1330 lines
133 KiB
Plaintext
1330 lines
133 KiB
Plaintext
\id JOS
|
|
\ide UTF-8
|
|
\h GIÔ-SUÊ
|
|
\toc1 GIÔ-SUÊ
|
|
\toc2 GIÔ-SUÊ
|
|
\toc3 jos
|
|
\mt GIÔ-SUÊ
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 1
|
|
\p
|
|
\v 1 Chuyện xảy ra sau cái chết của Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, Ngài phán cùng Giô-suê con trai Nun, là phụ tá chính của Môi-se như sau:
|
|
\v 2 "Môi-se, tôi tớ của Ta đã chết. Vì lẽ đó, hãy chổi dậy, hãy băng qua sông Giô-đanh nầy, con và hết thảy dân nầy, vào trong đất mà ta sẽ ban cho họ — ban cho dân Do thái.
|
|
\v 3 Ta ban cho các con từng chỗ mà bàn chơn các con sẽ đặt đến. Ta ban xứ ấy cho các con, y như đã đã hứa với Môi-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Từ đồng vắng và Li-ban, đến sông lớn kia, là sông Ơ-phơ-rát, hết thảy đất của dân Hê-tít, và cho đến Biển Lớn, nơi mặt trời lặn, sẽ là đất của các con.
|
|
\v 5 Không một ai sẽ đứng được trước mặt con trọn đời sống con. Ta sẽ ở với con như Ta đã ở với Môi-se. Ta sẽ không bỏ hay lìa con.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Con sẽ khiến cho dân nầy hưởng lấy đất đai mà Ta đã hứa với các tổ phụ mà Ta sẽ ban cho họ.
|
|
\v 7 Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Phải cẩn thận vâng theo mọi luật lệ mà Môi-se tôi tớ Ta đã truyền cho các con. Đừng xây qua bên hữu hay bên tả, hầu cho con sẽ được thành công bất cứ đâu con đi tới.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Con sẽ luôn luôn nói tới quyển sách luật pháp nầy. Con sẽ suy gẫm sách ấy ngày và đêm hầu cho con có thể vâng theo mọi điều đã chép trong sách ấy. Khi đó con sẽ được thịnh vượng và thành công.
|
|
\v 9 Há ta không có bảo con sao? Hãy mạnh mẽ và can đảm lên! Đừng sợ chi cả. Chớ có ngã lòng. Giê-hô-va Đức Chúa Trời con ở với con bất cứ đâu con đi đến.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Khi ấy Giô-suê truyền cho các cấp lãnh đạo của dân sự:
|
|
\v 11 "Hãy đi khắp trại quân và truyền cho dân sự: 'Hãy sửa soạn mọi thứ cho bản thân mình. Trong ba ngày anh em sẽ băng qua sông Giô-đanh nầy, bước vào và chiếm lấy xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban cho anh em chiếm lấy"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Đối với chi phái Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se, `Giô-suê nói:
|
|
\v 13 "Hãy nhớ đến lời lẽ mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền cho anh em khi người nói: 'Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ ban cho anh em sự yên nghỉ, và Ngài sẽ ban cho anh em đất nầy.'
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Vợ của anh em, con nhỏ của anh em, và bầy gia súc của anh em sẽ ở lại trong xứ mà Môi-se đã ban cho anh em ở bên kia sông Giô-đanh. Nhưng các chiến sĩ của anh em sẽ đi cùng với anh em đó và giúp đỡ họ
|
|
\v 15 cho tới chừng nào Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em đó yên nghỉ giống như Ngài đã ban sự yên nghỉ đó cho anh em vậy. Và họ cũng sẽ chiếm lấy xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em ban cho họ. Khi ấy anh em sẽ trở về với đất đai riêng của mình và làm chủ nó, là đất đai mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em bên kia sông Giô-đanh, nơi mặt trời mọc lên"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Và họ đáp cùng Giô-suê như sau: "Mọi sự mà ông truyền cho chúng tôi, chúng tôi sẽ làm theo, và bất cứ đâu ông sai phái chúng tôi, chúng tôi sẽ đi ngay.
|
|
\v 17 Chúng tôi sẽ vâng theo ông y như chúng tôi đã vâng theo Môi-se. Duy nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông ở cùng ông, y như Ngài đã ở với Môi-se vậy.
|
|
\v 18 Kẻ nào loạn nghịch chống lại lệnh của ông và bất tuân lời lẽ của ông sẽ bị án tử hình. Nguyện ông cứ mạnh mẽ và đầy lòng can đảm".
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 2
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy Giô-suê, con của Nun sai hai người từ Si-tim đi dọ thám cách kín đáo. Ông nói: "Hãy đi, quan sát cả xứ, đặc biệt tại thành Giê-ri-cô". Họ bèn ra đi rồi đến tại nhà của một gái điếm có tên là Raháp, và họ trú ở đó.
|
|
\v 2 Người ta học lại với Vua thành Giê-ri-cô: "Hãy coi chừng, người của Y-sơ-ra-ên đã đến đây do thám xứ sở đấy".
|
|
\v 3 Vua thành Giê-ri-cô gửi lời đến Ra-háp như sau: "Hãy trục xuất hai người đến trong nhà cô, vì họ đến do thám cả xứ".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Nhưng người nữ nầy đã đem hai người đi giấu. Nàng nói: "Phải, họ đã đến với tôi, nhưng tôi không biết họ đến từ đâu.
|
|
\v 5 Họ đã rời khỏi đây khi trời tối, lúc cổng thành đóng lại. Tôi không biết họ đi đâu. Có lẽ Vua sẽ bắt được họ nếu Ngài mau mau đuổi theo".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Nhưng nàng đã đưa họ lên mái nhà rồi giấu họ dưới những cọng gai mà nàng đã chứa trên mái nhà.
|
|
\v 7 Vậy, binh lính đuổi theo họ trên đường dẫn tới các tiền đồn dọc theo sông Giô-đanh. Và hai cổng thành đóng lại khi quân truy đuổi đã ra khỏi thành.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Hai người chưa chợp giấc lúc đêm xuống, thì nàng leo lên mái nhà gặp họ.
|
|
\v 9 Nàng nói: "Tôi biết rõ Đức Giê-hô-va đã ban xứ cho các ông và nỗi lo sợ về các ông đang phủ lấy chúng tôi. Hết thảy những ai đang sống trong xứ đều nao sờn trước mặt các ông.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Chúng tôi đã nghe nói thể nào Đức Giê-hô-va đã làm cạn khô Biển Sậy cho các ông khi các ông ra khỏi xứ Ai-cập. Và chúng tôi có nghe biết mọi điều các ông đã làm cho hai vua xứ A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh — Si-hôn và Óc — các ông đã tiêu diệt họ.
|
|
\v 11 Không lâu sau khi chúng tôi nghe được việc ấy, lòng chúng tôi nhụt đi và chẳng có chút can đảm nào nơi mọi người — vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ông, Ngài là Đức Chúa Trời ở trên trời và dưới đất thấp nầy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Cho nên, nhơn Đức Giê-hô-va làm ơn thề với tôi rằng, một khi tôi tử tế với các ông, các ông cũng sẽ đãi tử tế với nhà cha của tôi. Xin ban cho tôi một dấu chắc chắn
|
|
\v 13 rằng các ông sẽ tha mạng cho cha, mẹ, anh chị em, và hết thảy gia đình tôi, và các ông sẽ cứu tôi khỏi chết".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Hai người nói với nàng: "Mạng chúng tôi đổi lấy mạng các người, ngay cả với cái chết! Nếu cô không nói tới công việc của chúng tôi, thế thì, khi Đức Giê-hô-va ban cho chúng tôi xứ nầy chúng tôi sẽ tỏ ra sự thương xót và thành tín với cô"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Rồi nàng dòng họ xuống qua cánh cửa sổ bằng một sợi dây. Ngôi nhà trong đó nàng sinh sống được xây dựng trên bức tường của thành phố.
|
|
\v 16 Nàng nói với họ: "Hãy vào vùng núi, ẩn mình đi hoặc quân truy đuổi kia sẽ tìm gặp các ông. Hãy trốn ở đó trong ba ngày cho tới khi quân truy đuổi trở về. Khi ấy, hãy tiếp tục đi đường của các ông"
|
|
\v 17 Hai người nói với nàng rằng: "Chúng ta sẽ không bị ràng buộc với các lời hứa trong lời thề mà cô buộc chúng ta phải thề, nếu cô không làm theo điều nầy:
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Khi chúng tôi vào trong xứ, cô phải buộc sợi dây màu đỏ điều nơi cánh cửa sổ mà cô đã dòng bọn ta xuống, còn cô sẽ lo tập trung nhà cha mẹ cô, anh em cô và hết thảy nhà cha cô.
|
|
\v 19 Hễ ai bước ra đường khỏi cửa nhà cô, huyết của họ sẽ ở lại trên đầu họ, còn chúng ta vô tội. Nhưng nếu tay tra vào bất kỳ ai ở với cô trong nhà, huyết của người ấy sẽ đổ trên đầu chúng tôi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Còn nếu cô nói ra mọi công việc của chúng tôi, khi ấy chúng tôi sẽ không bị ràng buộc với lời hứa mà chúng tôi đã thề với cô, lời hứa mà cô bắt chúng tôi thề"
|
|
\v 21 Ra-háp đáp: "Nguyện những gì hai ông nói sẽ được nên". Nàng để cho hai người đi và họ bèn rời đi. Khi ấy nàng buộc sợi dây màu đỏ điều nơi cánh cửa sổ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Họ rời đi, vào miền núi ở đó ba ngày cho tới khi quân truy đuổi đã trở về. Quân ấy đã rà soát dọc theo con đường mà chẳng gặp được ai.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 23 Hai người băng qua sông trở về gặp Giô-suê con trai Nun, rồi họ tường thuật lại mọi điều đã xảy ra cho họ.
|
|
\v 24 Họ nói với Giô-suê: "Quả thực Đức Giê-hô-va đã ban xứ nầy cho chúng ta. Mọi dân cư trong xứ đều nhụt chí vì cớ chúng ta.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 3
|
|
\p
|
|
\v 1 Giô-suê dậy sớm lúc ban mai, rồi họ đi ra từ Si-tim. Họ đến sông Giô-đanh, ông và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, họ đóng trại ở đó trước khi qua sông.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Sau ba ngày, các quan trưởng bước vào giữa trại quân;
|
|
\v 3 họ truyền cho dân sự: "Khi anh em nhìn thấy hòm giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, và các thầy tế lễ người Lê-vi khiêng hòm ấy, anh em phải rời khỏi chỗ nầy và bước theo hòm ấy.
|
|
\v 4 Phải có một khoảng cách giữa anh em và hòm ấy khoảng hai ngàn cubits (cubit = đơn vị đo chiều dài bằng 45, 7 cm, như vậy 2. 000 cubit = 45, 7 cm x 2. 000 = 91. 400cm = 914m). Đừng đến gần chiếc hòm, để anh em có thể thấy con đường phải đi, một khi anh em chưa đi đường nầy trước đây bao giờ".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Giô-suê nói cùng dân sự: "Ngày mai hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va sẽ làm nhiều dấu kỳ phép lạ giữa vòng anh em ".
|
|
\v 6 Tiếp đến, Giô-suê nói cùng dòng thầy tế lễ: "Hãy khiêng lấy hòm giao ước, rồi đi đàng trước dân sự". Thế là họ nhấc hòm giao ước lên và khiêng đi đàng trước dân sự.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Ngày nay Ta sẽ làm cho con thành một nhân vật cao trọng trong mắt của mọi người Do thái. Họ sẽ nhận biết rằng ta sẽ ở cùng con y như ta đã ở cùng Môi-se vậy.
|
|
\v 8 Con sẽ truyền cho các thầy tế lễ nào khiêng hòm giao ước: 'Khi anh em đến mé sông Giô-đanh, anh em phải đứng lại trong dòng sông Giô-đanh".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Khi ấy Giô-suê nói với dân Y-sơ-ra-ên: "Hãy đến đây, và lắng nghe lời của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
|
|
\v 10 Bởi điều nầy anh em sẽ biết rằng Đức Chúa Trời hằng sống đang ở giữa anh em và sẽ trục xuất khỏi trước mặt anh em dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Hê-vít, dân Phê-rê-sít, dân Ghi-rê-ga-sít, dân A-mô-rít, và dân Giê-bu-sít.
|
|
\v 11 Hãy xem đi! Hòm giao ước của Chúa cả thế gian qua sông trước mặt anh em trong dòng sông Giô-đanh.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Bây giờ, hãy chọn mười hai người từ các chi phái Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái một người.
|
|
\v 13 Khi gót chân dòng thầy tế lễ đang khiêng hòm giao ước, chạm mặt nước sông Giô-đanh, nước của sông Giô-đanh sẽ bị chia ra, và thậm chí nước tràn xuống từ nguồn sẽ thôi không chảy tràn nữa và chúng dồn lại thành một đống"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Vậy, khi dân sự dàn ra đặng qua bên kia sông, các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đi ở đàng trước dân sự.
|
|
\v 15 Ngay khi những người khiêng hòm giao ước đã đến bên sông Giô-đanh, và bàn chân của những người khiêng hòm giao ước vừa chạm mé nước (lúc bấy giờ dòng sông Giô-đanh đang chảy tràn hai bên bờ trong suốt mùa gặt),
|
|
\v 16 nước tràn xuống từ nguồn dựng đứng lên thành một đống. Nước thôi không chảy tràn từ một khoảng xa xa. Nước thôi chảy tràn từ thành A-đam, là thành phố ở bên cạnh Xát-than, dòng nước chảy ra biển Nê-giép, Biển Muối. Và dân sự băng qua sông gần thành Giê-ri-cô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đứng trên đất khô giữa sông Giô-đanh cho đến chừng dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên đất khô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 4
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi hết thảy dân sự đã qua sông Giô-đanh, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
|
|
\v 2 "Từ giữa vòng dân sự, hãy chọn trong các con mười hai người, mỗi chi phái một người.
|
|
\v 3 Hãy ban cho họ mạng lịnh nầy: 'Hãy lấy mười hai hòn đá từ giữa sông Giô-đanh, chỗ các thầy tế lễ đang đứng nơi đất khô, rồi đem chúng qua cho con và hãy đặt chúng ngay chỗ mà con sẽ qua đêm tối nay'"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Khi ấy Giô-suê gọi mười hai người mà ông đã chọn từ các chi phái Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái một người.
|
|
\v 5 Giô-suê nói với họ: "Hãy vào giữa sông Giô-đanh ở trước hòm giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, mỗi một người trong anh em vác một hòn đá trên vai mình — mười hai hòn đá, dựng lên theo số các chi phái dân sự Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Đây sẽ là một dấu ở giữa vòng anh em đặng khi con cháu anh em hầu đến hỏi rằng: 'Các hòn đá nầy có ý nghĩa gì chứ?'
|
|
\v 7 Khi ấy anh em sẽ nói cùng chúng rằng: 'Nước sông Giô-đanh đã rẽ ra ở trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va. Khi chiếc hòm băng qua sông Giô-đanh, nước sông Giô-đanh đã rẽ ra. Vì vậy những hòn đá nầy sẽ là một ký ức trong dân Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời'".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm theo đúng lịnh truyền của Giô-suê, và họ nhặt mười hai hòn đá từ giữa sông Giô-đanh, y như Đức Giê-hô-va đã phán cùng Giô-suê, họ đã chất lên theo đúng con số chi phái của dân Y-sơ-ra-ên. Họ đã đem chúng qua sông với họ đến tận chỗ mà họ đã qua đêm rồi đặt xuống ở đó.
|
|
\v 9 Khi ấy Giô-suê chất mười hai hòn đá ở giữa sông Giô-đanh, ngay chỗ mà bàn chơn của các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đứng. Và đống đá còn ở đó cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Các thầy tế lễ khiêng hòm đứng ở giữa sông Giô-đanh cho tới khi mọi sự Đức Giê-hô-va phán dặn Giô-suê truyền bảo dân sự đã hoàn tất, theo mọi sự mà Môi-se đã truyền lại cho Giô-suê. Dân sự vội vã và họ đã băng qua sông.
|
|
\v 11 Khi mọi người đã hoàn tất việc vượt sông, hòm của Đức Giê-hô-va và các thầy tế lễ đã băng qua sông trước mặt dân sự.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã băng qua trước khi dân Y-sơ-ra-ên lập đội hình như một đội quân, y như Môi-se đã dặn họ.
|
|
\v 13 Khoảng bốn mươi ngàn người được trang bị cho chiến trận đi qua trước mặt Đức Giê-hô-va, vì trận chiến ngay trên đồng bằng Giê-ri-cô.
|
|
\v 14 Vào ngày ấy Đức Giê-hô-va làm cho Giô-suê được cao trọng trong con mắt của hết thảy dân Y-sơ-ra-ên. Họ tôn trọng trọn đời của ông — y như họ đã tôn trọng Môi-se vậy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
|
|
\v 16 "Hãy truyền cho các thầy tế lễ nào khiêng hòm giao ước đi lên khỏi sông Giô-đanh"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Vậy, Giô-suê truyền cho các thầy tế lễ: "Hãy lên khỏi sông Giô-đanh".
|
|
\v 18 Khi các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va ra khỏi giữa sông Giô-đanh, và gót chơn của họ vừa nhấc ra khỏi chỗ đất khô, khi ấy nước sông Giô-đanh trở lại chỗ của chúng và tràn lên hai bên bờ, y như chúng đã có bốn ngày trước đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Dân sự lên khỏi sông Giô-đanh nhằm ngày mùng mười tháng thứ nhứt. Họ ở lại trong Ghinh-ganh, phía Đông thành Giê-ri-cô.
|
|
\v 20 Mười hai hòn đá mà họ lấy ra khỏi sông Giô-đanh, Giô-suê đã chất đống ở Ghinh-ganh.
|
|
\v 21 Ông nói với dân Y-sơ-ra-ên: "Khi dòng dõi các ngươi hỏi tổ phụ chúng trong ngày hầu đến: 'Mấy hòn đá nầy là gì chứ?'
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Hãy nói với con cháu anh em rằng: 'Đây là chỗ mà Y-sơ-ra-ên đã qua sông Giô-đanh trên đất khô.'
|
|
\v 23 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã làm khô dòng sông Giô-đanh cho anh em, cho đến chừng anh em đã qua sông, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm với Biển Sậy, Ngài đã làm khô cho chúng ta cho đến khi chúng ta đã qua sông,
|
|
\v 24 hầu cho hết thảy các dân trên đất nhận biết tay của Đức Giê-hô-va là toàn năng, và anh em sẽ tôn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em cho đến đời đời".
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 5
|
|
\p
|
|
\v 1 Các vua dân A-mô-rít ở bờ Tây sông Giô-đanh, và các vua dân Ca-na-an, họ sống dọc theo bờ Biển Lớn, họ nghe nói rằng Đức Giê-hô-va đã làm cho dòng sông Giô-đanh cạn khô cho đến khi dân Y-sơ-ra-ên đã băng qua, lòng họ như nhủn ra, và chẳng có chút tinh thần nào ở trong họ vì cớ dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Lúc bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy chế loại dao bằng đá lửa rồi một lần nữa làm phép cắt bì cho mọi người nam Y-sơ-ra-ên."
|
|
\v 3 Khi ấy Giô-suê làm cho mình loại dao bằng đá lửa và ông làm phép cắt bì cho mọi người nam Y-sơ-ra-ên tại A-ra-lốt Ghi-bê-a.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Và đây là lý do để Giô-suê làm phép cắt bì cho họ: hết thảy những người nam nào đã ra khỏi xứ Ai-cập, kể cả những người trong chiến trận, đã chết dọc đường trong đồng vắng, sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập.
|
|
\v 5 Mặc dù hết thảy người nam nào đã ra khỏi Ai-cập đều đã chịu phép cắt bì, vẫn có những thiếu niên sanh trong đồng vắng trên đường ra khỏi Ai-cập chưa chịu phép cắt bì.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Vì dân sự Y-sơ-ra-ên đã đi bốn mươi năm trong đồng vắng cho đến khi mọi người, nghĩa là, mọi người của chiến trận đã ra khỏi xứ Ai-cập, đã chết, vì họ không vâng theo tiếng phán của Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va đã thề với họ rằng Ngài không Ngài sẽ không để cho họ nhìn thấy xứ mà Ngài đã thề với các tổ phụ họ rằng Ngài sẽ ban cho chúng ta, một xứ tràn trề với sữa và mật ong.
|
|
\v 7 Chính con cái của họ Đức Giê-hô-va đã dấy lên trong chỗ của họ mà Giô-suê đã làm phép cắt bì, vì họ chưa chịu phép cắt bì tới nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Khi hết thảy họ đều đã chịu phép cắt bì, họ cứ ở lại chỗ họ đã ở trong trại quân cho đến khi họ lành lặn.
|
|
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Ngày nay ta đã lăn xa nỗi ô nhục của xứ Ai-cập khỏi các con". Vì vậy, danh xưng của địa điểm ấy được gọi là Ghinh-ganh cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại Ghinh-ganh. Họ giữ Lễ Vượt Qua vào chiều tối ngày mười bốn tháng này, ở đồng bằng Giê-ri-cô.
|
|
\v 11 Rồi sau ngày lễ Vượt Qua, chính ngày ấy, họ đã ăn thổ sản của xứ, bánh không men, và gạo rang.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Mana chấm dứt vào ngày sau ngày họ đã ăn thổ sản của xứ. Không còn có mana cho dân Y-sơ-ra-ên ăn nữa, song họ đã ăn thổ sản của xứ Ca-na-an trong năm đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Khi Giô-suê ở gần thành Giê-ri-cô, ông ngước mắt lên nhìn, thì kìa có một người đến đứng trước mặt ông; người rút gươm ra cầm nơi tay. Giô-suê bước tới gần người rồi nói: "Người đến vì chúng ta hay vì kẻ thù của chúng ta?"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Người ấy nói: "Không vì một bên nào hết. Vì ta là cấp chỉ huy quân đội của Đức Giê-hô-va. Giờ thì ta đã đến". Khi ấy Giôsuê sấp mặt xuống đất thờ lạy rồi thưa cùng người ấy rằng: "Chúa truyền cho tôi tớ Chúa việc gì?"
|
|
\v 15 Viên chỉ huy quân đội của Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy cởi giày ra khỏi chơn, vì nơi con đang đứng là thánh". Rồi Giô-suê đã làm theo y như thế.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 6
|
|
\p
|
|
\v 1 Mọi lối vào thành Giê-ri-cô đều bị cấm vì cớ quân đội của Y-sơ-ra-ên. Không có ai được đi ra và chẳng có người nào được vào bên trong hết.
|
|
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy xem, ta đã phó thành Giê-ri-cô cho con, vua cùng các binh sĩ tinh nhuệ của nó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Các con phải diễu hành quanh thành, mọi người tham dự chiến trận sẽ đi quanh thành một bận. Các con phải làm điều nầy trong sáu ngày.
|
|
\v 4 Bảy thầy tế lễ phải mang bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm giao ước. Đến ngày thứ bảy, các con phải diễu hành quanh thành bảy lần, và các thầy tế lễ phải thổi kèn lên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Khi ấy họ phải thổi kèm làm bằng sừng chiên đực kia một hơi thật dài, rồi khi các con nghe tiếng kèn, mọi người phải hô lên một tiếng thật lớn, thì bức tường của thành phố kia sẽ sụp xuống. Những lính chiến phải tấn công, từng người ngay trước mặt mình".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Như vậy Giô-suê con trai Nun, đã mời các thầy tế lễ đến rồi nói với họ như sau; "Hãy khiêng hòm giao ước lên, rồi để cho bảy thầy tế lễ cầm loại kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm của Đức Giê-hô-va"
|
|
\v 7 Ông nói với dân sự: "Hãy đi và diễu hành quanh thành, những người có vũ trang sẽ đi trước hòm của Đức Giê-hô-va"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Y như Giô-suê đã nói cùng dân sự, bảy thầy tế lễ cần bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước mặt Đức Giê-hô-va. Khi họ đi đàng trước, họ trổi tiếng kèn lên. Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va theo sau họ.
|
|
\v 9 Những người có vũ trang đi trước các thầy tế lễ, và họ trổi tiếng kèn lên, còn quân tiếp hậu đi ở đàng sau hòm giao ước, và các thầy tế lễ liên tục trổi tiếng kèn lên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Còn Giô-suê đã truyền cho dân sự rằng: "Đừng la lên. Không một tiếng nào ra khỏi miệng anh em cho đến ngày ta bảo anh em phải la lên. Chỉ khi ấy anh em mới la lớn tiếng lên".
|
|
\v 11 Thế là ông điều động cho hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đi quanh thành một bận trong ngày ấy. Khi ấy họ về lại trại quân của mình, và họ ở lại trong trại lúc ban đêm.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Giô-suê dậy thật sớm lúc ban mai, còn các thầy tế lễ nhấc hòm giao ước của Đức Giê-hô-va lên.
|
|
\v 13 Bảy thầy tế lễ cầm bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm của Đức Giê-hô-va, rồi vừa đi họ vừa trổi tiếng kèn của mình lên. Binh sĩ có vũ trang đi ở đàng trước họ. Nhưng khi quân tiếp hậu đi ở đàng sau hòm của Đức Giê-hô-va, khi ấy kèn cứ được trổi lên liên tục.
|
|
\v 14 Họ diễu hành quanh thành một bận trong ngày thứ nhì rồi trở về trại quân mình. Họ đã làm việc nầy trong sáu ngày.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Đến ngày thứ bảy, họ dậy sớm lúc bình minh, rồi họ diễu hành quanh thành theo cùng một cách theo đúng đội hình của họ, lần nầy là bảy bận. Chính ngày này họ diễu hành quanh thành phố bảy lần.
|
|
\v 16 Nhằm ngày thứ bảy khi các thầy tế lễ đã trổi tiếng kèn lên, Giô-suê truyền cho dân sự: "Hãy la lên đi! Vì Đức Giê-hô-va đã ban thành phố cho các con.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Thành phố và mọi thứ ở trong nó sẽ được biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va để bị huỷ diệt. Chỉ có gái điếm Ra-háp sẽ được sống — cô ấy và hết thảy những ai ở với cô ấy trong nhà cô ấy — vì cô ấy đã che giấu người mà chúng ta sai đến.
|
|
\v 18 Nhưng về phần anh em, phải cẩn thận về việc lấy những thứ biệt riêng ra để huỷ diệt, hầu cho sau khi anh em đánh dấu chúng để bị diệt đi, anh em đừng lấy chúng. Nếu anh em làm điều nầy, anh em sẽ khiến cho trại quân của Y-sơ-ra-ên thành một thứ phải chịu huỷ diệt và anh em sẽ đem tai hoạ giáng trên nó.
|
|
\v 19 Hết thảy bạc, vàng, cùng những thứ làm bằng đồng và sắt được dâng cho Đức Giê-hô-va. Chúng phải được chứa trong kho của Đức Giê-hô-va".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Vì vậy dân sự đã la lớn tiếng, rồi họ trổi kèn lên. Khi dân sự nghe thấy tiếng kèn, họ đã hô lên lớn tiếng, thì bức tường sụp xuống hầu cho dân sự bước lên mà vào trong thành, mỗi người ngay trước mặt mình. Và họ đã chiếm lấy thành.
|
|
\v 21 Họ đã huỷ diệt hoàn toàn mọi thứ có ở trong thành bằng lưỡi của thanh gươm — người nam người nữ, già và trẻ, bò, chiên và lừa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Khi ấy Giô-suê nói với hai người đến do thám xứ: "Hãy vào trong nhà của gái điếm kia. Hãy đem người nữ ấy cùng hết thảy những ai ở với cô ấy ra, y như anh em đã thề với cô ấy"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 23 Thế là hai người là thám tử ấy bước vào rồi đưa Ra-háp ra ngoài. Họ đưa ra ngoài cha mẹ, anh em, cùng những người bà con của cô ấy đến trú ở đó. Họ đưa những người ấy đến một chỗ bên ngoài trại quân của Y-sơ-ra-ên.
|
|
\v 24 Rồi họ đốt thành cùng mọi sự ở trong đó. Chỉ có bạc, vàng, cùng những cái chậu bằng đồng và sắt được đem vào trong nhà kho của Đức Giê-hô-va.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Giô-suê đã cho phép gái điếm Ra-háp, người nhà của cha cô ấy và mọi người ở với cô ấy được sống. Cô ấy đã sống trong Y-sơ-ra-ên đến ngày này vì cô ấy đã che giấu hai người mà Giô-suê sai họ đi dọ thám thành Giê-ri-cô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 26 Khi ấy Giô-suê truyền cho họ với một lời thề, ông nói: "Đáng rủa sả thay cho kẻ nào xây dựng lại thành Giê-ri-cô trước mặt Đức Giê-hô-va. Kẻ đặt lại nền sẽ phải trả giá bằng con đầu lòng mình, còn dựng lên cổng thành kẻ ấy phải trả giá bằng con út mình".
|
|
\v 27 Thế là Đức Giê-hô-va đã ở với Giô-suê, và tiếng tăm người rải khắp xứ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 7
|
|
\p
|
|
\v 1 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đã hành xử theo cách bất trung liên quan đến những thứ được biệt riêng ra để huỷ diệt. Achan con trai của Cạt-mi, cháu của Xim-ri, chắt của Xê-rách, từ cho phái Giu-đa, đã lấy một số món được biệt riêng ra để huỷ diệt, và cơn giận của Đức Giê-hô-va bùng lên nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Giô-suê sai người từ Giê-ri-cô đến thành A-hi, thành nầy ở gần Bết-A-ven, phía Đông Bê-tên. Ông nói với họ: "Hãy đi lên và do thám xứ". Vậy, họ đi lên và do thám thành A-hi.
|
|
\v 3 Khi họ trở về gặp Giô-suê, họ nói với ông như vầy: "Đừng đưa hết dân sự lên thành A-hi. Chỉ cần sai hai hoặc ba ngàn người đi lên và tốn công thành A-hi. Đừng làm cho dân sự phải mệt nhọc trong chiến trận, vì người thành A-hi vốn ít dân lắm".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Thế là chỉ có khoảng ba ngàn người trong quân đội đi lên, nhưng số binh sĩ nầy đã bỏ chạy trước mặt người thành A-hi.
|
|
\v 5 Người của thành A-hi giết khoảng ba mươi sáu người khi họ truy kích người Do thái từ cổng thành cho đến vùng mỏ đá, và họ giết số người Do thái nầy khi họ đi xuống một ngọn đồi. Lòng dân sự đầy lo sợ và sự cam đảm đã lìa khỏi họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Khi ấy Giô-suê mới xé áo mình. Ông cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lấy đất phủ đầu mình rồi sấp mặt xuống đất ở trước hòm của Đức Giê-hô-va, cứ giữ như thế cho đến chiều tối.
|
|
\v 7 Thế rồi Giô-suê nói: "Ôi, hỡi Chúa Giê-hô-va, sao Ngài đem dân nầy qua sông Giô-đanh làm chi chứ? Để phó chúng con vào trong tay dân A-mô-rít để tiêu diệt chúng con ư? Nếu chúng con chỉ đưa ra quyết định khác thì chúng con đã trụ lại bên kia sông Giô-đanh!
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Lạy Chúa, con phải nói sao đây, sau khi Y-sơ-ra-ên đã xoay lưng họ lại trước mặt kẻ nghịch thù kia!
|
|
\v 9 Vì dân Ca-na-an cùng hết thảy cư dân của xứ sẽ nghe thấy việc ấy. Họ sẽ vây lấy chúng con và khiến dân sự của đất quên danh của chúng con đi. Rồi Ngài sẽ làm gì với uy danh lớn lao của Chúa?"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê, "Hãy chổi dậy! Sao cứ nằm úp mặt ở đó hoài vậy?
|
|
\v 11 Y-sơ-ra-ên đã phạm tội. Họ đã phạm vào giao ước của ta mà ta đã truyền cho họ. Họ đã lấy một số món đã được biệt riêng ra. Họ đã lấy cắp và rồi đã che giấu tội lỗi của họ bằng cách cất giữ những thứ họ đã lấy ở nơi thuộc về họ.
|
|
\v 12 Như một kết quả, dân Y-sơ-ra-ên không thể đứng trước mặt kẻ thù nghịch họ. Họ đã xoay lưng họ lại đối với kẻ thù của họ vì đích thân họ bị biệt riêng ra để bị huỷ diệt. Ta sẽ không ở với các con nữa trừ phi các con tiêu diệt những thứ đáng bị huỷ diệt, mà hiện vẫn còn giữa vòng các con.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Hãy chổi dậy đi! Hãy dâng dân sự cho ta và nói với họ: 'Hãy dâng mình làm của lễ sống cho Đức Giê-hô-va ngày mai. Vì Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: "Có những thứ biệt riêng ra để bị huỷ diệt vẫn hiện còn giữa vòng các con, hỡi Y-sơ-ra-ên. Các con không thể đứng chống cự với kẻ thù cho đến chừng nào các con cất bỏ khỏi giữa các con hết thảy những thứ bị biệt riêng ra để chịu huỷ diệt"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Đến sáng, anh em phải tự mình trình diện từng chi phái. Chi phái mà Đức Giê-hô-va chọn do bắt thăm sẽ đến gần cùng với họ hàng của họ. Họ hàng mà Đức Giê-hô-va chỉ ra phải đến gần từng hộ một. Hộ mà Đức Giê-hô-va chỉ ra phải đến gần từng người một.
|
|
\v 15 Việc ấy cứ diễn ra cho đến kẻ bị chỉ ra và là người có những thứ bị biệt riêng ra để bị huỷ diệt, người ấy sẽ bị thiêu, người và mọi sự người có, vì người đã phá vỡ giao ước của Đức Giê-hô-va và vì người đã làm một việc đáng hổ thẹn trong Y-sơ-ra-ên.'"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Vậy, Giô-suê dậy sớm lúc ban mai rồi đem Y-sơ-ra-ên đến gần, từng chi phái một, và chi phái Giu-đa bị chỉ ra.
|
|
\v 17 Ông đưa họ hàng của Giu-đa đến gần, và họ hàng của Xê-rách bị chỉ ra. Ông đưa họ hàng của Xê-rách đền gần từng người một, và Xáp-đi bị chỉ ra.
|
|
\v 18 Ông đưa hộ của Xáp-đi đến gần, từng người một, và A-can con của Cạt-ni cháu của Xê-rách, bị chỉ ra từ chi phái Giu-đa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Khi ấy Giô-suê mới nói cùng A-can: "Hỡi con, hãy nói thật đi trước mặt Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và hãy xưng tội với Ngài. Hãy vui lòng nói cho ta biết những điều con đã làm. Đừng giấu việc ấy đối với ta".
|
|
\v 20 A-can đáp cùng Giô-suê: "Thật, con đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây là những gì con đã làm:
|
|
\v 21 Khi con nhìn thấy giữa vòng chiến lợi phẩm một chiếc áo choàng rất đẹp làm từ xứ Babylôn, giá hai trăm siếc-lơ bạc, và một nén vàng nặng chừng năm mươi siếc-lơ, con muốn và đã lấy chúng. Chúng được giấu dưới đất trong trại của con, còn bạc thì ở dưới đất đó".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Giô-suê sai các sứ giả, họ chạy đến trại và đã có các món ấy. Khi họ tìm kiếm, họ gặp chúng được giấu ở trong trại của ông ta, còn bạc thì ở dưới chúng.
|
|
\v 23 Họ lấy mấy món đó từ giữa trại rồi mang chúng đến với Giô-suê và với hết thảy dân Y-sơ-ra-ên. Họ đổ chúng ra trước mặt Đức Giê-hô-va.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Khi ấy Giô-suê, và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên với ông, bắt lấy A-can con cháu của Xê-rách, còn bạc, áo choàng, nén vàng, các con trai con gái của ông ta, bò, lừa, chiên, trại, cùng mọi sự ông đã có, rồi hết thảy bị họ đưa lên trũng A-cô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Khi ấy Giô-suê nói: "Tại sao con làm rối cho chúng ta chứ? Đức Giê-hô-va sẽ làm rối con hôm nay". Hết thảy Y-sơ-ra-ên đều ném đá người. Rồi hết thảy bị thiêu đốt, và bị đá lấp lại.
|
|
\v 26 Họ chất trên ông ta một đống đá thật lớn, vẫn còn ở đây ngày nay. Đức Giê-hô-va xoay khỏi cơn giận như thiêu như đốt của Ngài. Vì lẽ đó tên của địa điểm ấy là trũng A-cô hãy còn cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 8
|
|
\p
|
|
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Chớ sợ, chớ nãn lòng. Hãy đem theo với con những người của chiến trận. Hãy đi lên thành A-hi. Hãy xem, ta đã phó trong tay con vua của A-hi, dân sự người, thành của người, và đất đai người.
|
|
\v 2 Con sẽ làm với A-hi và vua của nó giống như con đã làm với Giê-ri-cô cùng vua của nó, con sẽ chiếm lấy chiến lợi phẩm và gia súc cho chính mình. Hãy phục kích ở phía sau thành".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Thế là Giô-suê trở dậy rồi đem người của chiến trận theo với mình lên thành A-hi. Giô-suê chọn lấy ba mươi ngàn người — những người tinh nhuệ, can đảm — rồi ông sai họ đi lúc ban đêm.
|
|
\v 4 Ông truyền cho họ: "Hãy xem đi, anh em sẽ nằm phục kích nghịch lại thành phố, ở phía sau nó. Chớ ở xa thành, song hết thảy anh em phải sẵn sàng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Ta và những người theo với ta sẽ tiếp cận thành phố. Rồi khi chúng ra tấn công chúng ta, chúng ta sẽ bỏ chạy tránh chúng giống như lần trước.
|
|
\v 6 Chúng sẽ đuổi theo sau chúng ta cho đến chừng chúng ta kéo chúng ra khỏi thành. Chúng sẽ nói: 'Họ chạy trốn chúng ta giống như họ đã trốn mới đây'. Vậy chúng ta sẽ chạy trốn khỏi chúng.
|
|
\v 7 Khi ấy anh em chổi dậy ra khỏi chỗ ẩn nấp của mình, anh em sẽ chiếm lấy thành. Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ ban thành ấy vào trong tay anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Khi anh em chiếm lấy thành, anh em sẽ phóng hoả nó. Anh em sẽ làm như vậy khi anh em vâng theo mạng lịnh được ban ra theo lời của Đức Giê-hô-va. Hãy xem, ta đã truyền cho anh em".
|
|
\v 9 Giô-suê sai họ đi, và họ đi đến chỗ phải nằm phục kích, họ ẩn nấp giữa thành Bê-tên và thành A-hi ở phía Tây A-hi. Còn Giô-suê đêm đó đã ngủ giữa vòng dân sự.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Giô-suê thức dậy sớm và chuẩn bị binh lính mình sẵn sàng, Giô-suê cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, và họ đến tấn công dân thành A-hi.
|
|
\v 11 Tất cả binh sĩ chiến đấu ở với ông đi lên và tiếp cận thành phố. Họ đến gần thành và đóng trại ở phía Bắc thành A-hi. Bây giờ, đã có một đồng trũng ở giữa họ và thành A-hi.
|
|
\v 12 Ông đem khoảng năm ngàn binh sĩ đặt họ phục kích ở phía Tây thành phố giữa Bê-tên và A-hi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Họ sắp đặt các binh sĩ, đội quân chính ở phía Bắc thành phố, và phục binh ở phía Tây thành phố. Giô-suê qua đêm ở trong trũng.
|
|
\v 14 Khi vua thành A-hi thấy việc ấy, ông cùng quân đội mình trở dậy sớm rồi ùa ra tấn công Y-sơ-ra-ên ngay chỗ đối ngang với đồng bằng sông Giô-đanh. Ông ta không biết có binh mai phục đang chờ đợi tấn công từ phía sau thành.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Giô-suê và hết thảy Y-sơ-ra-ên chịu bại trận trước mặt họ, rồi họ bỏ chạy vào trong đồng vắng.
|
|
\v 16 Hết thảy dâng sống trong thành phố được lịnh gọi cùng nhau truy kích họ, rồi họ đuổi theo Giô-suê ra xa khỏi thành phố.
|
|
\v 17 Không có một người nào ở lại trong thành A-hi và Bê-tên không ra mà truy kích dân Y-sơ-ra-ên. Họ bỏ thành công khai mở cửa truy đuổi dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy chỉ ngọn giáo cầm trong tay con hướng về thành A-hi, vì Ta sẽ ban thành A-hi vào trong tay con". Giô-suê cần ngọn giáo trong tay chỉ hướng về thành phố.
|
|
\v 19 Binh sĩ phục kích mau chóng ùa ra khỏi chỗ của họ khi ông giơ tay lên. Họ chạy ùa vào trong thành chiếm lấy nó. Họ mau chóng phóng hoả thành.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Người của thành A-hi quay nhìn lại. Họ trông thấy khói từ thành phố bốc lên trời, và họ không thoát được theo lối nầy hay lối kia. Vì binh sĩ Do thái đã bỏ chạy trong đồng vắng giờ đây quay lại đối diện với những kẻ đang truy kích họ.
|
|
\v 21 Khi Giô-suê và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên nhìn thấy phục binh đã chiếm lấy thành với khói bốc bay cao, họ quay trở lại rồi giết người thành A-hi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Và các binh sĩ Do thái khác, những người đã bước vào trong thành, đã bước ra tấn công họ. Vì vậy, người của thành A-hi đều bị kẹt ở giữa quân đội của, một số mặt bên nầy và một số người ở mặt bên kia. Y-sơ-ra-ên đã tấn công người của thành A-hi, không một người nào sống sót hay thoát thật được.
|
|
\v 23 Họ bắt giữ vua thành A-hi, là kẻ mà họ đã bắt sống, rồi họ mang người đến cùng Giô-suê.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Khi dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn thành việc giết cư dân thành A-hi trong cánh đồng gần đồng vắng họ truy kích chúng, rồi khi hết thảy họ, cho đến người cuối cùng, đã ngã xuống bên lưỡi gươm, dân Y-sơ-ra-ên trở lại thành A-hi. Họ dùng gươm tấn công nó.
|
|
\v 25 Hết thảy nam nữ cư dân thành A-hi đều ngã chết trong ngày ấy, là mười hai ngàn người.
|
|
\v 26 Giô-suê không rút tay cầm giáo của mình lại, cho đến khi đã tiêu diệt hoàn toàn người thành A-hi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 27 Y-sơ-ra-ên chỉ lấy bầy gia súc và chiến lợi phẩm từ thành phố cho bản thân họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Giô-suê.
|
|
\v 28 Giô-suê đốt thành A-hi rồi biến nó thành một đống đổ nát cho đến đời đời. Đây là một chỗ bị bỏ phế cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Ông cho treo cổ vua thành A-hi trên cây cho đến chiều tối. Khi mặt trời lặn xuống rồi, Giô-suê ban lịnh và họ lấy thây của vua đó xuống rồi quăng thây ấy ở trước cổng thành. Ở đó họ chất một đống đá trên thây ấy. Đống đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 30 Khi ấy Giô-suê xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên Núi Ê-banh,
|
|
\v 31 y như Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho dân sự Y-sơ-ra-ên, như đã được chép trong sách luật pháp của Môi-se: "Một bàn thờ bằng đá nguyên khối, chưa có một công cụ bằng sắt nào đụng đến". Và ông dâng của lễ thiêu trên đó cho Đức Giê-hô-va, rồi họ đã dâng của lễ thù ân nữa.
|
|
\v 32 Rồi ở đó trong sự hiện diện của dân Y-sơ-ra-ên, ông đã khắc trên đá một bản luật pháp của Môi-se
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 33 Hết thảy Y-sơ-ra-ên, các trưởng lão, các quan trưởng, và quan xét của họ đến đứng ở hai bên hòm giao ước trước mặt các thầy tế lễ và người dòng Lê-vi, họ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va — người khách lạ cũng như dân bản xứ — phân nửa họ đứng trước Núi Ga-ri-xim và phân nửa kia đứng trước Núi Ê-banh. Họ chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên, y như Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho họ lúc đầu.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 34 Sau đó, Giô-suê đọc lời của luật pháp, những lời chúc phước cùng những lời rủa sả, y như chúng đã được chép trong sách luật vậy.
|
|
\v 35 Không có một lời nào từ mọi sự mà Môi-se đã truyền mà Giô-suê là không đọc ở trước hội chúng Y-sơ-ra-ên, gồm phụ nữ, con trẻ, và các khách lạ nào đã sống giữa vòng họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 9
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy, hết thảy các vua nào sống bên kia sông Giô-đanh trong vùng đồi núi, và trong trũng thấp dọc theo bời Biển Lớn đối ngang Li-ban — dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít —
|
|
\v 2 các dân nầy hiệp cùng nhau ở dưới một mạng lịnh, dấy binh chống lại Giô-suê và Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Khi cư dân Ga-ba-ôn hay được những gì Giô-suê đã làm với thành Giê-ri-cô và với thành A-hi,
|
|
\v 4 họ đã hành xử với một chương trình thật xảo quyệt. Họ tự cung ứng cho mình với các khoản chu cấp và lấy những cái bao sờn rách rồi đặt chúng lên lừa của mình. Họ cũng lấy loại bầu rượu cũ đã rách, vá lại.
|
|
\v 5 Họ mang giày cũ vá nơi chơn, rồi mặc lấy thứ quần áo cũ mòn, rách tươm. Hết thảy bánh trong khoảng cung cấp thức ăn của họ đều khô và vụn hết cả.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Khi ấy họ đến gặp Giô-suê trong trại quân ở Ghinh-ganh rồi nói với ông và với dân sự Y-sơ-ra-ên: "Chúng tôi đến từ một xứ rất xa, vì vậy giờ đây hãy lập một giao ước với chúng tôi".
|
|
\v 7 Dân sự Y-sơ-ra-ên nói với dân Hê-vít: "Có lẽ mấy người sống gần chúng ta. Làm sao chúng tôi lập giao ước với mấy người cho được chứ?"
|
|
\v 8 Họ nói với Giô-suê: "Chúng tôi là tôi tớ của các ông". Giô-suê nói cùng họ: "Mấy người là ai chứ? Mấy người từ đâu đến?"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Họ nói với ông: "Tôi tớ của ông đã đến đây từ một xứ ở thật xa, vì cớ danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ông. Chúng tôi đã nghe một tường trình về ông và về mọi sự mà ông đã làm trong xứ Ai-cập —
|
|
\v 10 và mọi sự mà ông đã làm với hai vua dân A-mô-rít ở bờ bên kia sông Giô-đanh — với Si-hôn vua Hết-bôn, rồi với Óc vua Ba-san ở tại Ách-ta-rốt.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Các trưởng lão của chúng tôi cùng hết thảy dân cư trong xứ của chúng tôi nói với chúng tôi: 'Hãy lấy thực phẩm theo trên chuyến hành trình. Hãy đến mà gặp họ: "Chúng tôi là tôi tớ của các ông. Hãy lập một ước với chúng tôi".
|
|
\v 12 Đây là bánh của chúng tôi, nó hãy còn ấm khi chúng tôi đem ra khỏi nhà nhằm ngày chúng tôi sắp đặt để đến gặp các ông. Nhưng hãy xem, giờ đây, bánh đã khô và vụn hết rồi.
|
|
\v 13 Những bầu da rượu nầy còn mới khi chúng tôi chứa đầy chúng, và hãy xem đi, chúng đã rách hết rồi. Áo xống và giày của chúng tôi đã rách rưới hết do đi một chặng đường quá dài”.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Thế là dân Do thái nhận lấy một số lương thực của chúng, song họ không cầu hỏi xin sự hướng dẫn từ Đức Giê-hô-va.
|
|
\v 15 Giô-suê lập hoà bình với chúng rồi đưa ra lời hứa long trọng được bảo đảm với huyết, để cho họ sống. Cấp lãnh đạo của dân sự cũng đưa ra một lời thề với họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Ba ngày sau khi dân Y-sơ-ra-ên lập ước với chúng, họ mới hay rằng họ là những láng giềng của họ và họ sống ở gần đó.
|
|
\v 17 Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên mới đi ra, đến các thành của họ vào ngày thứ ba. Các thành nầy là Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt, và Ki-ri-át Giê-a-rim.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Dân Y-sơ-ra-ên không tấn công chúng vì cấp lãnh đạo của chúng đã thề về chúng ở trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều lằm bằm nghịch cùng cấp lãnh đạo của họ.
|
|
\v 19 Nhưng các lãnh đạo của họ nói cùng dân sự: "Chúng ta đã có lời thề về họ bởi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và giờ đây chúng ta không thể làm hại họ được.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Đây là điều chúng ta sẽ làm với chúng: Tránh bất kỳ cơn thạnh nộ nào có thể giáng trên chúng ta vì cớ lời thề mà chúng ta đã thề với chúng, chúng ta sẽ để cho chúng sống".
|
|
\v 21 Các cấp lãnh đạo nói với dân sự của họ "Hãy để cho chúng sống". Vì vậy, dân Ga-ba-ôn trở thành thợ đốn củi, xách nước cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, y như các cấp lãnh đạo đã nói về chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Giô-suê gọi chúng đến rồi nói rằng "Sao mấy người dối gạt chúng ta khi mấy người nói: 'chúng ta ở rất xa các ông', khi nào thì mấy người mới ăn ở đàng hoàng ở đây giữa vòng chúng ta?
|
|
\v 23 Bây giờ, vì cớ điều nầy, mấy người bị rủa sả và một số người sẽ luôn luôn là nô lệ, họ là những kẻ lo đốn củi xách nước cho nhà của Đức Chúa Trời ta".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Họ trả lời Giô-suê và nói: "Vì tôi tớ các ông có hay rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài ban cho các ông hết thảy xứ, và phải tiêu diệt hết cư dân trong xứ ở trước mặt các ông — vì vậy chúng tôi rất đỗi lo sợ về mạng sống của chúng tôi vì cớ các ông. Đất là lý do tại sao chúng ta đã làm việc nầy.
|
|
\v 25 Bây giờ, hãy xem đây, chúng tôi ở dưới quyền của các ông. Bất cứ điều chi dường như là tốt lành và phải lẽ cho các ông phải làm đối cùng chúng tôi, hãy làm đi".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 26 Vì vậy Giô-suê đã làm việc nầy đối với họ: ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên giết chóc họ, và dân Y-sơ-ra-ên đã không tận diệt họ.
|
|
\v 27 Ngày ấy Giô-suê cắt dân Ga-ba-ôn làm kẻ đốn củi, xách nước cho cả cộng đồng, và về bàn thờ của Đức Giê-hô-va, cho đến ngày nay, trong chỗ mà Đức Giê-hô-va đã chọn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 10
|
|
\p
|
|
\v 1 Bấy giờ, A-đô-ni-xê-đéc, vua của Giê-ru-sa-lem, hay rằng Giô-suê đã chiếm thành A-hi rồi huỷ diệt hoàn toàn thành ấy, y như ông đã làm với thành Giê-ri-cô cùng vua của nó. Và ông có nghe nói thể nào dân Ga-ba-ôn đã làm hoà ước với Y-sơ-ra-ên và đang sống giữa vòng họ.
|
|
\v 2 Dân sự thành Giê-ru-sa-lem lấy làm sợ hãi vì Ga-ba-ôn là một thành lớn, giống như một thành phố hoàng gia vậy. Thành nầy lớn hơn thành A-hi, và người của nó đều là chiến binh mạnh mẽ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Nên A-đô-ni-xê-đéc, vua của Giê-ru-sa-lem, gửi thông điệp đến Hô-ham, vua Hếp-rôn, đến Phi-ram, vua Giạt-mút, đến Gia-phia, vua La-ki, và đến Đê-bia, vua Éc-lôn:
|
|
\v 4 "Hãy đến với ta mà giúp đỡ ta. Chúng ta hãy tấn công Ga-ba-ôn vì họ đã làm hoà ước với Giô-suê và với dân Y-sơ-ra-ên."
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Năm vua A-mô-rít; vua Giê-ru-sa-lem, vua Hếp-rôn, vua Giạt-mút, vua La-ki, và vua Éc-lôn xuất quân, họ cùng quân đội của họ. Họ đóng trại chống lại Ga-ba-ôn, và họ đã tấn công thành ấy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Dân Ga-ba-ôn bèn gửi một thông điệp cho Giô-suê và cho quân đội đóng tại Ghinh-ganh. Họ nói: "Mau lên! Đừng rút tay ông khỏi các tôi tớ ông. Hãy mau đến với chúng tôi và giải cứu chúng tôi. Xin hãy giúp chúng tôi, vì tất cả các vua A-mô-rít họ sống trong vùng đồi núi tập trung lại để tấn công chúng tôi".
|
|
\v 7 Giô-suê đi lên từ Ghinh-ganh, ông cùng hết thảy các binh sĩ, và hết thảy những người chiến đấu được.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Đừng sợ chúng nó. Ta đã phó chúng vào trong tay con. Không một kẻ nào trong số chúng còn có khả năng ngăn chặn cuộc tấn công của con".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Giô-suê thình lình chuyển quân suốt đêm đột kích chúng nó từ Ghinh-ganh.
|
|
\v 10 Đức Giê-hô-va làm xáo trộn kẻ thù trước mặt dân Y-sơ-ra-ên — họ giết chúng với cuộc tàn sát rất lớn tại Ga-ba-ôn, rồi truy kích chúng trên con đường dẫn đến Bết-Hô-rôn, rồi họ giết chúng trên con đường dẫn tới A-xê-ca và Ma-kê-đa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Khi chúng bỏ chạy tránh Y-sơ-ra-ên, xuống núi từ Bết-Hô-rôn, Đức Giê-hô-va từ trời ném đá lớn xuống trên chúng họ suốt con đường dẫn đến A-xê-ca, và chúng ngã chết. Đã có nhiều người ngã chết vì mưa đá hơn ngã chết vì bị dân Y-sơ-ra-ên giết.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Khi ấy, Giô-suê thưa cùng Đức Giê-hô-va nhằm ngày Đức Giê-hô-va ban cho dân Y-sơ-ra-ên thắng hơn dân A-mô-rít. Đây là những gì Giô-suê đã thưa cùng Đức Giê-hô-va ở trước mặt Y-sơ-ra-ên: "Hỡi mặt trời, hãy đứng yên tại Ga-ba-ôn, hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trong trũng A-gia-lôn".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Mặt trời đã đứng yên, và mặt trăng dừng lại cho đến khi dân sự đã báo thù giáng trên các kẻ thù mình. Có phải điều nầy không được chép trong Sách Gia-sa sao? Mặt trời đã đứng yên giữa trời; nó không lặn đi suốt một ngày trọn.
|
|
\v 14 Chẳng có một ngày nào giống như ngày này trước và sau nó, khi Đức Giê-hô-va nhậm lời của một con người. Vì Đức Giê-hô-va đã đánh trận vì ích cho dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Giô-suê và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên cùng ông trở về trại quân đóng tại Ghinh-ganh.
|
|
\v 16 Bấy giờ năm vua đã bỏ trốn rồi ẩn mình trong hang động Ma-kê-đa.
|
|
\v 17 Có người đến báo cho Giô-suê: "Người ta đã tìm gặp chúng! — năm vua ẩn trốn trong hang động Ma-kê-đa!"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Giô-suê truyền rằng: "Hãy lăn những hòn đá lớn lấp miệng hang rồi đặt lính canh giữ họ.
|
|
\v 19 Đừng nghỉ ngơi. Hãy truy kích kẻ thù rồi tấn công chúng từ phía sau. Đừng để cho chúng vào thành của chúng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã ban chúng vào tay anh em".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Giô-suê cùng các con trai Y-sơ-ra-ên đã hoàn tất việc giết chúng nó với một cuộc tàn sát rất lớn, cho đến khi chúng bị tận diệt gần như là hoàn toàn; chỉ một ít kẻ sống sót thoát khỏi vào được các thành kiên cố.
|
|
\v 21 Khi ấy, toàn bộ quân đội trở về bình yên với Giô-suê tại trại quân Ma-kê-đa. Và không một ai dám nói một lời nghịch lại bất kỳ người nào trong dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Khi ấy Giô-suê ra lịnh: "Hãy mở miệng hang rồi đem năm vua nầy đến cùng ta".
|
|
\v 23 Họ làm theo như ông đã truyền. Họ đem đến cho ông năm vua nầy từ trong hang — vua Giê-ru-sa-lem, vua Hếp-rôn, vua Giạt-mút, vua La-ki, và vua Éc-lôn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Rồi khi họ đem năm vua đến gặp Giô-suê, ông gọi từng người Y-sơ-ra-ên đến, rồi ông ra lịnh cho những viên chỉ huy binh sĩ đã tham gia trận chiến cùng với ông: "Hãy đạp chân lên cổ chúng". Vì vậy họ bước tới rồi đạp chân họ lên cổ chúng.
|
|
\v 25 Khi ấy ông nói với họ: "Đừng sợ và chớ kinh hãi. Phải mạnh mẽ và can đảm lên. Đây là điều Đức Giê-hô-va sẽ làm cho kẻ thù của anh em mà anh em sẽ đánh với".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 26 Khi ấy Giô-suê tấn công rồi giết hết các vua đó. Ông cho treo chúng lên năm cây. Họ treo chúng trên cây cho đến chiều tối.
|
|
\v 27 Khi mặt trời lặn rồi, Giô-suê truyền lịnh, và họ đem chúng xuống khỏi cây quăng chúng vào trong hang, chỗ mà chúng ẩn mình. Họ đặt những hòn đá lớn chặn trên miệng hang. Những hòn đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 28 Theo cách thức nầy, Giô-suê đã chiếm lấy Ma-kê đa vào ngày ấy rồi dùng gươm giết từng người ở đó, kể cả vua của chúng. Ông tiêu diệt chúng một cách hoàn toàn và từng vật sống ở đó. Ông không chừa lại một kẻ sống sót nào cả. Ông đã làm cho vua Ma-kê-đa y như ông đã làm cho vua Giê-ri-cô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Giô-suê và hết thảy Y-sơ-ra-ên đi qua khỏi Ma-kê-đa đến Líp-na. Ông đánh trận chống lại Líp-na.
|
|
\v 30 Đức Giê-hô-va cũng phó nó vào trong tay của Y-sơ-ra-ên — cùng với vua của chúng. Giô-suê đã dùng gươm tấn công từng vật sống ở đó. Ông không để cho một ai còn sống sót tại nơi ấy. Ông đã làm cho vua nó giống như ông đã làm cho vua Giê-ri-cô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 31 Thế rồi Giô-suê cùng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên cùng với ông qua khỏi Líp-na đến La-ki. Ông đóng trại gần bên thành ấy và tấn công chống lại nó.
|
|
\v 32 Đức Giê-hô-va đã ban La-ki vào trong tay của Y-sơ-ra-ên. Giô-suê chiếm lấy nó vào ngày thứ hai. Ông dùng gươm tấn công từng vật sống ở đó, y như ông đã làm với Líp-na.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 33 Kế đó Hô-ram, vua Ghê-xe, động binh để giúp đỡ La-ki. Giô-suê đã tấn công ông ta cùng quân độ của ông ta cho đến khi chẳng có một người còn sống.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 34 Khi ấy Giô-suê cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên qua khỏi La-ki đến Éc-lôn. Họ đóng trại gần thành ấy rồi tấn công nó,
|
|
\v 35 và chiếm lấy nó trong cùng ngày đó. Họ dùng gươm tấn công nó và họ tận diệt hoàn toàn từng người một ở trong đó, như Giô-suê đã làm với La-ki.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 36 Rồi Giô-suê cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên qua khỏi Éc-lôn đến Hếp-rôn. Họ tấn công nghịch lại nó.
|
|
\v 37 Họ chiếm lấy thành và dùng gươm tấn công mọi người ở đó, kế cả vua cùng hết thảy các làng mạc xung quanh. Họ tận diệt hoàn toàn từng vật sống ở đó, không để lại một người nào sống sót, y như Giô-suê đã làm với Éc-lôn. Ông tận diệt hoàn toàn thành ấy, cùng từng vật sống trong đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 38 Thế rồi Giô-suê cùng cả quân đội Y-sơ-ra-ên, họ qua khỏi Đê-bia và tấn công chống lại nó.
|
|
\v 39 Ông chiếm lấy nó và vua nó, và hết thảy các làng mạc lân cận nó. Họ dùng gươm tấn công rồi tận diệt hoàn toàn từng vật sống có mặt trong đó. Giô-suê không chừa lại một kẻ nào còn sống, y như ông đã làm với Hếp-rôn cùng vua của nó, và y như ông đã làm với Líp-na cùng vua của nó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 40 Giô-suê đã chinh phục cả xứ, vùng đồi núi, xứ Nê-giép, vùng đồng bằng, cùng những gò nỗng. Ông không chừa lại một kẻ nào sống sót trong các vua của chúng. Ông tận diệt hoàn toàn từng vật sống, y như Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã truyền:
|
|
\v 41 Giô-suê đã dùng gươm tấn công chúng từ Ca-đe-Ba-nê-a đến Ga-xa, và cả vùng Gô-sen đến Ga-ba-ôn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 42 Giô-suê đã bắt hết các vua nầy cùng chiếm lấy đất đai của chúng một lần vì Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đánh trận cho Y-sơ-ra-ên.
|
|
\v 43 Khi ấy Giô-suê, cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên, đã trở về trại quân tại Ghinh-ganh.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 11
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi Gia-bin, vua Hát-so, nghe biết sự việc nầy, ông ta sai sứ đến gặp Giô-báp, vua Ma-đôn, gặp vua Sim-rôn, và vua Ạc-sáp.
|
|
\v 2 Ông ta cũng sai sứ đến gặp các vua thuộc vùng đồi núi phía Bắc, trong đồng bằng sông Giô-đanh ở phía Nam Ki-nê-rết, thuộc trũng thấp, và vùng đồi núi Đô-rơ về phía Tây.
|
|
\v 3 Ông ta cũng sai sứ đến với dân Ca-na-an ở phía Đông và phía Tây, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít trong vùng đồi núi, và dân Hê-vít gần Núi Hẹt-môn trong xứ Mích-ba.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Hết thảy quân đội của họ cùng ra trận với họ, một lượng rất lớn nhiều binh lính, với số lượng giống như cát trên bờ biển vậy. Họ có rất nhiều ngựa và xe ngựa.
|
|
\v 5 Hết thảy các vua nầy gặp nhau với giờ đã ấn định, rồi họ đóng trại gần sông Mê-rôm để đánh nhau với Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Chớ sợ hãi trước sự hiện diện của chúng, vì ngày mai vào giờ nầy ta phó hết thảy chúng cho Y-sơ-ra-ên giống như những kẻ đã chết rồi vậy. Các con sẽ cắt nhượng ngựa của chúng, rồi các con sẽ thiêu đốt xe cộ của chúng".
|
|
\v 7 Giô-suê cùng các chiến sĩ đã đến. Họ đến thình lình tại sông Mê-rôm, rồi tấn công kẻ thù.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Đức Giê-hô-va phó kẻ thù vào trong tay của Y-sơ-ra-ên, và họ dùng gươm đánh chúng rồi truy kích đến Si-đôn, Mít-rê-phốt-Ma-im, và đến trũng Mích-va về phía Đông. Họ dùng gươm tấn công chúng cho đến chừng chẳng còn một người nào sống sót.
|
|
\v 9 Giô-suê đã làm cho chúng y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. Ông cắt nhượng ngựa rồi thiêu đốt xe cộ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Giô-suê quay trở lại thời điểm ấy rồi chiếm lấy Hát-so. Ông dùng gươm đánh vua ấy. (Hát-so là đầu của hết thảy các nước nầy).
|
|
\v 11 Họ dùng gươm giết hết từng vật sống ở đó, và ông biệt riêng chúng ra để bị tiêu diệt, vì vậy chẳng có một vật nào còn sống chừa lại. Khi ấy ông thiêu đốt Hát-so.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Giô-suê chiếm hết các thành của các vua nầy. Ông cũng bắt hết các vua của chúng rồi dùng gươm tấn công chúng. Ông dùng gươm tận diệt chúng một cách hoàn toàn, y như Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền.
|
|
\v 13 Y-sơ-ra-ên không đốt thành nào trên các gò cao, trừ ra Hát-so. Một mình thành ấy đã bị Giô-suê thiêu đốt.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Quân đội của Y-sơ-ra-ên chiếm lấy hết thảy chiến lợi phẩm từ các thành nầy cùng với bầy gia súc cho chính họ. Họ dùng gươm giết từng người cho đến khi hết thảy đều ngã chết. Họ chẳng chừa lại một vật nào còn sống.
|
|
\v 15 Y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho tôi tớ Ngài là Môi-se, Môi-se đã truyền lại cho Giô-suê cũng cùng một cách thế ấy. Và thế là Giô-suê đã không chừa lại một thứ gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se phải lo làm.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Giô-suê chiếm hết thảy xứ ấy, cùng núi non, hết thảy Nê-giép, tất cả xứ Gô-sen, vùng đất thấp, đồng bằng sông Giô-đanh, vùng núi của Y-sơ-ra-ên, và xứ thấp.
|
|
\v 17 Từ Núi Ha-lác gần Ê-đôm, và trải dài về phía Bắc đến tận Ba-anh Gát trong đồng bằng Li-ban tại chân núi Hẹt-môn, ông bắt hết các vua của chúng rồi giết đi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Giô-suê giao chiến lâu ngày với các vua nầy.
|
|
\v 19 Không có một thành nào lập hoà ước với quân đội Y-sơ-ra-ên trừ ra dân Hê-vít sinh sống tại Ga-ba-ôn. Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành còn lại trong chiến trận.
|
|
\v 20 Vì chính Đức Giê-hô-va Ngài đã làm cứng lòng họ hầu cho họ kéo đến đánh nhau chống lại Y-sơ-ra-ên, hầu cho Ngài sẽ tiêu diệt họ hoàn toàn, và chẳng tỏ ra sự thương xót cho họ, y như Ngài đã căn dặn Môi-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 Khi ấy Giô-suê xuất quân tiêu diệt dân A-na-kim. Ông đã làm điều nầy trong vùng đồi núi, tại Hếp-rôn, Đê-bia, A-náp, và trong các vùng đồi núi của Giu-đa, rồi trong vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên. Giô-suê huỷ diệt hoàn toàn chúng và các thành của chúng.
|
|
\v 22 Không một người nào của dân A-na-kim còn sống trong đất của Y-sơ-ra-ên trừ ra ở Ga-xa, Gát, và Ách-đốt.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 23 Vậy Giô-suê đã chiếm lấy toàn bộ xứ, y như Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se. Giô-suê đã ban xứ ấy làm cơ nghiệp cho Y-sơ-ra-ên, phân phối cho từng chi phái của họ. Khi ấy xứ đã yên nghỉ không còn chiến tranh nữa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 12
|
|
\p
|
|
\v 1 Đây là các vua của xứ, là những kẻ mà Y-sơ-ra-ên đã chinh phục. Dân Y-sơ-ra-ên đã chiếm lấy xứ ở bờ Đông sông Giô-đanh, nơi mặt trời mọc, từ đồng bằng Sông Ạt-nôn đến Núi Hẹt-môn, và hết thảy xứ A-ra-ba về phía Đông.
|
|
\v 2 Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống ở Hết-bôn. Người cai trị từ A-rô-e, là thành ở mé khe Ạt-nôn từ giữa đồng bằng, và phân nửa xứ Ga-la-át xuống đến Sông Gia-bốc nằm trên đường biên giới của dân Am-môn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Si-hôn cũng cai trị bên kia A-ra-ba cho đến biển Ki-nê-rết, về phía Đông, đến biển A-ra-ba (Biển Muối) phía Đông, suốt con đường dẫn đến Bết Giê-si-mốt và phía Nam, hướng tới chân triền núi Phích-ga.
|
|
\v 4 Óc, vua Ba-san, là kẻ còn sót lại của dân Rê-pha-im, sống tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i.
|
|
\v 5 Người cai trị trên Núi Hẹt-môn, Sanh-ca, cùng hết thảy Ba-san, đến biên giới của dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, và phân nửa xứ Ga-la-át, đến biên giới của Si-hôn, vua Hết-bôn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, và dân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại chúng, Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban xứ làm cơ nghiệp cho Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Đây là các vua trong xứ mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại nơi bờ Tây sông Giô-đanh, từ Ba-anh Gát trong đồng bằng gần Li-ban đến Núi Ha-lác gần Ê-đôm. Giô-suê ban xứ cho các chi phái Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp.
|
|
\v 8 Ông đã ban cho họ vùng núi non, vùng đất thấp, xứ A-ra-ba, các triền núi, đồng vắng, cùng vùng Nê-giép — đất của dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Các vua kể cả vua Giê-ri-cô, vua thành A-hi ở gần Bê-tên,
|
|
\v 10 vua của Giê-ru-sa-lem, vua của Ê-na-im,
|
|
\v 11 vua Giạt-mút, vua La-ki,
|
|
\v 12 vua Éc-lôn, vua Ghê-xe,
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 vua Đê-bia, vua Ghê-đe,
|
|
\v 14 vua Họt-ma, vua A-rát,
|
|
\v 15 vua Líp-na, vua A-đu-lam,
|
|
\v 16 vua Ma-kê-đa, vua Bê-tên,
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 vua Tháp-bu-ách, vua Hê-phe,
|
|
\v 18 vua A-phéc, vua Sa-rôn,
|
|
\v 19 vua Ma-đôn, vua Hát-so,
|
|
\v 20 vua Sim-rôn Mê-rôn, vua Ạc-sáp,
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 vua Tha-a-nác, vua Mê-ghi-đô,
|
|
\v 22 vua Kê-đe, vua Giốc-nê-am ở Cạt-mên,
|
|
\v 23 vua Đô-rơ ở Na-phát Đô-rơ, vua Gô-im ở Ghinh-ganh,
|
|
\v 24 và vua Thiệt-sa. Số các vua là 31 cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 13
|
|
\p
|
|
\v 1 Bấy giờ Giô-suê đã già và mạnh khoẻ suốt những năm tháng đó, Đức Giê-hô-va phán cùng ông; "Con đã già và tuổi đã cao, nhưng phần đất để chiếm lấy hãy còn nhiều lắm.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Đây là phần đất còn lại: tất cả các khu vực của dân Phi-li-tin, và hết thảy phần đất của dân Ghê-su-rít,
|
|
\v 3 (từ Si-cô, ở phía Đông xứ Ai-cập, và phía Bắc đến biên giới của Éc-rôn, bị coi là cơ nghiệp của dân Ca-na-an; năm vua dân Phi-li-tin, các vua của Ga-xa, Ách-đốt, Ách-ca-lôn, Gát, và Éc-rôn — lãnh thổ của dân A-vim).
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Ở phía Nam, vẫn còn có đất của dân Ca-na-an, và Mê-a-ra thuộc về dân Si-đôn, đến A-phéc, đến biên giới của dân A-mô-rít;
|
|
\v 5 đất đai dân Ghi-bê-lít, hết thảy Li-ban hướng mặt trời mọc, từ Ba-anh Gát xuống tới Núi Hẹt-môn đến Lê-bô Ha-mát.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Hết thảy dân cư của vùng đồi núi từ Li-ban cho đến tận Mi-rê-phốt-Ma-im, bao gồm hết thảy dân Si-đôn. Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi trước mặt quân đội của Y-sơ-ra-ên. Phải bảo đảm phân phối đất đai cho Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp, như ta đã truyền cho các con.
|
|
\v 7 Hãy phân chia xứ nầy làm cơ nghiệp cho chín chi phái và phân nửa chi phái Ma-na-se".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Với phân nửa chi phái Ma-na-se, chi phái Ru-bên và chi phái Gát đã nhận phần cơ nghiệp mà Môise đã ban cho họ ở bờ Đông sông Giô-đanh,
|
|
\v 9 từ A-rô-e, nằm trên mé sông Ạt-nôn (gồm có thành ở giữa trũng), đến hết thảy đồng bằng Mê-đê-ba có đến tận Đi-bôn;
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 tất cả các thành của Si-hôn, vua A-mô-rít, là người đã cai trị ở Hết-bôn, đến biên giới dân Am-môn;
|
|
\v 11 Ga-la-át, và khu vực dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, tất cả Núi Hẹt-môn, hết thảy Ba-san cho đến Sanh-ca;
|
|
\v 12 mọi vương quốc của Óc trong xứ Ba-san, ông ta đã trị vì tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i — đây là số dân sót Ép-ra-im bị chừa lại — Môi-se dùng gươm tấn công họ và trục xuất họ ra khỏi đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không đuổi dân Ghê-su-rít hoặc dân Ma-ca-thít. Thay vì thế, dân Ghê-su-rít và Ma-ca-thít đang sống giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Chỉ với chi phái Lê-vi Môi-se không ban cơ nghiệp cho. “Những của lễ của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đưa qua lửa" là cơ nghiệp của họ, y như Đức Chúa Trời đã phán cùng Môi-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Môi-se ban một cơ nghiệp cho chi phái Ru-bên, từng hộ một.
|
|
\v 16 Lãnh thổ của họ là từ A-rô-e, bên mé Sông Ạt-nôn, và thành nằm ở giữa đồng bằng, và toàn bộ bình nguyên gần Mê-đê-ba.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Ru-bên cũng nhận được Hết-bôn, và mọi thành của nó ở trong đồng bằng, là Đi-bôn, và Ba-mốt-Ba-anh, và Bết-Ba-anh-Mê-ôn,
|
|
\v 18 và Gia-hát, và Kê-đê-mốt, và Mê-phát,
|
|
\v 19 và Ki-ri-a-tha-im, và Síp-ma, và Xê-rết-Ha-sa-cha ở trên núi thuộc vùng đồng bằng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Ru-bên cũng nhận được Bết-Phê-ô, các triền núi Phích-ga, Bết-Giê-si-mốt,
|
|
\v 21 các thành của đồng bằng, và hết thảy vương quốc của vua Si-hôn dân A-mô-rít, là người đã cai trị ở Hết-bôn, Môi-se đã đánh bại người cùng với cấp lãnh đạo của Ma-đi-an, Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba, các hoàng tử của Si-hôn, họ đã sống trong xứ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên cũng dùng gươm giết Ba-la-am con trai Bê-ô, là người chuyên bói toán, giữa vòng những kẻ mà họ đã giết.
|
|
\v 23 Đường biên giới của chi phái Ru-bên là Sông Giô-đanh; đây là ranh giới của họ. Đây là phần sản nghiệp của chi phái Ru-bên, được ban cho từng hộ, với các thành và các làng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Đây là những gì Môi-se đã ban cho chi phái Gát, từng hộ một:
|
|
\v 25 Lãnh thổ của họ là Gia-ê-xe, các thành Ga-la-át và phân nửa đất đai của dân Am-môn, đến A-rô-e, nằm ở phía Đông của Ráp-ba
|
|
\v 26 từ Hết-bôn đến Ra-ma-Mít-bê và Bê-tô-nim, từ Ma-ha-na-im đến địa giới của Đê-bia.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 27 Ở đồng bằng, Môi-se đã ban cho họ Bết Ha-ram, Bết-Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn, phần còn lại vương quốc của Si-hôn vua Hết-bôn, với song Giô-đanh làm biên giới, cho đến phần cuối biển Ki-nê-rết, về phía Đông sông Giô-đanh.
|
|
\v 28 Đây là sản nghiệp của chi phái Gát, từng hộ một, với các thành và các làng của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Môi-se đã ban sản nghiệp cho phân nửa chi phái Ma-na-se. Sản nghiệp ấy đã được phân phối cho phân nửa dân sự của Ma-na-se, đã được trao cho từng chi phái của họ.
|
|
\v 30 Lãnh thổ của họ là từ Ma-ha-na-im, hết thảy Ba-san, hết thảy vương quốc của Óc vua Ba-san, và tất cả các thị trấn của Giai-rơ, nằm trong Ba-san, sáu mươi thành;
|
|
\v 31 phân nửa Ga-la-át, và Ách-ta-rốt và Ết-rê-i (đế đô của Óc trong xứ Ba-san). Các thành nầy đã được phân phối cho hộ Ma-ki con trai của Ma-na-se — phân nửa dân sự của Ma-ki, được trao cho từng hộ gia đình của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 32 Đây là sản nghiệp mà Môi-se đã phân phát cho họ trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh ở phía Đông thành Giê-ri-cô.
|
|
\v 33 Môi-se không ban sản nghiệp cho chi phái Lê-vi. Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp của họ, y như Ngài đã phán cùng họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 14
|
|
\p
|
|
\v 1 Có những phần đất dân Y-sơ-ra-ên đã nhận làm sản nghiệp trong xứ Ca-na-an, do thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, do Giô-suê con trai Nun, và bởi cấp lãnh đạo chi phái các gia đình tổ phụ họ trong dân Y-sơ-ra-ên phân phát cho họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Sản nghiệp của họ do bóc thăm chọn cho chín chi phái rưỡi, y như Đức Giê-hô-va đã truyền ra bởi tay của Môi-se,
|
|
\v 3 vì Môi-se đã ban sản nghiệp của hai chi phái rưỡi ở bên kia sông Giô-đanh, nhưng ông không ban sản nghiệp cho chi phái Lê-vi.
|
|
\v 4 Chi phái của Giô-sép chắc chắn là hai chi phái, Ma-na-se và Ép-ra-im. Và không một phần sản nghiệp nào được ban cho người Lê-vi trong xứ, nhưng chỉ có các thành nhất định để sống trong đó, với đồng cỏ dành cho bầy gia súc và để làm tài nguyên về vật chất của họ.
|
|
\v 5 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môise, vì vậy họ đã phân chia xứ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Khi ấy chi phái Giu-đa đến với Giô-suê tại Ghinh-ganh. Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-nít, nói với ông: "Ông biết những gì Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se người của Đức Chúa Trời về ông và tôi tại Ka-đe-Ba-nê-a.
|
|
\v 7 Tôi đã được bốn mươi tuổi khi Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va sai tôi từ Ka-đe-Ba-nê-a đi do thám xứ. Tôi đã trình cho ông ấy một báo cáo y như lòng tôi viết ra vậy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Nhưng các anh em họ đồng đi với tôi làm cho tấm lòng của dân sự phải nao sờn. Nhưng tôi hoàn toàn bước theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi.
|
|
\v 9 Môi-se đã thề trong ngày ấy mà rằng: 'Chắc chắn đất đai trên đó bàn chơn anh em đặt lên sẽ là sản nghiệp cho anh em và cho con cháu anh em đến đời đời, vì anh em đã bước theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi một cách hoàn toàn.'
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Bây giờ, hãy xem đây! Đức Giê-hô-va đã giữ cho tôi còn sống cách đây bốn mươi lăm năm, y như Ngài đã phán — từ thời điểm mà Đức Chúa Trời phán ra lời nầy với Môi-se, trong khi dân Y-sơ-ra-ên còn bước đi trong đồng vắng. Giờ đây, hãy nhìn xem đi! Ngày nay tôi đã được tám mươi lăm tuổi.
|
|
\v 11 Tôi vẫn còn mạnh mẽ y như tôi đã có trong ngày mà Môi-se sai tôi đi. Sức lực của tôi giờ đây cũng bằng như khi đó, để ra trận và để vào ra.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Bây giờ, vì lẽ đó hãy ban cho tôi xứ có núi non như thế nầy, mà Đức Giê-hô-va đã hứa với tôi trong ngày ấy. Vì ông có nghe nhằm ngày ấy rằng dân A-na-kim có mặt ở đó với các thành được phòng thủ hẳn hoi. Có thể là Đức Giê-hô-va sẽ hiện diện cùng với tôi và tôi sẽ trục xuất họ ra khỏi, y như Đức Giê-hô-va đã phán"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Khi đó Giô-suê đã chúc phước cho người và ban Hếp-rôn làm sản nghiệp cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê.
|
|
\v 14 Vì lẽ đó Hếp-rôn trở nên sản nghiệp của Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-nít cho đến ngày nay, vì ông bước theo Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cách hoàn toàn.
|
|
\v 15 Bấy giờ, danh xưng của Hếp-rôn trước kia gọi là Ki-ri-át A-ra-ba. (A-ra-ba là người giềnh giàng hơn hết giữa vòng dân A-na-kim). Thế là xứ đã yên nghỉ không còn chiến tranh nữa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 15
|
|
\p
|
|
\v 1 Phần đất dành cho dân sự chi phái Giu-đa, trao cho các hộ gia đình của họ, chạy dài xuống phía Nam đến biên giới của Ê-đôm, với đồng vắng Sin là điểm xa nhất ở phía Nam.
|
|
\v 2 Biên giới của họ ở phía Nam chạy từ cuối Biển Muối, từ chỗ phân cách đối diện với phía Nam.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Biên giới của họ thẳng về phía Nam đồi Ạc-ráp-bim băng dọc theo Xin, rồi thẳng tới phía Nam Ka-đe Ba-nê-a, dọc theo Hết-rôn, và hướng tới Át-đa, ở đó nó rẽ về phía Cạt-đa.
|
|
\v 4 Nó băng dọc theo Ạt-nôn, thẳng tới khe Ai-cập, rồi đến điểm cuối tại biển. Đây là đường biên giới phía Nam của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Biên giới phía Đông là Biển Muối, ở ngay cửa sông Giô-đanh. Biên giới về phía Bắc chạy từ chỗ phân cách biển nơi cửa sông Giô-đanh.
|
|
\v 6 Nó đi thẳng lên Bết-Hô-la rồi đi dọc phía Bắc của Bết-A-ra-ba. Rồi đi thẳng tới Hòn Đá Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên).
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Đường biên giới chạy thắng tới Đê-bia từ trũng A-cô, và tới hướng Bắc, về phía Ghinh-ganh, đối ngược với đồi A-đu-mim, nằm ở sườn phía Nam của dòng sông. Khi ấy biên giới chạy dọc theo các con suối En Sê-mết và thẳng tới En Rô-ghên.
|
|
\v 8 Biên giới chạy thẳng lên trũng Bên Hin-nôm tới sườn phía Nam của thành của dân Giê-bu-sít (nghĩa là, Giê-ru-sa-lem). Nó chạy thẳng tới đỉnh đồi nằm bên kia đồng bằng Hin-nôm, về phía Tây, nằm ở cực Bắc của đồng bằng Rê-pha-im.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Biên giới kéo dài từ đỉnh đồi đến dòng suối Nép-tô-ách, và thẳng từ đó đến các thành phố của Núi Ép-rôn. Biên giới cong về phía Ba-la (cũng là Ki-ri-át Giê-a-rim).
|
|
\v 10 Khi ấy đường biên giới quanh về phía Tây Ba-la đến Núi Sê-i-rơ, rồi băng dọc theo Núi Giê-a-rim về phía Bắc (cũng là Kê-sa-lôn), chạy xuống Bết Sê-mết, rồi đi dọc theo Thim-na.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Biên giới thẳng ra cạnh đối Éc-rôn ở phía bắc, rồi cong về phía Siếc-rôn rồi đi dọc Núi Ba-la, từ đó nó thẳng đến Giáp-nê-ên. Biên giới kết thúc ở ngay biển.
|
|
\v 12 Đường biên giới phía Tây là Biển Lớn cùng dọc bờ của biển ấy. Đây là đường biên giới quanh chi phái Giu-đa, từng hộ một.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Trong việc giữ theo mạng lịnh của Đức Giê-hô-va ban cho Giô-suê, Giô-suê đã ban cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê một phần đất giữa vòng chi phái Giu-đa, Ki-ri-át A-ra-ba, nghĩa là Hếp-rôn. (A-ra-ba là cha của A-nác).
|
|
\v 14 Ca-lép trục xuất khỏi đó ba bộ tộc thuộc dòng dõi của A-nác: Sê-sai, A-hi-man và Tha-mai, dòng dõi của A-nác.
|
|
\v 15 Ông đi lên từ đó chống lại cư dân của Đê-bia (danh xưng Đê-bia thường được gọi là Ki-ri-át Sê-phe).
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Ca-lép nói: "Người nào tấn công Ki-ri-át-Sê-phe rồi chiếm lấy nó, ta sẽ gả Ạc-sa con gái ta cho người làm vợ".
|
|
\v 17 Ốt-ni-ên con trai Kê-na, em của Ca-lép, đã chiếm lấy nó. Vì vậy Ca-lép gả Ạc-sa con gái mình cho người làm vợ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 18 Khi Ạc-sa đến với người, nàng giục người xin cha nàng một cánh đồng. Rồi khi nàng xuống khỏi lưng lừa, Ca-lép nói cùng nàng: "Con muốn chi?"
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Ạc-sa đáp: "Xin ban cho con một ơn đặc biệt. Từ khi cha ban cho con đất Nê-giép, cũng hãy ban cho con mấy con suối kia". Và Ca-lép ban cho nàng mấy con suối ở trên và mấy con suối ở dưới.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Đây là sản nghiệp của dân sự chi phái Giu-đa, được ban cho các hộ gia đình họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 Các thành thuộc chi phái Giu-đa nằm ở cực nam, đối ngang biên giới xứ Ê-đôm, là Cáp-sê-ên, Ê-đe, Gia-gua,
|
|
\v 22 Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa,
|
|
\v 23 Kê-đe, Hát-so, Gít-nan,
|
|
\v 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt-Hết-rôn (chỗ nầy cũng được biết đến là Hát-so),
|
|
\v 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa,
|
|
\v 27 Hát-sa-Ga-đa, Hết-môn, Bết-Pha-lê,
|
|
\v 28 Hát-sa-Su-anh, Bê-e-sê-ba, Bi-sốt-gia.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Ba-la, Y-đim, Ê-xem,
|
|
\v 30 Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma,
|
|
\v 31 Xiếc-lát, Mát-ma-na, San-sa-na,
|
|
\v 32 Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn. Đây là hai mươi chín thành cả thảy, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 33 Trong vùng thấp, có Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na,
|
|
\v 34 Xa-nô-ách, En-Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam,
|
|
\v 35 Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cốt, A-xê-ca,
|
|
\v 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, và Ghê-đê-ra (nghĩa là, Ghê-đê-rô-tha-im). Tổng cộng có mười bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh-gát,
|
|
\v 38 Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên,
|
|
\v 39 La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 40 Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít,
|
|
\v 41 Ghê-đê-rốt, Bất Đa-gôn, Na-a-ma, Ma-kê-đa. Tổng cộng là mười sáu thành cả thảy, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 42 Líp-na, Ê-the, A-san,
|
|
\v 43 Díp-tách, Át-na, Nết-síp,
|
|
\v 44 Kê-i-la, Ạc-síp, Ma-rê-sa. Đây là chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 45 Éc-rôn, với các thị trấn và làng mạc bao quanh;
|
|
\v 46 từ Éc-rôn cho đến Biển Lớn, mọi khu định cư đều ở gần Ách-đốt, bao gồm các làng mạc của họ.
|
|
\v 47 Ách-đốt, các thị trấn và làng mạc bao quanh nó; Ga-xa, các thị trấn và làng mạc bao quanh nó; cho đến khe Ai-cập, rồi đến Biển Lớn với bờ biển của nó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 48 Trong vùng đồi núi, Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô,
|
|
\v 49 Đa-na, Ki-ri-át-Sa-na (nghĩa là, Đê-bia),
|
|
\v 50 A-náp, Ếch-thê-mô, A-nim,
|
|
\v 51 Gô-sen, Hô-lôn, và Ghi-lô. Đây là mười một thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 52 A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an,
|
|
\v 53 Gia-num, Bết-Tháp-bu-ách, A-phê-ca,
|
|
\v 54 Hum-ta, Ki-ri-át-A-ra-ba (nghĩa là, Hếp-rôn), và Si-ô. Đây là chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 55 Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Giu-ta,
|
|
\v 56 Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách,
|
|
\v 57 Ca-in, Ghi-bê-a, và Thim-na. Đây là mười thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 58 Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô,
|
|
\v 59 Ma-a-rát, Bết-A-nốt, và En-thê-côn. Đây là sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 60 Ki-ri-át-Ba-anh (nghĩa là, Ki-ri-át-Giê-a-rim), và Ráp-ba. Đây là hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
\v 61 Trong đồng vắng, có Bết-A-ra-ba, Mi-đin, Sê-sa-ca,
|
|
\v 62 Níp-san, Thành Muối, và Ên Ghê-đi. Đây là sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 63 Nhưng giống như dân Giê-bu-sít, cư dân của Giê-ru-sa-lem, chi phái Giu-đa không thể đuổi họ được, vì vậy dân Giê-bu-sít sống ở đó với chi phái Giu-đa cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 16
|
|
\p
|
|
\v 1 Phần đất dành cho chi phái Giô-sép chạy dài từ sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô, phía Đông các dòng suối của Giê-ri-cô, vào trong đồng vắng, chạy lên từ Giê-ri-cô qua vùng núi ở Bê-tên.
|
|
\v 2 Khi ấy nó trải từ Bê-tên đến Lu-xơ rồi ngang qua A-ta-rốt, lãnh thổ của dân A-rê-kít.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Rồi nó xuống phía Tây lãnh thổ dân Giáp-lê-tít, xa đến lãnh thổ Hạ Bết Hô-rôn, thẳng đến Ghê-xe; nó kết thúc ở nơi biển.
|
|
\v 4 Chính trong con đường nầy mà các chi phái của Giô-sép, Ma-na-se và Ép-ra-im đã nhận được sản nghiệp của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Lãnh thổ của chi phái Ép-ra-im được phân phát cho các hộ gia đình của họ như sau: biên giới sản nghiệp của họ về phía Đông chạy từ A-ta-rốt A-đa cho đến Thượng Bết Hô-rôn,
|
|
\v 6 và từ đó tiếp tục ra đến biển. Từ Mít-mê-thát lên phía Bắc nó chuyển qua hướng Đông tới Tha-a-nát Si-lô và qua khỏi đó đến Gia-nô-a theo phía Đông.
|
|
\v 7 Rồi nó vòng xuống từ Gia-nô-a đến A-ta-rốt đến Na-a-ra, rồi đến Giê-ri-cô, kết thúc nơi sông Giô-đanh.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Từ Tháp-bu-ách biên giới chạy về phía Tây đến khe Ca-na và kết thúc ở biển. Đây là sản nghiệp của chi phái Ép-ra-im, phân phối cho các hộ gia đình của họ,
|
|
\v 9 cùng với các thành đã được chọn cho chi phái Ép-ra-im bên trong sản nghiệp của chi phái Ma-na-se — tất cả các thành, cũng như những làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Họ không trục xuất dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe, thế là dân Ca-na-an sống trong vòng Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng các dân nầy bị buộc phải làm lao động nhọc nhằn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 17
|
|
\p
|
|
\v 1 Đây là phần bắt thăm chia đất cho chi phái Ma-na-se (là trưởng nam của Giô-sép) — nghĩa là, vì Ma-kia, là con đầu lòng của Ma-na-se và chính ông là cha của Ga-la-át. Dòng dõi của Ma-kia bóc thăm được phần đất Ga-la-át và Ba-san, vì Ma-kia là một chiến binh.
|
|
\v 2 Đất bóc thăm cho phần còn lại của chi phái Ma-na-se, được trao cho các hộ gia đình của họ — A-bi-Ê-xe, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chem, Hê-phe, và Sê-mi-đa. Đây là các con trai của Ma-na-se, cháu của Giô-sép, được trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Bấy giờ Xê-lô-phát con trai Hê-phe cháu của Ga-la-át chắt của Ma-kia chít của Ma-na-se chẳng có con trai, mà chỉ có mấy cô con gái. Đây là tên của mấy người con gái của ông: Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa.
|
|
\v 4 Họ đến gần Ê-lê-a-sa thầy tế lễ, Giô-suê con trai Nun, cùng các cấp lãnh đạo, rồi họ nói: "Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môise phải trao cho chúng tôi phần cơ nghiệp cùng với các anh em chúng tôi" Vì vậy, theo lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, ông đã trao cho mấy người nữ nầy phần sản nghiệp giữa vòng các anh em của cha mấy người nữ ấy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Mười phần đất bắt thăm cho Ma-na-se trong Ga-la-át và Ba-san, đều ở bên kia sông Giô-đanh,
|
|
\v 6 vì các con gái của Ma-na-se đã nhận lãnh phần sản nghiệp cùng với các con trai người. Phần đất ở Ga-la-át trúng nhằm phần con lại của chi phái Ma-na-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Lãnh thổ của Ma-na-se trải từ A-se đến Mít-mê-thát, nằm ở phía Đông Si-chem. Rồi biên giới chạy về phía Nam đến những người sống gần suối Tháp-bu-ách.
|
|
\v 8 (Phần đất Tháp-bu-ách thuộc về Ma-na-se, song làng Tháp-bu-ách ở gần biên giới của Ma-na-se đã thuộc về chi phái Ép-ra-im).
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Biên giới chạy xuống khe Ca-na. Các thành nầy ở phía Nam cái khe ở giữa các làng mạc của Ma-na-se đã thuộc về Ép-ra-im. Biên giới của Ma-na-se nằm ở sườn phía Bắc của cái khe, và nó kết thúc nơi mé biển.
|
|
\v 10 Phần đất ở phía Nam đã thuộc về Ép-ra-im, và phần đất ở phía Bắc thì thuộc về Ma-na-se; biển là đường biên giới. Ở sườn phía Bắc giáp với A-se, và phía Đông, với Y-sa-ca.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Trong Y-sa-ca và trong A-se, Ma-na-se có Bết-San cùng các làng mạc nó, Gíp-lê-am cùng các làng mạc nó, cư dân của Đô-rơ cùng các làng mạc nó, cư dân của En-đô-rơ cùng các làng mạc nó, cư dân của Tha-a-nác cùng các làng mạc nó, và cư dân của Mê-ghi-đô cùng các làng mạc nó (và thành thứ ba là Na-phéc).
|
|
\v 12 Tuy nhiên chi phái Ma-na-se không thể chiếm lấy các thành ấy, vì dân Ca-na-an tiếp tục sống trong đất nầy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Khi dân sự Y-sơ-ra-ên càng thêm cường thạnh, họ buộc dân Ca-na-an phải lao động nhọc nhằn, nhưng không trực tiếp trục xuất họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Thế thì dòng dõi của Giô-sép nói với Giô-suê như sau: "Tại sao ông chỉ ban cho chúng tôi một phần của xứ và một phần đất làm sản nghiệp, khi chúng tôi là một dân đông, và vì mọi sự Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho chúng tôi?"
|
|
\v 15 Giô-suê bèn nói cùng họ: "Nếu anh em là một dân đông, hãy tự mình đi lên khu rừng kia, tìm cho mình một chỗ trong xứ người Phê-rê-sít và người Rê-pha-im. Hãy làm điều nầy, một khi vùng núi Ép-ra-im là quá nhỏ đối với anh em".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Dòng dõi của Giô-sép nói: "Vùng núi non không đủ cho chúng ta. Nhưng dân Ca-na-an họ sống trong đồng bằng đều có xe cộ bằng sắt, cả hai dân nầy đang sống ở Bết-San cùng các làng mạc nó, và những kẻ sống trong đồng bằng Gít-rê-ên".
|
|
\v 17 Khi ấy Giô-suê nói với nhà Giô-sép — với Ép-ra-im và Ma-na-se: "Anh em là một dân đông đảo, và anh em có sức lớn. Anh em không những có một phần đất đã bóc thăm cho anh em.
|
|
\v 18 Vùng núi cũng thuộc về anh em. Mặc dù đây là một khu rừng, anh em sẽ dọn nó rồi chiếm lấy nó cho đến đường biên giới xa nhất. Anh em sẽ trục xuất người Ca-na-an, mặc dù họ có loại xe bằng sắt, và mặc dù họ rất mạnh mẽ".
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 18
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy toàn bộ hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại tại Si-lô. Họ dựng trại ở đó và họ chinh phục phần đất ở trước mặt họ.
|
|
\v 2 Vẫn có bảy chi phái giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên chưa được phân chia sản nghiệp.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Giô-suê nói cùng dân sự Y-sơ-ra-ên: "Anh em cứ trì trệ mãi cho tới chừng nào, không đi chiếm xứ mà Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã ban cho anh em?
|
|
\v 4 Hãy tự mình tuyển ra cứ mỗi chi phái ba người, còn ta sẽ sai họ đi ra. Họ sẽ đi điều nghiên cả xứ. Họ sẽ ghi ra phần mô tả xứ với ý đồ cho sản nghiệp của họ, và khi ấy họ sẽ trở lại cùng ta.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Họ sẽ chia xứ ấy thành bảy phần. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của họ về phía Nam, còn nhà Giô-sép sẽ tiếp tục trong lãnh thổ của họ về phía bắc.
|
|
\v 6 Anh em sẽ mô tả phần đất trong bảy phần ấy rồi đem phần mô tả về đây cho ta. Ta sã bóc thăm cho anh em ở đây trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Người Lê-vi chẳng có phần gì ở giữa anh em, vì chức thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va là sản nghiệp của họ. Gát, Ru-bên, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã nhận lấy sản nghiệp của họ, bên kia sông Giô-đanh. Đây là sản nghiệp mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho họ".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Vì vậy, họ chỗi dậy rồi đi. Giô-suê truyền cho những người đi ghi chép phần mô tả xứ như sau: "Hãy đi lên rồi chiếm lấy xứ và ghi chép phần mô tả nó và trở lại cùng ta. Ta sẽ bắt thăm cho anh em tại đây trước mặt Đức Giê-hô-va ở Si-lô".
|
|
\v 9 Mấy người ấy rời đi, họ lên xuống trong xứ đặng ghi chép phần mô tả xứ đó trong một cuộn giấy da các thành phố trong phần đất đó, liệt kê các thành phố trong mỗi phần đất. Khi ấy họ trở về cùng Giô-suê trong trại quân tại Si-lô.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Rồi Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt Đức Giê-hô-va. Rồi ở đó Giô-suê phân phát đất đai cho dân sự Y-sơ-ra-ên — mỗi chi phái phần của họ trong xứ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Phần đất bắt thăm cho chi phái Bên-gia-min được trao cho từng hộ gia đình của họ. Lãnh thổ phần đất bắt thăm cho họ nằm ở giữa dòng dõi của Giu-đa và dòng dõi của Giô-sép.
|
|
\v 12 Ở sườn phía Bắc biên giới của họ khởi sự tại sông Giô-đanh. Đường biên giới chạy đến phía sau Giê-ri-cô về phía Bắc, rồi lên vùng đồi núi ở hướng Tây. Nó chạy dài tới đồng vắng Bết- A-ven.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Từ đó đường biên giới chạy ngang qua hướng Nam theo hướng thành Lu-xơ (cùng địa điểm là Bê-tên). Khi ấy biên giới chạy xuống tới A-ta-rốt-A-đa, gần dãy núi nằm ở phía Nam Bết-Hô-rôn.
|
|
\v 14 Đường biên giới chạy theo hướng khác, quay qua sườn phía Tây, đến phía Nam hướng về vùng núi, đối ngang Bết-Hô-rôn. Nó kết thúc ở Ki-ri-át-Ba-anh (nghĩa là, Ki-ri-át-Giê-a-rim), một thành thuộc về chi phái Giu-đa. Điều nầy hình thành sườn phía Tây.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Sườn phía Nam bắt đầu ngay bên ngoài Ki-ri-át Giê-a-rim. Biên giới trải từ đó đến Ép-rôn, đến suối nước Nép-thô-ách.
|
|
\v 16 Khi ấy đường biên giới chạy xuống gặp biên giới của hòn núi nhìn qua bên kia đồng bằng Bên Hin-nôm, nằm ngay cuối phía Bắc của đồng bằng Rê-pha-im. Rồi nó chạy xuống trũng Hin-nôm, phía Nam sườn đồi dân Giê-bu-sít, và tiếp tục xuống đến Ên-Rô-ghên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Nó đổi sang hướng Bắc, đi theo hướng En-Sê-mết, rồi từ đó nó chạy khỏi Ghê-li-lốt, đối ngang dốc A-đu-mim. Khi ấy nó chạy xuống đá Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên).
|
|
\v 18 Nó chạy ngang lên phía Bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Biên giới chạy ngang qua phía Bắc của Bết-Hô-la. Biên giới kết thúc ngay vịnh phía Bắc của Biển Muối, ở cuối phía Nam sông Giô-đanh. Đây là đường biên giới ở phía Nam.
|
|
\v 20 Sông Giô-đanh hình thành đường biên giới của nó ở sườn phía Đông. Đây là sản nghiệp của chi phái Bên-gia-min, và nó được trao cho từng hộ gia đình của họ, từng biên giới một.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 Giờ đây, các thành của chi phái Bên-gia-min tuỳ theo các hộ gia đình của họ là Giê-ri-cô, Bết-Hô-la, Ê-méc-Kê-sít,
|
|
\v 22 Bết-A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên,
|
|
\v 23 A-vim, Pha-ra, Óp-ra,
|
|
\v 24 Kê-pha-A-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba. Có mười hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Cũng có các thành Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt,
|
|
\v 26 Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa,
|
|
\v 27 Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la,
|
|
\v 28 Xê-la, Ê-lép, Giê-bu (cũng là Giê-ru-sa-lem), Ghi-bê-át, và Ki-ri-át. Có mười bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ. Đây là sản nghiệp của chi phái Bên-gia-min trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 19
|
|
\p
|
|
\v 1 Thăm thứ nhì trúng nhằm chi phái Si-mê-ôn và được phân phối cho các hộ gia đình của họ. Sản nghiệp của họ nằm ở giữa sản nghiệp thuộc về chi phái Giu-đa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 2 Họ đã có phẩn sản nghiệp của họ Bê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa,
|
|
\v 3 Hát-sa-Su-anh, Ba-la, Ê-xem,
|
|
\v 4 Ên-thô-lát, Bê-thu, và Họt-ma.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Si-mê-ôn cũng có Xiếc-lát, Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa,
|
|
\v 6 Bết-Lê-ba-ốt, và Sê-a-ru-chen. Đây là mười ba thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
\v 7 Si-mê-ôn cũng có A-in, Rim-môn, Ê-the, và A-san. Có bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Đây là tất cả các làng vây quanh mấy thành nầy ở xa xa như Ba-lát-Bê-e (cũng là Ra-ma trong Nê-giép). Đây là sản nghiệp của chi phái Si-mê-ôn, được trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
\v 9 Sản nghiệp của chi phái Si-mê-ôn hình thành một phần lãnh thổ của chi phái Giu-đa. Vì phần đất phân phối cho chi phái Giu-đa là quá rộng đối với họ, chi phái Si-mê-ôn đã nhận lãnh phần sản nghiệp của họ ở giữa ngoài phần đất của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Thăm thứ ba trúng nhằm chi phải Sa-bu-lôn, và phần đất được trao cho họ từng hộ gia đình. Biên giới của sản nghiệp họ bắt đầu tại Sa-rít.
|
|
\v 11 Biên giới của họ chạy lên hướng Tây thẳng đến Ma-rê-a-la đụng Đáp-bê-sết; rồi nó đụng khe nằm đối ngang Giốc-nê-am.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Từ Sa-rít biên giới chạy theo hướng Đông hướng tới phía Đông rồi đến biên giới của Kít-lốt-Tha-bô. Từ đó nó chạy thẳng tới Đáp-rát rồi ngược lên đến Gia-phia.
|
|
\v 13 Từ đó nó đi ngang về phía Đông đến Gát Hê-phe, rồi đến Ét-cát-sin; kế đó nó đến tại Rim-môn rồi hướng tới Nê-a.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Biên giới tạo thành ngã rẻ lên phía Bắc đến Ha-na-thôn rồi kết thúc tại đồng bằng Díp-thách-En.
|
|
\v 15 Khu vực nầy bao gồm các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la, và Bết-lê-hem. Có mười hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
\v 16 Đây là sản nghiệp của chi phái Sa-bu-lôn, đã được trao cho từng hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Thăm thứ tư rơi trúng chi phái Y-sa-ca, và sản nghiệp ấy đã được trao cho từng hộ gia đình của họ.
|
|
\v 18 Lãnh thổ của họ bao gồm Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem,
|
|
\v 19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, và A-na-cha-rát.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Nó cũng gồm Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết,
|
|
\v 21 Rê-mết, En-ga-nim, En-ha-đa, và Bết-phát-sết.
|
|
\v 22 Biên giới của họ cũng đụng Tha-bô, Sa-chát-si-ma, và Bết-Sê-mết, rồi kết thúc nơi sông Giô-đanh. Có mười sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 23 Đây là sản nghiệp của chi phái Y-sa-ca, và đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, bao gồm các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Thăm thứ năm rơi nhằm chi phái A-se, và sản nghiệp đã được trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
\v 25 Lãnh thổ của họ bao gồm Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ác-sáp,
|
|
\v 26 A-lam-mê-léc, A-mê-át, và Mít-sê-anh. Về phía Tây, đường biên giới kéo dài tới Cạt-mên và Si-hô-Líp-nát.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 27 Rồi nó rẻ qua hướng Đông đến Bết Đa-gôn rồi chạy xa tít đến Sa-bu-lôn, rồi đến đồng bằng Díp-thách-en, hướng tới phía bắc đến Bết-ê-méc và Nê-i-ên. Rồi nó tiếp tục đến Ca-bun về phía Bắc.
|
|
\v 28 Rồi nó tiếp tục chạy thẳng đến Ép-rôn, Rê-hốp, Ham-môn, và Ca-na, đến tận Si-đôn Lớn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Biên giới quay trở lại tới Ra-ma, và rồi tới thành kiên cố ở Ty-rơ. Khi ấy đường biên giới chuyển qua Hô-sa rồi kết thúc ngay ở biển, trong khu vực Ạc-xíp,
|
|
\v 30 U-ma, A-phéc, và Rê-hốp. Có hai mươi thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 31 Đây là sản nghiệp của chi phái A-se, và nó đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 32 Thăm thứ sáu rơi trúng chi phái Nép-ta-li, và sản nghiệp được trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
\v 33 Biên giới chạy từ Hê-lép, từ cây sồi tại Sa-na-im, cho đến A-đa-mi-nê-kép và Giáp-nê-ên, xa đến Lạt-cum; rồi kết thúc tại sông Giô-đanh.
|
|
\v 34 Biên giới chuyển qua hướng tây đến Ạt-nốt-tha-bô rồi tiếp tục tới Hục-cốc; nó đụng đến Sa-bu-lôn ở phía Nam, và đến tận A-se về phía Tây và Giu-đa ở phía Đông sông Giô-đanh.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 35 Các thành kiên cố là Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết,
|
|
\v 36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so,
|
|
\v 37 Kê-đe, Ết-rê-i, và En-Hát-so.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 38 Cũng có Gi-rê-ôn, Mít-đa-en Hô-rem, Bết-a-nát, và Bết Sê-mết. Có mười chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
|
|
\v 39 Đây là sản nghiệp của chi phái Nép-ta-li, và nó được trao cho các hộ gia đình của họ —các thành, kể cả các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 40 Thăm thứ bảy rơi trúng chi phái Đan, và sản nghiệp đã được trao cho các hộ gia đình của họ.
|
|
\v 41 Phần lãnh thổ sản nghiệp của họ bao gồm Xô-rê-a, Ét-tha-nôn, Yết-sê-mết,
|
|
\v 42 Sa-la-bin, A-gia-lôn, và Gít-la.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 43 Nó cũng bao gồm Ê-lôn, Thim-na, Éc-rôn,
|
|
\v 44 En-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát,
|
|
\v 45 Giê-hút, Bê-nê-bê-rác, Gát-Rim-môn,
|
|
\v 46 Mê-Giạt-côn, và Ra-côn cùng với phần lãnh thổ băng qua Giốp-bê.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 47 Khi phần lãnh thổ của chi phái Đan đã được bóc thăm cho họ, Đan tấn công Lê-sem, đánh trận nghịch cùng nó, rồi chiếm lấy. Họ dùng gươm giết mọi người, chiếm lấy, rồi an cư trong đó. Họ đặt tên Lê-sem lại, gọi đó là Đan theo tên tổ phụ của họ.
|
|
\v 48 Đây là phần sản nghiệp của chi phái Dan, và nó đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 49 Khi họ chia xứ làm sản nghiệp xong rồi, dân Y-sơ-ra-ên đã trao sản nghiệp giữa vòng họ cho Giô-suê con trai Nun.
|
|
\v 50 Theo lịnh truyền của Đức Giê-hô-va họ đã trao cho ông thành mà ông yêu cầu, Thim-nát-Sê-rách trong cùng đồi núi Ép-ra-im. Ông xây dựng lại thành ấy rồi sinh sống ở đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 51 Đây là các sản nghiệp mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun, và cấp lãnh đạo các chi phái trong gia đình của tổ phụ họ trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, đã bóc thăm phân phối tại Si-lô, trước mặt Đức Giê-hô-va, nơi lối vào của hội mạc. Vậy, họ đã hoàn tất việc phân phối xứ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 20
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
|
|
\v 2 "Hãy nói với dân như vầy: 'Hãy chỉ định các thành ẩn náu mà ta đã phán với con bởi tay của Môi-se.
|
|
\v 3 Hãy làm việc nầy hầu cho người nào không chủ ý giết người có thể đến đó ở. Các thành nầy sẽ trở thành một nơi ẩn náu, tránh bất cứ ai tìm cách báo thù huyết của kẻ bị giết.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Người ấy sẽ chạy đến một trong các thành nầy rồi đứng nơi lối vào nơi cổng thành, giải thích trường hợp của mình cho các trưởng lão của thành ấy biết. Rồi họ sẽ đưa người vào trong thành và cung ứng cho người một chỗ để người sống giữa vòng họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Và nếu một người đến tìm cách báo thù huyết của kẻ đã chết, khi ấy dân sự của thành không trao cho nhà cầm quyền kẻ đã giết người. Họ không được làm điều nầy, vì kẻ giết người lân cận mình không có cố ý và không có thù ghét người trước đó.
|
|
\v 6 Người nầy phải ở lại trong thành đó cho tới chừng người đến đứng trước cả hội chúng để chịu đoán xét, cho tới lúc một người phục vụ trong vai trò thầy tế lễ vào thời ấy qua đời. Khi ấy người vô ý giết người trở về làng mạc quê hương của mình, về với chỗ mà từ đó người trốn đi'".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã chọn Kê-đe tại Ga-li-kê trong vùng đồi núi của chi phái Nép-ta-li, Si-chem trong vùng đồi núi chi phái Ép-ra-im, và Ki-ri-át-A-ra-ba (cũng là Hếp-rôn) trong vùng đồi núi chi phái Giu-đa.
|
|
\v 8 Bên kia sông Giô-đanh ở phía Đông Giê-ri-cô, họ đã chọn Bết-se trong đồng vắng bình nguyên từ chi phái Ru-bên; Ra-mốt, xứ Ga-la-át, từ chi phát Gát; và Gô-lan xứ Ba-san, từ chi phái Ma-na-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Đây là các thành được chọn cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên và cho khách lạ cư ngụ giữa vòng họ, vì vậy bất kỳ ai giết người không có chủ ý có thể chạy đến với các thành ấy để được an ninh. Người nầy sẽ không chết bởi tay của những kẻ muốn báo thù huyết đã bị đổ ra, cho đến khi có cuộc xét xử trước hội chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 21
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy, gia trưởng của những hộ người Lê-vi đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, với Giô-suê con trai Nun, và với cấp lãnh đạo của các gia đình của tổ phụ họ trong dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
\v 2 Chúng nói với họ tại Si-lô trong xứ Ca-na-an: "Đức Giê-hô-va truyền cho các ông bởi tay của Môi-se ban cho chúng tôi các thành để ở, cùng với đồng cỏ cho bầy gia súc của chúng tôi".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Vì vậy, bởi mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, dân Y-sơ-ra-ên từ sản nghiệp của họ mà ra các thành sau đây, kể cả đồng cỏ, cho người Lê-vi.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Thăm bắt trúng các hộ gia đình của người Kê-hát ra theo kết quả nầy: dòng thầy tế lễ — dòng dõi của A-rôn ra từ chi phái Lê-vi — họ nhận mười ba thành từ chi phái Giu-đa, từ chi phái Si-mê-ôn, và từ chi phái Bên-gia-min.
|
|
\v 5 Phần còn lại, các hộ gia đình từ dòng Kê-hát do bắt thăm nhận được mười thành do các hộ gia đình từ chi phái Ép-ra-im, Đan, và từ phân nửa chi phái Ma-na-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Và người ra từ Ghẹt-sôn do bắt thăm nhận được mười ba thành từ các hộ gia đình thuộc chi phái Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và phân nửa chi phái Ma-na-se ở Ba-san.
|
|
\v 7 Người nào là dòng dõi của Mê-ra-ri nhận được mười hai thành từ các chi phái Ru-bên, Gát, và Sa-bu-lôn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã trao các thành nầy, kể cả đồng cỏ của chúng, cho người Lê-vi qua bắt thăm, y như Đức Giê-hô-va đã truyền bởi tay của Môi-se.
|
|
\v 9 Từ các chi phái Giu-đa và Si-mê-ôn, họ đã phân phối đất đai cho các thành sau đây, ở đây được liệt kê ra đích danh.
|
|
\v 10 Các thành nầy đã được trao cho dòng dõi của A-rôn, họ có mặt giữa các hộ gia đình của Kê-hát, đổi lại họ xuất thân từ chi phái Lê-vi. Vì lần bắt thăm đầu tiên rơi trúng họ.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Dân Y-sơ-ra-ên đã trao cho họ Ki-ri-át-A-ra-ba (A-ra-ba là cha của A-nác), cũng là Hếp-rôn, trong vùng đồi núi chi phái Giu-đa, với đồng cỏ quanh thành ấy.
|
|
\v 12 Nhưng đồng ruộng của thành cùng các làng mạc nó đã trao rồi cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê, làm sản nghiệp của người.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Đối với dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn, họ đã trao Hếp-rôn với đồng cỏ của nó — đây là thành ẩn náu dành cho bất kỳ người nào không chủ ý làm chết người khác — và Líp-na với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 14 Giạt-thia với đồng cỏ của nó, và Ê-thê-mô-a với đồng cỏ của nó.
|
|
\v 15 Họ cũng trao Hô-lôn với đồng cỏ của nó, Đê-bia với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 16 A-in với đồng cỏ của nó, Giu-ta với đồng cỏ của nó, và Bết Sê-mết với đồng cỏ của nó. Có chín thành do ba chi phái nầy trao cho.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Từ chi phái Bên-gia-min đã trao Ga-ba-ôn với đồng cỏ của nó, Ghê-ba với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 18 A-na-thốt với đồng cỏ của nó, và Anh-môn với ngoại ô của nó — bốn thành.
|
|
\v 19 Các thành được trao cho dòng thầy tế lễ, dòng dõi của A-rôn, là mười ba thành cả thảy, kể cả với đồng cỏ của chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 20 Như đối với phần còn lại của gia đình Kê-hát — những người Lê-vi đó thuộc gia đình Kê-hát — họ đã có các thành mà chi phái Ép-ra-im giao cho qua cách bắt thăm.
|
|
\v 21 Đối với họ, Si-chem được trao cho với đồng cỏ của nó trong vùng đồi núi Ép-ra-im — một thành ẩn náu dành cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người — Ghê-xe với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 22 Kíp-sa-im với đồng cỏ của nó, và Bết-Hô-rôn với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 23 Từ chi phái Đan, hộ gia đình Kê-hát được trao cho En-thê-kê với đồng cỏ của nó, Ghi-bê-thôn với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 24 A-gia-lôn với đồng cỏ của nó, và Gát-rim-môn với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Từ phân nửa chi phái Ma-na-se, hộ gia đình Kê-hát đã trao cho Tha-a-nác với đồng cỏ của nó và Gát-rim-môn với đồng cỏ của nó — hai thành.
|
|
\v 26 Có mười thành cả thảy dành cho phần còn lại của các hộ gia đình của người Kê-hát, kể cả với đồng cỏ của chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 27 Từ phân nửa chi phái Ma-na-se, các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, đây là các hộ gia đình khác thuộc Lê-vi, và họ đã trao Gô-lan ở Ba-san với đồng cỏ của nó — một thành ẩn náu cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người khác, cùng với Bết-ê-ra với đồng cỏ của nó — hai thành cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 28 Đối với các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, họ cũng trao cho Ki-si-ôn từ chi phái Y-sa-ca, với đồng cỏ của nó, Đáp-rát với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 29 Giạt-mút với đồng cỏ của nó, và En-gia-nim với đồng cỏ của nó — bốn thành.
|
|
\v 30 Từ chi phái A-se, họ đã trao Mi-sê-anh với đồng cỏ của nó, Áp-đôn với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 31 Hên-cát với đồng cỏ của nó, và Rê-hốp với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 32 Từ chi phái Nép-ta-li, họ đã trao cho các hộ gia đình của Ghẹt-sôn Kê-đe trong xứ Ga-li-lê với đồng cỏ của nó — một thành ẩn náu dành cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người; Ha-mốt-đô-rơ với đồng cỏ của nó, và Cạt-than với đồng cỏ của nó — ba thành cả thảy.
|
|
\v 33 Có mười ba thành cả thảy, cho các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, kể cả đồng cỏ của chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 34 Đối với phần còn lại của người Lê-vi — các hộ gia đình của Mê-ra-ri — chi phái Sa-bu-lôn đã trao cho: Giốc-nê-am với đồng cỏ của nó, Cạt-ta với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 35 Đim-na với đồng cỏ của nó, và Na-ha-la với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 36 Đối với các hộ gia đình của Mê-ra-ri do chi phái Ru-bên trao cho: Bết-se với đồng cỏ của nó, Giát-sa với đồng cỏ của nó,
|
|
\v 37 Kê-đê-mốt với đồng cỏ của nó, và Mê-phát với đồng cỏ của nó — bốn thành.
|
|
\v 38 Từ chi phái Gát, họ được trao cho Ra-mốt trong xứ Ga-la-át với đồng cỏ của nó — thành ẩn náu dành cho bất kỳ người nào không chủ ý làm chết người — và Ma-ha-na-im với đồng cỏ của nó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 39 Các hộ gia đình của Mê-ra-ri cũng được trao cho Hết-bôn với đồng cỏ của nó, và Gia-ê-xe với đồng cỏ của nó. Cả thảy là bốn thành.
|
|
\v 40 Đây là hết thảy những thành của gia đình của Mê-ra-ri, xuất thân từ chi phái Lê-vi — mười hai thành cả thảy đã được trao cho họ qua việc bắt thăm.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 41 Các thành của người Lê-vi lấy từ giữa xứ mà dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy là bốn mươi tám thành, kể cả với đồng cỏ của chúng.
|
|
\v 42 Các thành nầy mỗi thành đều có đồng cỏ bao quanh nó. Thành nào cũng như vậy cả.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 43 Vì vậy Đức Giê-hô-va ban cho dân Y-sơ-ra-ên hết thảy vùng đất mà Ngài đã thề ban cho các tổ phụ của họ. Dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy xứ ấy làm sản nghiệp rồi ổn định ở đó.
|
|
\v 44 Khi ấy Đức Giê-hô-va ban cho họ yên nghỉ tứ phía, y như Ngài đã thề với các tổ phụ họ. Không một kẻ thù nào trong số những kẻ thù của họ có thể đánh bại họ. Đức Giê-hô-va đã ban hết thảy kẻ thù của họ vào trong tay họ.
|
|
\v 45 Không một lời nào giữa vòng mọi lời hứa tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã phán với nhà Y-sơ-ra-ên là không trở nên hiện thực. Thảy đều ứng nghiệm hết.
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 22
|
|
\p
|
|
\v 1 Lúc bấy giờ, Giô-suê gọi người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se.
|
|
\v 2 Ông nói cùng họ: "Anh em đã làm mọi sự mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va truyền cho anh em; các con đã vâng theo tiếng ta trong mọi sự ta đã truyền cho các con.
|
|
\v 3 Các con không bỏ anh em các con trong bất kỳ ngày nào hoặc ngày nay. Thay vì thế, anh em đã cẩn thận vâng theo mạng lịnh cỉa Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Giờ đây Đức Chúa Trời đã ban sự yên nghỉ cho anh em của anh em, y như đã hứa với họ. Vì lẽ đó hãy trở về trại anh em trong xứ thuộc về mình, nơi mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em ở bên kia sông Giô-đanh.
|
|
\v 5 Chỉ phải cẩn thận tuân giữ các điều răn và luật pháp mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho anh em, phải kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, bước đi theo đường lối của Ngài, tuân giữ các điều răn của Ngài, và bám theo Ngài cùng hết lòng, hết linh hồn mà thờ phượng Ngài".
|
|
\v 6 Vậy, Giô-suê chúc phước cho họ rồi khiến họ trở về trại của mình.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Bấy giờ phân nửa chi phái Ma-na-se, Môi-se đã ban cho họ cơ nghiệp ở tại Ba-san, nhưng với phân nửa kia, Giô-suê đã ban một sản nghiệp bân cạnh anh em của họ trong xứ ở phía Tây sông Giô-đanh. Giô-suê bảo họ trở về trại mình; ông chúc phước cho họ
|
|
\v 8 rồi nói với họ: "Hãy trở về trại của mình với nhiều tiền bạc, với nhiều bầy gia súc, với bạc vàng, với đồng và sắt, và với nhiều áo xống. Hãy chia chiến lợi phẩm lấy từ kẻ thù cho anh em của mình".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Vậy dòng dõi của Ru-bên, dòng dõi Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se trở về nhà, để dân Y-sơ-ra-ên lại tại Si-lô, ở trong xứ Ca-na-an. Họ rời đi, đến khu vực Ga-la-át, đến đất riêng của họ, chỗ mà đích thân họ chiếm lấy, trong sự vâng theo các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, bởi tay của Môi-se.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 10 Khi họ đến tại sông Giô-đanh ở trong xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se xây một bàn thờ bên cạnh sông, một bàn thờ rất lớn và nổi bật.
|
|
\v 11 Dân Y-sơ-ra-ên nghe nói về việc nầy, họ nói: "Hãy xem! Người Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã xây một bàn thờ ngay trước xứ Ca-na-an, ở Ghê-li-lốt, trong khu vực gần sông Giô-đanh, phía bên thuộc về dân Y-sơ-ra-ên".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Khi dân Y-sơ-ra-ên hay được việc nầy, cả hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại với nhau tại Si-lô, họ đi lên và tuyên chiến nghịch cùng chúng.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên sai sứ đến với người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se, trong xứ Ga-la-át. Họ cũng sai Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa,
|
|
\v 14 và mười cấp lãnh đạo đi cùng với người, mỗi người từng chi tộc của tổ phụ Y-sơ-ra-ên, và từng người trong số họ là gia trưởng trong vòng dân Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 15 Họ đến với người Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se, trong xứ Ga-la-át, rồi họ nói cùng chúng:
|
|
\v 16 "Toàn bộ hội chúng của Đức Giê-hô-va nói như vầy: 'Điều bất trung nầy mà anh em đã phạm nghịch cùng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là gì, ngày nay không bước theo Đức Giê-hô-va bằng cách tự xây một bàn thờ trong sự loạn nghịch với Đức Giê-hô-va hay sao?
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 17 Há tội lỗi của chúng ta ở Phê-ô là chưa đủ cho chúng ta hay sao? Tuy nhiên, chúng ta cho tới bây giờ chưa gột rửa được việc ấy. Vì tội lỗi đó một trận dịch đã giáng trên hội chúng của Đức Giê-hô-va.
|
|
\v 18 Phải chăng anh em không còn bước theo Đức Giê-hô-va trong ngày hôm nay chăng? Nếu hôm nay anh em nổi loạn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, ngày mai Ngài sẽ nổi cơn thạnh nộ với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Nếu xứ mà anh em chiếm được bị ô uế, khi ấy anh em nên băng vào trong xứ, chỗ có đền tạm của Đức Giê-hô-va ngự kia rồi chiếm lấy cho mình một sản nghiệp giữa vòng chúng ta. Chỉ đừng nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va, cũng đừng nổi loạn chống nghịch chúng tôi bằng cách xây một bàn thờ cho bản thân mình khác hơn bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta.
|
|
\v 20 Có phải A-can con trai của Xê-rách, đã phá vỡ đức tin khi lấy các thứ đã được dành cho Đức Chúa Trời không? Và có phải cơn thạnh nộ đã giáng xuống hết thảy dân Y-sơ-ra-ên? Người ấy không một mình bị hư mất vì tội lỗi của mình đâu".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 Khi ấy các chi phái Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đáp trả với các gia trưởng của Y-sơ-ra-ên:
|
|
\v 22 "Đấng Toàn Năng, Đức Chúa Trời, Đức Giê-hô-va! Đấng Toàn năng, Đức Chúa Trời, Đức Giê-hô-va! — Ngài biết, và nguyện chính Y-sơ-ra-ên cũng biết! Nếu điều nầy nằm trong sự loạn nghịch hoặc có đức tin chống nghịch Đức Giê-hô-va, đừng buông tha chúng tôi vào ngày nầy
|
|
\v 23 vì đã xây một bàn thờ để rồi không bước theo Đức Giê-hô-va. Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để dâng trên đó của lễ thiêu, của lễ chay, hay của lễ thù ân, thế thì nguyện Đức Giê-hô-va khiến cho chúng tôi phải trả giá về điều đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Không! Chúng tôi dựng lên bàn thờ nầy e rằng trong thì hầu đến, con cái của anh em sẽ nói với con cái của chúng tôi rằng: 'Anh em làm gì với Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên?
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 25 Vì Đức Giê-hô-va đã lập sông Giô-đanh làm biên giới giữa chúng tôi và anh em. Anh em người Ru-bên, người Gát, anh em chẳng có gì phải làm với Đức Giê-hô-va.' Vì vậy, con cái anh em sẽ khiến cho con cái chúng tôi phải thôi không thờ phượng Đức Giê-hô-va nữa.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 26 Vì thế chúng tôi nói: Chúng ta hãy xây một bàn thờ, không phải để dâng của lễ thiêu cũng không phải dâng một con sinh nào cả,
|
|
\v 27 mà là một bằng chứng giữa chúng tôi và anh em, giữa các thế hệ tới sau của chúng ta, rằng chúng tôi sẽ thi hành sự thờ lạy Đức Giê-hô-va ở trước mặt Ngài, với các thứ của lễ thiêu cùng với các thứ con sinh và với các của lễ thù ân, hầu cho con cái của anh em sẽ không bao giờ nói với con cái của chúng tôi trong thì hầu đến: "Anh em chẳng có phần gì nơi Đức Giê-hô-va"'
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 28 Vì vậy, chúng tôi nói: 'Nếu câu nói nầy nói với chúng ta hay với dòng dõi của chúng ta trong thì hầu đến, chúng ta sẽ nói: "Hãy xem đi! Đây là bản sao bàn thờ của Đức Giê-hô-va, mà tổ phụ chúng ta đã đóng, không phải để dâng của lễ thiêu, cũng không dâng các con sinh, mà giống như một chứng nhân ở giữa chúng tôi và anh em".
|
|
\v 29 Chúng tôi không có loạn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, và ngày nay chẳng có xoay khỏi Ngài bằng cách xây một bàn thờ để dâng của lễ thiêu, dâng của lễ chay, hay để dâng các thứ con sinh, khác hơn một bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta đang ở trước mặt đền tạm'".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 30 Khi thầy tế lễ Phi-nê-a cùng cấp lãnh đạo dân sự, nghĩa là, các gia trưởng của Y-sơ-ra-ên, họ có mặt cùng với ông, nghe lời lẽ của người Ru-bên, Gát, và Ma-na-se đã nói, điều đó đẹp mắt họ.
|
|
\v 31 Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với người Ru-bên, Gát, và Ma-na-se: "Ngày nay chúng ta biết rằng Đức Giê-hô-va đang hiện diện giữa vòng chúng ta, vì anh em không phạm vào việc lìa bỏ đức tin chống nghịch Ngài. Giờ đây, anh em đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay của Đức Giê-hô-va".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 32 Khi ấy Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các cấp lãnh đạo trở về khỏi người Ru-bên, người Gát, họ ra khỏi xứ Ga-la-át, trở về xứ Ca-na-an, với dân sự Y-sơ-ra-ên, và hồi báo cho họ biết.
|
|
\v 33 Tường trình của họ vốn đẹp mắt dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên đã chúc phước Đức Chúa Trời và không còn nói tới việc tuyên chiến chống lại người Ru-bên và người Gát, hòng huỷ diệt xứ mà họ đã định cư ở đó.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 34 Người Ru-bên và người Gát đặt tên cho bàn thờ là "Chứng Cớ" vì họ nói: "Đây là bằng chứng giữa chúng ta rằng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời".
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 23
|
|
\p
|
|
\v 1 Rồi sau nhiều ngày, khi Đức Giê-hô-va đã ban sự yên nghỉ cho Y-sơ-ra-ên đối với tất cả kẻ thù ở chung quanh họ, Giô-suê đã cao tuổi rồi.
|
|
\v 2 Giô-suê gọi hết thảy Y-sơ-ra-ên — các trưởng lão, cấp lãnh đạo, các quan xét, cùng mọi quan tướng của họ — rồi nói cùng họ: "Ta đã cao tuổi rồi.
|
|
\v 3 Anh em đã nhìn thấy mọi việc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã làm cho các dân nầy vì cớ anh em, vì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài đã đánh trận thay cho anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 4 Hãy xem! Ta đã phân phát cho anh em các dân còn lại chưa được chinh phục làm sản nghiệp cho các chi phái anh em, cùng với các dân mà ta đã tiêu diệt rồi, từ sông Giô-đanh cho đến Biển Lớn về phía Tây.
|
|
\v 5 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ trục xuất chúng đi. Ngài sẽ đuổi chúng ra khỏi anh em. Ngài sẽ chiếm lấy xứ của họ, và anh em sẽ chiếm đất của họ làm sản nghiệp, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa cùng anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 6 Vì vậy, hãy mạnh mẽ lên, hầu cho anh em tuân giữ là làm theo mọi điều đã được chép trong Sách Luật Pháp của Môi-se, chớ xoay qua bên hữu hay bên tả,
|
|
\v 7 để anh em đừng trà trộn với các dân nầy còn lại giữa vòng anh em hoặc nhắc tới danh của các tà thần của họ, thề thốt với chúng, thờ lạy chúng, hoặc sấp mình xuống trước mặt chúng.
|
|
\v 8 Thay vì thế, anh em phải bám lấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em y như anh em đã làm cho đến ngày nay.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Vì Đức Giê-hô-va đã đuổi hết các dân mạnh mẽ, rộng lớn trước mặt anh em. Còn đối với anh em, chẳng một dân nào có thể dám đứng trước mặt anh em cho đến ngày nay.
|
|
\v 10 Bất kỳ một người nào trong số anh em sẽ khiến cho cả ngàn người phải bỏ chạy, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài là Đấng đánh trận thay cho anh em, y như Ngài đã hứa cùng anh em.
|
|
\v 11 Đặc biệt, hãy chú ý, để anh em luôn kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 12 Nhưng nếu anh em xoay lưng lại và bám theo những kẻ sống sót của các dân nầy còn lại giữa vòng anh em, hay nếu anh em kết hôn chéo với chúng, hoặc nếu anh em sống chung đụng với họ và họ với anh em,
|
|
\v 13 khi ấy phải biết chắc rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ không đuổi các dân nầy khỏi giữa vòng anh em. Thay vì thế, họ sẽ trở thành bẫy lưới cho anh em, làm roi quất nơi lưng và gai nhọn nơi mắt anh em, cho tới chừng anh em hư mất khỏi xứ tốt tươi nầy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã ban cho anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Còn bây giờ, ta sẽ đi con đường của cả thế gian, và anh em phải hết lòng và hết linh hồn nhìn biết rằng không một lời nào mà không thành ra sự thực về mọi việc tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa về anh em. Mọi sự nầy thảy đều ứng nghiệm cho anh em. Không một lời nào là sai hết.
|
|
\v 15 Nhưng y như từng lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa với anh em đều được ứng nghiệm, cũng một thể ấy Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên anh em mọi thứ xấu xa cho đến khi nào Ngài đã tận diệt anh em khỏi đất tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã ban cho anh em.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Ngài sẽ làm điều nầy nếu anh em phá vỡ giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là điều mà Ngài đã truyền dặn anh em phải tuân giữ. Nếu anh em đi và thờ lạy các thần khác và sấp mình xuống trước mặt chúng, khi ấy cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ nhen lên nghịch cùng anh em, và anh em sẽ mau chóng hư mất khỏi xứ tốt lành mà Ngài đã ban cho anh em"
|
|
|
|
\s5
|
|
\c 24
|
|
\p
|
|
\v 1 Khi ấy Giô-suê nhóm các chi phái Y-sơ-ra-ên tại Si-chem và gọi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các cấp lãnh đạo, các quan xét, cùng các quan tướng, và họ đứng trình diện trước mặt Đức Chúa Trời.
|
|
\v 2 Giô-suê nói với cả dân sự rằng: "Đây là những gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dặn: 'Các tổ phụ của các con đã sống lâu lắm rồi bên kia sông Ê-phơ-rát — Tha-rê, cha của Áp-ra-ham và là cha của Na-cô — và họ đã thờ lạy các thần khác.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 3 Nhưng ta đã chọn tổ phụ các con bên kia sông Ê-phơ-rát rồi dẫn người vào trong xứ Ca-na-an, và ta đã ban cho người nhiều dòng dõi qua Y-sác con trai người.
|
|
\v 4 Và ta ban cho Y-sác Gia-cốp và Ê-sau. Ta ban cho Ê-sau cùng đồi núi Sê-i-rơ làm sản nghiệp, nhưng Giacốp cùng con cái người đi xuống xứ Ai-cập.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 5 Ta sai Môi-se và A-rôn, và ta giáng trên người Ai-cập với nhiều trận dịch. Sau đó, ta đem các con ra.
|
|
\v 6 Ta đem tổ phụ các con ra khỏi Ai-cập, và các con ra đến biển. Người Ai-cập truy đuổi các con với xe ngựa và người cởi ngựa cho đến Biển Sậy.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 7 Khi tổ phụ các con kêu cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đặt sự tối tăm ở giữa các con và người Ai-cập. Ngài khiến biển úp trên họ và bao phủ họ. Các con đã nhìn thấy những gì ta đã làm cho người Ai-cập. Khi ấy các con sống trong đồng vắng một thời gian dài.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 8 Ta đem các con đến xứ của dân A-mô-rít, họ sống ở bên kia sông Giô-đanh. Họ đã đánh trận với các con, và ta đã phó chúng vào trong tay các con. Các con chiếm lấy xứ làm sản nghiệp, và Ta huỷ diệt họ trước mặt các con.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 9 Khi ấy, Ba-lác con trai của Xếp-bô, vua xứ Mô-áp, chỗi dậy tấn công Y-sơ-ra-ên. Hắn sai Ba-la-am và kêu gọi Ba-la-am con trai Bê-ô, đến rủa sã các con.
|
|
\v 10 Nhưng ta không nghe theo Ba-la-am. Thực vậy, hắn chúc phước cho các con. Thế là ta giải cứu các con khỏi tay hắn.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 11 Các con qua sông Giô-đanh rồi đến tại thành Giê-ri-cô. Các quan trưởng thành Giê-ri-cô đánh trận nghịch cùng các con, cùng với dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Ghi-rê-ga-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Ta ban cho các con thắng hơn chúng và đặt chúng ở dưới quyền của các con.
|
|
\v 12 Ta sai ong lỗ đi trước các con, ong lỗ đánh đuổi chúng và hai vua dân A-mô-rít ra khỏi trước măt các con. Việc đã không xảy ra do gươm hay cung tên của các con đâu.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 13 Ta ban cho các con đất mà trên đó các con không có lao động và thành quách mà các con không có xây, và giờ đây các con đang sống trong chúng. Các con ăn trái của vườn nho và ô-li-ve mà các con không có trồng'.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 14 Giờ đây, hãy kính sợ Đức Giê-hô-va rồi thờ lạy Ngài với hết lòng và trung tín; hãy từ bỏ các hình tượng mà tổ phụ các con đã thờ lạy ở bên kia sông Ê-phơ-rát và trong xứ Ai-cập, và hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va.
|
|
\v 15 Nếu thờ lạy Đức Giê-hô-va dường như là sai trong mắt các con, ngày nay hãy chọn cho mình ai mà các con muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các con đã thờ lạy bên kia sông Ê-phơ-rát, hoặc các thần của dân A-mô-rít, trong xứ của họ các con đang sinh sống. Nhưng còn ta và nhà ta, chúng ta sẽ thờ phượng Đức Giê-hô-va".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 16 Dân sự đáp trả như sau: "Chúng tôi sẽ không bao giờ lìa bỏ Đức Giê-hô-va để phục vụ các thần khác,
|
|
\v 17 vì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, ra khỏi nhà nô lệ, và Ngài đã làm nhiều phép kỳ dấu lạ trước mắt chúng tôi, và Ngài đã phù hộ chúng tôi trong suốt con đường mà chúng tôi đã đi, và giữa vòng các dân mà chúng tôi đã đi ngang qua họ.
|
|
\v 18 Và Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt chúng tôi các dân đó, dân A-mô-rít, họ đã sống trong xứ nầy. Vì vậy, chúng tôi cũng sẽ thờ lạy Đức Giê-hô-va, vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 19 Nhưng Giô-suê đã nói với dân sự: "Anh em không thể phục vụ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết; Ngài là một Đức Chúa Trời hay ghen tương; Ngài sẽ chẳng tha sự phản nghịch và tội lỗi của anh em.
|
|
\v 20 Nếu anh em quên Đức Giê-hô-va rồi thờ lạy các thần ngoại bang, khi ấy Ngài sẽ xây lại làm hại cho anh em. Ngài sẽ làm cho anh em phải hao mòn đi, sau khi Ngài đã làm ơn cho anh em".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 21 Nhưng dân sự nói cùng Giô-suê: "Không, chúng tôi sẽ thờ lạy Đức Giê-hô-va".
|
|
\v 22 Khi ấy Giô-suê nói với dân sự: "Anh em là những chứng nhân nghịch lại bản thân mình rằng anh em đã chọn cho mình Đức Giê-hô-va, muốn thờ lạy Ngài". Họ đáp: "Chúng tôi làm chứng".
|
|
\v 23 "Bây giờ hãy cất bỏ các thần ngoại đang có với anh em đi, rồi hướng lòng về Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên".
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 24 Dân sự nói với Giô-suê: "Chúng tôi sẽ thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Chúng tôi sẽ lắng nghe tiếng phán của Ngài".
|
|
\v 25 Giô-suê lập một giao ước với dân sự trong ngày ấy. Ông đặt ra những chỉ dụ và luật pháp tại Si-chem.
|
|
\v 26 Giô-suê đã viết mấy lời nầy trong Sách Luật của Đức Chúa Trời. Ông lấy một hòn đá lớn rồi dựng nó bên dưới cây sồi bên cạnh nơi thánh của Đức Giê-hô-va.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 27 Giô-suê nói với cả dân sự rằng: "Hãy xem đây, hòn đá nầy sẽ là một chứng cớ nghịch lại chúng ta. Nó đã nghe hết mọi lời mà Đức Giê-hô-va có phán cùng chúng ta. Vì vậy, nó sẽ trở thành chứng cớ nghịch lại anh em, một khi anh em chối bỏ Đức Chúa Trời của anh em".
|
|
\v 28 Thế rồi Giô-suê cho dân sự về, mỗi người về với sản nghiệp của mình.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 29 Sau những việc nầy Giô-suê con trai Nun, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, qua đời, được 110 tuổi.
|
|
\v 30 Họ chôn người tại biên giới sản nghiệp người, ở Thim-nát-Sê-rách, nằm trong vùng đồi núi của Ép-ra-im, phía Bắc núi Ga-ách.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 31 Y-sơ-ra-ên đã thờ lạy Đức Giê-hô-va trong suốt đời của Giô-suê, và đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê, họ là những người đã kinh nghiệm mọi sự mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
|
|
|
|
\s5
|
|
\v 32 Hài cốt của Giô-sép, mà dân sự Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi xứ Ai-cập — họ chôn chúng tại Si-chem, trong mảnh đất mà Gia-cốp đã mua từ các con trai của Hê-mô, cha của Si-chem. Ông đã mua nó giá một trăm miếng bạc, và nó trở thành sản nghiệp cho dòng dõi của Giô-sép.
|
|
\v 33 Ê-lê-a-sa con trai của A-rôn cũng qua đời. Họ chôn người tại Ghi-bê-a, thành của Phi-nê-a con trai người, là thành đã được ban cho người. Chỗ nầy nằm trong vùng đồi núi của Ép-ra-im.
|