình ra thề rồi, nhưng người đã làm mọi sự ấy. Nó chắc không thoát khỏi.
\s5
\p
\v 19 Vì lẽ đó — Chúa Giê-hô-va phán như vầy —như ta là hằng sống, có phải nó xem khinh lời thề ta và phá vỡ giao ước ta không? Ta sẽ giáng sự sửa phạt lên đầu nó!
\v 20 Ta sẽ giăng lưới ta phủ lên nó, và nó sẽ mắc vào lưới mà ta đã săn. Khi ấy ta sẽ đem nó qua Ba-by-lôn và thi hành sự phán xét giáng trên nó ở đó về sự phản bội mà nó đã phạm khi nó phản ta!
\v 21 Và hết thảy những kẻ tị nạn trong quân đội nó sẽ ngã bởi gươm, và những kẻ nào còn sót lại sẽ bị tan rải khắp bốn hướng. Khi ấy, các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va; ta đã công bố, điều nầy sẽ xảy ra!
\s5
\p
\v 22 Chúa Giê-hô-va phán điều nầy: Chính ta sẽ cất lấy phần cao nhất của cây hương bách, và ta sẽ trồng nó từ các nhánh của nó. Ta sẽ bẻ gãy nó, và chính ta sẽ trồng nó trên một hòn núi cao!
\v 23 Ta sẽ trồng nó trên đồi núi của Y-sơ-ra-ên để nó sẽ đâm nhánh và kết trái, rồi nó sẽ trở nên cây hương bách oai nghi hầu cho từng loài chim sẽ đến sống ở dưới nó. Chúng sẽ làm tổ nơi bóng mát của các nhánh cây.
\s5
\v 24 Khi ấy mọi cây cối của đồng ruộng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va. Ta đã hạ cây cao xuống; và ta khiến cây thấp cao lên! Ta đã làm khô héo cây tươi xanh; và ta làm cho cây khô tươi tốt lên; Ta đã công bố thì điều nầy sẽ xảy ra, và ta đã làm điều đó."
\s5
\c 18
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va lại đến và phán cùng ta:
\v 2 Các ngươi muốn nói gì chứ? Các ngươi dùng tục ngữ nầy về đất Y-sơ-ra-ên, và nói: Cha ăn trái nho chua, mà con ghê răng?
\s5
\p
\v 3 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chắc chắn sẽ chẳng còn có cơ hội nào cho các ngươi dùng câu tục ngữ nầy nữa trong Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Kìa! Mọi linh hồn đều thuộc về ta! Và cũng một thể ấy, sự sống của cha, và sự sống của con: đều thuộc về ta! Người nào phạm tội sẽ chết!
\s5
\q1
\v 5 Đối với một người, nếu người sống công bình, tỏ ra sự ngay thẳng và công bình —
\v 6 nếu người không ăn ở các chùa miễu trên núi, và không ngước mắt trông các hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên — nếu người không làm nhục vợ kẻ lân cận mình, cũng không lại gần người nữ đang có tháng — thì người đó có phải là người công bình không?
\s5
\q1
\v 7 Nếu người không ức hiếp ai, song thay vì thế trả của cầm lại cho kẻ mắc nợ — không cướp vật gì của ai, song thay vì thế ban bánh cho kẻ đói và mặc áo cho kẻ trần truồng;
\v 8 nếu người không cho vay lấy lời, không lấy nhiều lời quá — người biểu hiện sự công bình và tỏ ra thái độ trung tín giữa dân sự —
\v 9 Nếu người bước theo luật lệ ta và vâng giữ mạng lịnh ta, hành xử cách trung tín — thì lời hứa cho người công bình là đây: Người sẽ sống! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 10 Nhưng nếu con trai người có tánh bạo lực, nó làm đổ huyết và làm bất cứ điều nào trong những điều nầy —
\v 11 mặc dầu cha nó chẳng làm một việc nào trong các việc nầy — nhưng nếu con trai người ăn uống ở các chùa miễu trên núi và làm nhục vợ kẻ lân cận mình — thì ta có thể nói gì về người?
\s5
\q1
\v 12 Nếu nó ức hiếp kẻ nghèo nàn thiếu thốn, nếu nó tước đoạt và cướp lấy không trả của cầm, nếu nó ngước mắt trông các hình tượng hay phạm các hành động gớm ghiếc;
\v 13 nếu người cho vay ăn lời và lấy lợi bất công, thì nó có đáng sống không? Nó sẽ không sống đâu! Nó đã phạm hết thảy các hành động gớm ghiếc nầy. Chắc chắn nó sẽ chết; và huyết nó sẽ đổ trên nó.
\s5
\p
\v 14 Nhưng mà nầy! Nếu người ấy sanh con trai, con ấy nhìn thấy mọi tội lỗi cha mình đã phạm, và nếu nó kính sợ Đức Chúa Trời rồi không làm những việc như thế —
\v 15 nếu nó không ăn uống ở các chùa miễu trên núi, cũng không ngước mắt lên trông hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên — nếu nó không làm nhục vợ kẻ lân cận mình; thì ta có thể nói gì về người?
\s5
\q1
\v 16 Nếu nó không ức hiếp ai, không lấy của cầm, hay không cướp của người ta, nhưng thay vì thế nó ban bánh cho kẻ đói và mặc áo cho kẻ trần truồng —
\v 17 nếu nó rút tay lại không xét đoán kẻ nghèo và không lấy lời hoặc lấy lợi bất công; nếu nó làm theo mạng lịnh ta và bước theo luật lệ ta, thì nó sẽ không chết vì tội lỗi của cha nó. Chắc chắn nó sẽ sống!
\s5
\v 18 Cha nó, khi người ức hiếp người khác bằng cách tống tiền và cướp đoạt anh em nó, và đã làm điều không nhơn đức giữa dân sự mình — kìa, nó sẽ chết trong sự gian ác nó.
\s5
\p
\v 19 Nhưng các ngươi nói: Sao đứa con không gánh lấy cái ác của cha nó? Vì đứa con làm theo sự công bình và ngay thẳng và giữ hết thảy luật lệ ta; nó làm theo các việc ấy. Chắc chắn nó sẽ sống.
\v 20 Người nào phạm tội, người ấy sẽ chết. Con sẽ không mang lấy tội của cha, và cha sẽ không mang lấy tội của con. Sự công bình của người nào ăn ở ngay thẳng sẽ giáng trên chính mình người ấy, và sự gian ác của kẻ gian ác sẽ giáng trên chính mình người.
\s5
\p
\v 21 Nhưng nếu kẻ ác xây khỏi mọi tội mà mình đã phạm, và vâng giữ mọi luật lệ ta và làm theo sự công bình và ngay thẳng, khi ấy chắc chắn người ấy sẽ sống và không chết đâu.
\v 22 Mọi sự vi phạm mà người đã phạm sẽ không bị nhớ lại nghịch cùng người. Người sẽ sống bởi sự công bình mà người đã làm.
\s5
\v 23 Có phải ta rất vui về cái chết của kẻ dữ không? — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và không vui khi người xây khỏi đường lối người hầu cho người được sống sao?
\s5
\p
\v 24 Nhưng nếu người công bình xây bỏ sự ngay thẳng mình rồi phạm tội và làm theo những sự gớm ghiếc giống như bao sự gớm ghiếc mà kẻ dữ đang làm, khi ấy nó sẽ sống không? Hết thảy sự công bình mà nó đã làm sẽ không được nhớ đến khi nó phản ta trong sự bội phản của nó. Vậy, nó sẽ chết trong tội lỗi mà nó phạm phải.
\s5
\p
\v 25 Nhưng các ngươi nói: Đường lối của Chúa không công bằng! Hãy lắng nghe, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Có phải đường lối ta bất công chăng? Đường lối các ngươi không phải là bất công sao?
\v 26 Khi người công bình xây bỏ sự công bình mình, và phạm tội rồi chết vì cớ ấy, thế thì nó sẽ chết trong tội lỗi mà nó đã phạm.
\s5
\v 27 Nhưng khi kẻ dữ xây bỏ sự dữ mình đã phạm và làm theo sự công bình ngay thẳng, khi ấy nó sẽ bảo vệ được sự sống của nó!
\v 28 Vì nó đã nhìn thấy rồi xây bỏ mọi sự vi phạm mà nó đã làm. Nó sẽ có sự sống; nó sẽ chẳng chết đâu!
\s5
\v 29 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nói: Đường lối của Chúa là không công bằng. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, đường lối của ta không công bằng ở chỗ nào? Và đường lối của các ngươi là không công bằng ở chỗ nào?
\p
\v 30 Vì lẽ đó, ta sẽ phán xét từng người giữa vòng các ngươi theo mọi đường lối của nó, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đoán xét các ngươi, mỗi người theo việc làm của nó. — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — Hãy trở lại và xây bỏ mọi sự vi phạm của các ngươi hầu cho chúng sẽ không trở thành hòn đá vấp chơn tội lỗi nghịch cùng các ngươi.
\s5
\v 31 Hãy quăng xa khỏi các ngươi mọi sự vi phạm mà các ngươi đã làm; hãy làm cho mình một tấm lòng mới và một tâm thần mới.
\v 32 Vì, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, sao các ngươi lại muốn chết chứ? Vì ta không vui nơi cái chết của kẻ nào chết — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vậy hãy ăn năn mà sống!”
\s5
\c 19
\cl
\p
\v 1 “Hỡi ngươi! Hãy cất giọng ca thương nghịch cùng các cấp lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên,
\v 2 hãy nói: Ai là mẹ ngươi? Một sư tử cái, nó sống với sư tử đực; ở giữa bầy sư tử tơ, nó nuôi bầy con nó.
\q1
\v 3 Và nó nuôi một trong các con nó để trở nên một sư tử tơ, nó tập bắt mồi. Nó nuốt người ta.
\q1
\v 4 Khi ấy các dân nghe nói về nó. Họ bắt nó trong bẫy, rồi đưa nó đến đất Ê-díp-tô với móc nơi hàm.
\s5
\q1
\v 5 Khi sư tử cái trông chờ nó đã lâu không thấy nó trở về, nó mất sự trông cậy, vậy nó bắt con khác trong bầy rồi dưỡng nó thành một sư tử tơ.
\q1
\v 6 Con sư tử tơ nầy đi lại giữa bầy sư tử. Nó là một sư tử tơ, tập bắt mồi; và nó nuốt người ta.
\q1
\v 7 Khi ấy nó hãm hiếp các goá phụ rồi phá huỷ các thành; đất cùng mọi vật trong nó đều bị hoang vu, vì cớ tiếng gầm của nó!
\s5
\q1
\v 8 Nhưng các nước ở mọi miền chung quanh nghịch cùng nó; họ bủa lưới trên nó. Nó bị bắt trong bẫy.
\q1
\v 9 Họ nhốt nó trong một cái chuồng với móc hàm nó rồi đưa nó đến vua xứ Ba-by-lôn. Họ đem nó vào đồn lũy trên núi, hầu cho tiếng nó không còn nghe thấy nữa trên đồi núi Y-sơ-ra-ên.
\s5
\q1
\v 10 Mẹ ngươi giống như một cây nho được trồng trong máu ngươi bên dòng nước. Nó trịu những trái và đầy các nhánh vì cớ có nhiều nước.
\q1
\v 11 Nó có nhiều nhánh cứng để làm gậy cho kẻ cầm quyền, và chiều cao nó được tôn vinh giữa các nhánh sum sê.
\s5
\q1
\v 12 Nhưng gốc nho bị nhổ trong sự giận dữ rồi bị quăng xuống đất, và ngọn gió đông đã làm khô trái nó. Các nhánh cứng chắc của nó bị bẻ gãy và khô đi; lửa thiêu nuốt chúng!
\q2
\v 13 Bây giờ nó bị đem trồng nơi đồng vắng, trong một đất khô khan chẳng nước.
\s5
\q1
\v 14 Vì lửa ra từ các nhánh lớn của nó, thiêu nuốt trái nó. Chẳng còn có nhánh nào cứng chắc cho nó nữa, không có cây trượng nào để cai trị. Đây là bài ca thương và sẽ được hát lên như một bài ca thương.”
\s5
\c 20
\cl
\p
\v 1 Năm thứ bảy, ngày mùng mười tháng năm, một số trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cầu hỏi Đức Giê-hô-va và họ ngồi trước mặt ta.
\s5
\p
\v 2 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 3 “Hỡi con người, hãy công bố với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên và bảo chúng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi đến đặng cầu hỏi ta sao? Như ta là hằng sống, ta không muốn các ngươi cầu hỏi ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 4 Hỡi con người, ngươi muốn xét đoán chúng nó không? Hãy cho chúng nó biết về những sự gớm ghiếc của tổ phụ chúng!
\v 5 Hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nhằm ngày ta đã chọn Y-sơ-ra-ên và dấy tay ta lên để thề cùng dòng dõi nhà Gia-cốp, ta tỏ mình cho chúng nó biết ta trong đất Ê-díp-tô, khi ta giơ tay lên thề cùng chúng nó. Ta phán: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi” —
\v 6 nhơn ngày đó ta giơ tay lên đưa ra lời thề với chúng rằng ta sẽ đem chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô đặng vào một đất mà ta cẩn thận chọn lựa cho chúng. Đây là đất đượm sữa và mật; đây là thứ trang sức đẹp nhất giữa vòng các đất!
\s5
\v 7 Ta phán cùng chúng: “Mỗi người phải ném bỏ những sự gớm ghiếc ra khỏi mắt nó và các hình tượng của xứ Ai-cập. Đừng tự làm ô uế mình; Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi.”
\s5
\p
\v 8 Nhưng chúng đã nổi loạn nghịch cùng ta và không bằng lòng nghe theo ta. Mỗi người không quăng bỏ những sự gớm ghiếc ra khỏi mắt mình cũng không lìa bỏ các hình tượng của xứ Ê-díp-tô. Vì thế ta quyết rằng ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng, làm thoả mãn cơn giận ta giữa vòng chúng trong đất Ê-díp-tô.
\v 9 Ta đã hành động vì cớ danh ta, hầu cho danh ấy không bị báng bổ trước mắt các dân tộc mà chúng đang ở giữa đó. Ta tự làm cho chúng nhìn biết ta, trước mắt chúng, bằng cách đưa chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô.
\s5
\v 10 Vậy ta sẽ đưa chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô và đem chúng ra nơi đồng vắng.
\v 11 Khi ấy, ta ban cho chúng luật lệ ta và khiến cho chúng nhìn biết các mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người ấy vâng theo chúng.
\v 12 Ta cũng ban cho chúng những ngày Sa-bát ta làm một dấu giữa mình ta và chúng, để chúng nó biết rằng ta là Đức Giê-hô-va là Đấng dâng chúng cho chính mình ta.
\s5
\p
\v 13 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nổi loạn nghịch cùng ta trong đồng vắng. Chúng không ăn ở theo lệ luật ta; thay vì thế, chúng chối bỏ mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người làm theo chúng. Chúng báng bổ các ngày Sa-bát ta nặng lắm, vì vậy ta phán ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó trong đồng vắng để diệt chúng đi.
\v 14 Nhưng ta đã hành động vì cớ danh ta hầu cho danh ấy không bị báng bổ trước mắt các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem chúng nó ra khỏi Ai-cập.
\s5
\v 15 Vậy, đích thân ta đã giơ tay ra thề cùng chúng nó trong đồng vắng rằng ta sẽ không đem chúng nó vào xứ mà ta sẽ ban cho chúng nó, là đất đượm sữa và mật, là xứ vinh hiển nhất trong mọi đất.
\v 16 Ta đã thề điều nầy vì chúng đã chối bỏ các mạng lịnh ta và không ăn ở theo lệ luật ta, và chúng báng bổ những ngày Sa-bát ta, một khi lòng chúng nó hướng theo các hình tượng chúng nó.
\v 17 Nhưng mắt ta có sự thương xót dành cho chúng vì cớ sự huỷ diệt chúng, vậy ta không làm tận tuyệt chúng nó trong đồng vắng.
\s5
\v 18 Ta đã phán cùng con trai con gái chúng nó trong đồng vắng: “Đừng ăn ở theo tập tục của cha mẹ các ngươi; đừng giữ theo lệ định của họ hay các ngươi tự báng bổ mình với các hình tượng.
\v 19 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi! Hãy ăn ở theo luật lệ ta; hãy giữ theo các mạng lịnh ta và tuân theo chúng!
\v 20 Hãy giữ những ngày Sa-bát ta ra thánh hầu cho chúng sẽ trở thành một dấu giữa ta và các ngươi, hầu cho các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi.”
\s5
\p
\v 21 Nhưng con trai con gái chúng nổi loạn nghịch cùng ta. Chúng không noi theo luật lệ ta hoặc không tuân giữ các mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người ấy tuân giữ chúng. Chúng nó báng bổ những ngày Sa-bát ta, vậy ta quyết định đổ cơn giận ta trên chúng nó để làm thoả mãn cơn thạnh nộ ta nghịch cùng chúng trong đồng vắng.
\v 22 Nhưng ta đã xây tay ta lại và đã hành động vì cớ danh ta, để danh ấy không bị báng bổ trước mắt của các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi.
\s5
\v 23 Đích thân ta cũng đã giơ tay lên thề cùng chúng nơi đồng vắng, ta thề rằng ta sẽ tan rải chúng giữa vòng các dân, ta sẽ phát tán chúng giữa các nước.
\v 24 Ta quyết định thực hiện điều nầy một khi chúng không vâng theo các mạng lịnh ta, và một khi chúng chối bỏ lệ luật ta, và báng bổ những ngày Sa-bát ta. Mắt chúng mong mỏi nhìn theo các hình tượng của tổ phụ chúng.
\s5
\v 25 Khi ấy, Ta cũng ban cho chúng những luật lệ chẳng lành, và các mạng lịnh bởi đó chúng không được sống.
\v 26 Ta làm cho chúng nó ra ô uế bởi của lễ chúng nó, khi chúng khiến từng con đầu lòng ra khỏi tử cung đưa qua lửa. Ta đã làm điều nầy làm cho chúng nó phải kinh khiếp để chúng nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 27 Vì lẽ đó, hỡi con người, hãy công bố cho nhà Y-sơ-ra-ên; hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tổ phụ các ngươi đã phạm thượng đối với ta bằng cách phản ta nghịch cùng ta. Chúng đã sống như thế theo cách nầy:
\v 28 khi ta đem chúng vào trong xứ mà ta đã giơ tay ra thề ban cho chúng, và khi chúng đã nhìn thấy mọi đồi cao cùng các cây rậm, khi ấy chúng dâng của lễ mình tại đó và chọc giận ta bằng các của lễ ở đó. Tại đó chúng cũng đốt các thức hương có mùi thơm, và đã đổ ra các lễ quán.
\v 29 Khi ấy, ta phán cùng chúng rằng: “Nơi cao nầy là gì mà các ngươi dâng của lễ ở đó?” Thế là danh Ba-ma được gọi cho đến ngày nay.
\s5
\p
\v 30 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Sao các ngươi tự làm ô uế mình với các đường lối của tổ phụ các ngươi? Và tại sao các ngươi hành xử như đĩ điếm, tìm theo những sự gớm ghiếc chứ?
\v 31 Vì khi các ngươi dâng lễ vật và khiến các con trai mình qua lửa, các ngươi tự làm cho mình ra ô uế với các hình tượng mình cho đến ngày nay sao? Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng lẽ ta để cho các ngươi cầu hỏi sao? Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta sẽ không để cho các ngươi cầu hỏi ta đâu!
\p
\v 32 Suy nghĩ hình thành trong lý trí các ngươi sẽ thành ra sự thực. Các ngươi nói: “Chúng ta sẽ sống giống như các dân khác, giống như các dân trong những xứ khác, họ thờ lạy gỗ và đá.”
\s5
\v 33 Như ta là hằng sống Chúa Giê-hô-va — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chắc chắn ta sẽ trị vì trên các ngươi với một bàn tay mạnh sức, một cánh tay giơ lên, và cơn thạnh nộ sẽ đổ ra trên các ngươi!
\v 34 Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân khác và ta sẽ thâu các ngươi lại từ các nước giữa vòng họ mà các ngươi đã bị tan rải ra. Ta sẽ thực hiện điều nầy với bàn tay mạnh sức và với cơn thạnh nộ đổ ra.
\v 35 Khi ấy, Ta sẽ đem các ngươi vào trong đồng vắng của các dân, và tại đó ta sẽ đối mặt xét đoán các ngươi.
\s5
\v 36 Giống như ta đã xét đoán tổ phụ các ngươi ở đồng vắng đất Ê-díp-tô thể nào, ta cũng xét đoán các ngươi cũng một thể ấy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 37 Ta sẽ khiến các ngươi nếm gậy của ta, và ta sẽ đem các ngươi vào trong dây giao ước;
\v 38 Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi những kẻ loạn nghịch và những kẻ phạm pháp nghịch cùng ta. Ta sẽ đuổi chúng nó ra khỏi đất mà chúng đang trú ngụ trong vai trò dân ngoại, nhưng chúng nó sẽ không bước vào đất Y-sơ-ra-ên. Như vậy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 39 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, cũng vậy với các ngươi, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mỗi một người các ngươi nên đến cùng chính hình tượng của mình. Hãy thờ lạy chúng nếu các ngươi từ chối không chịu nghe ta, nhưng các ngươi không còn báng bổ danh thánh của ta với các lễ vật và các hình tượng của các ngươi.
\s5
\v 40 Vì trên hòn núi thánh của ta, trên đỉnh núi của Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên sẽ thờ lạy ta ở đó trong xứ. Tại đó ta sẽ đẹp lòng đòi hỏi của lễ các ngươi, và cũng đòi thuế hoa quả đầu mùa với hết thảy các vật thánh của các ngươi.
\v 41 Ta sẽ chấp nhận các ngươi như mùi hương khi ta đem các ngươi ra khỏi giữa các dân, và thâu các ngươi lại từ những nước mà các ngươi đã bị tan rải. Ta sẽ tỏ mình ra thánh giữa vòng các ngươi ở trước mắt các dân để họ xem thấy.
\s5
\v 42 Khi ấy, lúc ta sẽ đem các ngươi vào đất của Y-sơ-ra-ên, trong xứ mà ta đã giơ tay lên thề ban cho tổ phụ các ngươi, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\v 43 Lúc đó, các ngươi sẽ nhớ lại đường lối gian ác mình, và mọi việc làm các ngươi bởi đó tự làm ô uế bản thân mình, và các ngươi sẽ thù ghét bản thân mình trước chính mắt mình vì mọi sự dữ mà các ngươi đã phạm.
\v 44 Vậy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va khi ta thực hiện điều nầy vì cớ danh ta, chớ không theo đường lối gian ác và các việc làm đồi bại của các ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\p
\v 45 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta,
\v 46 “Hỡi con người, hãy xây mặt về các xứ phía nam, rồi nói nghịch cùng phương nam; hãy nói tiên tri nghịch cùng rừng của Nê-giép.
\v 47 Hãy nói cùng rừng của Nê-giép: Hãy nghe lời công bố của Đức Giê-hô-va! Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy xem, ta sẽ nhen lửa giữa vòng các ngươi. Lửa sẽ thiêu nuốt hết từng cây xanh và từng cây khô giữa vòng các ngươi. Ngọn lửa hừng sẽ không bị dập tắt, mọi mặt từ phương nam cho đến phương bắc sẽ bị thiêu cháy.
\s5
\v 48 Khi ấy, mọi xác thịt sẽ nhìn thấy rằng Ta là Đức Giê-hô-va khi ta châm lửa và lửa ấy sẽ không hề bị dập tắt.”’
\p
\v 49 Lúc đó ta phán: “Than ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, họ nói về tôi: Nó chẳng phải là kẻ nói thí dụ sao?’”
\s5
\c 21
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía Giê-ru-sa-lem, rồi nói nghịch với các nơi thánh; hãy nói tiên tri nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Hãy nói với đất Y-sơ-ra-ên: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Ta nghịch cùng ngươi! Ta sẽ rút gươm ra khỏi vỏ nó và chém bỏ cả người công bình và kẻ dữ khỏi giữa ngươi!
\s5
\v 4 Đối với ta, để dứt bỏ người công bình và kẻ dữ khỏi giữa ngươi, gươm của ta sẽ ra khỏi vỏ nó nghịch cùng mọi xác thịt từ nam đến bắc.
\v 5 Khi ấy, mọi xác thịt sẽ nhìn biết ta, Đức Giê-hô-va, đã rút gươm ra khỏi vỏ. Nó sẽ không trở vào nữa!
\s5
\p
\v 6 Còn ngươi, hỡi con người, hãy than thở như lưng đã gãy! Trong sự cay đắng, hãy than vản trước mắt chúng nó!
\v 7 Khi ấy chúng sẽ hỏi ngươi: Ngươi than vản là vì việc gì chứ? Lúc đó, ngươi sẽ nói: Vì cớ các tin tức đang tới đến, vì mọi lòng đều tan chảy, và mọi tay đều sẽ yếu đuối! Từng tâm thần đều sẽ hao mòn, và từng đầu gối đều nhũn ra như nước. Kìa! Tin tức ấy đến và nó sẽ là như vầy đây! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 8 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 9 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri đi, hãy nói: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy nói: Gươm! Gươm! Gươm ấy rất bén nhọn và bóng láng!
\s5
\q1
\v 10 Gươm ấy nhọn để lao vào một cuộc chém giết lớn! Gươm ấy bóng láng để giống như chớp nhoáng. Chúng ta có nên vui mừng nơi cây trượng của con ta chăng? Gươm hầu đến ghét bỏ từng cây roi như thế!
\q1
\v 11 Vậy, gươm nầy được chìa ra để đánh bóng, rồi khi tay cầm lấy nó! Gươm được mài bén! Và nó được đánh bóng để giao cho tay kẻ sát thủ.
\s5
\q1
\v 12 Hỡi con người, hãy kêu cứu và than vản đi! Vì gươm đã đến trên dân ta! Các cấp lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên họ sẽ bị quăng vào thanh gươm! Họ là dân sự ta, vậy, hãy vỗ bắp vế trong buồn rầu!
\q1
\v 13 Vì có sự thử thách, nhưng sẽ ra sao nếu cây trượng không còn nữa? — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\q1
\v 14 Giờ đây, hỡi con người, hãy nói tiên tri và đập hai tay vào nhau, vì gươm sẽ tấn công thậm chí đến lần thứ ba! Gươm dành cho những kẻ sẽ bị giết! Đây là gươm dành cho nhiều người sẽ bị giết, gươm đâm chúng nó ở khắp mọi nơi!
\s5
\q1
\v 15 Để làm cho lòng chúng nó tan chảy và thêm nhiều hòn đá vấp chơn, ta đã đặt ra gươm giết chóc nghịch cùng các cổng nó. Khốn thay! Gươm được làm ra giống như chớp nhoáng, đồ tể được tự do!
\q1
\v 16 Hỡi gươm! Hãy đánh phía bên phải! Hãy đánh phía bên trái! Hãy tới bất cứ đâu lưỡi gươm bén muốn tới.
\q1
\v 17 Vì ta cũng đập hai tay lại với nhau, và khi ấy ta đưa cơn giận đến với phần còn lại! Ta, Đức Giê-hô-va, công bố điều đó!”
\s5
\p
\v 18 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 19 Bây giờ, hỡi con người, hãy chỉ định hai con đường cho gươm của vua nước Ba-by-lôn đến. Hai con đường ấy sẽ khởi sự trong cùng một đất, và gạch một dấu sẽ đánh dấu một trong hai con đường đó dẫn đến một thành kia.
\v 20 Hãy đánh dấu một con đường cho quân đội Ba-by-lôn đến tại Ráp-ba, thành của dân Am-môn. Hãy đánh dấu con đường kia dẫn quân đội đến xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, là thành có phòng thủ kiên cố.
\s5
\v 21 Vì vua xứ Ba-by-lôn sẽ dừng quân tại ngã ba, nơi tiếp giáp, để bói hầu có được một sứ điệp mang tính tiên tri. Vua ấy lắc các mũi tên để xin xâm rồi hỏi các hình tượng về phương hướng. Vua ấy sẽ xem xét một lá gan!
\v 22 Trong tay phải người sẽ là dấu hiệu chỉ về thành Giê-ru-sa-lem, vì vua ấy dùng máy đặng phá thành! Vì vua ấy mở miệng mình ra lịnh sự tàn sát bắt đầu! Vì vua ấy hô lên tiếng chiến tranh! Vì vua ấy dùng máy phá thành nghịch cùng các cửa thành! Vì vua ấy muốn đắp lũy và dựng lên các bức tường vây hãm!
\v 23 Dường như đó chỉ là một dấu hiệu vô dụng trước mắt những kẻ sống trong thành Giê-ru-sa-lem, những người đã đưa ra lời thề với người Ba-by-lôn! Nhưng nhà vua sẽ tố cáo chúng vi phạm hiệp ước để bao vây chúng!
\s5
\p
\v 24 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì các ngươi đưa tội lỗi mình vào bộ nhớ của ta, các sự vi phạm của các ngươi sẽ bị bày ra! Tội lỗi các ngươi sẽ được thấy hết trong mọi hành động của các ngươi! Vì lý do nầy các ngươi sẽ nhắc cho mọi người nhớ rằng các ngươi sẽ bị bắt dẫn tù bởi tay kẻ thù các ngươi!
\s5
\p
\v 25 Và ngươi, là vua gian ác, phạm thượng của Y-sơ-ra-ên, ngày phán xét ngươi đã đến, thì giờ phạm tội của ngươi đã kết thúc rồi,
\v 26 Chúa Giê-hô-va phán: Hãy lột mũ triều và cất bỏ vương miện đi! Mọi việc chẳng còn giống như trước nữa! Hãy tôn cao kẻ thấp hèn và hãy hạ người được tôn cao xuống!
\v 27 Ta sẽ khiến cho mọi sự ra đống đổ nát! Đống đổ nát! Đống đổ nát! Vương quyền sẽ chẳng còn có nữa, cho đến chừng nào Đấng có quyền ấy hiện đến. Khi ấy ta sẽ giao vương quyền đó cho người.
\s5
\p
\v 28 Vậy ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri đi: Chúa Giê-hô-va phán như vầy với dân Am-môn về bối cảnh thê thảm hầu đến của chúng: Gươm, thanh gươm đã rút ra! Gươm được mài nhọn cho sự tàn sát để ăn nuốt, vậy nó sẽ loé lên như chớp!
\q1
\v 29 Đang khi các tiên tri thấy những khải thị giả dối, đang khi chúng lo làm các nghi thức dối trá cho các ngươi, gươm nầy sẽ đặt trên cổ kẻ gian ác, họ sắp sửa bị giết, ngày thăm phạt chúng nó đã đến và thì giờ tội lỗi của chúng sắp kết thúc rồi.
\s5
\q1
\v 30 Hãy tra gươm vào vỏ của nó. Trong chỗ tạo dựng của ngươi, trong đất mà ngươi ra đời, ta sẽ xét đoán ngươi! Ta sẽ đổ cơn giận ta trên ngươi! Ta sẽ thổi lửa thạnh nộ ta nghịch cùng ngươi và phó ngươi vào tay kẻ hung bạo, giỏi sự hủy diệt!
\q1
\v 31 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa! Huyết của ngươi sẽ nằm ở giữa đất. Người ta chẳng còn nhớ tới ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố mọi sự nầy!’”
\s5
\q1
\v 32 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa! Huyết của ngươi sẽ nằm ở giữa đất. Người ta chẳng còn nhớ tới ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố mọi sự nầy!’”
\s5
\c 22
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta phán rằng:
\v 2 “Bây giờ, ngươi, hỡi con người, ngươi sẽ phán xét chăng? Ngươi sẽ xét đoán thành huyết nầy chăng? Hãy làm cho người ta nhìn biết mọi sự gớm ghiếc của nó.
\v 3 Ngươi phải nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đây là thành phố đổ huyết ra ở giữa nó hầu cho thời thế nó sẽ đến; một thành tạo ra các hình tượng khiến bản thân nó ra ô uế!
\s5
\v 4 Ngươi phạm tội bởi huyết mà ngươi làm đổ ra, và bị làm cho ô uế bởi các hình tượng mà ngươi đã chế ra! Vì ngươi đã kéo những ngày lại gần và tiếp cận với những năm sau cùng của ngươi. Vì lẽ đó, ta sẽ khiến ngươi thành ra một lời quở trách cho các dân tộc và là trò cười nhạo cho bốn phương trời.
\v 5 Cả những người ở gần và cũng như ở xa sẽ chế giễu ngươi, hỡi ngươi là thành ô uế, với tiếng tăm khắp mọi nơi đều nhìn biết là đủ thứ lộn xộn!
\s5
\p
\v 6 Kìa, các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên, mỗi người với quyền lực của mình, đã đến cùng ngươi để làm huyết đổ ra!
\v 7 Họ không tôn trọng bậc làm cha làm mẹ ở trong ngươi, và họ thực hiện sự áp bức trên các dân ngoại ở giữa ngươi. Họ ngược đãi trẻ mồ côi cùng người góa bụa ở trong ngươi.
\v 8 Ngươi xem khinh các vật thánh ta và báng bổ những ngày Sa-bát ta!
\v 9 Những kẻ hay giết chóc đã đến giữa vòng ngươi để làm đổ huyết ngươi, và họ ăn uống trên các núi. Họ làm ra sự gian ác ở giữa ngươi!
\s5
\v 10 Sự trần truồng của một người cha được tỏ ra ở giữa ngươi. Họ ngược đãi người đàn bà ô uế ở giữa ngươi trong khi người có tháng.
\v 11 Những kẻ phạm các sự gớm ghiếc với vợ người lân cận mình, và những kẻ khác làm cho con dâu mình ra ô uế xấu hổ; những kẻ lạm dụng tình dục chị em ruột mình, là con gái của cha mình — mọi sự nầy đều có ở giữa ngươi.
\v 12 Những kẻ nầy nhận của hối lộ giữa vòng ngươi để làm đổ huyết ra. Ngươi đã lấy lời lãi và lấy quá nhiều lời lãi đó, ngươi đã gây thiệt hại cho kẻ lân cận mình qua sự áp bức, và ngươi đã quên ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 13 Hãy xem đi! Ta dùng tay mình đập vào lời lãi bất lương mà ngươi đã làm ra, và huyết đổ ra hiện có ở giữa ngươi.
\v 14 Lòng ngươi có yên chăng, với hai bàn tay ngươi có mạnh mẽ vào ngày mà đích thân ta sẽ xử lý với ngươi chăng? Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố ra điều nầy, thì sẽ làm trọn nó.
\v 15 Vậy, Ta sẽ tan rải ngươi giữa vòng các dân tộc và phân tán ngươi trong các nước. Theo cách nầy, ta sẽ làm diệt mất sự ô uế khỏi giữa ngươi.
\v 16 Vậy, ngươi sẽ bị ô uế trong con mắt của các dân tộc, và ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!”
\s5
\p
\v 17 Kế đó, lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta phán rằng:
\v 18 “Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên đã trở nên cặn bã đối với ta. Hết thảy chúng là cặn bã của đồng, thiếc, sắt và chì ở giữa ngươi. Chúng sẽ giống như là cáu cặn của bạc ở trong lò.
\v 19 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì hết thảy các ngươi đã trở nên giống như cáu cặn, vì vậy, kìa! Ta sẽ nhóm các ngươi lại ở giữa Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 20 Giống như người ta gom góp bạc, đồng sắt, và chì thiếc lại ở giữa lò, lửa được thổi lên nghịch cùng nó, ta sẽ làm cho các ngươi tan chảy. Vậy, ta sẽ nhóm các ngươi lại trong cơn giận và trong sự thạnh nộ ta. Ta sẽ nhóm các ngươi lại tại đó rồi làm cho tan chảy ra; vậy ta nhóm các ngươi lại trong cơn giận và trong sự thạnh nộ ta, và ta sẽ đặt ngươi ở đó và làm cho ngươi tan chảy ra.
\v 21 Vậy, ta sẽ nhóm các ngươi lại và thổi lửa nghịch cùng ngươi với lửa thạnh nộ ta hầu cho ngươi sẽ bị đổ ra ở giữa ngươi.
\v 22 Giống như làm cho bạc chảy ra ở giữa lò, thì các ngươi cũng sẽ tan chảy ra ở giữa thành ấy, và các ngươi sẽ nhìn biết ta, Đức Giê-hô-va đã đổ cơn giận ta nghịch cùng các ngươi."
\s5
\p
\v 23 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 24 “Hỡi con người, hãy nói cùng nó: Ngươi là một đất chẳng được sạch sẽ. Trong ngày thạnh nộ sẽ chẳng có mưa đâu!
\v 25 Có sự im ỉm của các tiên tri ở giữa nó, giống như sư tử hay gầm rống đang cắn xé một nạn nhân; chúng nuốt lấy sự sống và cướp lấy của cải quí báu! Chúng khiến ở giữa nó có nhiều goá phụ!
\s5
\v 26 Các thầy tế lễ nó thể hiện bạo lực đối với luật pháp ta, và họ báng bổ các vật thánh của ta. Họ không phân biệt giữa các vật thánh, và không dạy sự khác biệt giữa ô uế và thanh sạch. Họ nhắm mắt lại chẳng nhìn xem các ngày Sa-bát ta hầu cho ta bị nói phạm ở giữa họ!
\v 27 Các vương tử ở trong nó giống như bầy sói đang xé mồi của chúng. Họ làm đổ huyết ra và huỷ diệt sự sống, lấy lời lãi bất lương.
\v 28 Và các tiên tri nó dùng vôi tô trắng quét lên chúng; họ thấy những sự hiện thấy giả dối và loan báo giả dối cho chúng. Họ nói: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy” khi Đức Giê-hô-va không có phán!
\s5
\v 29 Dân trong xứ đã lấn lướt nhờ sự tống tiền và chiếm đoạt nhờ trộm cướp, và họ ngược đãi kẻ nghèo và người khốn khó, và ức hiếp người ngoại không có sự công bình.
\s5
\p
\v 30 Vậy, ta đã tìm kiếm một người trong vòng chúng nó, người ấy sẽ xây lại tường thành, và người ấy sẽ đứng trước mặt ta tại chỗ sứt mẻ để ta sẽ không hủy diệt nó, nhưng ta chẳng tìm được một người nào.
\v 31 Vậy, ta đổ cơn thạnh nộ ta trên chúng! Ta sẽ dứt điểm chúng với lửa giận dữ của ta và đặt đường lối của chúng nó giáng trên đầu chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va."
\s5
\c 23
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, có hai người nữ, là con gái của cùng một mẹ.
\v 3 Chúng nó làm điếm trong xứ Ê-díp-tô từ khi còn trẻ. Chúng làm điếm ở đó. Vú của chúng bị người ta bóp và chúng nó bị mất hoa con gái tại đó.
\v 4 Tên của chúng là Ô-hô-la — là chị — và Ô-hô-li-ba — là em. Khi ấy chúng nó thuộc về ta và sanh con trai con gái. Tên của chúng có ý nghĩa như vầy: Ô-hô-la là Sa-ma-ri, còn Ô-hô-li-ba là Giê-ru-sa-lem.
\s5
\p
\v 5 Ô-hô-la làm điếm thậm chí khi nó đã thuộc về ta; nó tà dâm với tình nhân nó, vì dân A-si-ri họ đang thống trị,
\v 6 quan tổng đốc mặc áo tím, và các quan của hắn, thảy đều cường tráng và đẹp đẽ, hết thảy họ đều cỡi ngựa. Vậy, nó tự hiến thân làm điếm cho họ, cho những người đàn ông tốt nhất của A-si-ri!
\v 7 Và nó tự mình làm ô uế với mọi kẻ mà nó hành dâm, với mọi hình tượng của chúng nó mà vì đó nó đã hành dâm.
\s5
\v 8 Vì trong xứ Ê-díp-tô nó không bỏ thói làm điếm ấy, họ ngủ với nó khi nó hãy còn là thiếu nữ trẻ, khi lần đầu tiên họ làm cho nó mất hoa con gái, khi họ lần đầu tiên chung chạ với nó. Vậy nên, ta đã phó nó trong tay tình nhân nó, tức là trong tay những người A-si-ri, mà nó đã thương yêu.
\p
\v 9 Vì lẽ đó, ta phó nó vào trong tay của các tình nhân nó, vào trong tay của người A-si-ri, những kẻ nó làm điếm cho!
\v 10 Chúng lột truồng nó. Chúng bắt con trai con gái nó, và chúng dùng gươm giết nó, và nó mang xấu với những người nữ khác, vì chúng chuyển sự phán xét giáng trên nó.
\s5
\p
\v 11 Em gái nó là Ô-hô-li-ba đã nhìn thấy việc nầy, nhưng nó còn dâm đảng và làm điếm thậm chí còn hơn cả chị nó nữa!
\v 12 Nó làm điếm cho người A-si-ri, các quan tổng đốc và quan cai trị ăn mặc sang trọng, hay cỡi ngựa! Hết thảy họ đều là những người cường tráng đẹp đẽ!
\v 13 Ta đã thấy nó cũng đã làm cho mình ra ô uế. Cùng một cách cho cả hai chị em.
\s5
\p
\v 14 Khi ấy, nó còn thêm nhiều sự dâm đảng nữa! Nó nhìn thấy hình đàn ông được khắc trên tường, các nhân vật Canh-đê sơn son,
\v 15 thắt dây lưng quanh hông, với khăn trên đầu thả thòng xuống! Hết thảy họ đều là các quan chỉ huy đạo binh có xe ngựa, những người ra đời ở xứ Ba-by-lôn.
\s5
\v 16 Bao lâu mắt nó nom thấy họ, nó làm điếm cho họ, vì vậy nó sai sứ giả đến cùng họ trong xứ Canh-đê.
\v 17 Khi ấy, những người Ba-by-lôn đến cùng nó và lên giường dâm đảng với nó, và họ làm cho nó ra ô uế với mọi thứ dâm đảng của nó. Bởi những gì nó đã làm, nó bị kể là ô uế, vậy nó tự xây mình đi trong sợ gớm ghiếc.
\s5
\v 18 Nó thể hiện ra mọi cử chỉ dâm đảng mình và nó loả thể ra, vậy linh hồn ta đã xây khỏi nó, giống như linh hồn ta xây khỏi chị nó!
\v 19 Khi ấy, nó phạm thêm nhiều thứ dâm đảng, khi nó nhớ lại và bắt chước theo thuở son trẻ nó, khi nó làm điếm trong xứ Ê-díp-tô!
\s5
\v 20 Vậy, nó làm điếm cho các tình nhân nó, bộ phận sinh dục của những kẻ ấy giống như bộ phận sinh dục của loài lừa, dâm đảng thái quá như loài ngựa.
\v 21 Và, nó phạm lại sự dâm đảng của lúc son trẻ, khi mà người Ê-díp-tô bóp vú nó, vì hai vú nó còn đầy đặn!
\s5
\p
\v 22 Vì lẽ đó, hỡi Ô-hô-li-ba, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ khiến những tình nhân ngươi nghịch cùng ngươi! Những kẻ mà ngươi đã chán chê, ta sẽ đem chúng nó đến từ bốn phương nghịch cùng ngươi!
\v 23 Những người Ba-by-lôn và hết thảy người Canh-đê! Phê-cốt, Soa, và Coa! Và hết thảy người A-si-ri với chúng nó! Những người cường tráng đẹp đẽ! Các quan tổng đốc và quan cai trị, hết thảy họ đều là quan trưởng và hạng người có tiếng tăm! Hết thảy đều cỡi ngựa!
\s5
\v 24 Chúng nó sẽ đến nghịch cùng ngươi với các thứ vũ khí, và với xe có nhiều toa, cùng một đoàn dân đông! Chúng nó dùng những thuẫn lớn nhỏ, và mão trụ vây chung quanh ngươi! Ta sẽ giao cho chúng cơ hội trừng phạt ngươi, và chúng sẽ trừng phạt ngươi với mọi hành động của chúng!
\v 25 Vì ta sẽ thả cơn giận ta giáng trên ngươi, và chúng nó sẽ xử ngươi bằng sự giận dữ! Chúng nó sẽ cắt mũi và tai ngươi, và kẻ còn sót lại của ngươi sẽ ngã bởi gươm! Chúng nó sẽ bắt con trai con gái ngươi, hầu cho dòng dõi ngươi sẽ bị lửa nuốt mất!
\s5
\v 26 Chúng nó lột truồng ngươi và tước hết đồ trang sức ngươi!
\v 27 Vậy ta sẽ cất bỏ lối sống xấu hổ khỏi ngươi và lối sống đỉ điếm của ngươi từ xứ Ê-díp-tô. Ngươi sẽ không còn ngước mắt ngó theo chúng nó với ao ước nữa, và ngươi sẽ chẳng còn nghĩ đến Ê-díp-tô nữa!
\s5
\p
\v 28 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ phó ngươi vào trong tay những kẻ mà ngươi ghét, giao ngươi vào trong tay những kẻ mà ngươi ngoảnh mặt đi!
\v 29 Chúng sẽ xử ngươi theo cách gớm ghiếc; chúng sẽ tước hết mọi của cải ngươi rồi bỏ ngươi trong trơ trụi trần truồng. Nổi xấu hổ trần truồng của việc ngươi làm điếm sẽ bị bày ra, lối sống đầy xấu hổ của ngươi và thói dâm đãng của ngươi!
\s5
\v 30 Những việc nầy sẽ được làm ra cho ngươi trong việc ngươi ăn ở như gái điếm, dâm đảng theo các dân, bởi đó ngươi bị ô uế với hình tượng chúng nó.
\v 31 Ngươi đã ăn ở theo cách của chị ngươi, vậy nên ta sẽ trao cái chén trừng phạt của nó vào trong tay ngươi.
\s5
\p
\v 32 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi sẽ uống cái chén của chị ngươi, cái chén ấy sâu và rộng; cái chén ấy chứa được rất nhiều — ngươi sẽ trở thành đối tượng bị chê cười nhạo báng!
\s5
\q1
\v 33 Ngươi sẽ phải say sưa và buồn rầu lớn lắm, cái chén kinh khiếp và tàn phá! Đây là cái chén của Sa-ma-ri chị ngươi!
\q1
\v 34 Ngươi sẽ uống cái chén ấy và phải uống cạn; khi ấy ngươi sẽ đập vỡ chén ấy rồi lấy mảnh vở nó mà rạch vú ngươi. Vì ta đã công bố điều đó! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 35 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đã quên ta và quăng ta ra sau lưng ngươi, vậy ngươi cũng phải mang lấy hậu quả của lối sống đầy xấu hổ và lối sống phi đạo đức về tình dục!’”
\s5
\p
\v 36 Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, ngươi có xét đoán Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba không? Hãy cho chúng nó biết về những sự gớm ghiếc của chúng,
\v 37 một khi chúng đã phạm tội tà dâm, và khi có huyết nơi tay chúng! Chúng nó đã phạm tội tà dâm, với các hình tượng mình và thậm chí chúng đã đưa con trai mà chúng đã sanh cho ta qua lửa để bị thiêu đốt đi!
\s5
\v 38 Và chúng cứ tiếp tục làm điều nầy cho ta: Chúng làm cho nơi thánh ra ô uế, và trong cùng một ngày chúng đã làm ô uế các ngày Sa-bát ta!
\v 39 Vì khi đã giết con cái mình dâng cho hình tượng, khi ấy chúng đến nơi thánh ta trong cùng ngày ấy đặng làm ô uế nó! Vì vậy, kìa! Đây là điều chúng nó đã làm ở giữa nhà của ta!
\s5
\p
\v 40 Ngươi đã sai mời người đến từ xứ xa, các sứ giả được sai đến cùng họ — bấy giờ kìa! Thực sự họ đã đến, vì họ mà ngươi phải tắm rửa, vẽ mắt và trang sức cùng mình.
\v 41 Và ngươi lên giường đẹp đẽ và trước bàn ăn đã dọn sẵn. Khi ấy, ngươi đặt hương liệu và dầu ta lên bàn ấy!
\s5
\p
\v 42 Vậy, có tiếng của đám đông ở với ngươi, họ sống với nhiều lo toan, và có nhiều kẻ say sưa được đưa đến từ đồng vắng với những kẻ chẳng ra gì cả. Chúng nó đeo vòng nơi tay ngươi, và đội vương miện lên đầu ngươi.
\s5
\v 43 Khi ấy, Ta nói về kẻ kiệt lực bởi các hành động dâm đãng: Bây giờ chúng sẽ gian dâm với nó, và nó sẽ hành đâm với chúng.
\v 44 Khi ấy chúng đến ngủ với nó như chúng đến cùng bất cứ gái điếm nào; đồng thời chúng ngủ với Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba, là những người nữ tà dâm!
\v 45 Nhưng những người công bình sẽ đoán xét chúng phải bị trừng phạt vì tà dâm và sự trừng phạt cho những kẻ làm đổ huyết ra, một khi chúng phạm tội tà dâm và có huyết trong tay chúng.
\s5
\p
\v 46 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ dấy lên một đạo quân nghịch cùng chúng rồi phó chúng phải bị kinh khiếp và bị bóc lột.
\v 47 Khi ấy, đạo quân đó sẽ ném đá chúng và dùng gươm giết chúng. Họ sẽ giết con trai con gái chúng nó rồi lấy lửa đốt nhà chúng!
\s5
\p
\v 48 Vì ta sẽ cất bỏ lối ăn ở đầy xấu hổ ra khỏi đất và kỷ luật hết thảy những người đàn bà hầu cho hết thảy họ sẽ không còn ăn ở giống như gái điếm nữa.
\v 49 Vậy chúng sẽ đưa lối sống xấu hổ kia ra nghịch cùng ngươi. Ngươi sẽ mang lấy tội lỗi ngươi với các hình tượng ngươi, bởi cách thức nầy các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\c 24
\cl
\p
\v 1 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta vào năm thứ chín, tháng thứ mười, ngày mùng mười trong tháng:
\v 2 “Hỡi con người, hãy ghi chép tên ngày nầy, chính ngày nầy; cũng chính ngày nầy vua Ba-by-lôn đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Hãy nói một câu tục ngữ nghịch cùng nhà loạn nghịch nầy, một thí dụ nói cùng họ: `Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy dùng nồi luộc! Hãy dùng nó! Cũng hãy đổ nước vào trong nồi đó!
\q1
\v 4 Hãy sắp các miếng thức ăn vào trong nồi, từng miếng một — thịt đùi và thịt vai, hãy chất xương tốt nhứt vào nồi.
\q1
\v 5 Hãy chọn con tốt nhứt trong bầy rồi và luột xương ấy; hãy đun cho sôi, và cũng luộc xương ở giữa nồi.
\s5
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành của huyết, cái nồi luộc sôi bị gỉ ở trong, gỉ hãy còn ở trong đó chưa rửa sạch! Hãy lấy từng miếng thịt ra khỏi đó, nhưng đừng bắt thăm về thịt ấy.
\s5
\q1
\v 7 Vì máu nó ở giữa nó! Nó đặt thịt lên chỗ đá bóng láng; nó không bày thịt ra trên đất để bụi che lấp đi,
\v 8 nó làm cho cơn giận dấy lên để báo thù! Ta đặt huyết nó lên chỗ đá bóng láng để không ai có thể che đậy nó được!
\s5
\v 9 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành hay đổ máu! Ta cũng sẽ chất một đống củi lớn!
\q1
\v 10 Hãy thêm củi đi! Hãy nhóm lửa lên! Hãy luột thịt cho lâu, để khô nước! Rồi để cho xương bị xém đi.
\s5
\q1
\v 11 Khi ấy, hãy đặt cái nồi không lên mớ than lửa đỏ, để hâm nóng đồng nó, nhờ vậy sự ô uế ở bên trong sẽ tan chảy ra, chất gỉ nó bị thiêu đốt hết.
\q1
\v 12 Nó bị yếu đi vì mệt nhọc, nhưng ten rét chưa ra khỏi nó bởi lửa.
\s5
\p
\v 13 Cách ăn ở xấu hổ của ngươi nằm trong sự ô uế của ngươi, vì ta làm cho ngươi được sạch, nhưng ngươi vẫn còn dơ dáy. Ngươi vẫn không ra khỏi sự ô uế ngươi cho tới chừng cơn giận ta lìa khỏi ngươi.
\s5
\p
\v 14 Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố ra điều đó, nó sẽ xảy ra, và ta sẽ thực hiện nó! Ta sẽ không lui đi, ta sẽ không nghỉ ngơi về việc ấy. Theo mọi đường lối cũng như các việc làm của ngươi, ta sẽ phán xét ngươi! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\p
\v 15 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 16 “Hỡi con người, kìa! Ta dùng dịch lệ cất sự ham muốn khỏi mắt ngươi, nhưng ngươi chẳng than vãn cũng chẳng khóc lóc, và nước mắt ngươi chẳng chảy ra.
\v 17 Hãy than thầm đi. Chớ cư tang cho kẻ chết. Hãy quấn khăn lên đầu ngươi và xỏ giày vào chân, nhưng chớ trùm tóc lại hay ăn bánh của những kẻ than khóc vì mất vợ mình.”
\s5
\p
\v 18 Vậy, ta nói cùng dân sự lúc sáng ngày, rồi vợ ta ngã chết lúc ban chiều. Và ta đã làm y như lời đã truyền cho ta lúc ban sáng.
\s5
\p
\v 19 Dân sự hỏi ta: “Ngươi sẽ không nói cho chúng ta biết mọi sự nầy có nghĩa gì, những việc mà ngươi đang làm đó?”
\p
\v 20 Vậy ta đáp cùng họ: “Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 Hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Sự kiêu ngạo về sức lực, sự ham muốn của mắt, và tư dục ngươi đang làm ô uế nơi thánh ta! Vậy, các con trai và con gái các ngươi mà các ngươi đã để lại sẽ ngã bởi gươm.
\s5
\v 22 Khi ấy, các ngươi sẽ làm y như ta đã làm: các ngươi không trùm tóc lại, không ăn bánh của những kẻ đang than khóc!
\v 23 Thay vì thế, khăn các ngươi sẽ để yên trên đầu, và giày các ngươi sẽ mang luôn dưới chân; các ngươi sẽ không than vãn không khóc lóc, vì các ngươi sẽ bị hao mòn trong tội ác mình, và mỗi người sẽ than vãn vì anh em mình.
\v 24 Vậy, Ê-xê-chi-ên sẽ là một dấu cho các ngươi, giống như mọi sự nó đã làm, các ngươi sẽ làm khi sự nầy xảy đến. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 25 “Còn ngươi, hỡi con người, nhằm ngày ta bắt lấy chùa miễu chúng nó, là sự vui vẻ, sự kiêu ngạo, và thứ chúng nom thấy và ham muốn — và khi ta cất bỏ con trai và con gái chúng nó —
\v 26 trong ngày đó, kẻ đi trốn đến cùng các ngươi đặng cho các ngươi hay tin tức!
\v 27 Trong ngày đó, miệng ngươi sẽ mở ra cùng với miệng của gã đó và các ngươi sẽ nói — các ngươi sẽ chẳng im lặng nữa. Các ngươi sẽ là một dấu cho chúng nó hầu cho chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\c 25
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt nghịch cùng dân Am-môn rồi nói tiên tri nghịch cùng chúng nó.
\s5
\v 3 Hãy nói với dân Am-môn, Hãy nghe lời của Chúa Giê-hô-va. Đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Ngươi đã nói: “A-ha!” nghịch cùng nơi thánh ta khi nó bị báng bổ, và nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên khi nó bị hoang vu, và nghịch cùng nhà Giu-đa khi chúng bị đưa đi làm phu tù.
\v 4 Bởi cớ đó, kìa! Ta sẽ phó ngươi cho một dân ở phương đông làm của cải của chúng nó; chúng nó sẽ dựng trại ở giữa ngươi và dựng trại ở đó. Chúng nó sẽ ăn hoa quả của ngươi và chúng sẽ uống sữa của ngươi!
\v 5 Và ta sẽ khiến đồng cỏ Ra-ba thành chuồng lạc đà và dân Am-môn thành ruộng cho các bầy súc vật, như vậy các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi đã vỗ tay, dậm chân, và vui mừng với mọi sự khinh miệt ở trong lòng nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bởi cớ đó, kìa! Ta sẽ đánh ngươi bằng tay rồi ban ngươi làm chiến lợi phẩm cho các nước. Ta sẽ dứt ngươi khỏi các dân và ta sẽ khiến ngươi hư mất khỏi giữa các nước! Ta sẽ hủy diệt ngươi, và ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 8 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì Mô-áp và Sê-i-rơ nói: “Kìa! Nhà Giu-đa cũng giống như từng nước khác!”
\v 9 Vì lẽ đó, kìa! Ta sẽ mở các bờ cõi của dân Mô-áp, khởi từ các thành của nó trên đường biên giới — thành lộng lẫy Bết-Giê-si-mốt, thành Ba-anh-Mê-ôn, và thành Ki-ri-a-ta-im —
\v 10 cho dân đông phương nào nghịch cùng dân Am-môn. Ta sẽ ban chúng làm của cải hầu cho dân Am-môn không được ghi nhớ giữa các dân nữa.
\v 11 Vậy, Ta cũng sẽ thi hành sự phán xét nghịch cùng Mô-áp, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 12 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: ‘Ê-đôm đã làm sự báo thù nghịch cùng nhà Giu-đa và đã phạm sai lầm trong việc ấy.
\v 13 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đánh Ê-đôm bằng tay ta và huỷ diệt từng người và vật ở đó. Ta sẽ khiến chúng ra một nơi đổ nát, vứt đi, từ Thê-man đến Đê-đan. Chúng nó sẽ ngã bởi gươm!
\s5
\v 14 Trong cách thức nầy, Ta sẽ thực hiện sự báo thù ta trên Ê-đôm bởi tay của dân Y-sơ-ra-ên ta, và họ sẽ đãi dân Ê-đôm tuỳ theo cơn giận ta và sự thạnh nộ ta. Vậy, chúng nó sẽ nhìn biết sự báo thù của ta! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Dân Phi-li-tin thực hiện sự báo thù theo lòng ghen ghét và từ trong lòng chúng đã tìm cách tiêu diệt Giu-đa rất nhiều lần.
\v 16 Vậy, đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Ta sẽ chìa tay ra nghịch cùng dân Phi-li-tin, và ta sẽ dứt bỏ những dân Kê-rê-thít và huỷ diệt dân sót sống dọc theo mé biển!
\v 17 Vì Ta sẽ thực hiện sự báo thù lớn nghịch cùng chúng nó với những hành động trừng phạt dữ dội, để chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ làm sự báo thù giáng trên chúng!’”
\s5
\c 26
\cl
\p
\v 1 Khi ấy là năm thứ mười một, nhằm ngày mùng một của tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, vì Ty-rơ đã nói nghịch cùng Giê-ru-sa-lem: “A-ha! Hai cánh cổng của dân sự đã vỡ nát rồi! Nó đã xây lại cùng ta; Ta sẽ được đầy dẫy khi nó bị đổ nát!
\s5
\v 3 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Hỡi Ty-rơ, ta nghịch cùng ngươi, và ta sẽ dấy nhiều nước lên nghịch cùng ngươi, như đại dương dậy sóng vậy!
\v 4 Chúng nó sẽ hủy phá các bức tường của Ty-rơ rồi xô-đổ các tháp của nó. Ta sẽ quét bụi nó đi và khiến nó giống như vầng đá trơ trụi.
\s5
\v 5 Nó sẽ thành ra một chỗ để phơi lưới ở giữa biển, một khi ta đã công bố điều nầy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và nó sẽ trở thành chiến lợi phẩm cho các nước!
\v 6 Các con gái nó ở trong đồng ruộng sẽ bị giết bằng gươm, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 7 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ đem Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, nghịch cùng Ty-rơ từ phía Đông, là vua của các vua, với ngựa, xe cộ, lính kỵ! Một đoàn dân đông có nhiều người!
\v 8 Người sẽ dùng gươm giết các con gái của ngươi ngoài đồng ruộng và sẽ lập đồn đắp lũy nghịch cùng ngươi, và đưa thuẫn lên nghịch cùng ngươi!
\s5
\v 9 Người sẽ đặt máy phá vách thành của ngươi, và các công cụ người sẽ phá sập các tháp của ngươi!
\v 10 Người sẽ che phủ ngươi với bụi đất của nhiều xe ngựa! Các vách thành ngươi sẽ rúng động vì tiếng của kỵ binh và bánh xe do ngựa kéo khi người bước qua hai cánh cổng của ngươi, giống như cổng của thành bị tấn công!
\v 11 Người sẽ chà đạp trên các đường phố ngươi với móng của nhiều ngựa; người sẽ dùng gươm giết dân ngươi, và các trụ đá cứng cáp kia sẽ ngã xuống đất.
\s5
\v 12 Bằng cách thức nầy, họ sẽ tước hết sức lực ngươi và cướp hàng hóa ngươi! Họ sẽ phá sập vách thành ngươi và bầy ngựa chiến của ngươi cho đến khi đá, gỗ và bụi đất của ngươi phải nằm ở giữa các dòng sông.
\v 13 Vì ta sẽ dứt tiếng các bài ca của ngươi, và tiếng đàn cầm của ngươi chẳng còn ai nghe thấy nữa!
\v 14 Vì ta sẽ khiến ngươi thành ra vầng đá trơ trụi; ngươi sẽ trở thành một chỗ cho người ta phơi lưới. Ngươi sẽ không còn gượng dậy được nữa, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều nầy! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng thành Ty-rơ: Có phải các hòn đảo rung rinh với tiếng sụp đổ của ngươi, và với tiếng than vãn của kẻ bị thương khi sự tàn sát ghê khiếp xảy ra ở giữa ngươi?
\v 16 Vì hết thảy các quan ở miền biển sẽ bước xuống khỏi ngai mình và cởi áo choàng ra và lột bỏ những áo có nhiều màu sắc của họ! Họ sẽ khoác lấy sự sợ hãi! Họ sẽ ngồi xuống đất, run rẩy luôn, và lấy làm kinh khiếp vì cớ ngươi!
\s5
\v 17 Họ sẽ cất giọng lên hát bài ca thương cho ngươi và nói cùng ngươi: Hỡi thành đã bị huỷ diệt, nơi ngươi có nhiều thuỷ thủ trú ngụ! Thành nổi tiếng là rất mạnh mẽ — giờ đây thành ấy đã ra khỏi biển! Và những người từng sống trong nó đặt sự khiếp sợ trong họ trên mọi dân nào sinh sống ở gần họ.
\q1
\v 18 Bây giờ các bờ biển run rẩy trong ngày ngươi sụp đổ! Các hòn đảo trong biển lấy làm khủng khiếp, vì ngươi đã chết mất.
\s5
\p
\v 19 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta khiến ngươi trở nên một thành hoang vu, giống như các thành khác không có dân ở, khi ta dấy lên các vực sâu nghịch cùng ngươi, và khi các biển lớn che lấp ngươi,
\v 20 khi ấy, ta sẽ hạ ngươi xuống với những kẻ thời thượng cổ, giống như các dân khác sa xuống nơi thấp của đất; vì ta sẽ khiến ngươi sống trong những miền thấp nhất của đất như trong đống đổ nát thời thượng cổ. Vì cớ điều nầy, ngươi sẽ không còn trở lại vùng đất mà người ta sinh sống ở đó.
\v 21 Ta sẽ tra tai vạ trên ngươi, và ngươi sẽ chẳng còn tồn tại nữa. Người ta sẽ tìm kiếm ngươi, song chẳng có ai tìm gặp ngươi nữa — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!’”
\s5
\c 27
\cl
\p
\v 1 Một lần nữa lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Bây giờ ngươi, hỡi con người, hãy khởi sự một bài ca thương về thành Ty-rơ,
\v 3 và hãy nói cùng thành Ty-rơ: Ngươi là kẻ sống trong các cửa biển, buôn bán với các dân trong nhiều đảo, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Ty-rơ! Ngươi có nói: “Ta rất xinh tốt trọn vẹn!”
\s5
\q1
\v 4 Các đường biên giới của ngươi ở trong lòng biển; những kẻ xây dựng của ngươi đã làm cho sự xinh tốt ngươi được trọn vẹn.
\q1
\v 5 Họ đã ghép ván của ngươi với cây tùng lấy từ núi Hẹt-môn; họ lấy cây bách từ Li-ban đặng chế cột buồm cho ngươi.
\s5
\q1
\v 6 Họ làm cây chèo của ngươi bằng cây dẽ ở Ba-san; họ lấy gỗ hoàng dương của đảo Chíp làm ván lợp, và họ cẩn chúng bằng ngà voi.
\q1
\v 7 Buồm của ngươi là vải gai mịn có màu sắc dệt từ Ê-díp-tô giống như cờ xí của ngươi!
\s5
\q1
\v 8 Người nào sống trong Si-đôn và A-vát là bạn chèo của ngươi; những người khôn ngoan của Ty-rơ có mặt ở giữa ngươi; họ là hoa tiêu của ngươi.
\q1
\v 9 Những tay thợ kinh nghiệm cao đến từ Bíp-lô làm cho chỗ ghép nối được liền lạc; mọi tàu bè của biển cùng các thuỷ thủ ở giữa ngươi lo chuyên chở hàng hóa của ngươi!
\s5
\q1
\v 10 Người xứ Ba-tư, người Ly-đi, và Li-bi có mặt trong quân đội của ngươi, các lính chiến ngươi! Họ treo thuẫn và mão trụ trong ngươi; họ tỏ ra sự rực rỡ của ngươi!
\q1
\v 11 Những người xứ A-vát và Hê-léc trong quân đội ngươi đứng trên các vách thành chung quanh ngươi, và dân Gam-mát thì ở trên các tháp ngươi! Họ treo thuẫn quanh vách thành ngươi! Họ làm cho sự đẹp đẽ ngươi được trọn vẹn!
\s5
\p
\v 12 Ta-rê-si là khách hàng của ngươi vì đủ mọi thứ của cải: bạc, sắt, thiếc, chì. Họ mua bán các thứ hàng hoá của ngươi!
\p
\v 13 Gia-van, Tu-banh và Mê-siếc — buôn bán nô lệ và các thứ làm bằng đồng. Họ buôn bán hàng hoá với ngươi.
\s5
\p
\v 14 Bết Tô-ga-ma cung ứng ngựa, ngựa chiến, và con la đổi lấy hàng hoá của ngươi.
\p
\v 15 Những người của đảo Đê-đan là bạn hàng ngươi trên nhiều bờ biển. Hàng hoá nằm trong tay ngươi; họ đổi lại sừng, ngà voi và gỗ mun, như đồ cống nạp!
\s5
\p
\v 16 A-ram là bạn hàng với nhiều sản phẩm của ngươi; họ cung ứng bích ngọc, vải màu, đồ thêu, vải gai mịn, ngọc trai, hồng ngọc mà đổi hàng của ngươi.
\p
\v 17 Giu-đa và đất Y-sơ-ra-ên buôn bán với ngươi. Họ cung ứng lúa mì từ Min-nít, bánh ngọt, mật ong, dầu, và nhũ hương để đổi hàng hoá của ngươi.
\p
\v 18 Đa-mách là lái buôn các sản phẩm ngươi, của cải ngươi đầy dẫy, và họ lấy rượu của Hên-bôn và lông chiên trắng ở Xa-ha mà đổi chác cùng ngươi.
\s5
\p
\v 19 Vê-đan và Gia-van từ U-xa cung ứng cho ngươi hàng hoá đổi lấy sắt sáng, nhục quế, và xương bồ. Điều nầy trở nên hàng hoá cho ngươi.
\p
\v 20 Đê-đan là bạn hàng của ngươi về các thứ vải hoa lót yên ngựa.
\p
\v 21 A-ra-bi và mọi quan trưởng ở Kê-đa buôn bán với ngươi; họ cung ứng cho ngươi với chiên con, chiên đực, và dê đực.
\s5
\p
\v 22 Những thương buôn ở Sê-ba và Ra-a-ma đến bán cho ngươi mọi thứ hương tốt nhất và mọi thứ đá quí; họ buôn vàng đổi lấy hàng hóa ngươi.
\p
\v 23 Ha-ran, Can nê, và Ê-đen là thương buôn với ngươi, cùng với Sê-ba, A-sua và Kin-mát.
\s5
\v 24 Đây là các bạn hàng ngươi: áo màu tía và thêu, cùng các thứ vải, các thứ chăn nhiều màu sắc, thêu, và áo dệt trong thị trường ngươi.
\q1
\v 25 Tàu bè ở Ta-rê-si là phương tiện chuyên chở hàng hoá ngươi! Vậy, ngươi được đầy dẫy hàng hoá trong lòng biển!
\s5
\q1
\v 26 Các tay chèo của ngươi đưa ngươi vào các đại dương mênh mông; ngọn gió đông đã đập nát ngươi ở giữa biển.
\q1
\v 27 Sự giàu có, hàng hoá, các thứ buôn bán; thủy thủ, người đi biển, và thầy thợ đóng tàu; bạn hàng, hết thảy lính chiến ở với ngươi, cả đoàn dân đông — họ sẽ sa vào vực sâu của biển trong ngày huỷ diệt ngươi.
\s5
\q1
\v 28 Các thành nơi biển sẽ run rẩy nơi tiếng kêu của hoa tiêu ngươi.
\q1
\v 29 Hết thảy những kẻ cầm chèo sẽ xuống khỏi tàu của họ; những thủy thủ, từng người đi biển sẽ đứng trên đất.
\q1
\v 30 Khi ấy chúng nó sẽ làm cho ngươi nghe thấy tiếng của họ và kêu la cay đắng; họ sẽ vãi bụi đất lên đầu họ. Họ sẽ lăn lóc trong tro bụi.
\s5
\q1
\v 31 Họ sẽ cạo trọc đầu vì cớ ngươi và thắt lưng bằng bao gai, và họ sẽ khóc lóc cay đắng và họ sẽ kêu la vì ngươi.
\q1
\v 32 Họ sẽ cất tiếng ca thương vì ngươi và hát bài truy điệu về ngươi, ai giống như Ty-rơ, là thành bây giờ đã im ắng ở giữa biển?
\q1
\v 33 Khi hàng hóa ngươi từ bờ ra biển, nó làm thoả mãn nhiều dân; ngươi làm giàu cho các vua trên đất với của cải và hàng hoá nhiều của ngươi!
\s5
\q1
\v 34 Nhưng khi ngươi bị tan tác trên các biển, dưới nước sâu; hàng hoá ngươi và dân sự ngươi hết thảy đều đắm chìm!
\q1
\v 35 Hết thảy cư dân nơi bờ biển đều vì cớ ngươi mà sững sờ, và các vua chúng nó đều khiếp sợ! Mặt họ đều run rẩy!
\q1
\v 36 Các thương buôn trong dân chúng phỉ báng ngươi; ngươi trở nên một sự kinh khiếp, và ngươi sẽ không tồn tại nữa!’”
\s5
\c 28
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói cùng vua của Ty-rơ rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì lòng ngươi rất ngạo mạn! Ngươi nói: Ta là một vị thần! Ta ngồi trên ngôi của các thần trong lòng các đại dương!” Mặc dù ngươi là người chớ không phải là Thần, ngươi tưởng lòng ngươi giống như lòng của một vì thần;
\v 3 Ngươi tưởng rằng ngươi khôn hơn Đa-ni-ên, và chẳng có sự mầu nhiệm nào làm cho ngươi phải ngạc nhiên!
\s5
\q1
\v 4 Ngươi tự mình làm giàu với sự khôn ngoan và thông sáng; và đã thâu chứa vàng bạc trong kho ngươi!
\q1
\v 5 Bởi tài lèo lách rất lớn và bởi sự buôn bán ngươi, ngươi đã nhân rộng sự giàu có mình, vậy lòng ngươi ngạo mạn vì cớ sự giàu có ngươi!
\s5
\p
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì lòng ngươi dâng cao lên giống như lòng của một vị thần,
\v 7 Vì lẽ đó, ta sẽ đem những người lạ đến nghịch cùng ngươi, những kẻ kinh khủng đến từ các nước khác! Và họ sẽ dùng gươm nghịch cùng vẻ đẹp của sự khôn khéo ngươi, và họ báng bổ sự rực rỡ của ngươi!
\s5
\q1
\v 8 Họ sẽ xô ngươi xuống hố, rồi ngươi sẽ chết cái chết của những kẻ chết trong lòng biển!
\q1
\v 9 Thực sự ngươi dám nói: “Ta là một vị thần” trước mặt kẻ đến giết ngươi sao? Ngươi là người chớ không phải là Thần, và ngươi sẽ sa vào tay của kẻ đâm ngươi!
\q1
\v 10 Ngươi sẽ chết cái chết của kẻ không chịu phép cắt bì bởi tay người ngoại, vì ta đã công bố điều đó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!’”
\s5
\p
\v 11 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 12 “Hỡi con người, hãy làm một bài ca thương về vua Ty-rơ và hãy nói với người rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi là mẫu trọn vẹn, đầy sự khôn ngoan và tốt đẹp trọn vẹn!
\q1
\v 13 Ngươi vốn ở trong Ê-đen, là vườn của Đức Chúa Trời! Từng thứ đá quí phủ lên ngươi, là ngọc mã não, ngọc vàng lợt, và ngọc kim cương! Ngọc thủy thương, ngọc sắc biếc, và ngọc bích! Ngọc sắc chàm, ngọc sắc xanh, ngọc thông hành! Vàng lát giữa để các thứ đá nầy ở đúng vị trí trên ngươi! Chúng được sắm sẵn nhơn ngày ngươi mới được dựng nên để ngươi đeo chúng!
\s5
\q1
\v 14 Ta đặt ngươi trên hòn núi thánh như chê-ru-bim mà ta xức dầu để canh chừng nhân loại! Ta có mặt giữa các hòn đá quí mà ngươi bước đi trên đó.
\q1
\v 15 Ngươi có sự ngay thẳng kể từ ngày ngươi được dựng nên, cho đến lúc thấy sự bất công ở nơi ngươi.
\s5
\q1
\v 16 Nhân ngươi buôn bán thạnh lợi, ngươi đầy dẫy với bạo lực, vậy ngươi đã phạm tội! Ta đã xô ngươi như là vật ô uế xuống khỏi núi của Đức Chúa Trời và huỷ diệt ngươi, hỡi chê-ru-bim canh giữ kia, ra khỏi những hòn đá sáng như lửa!
\q1
\v 17 Lòng ngươi đã ngạo mạn với sự tốt đẹp ngươi; ngươi đã huỷ phá sự khôn ngoan vì sự rực rỡ của ngươi! Ta đã hạ ngươi xuống đất! Ta đã đặt ngươi trước mặt các vua để cho họ đều xem thấy ngươi.
\s5
\q1
\v 18 Vì cớ nhiều tội lỗi và sự buôn bán bất lương của ngươi, ngươi đã làm ô uế các nơi thánh ngươi! Vậy ta sẽ khiến lửa ra từ ngươi; nó sẽ thiêu đốt ngươi. Ta sẽ biến ngươi thành tro bụi ở trên đất trước mặt mọi kẻ đang nhìn vào ngươi.
\q1
\v 19 Hết thảy những kẻ biết ngươi giữa vòng các dân sẽ sững sờ về ngươi; họ sẽ lấy làm kinh khủng, và ngươi sẽ không còn tồn tại nữa!’”
\s5
\p
\v 20 Khi ấy Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi nghịch cùng Si-đôn và nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 22 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Si-đôn! Vì ta sẽ được tôn vinh ở giữa ngươi để dân sự ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va khi ta xét công bình nơi ngươi. Ta sẽ tỏ mình ra thánh nơi ngươi!
\s5
\q1
\v 23 Ta sẽ sai ôn dịch đến nơi ngươi và huyết nơi các đường phố ngươi, và giết chóc sẽ giáng xuống giữa ngươi. Khi gươm đến nghịch cùng ngươi từ bốn phương xung quanh, khi ấy ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\p
\v 24 Khi ấy, sẽ không còn có chà chuôm hay gai gốc gây đau đớn cho nhà Y-sơ-ra-ên từ bốn phía xung quanh nó, những kẻ xem khinh dân sự nó, bấy giờ chúng nó sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 25 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta đã nhóm nhà Y-sơ-ra-ên lại từ giữa các dân mà chúng nó đã bị tan rải trong đó, và khi ta được biệt riêng ra giữa vòng chúng, để các dân nhìn thấy. Khi ấy chúng sẽ lập nhà cửa trong xứ mà ta sẽ ban cho Gia-cốp tôi tớ ta!
\v 26 Lúc đó chúng nó sẽ sống an ninh trong đó và cất nhà, trồng vườn nho, rồi sống yên ổn khi ta thực hiện sự công bình giáng trên những kẻ xem khinh chúng từ bốn phương xung quanh; để chúng nó sẽ nhìn biết ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó!’”
\s5
\c 29
\cl
\p
\v 1 Năm thứ mười, tháng thứ mười, nhằm ngày mười hai trong tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt nghịch cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô; hãy nói tiên tri nghịch cùng người và cùng cả xứ Ê-díp-tô!
\v 3 Hãy công bố như vầy: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Hỡi Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, ta nghịch cùng ngươi! Ngươi là con thuỷ quái nằm ở giữa dòng sông, dám nói với ta: “Ta đã dựng dòng sông cho riêng ta!”
\s5
\q1
\v 4 Vì ta sẽ đặt những móc trong hàm ngươi, và cá trong sông Nin sẽ bám nơi vảy ngươi; Ta sẽ kéo ngươi lên khỏi giữa dòng sông ngươi cùng với hết thảy cá của dòng sông đang bám nơi vảy ngươi.
\q1
\v 5 Ta sẽ quăng ngươi vào trong đồng vắng, ngươi và hết thảy cá từ dòng sông của ngươi. Ngươi sẽ vấp ngã trên mặt ruộng; ngươi sẽ chẳng được thâu lại, cũng chẳng được ngước lên. Ta đã phó ngươi làm đồ ăn cho các loài vật sống của đất và cho các loài chim bay trên trời!
\s5
\v 6 Khi ấy, hết thảy dân cư Ê-díp-tô sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, vì chúng nó là cuống sậy cho nhà Y-sơ-ra-ên!
\v 7 Khi chúng nó cầm lấy ngươi trong tay chúng, ngươi gãy ra thành từng khúc nhỏ và đâm thủng vai chúng; khi chúng nó dựa trên ngươi, thì ngươi tự giập ra, và làm cho hông chúng nó phải lay động.
\s5
\p
\v 8 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ đem gươm đến nghịch cùng ngươi; ta sẽ dứt khỏi ngươi cả người và thú.
\v 9 Vì thế đất Ê-díp-tô sẽ trở nên hoang vu và là một đống đổ nát; khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, vì con thuỷ quái đã nói: “Sông thuộc về ta, vì ta đã dựng nên nó!”
\v 10 Vì lẽ đó, kìa! Ta nghịch cùng ngươi và nghịch cùng dòng sông của ngươi, vậy ta sẽ khiến đất Ê-díp-tô thành ra hoang vu vắng vẻ, và ngươi sẽ trở thành đồng hoang Mi-đô đến từ tháp Sy-e-nê cho đến bờ cõi của Cút.
\s5
\v 11 Chẳng có bàn chân người đi qua nó! Chẳng có bàn chân thú vật đi qua nó! Và sẽ chẳng có dân cư ở đó trong bốn mươi năm!
\v 12 Ta sẽ khiến đất Ê-díp-tô thành một chỗ hoang vu ở giữa các đất không người ở, và các thành nó ở giữa các thành bị tàn phá sẽ trở nên hoang vu trong bốn mươi năm; khi ấy ta sẽ tan rải dân Ê-díp-tô giữa vòng các dân, và ta sẽ làm cho chúng nó tan tác trong các nước.
\s5
\p
\v 13 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cuối bốn mươi năm, ta sẽ thâu Ê-díp-tô lại từ giữa các dân mà chúng nó đã bị tan rải trong đó.
\v 14 Ta sẽ phục hồi những kẻ may mắn của Ê-díp-tô rồi đem chúng nó về với khu vực Pha-trốt, với nguyên quán của họ. Khi ấy họ sẽ trở thành một nước yếu hèn ở đó.
\s5
\v 15 Nó sẽ trở thành nước yếu hèn nhất trong các nước, và nó sẽ không dấy lên trên các nước nữa. Ta sẽ khiến chúng nó suy yếu đi để chúng nó không còn trị vì trên các nước nữa.
\v 16 Người Ai-cập sẽ không còn là cái cớ để nhà Y-sơ-ra-ên nương cậy. Thay vì thế, họ sẽ là một sự nhắc nhớ đến tội lỗi mà Y-sơ-ra-ên đã phạm khi họ xây sang Ai-cập để xin trợ giúp. Khi ấy họ sẽ nhìn biết rằng ta là Chúa Giê-hô-va
\s5
\v 17 Lúc đó là năm thứ hai mươi bảy, ngày mùng một tháng thứ nhứt, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 18 “Hỡi con người, Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, đã đặt quân đội mình vào những việc rất nặng nhọc nghịch cùng Ty-rơ. Mọi đầu đều cạo trọc, và mọi vai đều đã mỏi mòn, nhưng vua ấy chưa được tiền công nào từ thành Ty-rơ cho mình, hoặc cho quân đội mình, để bù lại công khó mà ông ta đã làm nghịch cùng Ty-rơ.
\s5
\v 19 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ ban đất Ê-díp-tô cho Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, và người sẽ tước đoạt sự giàu có, tước hết của cải và lấy đi mọi thứ mà người tìm gặp ở đó; đó sẽ là tiền công của quân đội người!
\v 20 Ta đã ban cho người đất Ê-díp-tô làm tiền công cho công việc họ đã làm cho ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 21 Trong ngày đó, ta sẽ dựng nên một cái sừng mọc ra cho nhà Y-sơ-ra-ên, và ta sẽ khiến ngươi rao giảng ở giữa chúng nó, hầu cho chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!’”
\s5
\c 30
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy khóc than! “Khốn nạn cho ngày hầu đến!”
\q1
\v 3 Ngày gần rồi! Ngày ấy gần rồi, vì Đức Giê-hô-va! Là ngày có nhiều mây, kỳ định cho các dân tộc!
\s5
\q1
\v 4 Khi ấy, gươm sẽ đến nghịch cùng Ê-díp-tô, và sẽ có buồn rầu ở Cút khi những kẻ bị giết sẽ ngã xuống trong xứ Ê-díp-tô — họ cướp lấy sự giàu có của nó, và khi các nền nó bị huỷ hoại!
\p
\v 5 Cút, Phút, và Lút, và hết thảy các dân ngoại, cùng với dân sự thuộc về giao ước — hết thảy họ sẽ ngã xuống bởi gươm!
\s5
\p
\v 6 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng một thể ấy, những người nào hỗ trợ Ê-díp-tô sẽ ngã xuống, và sự kiêu ngạo về sức lực nó sẽ sụp xuống. Từ Mi-đô cho đến Sy-e-nê binh lính của chúng sẽ ngã xuống bởi gươm! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\v 7 Chúng nó sẽ phải kinh hoảng ở giữa các nước bị bỏ, và các thành của chúng nó sẽ ở giữa các thành bị huỷ diệt!
\s5
\q1
\v 8 Khi ấy, chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta buông lửa xuống trong xứ Ê-díp-tô, và khi mọi kẻ vùa giúp nó đã bị huỷ diệt!
\p
\v 9 Trong ngày đó, các sứ giả sẽ đi ra từ trước mặt ta trong các tàu bè làm cho Cút đang an ninh phải kinh hãi, và sẽ có đau khổ giữa vòng chúng nhơn ngày đã định của Ê-díp-tô. Vì kìa! Ngày ấy đang đến!
\s5
\p
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ làm ra sự cuối cùng của đoàn dân đông ở Ê-díp-tô bởi tay của Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn.
\q1
\v 11 Vua ấy cùng quân đội mình, nổi kinh hãi của các nước, sẽ được đem đến đặng huỷ diệt đất; chúng nó sẽ rút gươm nghịch cùng xứ Ê-díp-tô và làm cho đất đầy những người đã chết!
\s5
\q1
\v 12 Ta sẽ làm cho các sông khô đến tận đáy, và ta sẽ bán đất ấy vào trong tay những kẻ dữ. Ta sẽ khiến đất và sự hoang vu cùng khắp của nó bởi tay các dân ngoại! Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều đó!
\s5
\p
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ hủy diệt các hình tượng và ta sẽ dứt điểm các hình tượng vô giá trị của Mem-phi. Sẽ chẳng có vua trong đất Ê-díp-tô, và ta sẽ mặc lấy sự kinh khiếp cho đất Ê-díp-tô!
\q1
\v 14 Khi ấy, ta sẽ làm cho Pha-trốt ra hoang vu và tra lửa lên Xô-an, và ta thực hiện các hành động phán xét giáng trên Thê-be.
\s5
\q1
\v 15 Vì Ta sẽ đổ cơn giận ta trên Phê-lu-si-um, là đồn luỹ của Ê-díp-tô, và dứt bỏ đoàn dân đông của Thê-be.
\q1
\v 16 Lúc ấy, ta sẽ tra lửa trong Ê-díp-tô. Phê-lu-si-um sẽ bị thương tích nặng nề và Thê-be sẽ bị phá tan. Mem-phi sẽ có nhiều kẻ thù mỗi ngày!
\s5
\q1
\v 17 Các thanh niên ở Hê-li-ô-bô-li và Bu-bát-ti sẽ ngã bởi gươm, và các thành ấy sẽ phải đi làm phu tù.
\q1
\v 18 Tại Tác-pha-nết, ban ngày sẽ tắt đèn của nó khi ta sẽ bẻ gãy cái ách của Ê-díp-tô ở đó, và sự kiêu ngạo về sức lực nó sẽ chấm dứt. Sẽ có một đám mây che lấp nó, và các con gái nó sẽ đi làm phu tù.
\q1
\v 19 Ta sẽ thực thi các hành động phán xét trong xứ Ê-díp-tô, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 20 Đến năm thứ mười một, tháng thứ nhứt, ngày mùng bảy trong tháng, Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 “Hỡi con người, ta đã bẻ gãy cánh tay của Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô. Kìa! Chẳng ai bó vít cho nó và không thể nhận lãnh thuốc men; không ai quấn chỗ bị thương, vì thế nó sẽ chẳng mạnh mẽ đủ để cầm gươm.
\s5
\v 22 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô! Vì ta sẽ bẻ cánh tay nó, cả hai: kẻ mạnh và kẻ gãy tay, và ta khiến gươm rớt xuống khỏi tay nó.
\v 23 Khi ấy, ta sẽ tan rải Ê-díp-tô giữa vòng các dân và làm cho họ tan tác giữa các nước.
\v 24 Ta sẽ làm cho cánh tay vua Ba-by-lôn thêm mạnh và đặt gươm ta trong tay người hầu cho ta sẽ huỷ diệt hai cánh tay của Pha-ra-ôn. Vua nầy rên la trước mặt vua xứ Ba-by-lôn với tiếng than vãn của một kẻ sắp chết.
\s5
\v 25 Vì ta sẽ làm cho hai cánh tay của vua Ba-by-lôn thêm mạnh, đang khi hai cánh tay của Pha-ra-ôn sẽ rơi xuống đất. Khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đặt gươm ta vào trong tay vua xứ Ba-by-lôn; vì người sẽ tấn công đất Ê-díp-tô bằng gươm ấy.
\v 26 Vậy, ta sẽ tan rải Ê-díp-tô giữa vòng các dân và làm cho chúng nó tan tác trong các nước. Khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!’”
\s5
\c 31
\cl
\p
\v 1 Nhằm năm thứ mười một, vào tháng thứ ba, vào ngày thứ nhứt trong tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, và các tôi tớ ở chung quanh người: Trong vẻ cao trọng của ngươi, ngươi giống ai vậy?
\s5
\q1
\v 3 Kìa! A-si-ri là cây bá hương trong Li-ban với các nhành nhánh xinh đẹp, cao lớn vào bóng phủ đất! Và ngọn của nó vượt lên khỏi các nhánh.
\q1
\v 4 Nhiều dòng sông giúp cho nó cao lên; dòng nước sâu khiến nó ra đồ sộ. Các dòng sông chảy quanh khu vực của nó, vì các con rạch của chúng vươn dài ra tưới mọi cây cối ở trong đồng ruộng.
\s5
\q1
\v 5 Chiều cao ngất ngưỡng của nó vượt khỏi mọi cây cối khác ngoài đồng, và nó đâm ra nhiều nhánh, và các nhành nó mọc dài ra là nhờ có nhiều nước làm cho nó lớn lên.
\q1
\v 6 Mọi giống chim trời làm tổ trong các nhành nhánh nó, trong khi các vật sống trong đồng ruộng đẻ con nhỏ nó dưới bóng nó. Hết thảy các dân tộc đến ngụ dưới bóng nó.
\q1
\v 7 Vì nó rất xinh tốt bởi sự cao lớn nó và nhành nhánh nó mọc dài ra, vì bộ rễ nó bắt theo các dòng nước!
\s5
\q1
\v 8 Các cây bá hương ở trong vườn Đức Chúa Trời không thể sánh với nó được! Không một cây tùng nào so cùng các nhánh nó được, và cây bàng không sánh bằng các nhành của nó được. Không một cây nào trong vườn của Đức Chúa Trời có thể sánh xinh tốt bằng nó cả!
\q1
\v 9 Ta đã làm cho nó ra xinh tốt với nhiều nhành nhánh nó; và hết thảy cây cối trong vườn Ê-đen mọc trong vườn của Đức Chúa Trời đều ganh tỵ với nó!
\s5
\p
\v 10 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đồ sộ như thế, và vì ngọn nó vượt cao lên khỏi các nhành nhánh nó, và tấm lòng nó ngước cao lên tới độ cao ấy —
\v 11 Vì lẽ ấy, ta sẽ phó nó trong tay một vua mạnh nhất trong các nước! Vua nầy đã hành động nghịch cùng nó rồi trục xuất nó vì sự gian ác nó!
\s5
\v 12 Những dân ngoại nào là sự kinh khiếp của các dân đã vứt bỏ nó. Các nhánh nó rớt xuống trên các núi và trong mọi đồng trũng, và các nhành nó bị gãy trôi sông trên đất. Khi ấy các dân trên đất tránh xa bóng nó và dứt bỏ nó.
\s5
\v 13 Mọi loài chim trời sẽ đậu trên sự đổ nát của nó, và mọi loài thú đồng sẽ đến ngồi trên các nhành nó.
\v 14 Điều nầy đã xảy ra hầu cho chẳng có cây cối nào khác trồng gần dòng nước sẽ cao lên đến bực ấy, hầu cho chúng sẽ không để ngọn của chúng vượt lên khỏi tàng cây, vì không một cây nào khác hút lấy nước từng cao lên tới mực đó nữa. Vì hết thảy chúng nó bị phó cho sự chết, cho phần vực sâu của đất, ở giữa con cái loài người, họ nhào xuống dưới hố sâu.
\s5
\p
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mà nó xuống đến âm phủ ta sẽ mang sự khóc than đến trên đất. Ta dùng các dòng sông sâu lấp nó, và ta giữ lại nước của đại dương. Ta cầm lại các dòng nước lớn, và ta đem sự khóc than đến Li-ban vì cớ nó! Vậy, mọi cây cối ngoài đồng đều khóc than về nó.
\s5
\v 16 Ta khiến cho các dân nghe thấy tiếng nó sụp đổ, khi ta quăng nó xuống đến âm phủ với những kẻ đi xuống hố sâu! Và ta yên ủi mọi cây cối trong vườn Ê-đen nơi các phần thấp nhất của đất! Đây là cây tốt nhứt được chọn và các loại cây tốt nhứt của Li-ban, những cây cối đã hút lấy nước từ các dòng sông!
\s5
\v 17 Vì chúng cũng đi xuống với nó trong âm phủ, với những kẻ đã bị gươm giết! Đây là cánh tay mạnh mẽ của nó, các dân ấy đã sống dưới bóng phủ của nó.
\p
\v 18 Ngươi sánh sự cao trọng và vinh hiển với cây nào trong các cây cối ở vườn Ê-đen? Vì ngươi sẽ bị đốn hạ cùng với cây cối trong vườn Ê-đen xuống các phần thấp nhất của đất giữa kẻ không chịu phép cắt bì; ngươi sẽ sống với những kẻ bị gươm giết! Đây là Pha-ra-ôn và hết thảy các tôi tớ người! — Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!’”
\s5
\c 32
\cl
\p
\v 1 Nhằm năm thứ mười hai, tháng thứ mười hai, ngày mùng một tháng chạp, lời của Đức Giê-hô-va phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy cất tiếng ca thương về Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô; hãy nói cùng người: Ngươi giống như một con sư tử tơ ở giữa các dân, giống như con thuỷ quái; ngươi trướng lên trên mặt nước, ngươi cùng chân khuấy nước và khiến cho nước dậy bùn lên!
\s5
\p
\v 3 Chúa Giê-hô-va phán: Vậy ta sẽ giăng lưới ta trên ngươi trong hội chúng của nhiều người, và họ sẽ kéo ngươi lên trong lưới ta!
\q1
\v 4 Ta sẽ bỏ ngươi lại trong xứ! Ta sẽ quăng ngươi vào thửa ruộng và khiến mọi loài chim trời đậu trên ngươi; sự đói khát của các loài vật sống trên đất sẽ no nê bởi ngươi.
\s5
\q1
\v 5 Ta sẽ đặt thịt ngươi trên các núi, và ta sẽ lấp đầy các nơi trũng với sâu bọ đầy dẫy thi thể ngươi!
\q1
\v 6 Khi ấy, Ta sẽ rưới huyết ngươi trên các núi, và các đáy sông sẽ đầy cả huyết ngươi!
\s5
\q1
\v 7 Khi ấy, ta sẽ dập tắt đèn của ngươi, ta sẽ che các từng trời lại và làm cho các ngôi sao nó ra tối tăm; ta sẽ che mặt trời lại với các đám mây, và mặt trăng sẽ không chiếu sáng nữa!
\q1
\v 8 Ta sẽ tắt đi mọi ngọn đèn lấp lánh chiếu trên ngươi từ trên trời, và ta sẽ bủa sự tăm tối trên đất ngươi! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\q1
\v 9 Vậy, ta sẽ làm lòng nhiều người trong các nước mà ngươi không biết phải kinh khủng, khi ta đem sự sụp đổ của ngươi ra giữa các dân tộc.
\q1
\v 10 Ta sẽ gây sốc nhiều dân về ngươi; các vua chúng nó sẽ vì cớ ngươi mà hết hồn lo sợ, khi ta giơ gươm lên trước mặt họ. Từng phút từng người sẽ run sợ vì cớ ngươi, trong ngày ngươi phải sụp đổ.
\s5
\p
\v 11 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Gươm của vua xứ Ba-by-lôn sẽ đến nghịch cùng ngươi!
\q1
\v 12 Ta sẽ khiến các tôi tớ ngươi ngã xuống dưới gươm của các chiến binh — mỗi chiến binh là một sự kinh hãi của các dân. Các chiến binh nầy sẽ phá tán sự vinh hiển của Ê-díp-tô cùng tiêu diệt số dân đông của Ê-díp-tô!
\s5
\q1
\v 13 Vì ta sẽ huỷ diệt mọi súc vật nơi các bờ sông lớn; bàn chân con người sẽ chẳng còn quậy cho nước đục nữa, hoặc bởi vó của thú vật!
\q1
\v 14 Khi ấy, ta làm cho các dòng nước của chúng nó được bình lặng và khiến các sông chúng nó chảy như dầu — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\q1
\v 15 Khi ta khiến đất Ê-díp-tô — một đất đầy dẫy — thành ra một nơi đổ nát, một đất bị bỏ; khi ta tấn công hết thảy cư dân nó, khi ấy chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\p
\v 16 Sẽ có một bài ca thương! Vì con gái các nước sẽ than vãn về nó; chúng sẽ khóc than về Ê-díp-tô. Chúng sẽ than khóc về các tôi tớ của nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!’”
\s5
\p
\v 17 Nhằm năm thứ mười hai, ngày thứ mười lăm của tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 18 “Hỡi con người, hãy than khóc về Ê-díp-tô và hãy quăng họ — nó và con gái của các nước có danh tiếng — xuống chỗ đất thấp nhất với những kẻ đã xuống trong hố sâu đó!
\s5
\v 19 Hãy hỏi chúng: Có phải ngươi thực sự xinh đẹp hơn người khác chăng? Hãy đi xuống rồi và nằm với những kẻ không chịu cắt bì!
\v 20 Chúng sẽ ngã xuống giữa vòng những kẻ đã chết bởi gươm! Ê-díp-tô bị phó cho gươm; các kẻ thù nghịch nó sẽ túm lấy nó cùng các tôi tớ nó!
\v 21 Các chiến binh mạnh nhất ở âm phủ sẽ loan báo về Ê-díp-tô cùng các đồng minh nó: Chúng đã xuống tận đây, chúng sẽ nằm với những kẻ chưa chịu cắt bì đã chết bởi gươm!
\s5
\p
\v 22 A-si-ri có mặt ở đó với hết thảy hội chúng của nó! Mồ mả nó ở chung quanh nó; hết thảy chúng nó đã bị gươm giết.
\v 23 Những mồ mả đó bị đặt ở chỗ sâu thẳm của hầm hố ở đó, với hết thảy hội chúng nó. Các mồ mả nó vây quanh những kẻ đã bị giết, họ ngã chết bởi gươm, những kẻ đem sự kinh khiếp giáng trên xứ của người sống!
\s5
\p
\v 24 Tại đó có Ê-lam với hết thảy các tôi tớ nó! Các mồ mả nó ở chung quanh nó, hết thảy đều đã bị giết! Những kẻ đó ngã xuống bởi gươm, họ đi xuống các nơi thấp nhất của đất mà chưa chịu cắt bì, họ mang sự kinh khiếp của họ giáng trên đất người sống và giờ đây chúng mang sự xấu hổ theo với chúng, chúng đang đi xuống cái hố sâu!
\p
\v 25 Họ đặt cho Ê-lam cái nghĩa địa và hết thảy các tôi tớ nó ở giữa những kẻ bị giết; các mồ mả nó ở chung quanh nó! Hết thảy chúng chưa chịu phép cắt bì, họ bị giết bởi gươm, những kẻ đem sự kinh hãi vào trong xứ của người sống! Vậy chúng mang chính sự xấu hổ của chính mình theo với chúng, cùng với những kẻ đang đi xuống hố sâu ở giữa mọi kẻ đã bị giết, những kẻ đang đi xuống hố sâu. Ê-lam có mặt giữa vòng hết thảy những kẻ đã bị giết.
\s5
\p
\v 26 Tại đó có Mê-siếc và Tu-banh, cùng hết thảy các tôi tớ chúng! Mồ mả chúng ở chung quanh họ! Hết thảy chúng đều chưa chịu phép cắt bì, bị giết bởi gươm, vì chúng nó đã đem mọi điều kinh hãi của chúng trên đất của người sống.
\v 27 Có phải chúng nó không nằm chung với những chiến binh đã ngã xuống chưa chịu cắt bì, họ đã đi xuống âm phủ với đủ thứ khí giới của mình, và với gươm của chúng đặt dưới đầu của họ? Các cái khiêng của họ bị đặt trên hài cốt của họ. Vì họ là sự kinh hãi của chiến binh trong đất của người sống!
\s5
\p
\v 28 Còn ngươi, hỡi Ê-díp-tô, sẽ bị huỷ diệt ở giữa kẻ chưa chịu phép cắt bì! Và ngươi sẽ nằm với những kẻ bị giết bởi gươm!
\p
\v 29 Ê-đôm có mặt ở đó với các vua và hết thảy các quan trưởng nó. Họ rất năng động, nhưng giờ đây họ nằm với những kẻ bị gươm giết, với những kẻ chưa chịu cắt bì, những kẻ đó đã đi xuống hố sâu.
\s5
\p
\v 30 Các quan trưởng phương bắc có mặt ở đó — hết thảy họ và hết thảy dân Si-đôn đều đi xuống với kẻ chết! Họ rất năng động và khiến cho nhiều người khác phải kinh hãi, song giờ đây họ nằm ở đó trong xấu hổ, chưa chịu cắt bì với những kẻ bị gươm giết. Chúng mang lấy chính sự xấu hổ của mình, cùng với những người khác đang đi xuống hố sâu.
\s5
\p
\v 31 Pha-ra-ôn sẽ nom thấy thì được yên ủi về hết thảy các tôi tớ mình, những kẻ đã chết bởi gươm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 32 Ta khiến người thành lý do kinh hãi trong đất người sống, nhưng người sẽ nằm ở giữa kẻ chưa chịu phép cắt bì, giữa vòng những kẻ đã chết bởi gươm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\c 33
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy công bố điều nầy với dân sự ngươi; hãy nói cùng họ: Khi ta sai gươm đến trên bất kỳ đất nào, khi ấy dân của đất ấy chọn một người từ giữa chúng nó rồi khiến người trở thành kẻ canh giữ cho họ.
\v 3 Người ấy nhìn thấy gươm đến trong xứ, thì phải thổi kèn lên để cảnh báo cho dân sự!
\v 4 Nếu dân sự nghe tiếng kèn mà chẳng chú ý đến, rồi nếu gươm đến giết họ, thì máu của từng người ấy sẽ đổ lại trên đầu nó.
\s5
\v 5 Nếu nó nghe tiếng kèn mà chẳng chú ý, máu nó sẽ đổ lại trên nó; nhưng nếu nó chịu chú ý, người ấy sẽ cứu lấy chính mạng sống mình.
\p
\v 6 Tuy nhiên, nếu người canh nhìn thấy gươm đang xảy đến, nếu người chẳng trổi kèn lên, với kết quả là dân sự không được cảnh báo, và nếu gươm đến lấy mạng của bất kỳ ai, thì người ấy sẽ chết trong chính tội lỗi mình, nhưng ta sẽ đòi máu nó nơi người canh kia.
\s5
\p
\v 7 Bây giờ, hỡi ngươi, là con người! Ta đã lập ngươi làm người canh cho nhà Y-sơ-ra-ên; ngươi sẽ nghe lời ra từ miệng ta và cảnh báo chúng vì cớ ta.
\v 8 Nếu ta phán cùng kẻ ác: Hỡi kẻ làm ác kia, chắc chắn ngươi sẽ chết! Nhưng nếu ngươi không loan báo điều nầy để cảnh báo kẻ ác kia về đường lối nó, khi ấy kẻ sống gian ác đó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi!
\v 9 Nhưng ngươi, nếu ngươi cảnh báo kẻ ác về đường lối nó, hầu cho nó trở ngược lại mà ra khỏi đó, và nếu nó không xây lại khỏi đường lối nó, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó, còn ngươi sẽ cứu được chính mạng sống mình.
\s5
\p
\v 10 Cho nên, hỡi con người, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Các ngươi nói như vầy: Những sự quá phạm của chúng tôi, tội lỗi của chúng tôi đang giáng trên chúng tôi và chúng tôi hao mòn trong đó, làm sao chúng tôi sống cho được?
\v 11 Hãy nói cùng chúng nó: Như ta là hằng sống, — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta không lấy làm vui thích nơi cái chết của kẻ ác, vì nếu kẻ ác ăn năn ra khỏi đường lối mình, thế thì nó sẽ sống! Hãy ăn năn! Hãy ăn năn ra khỏi các lối ác của các ngươi! Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên?
\s5
\p
\v 12 Còn ngươi, hỡi con người, khá nói cùng dân sự ngươi: Sự công bình của người công bình sẽ không cứu được nó một khi nó phạm tội! Và sự gian ác của kẻ ác sẽ không khiến nó phải hư mất một khi nó ăn năn xây khỏi tội lỗi nó. Vì người công bình sẽ không có khả năng sống vì cớ sự công bình của người nếu người phạm tội.
\v 13 Nếu ta nói với người công bình: “Chắc chắn người sẽ sống!” Và nếu nó tin cậy nơi sự công bình mình và rồi phạm sự bất công, ta sẽ không nhớ đến bất kỳ việc công bình nào của nó; nó sẽ chết trong sự gian ác mà nó đã phạm.
\s5
\v 14 Và nếu ta nói cùng kẻ ác: “Ngươi chắc sẽ chết!” Nhưng nếu nó ăn năn xây khỏi tội lỗi mình, và làm theo điều chi là đúng đắn và phải lẽ —
\v 15 nếu nó hồi lại sự bảo đảm món nợ mà nó đã đòi theo cách gian ác, hoặc nếu nó trả lại những gì nó cướp giựt, và nếu nó ăn ở theo luật lệ ban sự sống và không phạm tội nữa — khi ấy nó chắc sẽ sống; nó sẽ không chết đâu.
\v 16 Chẳng có một tội nào nó đã phạm sẽ được nhớ lại nghịch cùng nó. Nó đã hành động cách đúng đắn và phải lẽ; chắc chắn nó sẽ sống!
\s5
\p
\v 17 Nhưng dân sự ngươi nói: “Đường lối của Đức Giê-hô-va không công bằng!” Nhưng chính đường lối của các ngươi mới là không công bằng!
\v 18 Khi người công bình xây khỏi sự công bình mình mà phạm tội, thì nó sẽ chết trong đó!
\v 19 Và khi kẻ dữ xây khỏi sự gian ác mình mà làm theo những gì là công bình và ngay thẳng, người ấy sẽ sống vì cớ những việc ấy!
\v 20 Nhưng các ngươi nói: “Đường lối của Đức Giê-hô-va là không công bằng!” Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ xét đoán từng người trong các ngươi theo đường lối của nó!”
\s5
\p
\v 21 Việc xảy ra nhằm năm thứ mười hai, ngày mùng năm tháng thứ mười trong sự phu tù của chúng ta, một người đào tẩu đến với ta từ thành Giê-ru-sa-lem nói rằng: “Thành đã bị chiếm rồi!”
\v 22 Bàn tay của Đức Giê-hô-va ở trên ta vào buổi chiều trước khi kẻ ấy đến, và miệng ta được mở ra ngay khi người ấy đến lúc sáng sớm. Vậy miệng ta được mở ra, ta không còn bị câm nữa! Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\s5
\v 23 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 24 “Hỡi con người, những kẻ ngụ ở nơi đống đổ nát trong đất Y-sơ-ra-ên đang nói như sau: Áp-ra-ham chỉ có một mình người, và ông hưởng được xứ nầy, còn chúng ta thì đông người! Xứ đã được ban cho chúng ta như một cơ nghiệp
\s5
\v 25 Vì lẽ đó, hãy nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi ăn huyết, rồi nhướng mắt nhìn về các hình tượng mình, rồi các ngươi làm đổ máu của dân sự ra. Các ngươi có thật hưởng đất nầy sao?
\v 26 Các ngươi nương vào gươm mình rồi phạm những điều gớm ghiếc; mỗi người làm ô uế vợ của kẻ lân cận mình. Các ngươi sẽ thực sự hưởng đất nầy sao?
\s5
\p
\v 27 Ngươi hãy nói điều nầy với chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Như ta là hằng sống, chắc chắn những kẻ ngụ trong đống đổ nát sẽ ngã xuống bởi gươm, và ta sẽ phó những kẻ ở ngoài đồng cho các loài vật sống làm đồ ăn, còn những kẻ ở trong các đồn lũy và trong hang thì sẽ ngã chết vì dịch lệ.
\v 28 Khi ấy, ta sẽ khiến đất nầy ra hoang vu và kinh khiếp, và kẻ kiêu ngạo về sức mạnh nó sẽ thôi đi, vì núi non của Y-sơ-ra-ên sẽ ra hoang vu, và chẳng có ai qua lại nơi chúng nữa.
\v 29 Vậy chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta khiến đất ra hoang vu và kinh khiếp vì cớ mọi sự gớm ghiếc mà chúng nó đã phạm.
\s5
\p
\v 30 Còn ngươi, hỡi con người — dân sự ngươi đang thốt ra những việc về ngươi bên cạnh các bức tường và cửa của mọi nhà, và mỗi người nói với nhau — mỗi người nói cùng anh em mình rằng: Chúng ta hãy đến nghe lời của vị tiên tri ra từ Đức Giê-hô-va!
\v 31 Vậy, dân sự ta sẽ đến cùng ngươi, y như họ vẫn thường làm, và sẽ ngồi ở trước mặt ngươi, rồi lắng nghe lời lẽ của ngươi, nhưng chúng nó sẽ không vâng theo đâu. Lời lẽ ngay thẳng nằm trong môi miệng của chúng nó, song tấm lòng của chúng nó đang nhắm vào lợi lộc bất công.
\s5
\v 32 Vì ngươi giống như một bài ca hay đối với chúng nó, một giọng hát dễ cảm và sử dụng nhạc cụ thông thạo, vậy chúng nó sẽ lắng nghe lời lẽ của ngươi, song chẳng có một người nào trong số chúng chịu làm theo.
\p
\v 33 Cho nên, khi mọi sự nầy xảy ra — và kìa! Nó sẽ đến! — Chúng nó sẽ nhìn biết rằng một tiên tri có mặt ở giữa chúng.”
\s5
\c 34
\cl
\p
\v 1 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng những kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên! Hãy nói tiên tri, và bảo họ: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên, là kẻ chỉ chăm về bản thân mình! Có phải người chăn không canh giữ bầy của mình sao?
\v 3 Các ngươi ăn phần mỡ và áo xống các ngươi mặc bằng lông chiên! Các ngươi giết những con mập béo trong bầy! Các ngươi không chăn gì hết cả!
\s5
\v 4 Các ngươi chẳng làm cho mạnh những con chiên có bịnh, các ngươi cũng chẳng chữa lành những con đau. Các ngươi chẳng bó vít những con bị thương, và các ngươi chẳng tìm những con bị ruồng bỏ hoặc tìm kiếm những con bị thất lạc. Thay vì thế, các ngươi dùng sức mạnh và bạo lực mà cai trị chúng.
\v 5 Khi ấy, chúng sẽ bị tan lạc vì không có người chăn, và chúng trở thành đồ ăn cho các loài vật sống trong đồng ruộng, sau khi chúng bị tản lạc.
\v 6 Bầy chiên ta đi lạc trên mọi núi và trên mọi đồi cao, và nó bị tan tác trên cả mặt đất. Tuy nhiên, chẳng có một ai tìm kiếm chúng hết.
\s5
\p
\v 7 Vì lẽ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời công bố của Đức Giê-hô-va:
\v 8 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vì bầy của ta trở nên đồ ăn của mọi loài thú ngoài đồng (vì không có kẻ chăn và chẳng có kẻ chăn nào tìm kiếm bầy của ta, nhưng những kẻ chăn lo cho bản thân họ mà chẳng có chăn bầy của ta) —
\s5
\v 9 vì cớ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va:
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng những kẻ chăn, và ta sẽ đòi lại bầy chiên ta nơi tay chúng nó. Khi ấy, ta không để cho chúng nó chăn bầy của ta nữa; những kẻ chăn sẽ không còn nuôi lấy mình nữa một khi ta sẽ móc chiên ta ra khỏi miệng chúng nó, hầu cho chiên của ta không còn làm đồ ăn cho chúng nó nữa.
\s5
\p
\v 11 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Chính ta sẽ tìm kiếm bầy chiên ta và ta sẽ trông lo cho chúng.
\v 12 Giống như kẻ chăn tìm bầy mình trong ngày kẻ ấy ở giữa bầy chiên tan lạc của mình. Ta cũng sẽ tìm bầy chiên ta, và ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi nơi mà chúng nó đã bị tan lạc trong ngày mây mù tăm tối.
\v 13 Khi ấy, ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ thâu chúng nó lại từ các nước rồi đem chúng về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ đặt chúng trong các đồng cỏ trên các núi của Y-sơ-ra-ên, bên các dòng nước, và trong từng chỗ định cư trong xứ.
\s5
\v 14 Ta sẽ đặt chúng vào những đồng cỏ tốt; trên núi cao của Y-sơ-ra-ên sẽ là chỗ gặm cỏ của chúng. Chúng sẽ nằm xuống trong những chỗ tử tế để gặm cỏ, ở các cánh đồng màu mỡ, và chúng sẽ gặm cỏ trên các núi của Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Chính ta sẽ chăn bầy chiên ta, và chính ta sẽ khiến chúng phải nằm xuống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va —
\v 16 Ta sẽ tìm con nào thất lạc và phục hồi con nào bị ruồng bỏ; ta sẽ bó vít con chiên nào bị gãy chân và chữa lành chiên bị đau. Và ta sẽ hủy diệt những con mập và mạnh! Ta sẽ dùng sự công bình mà chăn chúng nó!
\s5
\p
\v 17 Còn các ngươi, bầy chiên của ta — đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán — Kìa! Ta sẽ xét đoán giữa vòng chiên, chiên đực và dê đực!
\v 18 Được chăn thả trong đồng cỏ tươi tốt là việc nhỏ sao, mà ngươi còn muốn giày đạp phần cỏ còn lại dưới chơn các ngươi? Hay uống thứ nước trong là việc nhỏ sao, mà các ngươi lại lấy chân làm vất bùn lên ở các dòng sông chứ?
\v 19 Nhưng bầy chiên ta giờ đây lại được thả phải ăn cỏ chỗ chân các ngươi giày đạp, giờ đây chúng phải uống nước mà chân các ngươi quậy đục cả bùn thế kia!
\s5
\p
\v 20 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Chính ta sẽ xét đoán giữa những chiên mập và chiên gầy,
\v 21 vì các ngươi lấy hông lấy vai mà húc chúng, và các ngươi lấy sừng mà đâm vào mọi chiên con có ốm yếu cho đến chừng các ngươi làm cho chúng phải tan lạc ra khỏi xứ!
\s5
\v 22 Vì thế, ta sẽ cứu bầy chiên ta; chúng nó sẽ không còn làm chiến lợi phẩm nữa. Và ta sẽ xét đoán giữa bầy chiên.
\v 23 Ta sẽ dấy lên một người chăn chúng nó, và người sẽ chăn chúng nó — tức là Đa-vít, tôi tớ ta! Người sẽ chăn chúng nó; người sẽ làm kẻ chăn chúng nó!
\v 24 Vì ta, Đức Giê-hô-va, sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, và Đa-vít, tôi tớ ta, sẽ làm quan trưởng giữa chúng nó — Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều nầy!
\s5
\p
\v 25 Khi ấy, ta sẽ lập một giao ước bình an với chúng và cất bỏ các loài thú dữ ra khỏi đất, hầu cho chiên ta sẽ sống an ninh trong đồng vắng và ngủ trong rừng.
\v 26 Ta cũng sẽ giáng ơn phước trên chúng và vùng đồi núi xung quanh, vì ta sẽ khiến mưa sa nơi mùa thuận tiện. Sẽ là những trận mưa phước lành!
\v 27 Khi ấy, cây ngoài đồng sẽ ra trái, và đất sẽ sanh hoa lợi. Chiên ta sẽ ở yên ổn trong đất của chúng; khi ấy chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đã bẻ gãy những đòn cái ách của chúng nó, và khi ta giải cứu chúng nó ra khỏi tay những kẻ bắt chúng nó làm nô lệ.
\s5
\v 28 Chúng sẽ không còn làm chiến lợi phẩm cho các nước nữa, và các loài thú dữ trên đất sẽ chẳng còn cắn nuốt chúng nó nữa! Vì chúng nó sẽ sống yên ổn, và chúng sẽ chẳng còn lo sợ nữa.
\v 29 Vì ta sẽ tạo một chỗ trồng tỉa an bình cho chúng để chúng sẽ không còn đói khát trong đất mình nữa, và các nước cũng không còn sỉ nhục nghịch cùng chúng nữa.
\s5
\v 30 Khi ấy, chúng nó sẽ nhìn biết ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó, ở cùng chúng nó. Chúng nó là dân sự ta, nhà Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 31 Vì các ngươi là bầy chiên của ta, bầy của đồng cỏ ta; và là dân sự ta! Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”’
\s5
\c 35
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi đối cùng núi Sê-i-rơ rồi nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 3 Hãy nói cùng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Hỡi núi Sê-i-rơ, nầy, ta nghịch cùng ngươi, và ta sẽ dùng tay ta đánh ngươi, và khiến ngươi ra hoang vu và gở lạ.
\s5
\v 4 Ta sẽ khiến các thành ngươi ra những đống đổ nát, và bản thân ngươi sẽ trở nên hoang vu; lúc đó ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\p
\v 5 Vì ngươi luôn thù nghịch cùng dân Y-sơ-ra-ên, và vì ngươi phó họ vào trong tay kẻ cầm gươm trong lúc họ gặp tai vạ, trong lúc nó bị sửa phạt nặng nề nhất
\v 6 vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta sẽ sắm sẵn ngươi về sự đổ huyết ra, và huyết đổ ra sẽ theo đuổi ngươi. Một khi ngươi không ghét sự đổ huyết, nên huyết sẽ đuổi theo ngươi!
\s5
\v 7 Ta sẽ làm cho núi Sê-i-rơ ra hoang vu — hoang vu khi ta dứt bỏ khỏi nó bất kỳ người nào đi qua và trở về lại.
\v 8 Và Ta sẽ làm cho các núi nó đầy sự chết chóc. Các đồi núi cao, đồng trũng, cùng mọi dòng suối của ngươi — những kẻ bị gươm giết sẽ ngã xuống trên chúng.
\v 9 Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang vu đời đời. Các thành ngươi sẽ chẳng có ai ở nữa, nhưng ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 10 Vì ngươi nói: “Hai dân tộc ấy và hai nước ấy sẽ thuộc về ta, và chúng ta sẽ sở hữu chúng”, khi Đức Giê-hô-va đang ở với họ.
\v 11 Vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vậy, ta sẽ đãi ngươi tuỳ theo cơn giận của ngươi và tuỳ theo sự ganh tỵ mà ngươi đã có trong sự thù hận của ngươi nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, và ta sẽ tự tỏ mình ra cho họ khi ta xét đoán ngươi.
\s5
\v 12 Vậy, ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va! Ta đã nghe những lời sỉ nhục ngươi đã nói ra nghịch cùng các núi Y-sơ-ra-ên, mà rằng: “Các núi ấy đã bị làm nên hoang vu! Chúng sẽ bị ban cho chúng ta để cắn nuốt.”
\v 13 Ta đã nghe ngươi nói khi ngươi lấy miệng khoe khoang nghịch cùng ta; các ngươi đã nói ra nhiều thứ nghịch cùng ta. Thật, ta đã nghe điều đó!
\s5
\v 14 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang vu, khi cả đất vui mừng.
\v 15 Vì ngươi vui vẻ trên cơ nghiệp của dân Y-sơ-ra-ên vì cớ nó hoang vu. Ta đãi ngươi y như vậy. Hỡi núi Sê-i-rơ, ngươi sẽ trở nên chốn hoang vu, và hết thảy Ê-đôm — hết thảy dân ấy! Khi ấy chúng nó sẽ nhận biết rằng ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\c 36
\cl
\p
\v 1 “Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri về các núi của Y-sơ-ra-ên như sau: Hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 2 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kẻ thù nghịch đã nói về ngươi: “A-ha” và “Các nơi cao ngày xưa đã trở thành tài sản của chúng ta!’”
\v 3 Vì cớ đó, hãy nói tiên tri như vầy: Chúa Giê-hô-va phán: Vì cớ sự hoang vu của các ngươi và vì cớ những lần tấn công giáng trên ngươi từ bốn phía, ngươi đã trở nên thứ tài sản của các nước khác; ngươi là đề tài của môi miệng và lưỡi thóc mách, và là câu chuyện của thiên hạ.
\s5
\v 4 Vì cớ đó, hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Chúa Giê-hô-va: Chúa Giê-hô-va phán điều nầy cho các núi và các đồi cao, cho khe suối và đồng bằng, cho các thành hoang vu không dân ở và các thành bị bỏ phế, chúng đã trở thành đồ cướp giựt và là đề tài chế nhạo của các nước khác ở chung quanh chúng —
\v 5 vì cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chắc chắn trong lửa giận phừng ta đã nói nghịch cùng các nước ấy, nghịch cùng Ê-đôm và hết thảy những dân đã chiếm lấy xứ sở của ta dành cho chúng nó làm cơ nghiệp, nghịch lại hết thảy những kẻ nào có sự vui mừng và sự khinh thường trong tâm thần của họ, như họ đã chiếm lấy đất của ta mà họ xưng nhận là đồng cỏ cho bản thân họ.
\v 6 Vậy nên, hãy nói tiên tri về đất của Y-sơ-ra-ên; hãy nói với các núi và các gò, khe suối và đồng bằng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Trong cơn thạnh nộ và giận dữ ta công bố điều nầy vì các ngươi đã nhận lãnh chịu sự hổ nhuốc của các nước.
\s5
\v 7 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: chính ta cùng với con gái đã thề rằng: Các nước chung quanh ngươi chắc sẽ chịu lấy chính sự xấu hổ của mình!
\s5
\p
\v 8 Nhưng ngươi, hỡi các núi Y-sơ-ra-ên, ngươi sẽ trồng tỉa nhiều và kết quả cho Y-sơ-ra-ên là dân ta, một khi không lâu nữa chúng sẽ trở về cùng ngươi.
\v 9 Vì kìa, ta ban ơn cho các ngươi, các ngươi sẽ trồng tỉa và cày cấy.
\s5
\v 10 Trên đất các ngươi ta sẽ thêm số dân cư và số con cái của nhà Y-sơ-ra-ên. Các thành sẽ có người ở, các nơi đổ nát sẽ được dựng lại.
\v 11 Ta sẽ thêm người và thú đồng trên các núi ngươi, hầu cho chúng sẽ thêm nhiều lên và nẩy nở ra. Khi ấy, ta sẽ khiến các ngươi đông dân như lúc trước, và ta sẽ khiến cho các ngươi được thịnh vượng hơn các ngươi trong quá khứ, vì các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\v 12 Ta sẽ làm cho nhiều người, dân Y-sơ-ra-ên ta, bước đi trên các ngươi. Chúng sẽ chiếm lấy các ngươi, và các ngươi sẽ không còn làm cớ khiến con cái chúng nó phải chết mất nữa.
\s5
\p
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì chúng nói với các ngươi: “Hỡi các ngươi, là thứ ăn nuốt người ta, và con cái của xứ các ngươi đã ngã chết”,
\v 14 cũng vì cớ đó, các ngươi sẽ chẳng nuốt người ta nữa, và các ngươi sẽ chẳng còn làm cho xứ sở các ngươi phải than khóc cái chết của chúng nữa. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 15 Ta cũng không để cho các ngươi nghe thấy những lời nhiếc móc của các nước nữa; các ngươi sẽ không còn chịu sự xấu hổ của các dân nữa hoặc khiến cho dân ngươi phải sa ngã nữa — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 16 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 17 “Hỡi con người, khi nhà Y-sơ-ra-ên ở trong đất mình, chúng đã làm ô uế đất ấy bởi đường lối và việc làm của chúng. Các đường lối của chúng thì giống như là sự ô uế chẳng sạch của một người đàn bà trước mặt ta.
\v 18 Ta đã đổ cơn thạnh nộ của ta ra nghịch cùng chúng nó vì huyết mà chúng đã làm đổ ra trên đất và vì sự ô uế của chúng trong đó bởi hình tượng của chúng.
\s5
\v 19 Ta đã tan rải chúng ở giữa các nước; chúng nó đã bị phân tán trong nhiều xứ. Ta đã xét đoán chúng nó theo các đường lối và việc làm của chúng nó.
\v 20 Khi chúng đi tới các nước, và bất cứ đâu chúng tới, chúng đã báng bổ danh thánh ta khi người ta nói về chúng: Có phải thực sự đây là dân của Đức Giê-hô-va không? Vì chúng nó đã bị quăng ra khỏi đất của Ngài!
\v 21 Nhưng ta động lòng thương xót vì danh thánh ta mà nhà Y-sơ-ra-ên đã xúc phạm ở giữa các nước, khi chúng nó tới các nơi đó.
\s5
\p
\v 22 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta không làm việc nầy vì cớ các ngươi đâu, song vì cớ danh thánh ta, là danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa các nước, là những chỗ các ngươi đã đi đến.
\v 23 Vì ta sẽ làm cho danh ta ra thánh, là danh các ngươi đã xúc phạm ở giữa các nước — ở giữa các nước mà các ngươi đã báng bổ danh ấy. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va: Khi ấy các dân tộc sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi các ngươi thấy rõ rằng ta là thánh.
\s5
\p
\v 24 Ta sẽ thâu các ngươi lại từ giữa các nước và ta sẽ nhóm các ngươi lại từ từng xứ một, rồi đem các ngươi về xứ sở riêng của các ngươi.
\v 25 Khi ấy, Ta sẽ rưới nước trong trên các ngươi hầu cho các ngươi sẽ được sạch khỏi mọi vết uế của các ngươi. Và ta sẽ luyện lọc các ngươi khỏi mọi hình tượng của các ngươi.
\s5
\v 26 Ta sẽ ban cho các ngươi lòng mới và thần mới trong các nơi sâu kín nhất của các ngươi, và Ta sẽ cất lòng bằng đá ra khỏi thịt các ngươi.
\v 27 Vì ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng bằng thịt. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi và khiến các ngươi bước theo luật lệ ta và các ngươi sẽ giữ các mạng lịnh ta và các ngươi làm theo chúng.
\v 28 Khi ấy, các ngươi sẽ ở trong xứ mà ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ làm dân ta, còn ta sẽ làm Đức Chúa Trời các ngươi.
\s5
\v 29 Vì Ta sẽ giải cứu các ngươi ra khỏi mọi sự ô uế. Ta sẽ gọi lúa mì và làm cho nhiều thêm. Ta sẽ không cho đói kém giáng trên các ngươi nữa.
\v 30 Ta sẽ thêm nhiều trái cây và hoa lợi của đồng ruộng hầu cho các ngươi không còn mang xấu hổ vì đói kém ở giữa vòng các nước nữa.
\v 31 Khi ấy, các ngươi sẽ suy nghĩ về các đường lối gian ác, và những việc làm không tốt lành của mình, và các ngươi sẽ lấy làm gớm ghét mình vì cớ chính những tội lỗi cùng những việc làm gớm ghiếc của các ngươi.
\s5
\v 32 Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va: Chẳng phải ta làm điều nầy vì cớ các ngươi đâu, các ngươi khá biết rõ. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy lấy làm xấu hổ vì cớ mọi đường lối của mình.
\p
\v 33 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nhằm ngày mà ta sẽ làm sạch mọi quá phạm của các ngươi, ta sẽ khiến các ngươi đến ở trong các thành và tái thiết lại những nơi bị đổ nát.
\v 34 Vì các ngươi sẽ cày cầy cấy chỗ đất hoang cho đến khi nó không còn là đống đổ nát ở trước mắt hết thảy những ai sẽ đi ngang qua.
\s5
\v 35 Khi ấy, họ sẽ nói: “Đất nầy là hoang vu, nhưng nó đã trở nên như vườn Ê-đen; các thành đổ nát, cùng những đống hoang tàn kia nay đã có thể ra vào được và có người ở!”
\v 36 Khi ấy, các nước khác ở chung quanh các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, ta đã dựng lên các đống đổ nát và tái lập lại những nơi bị bỏ. Ta là Đức Giê-hô-va. Ta đã tuyên bố điều đó ra và ta sẽ làm thành.
\s5
\p
\v 37 Chúa Giê-hô-va phán: Một lần nũa, ta sẽ được nhà Y-sơ-ra-ên cầu hỏi ta để ta làm sự nầy cho chúng, ta sẽ làm cho chúng tăng thêm lên giống như một bầy người vậy.
\v 38 Giống như các bầy đã được dâng lên cho Đức Giê-hô-va, giống như các bầy trong thành Giê-ru-sa-lem trong những kỳ lễ trọng thể, các thành hoang vu sẽ đầy ắp với các bầy người, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\c 37
\cl
\p
\v 1 Tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta; Thần Đức Giê-hô-va đưa ta ra ngoài, rồi để ta xuống giữa đồng bằng. Nơi đó đầy những hài cốt.
\v 2 Khi ấy, Ngài khiến ta đi vòng quanh những hài cốt ấy. Kìa! Có nhiều hài cốt lắm trong đồng bằng. Và nầy! Chúng trơ ra đó.
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống một lần nữa chăng?” Vậy, ta đáp: “Lạy Chúa Giê-hô-va, chỉ một mình Ngài biết sự ấy mà thôi!”
\s5
\p
\v 4 Rồi Ngài phán cùng ta: “Hãy nói tiên tri về các hài cốt ấy, và bảo chúng nó rằng: Hỡi các hài cốt khô kia! Hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va.
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng các hài cốt nầy: Kìa! Ta sẽ đặt thần vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống.
\v 6 Ta sẽ tra gân trên các ngươi và đặt thịt trên các ngươi. Ta sẽ bao các ngươi bằng da và phú hơi thở trong các ngươi để các ngươi sẽ sống. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 7 Vậy ta đã nói tiên tri những điều được truyền cho ta; khi ta nói tiên tri, kìa, có tiếng nói rồi có động đất. Lúc ấy những bộ xương kết lại với nhau.
\v 8 Ta nhìn xem, kìa, những sợi gân kết lên trên các hài cốt đó! Rồi có thịt mọc ra và da bọc lấy chúng! Nhưng chưa có sự sống nơi chúng.
\s5
\p
\v 9 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy nói tiên tri với gió; hãy nói với gió: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Thần Linh, hãy đến từ gió bốn phương! Rồi hà hơi vào những kẻ đã chết nầy hầu cho chúng nó lại sống."
\v 10 Vậy ta đã nói tiên tri y như ta đã được truyền cho; Thần Linh vào trong chúng nó và chúng nó lại sống! Khi ấy chúng đứng dậy trên chân của mình, một đạo quân rất lớn!
\s5
\p
\v 11 Và Đức Chúa Trời phán cùng ta: “Hỡi con người, những hài cốt nầy là toàn bộ nhà Y-sơ-ra-ên. Kìa! Chúng nó nói: Hài cốt của chúng ta đã khô, và lòng trông cậy của chúng ta không còn có nữa. Chúng ta bị dứt bỏ cho sự huỷ diệt!
\v 12 Vì lẽ đó, hãy nói tiên tri, và bảo chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Ta sẽ mở mồ mả các ngươi ra rồi nhấc các ngươi ra khỏi chúng! Và ta sẽ đem các ngươi về trong đất Y-sơ-ra-ên!
\s5
\v 13 Khi ấy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta mở mồ mả các ngươi ra và đem các ngươi ra khỏi chúng, hỡi dân sự ta.
\v 14 Ta sẽ đặt Thần ta vào trong các ngươi để các ngươi sẽ sống, và Ta sẽ khiến các ngươi yên nghỉ trong xứ của các ngươi, khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va. Ta công bố và sẽ làm thành việc ấy — đây là lời công bố của Đức Giê-hô-va."
\s5
\p
\v 15 Khi đó, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 16 Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy cầm lấy gậy của mình rồi viết trên đó: Vì Giu-đa, và vì dân Y-sơ-ra-ên, là bạn ngươi. Rồi lấy một cây gậy khác mà viết trên đó: Vì Giô-sép, nhánh của Ép-ra-im, và vì hết thảy dân Y-sơ-ra-ên là bạn ngươi.
\v 17 Khi ấy, hãy ghép cả hai cây gậy nầy thành một cây gậy, hầu cho chúng trở thành một trong tay ngươi.
\s5
\p
\v 18 Khi dân sự ngươi nói cùng ngươi: Ông sẽ nói cho chúng tôi biết mọi sự nầy có nghĩa gì chăng?
\v 19 Lúc đó ngươi hãy đáp cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ lấy nhánh của Giô-sép đang ở trong tay của Ép-ra-im và các chi phái Y-sơ-ra-ên bạn người rồi ghép nó với nhánh của Giu-đa, hầu cho chúng sẽ tạo thành một nhánh mà thôi, và chúng sẽ là một trong tay ta.
\v 20 Lúc đó, hãy cầm trong tay ngươi hai nhánh mà ngươi đã viết trên đó trước mắt chúng.
\s5
\v 21 Rồi hãy tuyên bố với chúng nó: `Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sắp sửa đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa các nước, những nơi chúng đi đến. Ta sẽ thâu chúng nó lại từ đất bốn phương. Vì ta sẽ đem chúng nó về trong xứ của chúng nó.
\v 22 Ta sẽ khiến chúng nó thành ra một dân trong xứ ấy, trên các đồi núi của Y-sơ-ra-ên; và sẽ có một vua làm vua trên hết thảy chúng nó, và chúng sẽ chẳng còn là hai quốc gia nữa, chúng sẽ không còn bị chia ra làm hai nước nữa.
\v 23 Khi ấy chúng nó sẽ không còn làm ô uế mình nữa bởi các hình tượng của chúng, những thứ đáng ghét của chúng, hoặc bởi bất kỳ tội lỗi nào khác. Vì ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi hành vi vô tín mà với các hành vi ấy chúng đã phạm tội, và ta sẽ luyện lọc chúng nó, hầu cho chúng nó sẽ làm dân ta, và ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó.
\s5
\p
\v 24 Tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua trên chúng nó. Vậy, sẽ có chỉ một người chăn trên hết thảy chúng nó, và chúng nó sẽ bước theo các mạng lịnh của ta và chúng nó sẽ gìn giữ các luật lệ của ta và vâng theo chúng.
\v 25 Chúng sẽ ở trong xứ mà ta đã ban cho tôi tớ ta là Gia-cốp, các tổ phụ của ngươi đã ở đó. Chúng nó — con cái chúng nó và cháu chắt chúng nó sẽ sống ở đó cho đến đời đời, vì tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua chúng nó cho đến đời đời.
\s5
\v 26 Ta sẽ lập với chúng nó một giao ước hòa bình. Đó sẽ là một giao ước đời đời với chúng nó. Ta sẽ khiến cho chúng nó ngày được thêm nhiều ra và làm cho đông đúc và sẽ đặt nơi thánh ta giữa chúng nó cho đến đời đời.
\v 27 Nơi ngự của ta sẽ ở với chúng nó; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó, và chúng nó sẽ làm dân ta!
\v 28 Khi ấy, các nước sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng Y-sơ-ra-ên cho chính mình ta, khi nơi thánh ta ở giữa chúng nó cho đến đời đời."
\s5
\c 38
\cl
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy hướng mặt ngươi đối cùng Gót, xứ Ma-gốc, là vua của Mê-siếc, và Tu-banh; rồi nói tiên tri nghịch cùng hắn!
\v 3 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Gót, vua của Mê-siếc, và Tu-banh.
\s5
\v 4 Vậy, Ta sẽ xây ngươi lại rồi tra những móc trong hàm ngươi; ta sẽ khiến ngươi đi ra với cả đạo binh, ngựa cùng người cỡi ngựa, hết thảy đều mặc áo chiến, một đạo binh đông với những thuẫn lớn thuẫn nhỏ, hết thảy chúng đều cầm gươm!
\v 5 Người Phe-rơ-sơ, Cút, và Phút có mặt với chúng, hết thảy chúng với thuẫn và đội mão trụ!
\v 6 Gô-me cùng các đạo binh nó, và Bết Tô-ga-ma, từ cực bắc xa xôi với cả đạo binh nó! Nhiều dân đang ở với ngươi!
\s5
\p
\v 7 Khá sẵn sàng! Phải, hãy tự sửa soạn các đạo binh ngươi nhóm lại cùng với ngươi và hãy làm đầu chúng nó.
\v 8 Sau nhiều ngày, ngươi sẽ được kêu gọi và sau nhiều năm ngươi sẽ đến một đất, là đất đã được giải cứu khỏi gươm và nhóm lại từ giữa nhiều dân tộc; nhóm lại phía sau vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên, từng là đống đổ nát. Nhưng dân của xứ được đem về từ giữa các dân, và chúng nó sẽ sống trong yên ổn, hết thảy chúng!
\v 9 Vậy, ngươi sẽ tràn đến như một cơn bão; ngươi sẽ như một đám mây che phủ đất, ngươi cùng mọi mọi đạo binh ngươi, hết thảy các chiến binh ở với ngươi.
\s5
\p
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Sẽ xảy ra trong ngày đó, mọi hoạch định hình thành trong lòng ngươi, và ngươi sẽ toan tính nhiều kế hoạch độc dữ.
\v 11 Khi ấy ngươi sẽ nói: Ta sẽ đi đến xứ rộng rãi kia; ta sẽ đến với thứ dân sống trong sự an nhàn kia, hết thảy họ đang sống ở chỗ không có tường hay rào chi hết, và ở đó không có cổng thành.
\v 12 Ta sẽ chiếm lấy của cải và chiến lợi phẩm, để khiến tay ta nghịch cùng những đống đổ nát mà nay đã có người ở, và nghịch cùng một dân nhóm lại từ giữa các nước, thứ dân có nhiều bầy gia súc và của cải, và họ đang sống tại trung tâm địa cầu.
\s5
\v 13 Sê-ba và Đê-đan, những con buôn của Ta-rê-si với hết thảy các chiến binh trẻ của chúng — chúng sẽ nói cùng ngươi: Có phải ngươi đến đặng bóc lột không? Có phải ngươi tập trung quân đội mình lại đặng cướp của, đặng lấy đi bạc vàng, đặng tước hết bầy gia súc và của cải, đặng làm một sự cướp giựt lớn sao?
\s5
\p
\v 14 Vì lẽ đó, hỡi con người, hãy nói tiên tri cùng Gót: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Trong ngày đó, khi dân Y-sơ-ra-ên của ta đang sống yên ổn, có phải ngươi chẳng tiếp thu về họ sao?
\v 15 Ngươi sẽ đến từ chỗ của ngươi, từ phương cực bắc với một đạo binh đông, hết thảy chúng đều cởi ngựa, một đoàn quân đông đảo, một đạo binh lớn?
\v 16 Và ngươi sẽ tấn công dân Y-sơ-ra-ên ta như một đám mây che phủ đất. Việc nầy sẽ xảy ra trong những ngày hầu đến, ta sẽ khiến ngươi nghịch cùng đất ta, hầu cho các dân tộc sẽ nhìn biết ta khi Gót nhìn thấy sự thánh khiết ta.
\s5
\p
\v 17 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Có phải người không phải là kẻ mà ta đã nói tới trong những ngày trước đây bởi tay của các tôi tớ ta, các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, họ đã nói tiên tri thời thế của ngươi, ta sẽ dùng ngươi nghịch cùng họ sao?
\v 18 Vậy, nhằm ngày Gót tấn công xứ Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — cơn giận ta sẽ dấy lên trong hai lỗ mũi ta!
\s5
\v 19 Vì ta công bố điều nầy ra trong cơn giận phừng và với lửa thạnh nộ ta: chắc chắn sẽ có một trận động đất lớn trong ngày ấy trên đất Y-sơ-ra-ên.
\v 20 Chúng sẽ lay động trước mặt ta — những cá biển, những chim trời, những loài thú đồng, và hết thảy những côn trùng bò trên đất, và từng người một sống trên mặt đất. Các núi đều bị quăng xuống và những vách đá đều đổ xuống, cho đến khi từng bức tường đều bị sụp xuống đất hết.
\s5
\v 21 Vì ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng người trên các đồi núi ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — gươm của từng người sẽ nghịch cùng anh em mình.
\v 22 Và ta sẽ xét đoán chúng với dịch lệ, máu, mưa lũ, và mưa đá lửa. Ta sẽ đổ mưa diêm sinh xuống trên nó và trên đạo binh nó, và trên nhiều dân ở với nó.
\v 23 Vì ta sẽ tỏ ra sự cả thể và sự thánh khiết ta và ta sẽ được nhiều dân tộc nhận biết, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va."
\s5
\c 39
\cl
\p
\v 1 Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng Gót như vầy: Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Gót, vua của Mê-siếc và Tu-banh.
\v 2 Ta sẽ xây qua ngươi và dẫn dắt ngươi; ta sẽ đem ngươi lên từ phía cực bắc và đem ngươi đến vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Khi ấy, ta sẽ đánh rơi cung ngươi khỏi tay trái và làm cho các mũi tên ngươi phải rớt xuống khỏi tay phải.
\s5
\v 4 Ngươi sẽ ngã chết trên vùng đồi núi Y-sơ-ra-ên — ngươi, mọi đạo binh ngươi, và các chiến binh nào ở với ngươi. Ta sẽ phó ngươi làm mồi cho mọi loài chim và cho loài thú đồng để làm đồ ăn.
\v 5 Ngươi sẽ ngã chết trên mặt ruộng, vì chính ta công bố ra việc ấy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 6 Khi ấy, ta sẽ sai lửa giáng trên Ma-gốc và trên những kẻ sống yên ổn nơi các bờ biển, và chúng nó sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 7 Vì ta sẽ khiến cho ai nấy nhìn biết danh thánh ta ở giữa Y-sơ-ra-ên dân ta, và ta không cho phép nói phạm đến danh thánh ta nữa; các nước sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng Thánh trong Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Kìa! Ngày mà ta đã công bố đang tới đến, và nó sẽ diễn ra — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 9 Những kẻ sống trong các thành của Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra và thiêu đốt các thứ vũ khí, thuẫn nhỏ, thuẫn lớn, cung tên, giáo mác; chúng sẽ đem chụm lửa trong bảy năm.
\v 10 Chúng sẽ không lấy củi từ đồng ruộng hoặc đốn củi trong rừng, một khi chúng sẽ chụm các thứ vũ khí; chúng sẽ lấy từ những kẻ cướp lột chúng; chúng sẽ cướp giựt những kẻ đã cướp giựt chúng — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 11 Rồi sẽ xảy ra trong ngày đó, ta sẽ cho Gót một chỗ tại đó — một nghĩa địa trong Y-sơ-ra-ên, một chỗ đồng bằng dành cho những người nào đi về phương đông biển. Chỗ đó sẽ chặn những ai muốn vượt qua đó. Tại đó chúng sẽ chôn Gót cùng cả đoàn dân nó. Chúng sẽ gọi nơi đó là là đồng trũng của đảng Gót.
\s5
\p
\v 12 Trong bảy tháng nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chôn chúng nó để làm cho sạch đất.
\v 13 Vì hết thảy dân cư trong đất sẽ chôn chúng nó; đây sẽ là một ngày đáng nhớ cho dân sự khi ta được vinh hiển — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 14 Lúc ấy, chúng sẽ cắt người giao cho phần việc tuần tra trong đất để chôn những thây còn sót lại trên mặt đất để làm cho sạch đất. Chúng sẽ khởi sự phần việc nầy sau tháng thứ bảy.
\v 15 Khi những kẻ nầy đi ngang qua xứ, khi họ nhìn thấy xương cốt của người ta, thì họ sẽ dựng tiêu chí bên cạnh đó, cho đến chừng nào những kẻ đào mồ đến rồi chôn hài cốt ấy trong đồng trũng của đảng Gót.
\v 16 Cũng sẽ có một thành được gọi tên là Đảng. Theo phương thức nầy họ sẽ làm cho đất được sạch.
\s5
\p
\v 17 Giờ đây, ngươi, hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy nói với loài chim cùng hết thảy các loài thú trong đồng ruộng: Hãy cùng nhau nhóm lại! Hãy nhóm lại từ bốn phương vì một của lễ mà ta dọn cho các ngươi, một của lễ lớn trên vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên, hầu cho ngươi ăn thịt và uống huyết.
\v 18 Bay sẽ ăn thịt của những chiến binh và uống huyết của các quan trưởng trong thiên hạ; chúng sẽ là những chiên đực, chiên con, dê đực, và bò đực, hết thảy chúng được vỗ béo ở Ba-san.
\s5
\v 19 Khi ấy bay sẽ ăn mỡ cho tới khi no; bay sẽ uống huyết cho tới lúc say mèm; đây sẽ là con sinh mà ta sẽ giết cho các ngươi.
\v 20 Các ngươi sẽ ăn no nê nơi bàn ta với ngựa, chiến xa, chiến binh, và mọi lính chiến — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\p
\v 21 Lúc đó, ta sẽ tỏ sự vinh hiển ta ra trong các nước; và hết thảy các dân tộc sẽ nhìn thấy sự đoán xét mà ta làm ra, và tay ta đặt nghịch cùng chúng nó.
\v 22 Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ biết ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình từ ngày đó trở đi.
\s5
\v 23 Và các dân tộc sẽ nhìn biết rằng nhà Y-sơ-ra-ên đã bước vào chốn phu tù vì cớ tội lỗi nó nhơn đó chúng đã phản ta. Vậy ta giấu mặt ta khỏi chúng, và ta đã phó chúng nó trong tay những kẻ nghịch thù, và chúng nó chết hết thảy bởi gươm.
\v 24 Ta đã làm cho chúng nó tuỳ theo sự bất khiết và tội lỗi của chúng nó, khi ta che mặt khỏi chúng nó.
\s5
\p
\v 25 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Giờ đây, ta sẽ phục hồi số phận của Gia-cốp và ta sẽ thương xót cả nhà Y-sơ-ra-ên, khi ta hành xử với sự sốt sắng vì danh thánh ta!
\v 26 Lúc đó, chúng sẽ quên đi sự xấu hổ và mọi sự phản trắc mà chúng đã dùng để phản ta. Chúng sẽ quên hết mọi sự nầy khi chúng yên nghỉ an toàn trong đất mình, chẳng có ai làm cho chúng phải lo sợ hết.
\v 27 Khi ta phục hồi chúng từ giữa các dân và thâu chúng lại từ các đất kẻ thù chúng nó, ta sẽ bày tỏ chính mình ta ra là thánh ở trước mắt nhiều nước.
\s5
\v 28 Khi ấy, chúng sẽ nhìn biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó, vì ta đã đày chúng nó làm phu tù giữa các nước, rồi thâu chúng nó về lại đất của mình. Ta sẽ chẳng để sót một kẻ nào ở giữa vòng các nước.
\v 29 Ta sẽ không còn che mặt đối với chúng nó nữa khi ta đổ Thần ta trên nhà Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!’”
\s5
\c 40
\cl
\p
\v 1 Năm thứ hai mươi lăm cuộc phu tù của chúng ta, vào ngày thứ mười của tháng đầu năm, vào năm thứ mười bốn sau khi thành bị chiếm — vào chính ngày ấy, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên ta và đem ta đến đó.
\v 2 Đức Chúa Trời đưa ta vào các sự hiện thấy về đất của Y-sơ-ra-ên. Ngài đưa ta đến yên nghỉ trên một hòn núi rất cao; đến phía nam, dường như có sự xây cất một thành ở đó.
\s5
\v 3 Khi ấy, Ngài dắt ta vào đó. Kìa! Có một người hiện ra hình dáng giống như bằng đồng. Một sợi dây gai và một cái cần để đo ở trong tay người, và người đứng nơi cổng thành.
\v 4 Người ấy nói cùng ta: “Hỡi con người, hãy lấy mắt nhìn xem và để tai nghe, rồi hãy ghi nhớ mọi sự mà ta sẽ tỏ ra cho ngươi, vì ngươi đã được đem đến đây hầu cho ta có thể tỏ chúng ra cho ngươi thấy. Hãy tường trình lại mọi việc mà ngươi sẽ nhìn thấy về nhà Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\p
\v 5 Có một bức tường ở chung quanh đền thờ, và có một cái cần để đo ở trong tay người, dài sáu cu-bít — mỗi cu-bit “dài hơn” cu-bít thường một gang tay. Người đo bề rộng của bức tường — một cần — và bề cao — là một cần.
\p
\v 6 Khi ấy, người đi đến cổng đền thờ đối mặt với hướng đông, và bước lên những nấc thang. Người đo thềm cửa — sâu vô một cần.
\v 7 Hốc tường phòng lính canh dài một cần và rộng một cần; có năm cu-bít giữa hai hốc tường, và thềm của cổng đền thờ rộng một cần.
\s5
\p
\v 8 Người đo thềm ngoài của cổng; thềm ấy dài một cần.
\v 9 Người đo thềm cửa; sâu vào một cần. Và hai cột cửa rộng hai cu-bít. Đây là thềm cửa đối diện với đền thờ.
\v 10 Hốc tường lính canh nơi cửa mỗi bên ba cái của từng cánh cửa, cả ba đều nhau, và bức tường phân ra đều nhau ở mỗi bên.
\s5
\p
\v 11 Khi ấy, người đo bề rộng lối vào ngay cửa — có mười cu-bít; và người đo bề dài lối vào ngay cửa — mười ba cu-bít.
\v 12 Người đo bức tường làm biên ở trước chỗ canh gác — cao một cu-bít. Và mỗi phòng — mỗi bề có sáu cu-bít.
\v 13 Rồi người đo lối vào từ mái của phòng gác nầy đến mái của phòng khác — là hai mươi lăm cu-bít, từ cửa nầy đến cửa kia.
\s5
\v 14 Khi ấy, người đo bức tường chạy ở giữa mấy phòng gác — dài sáu mươi cu-bít; người đo từ lối cổng vào.
\v 15 Lối vào trước mặt cổng cho đến phần cuối lối vào là năm mươi cu-bít.
\v 16 Có những cửa sổ hẹp ở các phòng gát, và trong các bức tường phân biệt trong ngoài, thảy đều có những cửa sổ chấn song. Nơi phía trong, chung quanh đều có những cửa sổ. Có hình cây kè trên các bức tường.
\s5
\p
\v 17 Thế rồi, người dẫn ta vào nơi hành lang ngoài của đền thờ. Kìa! Có nhiều phòng, và có lót đá ở hành lang, với ba mươi phòng gần lối đi.
\v 18 Lót đá ở bên hông của hai cửa, và bề dài cũng y như bề rộng cửa. Đây là phần lót đá thấp hơn.
\v 19 Khi ấy, người đo bề ngang khoảng cách từ trước cổng thấp hơn cho đến phía trước cửa trong; là một trăm cu-bít, phía đông cũng như phía bắc.
\s5
\p
\v 20 Rồi người đo bề dài và bề rộng của cửa nằm ở phía bắc hành lang ngoài.
\v 21 Có ba phòng gác ở mỗi bên cửa, và cánh cổng và lối đi cũng được đo y như cửa chính — năm mươi cu-bít toàn bộ bề dài và hai mươi lăm cu-bít bề ngang.
\s5
\v 22 Những cửa sổ, lối đi, phòng gác, và các cây kè tương ứng với cánh cổng đối diện phía đông. Có bảy nấc thang đi đến đó, và đến cửa của nó.
\v 23 Có một cánh cửa đến hành lang sân trong trước cổng đối diện với phía Bắc, cũng giống như có một cánh cổng về phía đông; người đo từ cổng nầy đến cổng kia — dài độ một trăm cu-bít.
\s5
\p
\v 24 Kế đó, người ấy đưa ta đến lối vào cổng phía nam, và các bức tường và lối đi của nó được đo y như cổng phía ngoài.
\v 25 Có những cửa sổ hẹp ở lối đi ra chỗ cửa giống như ở cổng kia. Cổng phía nam và lối đi đo được năm mươi cu-bít chiều dài, và chiều ngang hai mươi lăm cu-bít.
\s5
\v 26 Có bảy nấc thang bước lên đến cổng và lối đi của nó, và có hình cây kè trên các bức tường ở mỗi bên.
\v 27 Có một cánh cổng đến hành lang sân trong ở sườn phía nam, và người ấy đo từ cổng nầy đến cổng lối vào phía nam — dài khoảng một trăm cu-bít.
\s5
\p
\v 28 Khi ấy, người đem ta vào hành lang trong bởi lối cổng phía nam, ở đây có cùng số đo y như các cổng khác.
\v 29 Những phòng gác, các bức tường, và lối đi được đo y như mấy cổng kia; có những cánh cửa sổ bao quanh lối đi. Cổng trong và lối đi của nó đo được năm mươi cu-bít chiều dài, và chiều ngang hai mươi lăm cu-bít.
\v 30 Cũng có các lối đi chung quanh bức tường phía trong; bề dài hai mươi lăm cu-bít và bề ngang năm cu-bít.
\v 31 Lối đi nầy đối diện với hành lang ngoài với hình cây kè trên các tường nó và tám nấc thang đi lên.
\s5
\p
\v 32 Khi ấy, người đưa ta vào hành lang trong bằng lối đi phía đông và đo cánh cổng, chúng có cùng số đo y như các cổng khác.
\v 33 Các phòng gác, các bức tường, và lối đi đo được y như các cổng khác, và có những cánh cửa sổ bao quanh. Cổng trong và lối đi của nó đo được năm mươi cu-bít chiều dài, chiều rộng hai mươi lăm cu-bít.
\v 34 Lối đi của nó đối diện với hành lang ngoài; nó có các cây kè trên mỗi bên của nó và tám nấc thang đi lên.
\s5
\p
\v 35 Kế đó, người đưa ta đến cổng phía bắc và đo nó; nó đo được y như các cổng khác.
\v 36 Những phòng gác, các bức tường, và lối đi được đo y như mấy cổng kia; có những cánh cửa sổ bao quanh lối đi. Cổng và lối đi nầy đo được năm mươi cu-bít chiều dài, chiều rộng hai mươi lăm cu-bít.
\v 37 Lối đi của nó đối diện với hành lang ngoài; nó có những hình cây kè ở mỗi bên, và có tám nấc thang bước lên.
\s5
\p
\v 38 Có một gian phòng với cánh cửa bên từng cửa phía trong. Đây là chỗ họ rửa các của lễ thiêu ở đó.
\v 39 Có hai cái bàn ở mỗi bên lối đi, người ta giết những con sinh về của lễ thiêu trên đó, cũng y như thế cho của lễ chuộc sự mắc lỗi, và về của lễ chuộc tội.
\s5
\v 40 Cạnh bức tường của hành lang, đi tới cổng phía bắc, có hai cái bàn. Ở mỗi bên cũng có hai cái bàn nơi lối vào cổng.
\v 41 Có bốn cái bàn ở mỗi bên cửa; họ giết các con sinh trên tám cái bàn.
\s5
\v 42 Có bốn cái bàn cắt bằng đá dùng về của lễ thiêu, dài một cu-bít rưỡi, rộng một cu-bít rưỡi, và cao một cu-bít. Họ để các thứ công cụ trên chúng, với các thứ công cụ ấy họ dùng mà giết con sinh về của lễ thiêu và các của lễ khác.
\v 43 Có những móc rộng bằng lòng bàn tay cắm quanh lối đi, và thịt con sinh sẽ được đặt lên mấy cái bàn.
\s5
\p
\v 44 Gần cửa trong, nơi hành lang trong, là phòng dành cho những kẻ ca hát. Một trong các phòng ấy nằm ở phía bắc, và một phòng ở phía nam.
\v 45 Rồi người nói cùng ta: “Phòng nầy đối diện phía nam thì dành cho các thầy tế lễ nào có bổn phận trong đền thờ.
\s5
\v 46 Và cái phòng đối diện phía bắc là dành cho các thầy tế lễ có bổn phận nơi bàn thờ. Đây là các con trai của Xa-đốc, họ đến gần Đức Giê-hô-va đặng hầu việc Ngài; họ có mặt giữa vòng các con trai của Lê-vi.”
\p
\v 47 Kế đó, người đo hành lang — một trăm cu-bít chiều dài và một trăm cu-bít chiều ngang theo hình vuông, với bàn thờ đứng ở trước mặt gian nhà.
\s5
\p
\v 48 Khi ấy, người đem ta vào lối đi của nhà rồi đo các cột ở đó — chúng dày năm cu-bít ở mỗi bên. Chính lối đi đo được mười bốn cu-bít chiều rộng, và các bức tường ở mỗi bên đều đo được ba cu-bít.
\v 49 Lối đi của nơi thánh là hai mươi cu-bít chiều dài, và mười một cu-bít bề ngang. Có các nấc thang bước lên nơi thánh và hai cây cột đứng ở hai bên.
\s5
\c 41
\cl
\p
\v 1 Lúc đó, người đem ta vào trong nơi thánh của đền thờ và người đo các cột cửa — sáu cu-bít mỗi bề.
\v 2 Bề ngang của lối vào là mười cu-bít; bức tường mỗi bên dài năm cu-bít. Khi ấy, người đo các chiều kích của nơi thánh —dài: bốn mươi cu-bít và ngang: hai mươi cu-bít.
\s5
\p
\v 3 Rồi người vào bên trong chính nơi thánh và đo hai cột cửa ở lối vào — hai cu-bít; và lối vào rộng sáu cu-bít. Các bức tường mỗi bên rộng bảy cu-bít.
\v 4 Khi ấy, người đo chiều dài căn phòng — hai mươi cu-bít. Và bề ngang của nó — bề ngang hai mươi cu-bít đến phía trước hành lang, Rồi người bảo ta rằng: “Đây là nơi chí thánh.”
\s5
\p
\v 5 Rồi người đo tường nhà — dày sáu cu-bít. Bề rộng của những phòng cạnh bên khắp chung quanh nhà là bốn cu-bít.
\v 6 Có ba cấp phòng bên hông, vì có rất nhiều phòng; ba mươi phòng cho từng cấp. Và mấy cái gờ nằm trên tường cho sáu phòng chung quanh nhà, để đỡ lấy các phòng ở trên, vì chẳng có một chỗ đỡ nào đặt trong tường nhà.
\v 7 Vậy, các phòng bên càng cao và đi vòng lên cao, vì nhà càng lên cao và cao hơn, các căn phòng càng rộng khi nhà lên cao. Và một cái thang dẫn lên đến tầng cao nhất, qua tầng giữa.
\s5
\p
\v 8 Khi ấy, Ta thấy phần nhô cao ở quanh nhà, nền của các phòng bên, có chiều cao một cần — sáu cu-bít.
\v 9 Bề rộng của bức tường các phòng bên ở ngoài là năm cu-bít. Có một khoảng trống ra ngoài của các phòng nầy trong nơi thánh.
\s5
\v 10 Ở mặt kia khoảng trống nầy là phòng ốc phía ngoài của thầy tế lễ: khoảng trống nầy rộng hai mươi cu-bít ở chung quanh nơi thánh.
\v 11 Có những cánh cửa vào trong các phòng bên từ khoảng trống khác — một lối vào đặt ở phía bắc, và lối kia ở phía nam. Chiều rộng của khu vực trống nầy là năm cu-bít bao quanh.
\s5
\p
\v 12 Toà nhà đối diện với hành lang ở phía tây rộng bảy mươi cu-bít. Bức tường của nó đo được dày năm cu-bít cả thảy và dài chín mươi cu-bít.
\p
\v 13 Khi ấy người đo nơi thánh — dài một trăm cu-bít. Và toà nhà phân biệt, và tường của nó cũng đo được một trăm cu-bít theo chiều dài.
\v 14 Bề ngang phía trước hành lang nơi thánh cũng đo được một trăm cu-bít.
\s5
\p
\v 15 Kế đó, người đo chiều dài của toà nhà ở đàng sau nơi thánh, về phía tây của nó, và các hành lang ở mỗi bên — là một trăm cu-bít. Nơi thánh và lối đi,
\v 16 các bức tường phía trong cùng những cánh cửa sổ, bao gồm các cửa sổ hẹp, cùng các hành lang bao chung quanh trên ba tầng, thảy đều lợp mái bằng ván.
\v 17 Trên lối vào nơi thánh và khoảng trống dọc theo các bức tường chung quanh có khắc hình chê-ru-bim và cây kè, đối với nhau.
\s5
\v 18 Và ở đó có trang trí với chê-ru-bim và cây kè; với một cây kè ở giữa mỗi chê-ru-bim. Và mỗi chê-ru-bim đều có hai mặt:
\v 19 mặt người ta xây theo hướng chê-ru-bim, và mặt sư tử tơ xây theo hướng cây kè ở mặt kia. Những hình chạm nầy trang trí khắp cả ngôi nhà.
\v 20 Từ mặt đất lên đến cánh cửa có hình trang trí chê-ru-bim cùng các cây kè trên bức tường của đền thờ.
\s5
\p
\v 21 Các cột cửa của nơi thánh đều vuông vức, và hết thảy chúng trông giống nhau.
\v 22 Bàn thờ thì bằng gỗ ở trước nơi thánh cao ba cu-bít, dài hai cu-bít ở mỗi bên. Các cột góc, nền, và khung đều bằng gỗ. Khi ấy người ấy bảo ta rằng: “Đây là cái bàn đặt trước mặt Đức Giê-hô-va.”
\v 23 Có hai cánh cửa kép dành cho nơi thánh và nơi chí thánh.
\v 24 Các cánh cửa nầy có hai cánh khép lại được, cửa nầy hai cánh, cửa kia hai cánh.
\s5
\v 25 Chạm khắc trên chúng — trên các cặp cửa của nơi thánh — là hình chê-ru-bim và cây kè giống như được trang trí trên các bức tường, và có cái mái gỗ đặt trên lối đi phía trước.
\v 26 Có những cửa sổ hẹp và những hình cây kè ở mỗi bên của lối đi. Có các phòng bên của ngôi nhà, và chúng cũng có những mái treo.
\s5
\c 42
\cl
\p
\v 1 Kế đó, người đưa ta vào hành lang ngoài về phía bắc, và người đem ta vào trong mấy căn phòng ở phía trước hành lang ngoài và bức tường ngoài ở phía bắc.
\v 2 Các căn phòng ấy dài một trăm cu-đê phía trước và ngang năm mươi cu-đê.
\v 3 Một số phòng đối diện với hành lang trong dài hai mươi cu-đê dọc theo nơi thánh. Có ba tầng phòng, và các tầng phía trên nhìn xuống các tầng phía dưới và rất thoáng, có một lối đi. Và một số phòng ngó ngang qua hành lang ngoài.
\s5
\v 4 Một lối đi rộng mười cu-đê và dài một trăm cu-đê ở trước mặt các phòng. Những cửa phòng đều hướng về phía bắc.
\v 5 Nhưng các lối đi phía trên thì nhỏ hơn, vì các lối đi nầy chiếm khoảng trống nhiều hơn phía dưới và các tầng giữa của toà nhà.
\v 6 Vì chúng có ba tầng, và chẳng có cây cột nào, không giống như các hành lang, đều có cột. Vậy, các tầng trên bị co lại theo kích cở so với các tầng thấp hơn và tầng giữa.
\s5
\v 7 Và bức tường ngoài chạy dọc theo các phòng hướng về hành lang ngoài, hành lang nằm ở trước mặt các phòng. Bức tường ấy dài năm mươi cu-đê.
\v 8 Chiều dài của các phòng ở hành lang ngoài là năm mươi cu-đê, và các phòng đối diện với nơi thánh dài một trăm cu-đê.
\v 9 Có một lối vào các phòng thấp hơn từ mặt phía đông, đến từ hành lang ngoài.
\s5
\p
\v 10 Dọc theo bức tường ngoài nơi mặt phía đông của hanh lang ngoài, trước mặt hành lang trong của nơi thánh, cũng có nhiều căn phòng.
\v 11 Có một lối đi trước các phòng ấy cũng có chiều dài chiều rộng y như các phòng ở phía bắc. Chúng cũng có cùng một số lối vào.
\v 12 Ở mặt phía nam cũng y như mặt phía bắc. Một lối đi vào bên trong có cánh cửa ở đầu ngõ của nó, và lối đi mở vào các gian phòng khác nhau. Ở mặt phía đông có một lối đi vào ở cuối ngõ của nó.
\s5
\p
\v 13 Khi ấy, người bảo ta rằng: “Các phòng phía bắc và các phòng phía nam, ở ngay trước hành lang ngoài là những phòng thánh, ở đây các thầy tế lễ nào đến gần Đức Giê-hô-va có thể dùng thức ăn của nơi chí thánh. Họ sẽ đặt để các vật chí thánh ở đó — của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội — vì đây là nơi thánh.
\v 14 Khi các thầy tế lễ đã vào đó rồi, họ không phải ra khỏi nơi thánh mà đến hành lang ngoài, không đặt y phục họ mặc phục sự riêng ra, một khi y phục ấy là thánh. Vậy, họ phải mặc thứ y phục khác trước khi đến gần dân sự.
\s5
\p
\v 15 Người ấy đã hoàn tất việc đo đạt phần nhà trong và rồi người đem ta ra nơi cổng đối diện với phía đông và mọi khu vực quanh đó.
\s5
\v 16 Người đo phần phía đông với cái cần đo — có năm trăm cần.
\v 17 Người đo phần phía bắc — năm trăm cần với cần đo đó.
\v 18 Người cũng đo phần phía nam — năm trăm cần với cần đo đó.
\v 19 Người cũng trở qua rồi đo phần phía tây — năm trăm cần với cần đo đó.
\s5
\v 20 Người đo khu vực ấy bốn phía, bức tường bao quanh ngôi nhà có chiều dài là năm trăm cần và chiều rộng là năm trăm cần phân biệt nơi thánh với nơi tục.
\s5
\c 43
\cl
\p
\v 1 Người đưa ta vào cổng mở ra về phía đông.
\v 2 Kìa! Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên đến từ phía đông; tiếng của Ngài giống như tiếng nước lớn, và đất sáng rực với sự vinh hiển Ngài!
\s5
\v 3 Và sự nầy giống như sự hiện thấy mà ta đã thấy khi Ngài đến để huỷ diệt thành, và giống như sự hiện thấy mà ta đã thấy bên bờ sông Kê-ba — và ta sấp mặt xuống!
\v 4 Thế là sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đã đến với ngôi nhà do cổng mở ra về phía đông.
\v 5 Khi ấy, Thần cất ta lên rồi đưa ta vào nơi hành lang trong. Kìa! Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy ngôi nhà!
\s5
\p
\v 6 Người đến đứng bên cạnh ta, và ta nghe có ai nói với ta từ ngôi nhà.
\v 7 Người nói cùng ta: “Hỡi con người, đây là nơi đặt ngai ta, là nơi để bàn chân ta, tại đây ta sẽ ở đời đời giữa vòng dân sự Y-sơ-ra-ên. Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng còn báng bổ danh thánh ta nữa — chúng và các vua của chúng — với sự bất trung của chúng hay với “các thây ma” các vua chúng nó tại các chùa miễu của chúng.
\v 8 Chúng không còn báng bổ danh thánh ta bằng cách đặt thềm chùa miễu của chúng ở gần thềm cửa ta, và trụ cửa của chúng ở kề bên trụ cửa của ta, chẳng có chi khác trừ ra bức tường giữa ta và chúng. Chúng báng bổ danh thánh ta với các việc làm gớm ghiếc của chúng, vì thế ta tuyệt diệt chúng nó đi với cơn giận của ta.
\s5
\v 9 Bây giờ, hãy khiến chúng nó bỏ sự bất trung của chúng đi và “các thây ma” các vua của chúng khỏi mặt ta, thì ta sẽ ở giữa chúng nó cho đến đời đời!
\s5
\p
\v 10 Hỡi con người, chính ngươi phải nói cho nhà Y-sơ-ra-ên biết về nhà nầy để chúng nó phải biết xấu hổ về tội lỗi mình. Chúng nó phải suy nghĩ về phần mô tả nầy.
\v 11 Vì nếu chúng nó lấy làm xấu hổ về mọi điều chúng đã làm, khi ấy hãy tỏ ra cho chúng biết thiết kế của ngôi nhà, các chi tiết, lối ra lối vào, hết thảy các chi tiết, các mạng lịnh và lệ luật của nó. Rồi hãy viết ra sự nầy trước mắt chúng hầu cho chúng nó giữ lấy thiết kế cùng mọi lệ luật, hầu cho chúng vâng theo chúng.
\s5
\p
\v 12 Đây là luật lệ của ngôi nhà: Từ đỉnh núi cho đến các đường biên chung quanh nó, đó sẽ là nơi chí thánh. Hãy xem! Đây là luật lệ dành cho ngôi nhà.
\s5
\p
\v 13 Những con số nầy sẽ số đo của bàn thờ tính bằng cu-đê — mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường một gang tay. Vậy, cái rãnh quanh bàn thờ sẽ sâu một cu-đê, và chiều rộng nó cũng là một cu-đê. Và đường biên quanh nó cao một gang. Đây sẽ là cái đế của bàn thờ.
\v 14 Từ cái đế ở mặt đất cho đến cái rãnh dưới là hai cu-đê, với cái gờ rộng một cu-đê. Từ cái gờ nhỏ cho đến cái gờ lớn là bốn cu-đê, với cái gờ lớn rộng một cu-đê.
\s5
\v 15 Mặt bàn thờ dành cho của lễ thiêu cao bốn cu-đê, và có bốn cái sừng chỉa thẳng lên mặt bàn thờ.
\v 16 Mặt bàn thờ vuông vức dài mười hai cu-đê và ngang mười hai cu-đê.
\v 17 Đường biên của nó dài mười bốn cu-đê và ngang mười bốn cu-đê ở mỗi cạnh của nó, và cái gờ rộng nửa cu-đê. Cái gờ rộng một cu-đê giáp vòng các nấc thang hướng về phía đông.”
\s5
\p
\v 18 Kế đó, người nói cùng ta: “Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đây là các luật lệ về bàn thờ nhằm ngày họ xây dựng nó, để dâng của lễ thiêu trên đó, và rưới huyết trên đó.
\v 19 Ngươi sẽ dâng một con bò đực bắt từ bầy làm của lễ chuộc tội cho các thầy tế lễ người Lê-vi thuộc dòng Xa-đốc, những người đó đến gần ta đặng phục vụ ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 20 Khi ấy ngươi lấy một ít huyết nó rồi bôi trên bốn sừng bàn thờ và bốn góc bàn thờ, và trên cái gờ bao quanh nó; ngươi sẽ làm sạch bàn thờ và thực hiện sự chuộc tội cho nó.
\v 21 Lúc đó, ngươi lấy con bò đực làm của lễ chuộc tội rồi thiêu nó trong nơi đã ấn định trong khu vực đền thờ ngoài nơi thánh.
\s5
\p
\v 22 Nhằm ngày thứ hai, ngươi sẽ dâng một con dê đực không tì vít từ bầy dê làm của lễ chuộc tội; các thầy tế lễ sẽ làm sạch bàn thờ y như họ làm sạch nó với con bò đực vậy.
\v 23 Khi ngươi làm sạch xong, hãy dâng một con bò đực không tì vít bắt từ bầy và một con chiên đực không tì vít bắt từ bầy.
\v 24 Hãy dâng chúng trước mặt Đức Giê-hô-va; các thầy tế lễ rưới muối lên chúng và dâng chúng làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 25 Ngươi phải sửa soạn một con dê đực làm của lễ chuộc tội hàng ngày trong bảy ngày, và các thầy tế lễ cũng phải sửa soạn một con bò đực bắt từ bầy và một con chiên đực không tì vít bắt từ bầy.
\v 26 Họ phải chuộc tội cho bàn thờ trong bảy ngày và làm sạch nó, và đồng thời họ phải làm cho bàn thờ ra thánh.
\v 27 Họ phải hoàn tất số ngày nầy, rồi qua ngày thứ tám trở đi, các thầy tế lễ sẽ sửa soạn dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân của các ngươi lên bàn thờ, thì ta sẽ nhậm cho — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\c 44
\cl
\p
\v 1 Khi ấy, người đưa ta trở lại cổng ngoài nơi thánh đối ngang với phía đông; cổng vẫn đóng chặt.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Cổng nầy sẽ đóng luôn với ấn niêm, nó sẽ không được mở. Không một ai sẽ đi qua đó, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã bước vào bởi cổng ấy; vì vậy, cổng ấy sẽ đóng chặt lại.
\v 3 Vua của Y-sơ-ra-ên sẽ ngồi ở đó để ăn bánh trước mặt Đức Giê-hô-va. Vua sẽ bước vào bởi lối vào nơi cổng và cũng đi ra bởi cùng một lối ấy.”
\s5
\p
\v 4 Kế đó, người bởi lối cổng phía bắc đối ngang nhà đưa ta đến đó. Vậy, Ta nhìn xem, và kìa, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy nhà Đức Giê-hô-va, còn ta thì sấp mặt xuống!
\p
\v 5 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy để tấm lòng ngươi và dùng mắt nhìn cho thật kỹ và lấy tai nghe mọi điều mà ta sẽ phán cùng ngươi, về mọi mạng lịnh mọi lệ luật của nhà Đức Giê-hô-va. Hãy suy nghĩ về lối vào lối ra của ngôi nhà.
\s5
\v 6 Lúc đó ngươi hãy nói cùng những kẻ bạn nghịch, tức là nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy xem xét những hành động đáng gớm ghiếc của các ngươi đã đủ rồi —
\v 7 các ngươi đã đưa những kẻ lạ với tấm lòng không chịu cắt bì cũng như thịt vào trong nơi thánh ta đặng báng bổ nó — trong khi các ngươi dâng cho ta bánh, mỡ và huyết của ta; để các ngươi đã phạm giao ước ta bởi mọi sự gớm ghiếc của các ngươi.
\s5
\v 8 Các ngươi không hành động đáp ứng theo đối với các bổn phận của các ngươi dành cho ta; thay vì thế, các ngươi đã dành cho nhiều người khác bổn phận phải quan tâm đến nơi thánh ta.
\v 9 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Không một người ngoại từ sắc dân nào đang sống giữa dân Y-sơ-ra-ên, đã chịu phép cắt bì về lòng, cũng như về thịt nó mà được vào trong nơi thánh ta.
\s5
\p
\v 10 Duy người Lê-vi lầm lạc cách xa ta phiêu bạt xa nhà, họ đã đi cách xa ta, bỏ ta đặng phục vụ thần tượng nó — họ sẽ trả giá về tội lỗi của họ.
\v 11 Họ là hạng tôi tớ ta trong nơi thánh ta, canh gác các cửa nhà và phục vụ ở trong nhà. Họ đã giết con sinh của lễ thiêu và các con sinh khác; họ đứng trước mặt dân sự phục vụ họ.
\v 12 Nhưng vì chúng nó đã dâng các thứ của lễ trước mặt các hình tượng của chúng, chúng trở thành vầng đá vấp chơn vì tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên. Vì lẽ đó, ta sẽ giơ tay lên thề nghịch cùng chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chúng sẽ trả giá cho tội lỗi của chúng nó.
\s5
\v 13 Chúng nó sẽ không đến gần ta để làm công việc thầy tế lễ trước mặt ta hoặc sẽ không đến gần bất kỳ vật thánh nào của ta, không được đến gần những vật rất thánh! Thay vì thế, chúng sẽ lãnh lấy lời quở trách và tội lỗi của chúng vì những hành vi gớm ghiếc mà chúng đã phạm.
\v 14 Nhưng ta sẽ đặt chúng làm kẻ lo liệu các công việc trong nhà, vì mọi bổn phận trong nhà ấy và mọi sự được làm ra trong đó.
\s5
\p
\v 15 Và các thầy tế lễ họ Lê-vi, con cháu của Xa-đốc, những kẻ lo chu toàn các bổn phận của nơi thánh ta khi dân sự Y-sơ-ra-ên phiêu bạt không còn bước theo ta nữa — những kẻ đó sẽ đến gần ta lo thờ phượng ta và sẽ đứng trước mặt ta đặng dâng mỡ và huyết cho ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 16 Chúng sẽ vào nơi thánh ta; chúng sẽ đến gần bàn ta để thờ lạy ta và chu toàn các bổn phận đối với ta.
\s5
\p
\v 17 Vậy, khi chúng nó đến ở các cổng của hành lang trong, chúng sẽ phải mặt áo bằng vải gai mịn, vì chúng nó sẽ không đến khi mặc đồ bằng lông chiên trong các cổng hành lang trong và nhà của nó.
\v 18 Sẽ có khăn bằng gai đội trên đầu chúng và mặc quần đùi bằng gai nơi hông. Chúng không mặc các thứ y phục làm cho chúng phải đồ mồ hôi.
\s5
\v 19 Khi chúng nó đi qua nơi hành lang ngoài, đến chỗ hành lang ngoài để đến với dân sự, chúng phải cởi lớp áo mà chúng đã mặc khi phục vụ; chúng phải cởi y phục ấy ra rồi để trong một phòng thánh, vậy chúng không làm cho người khác ra thánh bằng cách tiếp xúc với loại y phục đặc biệt của chúng.
\s5
\p
\v 20 Chúng cũng không phải cạo đầu cũng không để tóc dài, nhưng tóc trên đầu chúng phải chỉnh tề.
\v 21 Chẳng có thầy tế lễ nào được uống rượu khi họ vào nơi hành lang trong.
\v 22 Cũng không được lấy góa phụ hoặc người nữ bị ly dị mà làm vợ cho mình, nhưng chỉ lấy nữ đồng trinh về dòng nhà Y-sơ-ra-ên hoặc là lấy vợ góa của một thầy tế lễ trước đây.
\s5
\v 23 Vì chúng sẽ dạy cho dân ta biết phân biệt giữa thánh và tục; chúng sẽ khiến cho họ nhìn biết điều ô uế đối với điều thánh sạch.
\p
\v 24 Trong một sự tranh chấp, chúng nó phải đứng xử đoán theo các mạng lịnh của ta; chúng phải sống công bình. Và chúng sẽ gìn giữ luật pháp ta và các lệ luật ta trong mọi kỳ lễ của ta; chúng sẽ làm cho các ngày Sa-bát ta ra thánh.
\s5
\p
\v 25 Chúng sẽ chẳng đi đến một kẻ chết mà bị ô uế, trừ phi đó là cha hay mẹ, con trai, con gái, anh hay chị nào chưa ngủ với đàn ông, nói cách khác, chúng sẽ bị ô uế.
\v 26 Sau khi một thầy tế lễ bị ô uế, người ta sẽ đếm bảy ngày cho người.
\v 27 Trước ngày người đến với nơi thánh, trong hành lang trong để phục vụ trong nơi thánh, người phải dâng của lễ chuộc tội cho bản thân mình — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 28 Và đây là cơ nghiệp của người: Ta sẽ là cơ nghiệp của chúng nó! Vậy các ngươi không trao cho chúng cơ nghiệp trong Y-sơ-ra-ên; ta là cơ nghiệp của chúng nó.
\v 29 Chúng sẽ ăn các thứ của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội; mọi thứ được dâng cho Đức Giê-hô-va trong Y-sơ-ra-ên, sẽ thuộc về chúng nó.
\s5
\v 30 Các thứ tốt nhứt trong hoa quả đầu mùa của mọi thứ sản vật và từng thứ đóng góp, bất cứ thứ chi từ hết thảy các thứ đóng góp đều thuộc về dòng thầy tế lễ, và các ngươi sẽ dâng thứ tốt nhứt trong các thứ của lễ dùng để ăn cho các thầy tế lễ, hầu cho ơn phước sẽ giáng trên nhà các ngươi.
\v 31 Các thầy tế lễ sẽ không nên ăn thịt của một con thú nào chết tự nhiên, hay là bị xé, dù là thịt chim, hoặc loài thú.
\s5
\c 45
\cl
\p
\v 1 Khi các ngươi bắt thăm phân chia xứ như một cơ nghiệp, các ngươi phải làm một của lễ dâng lên Đức Giê-hô-va, của lễ nầy sẽ là một phần thánh trong xứ, chiều dài sẽ là hai mươi lăm ngàn cần, và chiều ngang người ngàn cần. Phần ấy sẽ là thánh, chung quanh phần đất đó.
\v 2 Từ phần đất nầy, sẽ là một miếng đất vuông năm trăm cu-bít mỗi bề sẽ là nơi thánh, với đường biên bao quanh năm mươi cu-bít.
\s5
\v 3 Từ khu vực nầy, các ngươi sẽ đo một phần dài hai mươi lăm ngàn cu-bít và rộng mười ngàn cu-bít; đó sẽ là một phần thánh cho các ngươi; một nơi chí thánh.
\v 4 Đó sẽ là một phần thánh trong xứ dành cho thầy tế lễ nào phục vụ Đức Giê-hô-va, người đến gần Đức Giê-hô-va đặng hầu việc Ngài. Đó sẽ là chỗ cho nhà cửa của họ và một khu vực thánh dành cho nơi thánh.
\v 5 Một phần khác chiều dài hai mươi lăm ngàn cu-bít và ngang mười ngàn cu-bít, và phần ấy sẽ dành cho các thị trấn thuộc về các người Lê-vi nào phục vụ trong ngôi nhà.
\s5
\p
\v 6 Các ngươi sẽ ấn định một khu vực để xây thành, chiều ngang năm ngàn cu-bít, và hai mươi lăm ngàn cu-bít chiều dài, kề bên khu vực được dành cho nơi thánh; thành nầy sẽ thuộc về cả nhà Y-sơ-ra-ên.
\p
\v 7 Đất của nhà vua sẽ giáp hai bên khu vực được dành cho nơi thánh và thành phố. Phần đất ấy sẽ ở phía tây và phía đông của họ. Chiều dài sẽ tương ứng với chiều dài của một trong các phần nầy, từ tây sang đông.
\s5
\v 8 Phần đất nầy sẽ là tài sản dành cho nhà vua trong Y-sơ-ra-ên. Các vị vua của ta sẽ không lấn lướt dân ta nữa; thay vì thế, họ sẽ dâng đất cho nhà Y-sơ-ra-ên, cho các chi phái của họ.
\s5
\p
\v 9 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi các vua Y-sơ-ra-ên, bấy nhiêu là đủ cho các ngươi rồi! Hãy cất bỏ bạo lực và tranh cạnh; hãy làm theo sự công bình và ngay thẳng! Hãy bỏ đi việc lạm dụng dân sự ta! — Dây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 10 Các ngươi phải có những cây cân chính xác, những ê-pha chính xác, và những cái bát chính xác!
\v 11 Cái ê-pha và cái bát phải có sức chứa y như nhau, cái bát chứa được một phần mười của hô-me; cái ê-pha cũng là một phần mười hô-me. Sức chứa của nó sẽ tương ứng với hô-me.
\v 12 Một siếc-lơ sẽ là hai mươi ghê-ra; sáu mươi siếc-lơ sẽ tạo thành một min cho các ngươi.
\s5
\p
\v 13 Đây là phần đóng góp mà các ngươi phải dâng lên: một phần sáu ê-pha cho từng hô-me lúa mì, và các ngươi sẽ dâng một phần sáu ê-pha cho từng hô-me mạch nha.
\v 14 Luật dâng dầu sẽ là một phần mười cái bát cho từng cô-rơ (10 cái bát), hoặc cho từng hô-me, một khi một hô-me là mười bát.
\v 15 Một con chiên hay một con dê bắt từ trong bầy trong từng hai trăm con từ các khu vực có nước tưới tiêu trong Y-sơ-ra-ên sẽ được sử dụng dùng làm của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ thù ân để thực hiện sự chuộc tội cho dân sự — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Hết thảy dân trong xứ sẽ dâng hiến phần đóng góp nầy cho nhà vua Y-sơ-ra-ên.
\v 17 Đây sẽ là trách nhiệm của nhà vua phải sắp đặt các con thú dùng làm của lễ thiêu, của lễ chay, và lễ quán trong các kỳ lễ, ngày trăng mới, ngày sa-bát, trong những ngày Sa-bát — hết thảy các kỳ lễ của nhà Y-sơ-ra-ên. Vua sẽ dâng của lễ chuộc tội, của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ thiêu, và của lễ thù ân để làm sự chuộc tội vì ích cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\p
\v 18 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Trong tháng thứ nhứt, ngày thứ nhứt trong tháng, các ngươi bắt lấy một con bò đực tơ từ trong bầy và dùng làm của lễ chuộc tội cho nơi thánh.
\v 19 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội rồi bôi huyết ấy lên mày cửa của ngôi nhà và trên bốn góc đường biên của bàn thờ, và trên mày cửa của cổng vào hành lang trong.
\v 20 Các ngươi sẽ làm điều nầy vào ngày thứ bảy trong tháng vì tội lỗi của mỗi người do tình cờ hoặc ngu dại; làm như thế các ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ.
\s5
\p
\v 21 Trong tháng thứ nhứt nhằm ngày mười bốn của tháng, sẽ là một kỳ lễ cho các ngươi, một kỳ lễ có bảy ngày. Các ngươi sẽ ăn bánh không men.
\v 22 Vào ngày đó, nhà vua sẽ sửa soạn cho mình và vì cả dân sự trong xứ một con bò đực để dâng làm của lễ chuộc tội.
\s5
\v 23 Trong bảy ngày của kỳ lễ, nhà vua sẽ sửa soạn một của lễ thiêu dâng lên cho Đức Giê-hô-va: bảy con bò đực và bảy con chiên đực không vít, và một con dê đực mỗi ngày làm của lễ chuộc tội.
\v 24 Lúc đó, nhà vua sẽ dâng của lễ chay một ê-pha cho mỗi con bò đực và một ê-pha cho mỗi con chiên đực, với một hin dầu cho mỗi ê-pha
\s5
\v 25 Vào tháng thứ mười bảy nhằm ngày thứ mười lăm của tháng, tại kỳ lễ, nhà vua sẽ dâng của của lễ trong bảy ngày nầy: của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay và của lễ bằng dầu.
\s5
\c 46
\cl
\p
\v 1 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cổng của hành lang trong, đối diện với phía đông, sẽ đóng luôn trong sáu ngày làm việc; nhưng vào ngày Sa-bát cổng ấy sẽ mở ra, và vào ngày trăng mới cổng ấy cũng sẽ mở.
\v 2 Nhà vua sẽ bước vào hành lang ngoài bằng lối đi của cổng và hành lang của nó từ phía ngoài, và vua sẽ đứng trước hai cột cửa cổng phía trong khi các thầy tế lễ dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Lúc đó, vua sẽ thờ lạy tại thềm cửa cổng trong rồi đi ra ngoài, nhưng cổng sẽ không đóng lại cho đến chiều tối.
\s5
\v 3 Dân sự trong xứ cũng sẽ thờ lạy trước mặt Đức Giê-hô-va tại lối vào cổng nầy vào các ngày Sa-bát và những ngày trăng mới.
\v 4 Của lễ thiêu mà nhà vua dâng lên cho Đức Giê-hô-va vào ngày Sa-bát sẽ là sáu con chiên con không vít và một con chiên đực không vít.
\v 5 Của lễ chay với chiên đực sẽ là một ê-pha, và của lễ chay với các chiên con sẽ là những gì nhà vua muốn dâng, và một hin dầu với mỗi ê-pha gạo.
\s5
\v 6 Vào ngày trăng mới, các ngươi phải dâng một con bò đực tơ không tì vít, sáu con chiên con và một con chiên đực không tì vít.
\v 7 Nhà vua phải sắm của lễ chay một ê-pha cho con bò đực, một ê-pha cho con chiên đực, và những gì người muốn dâng cho các chiên con, và một hin dầu cho mỗi ê-pha gạo.
\v 8 Khi vua bước vào bằng đường cổng và hành lang của nó, người cũng phải rời đi theo cùng lối đó.
\s5
\p
\v 9 Nhưng khi dân sự của đất đến trước mặt Đức Giê-hô-va theo kỳ lễ ấn định, thì hễ kẻ nào qua cổng phía bắc thờ phượng phải rời đi qua cổng phía Nam; còn kẻ nào bước vào qua cổng phía nam phải rời đi qua cổng phía bắc. Không một người nào được quay trở lại với cổng mà mình bước vào, vì người phải đi thẳng trước mặt mình.
\v 10 Và nhà vua sẽ ngự ở chính giữa; khi họ bước vào trong và khi họ rời đi, vua cũng rời đi.
\s5
\p
\v 11 Và trong các kỳ lễ, của lễ chay phải là một ê-pha gạo cho con bò đực và một ê-pha cho con chiên đực, và bất cứ gì người muốn dâng với các chiên con, một hin dầu cho mỗi một ê-pha.
\v 12 Khi nhà vua dâng của lễ lạc ý cho Đức Giê-hô-va mỗi của lễ thiêu hay của lễ thù ân, nhà vua phải mở cổng hướng đông cho của lễ ấy, và dâng của lễ thiêu mình và của lễ thù ân mình y như người đã dâng nó nhằm ngày Sa-bát; khi ấy người phải đi ra và khi đã ra rồi phải đóng cổng lại.
\s5
\p
\v 13 Mỗi ngày ngươi dâng lên cho Đức Giê-hô-va một con chiên con giáp năm, không tì vít; ngươi sẽ làm việc nầy vào mỗi buổi mai.
\v 14 Và ngươi sẽ dâng của lễ chay với nó mỗi buổi mai, một phần sáu ê-pha với một phần ba hin dầu để trộn với bột. Của lễ chay dâng cho Đức Giê-hô-va hằng ngày theo lệ luật đời đời.
\v 15 Họ sẽ sắm chiên con, của lễ chay, và dầu mỗi buổi mai, một của lễ thiêu thường trực.
\s5
\p
\v 16 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nếu nhà vua dâng một của lễ cho bất kỳ con trai nào, của lễ ấy lấy trong cơ nghiệp của con ấy. Đây sẽ tài sản của các con trai người, đó là một cơ nghiệp.
\v 17 Nhưng nếu vua dâng một của lễ từ sản nghiệp mình thay cho một trong các tôi tớ người, thì vật ấy sẽ thuộc về kẻ đầy tớ cho đến năm phóng thích; rồi khi ấy thì vật đó sẽ trở về với nhà vua. Cơ nghiệp của vua chắc chắn sẽ thuộc về các con trai người.
\v 18 Nhà vua chớ lấy chi hết về sản nghiệp của dân sự, mà đuổi chúng nó khỏi chính cơ nghiệp nó; nhà vua phải tiếp trợ cho các con trai từ tài sản riêng của mình hầu cho dân ta ai nấy không bị tan lạc khỏi chính cơ nghiệp mình.”
\s5
\p
\v 19 Kế đó, người dẫn ta qua lối vào ngay tại cổng đến các phòng thánh dành cho các thầy tế lễ, đối diện với phía bắc và kìa! Có một chỗ ở hướng về phía tây.
\v 20 Người bảo ta rằng: “Đây là chỗ mà các thầy tế lễ luộc của lễ chuộc tội và của lễ chuộc sự mắc lỗi, và là chỗ họ sẽ nấu của lễ chay. Họ không được đem chúng ra nơi hành lang ngoài, để dâng dân sự cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 21 Khi ấy người đưa ta ra nơi hành lang ngoài, và người dẫn ta ngang qua bốn góc hành lang ấy, và ta nhìn thấy mỗi góc hành lang có một cái sân khác.
\v 22 Nơi bốn góc hành lang ngoài có bốn góc sân, dài bốn mươi cu-bít và rộng ba mươi cu-bít. Ở đó các chiều kích thước giống như nhau cho bốn góc sân.
\v 23 Có một hàng đá bao quanh bốn cái sân ấy, và có chỗ nấu nướng ở dưới từng hàng đá đó.
\v 24 Người bảo ta rằng: “Đây là những chỗ mà các tôi tớ của đền thờ sẽ luộc của thứ của lễ của dân sự.”
\s5
\c 47
\cl
\p
\v 1 Kế đó, người đưa ta trở lại lối vào đền thờ, và kìa! Nước tràn ra từ dưới thềm đền thờ trong nhà về phía đông — vì mặt trước đền thờ đối diện với phía đông — và nước ấy tràn xuống mặt phía nam đền thờ, chảy ngay vào bàn thờ.
\v 2 Vậy, người đưa ta ra qua cổng phía bắc và dẫn ta đi vòng đến cổng đối diện hướng đông. Kìa, nước tràn xuống từ cổng nầy xuôi về mặt phía nam của nó.
\s5
\p
\v 3 Khi người dẫn ta hướng lên phía đông, có sợi dây đo trong tay người; người đo chẵn một ngàn cu-bít và khiến ta lội qua nước, nước lên đến mắt cá ta.
\v 4 Khi ấy, người lại đo một ngàn cu-bít một lần nữa và khiến ta lội qua nước, nước lên đến đầu gối ta; và người lại đo một ngàn cu-bít khác, và khiến ta lội qua nước, nước lên đến hông ta.
\v 5 Kế đó, người lại đo thêm một ngàn cu-bít nữa, ở đây, đó là một con sông mà ta không lội qua được, vì nước rất sâu. Một người chỉ có thể lội qua đó.
\s5
\v 6 Bấy giờ người bảo ta rằng: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy con sông nầy không? Rồi người vớt ta ra rồi đưa ta trở lại dọc theo bờ sông.
\p
\v 7 Khi ta trở lại rồi, kìa, bờ sông có rất nhiều cây ở mặt nầy và cũng có ở mặt kia nữa.
\v 8 Người bảo ta rằng: “Sông nầy chảy thẳng đến lãnh thổ phía đông rồi xuống A-ra-ba; sông nầy chảy vào Biển Muối và nó sẽ biến biển ấy trở nên ngọt.
\s5
\v 9 Mọi tạo vật sống có ở chỗ sông chảy đến, có nhiều loài cá khi con sông chảy đi. Sông ấy sẽ biến muối ra ngọt. Muôn vật sẽ sống bất cứ đâu con sông chảy đến.
\v 10 Khi ấy, những ngư phủ ở Ên-Ghê-đi sẽ đứng bên bờ sông ấy, sẽ có một chỗ khô cạn để phơi khô lưới gần Ên-Ê-la-im. Sẽ có nhiều loại cá trong Biển Muối, giống như các loại cá dư dật trong Biển Lớn.
\s5
\v 11 Nhưng vùng bưng biền của Biển Muối sẽ không trở nên ngọt; chúng sẽ hiện hữu ở đó để cung cấp muối.
\v 12 Gần hai bên bờ sông ấy, ở cả hai bên, sẽ mọc lên đủ thứ cây có trái ăn được. Lá nó không hề tàn héo, và trái nó sẽ ra luôn không dứt. Cây cối mỗi tháng sẽ ra trái, một khi nước tưới chúng ra từ Nơi Thánh. Trái của chúng dùng để ăn, và lá nó dùng để làm thuốc.
\s5
\p
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy sẽ là cách mà ngươi chia đất cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên: Giô-sép sẽ có hai phần.
\v 14 Và các ngươi, mỗi anh em giữa vòng các ngươi sẽ thừa hưởng đất làm sản nghiệp. Khi ta giơ tay lên thề ban xứ nầy cho các tổ phụ ngươi, cũng một thể ấy xứ nầy đã trở thành sản nghiệp của các ngươi.
\s5
\p
\v 15 Đây sẽ là mốc giới của xứ về phía Bắc, từ Biển Lớn, theo con đường Hết-lôn và đến Lê-bô Ha-mát cho đến Xê-đát.
\q
\v 16 Khi ấy, mốc giới sẽ chạy đến Bê-rốt, đến Síp-ra-im — phần ở giữa Đa-mách và Ha-mát, đến Hát-se-Hát-thi-côn — bên cạnh mốc giới của Ha-vơ-ran.
\v 17 Vậy mốc giới sẽ chạy từ biển đến Hát-sa-Ê-nôn trên đường biên giáp với Đa-mách và Ha-mát về phía bắc. Đây sẽ là mặt phía bắc.
\s5
\q
\v 18 Về phía đông, giữa Ha-vơ-ran và Đa-mách và giữa Ga-la-át và đất Y-sơ-ra-ên sẽ là sông Giô-đanh. Mốc giới nầy sẽ chạy thật xa đến tận Tha-ma.
\q
\v 19 Rồi về phía nam: phía nam Tha-ma cho đến sông Mê-ri-ba Ca-đe, đến khe Ê-díp-tô cho đến Biển Lớn; và là mặt phía nam hướng thẳng hướng nam.
\q
\v 20 Rồi mốc giới phía tây sẽ là Biển Lớn cho đến lối vào Ha-mát. Đây sẽ là mặt phía tây.
\s5
\p
\v 21 Theo cách nầy, các ngươi sẽ chia đất nầy cho nhau, cho các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Và sự việc sẽ xảy ra, các ngươi sẽ bắt thăm cho các sản nghiệp chia cho mình và cho các dân ngoại sống ở giữa các ngươi, họ sanh con cái giữa các ngươi và họ, với các ngươi giống như dân bản xứ của Y-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ bóc thăm chọn lấy sản nghiệp giữa vòng các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\v 23 Khi ấy, sự việc nầy sẽ xảy ra, người ngoại sẽ trú ngụ với chi phái mà họ sống trong đó. Các ngươi phải cấp cho người một sản nghiệp — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\c 48
\cl
\p
\v 1 Đây là tên của các chi phái: Chi phái Đan sẽ nhận một phần đất; mốc giới của nó sẽ chạy từ mốc phía bắc Y-sơ-ra-ên theo con đường của Hết-lôn và Lê-bô Ha-mát. Mốc giới của nó sẽ chạy từ Ha-xa Ê-nan dọc theo biên giới với Đa-mách lên phía bắc và rồi đến Ha-mát. Mốc giới của Đan sẽ chạy từ phía Đông suốt con đường đến Biển Lớn.
\p
\v 2 Về phía nam mốc giới của Đan sẽ là đất của A-se — chạy từ phía đông sang phía tây.
\p
\v 3 Phía nam của mốc giới A-se sẽ là phần đất của Nép-ta-li, trải từ mặt phía đông cho đến mặt phía tây.
\s5
\p
\v 4 Phía nam mốc giới với Nép-ta-li sẽ là phần đất của Ma-na-se, trải dài từ mặt phía đông cho đến mặt phía tây.
\p
\v 5 Phía nam mốc giới của Ma-na-se, từ phía đông đến phía tây, sẽ là Ép-ra-im — một phần đất của Ép-ra-im.
\p
\v 6 Phía nam mốc giới của Ép-ra-im, từ phía đông đến phía tây, sẽ là Ru-bên — phần đất của Ru-bên.
\p
\v 7 Trên bờ cõi của Ru-bên, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Giu-đa — một phần đất.
\s5
\p
\v 8 Phần đất cung hiến các ngươi sẽ chọn lấy dọc theo mốc giới với Giu-đa, chạy từ phía đông đến phía tây; nó sẽ rộng hai mươi lăm ngàn cu-bít, và chiều dài tương ứng với phần của một chi phái từ mặt phía đông sang phía tây, và đền thờ sẽ ở giữa phần đất ấy.
\p
\v 9 Phần đất nầy các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va sẽ là hai mươi lăm ngàn cu-bít bề dài và mười ngàn cu-bít bề ngang.
\s5
\v 10 Phần đất nầy sẽ được định là phần đất thánh: các thầy tế lễ sẽ có đất được ấn định cho họ đo được hai mươi lăm ngàn cu-bít bề rộng về phía bắc; mười ngàn cu-bít bề ngang về phía tây, mười ngàn cu-bít bề ngang về phía đông; và hai mươi lăm ngàn cu-bít bề dài về phía nam, với nơi thánh của Đức Giê-hô-va sẽ ở giữa nó.
\v 11 Phần đất ấy sẽ được dâng cho Đức Giê-hô-va; các thầy tế lễ theo dòng Xa-đốc là những kẻ phục vụ ta một cách trung tín, họ không sai lạc khi con cái Y-sơ-ra-ên lạc sai, như người Lê-vi đã sai lạc.
\v 12 Sự ban hiến cho họ sẽ là một phần của nơi chí thánh nầy, chạy dài theo mốc giới của người Lê-vi.
\s5
\p
\v 13 Phần đất của người Lê-vi dọc theo mốc giới với phần đất của các thầy tế lễ sẽ là hai mươi lăm ngàn cu-bít bề dài và mười ngàn cu-bít bề ngang. Toàn bộ chiều dài của phần đất sẽ hai mươi lăm ngàn cu-bít chiều dài và hai mươi ngàn cu-bít chiều rộng.
\v 14 Họ sẽ không được bán hay đổi đất ấy; không một hoa quả đầu mùa nào trong xứ Y-sơ-ra-ên bị biệt riêng ra khỏi các mộc giới nầy, vì hết thảy đều là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 15 Phần đất còn lại, năm ngàn cu-bít chiều rộng và chiều dài hai mươi lăm ngàn cu-bít, sẽ là nơi thành phố chọn sử dụng, để xây nhà cửa và đồng cỏ; thành phố sẽ ở chính giữa nó.
\v 16 Đây sẽ là số đo của nó: phía bắc dài bốn ngàn năm trăm cu-bít, phía nam dài bốn ngàn năm trăm cu-bít, phía đông dài bốn ngàn năm trăm cu-bít, phía tây dài bốn ngàn năm trăm cu-bít.
\s5
\v 17 Sẽ là đồng cỏ cho thành phố về phía bắc, hai trăm năm chục cu-bít bề sâu, phía nam hai trăm năm chục cu-bít bề sâu, phía đông hai trăm năm chục cu-bít bề sâu; và phía tây sâu hai trăm năm chục cu-bít.
\v 18 Khu vực còn lại của phần cung hiến thánh sẽ trải dài là mười ngàn cu-bít về phía đông và mười ngàn cu-bít phía tây. Nó sẽ chạy dài dọc theo mốc giới của phần đất thánh, và hoa lợi của nó sẽ dùng làm đồ ăn cho những kẻ làm việc trong thành.
\s5
\v 19 Số người làm việc trong thành, là dân thuộc về hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên, sẽ canh tác phần đất ấy.
\v 20 Hết thảy phần đất thánh sẽ đo được hai mươi lăm ngàn cu-bít bề dài, hai mươi lăm ngàn cu-bít bề ngang. Theo cách nầy, các ngươi sẽ biến phần đất ấy ra thánh, cùng với phần đất dành cho thành phố.
\s5
\p
\v 21 Phần xứ còn lại bốn bề quanh phần đất thánh và khu vực thành phố sẽ dành cho nhà vua. Mốc giới phần đất của nhà vua về phía đông sẽ trải dài hai mươi lăm ngàn cu-bít tính từ mốc giới phần đất thánh cho đến mốc giới phía đông — và mốc giới của vua cho đến phía tây sẽ trải dài hai mươi lăm ngàn cu-bít cho đến mốc giới phía tây. Ở giữa sẽ là nơi thánh, và nơi thánh của đền thờ sẽ ở chính giữa nó.
\v 22 Phần đất chạy dài từ sản nghiệp của người Lê-vi và khu vực thành phố ở giữa nó sẽ thuộc về nhà vua; nó sẽ nằm giữa mốc giới của Giu-đa và mốc giới phần đất của Bên-gia-min — phần đất nầy sẽ thuộc về nhà vua.
\s5
\p
\v 23 Về phần các chi phái còn lại, phần đất của họ cũng chạy từ mặt phía đông đến mặt phía tây. Bên-gia-min sẽ nhận một phần.
\p
\v 24 Về phía nam mốc giới của Bên-gia-min, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất của Si-mê-ôn — một phần.
\p
\v 25 Về phía nam mốc giới của Si-mê-ôn, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất cho Y-sa-ca — một phần.
\p
\v 26 Về phía nam mốc giới của Y-sa-ca, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất của Sa-bu-lôn — một phần.
\s5
\p
\v 27 Về phía nam mốc giới của Sa-bu-lôn, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất cho Gát — một phần.
\p
\v 28 Mốc giới phía nam của Gát sẽ chạy từ Tha-ma cho đến các con sông của Mê-ri-ba Ca-đe, và xa tít đến khe Ê-díp-tô, và rồi cho đến Biển Lớn.
\p
\v 29 Đây là phần đất mà các ngươi sẽ dùng cách bắt thăm; nó sẽ là cơ nghiệp của các chi phái Y-sơ-ra-ên. Đây sẽ phần của họ. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\p
\v 30 Đây là những lối ra của thành phố: về phía bắc, đi được bốn ngàn năm trăm cu-bít bề dài,
\v 31 sẽ là ba cổng, đặt theo tên của các chi phái Y-sơ-ra-ên: một cổng mang tên Ru-bên, một cổng mang tên Giu-đa, và một cổng mang tên Lê-vi.
\p
\v 32 Về phía đông đo được bốn ngàn năm trăm cu-bít theo chiều dài, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Giô-sép, một cổng mang tên Bên-gia-min, và một cổng mang tên Đan.
\s5
\p
\v 33 Về phía nam, đo được bốn ngàn năm trăm cu-bít chiều dài, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Si-mê-ôn; một cổng mang tên Y-sa-ca, và một cổng mang tên Sa-bu-lôn.
\p
\v 34 Về phía tây, đo được bốn ngàn năm trăm cu-bít, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Gát; một cổng mang tên A-se; và một cổng mang theo tên Nép-ta-li.
\p
\v 35 Chu vi quanh thành phố sẽ có mười tám ngàn cu-bít; kể từ ngày ấy trở đi, tên thành phố sẽ là: “Đức Giê-hô-va ngự ở đó!”