2187 lines
176 KiB
Plaintext
2187 lines
176 KiB
Plaintext
\id LUK
|
||
\ide UTF-8
|
||
\h LU-CA
|
||
\toc1 LU-CA
|
||
\toc2 LU-CA
|
||
\toc3 luk
|
||
\mt LU-CA
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 1
|
||
\p
|
||
\v 1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lơ khả kính, nhiều người đã cố gắng thuật lại theo trình tự những việc đã được thực hiện giữa vòng chúng ta,
|
||
\v 2 như họ đã gửi cho chúng ta, là những người từ đầu đã tận mắt chứng kiến mọi việc và là người phục vụ sứ điệp ấy.
|
||
\v 3 Vì vậy, sau khi cẩn thận tra xét mọi việc từ đầu, tôi thiết tưởng cũng nên theo thứ tự mà ghi lại cho ngài.
|
||
\v 4 Ấy là để ngài biết được sự thật về những điều mình đã được học.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vào thời Hê-rốt, vua xứ Giu-đê, có một thầy tế lễ tên là Xa-cha-ri, thuộc ban A-bi-a. Vợ ông tên Ê-li-sa-bét, thuộc dòng dõi A-rôn.
|
||
\v 6 Cả hai vợ chồng đều là người công bình trước mặt Đức Chúa Trời; họ bước đi thật trọn vẹn trong mọi điều răn và mạng lệnh của Chúa.
|
||
\v 7 Nhưng họ không có con vì Ê-li-sa-bét hiếm muộn, và cả hai lúc này đều đã cao tuổi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi ấy Xa-cha-ri đang thực hiện phận sự tế lễ trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời theo phiên thứ của ban mình.
|
||
\v 9 Theo thông lệ bắt thăm để chọn ra thầy tế lễ nào sẽ phục vụ thì ông được chọn vào đền thờ của Chúa để dâng hương.
|
||
\v 10 Trong giờ dâng hương, cả hội chúng ở bên ngoài cầu nguyện.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Bấy giờ đột thiên sứ của Chúa hiện ra với ông, và đứng bên phải bàn thờ xông hương.
|
||
\v 12 Xa-cha-ri bối rối và sợ hãi khi thấy thiên sứ.
|
||
\v 13 Nhưng thiên sứ nói với ông: “Này, Xa-cha-ri, đừng sợ, vì lời cầu nguyện của ông đã được nhậm. Vợ ông là Ê-li-sa-bét sẽ sinh cho ông một con trai. Ông sẽ đặt tên cho con mình là Giăng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Con trai ấy sẽ làm cho ông vui mừng, sung sướng, và nhiều người sẽ hoan hỷ khi cậu bé ra đời.
|
||
\v 15 Cậu sẽ được tôn trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu nho hay rượu mạnh và cậu sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh, từ khi còn trong lòng mẹ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Và nhiều con cái Y-sơ-ra-ên sẽ trở về cùng Chúa là Đức Chúa Trời mình.
|
||
\v 17 Cậu sẽ đi trước mặt Chúa với tinh thần và quyền năng của Ê-li. Cậu sẽ khiến lòng cha hướng về con cái, để những kẻ ương ngạnh sẽ bước đi theo sự khôn ngoan của người công bình. Cậu sẽ làm như vậy để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc sẵn sàng cho Ngài.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Xa-cha-ri thưa với thiên sứ: “Làm sao tôi biết được việc này? Vì tôi đã già, vợ tôi cũng đã cao tuổi. ”
|
||
\v 19 Thiên sứ đáp: “Tôi là Gáp-ri-ên, chầu trước mặt Đức Chúa Trời. Tôi được sai đến để gặp ông và báo cho ông biết tin vui này.
|
||
\v 20 Này, ông sẽ bị câm và không nói được cho đến ngày những việc kia xảy ra. Ấy là vì ông không tin lời tôi, là lời sẽ được ứng nghiệm vào thời điểm thích hợp.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Trong lúc ấy, dân chúng cứ đợi Xa-cha-ri. Họ ngạc nhiên vì ông ở quá lâu trong đền thờ.
|
||
\v 22 Nhưng lúc đi ra thì Xa-cha-ri không thể nói chuyện với họ. Họ hiểu rằng ông đã thấy khải tượng khi ở trong đền thờ. Ông chỉ ra dấu cho họ mà không nói năng gì được.
|
||
\v 23 Khi thời gian phục vụ đã hết, ông trở về nhà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau những ngày ấy, vợ ông là Ê-li-sa-bét mang thai. Bà ẩn mình trong năm tháng. Bà nói:
|
||
\v 25 “Đây là điều Chúa đã làm cho tôi khi Ngài đoái thương tôi để cất đi sự hổ nhục của tôi trước mặt mọi người.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Khi Ê-li-sa-bét mang thai được sáu tháng, thiên sứ Gáp-ri-ên được Đức Chúa Trời sai đến thành Na-xa-rét, thuộc miền Ga-li-lê,
|
||
\v 27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người nam tên là Giô-sép. Người thuộc nhà Đa-vít, và trinh nữ ấy tên là Ma-ri.
|
||
\v 28 Thiên sứ hiện đến với cô và nói: “Xin chúc mừng cô, người được hồng phúc! Chúa ở cùng cô. ”
|
||
\v 29 Ma-ri rất bối rối trước lời thiên sứ nói và tự hỏi không biết lời chào ấy có nghĩa gì.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Thiên sứ tiếp: “Cô Ma-ri, xin đừng sợ, vì cô đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời.
|
||
\v 31 Và này, cô sẽ mang thai và sinh một con trai. Cô sẽ đặt tên cho con trai ấy là ‘Giê-xu. ’
|
||
\v 32 Ngài sẽ được tôn trọng và được gọi là Con của Đấng Chí Cao. Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít, là tổ phụ Ngài.
|
||
\v 33 Ngài sẽ trị vì trên nhà Gia-cốp đến đời đời, vương quốc của Ngài mãi mãi trường tồn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Ma-ri thưa với thiên sứ: “Tôi chưa ăn nằm cùng người nam nào thì làm sao việc ấy xảy ra được? ”
|
||
\v 35 Thiên sứ đáp: “Đức Thánh Linh sẽ vận hành trên cô và quyền năng của Đấng Chí Cao sẽ bao phủ cô. Vì vậy, Con thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Đó, Ê-li-sa-bét, người bà con của cô, cũng đã mang thai một con trai khi đã cao tuổi. Thai nhi nay đã được sáu tháng, dù bà có tiếng là hiếm muộn.
|
||
\v 37 Vì không có việc gì Đức Chúa Trời chẳng làm được. ”
|
||
\v 38 Ma-ri thưa: “Thật, tôi đây là tớ gái của Chúa. Xin việc ấy xảy ra cho tôi theo lời người truyền. ” Rồi thiên sứ lìa khỏi cô.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Trong những ngày ấy, Ma-ri lên đường, vội vã đi đến miền núi, đến một thành kia trong xứ Giu-đê.
|
||
\v 40 Ma-ri vào nhà Xa-cha-ri thăm hỏi Ê-li-sa-bét.
|
||
\v 41 Khi Ê-li-sa-bét nghe tiếng Ma-ri chào, thì đứa bé trong bụng bà liền nhảy dựng lên, Ê-li-sa-bét thì đầy dẫy Đức Thánh Linh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Bà nói lớn tiếng, rằng: “Cô thật là người có phước trong số chị em phụ nữ, và thai nhi trong lòng cô cũng có phước.
|
||
\v 43 Sao tôi lại được mẹ của Chúa tôi đến thăm thế này?
|
||
\v 44 Vì kìa, khi tai tôi vừa nghe tiếng cô chào, thì đứa bé trong bụng tôi liền nhảy lên vì vui mừng.
|
||
\v 45 Phước cho cô vì đã tin rằng những gì Chúa phán với cô sẽ được ứng nghiệm.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Ma-ri nói: “Linh hồn tôi tôn cao Chúa,
|
||
\v 47 tâm linh tôi vui mừng nơi Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 Vì Ngài đã nhìn đến thân phận hèn mọn của tớ gái Ngài. Vì kìa, từ nay trở đi mọi thế hệ sẽ khen tôi là người có phước.
|
||
\v 49 Vì Ngài là Đấng toàn năng đã làm những việc lớn cho tôi, và danh Ngài là thánh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 50 Từ thế hệ này qua thế hệ kia, Ngài thương xót những người tôn vinh Ngài.
|
||
\v 51 Tay Ngài bày tỏ sức mạnh; Ngài làm tan tác những kẻ có tư tưởng kiêu ngạo trong lòng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 Ngài hạ các bậc vua chúa xuống, và nâng những kẻ thấp hèn lên.
|
||
\v 53 Ngài ban vật tốt cho người đói, nhưng đuổi kẻ giàu về tay không.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Ngài đã cứu giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, để ghi nhớ tỏ lòng thương xót đời đời
|
||
\v 55 cho Áp-ra-ham và dòng dõi người.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 56 Ma-ri ở lại với Ê-li-sa-bét khoảng ba tháng rồi trở về nhà mình.
|
||
\v 57 Đến ngày sinh nở, Ê-li-sa-bét hạ sinh một bé trai.
|
||
\v 58 Láng giềng và người thân biết được Chúa đã thương xót bà bội phần nên cùng chung vui với bà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 59 Vào ngày thứ tám, họ đến để làm lễ cắt bì cho đứa trẻ. Họ muốn đặt tên cho cậu là Xa-cha-ri, theo tên cha,
|
||
\v 60 nhưng mẹ cậu lại bảo: “Không, phải gọi nó là Giăng. ”
|
||
\v 61 Họ nói: “Trong vòng bà con của bà không ai có tên ấy cả.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 62 Họ ra dấu hỏi người cha muốn đặt tên cho con là gì.
|
||
\v 63 Ông yêu cầu đem đến một tấm bảng và viết: “Tên nó là Giăng. ” Tất cả mọi người đều ngạc nhiên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 64 Lập tức, miệng ông mở ra, lưỡi thong thả. Ông nói và ngợi khen Đức Chúa Trời.
|
||
\v 65 Tất cả mọi người sống gần đó đều sợ hãi, và những việc này lan rộng khắp miền đồi núi xứ Giu-đê.
|
||
\v 66 Ai nghe đến cũng đều suy ngẫm về những việc này và thắc mắc: “Đứa trẻ này về sau sẽ ra thể nào? ” Vì họ biết tay Chúa ở với cậu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 67 Cha cậu là Xa-cha-ri được đầy dẫy Đức Thánh Linh mở miệng nói tiên tri rằng:
|
||
\v 68 “Ngợi khen Chúa là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì Ngài đã giúp đỡ chúng ta và thực thi sự mua chuộc cho con dân Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 69 Ngài đã dấy lên cho chúng ta cái sừng của sự cứu rỗi trong nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít, từ giữa dòng dõi của tôi tớ Ngài là Đa-vít,
|
||
\v 70 như lời Đức Chúa Trời đã phán từ thời xưa qua miệng của các tiên tri thánh của Ngài.
|
||
\v 71 Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi kẻ thù, và khỏi tay của những kẻ căm ghét chúng ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 72 Ngài sẽ làm vậy để bày tỏ lòng thương xót đối với các tổ phụ của chúng ta và nhớ lại giao ước thánh của Ngài,
|
||
\v 73 là lời Ngài đã thề cùng Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta.
|
||
\v 74 Ngài đã thề sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù mình để chúng ta được trọn đời phục vụ Ngài mà không sợ hãi gì
|
||
\v 75 trong sự thánh khiết và công bình trước mặt Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 76 Phải, còn con, hỡi con ta, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Chí Cao, vì con sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài, chuẩn bị dân để đón tiếp Ngài,
|
||
\v 77 giúp dân của Ngài nhận biết sự cứu rỗi bởi sự tha tội.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 78 Việc ấy sẽ được thực hiện vì cớ lòng thương xót bao dung của Đức Chúa Trời chúng ta, bởi lòng thương xót này mà bình minh từ trên cao sẽ đến trên chúng ta,
|
||
\v 79 để soi sáng trên những ai đang ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng của sự chết. Ngài sẽ làm như vậy để đưa dẫn chúng ta vào lối bình an.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 80 Bấy giờ đứa trẻ lớn lên, tâm linh mạnh mẽ và ở trong hoang mạc cho đến khi công khai xuất hiện trước dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 2
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào thời kỳ đó, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ kiểm tra dân số trên toàn cõi.
|
||
\v 2 Đây là lần kiểm tra dân số đầu tiên thực hiện trong thời Qui-ri-ni-u làm tổng đốc vùng Sy-ri.
|
||
\v 3 Vậy là mọi người đều phải trở về quê quán để đăng ký.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Vì Giô-sép thuộc dòng dõi Đa-vít nên cũng từ thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê lên thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, cũng được gọi là thành Đa-vít,
|
||
\v 5 để đăng ký tên mình và tên Ma-ri, là người đã đính hôn với mình, đang mang thai.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Trong khi họ đang ở đó thì Ma-ri chuyển dạ.
|
||
\v 7 Cô sinh con trai, người con đầu lòng, và cô dùng khăn bọc con mình lại. Rồi cô đặt cậu bé vào một máng cỏ, vì họ không kiếm được chỗ trong phòng trọ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Cũng trong vùng ấy, có một số mục tử đang ở ngoài đồng canh giữ bầy chiên trong đêm.
|
||
\v 9 Bất chợt, một thiên sứ của Chúa hiện ra với họ, vinh quang của Chúa chiếu rọi xung quanh, khiến họ rất sợ hãi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Thiên sứ nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi mang đến cho các anh một tin lành, là tin vui lớn cho tất cả mọi người.
|
||
\v 11 Hôm nay, tại thành Đa-vít, một Cứu Chúa đã được sinh ra cho các anh! Ngài là Đấng Cứu Thế, là Chúa!
|
||
\v 12 Đây là dấu hiệu cho các anh nhận biết Ngài, các anh sẽ gặp một em bé bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Bỗng nhiên, cả một đoàn thiên binh hiện ra cùng với thiên sứ ấy ngợi khen Đức Chúa Trời rằng:
|
||
\v 14 Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người được ơn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Khi các thiên sứ lìa họ lên trời, các mục tử bàn với nhau: “Chúng ta hãy đi đến Bết-lê-hem để xem việc mới xảy ra này. ”
|
||
\v 16 Họ vội vàng đi đến đó, gặp Ma-ri và Giô-sép, rồi cũng thấy con trẻ nằm trong máng cỏ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Sau khi đã nhìn thấy như vậy, họ liền thuật lại mọi điều đã nghe về con trẻ.
|
||
\v 18 Ai nghe cũng đều rất ngạc nhiên về câu chuyện các mục tử kể lại.
|
||
\v 19 Còn Ma-ri thì suy ngẫm về mọi việc mình đã nghe và ghi nhớ trong lòng.
|
||
\v 20 Các mục tử trở về, tôn vinh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều họ đã nghe và thấy, đúng y như những gì đã báo cho họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Đến ngày thứ tám, là ngày làm lễ cắt bì cho con trẻ, họ đặt tên cho Ngài là Giê-xu, là tên mà thiên sứ đã đặt trước khi Ngài được thai dựng trong lòng mẹ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Khi những ngày thanh tẩy theo luật Môi-se đã qua, Giô-sép và Ma-ri đưa Ngài lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa,
|
||
\v 23 theo như đã chép trong luật pháp của Chúa rằng: “Tất cả các con trai đầu lòng sẽ được biệt riêng ra thánh cho Chúa. ”
|
||
\v 24 Họ cũng dâng của lễ theo như luật pháp của Chúa dạy, đó là “một cặp chim bồ câu hay đôi chim cu non”.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Lúc ấy, tại thành Giê-ru-sa-lem có một người tên là Si-mê-ôn, là một người công bình và sốt sắng. Ông đang chờ đợi Đấng Yên Ủi dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên ông.
|
||
\v 26 Ngài đã cho ông biết trước rằng ông sẽ được thấy Đấng Cứu Thế của Chúa trước khi qua đời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Được Đức Thánh Linh dẫn dắt, Si-mê-ôn vào đền thờ đúng lúc cha mẹ của Chúa Giê-xu đưa Ngài đến để thực hiện các thủ tục theo luật pháp.
|
||
\v 28 Si-mê-ôn bồng Ngài trên tay và ngợi khen Đức Chúa Trời rằng:
|
||
\v 29 “Lạy Chúa, bây giờ, xin cho tôi tớ Ngài được qua đời bình an theo như lời Ngài đã hứa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Vì mắt con đã thấy sự cứu rỗi Ngài,
|
||
\v 31 mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân.
|
||
\v 32 Đấng ấy là ánh sáng để mặc khải cho dân ngoại và là vinh quang của Y-sơ-ra-ên, dân Ngài.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Cha mẹ của con trẻ rất kinh ngạc trước những lời ông nói về Ngài.
|
||
\v 34 Rồi Si-mê-ôn chúc phước cho họ và nói với Ma-ri, mẹ Ngài, rằng: “Xin nghe kỹ lời tôi! Đứa trẻ này đã được định sẽ làm cho nhiều người Y-sơ-ra-ên hoặc vấp ngã hoặc chỗi dậy và là một dấu hiệu bị người ta nói phạm.
|
||
\v 35 Còn cô, một thanh gươm sẽ đâm thấu linh hồn cô, để suy nghĩ trong lòng nhiều người được tỏ lộ ra.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Tại đó cũng có nữ tiên tri An-ne. Bà là con gái của Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se, tuổi đã cao. Sau khi kết hôn, bà sống với chồng được bảy năm,
|
||
\v 37 và rồi ở góa suốt tám mươi bốn năm. Bà ở luôn trong đền thờ và ngày đêm thờ phượng Đức Chúa Trời bằng sự kiêng ăn cầu nguyện.
|
||
\v 38 Vào đúng lúc ấy, bà tiến đến chỗ họ và cất tiếng cảm tạ Đức Chúa Trời, rồi đi nói về con trẻ cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Sau khi đã làm xong mọi việc phải làm theo luật pháp của Chúa, họ trở về thành mình là Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê.
|
||
\v 40 Con trẻ lớn lên và trở nên mạnh mẽ, ngày càng khôn ngoan, và ân điển của Đức Chúa Trời ở trên Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Hàng năm, cha mẹ Ngài thường lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua.
|
||
\v 42 Khi Ngài được mười hai tuổi, thì họ lại lên đó vào thời gian vẫn thường diễn ra kỳ lễ.
|
||
\v 43 Sau khi đã ở đó dự lễ đủ số ngày, họ lên đường trở về nhà. Nhưng cậu bé Giê-xu vẫn ở lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ Ngài không hay biết.
|
||
\v 44 Họ cứ cứ tưởng Ngài cùng đi trong đoàn nên sau một ngày đường họ mới đi tìm Ngài trong vòng bà con và bạn bè.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Khi không thấy Ngài đâu, họ trở lại Giê-ru-sa-lem để tìm.
|
||
\v 46 Ba ngày sau, họ thấy Ngài đang ngồi giữa các giáo sư trong đền thờ, Ngài vừa nghe vừa đặt câu hỏi.
|
||
\v 47 Mọi người nghe Ngài nói đều kinh ngạc vì sự hiểu biết cũng như về lời đối đáp của Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 Khi cha mẹ thấy Ngài thì rất ngạc nhiên. Mẹ Ngài nói: “Con trai, sao con lại làm vậy với cha mẹ? Cha và mẹ đã rất lo lắng tìm kiếm con. ”
|
||
\v 49 Ngài thưa: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà của Cha con sao? ”
|
||
\v 50 Nhưng hai người không hiểu ý Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 51 Rồi Ngài trở về Na-xa-rét cùng với cha mẹ và vâng phục hai vị. Mẹ Ngài ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
|
||
\v 52 Chúa Giê-xu ngày càng khôn ngoan và cao lớn, càng được lòng Đức Chúa Trời và người ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 3
|
||
\p
|
||
\v 1 Năm thứ mười lăm dưới triều Sê-sa Ti-be-rơ, trong khi Bôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu xứ Ga-li-lê, em trai ông là Phi-líp làm vua chư hầu Xứ Y-tu-rê và Tra-cô-nít, Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu xứ A-bi-len;
|
||
\v 2 trong thời gian An-ne cùng Cai-phe giữ chức thầy tế lễ thượng phẩm, có lời Đức Chúa Trời đến với Giăng, con trai Xa-cha-ri, trong hoang mạc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ông đi khắp các vùng quanh sông Giô-đanh, rao giảng phép báp-têm về sự ăn năn để được tha tội.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Như lời đã chép trong sách tiên tri Ê-sai: “Có tiếng người kêu lên trong hoang mạc: ‘Hãy dọn đường cho Chúa, làm thẳng các lối Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ được san phẳng, những lối cong quẹo sẽ được sửa cho ngay, và đường gập ghềnh sẽ được ban bằng.
|
||
\v 6 Mọi người sẽ thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vì thế, Giăng nói với đoàn dân đến để chịu ông làm báp-têm rằng: “Hỡi dòng giống rắn độc kia, ai đã cảnh báo để người biết mà chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự nhủ: ‘Tổ phụ của chúng ta là Áp-ra-ham, ’ vì tôi cho các người hay Đức Chúa Trời có thể biến những hòn đá này thành con cháu của Áp-ra-ham.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Cái rìu đã đặt kề gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt thì phải bị đốn và quăng vào lửa.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Dân chúng hỏi Giăng: “Vậy, chúng tôi phải làm gì? ”
|
||
\v 11 Ông đáp: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có thức ăn, cũng hãy làm như vậy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Một số người thu thuế cũng đến để chịu báp-têm và hỏi Giăng: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ”
|
||
\v 13 Ông đáp: “Đừng thu hơn mức quy định.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Một số binh lính cũng hỏi: “Còn chúng tôi thì sao? Chúng tôi phải làm gì? ” Ông nói với họ: “Đừng dùng vũ lực chiếm đoạt tiền của người khác, cũng đừng vu khống ai. Hãy bằng lòng với đồng lương của mình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Vì bấy giờ dân chúng đều đang nóng lòng trông đợi Đấng Cứu Thế đến, nên ai cũng tự hỏi không biết Giăng có phải chăng.
|
||
\v 16 Giăng trả lời mọi người: “Về phần tôi, tôi làm báp-têm cho anh em bằng nước, nhưng Đấng sắp đến có quyền năng hơn tôi, tôi không xứng đáng tháo dây giày cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho anh em bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Tay Ngài cầm chỉa rê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho. Còn rơm rạ thì Ngài sẽ đốt sạch trong lửa chẳng bao giờ tắt.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Giăng cũng dùng nhiều lời khuyên dạy khác để rao giảng tin lành cho dân chúng.
|
||
\v 19 Ông cũng quở trách vua chư hầu Hê-rốt vì đã lấy vợ của em mình là Hê-rô-đia, và vì nhiều việc gian ác khác mà vua đã làm.
|
||
\v 20 Nhưng Hê-rốt lại làm một việc độc ác khác nữa là bỏ tù Giăng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Trong khi mọi người được Giăng làm báp-têm cho thì Chúa Giê-xu cũng chịu báp-têm. Lúc Ngài đang cầu nguyện thì trời mở ra.
|
||
\v 22 Đức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài qua hình dạng giống như chim bồ câu, đồng thời có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Ta. Ta rất hài lòng về Con.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Khi Đức Chúa Giê-xu bắt đầu dạy dỗ thì Ngài được khoảng ba mươi tuổi. (Người ta cho rằng) Ngài là con trai của Giô-sép, con Hê-li.
|
||
\v 24 Hê-li con Mát-tát. Mát-tát con Lê-vi. Lê-vi con Mên-chi. Mên-chi con Gia-nê. Gia-nê con Giô-sép.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Giô-sép con Ma-ta-thia. Ma-ta-thia con A-mốt. A-mốt con Na-hum. Na-hum con Ếch-li. Ếch-li con Na-ghê.
|
||
\v 26 Na-ghê con Ma-át. Ma-át con Ma-ta-thia. Ma-ta-thia con Sê-mê-in. Sê-mê-in con Giô-sếch. Giô-sếch con Giô-đa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Giô-đa con Giô-a-nan. Giô-a-nan con Rê-sa. Rê-sa con Xô-rô-ba-bên. Xô-rô-ba-bên con Sa-la-thi-ên. Sa-la-thi-ên con Nê-ri.
|
||
\v 28 Nê-ri con Mên-chi. Mên-chi con A-đi. A-đi con Cô-sam. Cô-sam con Ên-ma-đan. Ên-ma-đan con Ê-rơ.
|
||
\v 29 Ê-rơ con Giô-suê. Giô-suê con Ê-li-ê-se. Ê-li-ê-se con Giô-rim. Giô-rim con Mát-thát. Mát-thát con Lê-vi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Lê-vi con Si-mê-ôn. Si-mê-ôn con Giu-đa. Giu-đa con Giô-sép. Giô-sép con Giô-nam. Giô-nam con Ê-li-a-kim.
|
||
\v 31 Ê-li-a-kim con Mê-lê-a. Mê-lê-a con Men-na. Men-na con Mát-ta-tha. Mát-ta-tha con Na-than. Na-than con Đa-vít.
|
||
\v 32 Đa-vít con Gie-sê. Gie-sê con Ô-bết. Ô-bết con Bô-ô. Bô-ô con Sanh-môn. Sanh-môn con Na-ách-son.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Na-ách-son con A-mi-na-đáp. A-mi-na-đáp con Át-min. Át-min con A-rơ-ni. A-rơ-ni con Ếch-rôm, Ếch-rôm con Pha-rê. Pha-rê con Giu-đa.
|
||
\v 34 Giu-đa con Gia-cốp. Gia-cốp con Y-sác. Y-sác con Áp-ra-ham. Áp-ra-ham con Tha-rê. Tha-rê con Na-cô.
|
||
\v 35 Na-cô con Sê-rúc. Sê-rúc con Rê-hu. Rê-hu con Bê-léc. Bê-léc con Hê-be. Hê-be con Sa-la.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Sa-la con Cai-nam. Cai-nam con A-bác-sát. A-bác-sát con Sem. Sem con Nô-ê. Nô-ê con Lê-méc.
|
||
\v 37 Lê-méc con Mê-tu-sê-la. Mê-tu-sê-la con Hê-nóc. Hê-nóc con Giê-rệt. Giê-rệt con Ma-ha-la-ên. Ma-ha-la-ên con Kê-nan.
|
||
\v 38 Kê-nan con Ê-nót. Ê-nót con Sết. Sết con A-đam. A-đam con Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 4
|
||
\p
|
||
\v 1 Rồi Chúa Giê-xu đầy dẫy Đức Thánh Linh từ sông Giô-đanh trở về, Ngài được Đức Thánh Linh đưa vào hoang mạc
|
||
\v 2 trong bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ tại đó. Suốt thời gian này, Ngài không ăn gì cả nên khi thời gian ấy đã mãn thì Ngài đói.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ma quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời thì hãy ra lệnh cho đá này biến thành bánh đi. ”
|
||
\v 4 Chúa Giê-xu đáp: “Có lời chép: ‘Người ta sống không chỉ nhờ bánh mà thôi. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Rồi ma quỷ lại đem Ngài lên một nơi cao, chỉ cho Ngài tất cả các vương quốc trên thế gian trong chốc lát.
|
||
\v 6 Nó nói với Ngài: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị hết thảy những vương quốc ấy, cùng sự nguy nga, lộng lẫy cặp theo. Tôi có thể làm được điều ấy vì chúng đã được giao cho tôi và tôi muốn cho ai tùy ý.
|
||
\v 7 Vậy nếu ông cúi xuống thờ lạy tôi, thì tất cả sẽ là của ông.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Nhưng Chúa Giê-xu trả lời: “Có lời chép: ‘Con phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời của con, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Kế đến, ma quỷ đưa Ngài lên Giê-ru-sa-lem, để Ngài trên đỉnh cao nhất của đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời, hãy gieo mình xuống đi.
|
||
\v 10 Vì có lời chép: ‘Ngài sẽ truyền lệnh cho các thiên sứ Ngài chăm sóc con, bảo vệ con. ’
|
||
\v 11 và: ‘Họ sẽ nâng con trên tay, để chân con không vấp phải đá. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Chúa Giê-xu đáp: “Có lời phán: ‘Ngươi không được thử Chúa là Đức Chúa Trời của ngươi. ’”
|
||
\v 13 Khi đã cám dỗ Chúa Giê-xu xong, ma quỷ bỏ đi chờ dịp khác.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Chúa Giê-xu trở về Ga-li-lê với quyền năng của Thánh Linh, tin đồn về Ngài lan truyền khắp các vùng lân cận.
|
||
\v 15 Ngài giảng dạy trong các nhà hội, và mọi người đều khen ngợi Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Một ngày kia Ngài đến thành Na-xa-rét, là nơi Ngài đã lớn lên. Đến ngày Sa-bát, theo thường lệ, Ngài vào đền thờ và đứng dậy đọc Kinh Thánh.
|
||
\v 17 Người ta trao cho Ngài cuộn sách tiên tri Ê-sai, Ngài mở sách ra và gặp chỗ chép thế này:
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 “Thần Linh của Chúa ngự trên ta, vì Ngài đã xức dầu cho ta để rao giảng tin lành cho người nghèo. Ngài đã sai ta rao báo sự phóng thích cho kẻ bị giam cầm, khiến kẻ mù được sáng, kẻ bị áp bức được tự do,
|
||
\v 19 để rao ra năm thi ân của Chúa.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Rồi Ngài đóng sách lại, trao trả cho nhân viên nhà hội, và ngồi xuống. Tất cả mọi người trong nhà hội đều nhìn Ngài chăm chăm.
|
||
\v 21 Ngài nói với họ: “Hôm nay, lời Kinh Thánh mà anh em vừa nghe đã được ứng nghiệm. ”
|
||
\v 22 Mọi người ở đó đều nghe thấy Ngài nói và họ rất đỗi ngạc nhiên về những lời đầy ân sủng ra từ môi miệng Ngài. Họ bàn tán: “Không phải con trai Giô-sép đây sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Chúa Giê-xu nói với họ: “Chắc anh em sẽ dùng câu tục ngữ này để nói với tôi: ‘Ơi này, thầy thuốc, hãy tự chữa cho mình đi. Những việc chúng tôi nghe nói Thầy làm tại Ca-bê-na-um thì Thầy cũng thử làm tại quê nhà mình tại đây đi. ’”
|
||
\v 24 Ngài nói tiếp: “Tôi nói thật với anh em, không có đấng tiên tri nào được chấp nhận tại quê nhà của mình”.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Nhưng tôi bảo thật, vào thời tiên tri Ê-li, khi cả xứ gặp nạn đói lớn vì trời bị đóng chặt, không mưa suốt ba năm rưỡi, lúc ấy trong dân Y-sơ-ra-ên có nhiều quả phụ.
|
||
\v 26 Nhưng Ê-li không được sai đến với một người nào trong số họ, mà lại đến với một quả phụ ở Sa-rép-ta, gần thành Si-đôn.
|
||
\v 27 Trong thời tiên tri Ê-li-sê, cũng có nhiều người Y-sơ-ra-ên mắc bệnh phong hủi, nhưng chỉ có Na-a-man, một người Sy-ri, được chữa lành.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Nghe những lời ấy, mọi người trong nhà hội hết sức tức giận.
|
||
\v 29 Họ đứng dậy bắt Ngài ra ngoài thành và đưa đến chỗ bờ vách của ngọn đồi mà thành phố tọa lạc trên đó, để ném Ngài xuống.
|
||
\v 30 Nhưng Ngài đi qua ngay giữa họ mà rời khỏi đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Rồi Ngài xuống thành Ca-bê-na-um, thuộc miền Ga-li-lê. Vào ngày Sa-bát, Ngài dạy dỗ dân chúng trong nhà hội.
|
||
\v 32 Họ rất ngạc nhiên trước sự dạy dỗ của Ngài vì lời Ngài dạy đầy uy quyền.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Hôm ấy, trong nhà hội có một người bị uế linh ám, la lớn lên rằng:
|
||
\v 34 “Giê-xu Na-xa-rét, chúng tôi có liên quan gì đến Ngài? Ngài đến để hủy diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi! Ngài là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Chúa Giê-xu quở trách quỷ rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này! ” Quỷ quật mạnh người ấy xuống đất ngay giữa họ và ra khỏi mà không gây thương tích gì.
|
||
\v 36 Mọi người đều kinh ngạc và cứ bàn tán mãi về việc ấy. Họ nói rằng: “Mấy lời này là thế nào vậy? Ông ấy dùng uy quyền và năng lực mà ra lệnh cho uế linh khiến chúng phải ra khỏi. ”
|
||
\v 37 Vậy, tin đồn về Ngài lan truyền khắp nơi trong vùng lân cận.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Sau đó, Chúa Giê-xu ra khỏi nhà hội và vào nhà của Si-môn. Lúc này, mẹ vợ của Si-môn đang sốt cao, người ta thay ba cầu xin Chúa.
|
||
\v 39 Ngài cúi xuống quở cơn sốt và nó lìa khỏi bà. Bà liền đứng dậy và bắt tay phục vụ mọi người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Lúc mặt trời lặn, dân chúng đem đến cho Chúa Giê-xu những người đau ốm mắc đủ thứ bệnh tật. Ngài đặt tay trên từng người và chữa lành cho họ.
|
||
\v 41 Các quỷ cũng bị đuổi ra khỏi nhiều người, chúng la lớn lên rằng: “Ông là Con Đức Chúa Trời! ” Chúa Giê-xu quở trách quỷ không cho chúng nói vì chúng biết Ngài là Chúa Cứu Thế.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Tảng sáng, Ngài đi vào nơi thanh vắng. Đoàn dân đông đi tìm Ngài và đến chỗ Ngài đang ở. Họ cố giữ Ngài lại, không cho đi.
|
||
\v 43 Nhưng Ngài nói với họ: “Tôi còn phải rao giảng tin lành về vương quốc Đức Chúa Trời cho nhiều nơi khác nữa, vì đó là lý do tôi được sai đến đây. ”
|
||
\v 44 Rồi Ngài tiếp tục rao giảng trong các nhà hội khắp miền Giu-đê.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 5
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu đứng bên bờ hồ Ghê-nê-xa-rết, còn dân chúng thì tụ tập quanh Ngài để nghe lời của Đức Chúa Trời.
|
||
\v 2 Ngài thấy hai chiếc thuyền đang neo ven bờ hồ. Các ngư dân đã xuống nước giặt lưới.
|
||
\v 3 Chúa Giê-xu lên một trong hai chiếc thuyền ấy, là thuyền của Si-môn, và bảo ông chèo ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống và dạy dỗ dân chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Khi giảng xong, Ngài nói với Si-môn: “Hãy chèo thuyền ra vùng nước sâu mà thả lưới. ”
|
||
\v 5 Si-môn thưa: “Thưa thầy, chúng tôi đã làm việc suốt đêm mà chẳng bắt được gì, nhưng nghe lời thầy, tôi sẽ thả lưới. ”
|
||
\v 6 Khi thả lưới xuống, họ bắt được nhiều cá đến độ lưới hòng đứt.
|
||
\v 7 Họ ra hiệu cho các bạn chài ở chiếc thuyền kia đến giúp. Những người đó đến và kéo cá lên đầy hai thuyền đến nỗi thuyền gần chìm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Thấy vậy, Si-môn Phi-e-rơ liền quỳ xuống nơi chân Chúa Giê-xu mà thưa rằng: “Lạy Chúa, xin lìa khỏi tôi, vì tôi là người tội lỗi. ”
|
||
\v 9 Ấy là vì ông rất đỗi ngạc nhiên vì mẻ lưới họ đánh bắt được, cũng như tất cả đồng bạn mình.
|
||
\v 10 Trong số họ có Gia-cơ và Giăng, các con trai của Xê-bê-đê. Chúa Giê-xu nói với Si-môn: “Đừng sợ, vì từ nay trở đi, con sẽ đánh lưới người. ”
|
||
\v 11 Sau khi đưa thuyền vào bờ, họ bỏ tất cả mà theo Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ngài đến một thành kia, tại đó có một người bị phong hủi. Khi thấy Chúa Giê-xu, anh sấp mặt xuống cầu xin Ngài rằng: “Lạy Chúa, nếu muốn, Ngài có thể khiến con được sạch. ”
|
||
\v 13 Chúa Giê-xu đưa tay ra chạm vào anh và nói: “Tôi muốn, hãy sạch đi. ” Lập tức, bệnh phong hủi biến mất.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ngài dặn anh đừng nói cho ai biết nhưng lại bảo: “Hãy đi trình diện với thầy tế lễ và dâng của lễ về việc anh được sạch, theo luật pháp Môi-se, để chứng thực cho họ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nhưng tin đồn về Ngài càng lan truyền ra xa hơn nữa, khiến đông đảo dân chúng kéo đến để nghe Ngài dạy dỗ và để được Ngài chữa bệnh.
|
||
\v 16 Nhưng Ngài thường lánh vào nơi thanh vắng để cầu nguyện.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Một ngày kia, trong lúc Ngài giảng dạy thì cũng có những người Pha-ri-si và giáo sư luật ngồi nghe. Họ đến từ khắp các ngôi làng trong miền Ga-li-lê và Giu-đê, cũng như từ thành Giê-ru-sa-lem. Quyền năng chữa lành bệnh tật của Chúa ở trong Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Lúc ấy, có mấy người đến khiêng một người bại liệt nằm trên chiếu; họ tìm cách đưa anh vào bên trong đặt trước mặt Chúa Giê-xu.
|
||
\v 19 Nhưng vì có quá đông người nên họ không thể đưa anh vào được. Vậy là họ trèo lên nóc nhà, rồi dòng cả người lẫn chiếu qua mái ngói xuống giữa đám đông, ngay phía trước Chúa Giê-xu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Thấy đức tin của họ, Ngài nói: “Này anh, tội lỗi anh đã được tha. ”
|
||
\v 21 Các giáo sư luật và người Pha-ri-si bắt đầu thắc mắc: “Ông ta là ai mà dám nói lời phạm thượng vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, ai có quyền tha tội?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhưng Chúa Giê-xu biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài đáp lại họ: “Sao các ông thắc mắc trong lòng như vậy?
|
||
\v 23 Câu nào dễ nói hơn: ‘Tội lỗi anh đã được tha’ hay ‘Hãy đứng dậy và đi? ’
|
||
\v 24 Nhưng để các ông biết rằng Con Người ở trên đời này có quyền tha tội. Tôi bảo anh: ‘Hãy đứng dậy, thu dọn chiếu đi về nhà. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Lập tức, người bại liệt đứng dậy trước mặt họ, nhặt chiếu mình lên; và anh trở về nhà, tôn vinh Đức Chúa Trời.
|
||
\v 26 Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Đức Chúa Trời. Họ vô cùng sợ hãi và nói rằng: “Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ thường.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Sau những việc ấy, Chúa Giê-xu rời khỏi đó và thấy một người thu thuế tên Lê-vi đang ngồi tại trạm thu thuế. Ngài nói với ông: “Hãy theo tôi! ”
|
||
\v 28 Lê-vi liền đứng dậy, bỏ hết tất cả mà theo Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Rồi Lê-vi chuẩn bị một bữa đại tiệc tại nhà để khoản đãi Chúa Giê-xu; cũng có nhiều người thu thuế cùng những người khác ngồi ăn chung với họ.
|
||
\v 30 Nhưng những người Pha-ri-si và giáo sư dạy luật phàn nàn với các môn đồ của Chúa, rằng: “Sao các ông lại ăn uống chung với bọn thu thuế và kẻ tội lỗi? ”
|
||
\v 31 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Người khỏe mạnh thì không cần thầy thuốc, chỉ người đau ốm mới cần mà thôi.
|
||
\v 32 Tôi đến không phải để kêu gọi người công bình ăn năn, mà là kêu gọi kẻ có tội.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Họ thưa với Ngài: “Các môn đồ của Giăng thường kiêng ăn và cầu nguyện, các môn đồ của người Pha-ri-si cũng vậy. Còn môn đồ Thầy thì ăn uống. ”
|
||
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Có ai bắt những người đi cùng chú rể kiêng ăn khi chàng còn ở với họ không?
|
||
\v 35 Nhưng sẽ có ngày chú rể được đem đi khỏi họ, khi ấy, họ sẽ kiêng ăn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Ngài cũng kể cho họ nghe một ẩn dụ: “Không ai xé một mảnh áo mới để vá vào cái áo cũ. Làm vậy sẽ hỏng chiếc áo mới, và miếng vá mới cũng không phù hợp với chiếc áo cũ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Cũng không ai chứa rượu mới trong bầu da cũ vì rượu mới sẽ làm cho vỡ bầu, chảy hết rượu ra ngoài, và bầu da cũng bị hỏng.
|
||
\v 38 Rượu mới phải chứa trong bầu da mới.
|
||
\v 39 Người đã uống rượu cũ rồi cũng không muốn uống rượu mới vì nói rằng: ‘Rượu cũ ngon hơn. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 6
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào một ngày Sa-bát nọ, khi Chúa Giê-xu đang đi ngang qua những cánh đồng lúa mì, các môn đồ Ngài ngắt bông lúa, lấy tay vò rồi ăn.
|
||
\v 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-si thắc mắc: “Sao các ông lại làm việc bị cấm trong ngày Sa-bát như vậy?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Các ông chưa từng đọc về việc vua Đa-vít đã làm khi vua và những người theo mình bị đói sao?
|
||
\v 4 Vua vào nhà Đức Chúa Trời và lấy bánh cung hiến mà ăn, và chia cho những người đi cùng mình ăn nữa, dù theo luật pháp, chỉ có thầy tế lễ mới được phép ăn bánh ấy. ”
|
||
\v 5 Ngài nói tiếp: “Vậy, Con Người là Chúa của ngày Sa-bát.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vào một ngày Sa-bát khác, Chúa Giê-xu vào nhà hội và dạy dỗ dân chúng. Tại đó có một người bị teo bàn tay phải.
|
||
\v 7 Các giáo sư luật và người Pha-ri-si chăm chú theo dõi để xem Ngài có chữa lành người bệnh vào ngày Sa-bát không, hầu có cớ mà buộc tội Ngài.
|
||
\v 8 Nhưng Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói với người bị teo tay rằng: “Hãy dậy và đứng giữa mọi người đây. ” Người đó đứng dậy và làm theo lời Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Chúa Giê-xu nói với họ: “Cho tôi hỏi, trong ngày Sa-bát thì được làm lành hay làm dữ, cứu người hay hại người? ”
|
||
\v 10 Ngài đảo mắt nhìn mọi người, rồi nói với người teo tay: “Hãy giơ tay ra. ” Anh làm theo và tay anh được chữa lành.
|
||
\v 11 Nhưng họ nỗi giận và bàn với nhau để biết có thể làm gì với Chúa Giê-xu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Trong khoảng thời gian đó, Chúa Giê-xu lên núi và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện thâu đêm với Đức Chúa Trời.
|
||
\v 13 Sáng hôm sau, Ngài gọi các môn đồ đến và chọn mười hai người, gọi là “sứ đồ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Các sứ đồ gồm có: Si-môn (được Ngài đặt tên là Phi-e-rơ) và em trai là Anh-rê, Gia-cơ, Giăng, Phi-líp, Ba-thê-lê-my,
|
||
\v 15 Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con trai A-phê, Si-môn, cũng được gọi là Xê-lốt,
|
||
\v 16 Giu-đa con trai Gia-cơ, và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ về sau sẽ phản Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Rồi Chúa Giê-xu cùng họ từ trên núi xuống đến một chỗ đất bằng. Rất đông các môn đồ của Ngài đang ở đó cùng với đoàn dân đông đến từ Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như vùng duyên hải Ty-rơ và Si-đôn.
|
||
\v 18 Họ đến để nghe Ngài giảng dạy và để được Ngài chữa bệnh. Những người bị uế linh quấy nhiễu cũng được chữa lành.
|
||
\v 19 Mọi người trong đoàn dân đều cố chạm vào Ngài vì quyền năng chữa bệnh từ Ngài phát ra, và Ngài chữa lành cho tất cả mọi người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Rồi Ngài nhìn các môn đồ và nói: “Phước cho anh em là người nghèo, vì vương quốc Đức Chúa Trời thuộc về anh em.
|
||
\v 21 Phước cho anh em là kẻ đói khát, vì sẽ được no đủ. Phước cho anh em là kẻ đang than khóc, vì sẽ được vui cười.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Phước cho anh em khi anh em vì cớ Con Người mà bị người ta thù ghét, cô lập và bị người ta đối xử với tên tuổi của mình như kẻ bất hảo.
|
||
\v 23 Hãy hân hoan và nhảy lên mừng rỡ vì chắc chắn anh em sẽ được phần thưởng rất lớn ở trên trời, vì tổ phụ của họ cũng đã đối xử với các đấng tiên tri như vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Nhưng khốn cho anh em là những người giàu có! Vì anh em đã hưởng được nguồn an ủi của mình rồi.
|
||
\v 25 Khốn cho anh em là những người đang no nê, vì sau này anh em sẽ đói. Khốn cho anh em là những người đang cười! Vì sau này anh em sẽ khóc lóc và thở than.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Khốn cho anh em khi được mọi người khen ngợi! Vì tổ phụ của họ cũng đối đãi với các tiên tri giả như vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Nhưng, tôi nói với anh em đang nghe tôi đây, hãy yêu kẻ thù và đối xử tốt với những người ghét anh em.
|
||
\v 28 Hãy cầu phước cho người nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Ai vả vào má bên này của anh em, hãy đưa luôn má bên kia cho họ. Ai cướp đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cố giữ lại áo trong làm gì.
|
||
\v 30 Ai xin gì hãy cho. Ai chiếm hữu vật gì của anh em thì đừng đòi lại.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Anh em muốn người ta làm gì cho mình, hãy làm điều đó cho họ.
|
||
\v 32 Nếu anh em chỉ yêu người yêu mình, thì có gì đáng khen? Vì ngay cả người tội lỗi cũng yêu kẻ yêu mình.
|
||
\v 33 Nếu anh em chỉ đối tốt với những người đối tốt với mình thì có gì đáng khen? Những người tội lỗi cũng làm như vậy.
|
||
\v 34 Nếu anh em chỉ cho mượn để rồi mong người ta trả lại thì có gì tốt? Ngay cả người có tội cũng cho người có tội mượn, và mong được trả lại đủ số.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Nhưng hãy yêu kẻ thù của mình và đối xử tốt với họ. Hãy cho họ mượn và đừng nghĩ đến việc đòi lại, thì phần thưởng của anh em sẽ rất lớn. Anh em sẽ là con của Đấng Chí Cao, vì chính Ngài vẫn nhân từ đối với kẻ vô ơn, người độc ác.
|
||
\v 36 Hãy có lòng thương xót, cũng như Cha anh em là Đấng hay thương xót.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Đừng xét đoán ai thì anh em sẽ không bị đoán xét. Đừng lên án ai thì anh em sẽ không bị lên án. Hãy tha thứ thì anh em sẽ được tha thứ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Hãy cho đi thì anh em sẽ được cho lại. Họ sẽ đong thật nhiều – nhận, lắc cho đầy tràn – và đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em dùng chuẩn nào để lường thì người ta cũng sẽ dùng chuẩn đó mà lường lại cho anh em.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Rồi Ngài cũng kể cho họ một ẩn dụ: “Người mù có dẫn đường cho người mù khác được không? Nếu làm vậy, chắc chắn cả hai sẽ rơi xuống hố.
|
||
\v 40 Môn đồ giỏi hơn thầy mình, nhưng nếu được huấn luyện đầy đủ, môn đồ sẽ giống như thầy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Sao anh em thấy mẩu rơm bé tí trong mắt anh em mình mà không thấy khúc cây trong mắt mình?
|
||
\v 42 Sao anh em có thể nói với anh em mình rằng: ‘Anh ơi, để tôi lấy mẩu rơm trong mắt anh ra’ khi chính anh em còn chẳng thấy khúc cây trong mắt mình? Đồ đạo đức giả! Trước hết hãy lấy khúc cây trong mắt mình ra đã, rồi mới nhìn thấy rõ mà lấy mẩu rơm trong mắt anh em mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Vì cây tốt thì không sinh trái xấu, mà cây xấu cũng không sinh trái tốt.
|
||
\v 44 Xem trái thì biết cây. Vì không ai đi thu hoạch trái vả trong bụi gai, hay đi hái nho nơi bụi tầm xuân.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Người thiện do điều thiện tích lũy trong lòng mà sinh ra việc thiện, còn người ác do điều ác chất chứa trong lòng mà sinh ra việc ác. Vậy, do lòng đầy tràn mà miệng nói ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Sao anh em gọi tôi: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, ’ mà không làm theo lời tôi dạy?
|
||
\v 47 Tôi cho anh em biết, người đến với tôi, nghe và vâng giữ lời tôi sẽ thế nào.
|
||
\v 48 Người ấy giống như một người xây nhà, đào đất xuống thật sâu và đặt móng nhà trên vầng đá. Khi nước lụt tràn đến, dòng nước ập vào nhà ấy, nhưng không thể lay động được, vì nhà đã được lập nền vững chắc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Còn người nghe lời tôi mà không làm theo thì giống như kẻ xây nhà trên đất mà không có nền móng. Khi nước lũ đổ ập vào nhà ấy thì nó liền bị sập và hư hại hoàn toàn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 7
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau khi Chúa Giê-xu nói xong mọi điều Ngài phán bảo với dân chúng thì Ngài vào thành Ca-bê-na-um.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Đầy tớ của một viên đội trưởng được ông rất yêu quý đang bệnh nặng, sắp chết.
|
||
\v 3 Khi nghe nói về Chúa Giê-xu, ông liền nhờ các trưởng lão người Do Thái đến gặp Ngài, xin Ngài đến cứu sống đầy tớ mình.
|
||
\v 4 Họ đến gần và khẩn khoản nài xin Ngài, rằng: “Ông ấy xứng đáng được Thầy giúp đỡ,
|
||
\v 5 vì ông ta thương yêu dân tộc chúng ta, và đã từng xây nhà hội cho chúng ta.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Vậy là Chúa Giê-xu lên đường đi với họ. Nhưng khi Ngài gần đến nơi, viên đội trưởng nhờ mấy người bạn ra thưa với Ngài rằng: “Lạy Chúa, tôi không dám phiền Ngài, vì tôi không xứng rước Ngài vào nhà.
|
||
\v 7 Vì lý do này mà tôi thậm chí thấy mình không xứng đáng để đến gặp Ngài, nên xin Ngài chỉ phán một lời thì đầy tớ tôi sẽ được lành.
|
||
\v 8 Vì chính tôi là thuộc cấp của người khác và tôi cũng có lính dưới quyền của mình. Tôi nói với tên này: ‘Hãy đi, ’ thì nó đi, và nói với tên khác rằng: ‘Hãy đến’ thì nó đến, và nói với tôi tớ tôi rằng: ‘Hãy làm việc này, ’ thì nó làm.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Nghe thấy vậy, Chúa Giê-xu rất ngạc nhiên về viên đội trưởng. Ngài quay sang đoàn dân đông đang đi theo mình và nói: “Tôi nói cho anh em biết, tôi chưa từng thấy người nào có đức tin lớn như vậy trong cả xứ Y-sơ-ra-ên. ”
|
||
\v 10 Những người được sai đi trở về nhà thì thấy người đầy tớ đã khỏe mạnh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Sau đó ít lâu, Chúa Giê-xu đến một thành nọ có tên là Na-in. Các môn đồ và đoàn dân đông đi theo Ngài.
|
||
\v 12 Đến gần cổng thành thì họ thấy người ta đang khiêng một người chết đi ra, đó là con trai duy nhất của một góa phụ. Có khá nhiều người trong đoàn đưa tang cùng đi với bà.
|
||
\v 13 Nhìn thấy bà, Chúa vô cùng xúc động vì cảm thương bà, nên Ngài nói với bà: “Đừng khóc. ”
|
||
\v 14 Rồi Ngài tiến đến chạm tay vào cán gỗ khiêng xác chết, thì những người khiêng dừng lại. Ngài nói: “Này cậu trai, tôi truyền cho cậu, hãy dậy. ”
|
||
\v 15 Người chết ngồi dậy và bắt đầu nói. Chúa Giê-xu giao cậu lại cho mẹ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Tất cả mọi người đều sợ hãi. Họ cứ mãi ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: “Một đấng tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” và “Đức Chúa Trời đã đoái xem dân Ngài. ”
|
||
\v 17 Tin đồn về Chúa Giê-xu lan ra khắp cả xứ Giu-đê và các vùng phụ cận.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Các môn đồ của Giăng thuật lại cho ông nghe về mọi điều đó.
|
||
\v 19 Giăng cho gọi hai trong số các môn đồ của mình và sai họ đến cùng Chúa, hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi Đấng khác? ”
|
||
\v 20 Hai người được sai đi đến gần Chúa Giê-xu và thưa: “Giăng Báp-tít sai chúng tôi đến hỏi Thầy rằng: ‘Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác? ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Vào cùng giờ ấy, Ngài đang cứu chữa nhiều người khỏi các thứ bệnh tật và tà linh, cũng như khiến nhiều người mù được sáng mắt.
|
||
\v 22 Chúa Giê-xu đáp: “Khi trở về, hãy thuật lại cho Giăng những gì các anh đã thấy và nghe. Người mù được sáng mắt, người què đi được, người phong hủi được sạch, người điếc nghe được, người chết sống lại, và người thiếu thốn được nghe tin lành.
|
||
\v 23 Phước cho người nào không vì cớ những việc làm của tôi mà đánh mất long tin nơi tôi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau khi những sứ giả mà Giăng sai đến đã đi rồi, Chúa Giê-xu nói với đoàn dân đông về Giăng rằng: “Anh em đi xem gì ngoài hoang mạc, một cây sậy bị gió rung chăng?
|
||
\v 25 Anh em đi xem gì nữa, một người ăn mặc đẹp chăng? Này, những người ăn mặc lộng lẫy và sống xa hoa thì ở trong cung vua.
|
||
\v 26 Vậy, anh em đi xem gì, một đấng tiên tri chăng? Phải, tôi nói để anh em biết, ông ấy còn hơn một đấng tiên tri nữa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Ấy là người mà lời sau đây nói đến: ‘Này, Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước mặt Con, Người sẽ dọn đường cho Con. ’
|
||
\v 28 Tôi nói để anh em biết, trong số những người do phụ nữ sinh ra, không ai lớn hơn Giăng, nhưng người tầm thường nhất trong vương quốc Đức Chúa Trời còn lớn hơn ông ấy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Mọi người, kể cả các nhân viên thu thuế, nghe như vậy, đều công nhận rằng Đức Chúa Trời là công bình. Họ thuộc trong số những người đã chịu phép báp-têm của Giăng.
|
||
\v 30 Còn những người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật, vốn không chịu báp-têm của Giăng, thì chối bỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời dành cho mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 “Tôi sẽ so sánh những người thuộc thế hệ này với ai? Họ giống như gì?
|
||
\v 32 Họ giống như bọn trẻ chơi đùa ngoài phố chợ, cứ ngồi đó gọi nhau, mà nói rằng: ‘Bọn tao thổi sáo mà chúng bay không nhảy múa. Bọn tao than vãn mà lũ chúng mày lại chẳng khóc.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Vì Giăng Báp-tít đến không ăn bánh, cũng chẳng uống rượu, thì các ông nói: ‘Ông ta bị quỷ ám. ’
|
||
\v 34 Con Người đến ăn và uống thì các ông bảo: ‘Nhìn kìa, ông ta tham ăn, chè chén, làm bạn với phường thu thuế và người tội lỗi! ’
|
||
\v 35 Nhưng sự khôn ngoan được biện minh nhờ kết quả của nó.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Một người Pha-ri-si mời Chúa Giê-xu dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Pha-ri-si ấy và ngồi vào bàn ăn.
|
||
\v 37 Trong thành ấy có một người phụ nữ tội lỗi. Chị nghe nói Chúa Giê-xu đang ngồi tại nhà người Pha-ri-si nọ nên tìm đến, đem theo một bình ngọc đựng dầu thơm.
|
||
\v 38 Chị đứng đằng sau, nơi chân Chúa Giê-xu mà khóc, nước mắt thấm ướt chân Ngài. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi cũng hôn chân Chúa, và xức dầu thơm lên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Người Pha-ri-si đã mời Chúa Giê-xu thấy vậy, nghĩ thầm: “Nếu người này là nhà tiên tri, ông ta hẳn phải biết người đàn bà đang chạm đến mình là ai và thuộc hạng người nào– đó là một người tội lỗi. ”
|
||
\v 40 Chúa Giê-xu đáp lại với ông: “Ông Si-môn, tôi muốn nói với ông điều này. ” Ông ta thưa: “Thưa thầy, xin cứ nói!”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Ngài đáp: “Một chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đơ-ni-ê, người kia nợ năm mươi đơ-ni-ê.
|
||
\v 42 Vì họ không có tiền trả nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy, ai trong số hai người đó yêu mến chủ nợ nhiều hơn? ”
|
||
\v 43 Si-môn đáp: “Tôi nghĩ là người được tha nợ nhiều hơn. ” Chúa Giê-xu nói: “Ông đoán đúng lắm.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 44 Ngài quay sang người phụ nữ và nói tiếp với Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này không. Tôi vào nhà ông, ông không lấy nước cho tôi rửa chân, nhưng chị dùng nước mắt thấm ướt chân tôi rồi lấy tóc mình mà lau.
|
||
\v 45 Ông không hôn tôi, còn chị, từ lúc tôi vào, đã không ngừng hôn chân tôi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Ông không xức dầu lên đầu tôi, còn chị thì dùng dầu thơm xức chân tôi.
|
||
\v 47 Vì thế, tôi cho ông biết rằng người phụ nữ này phạm nhiều tội lắm và đã được tha hết, nên chị yêu mến nhiều, Còn người được tha thứ ít thì yêu mến ít.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 Rồi Ngài nói với người phụ nữ: “Tội lỗi chị đã được tha. ”
|
||
\v 49 Những người ngồi ở đó bắt đầu xôn xao: “Người này là ai mà dám tha tội? ”
|
||
\v 50 Còn Chúa Giê-xu thì nói với người phụ nữ: “Đức tin của chị đã cứu chị. Hãy đi bình an.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 8
|
||
\p
|
||
\v 1 Ngay sau đó, Chúa Giê-xu đi đến các thành, các làng khác, rao giảng và công bố tin lành về vương quốc của Đức Chúa Trời, mười hai sứ đồ cùng đi với Ngài,
|
||
\v 2 cũng có một số phụ nữ đã được Ngài chữa lành khỏi các thứ bệnh tật và tà linh. Họ gồm Ma-ri, cũng được gọi là Ma-đơ-len, là người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ dữ;
|
||
\v 3 Gian-nơ, vợ Chu-xa, quản gia của Hê-rốt; Su-san-nơ; và nhiều phụ nữ khác. Những người phụ nữ này đã dùng tài vật riêng của mình để hỗ trợ cho Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Có một đoàn dân đông đến từ nhiều nơi khác nhau đã tụ tập lại, và Chúa Giê-xu kể cho họ nghe một ẩn dụ:
|
||
\v 5 “Một người đi ra gieo giống. Lúc đang gieo, một số hạt giống rơi bên đường bị người ta dẫm lên và chim trời xuống ăn hết.
|
||
\v 6 Một số hạt khác rơi nhằm vùng đất đá sỏi, nên vừa khi mọc lên thành cây thì cây bị khô héo, vì không đủ ẩm ướt.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Một số hạt khác rơi nhằm bụi gai, gai góc lớn lên cùng với hạt giống và làm cho chúng nghẹt ngòi.
|
||
\v 8 Nhưng cũng có một số hạt rơi nhằm nơi đất tốt và kết quả gấp trăm lần hơn. ” Sau khi nói xong những lời ấy, Ngài kêu lên: “Ai có tai mà nghe, hãy nghe.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Sau đó, các môn đồ hỏi Ngài ẩn dụ ấy có ý nghĩa thế nào.
|
||
\v 10 Chúa Giê-xu đáp: “Anh em được ban cho đặc ân hiểu được những sự huyền nhiệm của vương quốc Đức Chúa Trời, còn những người khác thì chỉ được học qua các ẩn dụ, để họ ‘nhìn mà không thực sự thấy, và nghe mà không thực sự hiểu.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Ẩn dụ ấy có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Đức Chúa Trời.
|
||
\v 12 Số hạt rơi bên đường đi là những người nghe lời Chúa, nhưng sau đó ma quỷ đến cướp lời ấy khỏi lòng họ, nên họ không không tin và không được cứu rỗi.
|
||
\v 13 Những hạt rơi nhằm vùng đất đá sỏi là những người khi nghe lời Chúa thì vui mừng nhận lấy, nhưng không có rễ; họ chỉ tin trong một thời gian, khi thử thách đến, họ liền sa ngã.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Số hạt giống rơi nhằm bụi gai là những người nghe lời Chúa, nhưng bị những lo lắng, tiền của và lạc thú đời này làm cho nghẹt ngòi đi, khiến không đem lại kết quả gặt hái được.
|
||
\v 15 Còn số hạt giống rơi nhằm nơi đất tốt là những người sau khi nghe đạo thì lấy lòng thành giữ chặt lấy và nhờ sự kiên trì mà kết quả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Không ai thắp đèn rồi lấy bát úp lại hay để dưới gầm giường, nhưng đặt nó trên chân đèn để mọi người bước vào đều thấy ánh sáng.
|
||
\v 17 Vì không có điều gì giấu kín mà không bị lộ ra, cũng chẳng có bí mật nào mà không bị phơi bày trước ánh sáng.
|
||
\v 18 Vậy, hãy cẩn thận về cách anh em nghe, vì ai có sẽ được cho thêm; còn ai không có sẽ bị lấy luôn cả điều họ tưởng là mình có.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Mẹ và các em trai của Chúa Giê-xu đến tìm Ngài, nhưng không thể đến gần Ngài được vì quá đông người.
|
||
\v 20 Người ta báo với Ngài rằng: “Mẹ và các em trai của Thầy đang đứng bên ngoài, muốn gặp Thầy. ”
|
||
\v 21 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Mẹ tôi và anh em tôi là Những người nghe lời Đức Chúa Trời và làm theo.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Một ngày kia, Chúa Giê-xu và các môn đồ lên thuyền rồi thì Ngài bảo: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia. ” Họ chèo thuyền đi.
|
||
\v 23 Trong lúc thuyền đang đi thì Ngài ngủ. Có một cơn bão với gió rất mạnh nổi lên trên biển hồ, nước vào khẳm thuyền, khiến họ thật nguy khốn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Các môn đồ đến đánh thức Chúa Giê-xu và thưa rằng: “Thầy ơi! Thầy ơi! Chúng ta sắp chết! ” Ngài thức dậy, quở gió và sóng dữ, thì chúng liền ngưng và im lặng như tờ.
|
||
\v 25 Rồi Ngài nói với các môn đồ: “Đức tin của anh em đâu? ” Ngạc nhiên và sợ hãi, họ hỏi nhau: “Người này là ai mà ra lệnh cho cả gió và nước, khiến chúng phải vâng theo?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Họ đến vùng Giê-ra-sê, phía bên kia bờ hồ Ga-li-lê.
|
||
\v 27 Khi Chúa Giê-xu lên bờ, có một người bị quỷ ám từ trong thành đi ra đón Ngài. Từ lâu anh ta không mặc quần áo, cũng không ở trong nhà mà sống trong các ngôi mồ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Nhìn thấy Chúa Giê-xu, anh ta la lên và sấp mình xuống trước mặt Ngài. Rồi anh ta nói lớn: “Lạy Giê-xu, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có liên can gì đến Ngài? Tôi van Ngài, xin đừng đày đọa tôi. ”
|
||
\v 29 Ấy là vì Chúa Giê-xu đang truyền cho uế linh ra khỏi anh ta, do nó đã nhiều phen chiếm hữu anh. Cho dù người ta có lấy xích và cùm mà xiềng anh lại và cắt người canh giữ, thì anh cũng bứt phá và bị quỷ đuổi vào hoang mạc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Chúa Giê-xu hỏi nó: “Mày tên gì? ” Nó thưa: “Quân Đoàn, ” vì có nhiều quỷ ám vào người.
|
||
\v 31 Chúng cứ van xin Ngài đừng đày chúng xuống vực.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Lúc ấy, có một bầy heo rất đông đang ăn trên đồi, nên các quỷ cầu xin Ngài cho chúng nhập vào bầy heo. Ngài cho phép.
|
||
\v 33 Vậy, đàn quỷ ra khỏi người ấy và nhập vào bầy heo, khiến cả đàn từ trên đồi dốc lao xuống hồ và chết đuối.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Những người chăn heo thấy vậy thì chạy trốn và đồn tin này ra khắp thành phố lẫn vùng thôn quê.
|
||
\v 35 Mọi người nghe tin đều đi ra xem chuyện đã xảy ra. Họ đến chỗ Chúa Giê-xu, thấy người bị quỷ ám đã được lành. Anh này ngồi ở chân Chúa Giê-xu, quần áo hẵn hoi, tâm trí bình thường, nên họ kinh sợ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Những người đã chứng kiến sự việc kể lại cho những người khác nghe về việc người bị quỷ ám đã được giải thoát ra sao.
|
||
\v 37 Tất cả dân trong vùng Giê-ra-sê và khu vực lân cận xin Chúa Giê-xu đi nơi khác, vì họ quá sợ hãi. Vậy là Ngài xuống thuyền quay trở về.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Người vừa được giải thoát khỏi đàn quỷ xin đi cùng Chúa Giê-xu nhưng Ngài cho anh về và bảo:
|
||
\v 39 “Hãy trở về nhà và thuật lại những việc lớn lao mà Đức Chúa Trời đã làm cho anh. ” Vậy là anh đi rao ra khắp thành phố mọi việc lớn lao mà Chúa Giê-xu đã làm cho mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Khi Chúa Giê-xu trở về, một đoàn dân đông ra đón Ngài vì họ đang chờ đợi Ngài.
|
||
\v 41 Có một người quản lý nhà hội tên là Giai-ru tìm đến Ngài. Ông sấp mình xuống dưới chân Chúa Giê-xu và cầu xin Ngài đến nhà mình,
|
||
\v 42 vì đứa con gái duy nhất mới mười hai tuổi của ông đang hấp hối. Trên đường đi, đám đông lấn ép Ngài tứ phía.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Tại đó cũng có một người phụ nữ bị bệnh rong huyết đã mười hai năm, đã tiêu tốn hết tiền của để chạy chữa nhưng không thầy thuốc nào chữa trị được cho chị.
|
||
\v 44 Chị tiến đến đằng sau Chúa Giê-xu và chạm vào vạt áo của Ngài, thì lập tức, huyết liền cầm lại.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Chúa Giê-xu hỏi: “Ai đã chạm vào tôi? ” Khi ai nấy đều chối, thì Phi-e-rơ lên tiếng: “Thưa Thầy, chỉ là đám đông lấn ép chung quanh Thầy đấy thôi. ”
|
||
\v 46 Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Có người đã chạm vào Thầy, vì Thầy biết có năng lực từ Thầy phát ra.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Khi thấy không thể che giấu việc mình đã làm được nữa, người phụ nữ run rẩy đến sấp mình xuống trước mặt Chúa Giê-xu và, trước sự chứng kiến của mọi người, chị trình bày lý do chạm vào Ngài và đã được lành tức thì ra sao.
|
||
\v 48 Ngài nói với chị: “Hỡi con gái, đức tin của con đã chữa lành con, hãy đi bình an.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Khi Ngài còn đang nói, có người từ nhà của viên quản lý nhà hội đến thông báo rằng: “Con gái ông đã mất, đừng làm phiền Thầy nữa. ”
|
||
\v 50 Nhưng khi nghe thấy thế, Chúa Giê-xu nói với ông: Đừng sợ, chỉ cần tin thì con gái ông sẽ được cứu sống.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 51 Đến nhà, Chúa Giê-xu không cho ai theo vào, ngoại trừ Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, cùng cha mẹ đứa bé.
|
||
\v 52 Lúc này mọi người ở đó đều đang than khóc thương tiếc đứa bé, nhưng Ngài nói: “Đừng khóc lóc nữa, đứa bé không chết đâu, nó chỉ đang ngủ thôi. ”
|
||
\v 53 Nhưng họ cười nhạo Ngài, vì họ biết rằng đứa bé đã chết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Ngài cầm tay đứa bé và gọi lớn tiếng: “Con ơi, hãy dậy đi. ”
|
||
\v 55 Linh đứa bé trở lại và lập tức nó ngồi dậy. Ngài bảo họ cho nó ăn.
|
||
\v 56 Cha mẹ đứa bé vô cùng kinh ngạc, nhưng Ngài truyền dặn họ không được nói với ai về việc đã xảy ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 9
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu tập gọi hai sứ đồ lại, ban cho họ năng lực và uy quyền trừ mọi loại quỷ cũng như chữa là bệnh tật.
|
||
\v 2 Ngài sai họ ra đi rao giảng về vương quốc Đức Chúa Trời và chữa lành cho người bệnh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Ngài căn dặn họ: “Đừng đem gì theo khi đi đường – đừng đem theo gậy, túi xách, bánh trái hay tiền bạc – cũng đừng đem theo hai áo.
|
||
\v 4 Khi anh em vào nhà nào, hãy ở lại đó cho đến khi đi nơi khác.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Đối với những người không tiếp anh em, thì khi rời khỏi thành ấy, hãy phủi bụi dưới chân để làm chứng cáo tội họ. ”
|
||
\v 6 Vậy là các môn đồ lên đường đi khắp các làng mạc, rao báo tin lành và chữa lành cho mọi người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Lúc ấy, vua chư hầu Hê-rốt, nghe nói về mọi việc đang xảy ra và cảm thấy vô cùng bất an, vì người thì nói Giăng Báp-tít đã từ cõi chết sống lại,
|
||
\v 8 kẻ thì bảo Ê-li xuất hiện, rồi cũng có người cho rằng một trong các đấng tiên tri thời xưa đã sống lại.
|
||
\v 9 Hê-rốt nói: “Trẫm đã chặt đầu Giăng rồi, vậy thì người mà trẫm nghe nói đến này là ai thế kia? ” Vậy là Hê-rốt tìm cách gặp Chúa Giê-xu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Khi những môn đồ được sai đi trở về, họ thuật lại cho Ngài mọi việc mình đã làm. Ngài đưa họ cùng đi với một mình Ngài đến thành Bết-sai-đa.
|
||
\v 11 Nhưng đoàn dân đông nghe biết được và đi theo Ngài. Ngài tiếp đón họ, giải bày cho họ về vương quốc Đức Chúa Trời và cứu chữa cho những người cần được chữa lành.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Gần tối, mười hai sứ đồ đến thưa với Ngài: “Xin Thầy giải tán đoàn dân để họ vào các làng và miền quê xung quanh đây mà tìm chỗ trọ và thức ăn, vì nơi này hoang vắng quá. ”
|
||
\v 13 Nhưng Ngài nói với họ: “Anh em phải cho họ ăn. ” Họ thưa: “Chúng tôi chỉ có năm cái bánh và hai con cá, lẽ nào phải đi mua thức ăn cho bằng này người. ”
|
||
\v 14 Khi ấy có khoảng năm ngàn người đàn ông ở đó. Ngài nói với các môn đồ: “Hãy bảo họ ngồi xuống theo từng nhóm, mỗi nhóm năm mươi người.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Họ làm theo lời Ngài, cả đoàn dân đều ngồi xuống.
|
||
\v 16 Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, chúc tạ, rồi bẻ ra, trao cho các môn đồ phân phát cho đoàn dân.
|
||
\v 17 Tất cả đều ăn no nê và họ lượm được mười hai giỏ đầy các mẩu bánh thừa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Khi Chúa Giê-xu đang cầu nguyện riêng, có các môn đồ ở với Ngài, Ngài hỏi họ: “Người ta nói Thầy là ai? ”
|
||
\v 19 Họ thưa: “Giăng Báp-tít, nhưng có người khác nói Thầy là Ê-li, cũng có người nói Thầy là một trong các đấng tiên tri đời xưa sống lại.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ngài hỏi họ: “Còn anh em nói Thầy là ai? ” Phi-e-rơ thưa: “Thầy là Chúa Cứu Thế, từ Đức Chúa Trời đến. ”
|
||
\v 21 Nhưng Chúa Giê-xu cấm tuyệt họ không được nói điều đó với ai,
|
||
\v 22 và cho biết Con Người phải chịu khổ nạn, bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy dạy luật chối bỏ, phải bị giết đi và đến ngày thứ ba phải sống lại.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Ngài nói với họ: “Nếu ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ chính mình, hằng ngày vác thập tự giá mình mà theo Thầy.
|
||
\v 24 Ai cố cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Thầy mất mạng sống mình, thì sẽ sống.
|
||
\v 25 Một người nếu được cả thế giới mà đánh mất chính mình hay bị thiệt thân thì có ích gì?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ai xấu hổ vì Thầy và lời của Thầy thì Con Người cũng xấu hổ vì người đó khi Ngài đến trong vinh quang của mình, cùng vinh quang của Cha và của các thiên sứ thánh.
|
||
\v 27 Nhưng Thầy nói thật để anh em biết, một số người đang đứng đây sẽ không nếm trải sự chết trước khi thấy được vương quốc Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Khoảng tám ngày sau khi Chúa Giê-xu nói các lời ấy, Ngài đưa Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ cùng lên núi để cầu nguyện.
|
||
\v 29 Khi Ngài đang cầu nguyện, diện mạo Ngài đổi khác, trang phục Ngài thì trở nên trắng và chói sáng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Kìa, có hai người đang trò chuyện cùng Ngài, đó là Môi-se và Ê-li,
|
||
\v 31 trông thật rạng rỡ vinh hiển. Họ nói về sự ra đi của Ngài, là điều sắp ứng nghiệm tại Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Lúc này Phi-e-rơ và hai sứ đồ đang có mặt với ông rất buồn ngủ. Nhưng khi tỉnh lại, họ thấy vinh quang của Chúa Giê-xu và hai người đang đứng với Ngài.
|
||
\v 33 Khi hai người ấy từ giã Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng ta ở đây tốt lắm, nên chúng tôi sẽ dựng ba cái trại: một cái cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li. ” Phi-e-rơ nói nhưng không hiểu mình đang nói gì.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Trong khi Phi-e-rơ đang nói, một đám mây xuất hiện và che phủ họ; ở giữa đám mây, họ rất sợ hãi.
|
||
\v 35 Từ trong đám mây có tiếng nói vang lên: “Đây là Con Ta, là Người mà Ta đã chọn. Hãy nghe lời Người. ”
|
||
\v 36 Khi tiếng đó dứt thì chỉ còn lại một mình Chúa Giê-xu. Họ đều im lặng, và trong thời gian đó họ không kể với bất cứ người nào về những điều mình đã thấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Qua hôm sau, khi Chúa Giê-xu và ba môn đồ đã xuống núi, một đoàn dân đông đến gặp Ngài.
|
||
\v 38 Trong đám đông có một người lớn tiếng thưa rằng: “Thưa Thầy, tôi van Thầy, xin xem giúp con trai tôi, tôi chỉ có mình nó.
|
||
\v 39 Số là, nó bị uế linh khống chế, khiến nó bất chợt la hét, và co giật đến sùi bọt mép. Khó khăn lắm nó mới chịu lìa thằng bé, mỗi khi ra khỏi như vậy thì hành hạ thằng bé đến bầm dập.
|
||
\v 40 Tôi đã cầu xin các môn đồ của Thầy đuổi quỷ ấy, nhưng họ không làm được.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Chúa Giê-xu đáp: “Thế hệ vô tín, hư hoại các người, tôi phải ở với các người, chịu đựng các người đến bao giờ? Hãy đưa con anh lại đây. ”
|
||
\v 42 Trong khi đứa trẻ đang được đưa đến với Chúa, thì quỷ quật mạnh nó xuống đất và rung lắc nó dữ dội. Nhưng Chúa Giê-xu quở uế linh, chữa lành cậu bé và giao lại cho cha nó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Ai cũng đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Đức Chúa Trời. Nhưng trong khi mọi người vẫn còn đang ngạc nhiên trước những việc Chúa Giê-xu đã làm, thì Ngài nói với các môn đồ,
|
||
\v 44 “Anh em hãy nghe cho kỹ những lời này, vì Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta. ”
|
||
\v 45 Nhưng họ không hiểu lời ấy có nghĩa gì; vì lời đó bị che khuất đối với họ nên họ chẳng hiểu được. Họ lại không dám hỏi Ngài vì sợ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Rồi giữa họ nổi lên cuộc tranh luận để xem người nào trong số họ là lớn nhất.
|
||
\v 47 Nhưng khi biết được ý tưởng trong lòng họ, Chúa Giê-xu đem một đứa trẻ để bên cạnh mình,
|
||
\v 48 và nói với họ: “Người nào vì danh Thầy tiếp lấy một đứa trẻ thế này tức là tiếp Thầy, và người nào tiếp Thầy tức là tiếp Đấng đã sai Thầy. Vì người nhỏ nhất trong anh em chính là người cao trọng.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Giăng lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng tôi thấy có người đang nhân danh Thầy mà đuổi quỷ và chúng tôi đã cấm họ, vì họ không theo chúng ta. ”
|
||
\v 50 Nhưng Chúa Giê-xu nói với ông: “Đừng ngăn cấm họ, vì người nào không chống lại anh em tức là thuận với anh em.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 51 Gần đến ngày Ngài được đem lên trời, Ngài quyết định đi đến thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 52 Ngài sai các sứ giả đi trước, vào một làng của người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Ngài.
|
||
\v 53 Nhưng dân làng không tiếp Ngài vì Ngài muốn đi Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Gia-cơ và Giăng, là môn đồ của Ngài, thấy vậy liền thưa: “Lạy Chúa, Chúa có muốn chúng tôi truyền cho lửa từ trời xuống thiêu hủy họ không? ”
|
||
\v 55 Nhưng Ngài quay lại quở trách hai người.
|
||
\v 56 Rồi Ngài cùng các môn đồ đi sang làng khác.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 57 Trên đường đi, có người thưa với Chúa: “Tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi. ”
|
||
\v 58 Chúa Giê-xu nói với anh: “Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 59 Rồi Ngài nói với một người khác: “Hãy theo Thầy. ” Nhưng người ấy thưa: “Lạy Chúa, xin cho tôi về chôn cha tôi trước đã. ”
|
||
\v 60 Ngài nói với anh: “Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ, còn anh hãy đi khắp nơi rao truyền vương quốc của Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 61 Một người khác nữa nói: “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Ngài, nhưng hãy cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã. ”
|
||
\v 62 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Người nào đã cầm cày mà còn nhìn lại đằng sau thì không xứng hợp cho vương quốc của Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 10
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau những việc ấy, Chúa chỉ định bảy mươi người nữa và sai phái từng đôi một đi trước Ngài vào tất cả các thành và những nơi Ngài định đến.
|
||
\v 2 Ngài nói với họ: “Mùa gặt thật trúng, nhưng thợ gặt thì ít quá. Vậy hãy khẩn thiết cầu xin Chúa của mùa gặt sai thợ gặt vào mùa của Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Anh em hãy đi đi. Và này, Thầy sai anh em đi như chiên con ở giữa bầy sói.
|
||
\v 4 Đừng đem theo túi tiền, giỏ xách, giày dép, và trong lúc đi cũng đừng chào hỏi ai cả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi anh em vào nhà nào, trước hết hãy chào họ: ‘Nguyện sự bình an đến với nhà này. ’
|
||
\v 6 Nếu nhà đó có người đáng được bình an, thì sự bình an của anh em sẽ ở trên người đó; còn nếu không, sự bình an ấy sẽ trở về với anh em.
|
||
\v 7 Hãy ở lại nhà đó, dùng đồ ăn, thức uống họ cung cấp, vì người làm công đáng được hưởng công giá mình. Đừng bỏ nhà này sang nhà khác.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi anh em vào thành nào và được dân thành tiếp rước, hãy dùng thức ăn họ dọn cho anh em,
|
||
\v 9 và chữa lành những người bệnh ở đó. Hãy nói với họ, ‘Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến gần anh em.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Còn thành nào dân chúng không tiếp rước anh em, hãy đi ra ngoài đường và nói:
|
||
\v 11 ‘Ngay cả bụi đất trong thành của các người bám ở chân chúng tôi cũng phủi sạch để các người thấy! Nhưng hãy biết rằng, vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần. ’
|
||
\v 12 Thầy nói để anh em biết, đến ngày phán xét thành Sô-đôm sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn thành ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Khốn cho ngươi, thành Cô-ra-xin! Khốn cho ngươi, thành Bết-sai-đa! Nếu những việc quyền năng đã làm ra giữa các ngươi được thực hiện tại thành Ty-rơ và Si-đôn, thì người dân của hai thành ấy đã mặc áo sô, ngồi trong tro bụi mà ăn năn từ lâu rồi.
|
||
\v 14 Đến ngày phán xét, Ty-rơ và Si-đôn sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn các ngươi.
|
||
\v 15 Còn ngươi, Ca-bê-na-um, ngươi tưởng mình sẽ được tôn cao đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ bị hạ xuống âm phủ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ai chịu nghe anh em tức là nghe Thầy, và ai chối bỏ anh em tức là chối bỏ Thầy, và ai chối bỏ Thầy tức là chối bỏ Đấng đã sai phái Thầy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Bảy mươi môn đồ trở về vui mừng thưa rằng: “Lạy Chúa, nhờ danh Chúa, ngay cả các quỷ cũng chịu khuất phục chúng tôi. ”
|
||
\v 18 Chúa Giê-xu đáp: “Thầy đã thấy Sa-tan từ trời sa xuống như ánh chớp.
|
||
\v 19 Này, Thầy đã ban cho anh em thẩm quyền để giày đạp rắn, bò cạp và mọi quyền lực của kẻ thù. Không gì có thể làm hại anh em được.
|
||
\v 20 Tuy nhiên, đừng chỉ vui mừng vì các quỷ phục tùng anh em, mà hãy vui mừng càng hơn vì tên của anh em đã được ghi trên thiên đàng.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Cùng lúc ấy, Chúa Giê-xu rất vui mừng trong Đức Thánh Linh và nói: “Lạy Cha là Chúa của trời đất, Con ngợi khen Cha vì Ngài giấu kín những điều này trước những người khôn ngoan và thông thái, mà lại bày tỏ cho những người không có học thức, giống như trẻ thơ. Lạy Cha, phải, vì điều đó đẹp ý Ngài.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 “Cha đã giao phó mọi sự cho Con, không ai biết Con ngoại trừ Cha, cũng không ai biết Cha ngoại trừ Con, và người nào Con muốn bày tỏ cho.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Quay sang các môn đồ, Ngài nói riêng với họ: “Phước cho những ai được thấy những điều anh em thấy.
|
||
\v 24 Thầy bảo với anh em, nhiều đấng tiên tri và vua chúa ao ước được thấy những điều anh em thấy, được nghe những điều anh em nghe, mà chẳng được.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Khi ấy, có một giáo sư luật đứng lên hỏi để thử Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời? ”
|
||
\v 26 Ngài đáp: “Trong luật pháp có chép điều gì? Ông đọc thấy thế nào? ”
|
||
\v 27 Ông ta đáp: “Con phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí hiểu mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời của con, và phải yêu người lân cận như mình. ”
|
||
\v 28 Chúa Giê-xu nói: “Ông trả lời đúng lắm. Hãy làm theo như vậy thì ông sẽ sống.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Nhưng thầy ấy muốn tự thanh minh, nên thưa với Chúa Giê-xu: “Vậy ai là người lân cận tôi? ”
|
||
\v 30 Ngài đáp: “Có một người đi từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô. Anh rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch tài sản anh, đánh đập anh và bỏ mặc anh dở sống dở chết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Tình cờ, một thầy tế lễ đi ngang qua đó, thấy người bị nạn liền tránh qua bên kia đường.
|
||
\v 32 Tương tự như vậy, một người Lê-vi đi ngang, thấy nạn nhân và cũng tránh sang bên kia đường.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Nhưng có một người Sa-ma-ri đi đường, nhìn thấy nạn nhân thì động lòng thương xót.
|
||
\v 34 Anh lại gần, lấy dầu và rượu xức các vết thương, băng bó lại. Rồi anh đỡ nạn nhân lên con vật mình cưỡi, đưa đến một quán trọ và chăm sóc người ấy.
|
||
\v 35 Sang ngày hôm sau, anh lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán và dặn: ‘Hãy chăm sóc anh ấy, nếu thiếu, khi trở về tôi sẽ trả cho ông.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Theo ông, ai trong ba người đó là người lân cận của người bị cướp? ”
|
||
\v 37 Thầy ấy đáp: “người đã tỏ lòng thương xót nạn nhân. ” Chúa Giê-xu bảo ông: “Hãy đi và làm như vậy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Trên đường đi, Chúa Giê-xu và các môn đồ vào một làng kia, có một phụ nữ tên là Ma-thê tiếp đón Ngài vào nhà mình.
|
||
\v 39 Cô có người em gái tên Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa lắng nghe lời Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Nhưng Ma-thê quá bận bịu với việc chuẩn bị bữa ăn. Cô đến thưa với Chúa Giê-xu: “Lạy Chúa, Chúa không thấy em tôi để một mình tôi phục vụ sao? Xin bảo nó giúp tôi. ”
|
||
\v 41 Nhưng Chúa đáp lời cô: “Ma-thê ơi, Ma-thê, cô lo lắng về nhiều việc,
|
||
\v 42 nhưng chỉ có một việc cần thiết mà thôi. Ma-ri đã chọn điều tốt nhất, là điều sẽ không bị lấy đi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 11
|
||
\p
|
||
\v 1 Khi Chúa Giê-xu đang cầu nguyện tại một nơi nọ, thì một trong các môn đồ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Giăng đã dạy môn đồ mình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Chúa Giê-xu nói với họ: “Khi anh em cầu nguyện, hãy thưa rằng: ‘Lạy Cha, xin danh Cha được tôn thánh. Vương quốc Cha được đến.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Xin cho chúng con bánh ăn hàng ngày.
|
||
\v 4 Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha thứ cho người phạm lỗi với chúng con. Xin đừng đưa chúng con vào sự cám dỗ. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Chúa Giê-xu nói với họ: “Trong anh em có ai giữa đêm sang nhà một người bạn và nói: ‘Bạn ơi, cho tôi mượn ba ổ bánh,
|
||
\v 6 vì một người bạn của tôi đi đường vừa ghé vào, mà tôi không có gì để dọn cho anh ấy, ’
|
||
\v 7 rồi người kia trong nhà trả lời: ‘Đừng làm phiền tôi. Cửa đã đóng rồi, tôi và các con đều đã lên giường. Tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được đâu’?
|
||
\v 8 Thầy cho anh em biết, dù người ấy không dậy lấy bánh cho anh em vì tình nghĩa bạn bè, thì anh ta cũng sẽ dậy và lấy cho anh em số bánh mà anh em cần, vì anh em cứ dùng dằng mãi không chịu đi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Thầy cũng cho anh em biết, hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, cửa sẽ mở cho.
|
||
\v 10 Vì ai xin sẽ được; ai tìm sẽ gặp và cửa sẽ mở cho người nào gõ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Có người cha nào trong anh em khi con mình xin cá mà lại cho rắn?
|
||
\v 12 Hay con mình xin trứng mà lại cho bò cạp?
|
||
\v 13 Vậy, nếu anh em vốn là ác mà còn biết cho con cái mình vật tốt thì Cha của anh em ở trên trời lẽ nào lại không ban Đức Thánh Linh cho những người xin Ngài sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Sau đó, Chúa Giê-xu đuổi một con quỷ câm. Khi quỷ ra rồi thì người câm liền nói được, khiến đoàn dân đông rất kinh ngạc!
|
||
\v 15 Nhưng một số người nói rằng: “Ông ta nhờ Bê-ên-xê-bun là chúa quỷ mà trừ quỷ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Những người khác thì thử Chúa nên xin Ngài làm một dấu lạ từ trời.
|
||
\v 17 Chúa Giê-xu biết ý tưởng của họ nên Ngài nói với họ: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ suy vong, còn nhà nào tự chia rẽ thì sẽ tan hoang.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Nếu Sa-tan tự chia rẽ thì vương quốc của hắn tồn tại thế nào được? Vì các ông nói tôi nhờ Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ.
|
||
\v 19 Nếu tôi nhờ Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ, thì những người theo các ông nhờ ai mà đuổi quỷ? Vì lẽ đó, họ sẽ là những người xét xử các ông.
|
||
\v 20 Nhưng nếu tôi nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời mà đuổi quỷ, thì vương quốc của Ngài đã đến với các ông rồi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Khi một người mạnh sức được vũ trang đầy đủ bảo vệ nhà mình thì tài sản của người ấy sẽ được an toàn,
|
||
\v 22 nhưng nếu có một người mạnh hơn đánh thắng anh ta, thì sẽ tước vũ khí và cướp sạch tài sản của anh ta.
|
||
\v 23 Người nào không thuận với tôi là chống lại tôi, người không hiệp với tôi sẽ bị tan lạc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Khi một uế linh ra khỏi một người, nó đi qua những nơi cằn cỗi để tìm chỗ nghỉ. Khi không tìm thấy, nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, là nơi ta vừa ra khỏi. ’
|
||
\v 25 Khi quay trở về, nhìn thấy nhà đã được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp,
|
||
\v 26 nó liền đi và đưa về bảy quỷ khác dữ hơn cùng sống trong nhà đó. Nên số phận của người ấy về sau còn tệ hơn lúc trước.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Khi Ngài nói những lời này, một phụ nữ giữa đám đông lên tiếng nói với Ngài: “Phước cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú. ”
|
||
\v 28 Nhưng Ngài đáp: “Đúng hơn thì phước cho ai nghe lời Đức Chúa Trời và vâng giữ lấy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Khi dân chúng tụ họp lại đông hơn, Ngài bắt đầu nói: “Thế hệ này là thế hệ gian ác. Họ tìm một dấu hiệu, nhưng sẽ không có dấu hiệu nào được ban cho họ ngoài dấu hiệu về Giô-na.
|
||
\v 30 Vì Giô-na đã là dấu hiệu cho dân thành Ni-ni-ve thế nào thì Con Người cũng sẽ là dấu hiệu cho thế hệ này thể ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Trong ngày phán xét Nữ Hoàng Nam Phương sẽ đứng dậy cùng với người của thế hệ này, và lên án họ, vì từ vùng đất thật xa xôi bà đã lặn lội đến để nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, và này, ở đây có Đấng còn cao trọng hơn Sa-lô-môn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Trong ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với thế hệ này, và sẽ lên án họ, vì dân thành ấy đã ăn năn khi nghe lời Giô-na rao giảng, và này, ở đây có một Đấng còn vĩ đại hơn Giô-na.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Không ai thắp đèn rồi để ở chỗ khuất hay ở dưới cái thùng, nhưng đặt nó trên chân đèn để mọi người bước vào đều thấy ánh sáng.
|
||
\v 34 Mắt của anh em là đèn của thân thể. Nếu mắt tốt thì cả thân thể đều sáng, nhưng khi mắt kém thì cả thân thể sẽ tối tăm.
|
||
\v 35 Vì vậy, hãy cẩn thận, đừng để ánh sáng trong anh em trở thành bóng tối.
|
||
\v 36 Nếu cả thân thể của anh em tràn ngập ánh sáng, không có phần nào tối tăm, thì cả thân thể của anh em sẽ giống như khi anh em được đèn chiếu sáng.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Khi Ngài nói xong, có một người Pha-ri-si mời Ngài về nhà dùng bữa, nên Chúa Giê-xu vào nhà người ấy và ngồi vào bàn.
|
||
\v 38 Người Pha-ri-si rất ngạc nhiên khi thấy Ngài không rửa tay trước khi ăn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Nhưng Chúa nói với ông: “Người Pha-ri-si các ông rửa bên ngoài cốc và chén, nhưng trong lòng đầy dẫy sự tham lam và gian ác.
|
||
\v 40 Hỡi những kẻ kẻ thiếu suy nghĩ! Đấng đã làm ra bên ngoài chẳng lẽ không làm bên trong sao?
|
||
\v 41 Hãy lấy những vật đựng bên trong mà cho người nghèo, khi ấy mọi thứ sẽ sạch sẽ cho các ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Nhưng khốn cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông dâng phần mười bạc hà, hồi hương và mọi thứ rau cỏ khác trong vườn, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng yêu mến Đức Chúa Trời. Các ông cần phải hành xử một cách công minh và yêu mến Đức Chúa Trời bên cạnh những việc kia.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Khốn cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông thích ngồi những ghế đầu trong nhà hội và thích được người ta kính cẩn chào mình giữa chợ.
|
||
\v 44 Khốn cho các ông, vì các ông giống như nấm mồ hoang, người ta đạp lên mà không biết.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Một giáo sư luật thưa với Ngài: “Thưa Thầy, Thầy nói vậy là xúc phạm cả chúng tôi nữa. ”
|
||
\v 46 Chúa Giê-xu đáp: “Khốn cho các ông là những giáo sư luật! Các ông chất cho người ta những gánh nặng mang không nổi còn các ông thì thậm chí chẳng động ngón tay vào.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Khốn cho các ông, vì các ông xây bia tưởng niệm trên mộ các nhà tiên tri, trong khi chính tổ phụ các ông đã giết chết họ.
|
||
\v 48 Như vậy, các ông là nhân chứng, đồng thời cũng tán thành việc làm của tổ phụ mình vì quả là họ đã giết các tiên tri mà các ông xây đài tưởng niệm cho.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Cũng vì lý do này mà Đức Chúa Trời là Đấng khôn ngoan phán rằng: ‘Ta sẽ sai các tiên tri và các sứ đồ đến với chúng nó, chúng sẽ bắt bớ và giết đi một số người giữa vòng họ. ’
|
||
\v 50 Vậy, thế hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm về máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ khi sáng thế,
|
||
\v 51 từ máu của A-bên cho đến máu của Xa-cha-ri, người đã bị giết ở giữa bàn thờ và nơi thánh. Phải, tôi cho các ông biết, thế hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 Khốn cho các ông là giáo sư luật, vì các ông lấy đi chìa khóa của tri thức; chính các ông không vào, mà còn ngăn trở những người muốn vào.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 53 Sau khi Chúa Giê-xu đi khỏi, các thầy dạy luật và người Pha-ri-si chống đối và tranh cãi với Ngài đủ điều,
|
||
\v 54 tìm cách gài bẫy Ngài trong lời Ngài nói.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 12
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong lúc ấy, khi có hàng ngàn người tụ tập lại đông đến nỗi dẫm đạp cả lên nhau, thì Chúa Giê-xu trước hết nói với các môn đồ Ngài: “Hãy đề phòng men của người Pha-ri-si, tức thói đạo đức giả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Vì chẳng có điều gì bị ém nhẹm mà không được phơi bày, cũng chẳng có điều gì kín giấu mà không bị lộ ra.
|
||
\v 3 Vậy nên những gì anh em nói trong bóng tối sẽ nghe được giữa ban ngày, và những gì anh em thì thầm trong phòng kín sẽ bị công bố trên mái nhà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Thầy nói với anh em là những người bạn của Thầy, đừng sợ những kẻ giết chết thân thể rồi sau đó không làm gì được nữa.
|
||
\v 5 Nhưng Thầy muốn lưu ý để anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng sau khi đã giết chết thân thể, còn có quyền ném anh em vào hỏa ngục. Phải, Thầy nói để anh em biết, hãy kính sợ Đấng ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Chẳng phải năm con chim sẻ được bán với giá hai đồng tiền sao? Nhưng Đức Chúa Trời chẳng quên một con nào trong số chúng.
|
||
\v 7 Ngay cả tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm cả rồi. Đừng sợ gì cả. Anh em đáng giá hơn nhiều con chim sẻ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Thầy nói để anh em biết, người nào xưng nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Con Người sẽ xưng nhận họ trước các thiên sứ của Đức Chúa Trời,
|
||
\v 9 còn ai chối bỏ Thầy trước mặt mọi người, người ấy sẽ bị chối bỏ trước các thiên sứ của Đức Chúa Trời.
|
||
\v 10 Người nào xúc phạm Con Người sẽ được tha thứ, nhưng ai báng bổ Đức Thánh Linh sẽ không được tha thứ đâu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Khi người ta giải anh em đến trước các nhà hội, những người cai trị và nhà cầm quyền, đừng lo về việc anh em sẽ nói gì và nói như thế nào để bảo vệ mình,
|
||
\v 12 vì chính trong giờ ấy, Đức Thánh Linh sẽ dạy anh em những điều cần nói.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Khi ấy, một người trong đám đông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, xin bảo anh tôi chia gia tài cho tôi. ”
|
||
\v 14 Chúa Giê-xu đáp lời anh: “Anh kia, ai lập tôi làm quan tòa hay người trung gian hòa giải cho các anh? ”
|
||
\v 15 Rồi Ngài nói với họ: “Hãy cẩn thận giữ mình trước mọi thói tham lam, vì sự sống của người ta không do giàu có về của cải.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Rồi Ngài kể cho họ một ẩn dụ: “Cánh đồng của một người giàu kia trúng mùa,
|
||
\v 17 người ấy thầm nhủ: ‘Ta sẽ làm gì đây, vì không có chỗ để chứa hoa lợi? ’
|
||
\v 18 Rồi anh tiếp: ‘Ta sẽ làm thế này, ta sẽ phá bỏ các kho chứa cũ và xây những cái mới to hơn để chứa toàn bộ thóc lúa và những tài sản khác.
|
||
\v 19 Rồi ta sẽ nói với linh hồn ta rằng: ‘Linh hồn ơi, ngươi đã có nhiều của cải để dành cho nhiều năm. Hãy thoải mái, ăn, uống và vui vẻ. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Nhưng Đức Chúa Trời phán với anh ta: ‘Hỡi kẻ dại, đêm nay linh hồn người sẽ bị đòi lại, vậy những gì ngươi đã sắm sửa đó sẽ thuộc về ai? ’
|
||
\v 21 Đó là thực tế về những người tích trữ của cải cho mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Vậy nên, Thầy bảo với anh em, đừng vì sự sống mà lo lắng về thức ăn, hay vì thân thể mà lo lắng về đồ mặc.
|
||
\v 23 Vì sự sống quý hơn đồ ăn và thân thể quý hơn đồ mặc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Hãy xem loài quạ, chúng không gieo cũng chẳng gặt. Chúng chẳng có vựa lẫm hay kho chứa, nhưng Đức Chúa Trời nuôi chúng. Anh em quý giá hơn loài chim rất nhiều!
|
||
\v 25 Có ai trong anh em nhờ lo lắng mà kéo dài được cuộc đời của mình thêm một khoảnh khắc không?
|
||
\v 26 Vậy, nếu chỉ một việc nhỏ ấy thôi mà anh em còn không làm được thì sao anh em phải lo lắng về những việc khác?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Hãy xem loài hoa huệ – xem cách chúng lớn lên như thế nào. Chúng chẳng lao nhọc, cũng không kéo chỉ. Nhưng Thầy cho anh em hay, ngay như vua Sa-lô-môn, với tất cả vinh quang của vua ấy, cũng không được mặc đẹp như một trong những bông hoa này.
|
||
\v 28 Hỡi những kẻ ít đức tin, nếu hoa cỏ ngoài đồng là giống nay còn mai bị ném vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho chúng mặc đẹp như vậy, thì huống chi là anh em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Đừng tìm kiếm đồ ăn thức uống, và đừng lo lắng.
|
||
\v 30 Vì đó là những điều mà mọi dân tộc trên thế gian này vẫn tìm kiếm, và Cha của anh em biết anh em cần những điều đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Nhưng hãy tìm kiếm vương quốc của Ngài, thì những điều này sẽ được thêm cho anh em.
|
||
\v 32 Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ, vì Cha của anh em vui lòng ban vương quốc của Ngài cho anh em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Hãy bán tài sản mình mà giúp cho người nghèo. Hãy sắm cho mình những túi tiền không mòn rách – tức của cải không bị hao hụt ở trên trời, là nơi kẻ trộm cắp không đến gần và sâu mọt không làm hư hại được.
|
||
\v 34 Vì của cải anh em ở đâu thì lòng anh em cũng sẽ ở đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Anh em phải thắt dây lưng lại và giữ cho đèn cháy luôn.
|
||
\v 36 Hãy làm như những người đang chờ đợi chủ mình đi dự tiệc cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Phước cho những đầy tớ ấy, là những người chủ về thấy đang thức canh. Thầy bảo thật với anh em, chủ sẽ thắt lưng mình, mời họ ngồi vào bàn ăn, và đến phục vụ họ.
|
||
\v 38 Nếu chủ về lúc canh hai, hoặc thậm chí canh ba, và thấy họ sẵn sàng, thì thật phước cho các đầy tớ ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Ngoài ra, hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ đến, hẵn đã không để hắn xâm nhập vào nhà mình.
|
||
\v 40 Anh em cũng phải sẵn sàng, vì anh em không biết giờ nào Con Người sẽ đến.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Phi-e-rơ thưa rằng: “Lạy Chúa, Chúa kể ẩn dụ này cho chúng tôi hay cũng cho mọi người? ”
|
||
\v 42 Chúa đáp: “Vậy ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan được chủ cắt đặt quản lý các đầy tớ khác và cấp phát thức ăn cho họ đúng giờ?
|
||
\v 43 Phước cho đầy tớ đó khi chủ đến thấy anh đang làm đúng như vậy.
|
||
\v 44 Thầy nói thật để anh em biết, chủ sẽ giao cho đầy tớ đó quản lý toàn bộ tài sản của mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Nhưng nếu đầy tớ đó thầm nhủ trong lòng rằng: ‘Chủ ta chưa về ngay đâu, ’ và bắt đầu đánh đập các đầy tớ khác, cả trai lẫn gái, rồi ăn uống say sưa,
|
||
\v 46 thì chủ của đầy tớ ấy sẽ đến trong ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, rồi chủ sẽ phân hắn thành từng mảnh và cho hắn đồng số phận với những kẻ bất trung.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Đầy tớ nào biết ý chủ nhưng không sẵn sàng hay không làm theo ý chủ, sẽ bị đòn nhiều.
|
||
\v 48 Còn đầy tớ nào không biết ý chủ và làm việc đáng bị phạt sẽ bị đòn ít. Người nào được ban cho nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, ai được giao cho nhiều sẽ bị đòi lại càng nhiều hơn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Thầy đến để ném lửa xuống đất, và ước nó đã cháy lên.
|
||
\v 50 Nhưng Thầy còn phải chịu một phép báp-têm, và Thầy khắc khoải biết chừng nào cho đến khi việc ấy được hoàn tất!
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 51 v 51 Anh em tưởng Thầy đến đem bình an cho thế gian sao? Không đâu, Thầy cho anh em hay, Thầy đến để đem sự chia rẽ.
|
||
\v 52 Vì từ nay trở đi, một nhà có năm người sẽ bị chia ra – ba chống lại hai, và hai chống lại ba.
|
||
\v 53 Họ sẽ chia rẽ nhau, cha chống lại con trai, con trai chống nghịch cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống nghịch mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu nghịch với mẹ chồng.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Chúa Giê-xu cũng nói với đoàn dân: “Khi các ông thấy một đám mây xuất hiện ở phương tây, các ông liền nói: ‘Trời sắp mưa, ’ và quả đúng như vậy.
|
||
\v 55 Khi thấy gió nam thổi, các ông nói: ‘Sẽ nắng cháy đây, ’ thì đúng như vậy.
|
||
\v 56 Hỡi những kẻ đạo đức giả, các ông biết giải thích các hiện tượng của đất trời, nhưng sao lại không hiểu được thời thế?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 57 Sao các ông không tự mình suy xét điều gì là đúng?
|
||
\v 58 Khi đi với kẻ thưa kiện mình đến tòa hòa giải địa phương, đang lúc đi đường, các ông hãy cố gắng giải quyết vấn đề với người ấy để họ không kéo các ông ra tòa và rồi quan tòa sẽ giao các ông cho cảnh binh tống các người vào tù.
|
||
\v 59 Tôi nói để các ông rõ, các ông sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả nốt đồng tiền cuối cùng.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 13
|
||
\p
|
||
\v 1 Lúc ấy, một số người ở đó thuật lại cho Ngài về những người Ga-li-lê bị Phi-lát lấy máu hòa với sinh tế của chính họ.
|
||
\v 2 Chúa Giê-xu đáp lại: “Các ông tưởng rằng những người Ga-li-lê ấy tội lỗi hơn tất cả những người Ga-li-lê khác nên họ phải chịu như vậy sao?
|
||
\v 3 Tôi nói cho các ông biết, không phải vậy. Nhưng nếu các ông không ăn năn, thì tất cả sẽ bị diệt vong như vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Hay như mười tám người ở Si-lô-ê bị một tòa tháp ngã xuống đè chết, các ông tưởng rằng họ phạm tội ghê gớm hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem sao?
|
||
\v 5 Tôi khẳng định là không phải đâu. Nhưng nếu các ông không ăn năn, thì tất cả sẽ cũng sẽ bị diệt vong.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Chúa Giê-xu kể ẩn dụ này: “Người nọ có cây vả trồng trong vườn nho mình, ông đến tìm quả nhưng không thấy.
|
||
\v 7 Ông nói với người làm vườn: ‘Hãy xem, đã ba năm tôi đến tìm quả nơi cây vả này mà chẳng thấy. Hãy đốn nó đi, sao phải để nó choán đất như vậy?’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Người làm vườn thưa: ‘Xin để nó lại thêm một năm nữa, tôi sẽ đào đất xung quanh và bón phân cho cây.
|
||
\v 9 Nếu năm sau nó ra quả thì tốt; còn không, chúng ta sẽ đốn nó! ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Chúa Giê-xu đang giảng dạy trong một nhà hội vào ngày Sa-bát.
|
||
\v 11 Tại đó có một người phụ nữ bị tà linh đau yếu ám suốt mười tám năm qua, khiến cho lưng bà ta bị còng, không thể đứng thẳng được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi Chúa Giê-xu thấy bà, Ngài gọi bà và nói: “Hỡi chị, chị được giải thoát khỏi tật bệnh. ”
|
||
\v 13 Ngài đặt tay trên bà. Lập tức, bà đứng thẳng lên và tôn vinh Đức Chúa Trời.
|
||
\v 14 Nhưng người quản lý nhà hội nổi giận vì Chúa Giê-xu chữa lành cho người bệnh trong ngày Sa-bát. Ông ta nói với đoàn dân: “Có sáu ngày để làm việc. Hãy đến chữa bệnh vào những ngày ấy, đừng đến vào ngày Sa-bát.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Chúa đáp lại ông ta: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Chẳng phải vào ngày Sa-bát tất cả các ông đều mở dây buộc lừa hay bò của mình khỏi máng để dẫn nó đi uống nước sao?
|
||
\v 16 Còn chị này là con gái của Áp-ra-ham đã bị trói buộc suốt mười tám năm, chẳng lẽ không nên cởi trói cho chị ấy vào ngày Sa-bát sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Khi Ngài nói những lời này, tất cả những kẻ chống đối Ngài đều xấu hổ, còn đoàn dân đông thì vui mừng trước tất cả những việc diệu kỳ Ngài đã làm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Chúa Giê-xu nói: “Vương quốc của Đức Chúa Trời giống với điều gì, tôi sẽ lấy gì để so sánh với vương quốc ấy?
|
||
\v 19 Vương quốc ấy giống như một hạt cải, người kia lấy gieo trong vườn, nó lớn lên thành một cây to và chim trời xây tổ trên cành của nó.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ngài lại nói: “Tôi sẽ lấy gì để so sánh với vương quốc của Đức Chúa Trời?
|
||
\v 21 Vương quốc ấy giống như men được một người phụ nữ lấy trộn vào ba đấu bột cho đến khi bột dậy lên.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Chúa Giê-xu ghé vào tất cả các thành và làng mạc trên đường đi đến Giê-ru-sa-lem và dạy dỗ mọi người.
|
||
\v 23 Có người thưa với Ngài: “Lạy Chúa, phải chăng chỉ một số ít người được cứu? ” Ngài nói với họ,
|
||
\v 24 “Hãy cố gắng mà vào cửa hẹp, vì nhiều người sẽ tìm cách vào đó mà không được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Một khi chủ nhà đã đứng dậy và đóng cửa lại rồi, anh em sẽ đứng ngoài cửa kêu rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, xin cho chúng tôi vào. ’ Nhưng Ngài sẽ trả lời rằng: ‘Ta không biết các người là ai hoặc các người từ đâu tới. ’
|
||
\v 26 Anh em sẽ nói: ‘Chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi. ’
|
||
\v 27 Nhưng Ngài sẽ trả lời: ‘Ta nói cho các người là Ta không biết các người từ đâu đến. Hãy tránh xa Ta ra, hỡi những kẻ làm ác kia!’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 các người sẽ khóc lóc và nghiến răng khi thấy Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và tất cả các nhà tiên tri ở trong vương quốc Đức Chúa Trời, còn các người – các người thì lại bị ném ra ngoài.
|
||
\v 29 Sẽ có nhiều người đến từ đông, tây, nam, bắc được ngồi dự tiệc trong vương quốc của Đức Chúa Trời.
|
||
\v 30 Và hãy biết điều này, người cuối sẽ nên đầu và người đầu sẽ trở nên cuối.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Không lâu sau, có mấy người Pha-ri-si đến thưa với Ngài: “Xin hãy rời khỏi đây vì Hê-rốt muốn giết Thầy. ”
|
||
\v 32 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy đi nói với con cáo ấy rằng: ‘Này, ngày hôm nay và ngày mai tôi sẽ đuổi quỷ và chữa bệnh, sang ngày thứ ba tôi sẽ đạt được mục tiêu của mình. ’
|
||
\v 33 Dù thế nào, tôi cũng phải tiếp tục hành trình ngày hôm nay, ngày mai và ngày kia, vì một tiên tri không thể bị giết bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các nhà tiên tri và ném đá những người được sai đến với ngươi. Đã bao nhiêu lần Ta muốn nhóm con cái ngươi lại như gà mái túc con dưới cánh mình, nhưng ngươi không muốn.
|
||
\v 35 Này, nhà của ngươi sẽ bị bỏ hoang. Ta cho ngươi hay, ngươi sẽ không thấy Ta nữa cho đến khi ngươi nói rằng, “Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 14
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào ngày Sa-bát nọ, Chúa Giê-xu vào nhà một người lãnh đạo thuộc phái Pha-ri-si để dùng bữa, và họ chăm chú theo dõi Ngài.
|
||
\v 2 Lúc ấy, trước mặt Ngài có một người mắc bệnh phù thũng.
|
||
\v 3 Chúa Giê-xu hỏi các luật gia Do Thái và người Pha-ri-si: “Trong ngày Sa-bát có được phép chữa bệnh không?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Nhưng họ im lặng. Vậy là Chúa Giê-xu đỡ lấy người bệnh, chữa lành, rồi cho anh về.
|
||
\v 5 Ngài nói với họ: “Có ai trong các ông có đứa con trai, hay một con bò, bị rơi xuống giếng trong ngày Sa-bát mà không kéo nó lên ngay không? ”
|
||
\v 6 Họ không thể đáp lại một câu nào.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi Chúa Giê-xu nhận thấy các khách mời toàn chọn chỗ danh dự mà ngồi, Ngài kể cho họ một ẩn dụ:
|
||
\v 8 “Khi anh em được mời đến dự tiệc cưới, đừng chọn chỗ danh dự mà ngồi, vì biết đâu trong số khách mời có người quan trọng hơn anh em.
|
||
\v 9 Khi ấy, người đã mời cả anh em lẫn vị khách kia sẽ đến nói với anh em: ‘Xin nhường chỗ cho người này, ’ và anh em sẽ xấu hổ vì phải xuống ngồi chỗ thấp nhất.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Nhưng khi được mời dự tiệc, hãy chọn chỗ thấp nhất mà ngồi, để khi chủ tiệc đến thấy vậy, có thể sẽ nói với anh em rằng: ‘Bạn ơi, xin mời ngồi lên chỗ cao hơn. ’ Khi ấy, anh em sẽ được vinh dự trước mặt những người ngồi cùng bàn với mình.
|
||
\v 11 Vì ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn cao.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Chúa Giê-xu cũng nói với người đã mời Ngài rằng: “Khi ông đãi ăn, đừng mời bè bạn, anh em, bà con, hay những người hàng xóm giàu có, vì có thể họ sẽ mời lại để trả ơn cho ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nhưng khi ông mở tiệc, hãy mời những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù,
|
||
\v 14 thì ông sẽ được phước, vì họ không thể trả ơn cho ông. Còn ông sẽ được đền đáp khi người công chính sống lại.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Một người ngồi cùng bàn với Chúa Giê-xu nghe Ngài nói vậy liền thưa: “Người nào được ăn bánh trong vương quốc của Đức Chúa Trời thật có phước thay! ”
|
||
\v 16 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Có người kia mở một bữa đại tiệc và mời nhiều người đến dự.
|
||
\v 17 Khi bữa ăn đã được chuẩn bị xong, ông sai đầy tớ đến báo cho các khách mời rằng: ‘Xin hãy đến vì mọi sự đã sẵn sàng rồi.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Nhưng tất cả đều xin cáo lỗi. Người thứ nhất nói: ‘Tôi có mua một đám ruộng, phải đi xem. Xin cho tôi kiếu. ’
|
||
\v 19 Người khác nói: ‘Tôi có mua năm đôi bò, cần phải đi xem thử thế nào. Xin cho tôi kiếu. ’
|
||
\v 20 Người khác nữa nói: ‘Tôi vừa lấy vợ nên không đến được.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Đầy tớ về thuật lại cho chủ mọi chuyện. Ông nổi giận và nói với đầy tớ: ‘Hãy nhanh chân lên, đi khắp các nẻo đường lớn nhỏ trong thành mà đưa những người nghèo khó, tàn tật, đui mù và què quặt về đây. ’
|
||
\v 22 Người đầy tớ thưa: “Thưa ông chủ, tôi đã làm theo lệnh ông, nhưng vẫn còn chỗ trống.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Chủ nói: ‘Hãy đi ra ngoài quốc lộ và vào các thôn làng mà ép mời mọi người vào cho đầy nhà ta.
|
||
\v 24 Vì ta nói để anh biết, không một người nào trong số các khách mời lúc đầu được dự tiệc của ta. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Lúc này, có một đoàn dân đông cùng đi với Ngài, Ngài quay lại và nói với họ:
|
||
\v 26 “Người nào đến theo tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em – phải, và cả sự sống của mình nữa – thì không thể làm môn đồ tôi.
|
||
\v 27 Ai không vác thập tự giá mình mà theo tôi cũng không thể làm môn đồ tôi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Vì có người nào trong các ông muốn xây một cái tháp mà trước tiên không ngồi xuống tính phí tổn để xem mình có thể hoàn thành nó hay không?
|
||
\v 29 Nếu không làm vậy, khi đã xây móng rồi mà lại không thể hoàn thành, thì mọi người thấy thế sẽ chế nhạo người ấy,
|
||
\v 30 mà rằng: ‘Người này khởi công xây cất mà không hoàn thành được.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Hay có vua nào trước khi đi giao chiến với vua khác mà không ngồi xuống bàn bạc xem liệu mười ngàn quân có địch nổi với hai mươi ngàn quân của vua kia chăng?
|
||
\v 32 Nếu không địch nổi, trong khi đạo quân của vua kia còn ở xa, ông phải sai sứ giả đến xin cầu hòa.
|
||
\v 33 Vậy nên, người nào không từ bỏ mọi thứ mình có thì không thể làm môn đồ tôi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Muối rất tốt, nhưng nếu muối mất mặn đi thì làm thế nào để nó mặn lại?
|
||
\v 35 Muối ấy chẳng còn ích lợi gì đối với đất hay thậm chí để làm phân, mà chỉ có thể vất bỏ đi thôi. Ai có tai mà nghe, hãy nghe.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 15
|
||
\p
|
||
\v 1 Mọi người thu thuế và những kẻ tội lỗi khác đều đến với Chúa Giê-xu để nghe Ngài giảng dạy.
|
||
\v 2 Người Pha-ri-si và các thầy thông giáo lầm bầm với nhau: “Ông ta tiếp đón những kẻ tội lỗi, lại còn ăn chung với họ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúa Giê-xu kể cho họ nghe ẩn dụ này:
|
||
\v 4 “Có ai trong các ông có một trăm con chiên, mà bị lạc mất một con, lại không để chín mươi chín con kia nơi đồng hoang để đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó không?
|
||
\v 5 Khi đã tìm được rồi, liền vui mừng vác nó lên vai.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Về đến nhà, người ấy cho mời bạn bè, hàng xóm đến và nói với họ: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên bị mất. ’
|
||
\v 7 Tôi nói để các ông biết, thiên đàng cũng sẽ vui mừng như vậy về một tội nhân biết ăn năn hơn là chín mươi chín người công bình không cần ăn năn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hay có người phụ nữ nào có mười đồng bạc lỡ đánh mất một đồng, mà lại không thắp đèn, quét nhà để tìm cho kỳ được đồng bạc bị mất ấy?
|
||
\v 9 Rồi khi tìm được, chị sẽ cho mời bạn bè, hàng xóm đến và nói: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất. ’
|
||
\v 10 Cũng vậy, tôi nói để các ông biết, các thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng sẽ vui mừng khi một người có tội ăn năn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Rồi Chúa Giê-xu nói tiếp: “Một người kia có hai con trai,
|
||
\v 12 người em đến thưa với cha, ‘Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài mà con sẽ hưởng. ’ Vậy là người cha chia gia tài cho hai con.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Chỉ mấy ngày sau, người em khăn gói mọi tài sản lên đường đi phương xa, ở đó phung phí hết tiền bạc, mua sắm những thứ không cần thiết và tiêu xài trác táng.
|
||
\v 14 Khi nó đã tiêu sạch hết của cải, thì có một cơn đói kém lớn lan tràn khắp xứ, khiến nó lâm vào cảnh túng quẫn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nó phải đi làm thuê cho một người dân bản xứ, người ấy sai nó ra đồng chăn heo.
|
||
\v 16 Nó ước được ăn vỏ đậu của heo vì chẳng ai cho nó thức gì để ăn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Khi đã tỉnh ngộ, nó tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm thuê cho cha mình có thức ăn dư dật còn mình ở đây thì sắp chết đói!
|
||
\v 18 Mình sẽ rời khỏi đây để về với cha, rồi mình sẽ thưa với ông: “Thưa cha, con đã phạm tội với trời và với cha.
|
||
\v 19 Con không xứng đáng làm con của cha nữa; xin cha hãy coi con như một người đầy tớ làm thuê cho cha vậy. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Thế rồi, người con thứ rời bỏ nơi đó mà trở về cùng cha. Khi nó còn ở đằng xa, cha nó đã nhìn thấy và động lòng thương xót, ông chạy ra ôm chầm lấy nó mà hôn.
|
||
\v 21 Đứa con nói với cha: ‘Thưa cha, con đã phạm tội với trời và với cha. Con không xứng đáng được gọi là con của cha nữa.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Người cha nói với các đầy tớ: ‘Hãy mau đem áo tốt nhất ra mặc cho cậu, cũng hãy đeo nhẫn vào tay và mang giày vào chân cho cậu.
|
||
\v 23 Rồi mau đi làm thịt bò con mập, chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng.
|
||
\v 24 Vì con ta đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay tìm lại được. ’ Và họ bắt đầu ăn mừng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Lúc này, người anh từ ngoài đồng trở về. Khi về gần đến nhà, anh nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa.
|
||
\v 26 Anh gọi một đầy tớ lại hỏi chuyện gì đang xảy ra.
|
||
\v 27 Người đầy tớ thưa: ‘Em trai cậu đã về và cha cậu cho làm thịt bò con mập để mừng cậu ấy về nhà bình an.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Người anh liền nổi giận không muốn vào nhà, khiến cha anh phải ra khuyên dỗ.
|
||
\v 29 Nhưng người anh thưa với cha: ‘Cha xem, suốt bao nhiêu năm nay con làm nô lệ cho cha, chưa từng cãi lời cha, vậy mà cha có bao giờ cho con một con dê con để đãi bạn bè đâu.
|
||
\v 30 Thế mà khi con trai cha, là đứa đã phung phí tài sản của cha với phường đĩ điếm, trở về, thì cha lại cho làm thịt bò con mập để ăn mừng.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Người cha nói với anh: ‘Con ơi, con luôn ở cạnh cha, và tất cả những gì của cha là của con.
|
||
\v 32 Nhưng rất đáng cho chúng ta mở tiệc ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay lại sống; đã mất mà nay lại tìm được. ’"
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 16
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ rằng: “Người giàu kia có một viên quản lý bị tố cáo là phung phí tài sản của chủ.
|
||
\v 2 Vậy, người giàu ấy cho gọi anh ta đến và nói: ‘Chuyện người ta tố cáo anh với tôi là sao đây? Hãy tường trình cho tôi công tác quản lý của anh, vì từ nay anh sẽ không được làm quản lý nữa.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Viên quản lý tự nhủ: ‘Mình phải làm gì đây, khi mà ông chủ không cho mình giữ chức quản lý nữa? Cuốc đất thì mình không đủ sức, còn đi ăn xin thì xấu hổ.
|
||
\v 4 Mình biết phải làm gì để khi bị bãi chức sẽ có người tiếp mình vào nhà.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Thế rồi viên quản lý gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất: ‘Anh nợ chủ tôi bao nhiêu? ’
|
||
\v 6 Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô liu. ’ Viên quản lý nói: ‘Lấy hóa đơn ra, ngồi xuống kia viết năm chục, nhanh lên! ’
|
||
\v 7 Rồi anh ta nói với người khác: ‘Còn anh nợ bao nhiêu? ’ Anh này đáp: ‘Một trăm bao lúa mì. ’ Viên quản lý nói: ‘Lấy hóa đơn ra, viết tám chục.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Người chủ khen viên quản lý bất chính ấy về việc làm khôn lanh của anh này. Vì trong cách cư xử với người giống như mình, con cái đời này khôn khéo hơn con cái của sự sáng.
|
||
\v 9 Thầy nói để anh em biết, hãy dùng tiền bạc bất chính mà kết bạn cho mình, để khi của cải ấy hết đi, họ sẽ tiếp anh em vào nhà đời đời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Người nào trung tín trong việc rất nhỏ cũng sẽ trung tín trong việc lớn, ai bất chính trong việc rất nhỏ cũng sẽ bất chính trong việc lớn.
|
||
\v 11 Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền bạc bất chính, thì ai dám giao cho anh em của cải thật?
|
||
\v 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền bạc của người khác, thì ai dám giao cho anh em tiền của chính anh em?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Không một đầy tớ nào có thể phục vụ hai chủ, vì sẽ ghét người này mà yêu mến người kia, hoặc sẽ tận trung với người này mà xem thường người kia. Anh em không thể vừa phục vụ Đức Chúa Trời vừa làm tôi cho tiền tài được.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Lúc ấy, người Pha-ri-si là những người ham tiền bạc nghe Ngài nói vậy thì cười nhạo Ngài.
|
||
\v 15 Ngài nói với họ: “Các ông tỏ mình ra công chính trước mặt người khác, nhưng Đức Chúa Trời biết lòng các ông. Điều mà loài người xem trọng lại là điều ghê tởm trước mặt Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Luật pháp và lời tiên tri chỉ có hiệu lực đến thời của Giăng mà thôi. Từ đó trở đi, Phúc Âm về vương quốc Đức Chúa Trời đã được rao giảng, và mọi người cố chen nhau mà vào đó.
|
||
\v 17 Nhưng trời đất qua đi còn dễ hơn là vô hiệu hóa một nét chữ trong luật pháp.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Người nào li hôn với vợ và đi cưới một người khác thì phạm tội ngoại tình, và người kết hôn với phụ nữ bị li hôn cũng phạm tội ngoại tình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Có một người giàu mặc áo tía và vải gai mịn, hằng ngày tận hưởng cuộc sống nhung lụa.
|
||
\v 20 Cũng có anh ăn xin tên La-xa-rơ, mình đầy ghẻ chốc, được người ta đem đặt ở cổng nhà người giàu.
|
||
\v 21 La-xa-rơ ước ao được ăn những mẩu thức ăn thừa trên bàn người giàu rơi xuống. Lại có chó đến liếm ghẻ trên mình anh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Khi anh ăn xin chết, thiên sứ đem anh đặt bên cạnh Áp-ra-ham. Người giàu cũng chết và người ta đem chôn.
|
||
\v 23 Trong hỏa ngục, bị đau đớn, dày vò, người giàu ngước nhìn lên và thấy Áp-ra-ham ở đằng xa, còn La-xa-rơ thì dựa trên ngực người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ông ta kêu lên rằng: ‘Tổ phụ Áp-ra-ham ơi, xin thương xót con mà sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước và làm cho mát lưỡi con, vì con quá thống khổ trong lửa này.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Nhưng Áp-ra-ham nói: ‘Con ơi, hãy nhớ rằng khi còn sống con đã hưởng được phần tốt của mình, còn La-xa-rơ chịu khổ nhiều rồi. Bây giờ nó được an ủi ở đây, còn con phải chịu đau đớn thôi.
|
||
\v 26 Vả lại, có một vực thẳm rất lớn ở đây, nên người nào muốn từ đây qua đó sẽ không qua được, và ai muốn từ đó qua đây cũng vậy.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Người giàu nói: ‘Con van người, tổ phụ Áp-ra-ham ơi, xin sai anh ấy đến nhà cha con –
|
||
\v 28 vì con có năm anh em – để cảnh báo họ, kẻo họ cũng bị xuống nơi khổ hình này.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Nhưng Áp-ra-ham nói: ‘Họ đã có Môi-se và các tiên tri; họ phải nghe theo những người ấy! ’
|
||
\v 30 Người giàu thưa: ‘Không đâu, thưa tổ phụ Áp-ra-ham, nếu có người sống lại từ cõi chết đến với họ, họ sẽ ăn năn. ’
|
||
\v 31 Nhưng Áp-ra-ham đáp: ‘Nếu họ không nghe lời Môi-se và các nhà tiên tri, thì dù có người chết sống lại cũng không thuyết phục được họ. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 17
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Chắc chắn sẽ có cớ gây cho chúng ta phạm tội, nhưng khốn cho kẻ nào tạo ra cớ đó!
|
||
\v 2 Thà cột cối đá vào cổ nó mà ném nó xuống biển còn hơn để nó gây cho một trong những đứa trẻ này vấp phạm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Hãy cẩn thận. Nếu anh em mình phạm tội, hãy khiển trách người ấy, và nếu người ấy ăn năn, hãy tha thứ.
|
||
\v 4 Dù người ấy phạm lỗi với anh em đến bảy lần trong ngày, và bảy lần trở lại nói với anh em: ‘Tôi ăn năn, ’ thì anh em cũng phải tha thứ cho họ!”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các sứ đồ thưa với Chúa: “Xin thêm đức tin cho chúng tôi. ”
|
||
\v 6 Chúa đáp: “Nếu anh em có đức tin chỉ bằng hạt cải thôi, thì anh em có thể nói với cây sung dâu này rằng: ‘Hãy tự bứng lên và xuống mọc dưới biển, ’ thì nó sẽ vâng lời anh em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ai trong anh em có đầy tớ đi cày ruộng hay chăn chiên từ ngoài đồng trở về mà lại đi bảo nó: ‘Hãy lại đây và ngồi xuống ăn đi’?
|
||
\v 8 Chẳng phải anh em sẽ nói với nó: ‘Hãy dọn thức ăn cho ta, thắt lưng phục vụ ta cho đến khi ta ăn uống xong, rồi anh mới được ăn uống’ hay sao?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Người ấy chẳng cần cám ơn anh đầy tớ vì đã làm những việc được dặn bảo, đúng không?
|
||
\v 10 Anh em cũng vậy, khi hoàn thành việc được giao cho làm thì anh em phải nói rằng: ‘Chúng tôi là những đầy tớ chẳng có công trạng gì. Chúng tôi chỉ làm những việc phải làm. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Trên đường đến thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu đi qua vùng giáp ranh giữa Sa-ma-ri và Ga-li-lê.
|
||
\v 12 Khi Ngài vào một thành nọ có mười người mắc bệnh phong hủi ra đón Ngài.
|
||
\v 13 Họ đứng ở đằng xa mà kêu lên rằng: “Ôi Giê-xu, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Nhìn thấy họ, Chúa Giê-xu nói: “Hãy đi trình diện với các thầy tế lễ. ” Khi họ đang đi thì được sạch.
|
||
\v 15 Một trong những người ấy thấy mình đã được lành liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời.
|
||
\v 16 Anh phủ phục dưới chân Chúa Giê-xu mà cảm tạ Ngài. Đó là một người Sa-ma-ri.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Chúa Giê-xu đáp lại: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Chín người kia đâu?
|
||
\v 18 Bộ chẳng có ai quay lại tôn vinh Đức Chúa Trời ngoại trừ người ngoại quốc này à? ”
|
||
\v 19 Rồi Ngài nói với người Sa-ma-ri ấy: “Hãy đứng dậy đi đi. Đức tin của anh đã chữa lành anh.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Những người Pha-ri-si hỏi Chúa khi nào vương quốc Đức Chúa Trời sẽ đến, Ngài trả lời họ rằng: “Vương quốc Đức Chúa Trời không phải là điều người ta có thể thấy được.
|
||
\v 21 Họ không thể nói rằng: ‘Nó ở đây! ’ hay ‘Nó ở đó! ’ vì vương quốc Đức Chúa Trời ở ngay giữa các ông.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Sẽ có ngày anh em ước ao được thấy một ngày của Con Người thôi, nhưng không thể thấy được.
|
||
\v 23 Người ta sẽ nói với anh em: ‘Kìa Ngài ở đằng kia! Kìa Ngài ở đây! ’ Nhưng anh em đừng đi xem, cũng đừng theo họ,
|
||
\v 24 vì như ánh chớp phát ra khi lóe lên từ phương trời này đến phương trời kia, thì Con Người cũng sẽ hiện ra như vậy trong ngày của Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Nhưng trước hết Ngài phải chịu nhiều khổ nạn và bị thế hệ này chối bỏ.
|
||
\v 26 Trong thời Nô-ê việc xảy ra thế nào thì trong thời kỳ của Con Người cũng như vậy.
|
||
\v 27 Người ta ăn, uống, cưới gả cho đến ngày Nô-ê vào tàu – nước lụt tràn đến hủy diệt tất cả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Tương tự, như việc xảy ra trong thời của Lót, người ta ăn, uống, mua, bán, gieo trồng, xây cất.
|
||
\v 29 Đến ngày Lót ra khỏi Sô-đôm, thì mưa lửa và diêm sinh từ trời giáng xuống thiêu hủy tất cả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Trong ngày Con Người hiện ra cũng sẽ như vậy.
|
||
\v 31 Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà thì đừng xuống mà lấy tài sản. Ai đang ở ngoài đồng thì đừng trở về.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Hãy nhớ lại vợ của Lót.
|
||
\v 33 Người nào cố giành lấy sự sống mình thì sẽ mất, nhưng ai chịu mất sự sống mình thì sẽ cứu được nó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Thầy nói để anh em biết, trong đêm ấy, hai người nằm chung một giường, sẽ có một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
|
||
\v 35 Sẽ có hai phụ nữ cùng xay cối, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
|
||
\v 36 \f + \ft Lu-ca 17: 36 có những bản cổ xưa đáng tin cậy lượt bỏ câu này, câu 36: \fqa Sẽ có hai người ở ngoài đồng, một người được đem đi, người kia bị bỏ lại \fqa* . \f*
|
||
\v 37 Họ hỏi Ngài: “Lạy Chúa, điều đó xảy ra ở đâu? ” Ngài đáp: “Xác chết ở đâu, kên kên bâu lại ở đó.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 18
|
||
\p
|
||
\v 1 Rồi Ngài kể cho họ một ẩn dụ để cho họ thấy cần phải cầu nguyện luôn, và đừng nản lòng.
|
||
\v 2 Ngài nói: “Tại một thành phố kia có một vị quan án không kính sợ Đức Chúa Trời và ông cũng chẳng vị nể người ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Trong thành ấy có một góa phụ cứ đến tìm vị quan án này và nói: ‘Xin ngài giúp phân xử công minh giữa tôi và kẻ nghịch cùng tôi. ’
|
||
\v 4 Trong một thời gian dài vị quan án không muốn giúp bà, nhưng sau đó, ông thầm nhủ: ‘Dù ta không kính sợ Đức Chúa Trời, cũng chẳng vị nể ai cả,
|
||
\v 5 nhưng góa phụ này cứ tới làm phiền ta, nên ta sẽ giúp lấy lại công bằng cho bà ấy, để bà ấy đừng tới lui mãi làm ta mỏi mệt. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Rồi Ngài nói: “Thử nghe lời vị quan án bất công ấy nói mà xem.
|
||
\v 7 Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không xét lẽ công bằng cho những người được chọn của Ngài, là những người ngày đêm kêu xin Ngài sao? Lẽ nào Ngài không kiên nhẫn với họ?
|
||
\v 8 Thầy nói để anh em biết, Ngài sẽ nhanh chóng xét lẽ công bằng cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu Ngài có còn thấy đức tin trên đất chăng?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Rồi Ngài kể ẩn dụ này cho những người tự cho mình là công bình mà xem thường người khác:
|
||
\v 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện – một người Pha-ri-si và một người thu thuế.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện về mình thế này: ‘Lạy Đức Chúa Trời, con cảm tạ Ngài vì con không giống kẻ khác, tức kẻ trộm cắp, bất chính, phạm tội ngoại tình, cũng không như người thu thuế này.
|
||
\v 12 Con kiêng ăn mỗi tuần hai lần, dâng phần mười mọi thứ lợi tức con kiếm được.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Nhưng người thu thuế đứng đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực thưa rằng: ‘Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót con, là tội nhân. ’
|
||
\v 14 Thầy nói để anh em biết, người này khi trở về nhà mình được xưng công chính chứ không phải người kia, vì ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Dân chúng cũng đem những trẻ nhỏ đến với Chúa để Ngài đặt tay trên chúng, nhưng các môn đồ thấy vậy thì trách họ.
|
||
\v 16 Chúa Giê-xu gọi các môn đệ đến và nói rằng: “Hãy để con trẻ đến với Thầy, đừng cấm chúng nó. Vì vương quốc Đức Chúa Trời thuộc về những người giống như chúng vậy.
|
||
\v 17 Thật, Thầy nói để anh em biết, người nào không tiếp nhận vương quốc Đức Chúa Trời như một đứa trẻ chắc chắn sẽ không được vào vương quốc ấy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Có một viên quan hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời? ”
|
||
\v 19 Chúa Giê-xu đáp: “Sao anh gọi tôi là nhân lành? Ngoài Đức Chúa Trời ra, chẳng có ai là nhân lành cả.
|
||
\v 20 Anh hẵn biết các điều răn – con đừng phạm tội ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cướp, đừng làm chứng dối, hãy tôn kính cha mẹ. ”
|
||
\v 21 Viên quan thưa: “Tôi đã tuân thủ các điều răn ấy từ khi còn nhỏ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nghe vậy, Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh còn thiếu một điều Anh phải bán hết những gì mình có mà phân phát cho người nghèo, thì anh sẽ có của cải trên trời – rồi hãy đến mà theo tôi. ”
|
||
\v 23 Nhưng khi người giàu có này nghe như vậy, thì buồn lắm vì anh ta rất giàu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Chúa Giê-xu nhìn anh buồn bã nói: “Người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời mới khó làm sao!
|
||
\v 25 Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Những người nghe Ngài nói vậy thì bảo: “Vậy thì ai được cứu? ”
|
||
\v 27 Chúa Giê-xu đáp: “Những việc con người không thể làm được thì Đức Chúa Trời làm được cả.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Phi-e-rơ thưa: “Chúng tôi đã bỏ hết mọi thứ mình có mà theo Thầy. ”
|
||
\v 29 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thật, Thầy nói để anh em biết, chẳng một người nào từ bỏ nhà cửa, vợ con, cha mẹ, anh em vì vương quốc Đức Chúa Trời,
|
||
\v 30 mà không nhận lại được nhiều lần hơn trong đời này, và sự sống đời đời trong đời sau.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Sau khi nhóm mười hai sứ đồ lại, Ngài nói với họ: “Này, chúng ta đang đi lên thành Giê-ru-sa-lem và tất cả mọi điều mà các tiên tri đã chép về Con Người sẽ được ứng nghiệm.
|
||
\v 32 Vì Ngài sẽ bị nộp vào tay người ngoại bang, bị người ta chế giễu, nhục mạ và phỉ nhổ.
|
||
\v 33 Họ sẽ đánh đòn Ngài rồi giết đi, đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Nhưng họ chẳng hiểu gì; lời đó bị che khuất đối với họ, nên họ không hiểu những điều Ngài nói.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Khi Chúa Giê-xu đi gần đến thành Giê-ri-cô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường.
|
||
\v 36 Nghe thấy tiếng đám đông đi ngang qua, anh liền hỏi thăm chuyện gì đang xảy ra.
|
||
\v 37 Người ta cho anh hay rằng Giê-xu người Na-xa-rét sắp đi qua.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Người mù liền kêu lớn lên rằng: “Lạy Giê-xu, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi. ”
|
||
\v 39 Những người đi đằng trước mắng anh, bảo anh im đi. Nhưng anh càng la to hơn nữa: “Lạy Con vua Đa-vít, xin thương xót tôi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Chúa Giê-xu dừng lại và truyền đưa anh đến với Ngài. Khi người mù đến gần, Ngài hỏi anh:
|
||
\v 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh đáp: “Lạy Chúa, tôi muốn được sáng mắt.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh được sáng mắt! Đức tin của anh đã chữa lành cho anh. ”
|
||
\v 43 Lập tức, người mù nhìn thấy được, anh đi theo Chúa Giê-xu, vừa đi vừa tôn vinh Đức Chúa Trời. Cả đoàn dân thấy vậy đều ngợi khen Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 19
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu vào Giê-ri-cô và đi ngang qua thành phố.
|
||
\v 2 Tại đó, có một người tên là Xa-chê. Ông làm trưởng phòng thu thuế và rất giàu có.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Xa-chê tìm cách thấy Chúa Giê-xu để biết Ngài là ai, nhưng không thấy được vì đoàn dân quá đông, mà ông thì lại thấp.
|
||
\v 4 Vậy là Xa-chê chạy trước, leo lên một cây sung dâu để trông thấy Chúa Giê-xu vì Ngài sắp đi ngang qua con đường đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi Chúa Giê-xu đến chỗ ấy, Ngài ngước nhìn lên gọi Xa-chê: “Này Xa-chê, hãy xuống đây mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh. ”
|
||
\v 6 Ông vội vàng leo xuống và vui mừng đón tiếp Chúa.
|
||
\v 7 Mọi người nhìn thấy vậy thì trách Chúa, rằng: “Ông ấy vào nhà viếng một kẻ có tội.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Xa-chê đứng trước Chúa, thưa rằng: “Lạy Chúa, tôi lấy một nửa tài sản của mình mà chia cho người nghèo, và nếu có lừa của ai thứ gì, tôi sẽ đền lại gấp bốn lần. ”
|
||
\v 9 Chúa Giê-xu nói với ông: “Hôm nay sự cứu rỗi đã vào nhà này, vì anh ấy cũng là con Áp-ra-ham.
|
||
\v 10 Vì Con Người đã đến để tìm và cứu những người lạc mất.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Khi họ nghe những lời này xong thì Ngài kể tiếp một ẩn dụ, vì Ngài đã gần đến Giê-ru-sa-lem, còn họ thì nghĩ rằng vương quốc của Đức Chúa Trời sắp xuất hiện đến nơi.
|
||
\v 12 Vì vậy, Ngài kể: “Có một nhà quý tộc kia lên đường đến một đất nước xa xôi để được phong vương rồi sẽ trở về.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ông cho gọi mười người đầy tớ đến giao cho họ mười nén bạc và bảo: ‘Hãy dùng tiền này kinh doanh cho đến khi ta trở về. ’
|
||
\v 14 Nhưng thần dân của ông ghét ông và cử một đoàn đại diện theo sau ông, nói rằng: ‘Chúng tôi không muốn người này cai trị mình. ’
|
||
\v 15 Khi nhà quý tộc đã được phong vương trở về, ông truyền cho những người đầy tớ đã lãnh tiền đến để xem họ đã làm lợi được gì từ việc kinh doanh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Người thứ nhất đến trước mặt ông thưa rằng: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đã sinh lợi ra thêm mười nén. ’
|
||
\v 17 Nhà quý tộc nói với anh: ‘Được lắm, hỡi đầy tớ ngay lành. Vì anh đã trung tín trong việc rất nhỏ, nên anh sẽ được cai trị mười thành.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Người thứ hai đến thưa: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đã sinh lời năm nén. ’
|
||
\v 19 Nhà quý tộc nói với anh: ‘Anh sẽ cai trị năm thành.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Một người đầy tớ khác đến thưa: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đây, tôi đã dùng khăn gói lại rất an toàn,
|
||
\v 21 vì ông chủ là một người nghiêm khắc, hay lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo nên tôi sợ.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhà quý tộc nói với anh ta: ‘Hỡi đầy tớ gian ác kia, ta sẽ xử anh dựa trên những lời anh vừa nói. Anh biết ta là người nghiêm khắc, lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo.
|
||
\v 23 Vậy sao anh không gửi tiền của ta vào ngân hàng, để khi ta trở về có thể lấy tiền đó cùng với tiền lãi?’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Nhà quý tộc nói với những người đang đứng đó rằng: ‘Hãy lấy nén bạc của nó mà đưa cho người có mười nén. ’
|
||
\v 25 Họ thưa: ‘Thưa ông chủ, anh ấy đã có mười nén rồi.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 ‘Ta nói để các anh biết, người nào có sẽ được cho thêm, còn ai không có, sẽ bị lấy luôn cả cái mình đang có.
|
||
\v 27 Còn những kẻ thù của ta, những kẻ không muốn ta cai trị chúng, hãy giải chúng đến đây và xử tử chúng trước mặt ta. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Khi đã nói xong những lời ấy, Ngài tiếp tục đi lên Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Khi gần đến thành Bết-pha-giê và Bê-tha-ny, tại ngọn núi tên là Ô-liu, Chúa Giê-xu sai hai môn đồ đi trước và dặn rằng:
|
||
\v 30 “Hãy đi vào làng kế tiếp. Khi vào, anh em sẽ thấy một con lừa con chưa ai cưỡi. Hãy mở nó ra và đem về đây cho Thầy.
|
||
\v 31 Nếu có ai hỏi anh em: ‘Sao các anh mở nó ra? ’ thì hãy trả lời rằng: ‘Chúa cần nó. ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Hai môn đồ được sai phái đi và thấy con lừa con như lời Chúa Giê-xu đã cho họ biết.
|
||
\v 33 Khi họ đang mở lừa, chủ lừa nói với họ: “Sao các anh mở lừa ra? ”
|
||
\v 34 Họ đáp: “Chúa cần nó. ”
|
||
\v 35 Hai môn đồ dắt lừa về cho Chúa Giê-xu, họ trải áo lên lưng lừa và đỡ Chúa Giê-xu lên.
|
||
\v 36 Khi Ngài cưỡi lừa đi, người ta trải áo mình trên đường.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Khi Ngài đi gần đến dốc núi Ô-liu, cả đoàn môn đệ đông đảo bắt đầu vui mừng và lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời vì tất cả những việc quyền năng mà họ đã thấy.
|
||
\v 38 Họ tung hô: “Phước cho vua là Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên nơi chí cao!”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Một số người Pha-ri-si trong đoàn dân đông thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin quở trách các môn đồ của Thầy. ”
|
||
\v 40 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi bảo các ông, nếu họ im lặng thì những hòn đá này sẽ kêu lên.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Khi Chúa Giê-xu đến gần thành phố, thì Ngài khóc về nó,
|
||
\v 42 và nói rằng: “Giá như ngày nay ngươi biết được những điều sẽ đem lại cho ngươi sự bình an! Nhưng giờ thì những điều ấy đã bị che khuất khỏi mắt ngươi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Vì sẽ đến lúc các kẻ thù của ngươi đắp lũy, bao vây và công hãm ngươi bốn bề.
|
||
\v 44 Họ sẽ đánh hạ ngươi và con cái ngươi. Họ sẽ chẳng để cho một hòn đá nào còn chồng trên một hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời điểm Đức Chúa Trời đến cứu mình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Chúa Giê-xu đi vào đền thờ và đuổi hết những kẻ buôn bán ở đó.
|
||
\v 46 Ngài nói với họ: “Có lời chép rằng, ‘Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, ’ nhưng các ngươi đã biến nó thành hang ổ của bọn trộm cướp.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Vậy, hàng ngày Chúa Giê-xu giảng dạy trong đền thờ. Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và giới lãnh đạo dân chúng muốn giết Ngài,
|
||
\v 48 nhưng họ không thực hiện được vì toàn thể dân chúng đều chăm chú nghe Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 20
|
||
\p
|
||
\v 1 Một ngày kia, khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ dân chúng trong đền thờ và rao giảng Phúc Âm, các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo cùng các trưởng lão đến gặp Ngài,
|
||
\v 2 Họ hỏi Ngài: “Xin cho chúng tôi biết bởi thẩm quyền nào mà Thầy làm những việc này? Hay ai đã cho Thầy thẩm quyền đó?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi cũng hỏi các ông một câu. Hãy nói cho tôi biết
|
||
\v 4 về phép báp-têm của Giăng. Phép đó là từ trời hay từ loài người?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Họ bàn luận với nhau rằng: “Nếu chúng ta nói: ‘Từ trời, ’ ông ta sẽ nói: ‘Vậy sao các ông không tin Giăng? ’
|
||
\v 6 Còn nếu chúng ta nói: ‘Từ loài người, ’ thì cả dân chúng sẽ ném đá chúng ta, vì họ tin chắc rằng Giăng là một nhà tiên tri.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Vậy nên họ trả lời rằng họ không biết phép báp-têm ấy đến từ đâu.
|
||
\v 8 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi cũng không cho các ông biết bởi thẩm quyền nào tôi thực hiện những việc này.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Ngài kể cho dân chúng ẩn dụ này: “Một người kia trồng một vườn nho, ông cho những người trồng nho thuê và đi đến xứ khác trong một thời gian dài.
|
||
\v 10 Đến mùa thu hoạch, ông sai đầy tớ về gặp những người trồng nho để thu hoa lợi. Nhưng những người trồng nho đánh đập người đầy tớ và đuổi về tay không.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Chủ vườn lại sai một đầy tớ khác đến, nhưng người này cũng bị họ đánh đập, sỉ nhục và bị đuổi về tay không.
|
||
\v 12 Chủ vườn tiếp tục sai người đầy tớ thứ ba đến, nhưng họ lại đánh anh bị thương rồi ném ra ngoài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Vì vậy, chủ vườn nói: ‘Ta sẽ làm gì đây? Ta sẽ sai con trai yêu dấu của Ta đến. Có thể bọn họ sẽ tôn trọng nó. ’
|
||
\v 14 Nhưng khi những người trồng nho thấy anh con trai, họ bàn với nhau rằng: ‘Đây là người thừa kế. Chúng ta hãy giết hắn, rồi gia sản sẽ về tay chúng ta.’
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Thế là họ ném anh ra bên ngoài vườn nho và giết đi. Vậy chủ vườn sẽ làm gì với bọn đó?
|
||
\v 16 Ông ấy sẽ đến diệt hết những kẻ trồng nho này và giao vườn nho cho người khác. ” Họ nghe vậy liền nói: “Cầu mong việc ấy không xảy ra!”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Nhưng Chúa Giê-xu nhìn họ và nói: “Câu Kinh Thánh này có nghĩa gì? ‘Hòn đá bị thợ xây loại ra, đã trở thành tảng đá nền’?
|
||
\v 18 Người nào ngã nhầm đá ấy sẽ bị tan xác. Còn đá ấy rơi trúng ai, người đó sẽ bị đè nát.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Các thầy thông giáo và các thầy tế lễ cả biết Ngài kể ẩn dụ này là nhắm vào mình nên rất muốn ra tay với Ngài ngay lúc ấy, nhưng họ chưa dám vì sợ dân chúng.
|
||
\v 20 Họ sai các kẻ dọ thám giả làm người công bình theo dõi Ngài thật kỹ, bắt bẻ từng lời nói của Ngài, để tìm để có cớ nộp Ngài cho giới cai trị và chính quyền của quan tổng đốc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Mấy kẻ này hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách ngay thật, và Thầy không cả nể ai, mà chỉ giảng dạy chân lý về đường lối của Đức Chúa Trời.
|
||
\v 22 Xin Thầy cho chúng tôi biết: chúng ta có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Chúa Giê-xu biết sự xảo quyệt của họ, nên Ngài bảo:
|
||
\v 24 “Cho tôi xem một đồng đơ-ni-ê. Trên đồng tiền ấy có khắc hình và danh hiệu của ai? ” Họ đáp: “Của Sê-sa.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Ngài nói với họ: “Vậy, hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời. ”
|
||
\v 26 Các thầy thông giáo và các thầy tế lễ cả không thể chỉ trích lời Ngài nói trước mặt dân chúng. Họ kinh ngạc trước câu trả lời của Ngài và nín lặng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Một số người thuộc phái Sa-đu-sê, vốn cho rằng không có sự phục sinh, đến gặp Ngài.
|
||
\v 28 Họ hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, Môi-se có chép cho chúng ta luật này: nếu một người có anh trai đã lập gia đình, và người anh trai này qua đời khi chưa có con, thì người ấy sẽ lấy vợ góa của anh mình để có con nối dõi cho anh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Nhà kia có bảy anh em trai, người anh cả lấy vợ, và qua đời khi chưa có con,
|
||
\v 30 và người em kế cũng vậy.
|
||
\v 31 Rồi người em thứ ba lấy người vợ góa ấy, và cứ thế, cả bảy người đều chết mà không có con cái gì.
|
||
\v 32 Sau đó, người phụ nữ ấy cũng chết.
|
||
\v 33 Vậy, đến ngày người ta sống lại thì người phụ nữ ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy anh em đều đã cưới chị?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng.
|
||
\v 35 Nhưng những người được xét là xứng đáng được sống lại từ cõi chết và bước vào cõi đời đời thì không cưới vợ, cũng không lấy chồng.
|
||
\v 36 Họ cũng không thể chết nữa, vì họ sẽ giống như thiên sứ và là con của Đức Chúa Trời, tức là con của sự phục sinh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Còn về việc người chết sẽ sống lại thì ngay như Môi-se cũng đã xác nhận trong câu chuyện về bụi gai, khi ông xưng Chúa là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời Y-sác và Đức Chúa Trời Gia-cốp.
|
||
\v 38 Ngài không phải là Đức Chúa Trời của người chết, mà là của người sống, vì tất cả đều sống đối với Ngài.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Một số thầy thông giáo lên tiếng: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng. ”
|
||
\v 40 Và họ không dám hỏi Ngài thêm câu nào.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Chúa Giê-xu hỏi họ: “Sao người ta có thể nói rằng Đấng Cứu Thế là con vua Đa-vít?
|
||
\v 42 Vì trong sách Thi Thiên, chính vua Đa-vít có nói: Chúa phán với Chúa tôi rằng: ‘Hãy ngồi bên phải Ta,
|
||
\v 43 cho đến khi Ta khiến các kẻ thù của Con phục dưới bệ chân Con. ’
|
||
\v 44 Vậy, vua Đa-vít xưng Đấng Cứu Thế là ‘Chúa’ thì sao Ngài là con của vua ấy được?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Trước mặt toàn thể dân chúng đang lắng nghe, Ngài nói với các môn đồ:
|
||
\v 46 “Hãy cẩn thận đề phòng các thầy thông giáo, là những người thích mặc áo dài đi dạo, thích được người ta chào mình ở nơi phố chợ, và thích ngồi những chỗ quan trọng trong nhà hội hay trong các đám tiệc.
|
||
\v 47 Họ giả vờ đọc những bài cầu nguyện dài dòng nhưng lại chiếm đoạt nhà của các bà góa. Những người ấy sẽ bị kết án nặng nề hơn.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 21
|
||
\p
|
||
\v 1 Chúa Giê-xu nhìn lên và thấy những người giàu có dâng lễ vật vào thùng lạc hiến.
|
||
\v 2 Ngài cũng thấy một góa phụ nghèo chỉ dâng hai đồng tiền.
|
||
\v 3 Ngài nói: “Thật, Thầy cho anh em biết, bà góa này đã dâng hiến nhiều hơn tất cả những người khác.
|
||
\v 4 Mọi người đó lấy từ phần tiền dư ra của mình mà dâng. Còn góa phụ này, dù nghèo thiếu, đã dâng hết số tiền chị có để nuôi sống mình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi có mấy người trằm trồ về đền thờ, về những đá quý và lễ vật trang trí cho đền thờ, thì Ngài nói:
|
||
\v 6 “Sẽ có ngày những gì anh em thấy đây bị phá đổ hết, chẳng còn một hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Họ hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, khi nào những việc ấy sẽ xảy ra? Có những dấu hiệu nào để nhận biết rằng chúng sắp xảy ra không? ”
|
||
\v 8 Chúa Giê-xu đáp: “Anh em hãy cảnh giác để khỏi bị lừa dối. Vì nhiều người sẽ nhân danh Thầy đến mà nói rằng: ‘Ta chính là Ngài, ’ và ‘Kỳ tận thế đã gần. ’ Anh em đừng theo họ.
|
||
\v 9 Khi anh em nghe nói về chiến tranh và bạo động, thì đừng kinh hãi, vì những việc ấy phải xảy ra trước, còn ngày tận thế thì chưa đến ngay đâu.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Rồi Ngài nói với họ: “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân khác, nước này nghịch với nước kia.
|
||
\v 11 Sẽ có động đất lớn, và ở nhiều nơi, sẽ có đói kém, dịch bệnh. Sẽ có những biến cố kinh khiếp và những điềm lớn ở trên trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Nhưng trước khi tất cả mọi việc ấy xảy ra, anh em sẽ vì danh Thầy mà bị người ta ra tay bắt bớ; họ sẽ giao nộp anh em cho các nhà hội và khám đường, áp giải anh em đến trước mặt các vua và tổng đốc.
|
||
\v 13 Đó sẽ là cơ hội cho anh em làm chứng về Thầy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vì vậy, hãy dặn lòng đừng chuẩn bị trước để tự bào chữa,
|
||
\v 15 vì Thầy sẽ ban lời lẽ và sự khôn ngoan cho anh em để không một kẻ thù nào của anh em có thể chống lại hay phản bác được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Anh em cũng sẽ bị chính cha mẹ, anh em, bà con và bạn bè mình giao nộp, và họ sẽ giết chết một số người trong anh em.
|
||
\v 17 Anh em sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy.
|
||
\v 18 Nhưng một sợi tóc trên đầu anh em cũng không mất đâu.
|
||
\v 19 Nhờ kiên trì chịu đựng anh em sẽ giữ được linh hồn mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị binh lính bao vây, thì hãy biết rằng thành ấy sắp bị hủy phá.
|
||
\v 21 Khi đó, những ai đang ở trong xứ Giu-đê, hãy trốn lên núi, những người đang ở trong thành, hãy rời khỏi, còn những ai đang ở ngoài thành thì đừng vào thành.
|
||
\v 22 Vì đây sẽ là thời kỳ báo thù để cho mọi lời đã chép được ứng nghiệm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Trong những ngày ấy, khốn cho phụ nữ mang thai và những người đang cho con bú! Vì sẽ có đại họa trong xứ và cơn thịnh nộ giáng trên dân này.
|
||
\v 24 Họ sẽ ngã dưới lưỡi gươm và bị đày đến mọi quốc gia. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại bang giày đạp cho đến khi thời kỳ của các dân ngoại được trọn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Sẽ có các điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Còn ở dưới đất, các dân tộc sẽ sầu não, tuyệt vọng vì biển động sóng gào.
|
||
\v 26 Sẽ có những người ngất đi vì sợ hãi và vì phập phồng chờ đợi những tai họa sắp giáng xuống, bởi các quyền lực trên trời sẽ rúng động.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Rồi họ sẽ thấy Con Người ngự đến trong đám mây với quyền lực và vinh quang chói sáng.
|
||
\v 28 Nhưng khi những việc này bắt đầu xảy ra, hãy đứng dậy, ngẩng cao đầu, vì sự giải cứu của anh em đang đến gần.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Chúa Giê-xu lại kể cho họ một ẩn dụ: “Hãy xem cây vả và tất cả các cây khác.
|
||
\v 30 Khi nhìn thấy chúng nứt lộc, anh em biết rằng sắp đến mùa hạ.
|
||
\v 31 Cũng vậy, khi anh em thấy những việc này xảy ra, thì biết rằng vương quốc của Đức Chúa Trời đang đến gần.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Thật, Thầy nói để anh em biết, thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi tất cả những việc ấy xảy ra.
|
||
\v 33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ không bao giờ qua đi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Nhưng hãy cẩn thận giữ mình, đừng để lòng mình mê muội trong lối sống trụy lạc, say sưa cùng những lo lắng của đời này. Vì ngày ấy sẽ đến trong lúc anh em không ngờ,
|
||
\v 35 giống như bẫy sập xuống mọi người sống trên khắp mặt đất vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Hãy luôn tỉnh thức, cầu nguyện để anh em có đủ sức mà vượt qua tất cả những điều đó và được đứng trước mặt Con Người.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Ngài dạy dỗ cả ngày trong đền thờ; tối đến thì Ngài lên trên núi Ô-liu mà nghỉ đêm.
|
||
\v 38 Rồi sáng sớm hôm sau tất cả dân chúng lại đến đền thờ để nghe Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 22
|
||
\p
|
||
\v 1 Gần đến kỳ lễ Bánh Không Men, tức là lễ Vượt Qua,
|
||
\v 2 các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo bàn nhau tìm cách giết Chúa Giê-xu, vì họ sợ dân chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Sa-tan nhập vào Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ.
|
||
\v 4 Giu-đa đi bàn tính với các thầy tế lễ cả và các lãnh binh đền thờ về cách mà hắn có thể giao nộp Chúa Giê-xu cho họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Họ mừng lắm và đồng ý cho hắn tiền.
|
||
\v 6 Hắn ưng thuận và tìm cơ hội giao nộp Ngài cho họ lúc không có mặt dân chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Đến ngày lễ bánh không men, là ngày dâng chiên con lễ Vượt Qua làm sinh tế.
|
||
\v 8 Chúa Giê-xu sai Phi-e-rơ và Giăng đi, dặn rằng: “Hãy đi chuẩn bị bữa ăn lễ Vượt Qua cho chúng ta. ”
|
||
\v 9 Họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng tôi dọn bữa ăn ở đâu?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ngài đáp: “Hãy nghe đây, khi anh em vào thành, một người mang vò nước sẽ gặp anh em. Hãy đi theo người ấy vào nhà,
|
||
\v 11 và nói với chủ nhà: ‘Thầy hỏi ông: “Căn phòng khách nơi Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đồ ở đâu? ’”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Ông ấy sẽ chỉ cho anh em một căn phòng lớn có sẵn đồ đạc ở trên lầu. Hãy dọn bữa ăn tại đó. ”
|
||
\v 13 Vậy, hai người đi và thấy mọi việc xảy ra đúng y như Ngài đã n cho họ biết. Và họ chuẩn bị bữa ăn lễ Vượt Qua.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Đến giờ ăn, Chúa Giê-xu cùng ngồi vào bàn với các sứ đồ.
|
||
\v 15 Rồi Ngài nói với họ: “Thầy rất muốn được cùng ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ nạn.
|
||
\v 16 Vì, Thầy nói để anh em rõ, Thầy sẽ không ăn lễ Vượt Qua nào nữa cho đến khi lễ ấy được trọn trong vương quốc của Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Rồi Chúa Giê-xu lấy chén, tạ ơn và nói: “Hãy cầm lấy và cùng uống với nhau.
|
||
\v 18 Vì Thầy cho anh em biết, Thầy sẽ không uống trái nho này nữa cho đến khi vương quốc của Đức Chúa Trời đến.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Xong, Ngài lấy bánh, tạ ơn rồi bẻ ra và trao cho các môn đồ, mà nói rằng: “Đây là thân thể Thầy, vì anh em mà phó cho. Hãy làm điều này để nhớ Thầy. ”
|
||
\v 20 Cũng cùng một cách ấy, sau khi ăn xong, Ngài lấy chén và nói: “Chén này là giao ước mới trong huyết Thầy, đã vì anh em mà đổ ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Nhưng hãy lưu ý, kẻ phản Thầy đang ngồi chung bàn với Thầy.
|
||
\v 22 Vì quả là Con Người sẽ đi con đường đã định. Nhưng khốn cho kẻ phản Ngài! ”
|
||
\v 23 Các sứ đồ bắt đầu hỏi nhau xem trong bọn mình ai là kẻ sẽ làm việc ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau đó, các sứ đồ lại tranh cãi xem ai được xem là lớn hơn cả trong số họ.
|
||
\v 25 Chúa Giê-xu nói với họ: “Vua của các dân ngoại bang dùng quyền lực mà cai trị, và những người vận dụng thẩm quyền trên dân chúng thì được gọi là các bậc lãnh đạo đáng kính.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Nhưng với anh em thì không như vậy. Người lớn nhất trong anh em phải trở nên như người nhỏ nhất. Và người quan trọng nhất phải trở nên như người phục vụ.
|
||
\v 27 Người ngồi trên bàn và người phục vụ, ai lớn hơn? Chẳng phải là người ngồi trên bàn sao? Nhưng Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Anh em là những người đã kiên định theo Thầy trong những thử thách mà Thầy chịu.
|
||
\v 29 Thầy ban vương quốc cho anh em, như Cha đã ban vương quốc cho Thầy,
|
||
\v 30 để anh em có thể ngồi đồng bàn cùng ăn uống với Thầy trong vương quốc của Thầy. Anh em sẽ ngồi trên ngai mà xét xử mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Này, Si-môn, hãy cẩn thận, Sa-tan đã đòi sàng sảy anh như lúa mì.
|
||
\v 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh không mất đức tin. Vậy, khi anh đã quay trở lại, hãy khích lệ các anh em mình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, tôi sẵn sàng đồng tù đồng chết với Ngài. ”
|
||
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Phi-e-rơ, Thầy nói cho anh biết, hôm nay trước khi gà gáy, anh sẽ ba lần chối không biết Thầy.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Rồi Chúa Giê-xu nói với họ: “Khi Thầy sai anh em đi mà không đem theo túi tiền, bao bị hay giày dép, anh em có thiếu thốn gì không? ” Họ thưa: “Không thiếu gì cả. ”
|
||
\v 36 Ngài nói tiếp: “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền, bao bị, hãy đem theo mình. Ai chưa có gươm, hãy bán áo ngoài đi mà mua.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 37 Vì Thầy cho anh em biết rằng những lời này đang được ứng nghiệm: ‘Và Ngài đã bị kể vào hàng kẻ vô luật pháp. ’ Vì những lời tiên tri đã chép về Thầy đang được ứng nghiệm. ”
|
||
\v 38 Họ thưa: “Lạy Chúa, nhìn này, ở đây có hai thanh gươm. ” Ngài nói với họ: “Như vậy đủ rồi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Sau khi dùng bữa xong, như thường lệ, Chúa Giê-xu đến núi Ô liu, có các môn đồ đi theo.
|
||
\v 40 Đến nơi, Ngài nói với họ: “Hãy cầu nguyện để anh em không sa vào sự cám dỗ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Ngài đi khỏi chỗ họ một khoảng cỡ chừng ném một hòn đá, quỳ gối xuống và cầu nguyện rằng:
|
||
\v 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này khỏi Con. Nhưng xin ý Cha được nên, chứ không phải ý Con.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Có một thiên sứ từ trời hiện ra thêm sức cho Ngài.
|
||
\v 44 Trong sự đau đớn tột cùng, Ngài cầu nguyện càng khẩn thiết hơn, mồ hôi Ngài như những giọt máu lớn rơi xuống đất.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Cầu nguyện xong, Ngài đứng dậy đi đến chỗ các môn đồ thì thấy họ đang ngủ vì buồn phiền.
|
||
\v 46 Ngài hỏi họ: “Sao anh em lại ngủ? Hãy dậy và cầu nguyện để anh em không sa vào sự cám dỗ.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Khi Ngài còn đang nói, có một đám đông xuất hiện, do Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, dẫn đầu. Hắn đến gần Chúa Giê-xu để hôn Ngài.
|
||
\v 48 Nhưng Ngài nói với hắn: “Giu-đa, anh định phản Con Người bằng một cái hôn sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 49 Những môn đệ có mặt với Chúa chứng kiến việc xảy ra liền thưa với Ngài: “Lạy Chúa, chúng tôi có nên dùng gươm đánh không? ”
|
||
\v 50 Nói rồi, một người trong đám họ chém đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm, cắt đứt tai phải của anh ta.
|
||
\v 51 Chúa Giê-xu nói: “Đủ rồi. ” Ngài sờ tai người đầy tớ và chữa lành cho anh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 Chúa Giê-xu nói với các thầy tế lễ cả, các lãnh binh đền thờ, cùng các trưởng lão đã đến bắt Ngài, rằng: “Các ông đem gươm và gậy đến bắt tôi như bắt một tên cướp sao?
|
||
\v 53 Hằng ngày tôi ở giữa các ông trong đền thờ thì các ông không ra tay. Nhưng đây là giờ của các ông và của thế lực tối tăm.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Họ bắt Ngài, dẫn đi và giải vào nhà của thầy tế lễ thượng phẩm. Còn Phi-e-rơ thì theo Ngài xa xa.
|
||
\v 55 Khi họ đã đốt một đống lửa ở giữa sân và ngồi lại với nhau, Phi-e-rơ đến ngồi chung với họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 56 Qua ánh lửa, một người đầy tớ gái thấy Phi-e-rơ thì nhìn ngay vào ông và nói: “Người này cùng bọn với ông ấy. ”
|
||
\v 57 Nhưng Phi-e-rơ chối rằng: “Này bà, tôi có biết ông ta đâu. ”
|
||
\v 58 Một lúc sau, có một người khác thấy ông và nói: “Anh cũng là một người trong đám họ. ” Nhưng Phi-e-rơ chối, rằng: Không phải vậy đâu, ông ơi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 59 Khoảng một giờ sau, một người khác lại khẳng định rằng: “Đúng là người này cùng bọn với ông ta, vì cũng là dân Ga-li-lê. ”
|
||
\v 60 Nhưng Phi-e-rơ nói: “Anh kia, tôi không biết anh đang nói gì. ” Ngay khi ông còn đang nói, thì gà gáy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 61 Chúa quay lại nhìn Phi-e-rơ, ông nhớ lại lời Ngài đã nói với mình rằng: “Hôm nay, trước khi gà gáy, anh sẽ chối Thầy ba lần. ”
|
||
\v 62 Phi-e-rơ đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 63 Rồi những kẻ canh giữ Chúa Giê-xu nhạo báng và đánh đập Ngài.
|
||
\v 64 Họ bịt mắt Ngài lại rồi hỏi Ngài rằng: “Hãy đoán đi, xem ai đã đánh ngươi? ”
|
||
\v 65 Họ dùng nhiều lời khác nhục mạ và phỉ báng Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 66 Đầu buổi sáng, các trưởng lão trong dân chúng nhóm nhau lại cùng với các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo. Họ giải Ngài lên Hội đồng Công luận
|
||
\v 67 và nói rằng: “Nếu anh là Chúa Cứu Thế thì hãy cho chúng tôi biết. ” Nhưng Ngài nói với họ: “Nếu tôi nói, các ông sẽ không tin,
|
||
\v 68 còn nếu tôi hỏi thì các ông sẽ không trả lời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 69 Nhưng từ giờ trở đi, Con Người sẽ ngồi bên tay phải quyền năng của Đức Chúa Trời. ”
|
||
\v 70 Mọi người hỏi lại: “Vậy anh có phải là Con Đức Chúa Trời không? ” Chúa Giê-xu đáp: “Các ông nói như vậy. ”
|
||
\v 71 Họ bảo: “Chúng ta còn cần nhân chứng làm gì nữa? Chính chúng ta đã nghe miệng hắn nói ra.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 23
|
||
\p
|
||
\v 1 Cả hội đồng đứng dậy, áp giải Chúa Giê-xu đến trước mặt Phi-lát.
|
||
\v 2 Họ bắt đầu tố cáo Ngài, rằng: “Chúng tôi phát hiện người này đầu độc dân tộc chúng tôi, ngăn họ đóng thuế cho Sê-sa, và tự xưng là Chúa Cứu Thế, là vua.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Phi-lát hỏi Ngài rằng: “Có phải anh là Vua của người Do Thái không? ” Chúa Giê-xu đáp: “Chính ngài nói như vậy. ”
|
||
\v 4 Phi-lát nói với các thầy tế lễ cả và đám đông rằng: “Tôi không thấy người này có tội gì cả. ”
|
||
\v 5 Nhưng họ cứ khăng khăng nói rằng: “Hắn xui giục dân chúng làm loạn, giảng dạy khắp xứ Giu-đê, khởi đầu từ miền Ga-li-lê cho đến tận nơi này.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Nghe như vậy, Phi-lát hỏi xem Ngài có phải là dân Ga-li-lê không.
|
||
\v 7 Khi biết được Ngài thuộc thẩm quyền của Hê-rốt, ông ta liền giao Ngài cho Hê-rốt, lúc ấy cũng đang ở Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hê-rốt thấy Chúa Giê-xu thì mừng lắm vì từ lâu vua đã muốn gặp Ngài. Vua nghe nói về Ngài, và hi vọng được thấy Ngài làm phép lạ.
|
||
\v 9 Hê-rốt hỏi Chúa Giê-xu nhiều điều, nhưng Ngài không đáp lại lời nào.
|
||
\v 10 Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo đứng đó hùa nhau cáo tội Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Hê-rốt và quân lính của ông ta thì lăng mạ, nhạo báng Ngài, mặc đồ sặc sỡ cho Ngài, rồi ctrao trả Ngài cho Phi-lát.
|
||
\v 12 Trong chính ngày ấy, Hê-rốt và Phi-lát trở thành bạn (dù trước đó họ là kẻ thù của nhau).
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Rồi Phi-lát triệu tập các thầy tế lễ cả, các quan chức và dân chúng lại,
|
||
\v 14 mà nói với họ: “Các ông đem người này đến đây và cáo anh ta cầm đầu dân chúng làm loạn, nhưng này, sau khi hỏi tra anh ta trước mặt các ông, tôi không thấy anh ta phạm một tội nào trong những tội mà các ông đã cáo buộc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Cả Hê-rốt cũng vậy, vì vua đã giao anh lại cho chúng tôi, vì thấy anh chẳng làm điều gì đáng chết cả.
|
||
\v 16 Cho nên, tôi sẽ cho đánh phạt anh ta, rồi thả ra. ”
|
||
\v 17 \f + \ft Các bản cổ xưa đáng tin cậy nhất không có Lu-ca 23: 17, \fqa Số là Phi-lát phải thả một tù nhân cho người người Do Thái trong dịp lễ \fqa* . \f*
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Nhưng họ đồng thanh kêu lên rằng: “Hãy giết người này đi và tha Ba-ra-ba cho chúng tôi! ”
|
||
\v 19 Ba-ra-ba là kẻ bị bắt giam vì tham gia một cuộc dấy loạn trong thành phố và vì tội giết người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Phi-lát muốn tha Chúa Giê-xu nên ông ta lại nói với họ.
|
||
\v 21 Nhưng họ kêu lên: “Đóng đinh hắn trên cây thập tự! Đóng đinh hắn trên cây thập tự! ”
|
||
\v 22 Phi-lát nói với họ đến lần thứ ba rằng: “Nhưng tại sao chứ, anh ta đã làm gì sai? Ta chẳng thấy anh ta phạm tội gì đáng chết. Cho nên, đánh đòn xong tôi sẽ phóng thích anh ta.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Nhưng họ cứ lớn tiếng khăng khăng đòi phải đóng đinh Chúa Giê-xu. Và tiếng của họ đã thắng.
|
||
\v 24 Ông quyết định làm theo yêu cầu của họ.
|
||
\v 25 Ông tha tên tù mà họ đã xin, tức là kẻ đã bị bắt vì tội nổi loạn và giết người, rồi giao Chúa Giê-xu cho để họ mặc ý.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Khi giải Ngài đi, họ bắt Si-môn người Sy-ren, đang từ dưới quê lên, vác cây thập tự đi theo Chúa Giê-xu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Một đoàn dân đông theo sau Ngài, trong đó có một số phụ nữ than khóc cho Ngài.
|
||
\v 28 Nhưng Chúa Giê-xu quay nhìn họ và nói: “Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, đừng khóc về tôi, mà hãy khóc cho chính các chị và con cái các chị.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Vì sẽ có ngày người ta nói rằng: ‘Phước cho phụ nữ hiếm muộn, người không sanh đẻ, kẻ không cho con bú. ’
|
||
\v 30 Khi ấy người ta sẽ nói với núi rằng: ‘Hãy đổ xuống trên chúng tôi, ’ và nói với đồi rằng: ‘Hãy che phủ chúng tôi. ’
|
||
\v 31 Vì nếu họ đối xử với cây còn xanh như thế này, thì khi cây khô đi sẽ ra sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Cũng có những người khác, là hai tên tội phạm, bị áp giải chung với Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Đến một nơi gọi là Cái Sọ, họ đóng đinh Ngài và hai tên tội phạm vào cây thập tự, một tên bên phải và một tên bên trái Ngài.
|
||
\v 34 Chúa Giê-xu nói: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết mình đang làm gì. ” Còn họ thì bắt thăm chia nhau áo choàng của Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 35 Dân chúng đứng xem trong khi những người lãnh đạo chế giễu Ngài rằng: “Hắn đã cứu người khác thì cứ để hắn tự cứu mình đi, nếu hắn là Đấng Cứu Thế, là người được chọn của Đức Chúa Trời.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Bọn lính cũng giễu cợt Ngài, lại gần đưa dấm cho Ngài uống,
|
||
\v 37 và nói: “Nếu mày là Vua dân Do Thái thì hãy tự cứu mình xem nào. ”
|
||
\v 38 Phía trên đầu Ngài cũng có treo một tấm bảng nhỏ, ghi: “ĐÂY LÀ VUA DÂN DO THÁI.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Một trong hai tên tội phạm bị đóng đinh cũng sỉ nhục Ngài rằng: “Ông không phải Chúa Cứu Thế sao? Hãy tự cứu mình và cả chúng tôi nữa. ”
|
||
\v 40 Nhưng tên kia trách nó mà rằng: “Mày đã chịu cùng một bản án mà còn không biết sợ Đức Chúa Trời sao?
|
||
\v 41 Chúng ta chịu thế này là đáng lắm vì hình phạt này xứng với việc chúng ta đã làm. Nhưng người này đâu có phạm tội gì.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Rồi anh tiếp: “Lạy Giê-xu, khi Ngài vào trong vương quốc mình rồi, xin nhớ đến tôi. ”
|
||
\v 43 Chúa Giê-xu đáp: “Thật, tôi nói để anh biết, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trong Ba-ra-đi.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 44 Lúc ấy, khoảng vào giờ thứ sáu, bóng tối bao trùm khắp xứ cho đến giờ thứ chín,
|
||
\v 45 vì không có ánh sáng mặt trời. Rồi bức màn trong đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Chúa Giê-xu kêu lớn lên rằng: “Lạy Cha, Con giao linh hồn Con trong tay Cha. ” Nói xong thì Ngài chết.
|
||
\v 47 Khi viên đội trưởng thấy việc xảy ra, ông tôn vinh Đức Chúa Trời, rằng: “Đây thật là một người công bình.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 Cả đoàn dân đã tụ tập để chứng kiến các diễn tiến thì đấm ngực mà trở về.
|
||
\v 49 Còn mọi người thân quen của Ngài và những phụ nữ đã đi theo Ngài từ Ga-li-lê, thì đứng ở đằng xa chứng kiến những việc ấy theo dõi mọi việc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 50 Có một thành viên Hội đồng Công luận, tên Giô-sép, là người công bình,
|
||
\v 51 (ông không đồng ý với quyết định và hành động của họ) quê ở thành A-ri-ma-thê của người Do Thái, cũng là người đang trông đợi vương quốc của Đức Chúa Trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 Giô-sép đến gặp Phi-lát để xin xác Chúa Giê-xu.
|
||
\v 53 Ông hạ xác Ngài xuống, khâm liệm bằng vải gai, và an táng Ngài trong một phần mộ được đục trong đá, là nơi chưa chôn cất ai.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 54 Lúc ấy là ngày Chuẩn bị, và ngày Sa-bát đang đến gần.
|
||
\v 55 Các phụ nữ đã cùng đi với Ngài từ Ga-li-lê theo sau những người đó, nhìn thấy phần mộ và cách người ta an táng xác Ngài.
|
||
\v 56 Họ trở về, chuẩn bị hương liệu và dầu thơm. Vào ngày Sa-bát, họ nghỉ ngơi theo luật định.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 24
|
||
\p
|
||
\v 1 Tờ mờ sáng ngày đầu tuần, những người phụ nữ này đem theo hương liệu đã chuẩn bị đến mộ.
|
||
\v 2 Họ thấy tảng đá trước mộ đã được lăn đi.
|
||
\v 3 Họ vào bên trong nhưng không thấy xác Chúa Giê-xu đâu cả.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Trong khi họ còn đang bối rối thì bất ngờ có hai người nam mặc y phục sáng chói đứng bên cạnh họ.
|
||
\v 5 Họ sợ hãi và sấp mặt xuống đất, thì hai người nam nói với họ: “Sao các chị tìm người sống giữa vòng kẻ chết?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi! Hãy nhớ lại những lời Ngài đã nói với các chị khi còn ở Ga-li-lê,
|
||
\v 7 rằng Con Người phải bị nộp vào tay những người tội lỗi, phải bị đóng đinh trên cây thập tự, và đến ngày thứ ba, phải sống lại.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Các phụ nữ đó nhớ lại lời Ngài,
|
||
\v 9 liền từ mộ trở về và thuật lại mọi chuyện cho mười một sứ đồ cùng những người khác.
|
||
\v 10 Ma-ri Ma-đơ-len, Gian-nơ, Ma-ri mẹ Gia-cơ và các phụ nữ cùng đi với họ, là những người đã thuật lại cho các sứ đồ những việc ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Các sứ đồ không tin lời họ vì cho là ngớ ngẩn.
|
||
\v 12 Nhưng Phi-e-rơ đứng dậy, chạy đến mộ, cúi xuống nhìn vào trong, và chỉ thấy những tấm vải liệm. Rồi Phi-e-rơ trở về nhà mình, tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Trong chính ngày hôm ấy, có hai môn đồ đang trên đường đến làng Em-ma-út, cách Giê-ru-sa-lem chừng sáu mươi ếch-ta-đơ.
|
||
\v 14 Họ bàn luận với nhau về mọi việc đã xảy ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Trong khi họ cùng bàn luận và tỏ ra ngờ vực, thì Chúa Giê-xu đến gần và đồng đi với họ.
|
||
\v 16 Nhưng mắt họ bị che khuất nên không nhận ra Ngài.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Chúa Giê-xu nói với họ: “Hai anh đi đường mà lại nói chuyện gì thế? ” Họ dừng lại với vẻ buồn bã.
|
||
\v 18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-ba trả lời: “Chắc ông là người duy nhất ở Giê-ru-sa-lem không biết những chuyện đã xảy ra mấy ngày qua quá?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Chúa Giê-xu hỏi: “Chuyện gì kia? ” Họ trả lời: “Chuyện về Giê-xu người Na-xa-rét, một tiên tri đầy quyền năng trong việc làm lẫn lời nói trước mặt Đức Chúa Trời và cả dân chúng.
|
||
\v 20 Vậy mà các thầy tế lễ cả và những người lãnh đạo của chúng ta đã nộp Ngài để chịu kết án tử hình và đóng đinh trên thập tự giá.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Chúng tôi đã từng hi vọng rằng Ngài là Đấng sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên. Nhưng giờ thì những việc ấy cũng đã xảy ra cách đây ba ngày rồi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Thế nhưng sáng sớm hôm nay một số phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã khiến chúng tôi kinh ngạc sau khi đi thăm mộ trở về.
|
||
\v 23 Họ nói rằng khi đến nơi họ chẳng thấy xác Ngài đâu, rồi còn bảo là đã thấy các thiên sứ hiện ra nói rằng Ngài đang sống.
|
||
\v 24 Có mấy người trong chúng tôi chạy ra mộ và thấy mọi việc đúng như lời các bà ấy nói. Nhưng không thấy Ngài đâu cả.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Chúa Giê-xu nói với họ: “Này mấy người dại dột và có lòng chậm tin mọi điều các tiên tri đã nói!
|
||
\v 26 Chẳng phải Chúa Cứu Thế phải chịu những điều đó để bước vào vinh quang của Ngài sao? ”
|
||
\v 27 Rồi Chúa Giê-xu giải thích cho họ những điều đã chép về Ngài trong cả Kinh Thánh, từ Môi-se cho đến tất cả các nhà tiên tri.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Khi đến gần làng nơi họ định đi thi Chúa Giê-xu làm như thể muốn đi xa hơn.
|
||
\v 29 Nhưng họ nài nỉ Ngài rằng: “Xin ở lại với chúng tôi, vì trời đã gần tối và ngày sắp hết. ” Vậy là Chúa Giê-xu vào ở lại với họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Khi đã ngồi xuống để cùng ăn với họ, Ngài lấy bánh, chúc phước và bẻ ra rồi phát cho họ.
|
||
\v 31 Lúc ấy, mắt hai người mở ra và biết đó là Ngài, nhưng Ngài biến đi mất.
|
||
\v 32 Họ nói với nhau: “Chẳng phải lòng chúng ta bùng cháy khi Ngài trò chuyện và giải nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta trên đường đi sao?”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy và trở về Giê-ru-sa-lem. Họ gặp mười một sứ đồ đang nhóm lại, cùng những người khác,
|
||
\v 34 báo cho hai người biết: “Chúa đã sống lại thật rồi, Ngài đã hiện ra với Si-môn. ”
|
||
\v 35 Rồi hai người thuật lại mọi chuyện đã xảy ra trên đường đi, và thế nào họ đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Khi họ còn đang nói, Chúa Giê-xu hiện ra ở giữa họ, Ngài nói: “Bình an cho anh em. ”
|
||
\v 37 Nhưng họ lại kinh khiếp và sợ hãi, cứ tưởng là thấy thần linh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Chúa Giê-xu nói với họ: “Sao anh em bối rối? Sao anh em nghi ngờ trong lòng?
|
||
\v 39 Hãy xem tay và chân của Thầy, chính là Thầy đây. Hãy chạm vào Thầy mà xem. Vì thần linh thì không có thịt xương, còn Thầy thì có. ”
|
||
\v 40 Nói xong, Ngài cho họ xem tay và chân mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 Trong lúc họ chưa dám tin vì quá vui mừng và kinh ngạc, thì Chúa Giê-xu nói với họ: “Anh em có gì ăn không? ”
|
||
\v 42 Họ đem cho Ngài một miếng cá nướng.
|
||
\v 43 Chúa Giê-xu cầm lấy và ăn trước mặt họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 44 Ngài nói với họ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã nói rằng tất cả những điều đã chép trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri và các Thi Thiên đều phải được ứng nghiệm.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Rồi Ngài mở tâm trí họ để họ hiểu Kinh Thánh.
|
||
\v 46 Ngài nói với họ: “Lời chép thế này: Chúa Cứu Thế phải chịu thương khó, đến ngày thứ ba phải từ cõi chết sống lại.
|
||
\v 47 Người ta phải nhân danh Ngài rao giảng về sự ăn năn và tha tội cho tất cả các nước, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 Anh em là nhân chứng về những việc này.
|
||
\v 49 Thầy sẽ ban cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Nhưng hãy chờ đợi trong thành cho đến khi anh em được mặc lấy quyền năng từ trên cao.”
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 50 Sau đó, Chúa Giê-xu dẫn các môn đồ ra ngoài thành, đến gần làng Bê-tha-ny. Ngài giơ tay lên ban phước cho họ.
|
||
\v 51 Trong khi ban phước, Ngài lìa các môn đồ và được đem lên trời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 Các môn đồ thờ lạy Ngài và vui mừng trở về Giê-ru-sa-lem.
|
||
\v 53 Họ cứ ở trong đền thờ, chúc tụng Đức Chúa Trời.
|