\id NUM \ide UTF-8 \h DÂN SỐ KÝ \toc1 DÂN SỐ KÝ \toc2 DÂN SỐ KÝ \toc3 num \mt DÂN SỐ KÝ \s5 \c 1 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong lều hội họp ở hoang mạc Si-nai vào ngày đầu tiên của tháng thứ nhì trong năm thứ hai sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khỏi xứ Ai Cập. Đức Giê-hô-va phán, \v 2 “Hãy thực hiện một cuộc điều tra dân số tất cả những người nam Y-sơ-ra-ên theo từng thị tộc, gia tộc của họ. Hãy thống kê theo tên. Thống kê từng người nam, mỗi người \v 3 từ hai mươi tuổi trở lên. Hãy tính tất cả những ai có thể chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên. Ngươi và A-rôn hãy ghi lại số người nam theo từng đơn vị vũ trang. \s5 \v 4 Mỗi chi phái có một người nam làm tộc trưởng, người phải phục vụ cùng ngươi với tư cách là trưởng chi phái. Mỗi trưởng chi phái sẽ lãnh đạo nhóm chiến đấu cho chi phái của mình. \v 5 Đây là danh sách các trưởng chi phái sẽ chiến đấu cùng ngươi: Chi phái Ru-bên, Ê-lít-su con trai Sê-đêu; \v 6 chi phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-ha-đai; \s5 \v 7 chi phái Giu-đa, Na-ha-sôn con trai A-mi-na-đáp; \v 8 chi phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên con trai Xu-a; \v 9 chi phái Sa-bu-lôn, Ê-li-áp con trai Hê-lôn; \s5 \v 10 chi phái Ép-ra-im, con cháu của Giô-sép, có Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút; chi phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên con trai Phê-đa-xu; \v 11 chi phái Ben-gia-min, A-bi-đan con trai của Ghi-đê-ôn; \s5 \v 12 chi phái Đan, A-hi-ê-xe con trai của A-mi-sa-đai; \v 13 chi phái A-se, Pha-ghi-ên con trai của Ốc-ran; \v 14 chi phái Gát, Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên; \v 15 và chi phái Nép-ta-li, A-hi-ra con trai của Ê-nan. \s5 \v 16 Những người nam này được chỉ định từ trong dân. Họ là người lãnh đạo các thị tộc của cha ông mình. Họ là các tộc trưởng trong Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 17 Môi-se và A-rôn tiếp nhận những người được nêu đích danh, \v 18 và với những người này, họ tập hợp tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên vào ngày thứ nhất của tháng thứ nhì. Sau đó mỗi người nam từ hai mươi tuổi trở lên được nhập sổ theo dòng họ mình. Họ phải kể tên thị tộc và gia tộc từ thời tổ tiên mình. \v 19 Vậy Môi-se thống kê dân số trong hoang mạc Si-nai, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. \s5 \v 20 Con cháu Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 21 Chi phái Ru-bên có 46. 500 người nam. \s5 \v 22 Con cháu Si-mê-ôn, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 23 Chi phái Si-mê-ôn có 59. 300 người nam. \s5 \v 24 Con cháu Gát, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 25 Chi phái Gát có 45. 650 người nam. \s5 \v 26 Con cháu Giu-đa, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 27 Chi phái có 74. 600 người nam. \s5 \v 28 Con cháu Y-sa-ca, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 29 Chi phái Y-sa-ca có 54. 400 người nam. \s5 \v 30 Con cháu Sa-bu-lôn, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 31 Chi phái Sa-bu-lôn có 57. 400 người nam. \s5 \v 32 Con cháu Ép-ra-im, con Giô-sép, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 33 Chi phái Ép-ra-im có 40. 500 người nam. \s5 \v 34 Con cháu Ma-na-se, con Giô-sép, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 35 Chi phái Ma-na-se có 32. 200 người nam. \s5 \v 36 Con cháu Ben-gia-min, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 37 Chi phái Ben-gia-min có 35. 400 người nam. \s5 \v 38 Con cháu Đan, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 39 Chi phái Đan có 62. 700 người nam. \s5 \v 40 Con cháu A-se, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 41 Chi phái A-se có 41. 500 người nam. \s5 \v 42 Con cháu Nép-ta-li, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình. \v 43 Chi phái Nép-ta-li có 53. 400 người nam. \s5 \v 44 Môi-se và A-rôn cùng với mười hai trưởng chi phái của Y-sơ-ra-ên thống kê những người này. \v 45 Vậy tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo gia tộc mình. \v 46 Tổng cộng có 603. 550 người. \s5 \v 47 Nhưng con cháu trong chi phái Lê-vi thì không được liệt kê, \v 48 vì Đức Giê-hô-va có phán với Môi-se rằng, \v 49 “Ngươi chớ thống kê chi phái Lê-vi hoặc liệt kê họ vào tổng số dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 50 Trái lại, hãy cử người Lê-vi lo việc chăm sóc đền tạm của giao ước, cùng mọi đồ đạc trong đền tạm và những thứ thuộc về nó. Họ phải coi sóc đền tạm và đóng trại xung quanh đó. \s5 \v 51 Người Lê-vi phải tháo dỡ đền tạm khi cần di chuyển. Khi cần dựng đền tạm thì người Lê-vi phải dựng lên. Kẻ lạ mặt nào đến gần đền tạm sẽ bị xử tử. \v 52 Khi dân Y-sơ-ra-ên dựng lều mình, không ai được đến quá gần ngọn cờ thuộc đơn vị vũ trang của mình. \s5 \v 53 Tuy nhiên, người Lê-vi phải dựng lều quanh đền tạm giao ước để Ta không nổi giận trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải coi sóc đền tạm giao ước. ” \v 54 Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều này y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. \s5 \c 2 \p \v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn, \v 2 “Mỗi con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ cắm trại quanh ngọn cờ của đơn vị quân đội mình, và quanh ngọn cờ nhỏ của chi phái. Trại sẽ hướng về phía lều hội họp. \s5 \v 3 Trại quân Giu-đa sẽ cắm trại với đơn vị mình quanh ngọn cờ Giu-đa, về phía đông lều hội họp, theo hướng mặt trời mọc. Na-ha-sôn con trai A-mi-na-đáp sẽ là trưởng đội quân Giu-đa. \v 4 Quân số của Giu-đa là 74. 600 người. \s5 \v 5 Chi phái Y-sa-ca sẽ cắm trại kế Giu-đa. Na-tha-na-ên con trai Xu-a sẽ trưởng đội quân Y-sa-ca. \v 6 Quân số của Na-tha-na-ên là 54. 400 người. \s5 \v 7 Chi phái Sa-bu-lôn sẽ cắm trại kế Y-sa-ca. Ê-li-áp con trai Hê-lôn sẽ là trưởng đội quân Sê-bu-lôn. \v 8 Quân số của Sê-bu-lôn là 57. 400 người. \s5 \v 9 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Giu-đa là 186. 400 người. Họ sẽ tiên phong ra khỏi trại. \s5 \v 10 Các đội quân ở phía nam sẽ cắm trại quanh ngọn cờ của Ru-bên. Ê-li-su con trai Sê-đêu sẽ là trưởng đội quân Ru-bên. \v 11 Quân số của Ru-bên là 46. 500 người. \s5 \v 12 Chi phái Si-mê-ôn sẽ cắm trại quanh Ru-bên. Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai sẽ là trưởng đội quân Si-mê-ôn. \v 13 Quân số của Si-mê-ôn là 59. 300 người. \s5 \v 14 Chi phái Gát cắm trại kế bên. Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên sẽ là trưởng đội quân Gát. \v 15 Quân số của Gát là 45. 650 người. \s5 \v 16 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Ru-bên là 151. 450 người. Họ sẽ là đơn vị thứ nhì ra khỏi trại. \s5 \v 17 Kế tiếp, lều hội họp sẽ ra từ trại cùng với người Lê-vi đi giữa tất cả các trại. Họ sẽ ra khỏi trại theo đúng thứ tự như lúc vào trại. Mỗi người phải đứng đúng vị trí, theo ngọn cờ của đơn vị mình. \s5 \v 18 Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm trại về phía tây lều hội họp. Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút sẽ là trưởng đội quân Ép-ra-im. \v 19 Quân số của Ép-ra-im là 40. 500 người. \s5 \v 20 Chi phái Ma-na-se sẽ cắm trại kế bên Ép-ra-im. Ga-ma-li-ên con trai Phê-đa-xu sẽ là trưởng đội quân Ma-na-se. \v 21 Quân số của Ma-na-se là 32. 200 người. \s5 \v 22 Chi phái Ben-gia-min cắm trại ở kế bên. A-bi-đan con trai Ghi-đê-ôn sẽ là trưởng đội quân Ben-gia-min. \v 23 Quân số của Ben-gia-min là 35. 400 người. \s5 \v 24 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Ép-ra-im là 108. 100 người. Họ sẽ là đơn vị thứ ba ra khỏi trại. \s5 \v 25 Trại quân Đan sẽ cắm trại quanh ngọn cờ ở phía bắc đền tạm. A-hi-ê-xe con trai A-mi-sa-đai sẽ lãnh đạo con cháu Đan. \v 26 Quân số của Đan là 62. 700 người. \s5 \v 27 Chi phái A-se sẽ cắm trại kế bên Đan. Pha-ghi-ên con trai Ốc-ran sẽ lãnh đạo con cháu A-se. \v 28 Quân số của A-se là 41. 500 người. \s5 \v 29 Chi phái Nép-ta-li cắm trại kế bên. A-hi-ra con trai Ê-nan sẽ lãnh đạo con cháu Nép-ta-li. \v 30 Quân số của Nép-ta-li là 53. 400 người. \s5 \v 31 Quân số của tất cả các đội quân cắm trại với Đan là 157. 600 người. Họ sẽ là đơn vị cuối cùng ra khỏi trại cùng với ngọn cờ mình.” \s5 \v 32 Môi-se và A-rôn thống kê có 603. 550 người trong các quân đội của Y-sơ-ra-ên theo thị tộc của tổ tiên họ. \v 33 Nhưng Môi-se và A-rôn không thống kê người Lê-vi trong dân Y-sơ-ra-ên, y theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. \s5 \v 34 Dân Y-sơ-ra-ên thực hiện mọi điều mà Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se. Họ cắm trại theo ngọn cờ mình, và ra đi theo thị tộc và gia tộc. \s5 \c 3 \p \v 1 Đây là dòng dõi của A-rôn và Môi-se khi Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trên Núi Si-nai. \v 2 Tên các con trai của A-rôn là Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và Y-tha-ma. \s5 \v 3 Đây là tên các con trai của A-rôn, là những thầy tế lễ đã được chọn và được chỉ định làm chức tế lễ. \v 4 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trước mặt Đức Giê-hô-va khi họ dâng lên Ngài một thứ lửa không được chấp nhận trong hoang mạc Si-nai. Na-đáp và A-bi-hu không có con, nên chỉ Ê-lê-a-xa và Y-tha-ma làm thầy tế lễ cùng với cha là A-rôn. \s5 \v 5 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, \v 6 “Hãy đem chi phái Lê-vi đến trình diện thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người. \s5 \v 7 Họ phải thay mặt A-rôn và cả dân chúng thi hành nhiệm vụ trước lều hội họp. Họ phải hầu việc ở đền tạm. \v 8 Họ phải coi sóc tất cả đồ đạc trong lều hội họp, và giúp đỡ các chi phái Y-sơ-ra-ên phục vụ đền tạm. \s5 \v 9 Hãy giao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai người. Họ được giao hoàn toàn cho người để giúp người phục vụ dân Y-sơ-ra-ên. \v 10 Ngươi hãy chỉ định A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ, nhưng bất kỳ người ngoại nào đến gần sẽ bị xử tử.” \s5 \v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, \v 12 “Này, Ta đã chọn người Lê-vi từ giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. \v 13 Tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta. Vào ngày Ta giết hại con đầu lòng ở Ai Cập, Ta đã biệt riêng tất cả con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả con người lẫn động vật. Chúng thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.” \s5 \v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trong hoang mạc Si-nai, \v 15 “Hãy thống kê con cháu Lê-vi theo gia đình và gia tộc. Thống kê mọi người nam từ một tháng tuổi trở lên. ” \v 16 Môi-se thống kê họ y theo sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va, như Ngài đã truyền. \s5 \v 17 Tên các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. \v 18 Các thị tộc của các con trai Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i. \v 19 Các thị tộc của con trai Kê-hát là Am-ram, Díp-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên. \v 20 Các thị tộc của con trai Mê-rai-ri là Mách-li và Mu-si. Đây là các thị tộc của người Lê-vi, được liệt kê theo thị tộc. \s5 \v 21 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i. Đây là những thị tộc của Ghẹt-sôn. \v 22 Tổng số người nam từ một tháng tuổi trở lên là 7. 500 người. \v 23 Các thị tộc của Ghẹt-sôn sẽ cắm trại về phía tây đền tạm. \s5 \v 24 Ê-li-sa-phát con trai La-ên sẽ lãnh đạo các thị tộc của Ghẹt-sôn. \v 25 Dòng họ Ghẹt-sôn phải coi sóc những tấm màn trong đền tạm dưới mái che lều hội họp. Họ sẽ coi sóc lều, tấm phủ lều, và tấm màn ở lối vào lều hội họp. \v 26 Họ sẽ coi sóc các tấm màn nơi hành lang, màn ở cửa vào sân – sân bao quanh nơi thánh và bàn thờ. Họ phải coi sóc các dây căng lều hội họp và mọi thứ trong đó. \s5 \v 27 Thị tộc của dòng họ Kê-hát gồm: thị tộc Am-ram, thị tộc Ít-ha, thị tộc Hếp-rôn, và thị tộc U-xi-ên. Các thị tộc này thuộc dòng họ Kê-hát. \v 28 Có 8. 600 người từ một tuổi trở lên được thống kê để coi sóc đồ dùng thuộc về Đức Giê-hô-va. \v 29 Các gia đình dòng họ Kê-hát phải cắm trại về phía nam đền tạm. \s5 \v 30 Ê-li-sa-phan con trai U-xi-ên sẽ lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Kê-hát. \v 31 Họ phải coi sóc chiếc hòm, cái bàn, cây đèn, bàn thờ, những vật thánh được dùng để phục vụ, tấm màn, và mọi việc liên quan. \v 32 Ê-lê-a-sa con trai thầy tế lễ A-rôn sẽ chỉ huy những lãnh đạo của chi phái Lê-vi. Người sẽ giám sát những người phụ trách nơi thánh. \s5 \v 33 Hai thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri gồm: thị tộc Mách-li và thị tộc Mu-si. Đây là những thị tộc trong dòng họ Mê-ra-ri. \v 34 Có 6. 200 người từ một tuổi trở lên được thống kê. \v 35 Xu-ri-ên con trai A-bi-hai sẽ lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri. Họ sẽ cắm trại ở phía bắc đền tạm. \s5 \v 36 Con cháu của Mê-ra-ri sẽ coi sóc các tấm ván của đền tạm, thanh ngang, trụ, đế trụ, các vật dụng, và mọi thứ liên quan, bao gồm \v 37 trụ và cột trên sân, với đế, cọc, và dây thừng. \s5 \v 38 Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại phía đông đền tạm, trước lều hội họp, về phía mặt trời mọc. Họ phải chịu trách nhiệm làm trọn công việc ở nơi thánh và công việc của dân Y-sơ-ra-ên. Người ngoài nào đến gần nơi thánh sẽ bị xử tử. \v 39 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả người nam từ một tuổi trở lên trong các thị tộc của dòng họ Lê-vi theo như Đức Giê-hô-va đã truyền. Có tổng cộng 22. 000 người. \s5 \v 40 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy thống kê tất cả con trưởng nam người Y-sơ-ra-ên từ một tuổi trở lên, lập danh sách. \v 41 Ngươi hãy dành người Lê-vi cho ta thay cho tất cả con trưởng nam người Y-sơ-ra-ên. Ta là Đức Giê-hô-va. Và ngươi hãy lấy súc vật của người Lê-vi thay cho con đầu lòng của bầy gia súc trong dân Y-sơ-ra-ên.” \s5 \v 42 Môi-se đếm tất cả con trưởng của người Y-sơ-ra-ên như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. \v 43 Ông thống kê tất cả con trưởng nam theo tên, từ một tuổi trở lên. Tổng cộng là 22. 273 người. \s5 \v 44 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 45 “Hãy chọn người Lê-vi thay cho tất cả con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên. Và nhận lấy súc vật của người Lê-vi thay vì súc vật trong dân sự. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va. \s5 \v 46 Ngươi hãy lấy năm siếc-lơ để chuộc từng người trong số 273 con trưởng của người Y-sơ-ra-ên, nhiều hơn số người Lê-vi. \v 47 Ngươi hãy dùng số siếc-lơ của nơi thánh làm đơn vị đo lường chuẩn. Một siếc-lơ tương đương với hai mươi ghê-ra. \v 48 Ngươi phải giao tiền chuộc mà ngươi đã trả cho A-rôn và các con trai người. ” \v 49 Vậy Môi-se thâu phần tiền chuộc của những người vượt hơn số người Lê-vi được chuộc. \v 50 Môi-se gom số tiền từ con trưởng của người Y-sơ-ra-ên. Ông thâu được 1. 365 siếc-lơ, theo đơn vị siếc-lơ của nơi thánh. \v 51 Môi-se giao số tiền chuộc cho A-rôn và các con trai người. Môi-se làm mọi điều y theo lời Đức Giê-hô-va, theo lệnh truyền của Ngài. \s5 \c 4 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn, \v 2 “Hãy thống kê số người nam là con cháu dòng họ Kê-hát trong vòng người Lê-vi, theo thị tộc và gia tộc. \v 3 Hãy kiểm kê tất cả người nam từ 30 đến 50 tuổi. Họ phải tham gia đội ngũ phục vụ trong lều hội họp. \v 4 Con cháu Kê-hát sẽ coi sóc những vật chí thánh trong lều hội họp. \s5 \v 5 Trước khi nhổ trại, A-rôn và các con trai người phải vào lều, gỡ tấm màn ngăn nơi chí thánh và nơi thánh và phủ lên hòm giao ước. \v 6 Họ sẽ lấy tấm da cá nược phủ lên. Sau đó trải một tấm vải xanh lên trên cùng. Xỏ đòn khiêng vào. \s5 \v 7 Họ sẽ trải một tấm vải xanh lên bàn đặt bánh trần thiết. Trên đó để đĩa, muỗng, tô, và bình dùng dâng của lễ quán. Bánh phải luôn được đặt trên bàn. \v 8 Họ sẽ dùng một tấm vải đỏ thắm và tấm da cá nược phủ lên chúng. Rồi xỏ đòn khiêng vào bàn. \s5 \v 9 Họ phải lấy một tấm vải xanh phủ lên cây đèn, các ngọn đèn, kéo cắt tim đèn, khay đựng tàn, và các bình dầu thắp đèn. \v 10 Họ phải để cây đèn và các đồ phụ tùng vào một cái bao làm bằng da cá nược, rồi đặt lên cáng khiêng. \v 11 Họ phải trải tấm vải xanh lên bàn thờ bằng vàng, rồi lấy một tấm da cá nược phủ lên, sau đó xỏ đòn khiêng. \s5 \v 12 Họ phải lấy tất cả thiết bị dùng trong nơi thánh và gói lại trong một tấm vải xanh, bọc bằng da cá nược rồi đặt lên cáng khiêng. \v 13 Họ phải hốt tro trên bàn thờ và trải lên đó một tấm vải tím. \v 14 Họ phải đặt tất cả đồ dùng cho bàn thờ lên cáng khiêng. Các đồ dùng này là lư hương, nĩa, xẻng, chén, và mọi đồ dùng khác của bàn thờ. Sau đó dùng tấm da cá nược phủ lên bàn thờ rồi xỏ đòn khiêng vào. \s5 \v 15 Khi A-rôn và các con trai người đã làm xong việc che phủ nơi thánh và các đồ dùng, khi dời trại, con cháu Kê-hát phải đến khuân vác nơi thánh. Nếu ai chạm vào các đồ dùng thánh, ắt sẽ chết. Đây là phần việc của con cháu Kê-hát, họ phải khiêng đồ đạc trong lều hội họp. \v 16 Ê-lê-a-xa, con trai thầy tế lễ A-rôn, sẽ trông coi dầu thắp đèn. Người phải giám sát việc coi sóc hương thơm, của lễ chay thường xuyên, dầu xức, toàn bộ đền tạm và mọi thứ bên trong, các đồ dùng và vật thánh.” \s5 \v 17 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se và A-rôn, \v 18 “Chớ để thị tộc dòng họ Kê-hát bị xóa khỏi người Lê-vi. \v 19 Đây là điều phải làm để giữ họ sống chứ không chết. Khi họ đến nơi chí thánh, \v 20 tuyệt đối không vào trong để nhìn nơi thánh dù chỉ trong chốc lát, nếu không họ sẽ chết. A-rôn và các con trai ông phải vào trong, sau đó người và các con trai phải giao việc hoặc công tác riêng cho từng người trong họ Kê-hát.” \s5 \v 21 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 22 “Ngươi cũng hãy thống kê con cháu Ghẹt-sôn, theo gia tộc và thị tộc. \v 23 Hãy thống kê người nam từ 30 đến 50 tuổi. Đếm số người có thể tham gia nhóm phục vụ trong lều hội họp. \s5 \v 24 Đây là việc của thị tộc Ghẹt-sôn khi phục vụ và khiêng đồ. \v 25 Họ phải khiêng các tấm màn của đền tạm, lều hội họp, các tấm phủ, tấm phủ bằng da cá nược, và các tấm màn ở cửa lều hội họp. \v 26 Họ phải mang các tấm màn của sân, màn treo ô cửa của cổng sân, gần đền tạm và bàn thờ, dây căng lều, và mọi dụng cụ phục vụ. Họ phải đảm nhận bất cứ việc gì liên quan đến những thứ này. \s5 \v 27 A-rôn và các con trai người phải chỉ đạo việc phục vụ của con cháu người Ghẹt-sôn, liên quan đến việc vận chuyển và phục vụ. Ngươi phải giao trách nhiệm cho họ. \v 28 Đây là công tác của thị tộc dòng họ Ghẹt-sôn nơi lều hội họp. \s5 \v 29 Ngươi hãy kiểm tra số con cháu người Mê-ra-ri theo thị tộc và gia tộc, \v 30 từ 30 đến 50 tuổi. Hãy kiểm kê số người sẽ phục vụ trong lều hội họp. \s5 \v 31 Đây là trách nhiệm và công tác của họ khi phục vụ trong lều hội họp. Họ sẽ coi sóc khung đền tạm, các thanh ngang, trụ, và đế trụ, \v 32 cùng với trụ sân, đế trụ, cọc, và dây căng lều, với tất cả các đồ đạc liên quan. Hãy kê khai các vật dụng cần mang. \s5 \v 33 Đây là công việc của thị tộc con cháu Mê-ra-ri liên quan đến lều hội họp, dưới sự chỉ dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.” \s5 \v 34 Môi-se, A-rôn và các trưởng dân chúng thống kê con cháu người Kê-hát theo thị tộc và gia tộc. \v 35 Họ thống kê những người từ 30 đến 50 tuổi. Họ kiểm kê số người tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp. \v 36 Có 2. 750 người tính theo thị tộc. \s5 \v 37 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả số người trong thị tộc và gia tộc Kê-hát là những người sẽ phục vụ ở lều hội họp. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se. \s5 \v 38 Con cháu Ghẹt-sôn được thống kê theo thị tộc và gia tộc, \v 39 từ 30 đến 50 tuổi, tức là những người sẽ tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp. \v 40 Có tất cả 2. 630 người được thống kê theo thị tộc và gia tộc. \s5 \v 41 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả số người trong thị tộc và gia tộc Ghẹt-sôn, tức là những người sẽ phục vụ ở lều hội họp. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se. \s5 \v 42 Con cháu Mê-ra-ri được thống kê theo thị tộc và gia tộc, \v 43 từ 30 đến 50 tuổi, tức là những người sẽ tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp. \v 44 Có tất cả 3. 200 người được thống kê theo thị tộc và gia tộc. \s5 \v 45 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả con cháu dòng họ Mê-ra-ri. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se. \s5 \v 46 Vậy Môi-se, A-rôn và các lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên thống kê tất cả con cháu người Lê-vi theo thị tộc và gia tộc \v 47 từ 30 đến 50 tuổi. Họ thống kê số người sẽ tham gia phục vụ trong đền tạm, khuân vác và coi sóc các hạng mục trong lều hội họp. \v 48 Tổng cộng có 8. 580 người. \s5 \v 49 Theo lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, Môi-se thống kê từng người, theo loại hình công việc mà người đó được giao. Ông thống kê họ tùy theo trách nhiệm họ được giao. Như vậy, họ vâng theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se. \s5 \c 5 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 2 “Ngươi hãy ra lệnh dân Y-sơ-ra-ên trục xuất những người bị bệnh nhiễm trùng da, nhiễm trùng ra mủ, và người bị ô uế vì đụng vào xác chết ra khỏi trại. \v 3 Dù là nam hay nữ, ngươi cũng phải trục xuất họ khỏi trại. Họ không được làm ô uế trại, vì đó là nơi Ta ngự. ” \v 4 Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy. Họ trục xuất những người ấy khỏi trại, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. Dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Đức Giê-hô-va. \s5 \v 5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 6 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Khi một người nam hoặc người nữ phạm bất kỳ tội gì mà người ta thường phạm, và bất trung với Ta, thì người đó có tội. \v 7 Người phải xưng tội mình đã phạm. Người phải hoàn toàn bồi thường thiệt hại do lỗi mình gây ra và trả thêm một phần năm cho người bị hại. \s5 \v 8 Nhưng nếu bên bị hại không có thân nhân để nhận bồi thường, thì khoản bồi thường ấy sẽ được nộp cho Ta thông qua thầy tế lễ, cùng với một con chiên đực để chuộc tội cho chính mình. \v 9 Mọi lễ vật thánh đem đến cho thầy tế lễ, tức là những món dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta, sẽ thuộc về thầy tế lễ. \v 10 Lễ vật thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về thầy tế lễ. Hễ món chi được đưa cho thầy tế lễ thì sẽ thuộc về người.” \s5 \v 11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 12 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói rằng, ‘Nếu người vợ nào bỏ chồng mình và phạm tội phản bội người đó. \s5 \v 13 Nếu có một người nam khác ngủ với nàng. Trong trường hợp đó, nàng bị ô uế. Ngay cả nếu chồng nàng không thấy hoặc không biết, và thậm chí cũng cũng không ai bắt quả tang nàng phạm tội và không ai làm chứng chống lại nàng, \v 14 người chồng vẫn có thể nổi ghen vì vợ mình bị ô uế. Tuy vậy, người chồng có thể nổi ghen sai lầm khi vợ mình không bị ô uế. \s5 \v 15 Trong những trường hợp đó, chồng phải dẫn vợ mình đến gặp thầy tế lễ. Người phải đem theo một của lễ quán để chuộc tội cho nàng. Cũng phải đem một phần mười ê-pha bột lúa mạch. Người không được đổ dầu hay nhũ hương lên trên bởi đó là của lễ chay về sự ghen tuông, của lễ tượng trưng xác định tội lỗi. \s5 \v 16 Thầy tế lễ sẽ đem nàng đến gần và để nàng đứng trước mặt Đức Giê-hô-va. \v 17 Thầy tế lễ sẽ lấy một cái bình nước thánh rồi lấy bụi trên nền đền tạm, sau đó bỏ bụi vào nước. \s5 \v 18 Thầy tế lễ sẽ đặt người nữ đứng trước mặt Đức Giê-hô-va. Nàng phải cởi khăn trùm đầu và xõa tóc. Thầy tế lễ sẽ trao của lễ chay vào tay nàng như một dấu chỉ. Đây là của lễ chay về sự ghen tuông. Thầy tế lễ sẽ cầm nước đắng pha bụi có sự nguyền rủa. \v 19 Thầy tế lễ sẽ bắt nàng thề. Sau đó nói với nàng, “Nếu không có người nam nào đã ngủ với bà, và nếu bà không mất nết và phạm tội bất khiết, thì bà chắc chắn sẽ không bị hại bởi nước đắng nguyền rủa này. \s5 \v 20 Nhưng nếu bà, là một phụ nữ có chồng, đã ngoại tình, nếu bà bị ô uế, và nếu có người nam nào đã ngủ với bà…” \v 21 Bấy giờ thầy tế lễ phải bắt nàng thề độc, và người phải nói tiếp cùng nàng, “…thì Đức Giê-hô-va sẽ khiến bà trở nên một sự rủa sả đến nỗi người người ta sẽ biết điều đó. Việc này sẽ xảy đến nếu Đức Giê-hô-va khiến bà ốm lòi hông và phình bụng. \v 22 Nước đắng rủa sả này sẽ vào thấm vào bụng bà, làm bà phình bụng và ốm lòi hông. ” Người nữ phải trả lời, “Vâng, nguyện đúng như vậy nếu tôi có tội.” \s5 \v 23 Thầy tế lễ phải viết những lời rủa sả này trên một cuộn giấy, sau đó rửa các lời nguyền ấy trong nước đắng. \s5 \v 24 Thầy tế lễ sẽ bảo người nữ uống nước đắng mang lời rủa đó. Nước có lời rủa sả sẽ vào trong cơ thể nàng và gây đắng hơn. \v 25 Thầy tế lễ sẽ lấy của lễ chay về sự ghen tuông hỏi tay nàng. Người sẽ giơ của lễ chay trước mặt Đức Giê-hô-va, và đem đến bàn thờ. \v 26 Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm của lễ chay, tức là một phần trong đó, rồi thiêu trên bàn thờ. Sau đó người phải đưa nước đắng cho người nữ uống. \s5 \v 27 Khi người đưa nước cho nàng uống, nếu nàng bị ô uế vì đã phạm tội bất chánh với chồng mình, thì nước rủa sả sẽ thấm trong người nàng và làm nàng cay đắng hơn. Bụng nàng sẽ phình bắp đùi cũng teo, nàng sẽ bị rủa sả giữa dân mình. \v 28 Nhưng nếu nàng không bị ô uế và còn thanh sạch, thì nàng sẽ được tự do. Nàng sẽ có thể sinh con. \s5 \v 29 Đây là luật về sự ghen tuông, áp dụng cho người nữ nào ngoại tình và bị ô uế. \v 30 Đây là luật quy định cho người chồng nổi tính ghen khi người ghen vợ mình. Người sẽ đem người nữ đến trước mặt Đức Giê-hô-va, và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng tất cả mọi điều được mô tả trong luật ghen tuông này. \s5 \v 31 Người sẽ vô can vì đã dẫn vợ mình đến gặp thầy tế lễ. Còn người nữ đó sẽ gánh lấy tội lỗi mình. \s5 \c 6 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, \v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi một người nam hay một người nữ dâng mình cho Đức Giê-hô-va bằng lời khấn nguyện Na-xi-rê, \v 3 thì người phải kiêng rượu và thức uống làm cho say. Người không được uống giấm làm bằng rượu hoặc đồ uống say. Người không được uống bất cứ nước nho, cũng không được ăn trái nho tươi hay nho khô nào. \v 4 Trong suốt thời gian người biệt riêng cho Ta, người không được ăn sản phẩm nào làm từ quả nho, gồm những món làm từ hột hay vỏ nho. \s5 \v 5 Trong suốt thời gian người giữ lời hứa nguyện biệt riêng, người sẽ không dùng dao cạo đầu cho đến mãn kỳ hạn dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Người phải dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Người phải để tóc mọc dài trên đầu. \s5 \v 6 Trong suốt thời gian biệt riêng mình cho Đức Giê-hô-va, người không được đến gần xác chết. \v 7 Người chớ để chính mình bị ô uế dù cha, mẹ, anh em, hoặc chị em người qua đời. Ấy là vì người biệt riêng mình cho Đức Chúa Trời, vì mọi người đều có thể thấy sự hứa nguyện đó qua mái tóc dài của người. \v 8 Trong thời gian biệt riêng mình, người là người thánh được dành riêng cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 9 Nếu bỗng dưng có ai chết bên cạnh người và làm ô uế người, thì người phải cạo đầu trong ngày tẩy uế, tức vào ngày thứ bảy. Đó là lúc người phải cạo đầu mình. \s5 \v 10 Qua ngày thứ tám, người phải đem một cặp bồ câu hay một cặp bồ câu con đến cho thầy tế lễ ở cửa lều hội họp. \v 11 Thầy tế lễ sẽ dâng một con chim làm của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu. Hai của lễ này sẽ chuộc tội cho người do người đã phạm tội vì ở gần xác chết. Trong chính ngày đó, người phải tái dâng mình cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 12 Người phải tái dâng mình cho Đức Giê-hô-va khi đến kỳ biệt riêng. Người phải đem một con chiên đực một tuổi đến làm của lễ chuộc tội. Thời gian trước kia người bị ô uế sẽ không được tính, vì người đã bị ô uế đang khi dâng mình cho Đức Chúa Trời. \s5 \v 13 Đây là quy định danh cho người Na-xi-rê khi mãn hạn thời gian biệt riêng. Người phải được đưa đến cửa lều hội họp. \v 14 Người sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ dâng một con chiên đực một tuổi toàn vẹn làm của lễ thiêu. Người sẽ dâng một con chiên cái một tuổi toàn vẹn làm của lễ chuộc tội. Người sẽ dâng một con chiên đực toàn vẹn làm của lễ thù ân. \v 15 Người cũng sẽ đem đến một giỏ bánh không men, gồm bánh làm bằng bột mịn trộn dầu, bánh xốp không men có phết dầu, cùng với của lễ chay và của lễ quán. \s5 \v 16 Thầy tế lễ sẽ dâng trước mặt Đức Giê-hô-va. Người phải dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu. \v 17 Với giỏ bánh không men, người sẽ dâng con chiên đực làm của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ cũng sẽ dâng của lễ chay và của lễ quán. \s5 \v 18 Trước cửa lều hội họp, người Na-xi-rê phải cạo đầu sau khi đã dâng mình cho Đức Chúa Trời. Người phải lấy tóc đã cạo bỏ vào lửa dưới của lễ thù ân. \s5 \v 19 Thầy tế lễ sẽ lấy cái vai con chiên đực đã luộc, một ổ bánh không men trong giỏ, và một bánh xốp không men. Người sẽ đặt chúng vào tay của người Na-xi-rê sau khi đã cạo đầu. \v 20 Thầy tế lễ phải giơ cao các món đó như thể đưa lên trước mặt Đức Giê-hô-va và dâng cho Ngài. Đây là món thánh thuộc về thầy tế lễ, gồm cái ức và đùi được dâng. Sau đó, người Na-xi-rê có thể uống rượu. \s5 \v 21 Đây là luật lệ về người Na-xi-rê nào thề nguyện hứa dâng cho Đức Giê-hô-va. Dù người dâng thứ gì, người cũng phải có nghĩa vụ với lời khấn nguyện của mình đặng giữ lời hứa nguyện qua luật dành cho người Na-xi-rê. ’” \s5 \v 22 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 23 “Hãy nói với A-rôn và các con trai người. ‘Ngươi phải chúc phước dân Y-sơ-ra-ên như vầy. Ngươi phải nói rằng, \v 24 “Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước và gìn giữ ngươi. \s5 \v 25 Nguyện Đức Giê-hô-va tỏa sáng trên ngươi chăm nom ngươi, và tỏ lòng nhân từ với ngươi. \v 26 Nguyện Đức Giê-hô-va đoái đến ngươi và ban sự bình an cho ngươi’” \v 27 Họ phải nhân danh Ta mà chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên như vậy. Rồi Ta sẽ ban phước cho họ.” \s5 \c 7 \p \v 1 Vào ngày Môi-se hoàn tất việc dựng đền tạm, ông xức dầu cho đền tạm và dâng cho Đức Giê-hô-va, cùng với mọi vật dụng trong đền. Bàn thờ và mọi đồ dùng của bàn thờ cũng được ông xức dầu và dâng cho Đức Giê-hô-va. \v 2 Hôm đó, các lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các trưởng gia tộc, đều dâng lễ vật. Họ là lãnh đạo của các chi phái. Họ đã tham gia phụ giúp việc thống kê dân số. \v 3 Họ đem lễ vật của mình đến trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ đem sáu cỗ xe bò có mui và mười hai con bò đực. Cứ mỗi hai lãnh đạo thì đem một xe bò, và mỗi lãnh đạo đem một con bò đực. Họ dâng các lễ vật này ở trước đền tạm. \s5 \v 4 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 5 “Hãy nhận các lễ vật của họ để dùng cho việc ở lều hội họp. Hãy đưa lễ vật cho người Lê-vi, trao cho mỗi người tùy theo nhu cầu công việc mình.” \s5 \v 6 Môi-se nhận các cỗ xe bò và bò đực rồi trao cho người Lê-vi. \v 7 Ông trao hai cỗ xe bò và bốn con bò đực cho con cháu Ghẹt-sôn tùy theo nhu cầu công việc của họ. \v 8 Ông trao bốn cỗ xe bò và tám con bò đực cho con cháu Mê-ra-ri, dưới sự coi sóc của Y-tha-ma, con thầy tế lễ A-rôn, tùy theo nhu cầu công việc của họ. \s5 \v 9 Nhưng ông không trao món nào cho con cháu Kê-hát, vì công việc của họ có liên quan đến những vật thuộc về Đức Giê-hô-va mà họ phải khiêng trên vai. \s5 \v 10 Các lãnh đạo dâng lễ vật để cung hiến bàn thờ vào ngày Môi-se xức dầu cho bàn thờ. Các lãnh đạo dâng lễ vật mình ở phía trước bàn thờ. \v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, “Mỗi lãnh đạo phải dâng lễ vật vào đúng ngày của mình để dùng vào việc cung hiến bàn thờ.” \s5 \v 12 Ngày thứ nhất, Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp thuộc chi phái Giu-đa đến dâng lễ vật. \v 13 Lễ vật của ông là một đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 14 cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 15 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một con chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 16 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 17 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp. \s5 \v 18 Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, trưởng chi tộc Y-sa-ca, đến dâng lễ vật. \v 19 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \s5 \v 20 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \v 21 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 22 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 23 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Na-tha-na-ên, con trai Xu-a. \s5 \v 24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, trưởng chi phái Sa-bu-lôn, đến dâng lễ vật. \v 25 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 26 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 27 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 28 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 29 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn. \s5 \v 30 Ngày thứ tư, Ê-li-xu, con trai Sê-đêu, trưởng chi phái Ru-bên, đến dâng lễ vật. \v 31 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 32 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 33 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 34 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 35 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của Ê-li-xu, con trai Sê-đêu. \s5 \v 36 Ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-sa-đai, trưởng chi phái Si-mê-ôn, đến dâng lễ vật. \v 37 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 38 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 39 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 40 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 41 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-sa-đai. \s5 \v 42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên, trưởng chi phát Gát, đến dâng lễ vật. \v 43 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 44 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 45 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 46 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 47 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên. \s5 \v 48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma, con trai Am-mi-hút, trưởng chi phái Ép-ra-im, đến dâng lễ vật. \v 49 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 50 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 51 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 52 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 53 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của Ê-li-sa-ma, con trai Am-mi-hút. \s5 \v 54 Ngày thứ tám, Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu, trưởng chi phái Ma-na-se, đến dâng lễ vật. \v 55 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 56 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 57 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 58 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 59 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu. \s5 \v 60 Ngày thứ chín, A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn, trưởng chi phái Ben-gia-min, đến dâng lễ vật. \v 61 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 62 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 63 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 64 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 65 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn. \s5 \v 66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai, trưởng chi phái Đan, đến dâng lễ vật. \v 67 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 68 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 69 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 70 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 71 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai. \s5 \v 72 Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran, trưởng chi phái A-se, đến dâng lễ vật. \v 73 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 74 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 75 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 76 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 77 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran. \s5 \v 78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con trai Ê-nan, trưởng chi phái Nép-ta-li, đến dâng lễ vật. \v 79 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay. \v 80 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm. \s5 \v 81 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi. \v 82 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 83 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan. \s5 \v 84 Các lãnh đạo Y-sơ-ra-ên dâng tất cả những lễ vật này vào ngày Môi-se xức dầu cho bàn thờ. Họ dâng mười hai đĩa gỗ bằng bạc, mười hai cái bát bằng bạc, và mười hai cái đĩa bạc. \v 85 Mỗi đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và mỗi cái bát nặng 70 siếc-lơ. Tất cả các vật dụng nặng 2. 400 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. \v 86 Mỗi cái trong số mười hai đĩa bạc đựng đầy hương thơm nặng 10 siếc-lơ theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Tất cả đĩa vàng nặng 120 siếc-lơ. \s5 \v 87 Họ dâng của lễ chay gồm mười hai con bò đực tơ, mười hai con chiên đực, và mười hai con chiên đực một tuổi. Họ dâng của lễ chay. Họ dâng mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội. \v 88 Từ trong bầy gia súc của họ, họ dâng hai mươi bốn con bò đực tơ, sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, và sáu mươi con chiên đực một tuổi làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật được dâng trong buổi cung hiến bàn thờ khi bàn thờ được xức dầu. \s5 \v 89 Khi Môi-se vào trong lều hội họp để nói chuyện với Đức Giê-hô-va, ông nghe có tiếng Ngài phán cùng ông. Đức Giê-hô-va phán với ông từ trên nắp thi ân đậy hòm giao ước, từ giữa hai chê-ru-bim. Ngài phán với ông. \s5 \c 8 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, \v 2 “Hãy nói với A-rôn. Hãy nói rằng, ‘Khi anh thắp sáng bảy ngọn đèn, chúng phải tỏa sáng phía trước cây đèn. ’” \s5 \v 3 A-rôn làm y như vậy. Ông thắp sáng các ngọn đèn trên cây đèn để soi sáng ở phía trước, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. \v 4 Cây đèn được làm như vầy: Đức Giê-hô-va đã cho Môi-se thấy kiểu mẫu của cây đèn: từ đế cho đến đầu cây đèn được làm bằng vàng dát mỏng, kèm theo hoa đèn làm bằng vàng dát mỏng. \s5 \v 5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 6 “Hãy chọn người Lê-vi từ trong dân Y-sơ-ra-ên và tẩy sạch họ. \s5 \v 7 Hãy tẩy sạch họ như vầy: Rưới nước chuộc tội lên họ. Bảo họ cạo lông toàn thân, giặt sạch quần áo, để họ được tinh sạch. \v 8 Sau đó, họ sẽ đem đến một con bò đực tơ và của lễ chay làm bằng bột mịn tẩm dầu. Bảo họ đem đến một con bò đực tơ khác làm của lễ chuộc tội. \s5 \v 9 Dẫn người Lê-vi đến trước lều hội họp, trước mặt toàn thể dân chúng Y-sơ-ra-ên. \v 10 Đem người Lê-vi đến trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay lên người Lê-vi. \v 11 A-rôn phải thay mặt dân Y-sơ-ra-ên dâng người Lê-vi trước mặt Ta, trình dâng họ như thể dâng họ lên cao trước mặt mình. Người sẽ làm như vậy để người Lê-vi phục vụ Ta. \s5 \v 12 Người Lê-vi phải đặt tay lên đầu các con bò đực tơ. Ngươi phải dâng một con bò đực tơ làm của lễ chuộc tội và một con bò đực tơ khác làm của lễ thiêu cho Ta, đặng chuộc tội cho người Lê-vi. \v 13 Hãy dẫn người Lê-vi đến trước mặt A-rôn và các con trai người, và dâng họ như một của lễ dâng lên Ta. \s5 \v 14 Như vậy, ngươi sẽ biệt riêng người Lê-vi từ trong dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. \v 15 Sau đó, người Lê-vi sẽ vào phục vụ trong lều hội họp. Ngươi phải tẩy sạch họ. Ngươi phải dâng họ lên Ta như một của lễ. \s5 \v 16 Ngươi hãy làm như vậy, vì họ hoàn toàn thuộc về Ta từ giữa dân Y-sơ-ra-ên. Con đầu lòng của con cháu Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta. Ta đã chọn người Lê-vi cho chính Ta. \v 17 Mọi con đầu lòng từ dân Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta, cả con đầu lòng của loài người và súc vật. Chính Ta đã biệt riêng họ trong ngày Ta đoạt mạng sống của các con đầu lòng trong xứ Ai Cập. \s5 \v 18 Ta đã chọn người Lê-vi từ giữa dân Y-sơ-ra-ên thay cho tất cả con đầu lòng. \v 19 Ta đã giao người Lê-vi như một món quà cho A-rôn và các con trai người. Ta đã chọn họ từ giữa dân Y-sơ-ra-ên đặng thực thi công việc của người Y-sơ-ra-ên trong lều hội họp. Ta đã ban cho họ người Lê-vi để chuộc tội dân Y-sơ-ra-ên hầu cho sẽ không có tai họa nào làm tổn hại dân chúng khi họ đến gần nơi thánh.” \s5 \v 20 Môi-se, A-rôn, và cả dân chúng dân Y-sơ-ra-ên đều làm y như vậy cho người Lê-vi. Họ làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán truyền cho Môi-se về người Lê-vi. Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy. \v 21 Người Lê-vi tự làm sạch mình khỏi tội lỗi bằng cách giặt quần áo. A-rôn trình dâng họ như một của lễ lên Đức Giê-hô-va và chuộc tội cho họ, đặng làm họ tinh sạch. \s5 \v 22 Sau đó, người Lê-vi bước vào trong lều hội họp để phục vụ trước mặt A-rôn và trước mặt các con trai của A-rôn. Đây là điều như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se về người Lê-vi. Họ đối xử với tất cả người Lê-vi y như vậy. \s5 \v 23 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 24 “Đây là lệnh cho người Lê-vi nào từ 25 tuổi trở lên. Họ phải tham gia phục vụ trong lều hội họp. \s5 \v 25 Họ sẽ nghỉ ngơi khi được 50 tuổi. Khi đó, họ không còn phục vụ nữa. \v 26 Họ có thể giúp anh em mình tiếp tục làm việc trong lều hội họp, nhưng họ không còn phải phục vụ nữa. Ngươi hãy hướng dẫn người Lê-vi về các vấn đề này.” \s5 \c 9 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong hoang mạc Si-nai, vào tháng giêng năm thứ nhì sau khi dân sự đã ra khỏi xứ Ai Cập. Ngài phán rằng, \v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên giữ Lễ Vượt qua theo giờ đã định trong năm. \v 3 Vào ngày mười bốn tháng này, lúc chạng vạng, các ngươi phải giữ Lễ Vượt qua theo thì giờ đã định. Các ngươi phải giữ Lễ Vượt qua, tuân thủ mọi quy định, và vâng giữ mọi luật lệ về lễ ấy.” \s5 \v 4 Vậy, Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng họ phải giữ Lễ Vượt qua. \v 5 Như vậy, họ giữ Lễ Vượt qua vào tháng giêng, nhằm ngày mười bốn, lúc chạng vạng, trong hoang mạc Si-nai. Dân Y-sơ-ra-ên vâng theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm Môi-se. \s5 \v 6 Có mấy người bị ô uế do đụng đến xác chết. Họ không thể giữ Lễ Vượt qua vào ngày đó. Họ đến gặp Môi-se và A-rôn ngay hôm ấy. \v 7 Họ thưa với Môi-se, “Chúng tôi bị ô uế vì đụng đến xác chết. Sao các ông không cho chúng tôi dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va theo giờ đã định với dân Y-sơ-ra-ên? ” \v 8 Môi-se trả lời, “Hãy đợi tôi hỏi ý Đức Giê-hô-va về trường hợp của các ông.” \s5 \v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 10 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Nếu có ai giữa các ngươi hoặc con cháu các ngươi bị ô uế vì đụng đến xác chết, hoặc đang đi đường xa, thì người vẫn có thể giữ Lễ Vượt qua cho Đức Giê-hô-va.’ \s5 \v 11 Họ phải giữ Lễ Vượt qua vào ngày mười bốn tháng hai lúc chạng vạng. Họ phải ăn với bánh không men và rau đắng. \v 12 Không được chừa lại thứ gì đến sáng hôm sau cũng không được làm gãy xương của con vật. Họ phải giữ các luật lệ về Lễ Vượt qua. \s5 \v 13 Nhưng ai tinh sạch và không bận đi xa, lại không giữ Lễ Vượt qua, người đó sẽ bị loại khỏi dân sự mình vì không dâng lễ vật theo yêu cầu của Đức Giê-hô-va vào đúng thời gian đã định. Người sẽ mang lấy tội lỗi mình. \v 14 Nếu một khách lạ sống giữa các ngươi và giữ Lễ Vượt qua vì tôn kính Đức Giê-hô-va, người phải giữ Lễ và làm mọi điều Ngài truyền, tuân thủ các quy tắc của Lễ Vượt qua, và giữ luật lệ liên quan. Người ngoại quốc và tất cả những ai sinh ra trong xứ ngươi phải giữ luật lệ tương tự.” \s5 \v 15 Trong ngày dựng đền tạm, mây bao phủ đền tạm, tức lều chứa các bảng giao ước. Vào buổi chiều, mây phủ như lửa trên đền tạm cho đến sáng. \v 16 Quang cảnh đó cứ tiếp diễn như vậy. Mây phủ đền tạm và tựa như lửa vào ban đêm. \v 17 Hễ khi nào mây được cất lên khỏi lều, dân Y-sơ-ra-ên sẽ lên đường. Hễ mây dừng lại ở nơi nào, dân sự sẽ hạ trại tại đó. \s5 \v 18 Theo lệnh của Đức Giê-hô-va, dân Y-sơ-ra-ên di chuyển, và theo lệnh của Ngài, họ sẽ hạ trại. Họ sẽ ở lại trại mình trong lúc mây phủ trên đền tạm. \v 19 Khi mây phủ trên đền tạm lâu ngày, dân Y-sơ-ra-ên cũng tuân theo sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va, không đi đâu cả. \s5 \v 20 Đôi khi mây phủ trên đền tạm chỉ vài ngày. Khi đó, họ sẽ tuân lệnh của Đức Giê-hô-va – họ nhổ trại và đi tiếp theo lệnh của Ngài. \v 21 Có khi mây dừng trại từ chiều tối đến sáng. Sáng hôm sau, khi đám mây cất lên, họ lại nhổ trại lên đường. Bất kể mây dừng lại một hay hai ngày, họ cũng ở lại, và họ chỉ đi tiếp khi nào mây được cất lên. \s5 \v 22 Nếu mây phủ trên đền tạm trong hai ngày, một tháng, hay một năm, hoặc lâu hơn, dân Y-sơ-ra-ên cũng sẽ ở trong trại mình và không đi đâu cả. Nhưng hễ khi nào đám mây được cất lên, họ sẽ lại lên đường. \v 23 Họ hạ trại theo lệnh của Đức Giê-hô-va, và họ lên đường theo lệnh của Ngài. Họ vâng phục mệnh lệnh Đức Giê-hô-va phán qua Môi-se. \s5 \c 10 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se rằng, \v 2 “Hãy làm hai cái kèn bằng bạc dát mỏng. Ngươi hãy dùng kèn để triệu tập dân chúng và truyền cho họ dời trại mình. \s5 \v 3 Các thầy tế lễ phải thổi kèn triệu tập cả dân chúng đến trước mặt ngươi ở cửa lều hội họp. \v 4 Nếu thầy tế lễ chỉ thổi một cây kèn, thì các lãnh đạo, các trưởng chi phái trong dân Y-sơ-ra-ên, phải tập họp lại bên ngươi. \v 5 Khi ngươi thổi một tiếng kèn lớn, các trại ở phía đông sẽ di chuyển. \s5 \v 6 Khi ngươi thổi một tiếng kèn lớn lần thứ nhì, các trại ở phía nam sẽ di chuyển. Họ sẽ thổi một tiếng kèn lớn báo hiệu phải lên đường. \v 7 Khi dân chúng nhóm lại, hãy thổi kèn, nhưng chớ thổi to. \v 8 Các con trai của thầy tế lễ A-rôn phải thổi kèn. Đây sẽ luôn luôn là quy định đời đời dành cho ngươi con cháu ngươi. \s5 \v 9 Khi các ngươi xuất trận trong xứ mình chống lại kẻ thù áp bức, các ngươi phải thổi kèn báo động. Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, sẽ nhớ đến các ngươi và giải cứu các ngươi khỏi kẻ thù. \s5 \v 10 Ngoài ra, vào ngày vui mừng, trong các lễ hội trọng thể và vào đầu tháng, các ngươi phải thổi kèn khi dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Các của lễ này sẽ khiến các ngươi được Ta, Đức Chúa Trời của các ngươi, ghi nhớ.” \s5 \v 11 Năm thứ hai, ngày hai mươi tháng hai, đám mây được cất lên khỏi đền tạm giao ước. \v 12 Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục di chuyển từ hoang mạc Si-nai. Đám mây dừng lại ở hoang mạc Pha-ran. \v 13 Họ lên đường lần đầu tiên theo lệnh của Đức Giê-hô-va truyền qua Môi-se. \s5 \v 14 Ngọn cờ của trại Giu-đa đi trước, theo sau là các đơn vị quân đội. Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp, chỉ huy quân Giu-đa. \v 15 Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, chỉ huy quân đội của chi phái Y-sa-ca. \v 16 Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, chỉ huy quân đội của chi phái Sê-bu-lôn. \s5 \v 17 Con cháu Ghẹt-sôn và Mê-ra-ri chuyên về công việc đền tạm, họ tháo dỡ đền tạm và tiếp tục di chuyển. \v 18 Kế tiếp, đơn vị quân đội ở trại Ru-bên lên đường theo ngọn cờ mình. Ê-li-xu, con trai Sê-đêu, chỉ huy quân Ru-bên. \v 19 Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai chỉ huy đoàn quân của chi phái Si-mê-ôn. \v 20 Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên, chỉ huy quân đội của chi phái Gát. \s5 \v 21 Người Kê-hát ra đi. Họ đem theo các vật thánh. Những người khác sẽ dựng đền tạm trước khi người Kê-hát đến trại tiếp theo. \v 22 Kế đó là các đơn vị quân đội ra đi dưới ngọn cờ chi phái Ép-ra-im. Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút chỉ huy quân Ép-ra-im. \v 23 Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu, chỉ huy quân đội của chi phái Ma-na-se. \v 24 A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn, chỉ huy quân đội của chi phái Ben-gia-min. \s5 \v 25 Cuối cùng là các toán quân dưới ngọn cờ của chi phái Đan ra đi. A-hi-ê-xe con trai A-mi-sa-đai chỉ huy quân đội của chi phái Đan. \v 26 Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran, chỉ huy quân đội của chi phái A-se. \v 27 A-hi-ra, con trai Ê-nan, chỉ huy quân đội của chi phái Nép-ta-li. \v 28 Đây là thứ tự mà các toán quân của người Y-sơ-ra-ên phải thực hiện khi khởi hành. \s5 \v 29 Môi-se nói với Hô-báp con trai Rê-u-ên người Mi-đi-an. Rê-u-ên là cha vợ của Môi-se. Môi-se thưa với Hô-báp, “Chúng tôi đang đi đến nơi mà Đức Giê-hô-va đã mô tả. Đức Giê-hô-va phán, ‘Ta sẽ ban xứ đó cho ngươi. ’ Xin anh hãy đi với chúng tôi. Chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh. Đức Giê-hô-va đã hứa sẽ ban phước cho Y-sơ-ra-ên. ” \v 30 Nhưng Hô-báp trả lời Môi-se, “Tôi sẽ không đi với các anh đâu. Tôi sẽ trở về xứ mình và sống với bà con mình.” \s5 \v 31 Môi-se đáp, “Xin anh đừng rời khỏi chúng tôi. Anh biết chỗ nào có thể hạ trại trong hoang mạc này. Anh sẽ trông chừng cho chúng tôi. \v 32 Nếu anh đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đối xử tốt với anh như Đức Giê-hô-va làm cho chúng tôi.” \s5 \v 33 Họ đi từ núi của Đức Giê-hô-va trong ba ngày. Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đi trước họ trong ba ngày để tìm nơi cho họ nghỉ ngơi. \v 34 Đám mây của Đức Giê-hô-va che phủ họ vào ban ngày khi họ dời trại. \s5 \v 35 Hễ khi nào chiếc hòm lên đường, Môi-se sẽ nói, “Đức Giê-hô-va ơi, xin Ngài chỗi dậy. Xin Chúa đánh tan kẻ thù Ngài. Khiến những kẻ ghét Ngài chạy trốn khỏi Ngài. ” \v 36 Hễ khi nào chiếc hòm dừng lại, Môi-se sẽ nói, “Đức Giê-hô-va ơi, xin Ngài trở lại cùng hàng ngàn dân Y-sơ-ra-ên.” \s5 \c 11 \p \v 1 Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những khó khăn của họ, và Đức Giê-hô-va đã nghe điều đó. Đức Giê-hô-va nghe tiếng phàn nàn của dân sự, Ngài giận. Lửa của Đức Giê-hô-va nổi bừng lên ở giữa họ và thiêu hủy các lều ở bìa trại. \v 2 Dân sự kêu cầu Môi-se, Môi-se cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va, thì lửa ngưng cháy. \v 3 Người ta gọi nơi đó là Ta-bê-ra, vì lửa của Đức Giê-hô-va đã cháy giữa họ. \s5 \v 4 Một số dân ngoại quốc bắt đầu cắm trại với con cháu Y-sơ-ra-ên. Họ thèm muốn đồ ăn ngon hơn. Vậy dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu khóc lóc và than rằng, “Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? \v 5 Chúng tôi nhớ hồi còn ăn cá ở Ai Cập, dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, củ hành, và củ tỏi. \v 6 Bây giờ chúng tôi yếu sức. Chẳng có gì ăn ngoại trừ ma-na.” \s5 \v 7 Ma-na giống như hạt cây rau mùi, trông như nhựa cây. \v 8 Dân sự đi ra lượm ma-na. Họ nghiền bằng cối xay, giã nát bằng cối, nấu trong nồi, và chế biến thành bánh. Bánh có vị như dầu ô-liu tươi. \s5 \v 9 Khi sương giáng trên trại vào ban đêm, ma-na cũng rơi xuống. \v 10 Môi-se nghe tiếng dân sự khóc lóc trong gia đình họ, và họ đứng nơi cửa lều. Đức Giê-hô-va rất giận, và dưới cái nhìn của Môi-se thì lời phàn nàn của họ là sai. \s5 \v 11 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va, “Sao Chúa bạc đãi tôi tớ Ngài? Sao Ngài không hài lòng con? Ngài bắt con mang lấy gánh nặng của đoàn dân này. \v 12 Có phải con mang thai dân này chăng? Có phải con sinh ra họ để rồi Ngài bảo con rằng, ‘Hãy bồng ẵm họ trong lòng như cha bồng đứa trẻ? ’ Lẽ nào con phải bồng ẵm họ vào xứ mà Ngài đã hứa với tổ tiên họ? \s5 \v 13 Con kiếm đâu ra thịt cho dân này? Họ khóc lóc trước mặt con và nói rằng, ‘Hãy cho chúng tôi ăn thịt. ’ \v 14 Một mình con không thể nào chịu đựng nổi dân này. Quá sức con rồi. \v 15 Vì Ngài đối xử con như vầy, xin hãy giết con, nếu Ngài nhân từ, xin Ngài cất khỏi con nỗi khổ này.” \s5 \v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy đem đến cho ta bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên. Hãy chắc chắn đó là các là trưởng lão và quan chức trong dân. Hãy đem họ đến lều hội họp đứng cùng ngươi. \v 17 Ta sẽ ngự xuống và nói chuyện với ngươi tại đó. Ta sẽ lấy một phần Thần Ta đang ngự trên ngươi và đặt lên họ. Họ sẽ cùng gánh nặng của dân này với ngươi. Ngươi sẽ không phải gánh một mình nữa. \s5 \v 18 Hãy nói với dân sự, ‘hãy dọn mình ra thánh cho ngày mai. Anh em sẽ được ăn thịt, vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng than khóc của anh em. Anh em nói, “Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? Chúng tôi đã ăn thịt hồi còn ở Ai Cập. ” Vậy Đức Giê-hô-va sẽ cho anh em ăn thịt, anh emsẽ được ăn thịt. \v 19 Anh em sẽ ăn thịt không chỉ trong một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày, hay hai mươi ngày, \v 20 nhưng anh em sẽ ăn thịt trong cả tháng cho đến nỗi thịt tràn ra lỗ mũi. Nó sẽ khiến anh emchán ngấy vì anh em đã từ bỏ Đức Giê-hô-va, là Đấng ngự giữa anh em. Anh em đã khóc lóc trước mặt Ngài. Anh em than, “Tại sao chúng tôi rời khỏi Ai Cập? ”” \s5 \v 21 Vậy Môi-se trả lời, “Con đang ở với 600. 000 người, và Ngài lại bảo, ‘Ta sẽ cho họ ăn thịt cả tháng. ’ \v 22 Liệu chúng con sẽ giết bầy gia súc để thỏa mãn họ chăng? Liệu chúng con sẽ bắt cá biển để thỏa mãn họ? ” \v 23 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se, “Tay Ta ngắn vậy sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không.” \s5 \v 24 Môi-se ra ngoài và thuật lại với dân sự về mọi lời của Đức Giê-hô-va. Ông tập hợp bảy mươi trưởng lão trong dân và đặt họ đứng xung quanh lều. \v 25 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong đám mây và phán cùng Môi-se. Đức Giê-hô-va lấy một phần Thần đang ngự trên Môi-se và đặt lên bảy mươi trưởng lão. Khi Thần ngự trên họ, họ nói tiên tri, nhưng chỉ nói trong lần đó và chẳng nói lại nữa. \s5 \v 26 Hai người ở lại trại là Ên-đát và Mê-đát. Thần cũng ngự trên họ. Họ có tên trong danh sách, nhưng họ không đến lều. Tuy nhiên, họ nói tiên tri trong trại. \v 27 Một thanh niên trong trại chạy đến báo Môi-se, “Ên-đát và Mê-đát đang nói tiên tri trong trại.” \s5 \v 28 Giô-suê con trai Nun, trợ lý của Môi-se, một trong những người được ông chọn, nói cùng Môi-se, “Thưa thầy Môi-se, xin hãy dừng họ lại. ” \v 29 Môi-se trả lời, “Con đang ghen tỵ giùm ta à? Ước gì cả dân sự của Đức Giê-hô-va đều là tiên tri và ước gì Ngài đặt Thần của Ngài trên tất cả mọi người! ” \v 30 Môi-se và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên trở về trại. \s5 \v 31 Rồi Đức Giê-hô-va đem đến một cơn gió và chim cút thổi từ ngoài biển. Chúng rơi gần trại, phủ rộng cả hai bên ước một ngày đường. Chim cút rơi xuống quanh trại chất thành đống cao khoảng 2 cu-bít. \v 32 Dân sự bận rộn lượm chim cút cả ngày và đêm và đến tận hôm sau. Ai cũng gom hơn mười ô-me chim cút. Họ phơi chim cút khắp cả trại. \s5 \v 33 Đang khi thịt còn ở giữa răng họ, đang khi họ còn đang nhai, thì Đức Giê-hô-va nổi giận cùng họ. Ngài giáng trên họ một bệnh tật rất lớn. \v 34 Nơi đó được đặt tên là Kíp-rốt Ha-tha-va, vì tại đó họ chôn những người thèm ăn thịt. \v 35 Từ Kíp-rốt Ha-tha-va, dân sự lên đường đến Ha-xê-rốt, và dừng tại đó. \s5 \c 12 \p \v 1 Sau đó Mi-ri-am và A-rôn nói nghịch lại Môi-se vì cớ người nữ Cút mà ông đã cưới làm vợ. \v 2 Họ nói, “Chẳng phải Đức Giê-hô-va chỉ phán với một mình Môi-se sao? Chẳng phải Ngài cũng không phán với chúng ta ư? ” Bấy giờ Đức Giê-hô-va nghe lời họ nói. \v 3 Môi-se là một người rất khiêm nhường, khiêm nhường hơn bất kỳ ai trên đất. \s5 \v 4 Đức Giê-hô-va liền phán cùng Môi-se, A-rôn, và Mi-ri-am, “Cả ba người các ngươi, hãy đến lều hội họp. ” Vậy cả ba người đều đến đó. \v 5 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong một trụ mây. Ngài đứng ở cửa lều rồi gọi A-rôn và Mi-ri-am. Cả hai người cùng đến. \s5 \v 6 Đức Giê-hô-va phán, “Hãy nghe Lời Ta phán. Khi một tiên tri của Ta ở cùng các ngươi, Ta sẽ bày tỏ chính mình Ta cho người bằng khải tượng và nói chuyện với người qua giấc chiêm bao. \v 7 Môi-se, tôi tớ Ta, không giống như vậy. Người trung thành trong cả nhà Ta. \v 8 Ta nói chuyện trực tiếp với Môi-se, chứ không nói bằng sự hiện thấy hoặc điều bí ẩn. Người thấy hình dáng Ta. Vậy sao các ngươi không sợ mà nói nghịch cùng Môi-se, tôi tớ Ta?” \s5 \v 9 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng họ, rồi Ngài bỏ đi. \v 10 Đám mây cất lên khỏi lều, thì Mi-ri-am bỗng dưng bị phung – da trở nên trắng như tuyết. Khi A-rôn quay sang nhìn Mi-ri-am, ông thấy bà bị bệnh phung. \s5 \v 11 A-rôn nói cùng Môi-se, “Ôi, thầy ơi, xin tha lỗi này của chúng tôi. Chúng tôi đã nói điều dại dột, chúng tôi đã phạm tội. \v 12 Xin đừng để nàng nhìn giống như một đứa bé sinh non chết yểu, da thịt bị rữa nát khi lọt lòng mẹ.” \s5 \v 13 Vậy Môi-se kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va. Ông thưa rằng, “Lạy Chúa, xin chữa lành cho nàng. ” \v 14 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se, “Nếu cha nàng đã nhổ vào mặt nàng, nàng sẽ phải bị nhục nhã trong bảy ngày. Hãy giữ nàng ngoài trại trong bảy ngày. Sau đó hãy cho nàng vào lại trại. ” \v 15 Vậy Mi-ri-am bị giữ bên ngoài trại trong bảy ngày. Dân sự không lên đường cho đến chừng nào nàng trở vào trại. \s5 \v 16 Sau đó, dân sự rời khỏi Ha-xê-rốt và cắm trại trong hoang mạc Pha-ran. \s5 \c 13 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 2 “Hãy cử vài người đi thám thính xứ Ca-na-an, là xứ mà Ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Hãy cử mỗi chi phái một người. Người đó phải là lãnh đạo trong chi phái mình.” \s5 \v 3 Môi-se sai họ đi vào hoang mạc Pha-ran, theo lệnh của Đức Giê-hô-va. Tất cả họ đều là những nhà lãnh đạo trong dân Y-sơ-ra-ên. \v 4 Đây là tên của họ: Chi phái Ru-bên có Sam-mua, con trai Xa-cua. \s5 \v 5 Chi phái Si-mê-ôn có Sa-phát, con trai Hô-ri. \v 6 Chi phái Giu-đa có Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. \v 7 Chi phái Y-sa-ca có Di-ganh, con trai Giô-sép. \v 8 Chi phái Ép-ra-im có Hô-sê-a, con trai Nun. \s5 \v 9 Chi phái Ben-gia-min có Phan-ti, con trai Ra-phu. \v 10 Chi phái Sa-bu-lôn có Gát-đi-ên, con trai Sô-đi. \v 11 Về phía con cháu Giô-sép, gồm chi phái Ma-na-se, trong đó có Gát-đi, con trai Su-si. \v 12 Chi phái Đan có A-mi-ên, con trai Ghê-ma-li. \s5 \v 13 Chi phái A-se có Sê-thu, con trai Mi-ca-ên. \v 14 Chi phái Nép-ta-li có Na-bi, con trai Vấp-si. \v 15 Chi phái Gát có Gu-ên, con trai Ma-ki. \v 16 Đó là tên những người được Môi-se sai đi thám thính xứ. Môi-se gọi Hô-sê-a con trai Nun là Giô-suê. \s5 \v 17 Môi-se sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Ông bảo họ, “Hãy đi từ Nê-ghép và lên miền đồi núi. \v 18 Hãy do thám xem xứ đó thế nào. Hãy quan sát cư dân ở đó, xem họ yếu hay mạnh, đông hay ít. \v 19 Xứ họ ra sao. Tốt hay xấu? Có thành phố nào ở đó? Các thành đó có giống như trại hay là đó là thành trì kiên cố? \v 20 Đất đai thế nào, có phì nhiêu để trồng trọt không và có cây cối không. Hãy dũng cảm và đem về mẫu vật của xứ đó. ” Bấy giờ là đầu mùa nho. \s5 \v 21 Vậy họ đi lên do thám xứ từ hoang mạc Sin đến Rê-hốp, gần Lê-bô Ha-mát. \v 22 Từ Nê-ghép, họ đi lên và đến Hếp-rôn. Tại đó có A-hi-man, Sê-đai, và Tanh-mai, con cháu của A-nác, đang sinh sống. Bấy giờ thành Hếp-rôn đã được xây 7 năm trước thành Xô-an ở Ai Cập. \s5 \v 23 Khi đến thung lũng Ếch-côn, vì họ cắt một chùm nho. Hai người khiêng bằng cái sào. Họ cũng hái quả lựu và trái vả. \v 24 Nơi đó được gọi là thung lũng Ếch-côn, vì người Y-sơ-ra-ên đã hái một chùm nho. \s5 \v 25 Sau bốn mươi ngày, họ trở về sau khi đã do thám xứ. \v 26 Họ trở lại gặp Môi-se, A-rôn, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc Pha-ran, tại Ca-đe. Họ thuật lại mọi lời mình cho hai ông và toàn thể dân chúng, rồi trình những sản vật của xứ đó. \s5 \v 27 Họ nói với Môi-se, “Chúng tôi đã đến xứ mà ông sai chúng tôi đi. Xứ đó thật là xứ tràn đầy sữa và mật. Đây là một số sản vật của xứ ấy. \v 28 Tuy nhiên, cư dân ở đó rất khỏe. Thành trì thì vững chắc và rất lớn. Chúng tôi cũng thấy con cháu A-nác ở đó. \v 29 Người A-ma-léc sống ở Nê-ghép. Dân Hê-tít, Giê-bu-sít, và A-mô-rít xây nhà trên vùng đồi núi. Dân Ca-na-an sống ở bờ biển và dọc theo Sông Giô-đanh.” \s5 \v 30 Sau đó Ca-lép cố khuyến khích dân sự trước mặt Môi-se. Ông nói, “Chúng ta hãy tiến lên và chiếm xứ ấy, vì chúng ta có thể thắng họ. ” \v 31 Nhưng những người cùng đi với ông nói rằng, “Chúng ta không thể tấn công vì họ mạnh hơn chúng ta.” \s5 \v 32 Vì vậy, họ rỉ tai nhau lời bi quan làm nản lòng dân Y-sơ-ra-ên về xứ mà họ đã do thám. Họ nói, “Xứ mà chúng tôi do thám là xứ ăn nuốt dân của nó. Tất cả những người chúng tôi thấy đều là những người cao to lớn. \v 33 Chúng tôi thấy người khổng lồ, tức con cháu của A-nác, thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình giống như cào cào khi so với họ, và họ cũng thấy chúng tôi như vậy.” \s5 \c 14 \p \v 1 Tối hôm đó, cả dân sự khóc than lớn tiếng. \v 2 Toàn thể dân Y-sơ-ra-ên chỉ trích Môi-se và A-rôn. Cả hội chúng nói với họ, “Ước gì chúng tôi chết ở Ai Cập, hoặc chết trong hoang mạc này! \v 3 Cớ sao Đức Giê-hô-va đem chúng tôi vào xứ này để chết dưới lưỡi gươm? Vợ và con cái chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân. Chẳng phải quay về Ai Cập lại không tốt hơn cho chúng tôi sao?” \s5 \v 4 Họ bàn với nhau, “Chúng ta hãy chọn một lãnh đạo khác, chúng ta hãy trở về Ai Cập. ” \v 5 Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống đất trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 6 Giô-suê, con trai Nun, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, là hai trong số những người được sai đi do thám xứ, xé quần áo mình. \v 7 Họ nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng, “Xứ mà chúng tôi băng qua và do thám là một xứ rất tốt. \v 8 Nếu chúng ta làm vui lòng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ đem chúng ta vào xứ này và ban nó cho chúng ta. Xứ ấy đượm sữa và mật. \s5 \v 9 Chớ nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va, và chớ sợ dân trong xứ đó. Chúng ta sẽ nuốt chửng chúng dễ dàng như đồ ăn vậy. Chúng sẽ không được bảo hộ, vì Đức Giê-hô-va ở với chúng ta. Chớ sợ chúng. ” \v 10 Nhưng cả hội chúng đe dọa tìm cách ném đá hai người đến chết. Bấy giờ vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra ở lều hội họp trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, “Dân này còn khinh dể Ta đến bao giờ? Chúng còn không tin Ta đến bao giờ dù Ta đã dùng quyền năng Ta mà thực hiện các phép lạ giữa chúng? \v 12 Ta sẽ đánh chúng bằng một bệnh dịch, tước quyền thừa kế của chúng, và làm cho thị tộc của ngươi thành một nước lớn hơn và mạnh hơn chúng nó.” \s5 \v 13 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va, “Nếu Chúa làm vậy, dân Ai Cập sẽ nghe tin đó, vì Ngài đã dùng quyền năng Ngài cứu dân này khỏi họ. \v 14 Họ sẽ thuật lại cho các cư dân khác trong xứ này. Họ có nghe rằng, Đức Giê-hô-va đang ở với dân này, vì Ngài được thấy tận mặt. Mây của Ngài ngự trên dân Ngài. Ngài đi trước họ bằng một trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm. \s5 \v 15 Bây giờ, nếu Ngài giết dân này như giết một người, thì các nước đã nghe đến danh Ngài sẽ nói rằng, \v 16 ’Vì Đức Giê-hô-va không thể đem dân này vào xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho chúng, nên Ngài đã giết chúng trong hoang mạc.’ \s5 \v 17 Vậy, con cầu xin Ngài bày tỏ quyền năng lớn lao của Ngài. Vì Chúa có phán, \v 18 ‘Đức Giê-hô-va chậm nóng giận và đầy thành tín theo giao ước. Ngài tha thứ tội lỗi và sự vi phạm. Nhưng Ngài sẽ không quên xử phạt bằng cách giáng phạt tội của tổ tiên trên con cháu đến đời thứ ba và thứ tư. ’ \v 19 Con nài xin Chúa tha thứ tội lỗi dân này vì cớ sự thành tín lớn lao của Ngài, như Ngài đã luôn tha thứ dân này kể từ khi họ ở Ai Cập đến giờ.” \s5 \v 20 Đức Giê-hô-va phán, “Ta đã tha thứ chúng như lời ngươi xin, \v 21 nhưng thật như Ta hằng sống, và vì cả thế gian sẽ tràn ngập vinh quang Ta, \v 22 tất cả những người đó đã thấy vinh quang Ta và những dấu kỳ về quyền năng Ta đã làm ở Ai Cập và trong đồng vắng – chúng vẫn thử Ta mười lần và không lắng nghe Ta. \s5 \v 23 Vậy Ta phán rằng chúng chắc chắn sẽ không thấy được xứ mà Ta đã thề cùng tổ tiên chúng. Không một ai trong số chúng là người khinh dể Ta sẽ thấy xứ đó, \v 24 ngoại trừ tôi tớ Ta là Ca-lép, vì người có một tinh thần khác. Người đã theo Ta trọn vẹn; Ta sẽ đem người vào xứ mà người đã do thám. Con cháu người sẽ hưởng xứ ấy. \v 25 (Bấy giờ dân A-ma-léc và dân Ca-na-an sống ở thung lũng). Ngày mai hãy quay trở lại và đi vào hoang mạc theo hướng Biển Đỏ.” \s5 \v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn, \v 27 “Ta còn phải chịu đựng dân gian ác này là dân hay chỉ trích Ta đến bao giờ? Ta đã nghe lời phàn nàn của dân Y-sơ-ra-ên đối cùng Ta. \s5 \v 28 Hãy nói với chúng, ‘Đức Giê-hô-va có phán, ‘Thật như Ta hằng sống, Ta đã nghe lời nói của các ngươi, Ta sẽ làm việc này trên các ngươi: \v 29 Thây các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này, tất cả các ngươi là những người đã phàn nàn nghịch lại Ta, những người có tên trong danh sách thống kê, hết thảy những ai từ hai mươi tuổi trở lên. \v 30 Chắc chắn các ngươi sẽ không vào xứ mà Ta đã hứa ban cho các ngươi, ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun. \s5 \v 31 Nhưng con cái các ngươi, là những đứa mà các ngươi nói là sẽ trở thành nạn nhân, Ta sẽ đem chúng vào trong xứ. Chúng sẽ trải nghiệm xứ mà các ngươi đã từ bỏ! \v 32 Còn về phần các ngươi, thây các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này. \v 33 Con cái các ngươi sẽ lang trong hoang mạc trong bốn mươi năm. Chúng phải gánh chịu hậu quả từ sự nổi loạn của các ngươi cho đến khi hoang mạc này đầy thây các ngươi. \s5 \v 34 Như các ngươi đã do thám xứ đó trong bao nhiêu ngày – tức bốn mươi ngày, các ngươi cũng sẽ gánh chịu hậu quả tội lỗi các ngươi trong bốn mươi năm – một năm đền một ngày, và các ngươi sẽ biết cảm giác khi trở thành kẻ thù nghịch Ta. \v 35 Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán. Chắc chắn Ta sẽ thực thi việc này trên hết thảy cộng đồng gian ác đã nhóm lại chống nghịch Ta. Chúng sẽ bị tiêu hao trong hoang mạc này. Chúng sẽ chết ở đây. ’” \s5 \v 36 - \v 37 Vậy những người được Môi-se sai đi do thám xứ đều chết bởi bệnh dịch trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây là những người đã trở về và báo cáo sai về xứ đó. Việc này khiến cả hội chúng oán trách Môi-se. \v 38 Trong số những người đi do thám xứ, chỉ có Giô-suê, con trai Nun, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, là còn sống. \s5 \v 39 Khi Môi-se thuật những lời này cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên, họ than khóc rất nhiều. \v 40 Sáng hôm sau họ dậy sớm rồi đi lên đỉnh núi và nói rằng, “Hãy xem, chúng ta đang ở đây, chúng ta sẽ đến nơi mà Đức Giê-hô-va đã hứa, vì chúng ta đã phạm tội.” \s5 \v 41 Nhưng Môi-se nói, “Sao anh em chống lại lệnh của Đức Giê-hô-va? Anh emsẽ không thắng đâu. \v 42 Chớ đi, vì Đức Giê-hô-va không ở cùng anh emđặng giúp anh emđánh bại quân thù. \v 43 Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an đang ở đó, anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm vì anh emđã từ bỏ Đức Giê-hô-va. Vì vậy Ngài sẽ không ở cùng anh em.” \s5 \v 44 Nhưng họ ngoan cố đi lên vùng đồi núi; tuy nhiên, Môi-se và hòm giao ước của Đức Giê-hô-va vẫn ở trong trại. \v 45 Dân A-ma-léc tràn xuống, và dân Ca-na-an cũng tràn xuống các ngọn núi đó. Họ tấn công dân Y-sơ-ra-ên và đánh bại họ cho đến tận Họt-ma. \s5 \c 15 \p \v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Khi các ngươi vào xứ mà Đức Giê-hô-va sẽ ban cho các ngươi định cư - \v 3 và khi các ngươi dùng lửa dâng của lễ cho Ngài – dù là của lễ thiêu, hay của lễ trả sự hứa nguyện hoặc của lễ lạc ý, hoặc lễ vật trong những dịp đại lễ, lấy từ bầy gia súc dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va – \s5 \v 4 thì người đem dâng lễ vật phải dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ chay bằng một phần mười ê-pha bột lọc nhồi với một phần tư hin dầu. \v 5 Cũng phải dâng một phần tư hin rượu khi dâng của lễ quán cùng của lễ thiêu hoặc lễ vật đem dâng là chiên con. \s5 \v 6 Nếu các ngươi dâng một con chiên đực, hãy chuẩn bị một của lễ chay với hai phần mười ê-pha bột lọc nhào với một phần ba hin dầu. \v 7 Đối với của lễ quán, các ngươi phải dâng một phần ba hin rượu. Lễ vật ấy sẽ tỏa ra mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 8 Khi các ngươi chuẩn bị một con bò đực tơ để làm của lễ thiêu hoặc lễ vật trả sự hứa nguyện, hoặc của lễ thù ân dâng cho Đức Giê-hô-va, \v 9 hãy dâng với con bò đực tơ một của lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột lọc nhồi với nửa hin dầu. \v 10 Hãy dâng của lễ quán gồm nửa hin rượu, dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 11 Mỗi con bò đực tơ, con chiên đực, và chiên con đực hoặc dê con phải được dâng theo cách đó. \v 12 Mỗi lễ vật các ngươi chuẩn bị và đem dâng phải được làm như đã mô tả. \v 13 Mọi người bản xứ Y-sơ-ra-ên phải thi hành những điều này, khi dâng của lễ bằng lửa, có mùi thơm làm đẹp lòng Đức Giê-hô-va. \s5 \v 14 Nếu một người ngoại quốc ở với các ngươi, hoặc bất cứ ai sống giữa các ngươi từ đời này qua đời kia, họ phải dâng của lễ bằng lửa, có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Họ phải làm y như các ngươi. \v 15 Phải có một luật lệ áp dụng cho cả hội chúng và người ngoại quốc ở cùng các ngươi, tức một luật lệ đời đời qua các thế hệ. Các ngươi và ngoại kiều ở với các ngươi cũng phải làm như nhau. Họ phải làm y như các ngươi làm trước mặt Đức Giê-hô-va. \v 16 Luật lệ và sắc lệnh như nhau áp dụng cho các ngươi và người ngoại quốc ở với các ngươi. ’” \s5 \v 17 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 18 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Khi các ngươi vào xứ mà Ta sẽ đem các ngươi đến, \v 19 khi các ngươi ăn sản vật trong xứ, hãy dâng một của lễ cho Ta. \s5 \v 20 Khi làm ra một cái bánh đầu tiên bằng bột nhào, các ngươi hãy dâng y như dâng của lễ ở sân đạp lúa. Các ngươi phải làm như vậy. \v 21 Suốt các thế hệ ngươi cũng vậy, phải dâng cho Ta ổ bánh đầu tiên làm bằng bột nhào. \s5 \v 22 Có khi các ngươi sẽ vô tình phạm tội, không vâng giữ tất cả các mệnh lệnh mà Ta đã phán qua Môi-se – \v 23 tức mọi điều mà Ta đã truyền qua Môi-se từ ngày Ta bắt đầu ban cho các ngươi điều răn và đến đời con cháu các ngươi. \v 24 Trong trường hợp sơ ý phạm tội mà hội chúng không hay biết, cả hội chúng phải dâng cho Ta một con bò đực tơ làm của lễ thiêu tỏa ra mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Kèm theo là một của lễ chay và của lễ quán, như đã ấn định, và một con dê đực làm của lễ chuộc tội. \s5 \v 25 Thầy tế lễ phải cử hành lễ chuộc tội cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ được tha thứ vì đó là loại tội vô ý. Họ đã đem lễ vật, dâng của lễ bằng lửa cho Ta. Họ đã dâng cho Ta của lễ chuộc tội vì cớ lỗi lầm của họ. \v 26 Sau đó, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ được tha thứ, kể cả những người ngoại quốc ở với các ngươi cũng vậy, vì cả dân sự đã không cố ý phạm tội. \s5 \v 27 Nếu ai sơ ý phạm tội, người đó phải dâng một con dê cái một tuổi làm của lễ chuộc tội. \v 28 Thầy tế lễ sẽ cử hành lễ chuộc tội trước mặt Đức Giê-hô-va cho người sơ ý phạm tội. Người sẽ được tha thứ khi lễ chuộc tội được cử hành. \v 29 Luật này áp dụng cho người vô tình phạm tội, kể cả người bản xứ Y-sơ-ra-ên và người ngoại quốc ở giữa các ngươi. \s5 \v 30 Nhưng ai bất chấp phạm tội, dù đó là người bản xứ hay là người ngoại quốc, thì kẻ đó xúc phạm Ta. Kẻ ấy phải bị loại khỏi dân sự mình. \v 31 Vì nó đã khinh dể Lời Ta và vi phạm điều răn Ta, nó phải bị loại ngay lập tức. Nó sẽ gánh lấy tội lỗi mình. ’” \s5 \v 32 Khi dân Y-sơ-ra-ên đang ở trong hoang mạc, họ bắt gặp một người đang lượm củi vào ngày Sa-bát. \v 33 Họ đem người đến trước mặt Môi-se, A-rôn, và cả hội chúng. \v 34 Họ giam giữ người vì không biết phải giải quyết trường hợp đó ra sao. \s5 \v 35 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Người đó phải bị xử tử. Hội chúng phải ném đá người ở bên ngoài trại. ” \v 36 Vậy cả hội chúng đem người ra ngoài trại và ném đá cho đến chết như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. \s5 \v 37 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 38 “Hãy nói cùng con cháu Y-sơ-ra-ên và truyền cho chúng phải làm các tua áo ở các góc áo, đính trên mép áo bằng một sợi dây màu xanh dương. Các thế hệ con cháu phải làm như vậy. \v 39 Khi các ngươi nhìn thấy nó, thì nó sẽ là một dấu nhắc đặc biệt đối với các ngươi về mọi điều răn của Ta, các ngươi sẽ mặc áo có tua để không chiều theo lòng mình và mắt mình, hầu cho các ngươi không sao vào sự thông dâm. \s5 \v 40 Hãy giữ điều này để các ngươi ghi nhớ và vâng giữ mọi điều răn Ta, trở nên thánh, được biệt riêng cho Ta, là Đức Chúa Trời của các ngươi. \v 41 Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập để làm Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.” \s5 \c 16 \p \v 1 Bấy giờ, Cô-ra con trai Dít-sê-ha, cháu của Kê-hát, chít của Lê-vi, cùng với Đa-than và A-bi-ram, con trai của Ê-li-áp, và Ôn, con trai của Phê-lết, hậu duệ của Ru-bên, lôi kéo một số người. \v 2 Họ, cùng với những người khác từ trong dân Y-sơ-ra-ên, gồm 250 lãnh đạo của hội chúng là những thành viên có tiếng trong cộng đồng, nổi loạn chống lại Môi-se. \v 3 Họ tụ tập lại để chất vấn Môi-se và A-rôn. Họ nói với hai ông, “Các ông thật quá đáng. Cả hội chúng đều là dân thánh, mỗi người trong họ, được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va ở giữa họ. Tại sao các ông tự tôn mình lên cao hơn những người khác trong hội chúng của Đức Giê-hô-va?” \s5 \v 4 Khi Môi-se nghe lời ấy, ông sấp mặt xuống đất. \v 5 Ông nói với Cô-rê và phe của ông ấy; ông nói rằng, “Sáng mai Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài, và ai được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Ngài sẽ đem đến người mà Ngài chọn. Đức Giê-hô-va sẽ khiến người đó đến với Ngài. \s5 \v 6 Hỡi Cô-rê và phe của ông, hãy làm như vầy. \v 7 Ngày mai các ông hãy lấy lư hương rồi để lửa và hương vào trong đó trước mặt Đức Giê-hô-va. Người nào được Đức Giê-hô-va chọn thì người đó sẽ được biệt riêng cho Ngài. Các ông là con cháu của Lê-vi, các ông đã đi quá xa.” \s5 \v 8 Môi-se lại nói cùng Cô-rê, “Hãy nghe đây, hỡi con cháu Lê-vi; \v 9 phải chăng việc Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ông khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, đặng đem các ông đến gần Ngài, phục vụ ở đền tạm của Đức Giê-hô-va, và đứng trước mặt hội chúng để phục vụ họ, là điều nhỏ nhặt sao? \v 10 Ngài đã đem các ông đến gần, kể cả họ hàng các ông, con cháu Lê-vi của các ông, nhưng các ông lại đang tìm kiếm chức tế lễ! \v 11 Đó là lý do ông và phe của ông đã cấu kết chống nghịch Đức Giê-hô-va. Vậy tại sao các ông oán trách A-rôn, là người vâng phục Đức Giê-hô-va?” \s5 \v 12 Rồi Môi-se gọi Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp, nhưng họ trả lời, “Chúng tôi không đến đâu. \v 13 Phải chăng việc ông đã đem chúng tôi ra khỏi xứ đượm sữa và mật, đặng giết chúng tôi trong hoang mạc, là chưa đủ sao? Hai ông muốn cai trị trên chúng tôi mà! \v 14 Hơn nữa, các ông không đem chúng tôi vào xứ đượm sữa và mật, hoặc cho chúng tôi thừa hưởng những đồng ruộng và vườn nho. Bây giờ các ông muốn làm mù mắt chúng tôi bằng lời hứa sáo rỗng sao? Chúng tôi không đến gặp các ông đâu.” \s5 \v 15 Môi-se rất giận và thưa cùng Đức Giê-hô-va, “Xin Chúa đừng nhậm lấy của lễ họ dâng. Con không lấy con lừa nào của họ, và con cũng không làm hại ai trong bọn họ. ” \v 16 Môi-se nói với Cô-rê, “Ngày mai ông và phe của ông phải ra mắt Đức Giê-hô-va, ông, họ, và cả A-rôn. \v 17 Mỗi người phải đem lư hương rồi bỏ hương vào. Sau đó, mỗi người phải đem lư hương đến dâng trước mặt Đức Giê-hô-va, tổng cộng là 250 lư hương. Ông và A-rôn cũng phải đem theo lư hương mình.” \s5 \v 18 Vậy mỗi người đem theo lư hương, để lửa vào, rồi cho hương vào, sau đó đứng ở cửa lều hội họp với Môi-se và A-rôn. \v 19 Cô-rê nhóm cả hội chúng nghịch lại Môi-se và A-rôn ở cửa lều hội họp, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trước cả hội chúng. \s5 \v 20 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn: \v 21 “Hãy tránh xa khỏi dân này, Ta sẽ thiêu hủy chúng ngay tức khắc. ” \v 22 Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống đất và thưa, “Lạy Đức Chúa Trời, Đấng cai trị thần linh của tất cả mọi người, nếu một người phạm tội, thì Ngài nổi giận với cả cộng đồng ư?” \s5 \v 23 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se, \v 24 “Hãy nói với hội chúng, rằng, ‘Hãy tránh xa lều của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. ’” \s5 \v 25 Vậy Môi-se đứng dậy và đến gặp Đa-than và A-bi-ram; các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đi theo ông. \v 26 Ông nói với hội chúng, “Bây giờ, hãy rời khỏi lều của những người gian ác này và chớ đụng vào thứ gì của họ, nếu không anh emsẽ bị thiêu đốt vì tội lỗi họ. ” \v 27 Vậy hội chúng tránh xa lều của Cô-ra, Đa-than và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram ra đứng ở cửa lều, với vợ con và cháu của họ. \s5 \v 28 Môi-se nói, “Bởi điều này, anh emsẽ biết rằng Đức Giê-hô-va đã sai tôi làm những việc này, vì tôi không làm việc gì theo ý mình. \v 29 Nếu những người này chết cách tự nhiên như bình thường thì Đức Giê-hô-va đã chẳng sai tôi. \v 30 Nhưng nếu Đức Giê-hô-va khiến đất nứt đến nỗi nuốt họ cùng với gia đình họ, và họ đi xuống âm phủ, thì anh emphải hiểu rằng những người này đã khinh dể Đức Giê-hô-va.” \s5 \v 31 Ngay khi Môi-se vừa nói xong những lời ấy, đất nứt ra dưới chân họ. \v 32 Đất há miệng và nuốt chửng họ, gia đình họ, và tất cả những ai theo phe Cô-rê, cùng với tài sản họ. \s5 \v 33 Họ cùng mọi người trong gia đình mình đều rơi xuống âm phủ. Đất khép miệng lại, và như vậy họ bị diệt khỏi giữa hội chúng. \v 34 Dân Y-sơ-ra-ên đứng xung quanh đều chạy trốn và khóc lóc. Họ la lên, “Đất cũng sẽ nuốt chúng ta mất thôi! ” \v 35 Rồi lửa từ Đức Giê-hô-va lóe lên và thiêu hủy 250 người đã dâng hương. \s5 \v 36 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se, \v 37 nói với Ê-lê-a-xa con trai thầy tế lễ A-rôn, và bảo người lấy lư hương ra khỏi đống lửa cháy, vì lư hương đó là thánh. Sau đó họ phải đổ đám tro tàn. \v 38 Hãy lấy lư hương của những kẻ đã chết vì tội lỗi mình. Làm những miếng dát mỏng để bọc bàn thờ. Những kẻ đó đã dâng cho Ta, vậy chúng thuộc về Ta. Chúng sẽ là dấu hiệu về sự hiện diện của Ta với dân Y-sơ-ra-ên.” \s5 \v 39 - \v 40 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa lấy những lư hương đồng của mấy người kia đã bị thiêu cháy. Ông dát mỏng thành miếng phủ bàn thờ, như Đức Giê-hô-va đã phán với ông qua Môi-se. Chúng sẽ là một dấu nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên, không ai ngoài dòng dõi A-rôn được bước đến đốt hương trước mặt Đức Giê-hô-va. \s5 \v 41 Như vậy, ai bất tuân sẽ giống như Cô-ra và người của ông. \v 42 Nhưng sáng hôm sau, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên nổi nghịch chống lại Môi-se và A-rôn, đến nỗi họ tìm đến lều hội họp, và này, mây đang phủ lều. Sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra, \v 43 Môi-se và A-rôn đến trước lều hội họp. \s5 \v 44 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 45 “Hãy tránh xa khỏi dân này, Ta sẽ thiêu hủy chúng ngay lập tức. ” Nhưng Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống. \v 46 Môi-se nói với A-rôn, “Hãy lấy lư hương, bỏ lửa từ bàn thờ vào đó, rồi bỏ hương vào, sau đó nhanh chóng đem đến hội chúng, và làm lễ chuộc tội cho họ, vì cơn giận của Đức Giê-hô-va giáng trên họ. Bệnh dịch đã phát khởi.” \s5 \v 47 Vậy A-rôn làm theo điều Môi-se bảo. Ông chạy vào giữa hội chúng. Bệnh dịch đã nhanh chóng phát tán, ông bỏ hương vào lư hương và làm lễ chuộc tội cho dân sự. \v 48 A-rôn đứng giữa người chết và người sống; bởi đó bệnh dịch ngưng lại. \s5 \v 49 Có 14. 700 người chết vì bệnh dịch, chưa kể những người đã chết đã nổi loạn cùng Cô-rê. \v 50 A-rôn trở về gặp Môi-se ở cửa lều hội họp, và bệnh dịch chấm dứt. \s5 \c 17 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 2 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Hãy lấy cây gậy của họ, mỗi chi phái một cây gậy. Hãy lấy mười hai cây gậy, mỗi trưởng chi phái đem một cây. Ghi tên từng người lên từng cây gậy. \s5 \v 3 Ngươi phải ghi tên A-rôn lên cây gậy của Lê-vi. Mỗi trưởng chi phái sẽ có một cây gậy. \v 4 Để các cây gậy trong lều hội họp trước các bảng giao ước, là nơi Ta gặp ngươi. \v 5 Cây gậy của người nào được Ta chọn sẽ trổ bông. Ta sẽ làm câm nín lời oán trách của dân Y-sơ-ra-ên, tức là nói những lời nghịch lại ngươi." \s5 \v 6 Vậy Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên. Tất cả các trưởng chi phái đưa gậy cho ông, mỗi trưởng chi phái được chọn đem đến một cây gậy, tổng cộng là mười hai cây. Trong số đó có cây gậy của A-rôn. \v 7 Sau đó, Môi-se để các cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va trong lều giao ước. \s5 \v 8 Hôm sau, Môi-se bước vào trong lều giao ước, và kìa, cây gậy của A-rôn thuộc chi phái Lê-vi đã trổ bông. Nó bung nụ, trổ bông và ra trái hạnh nhân chín! \v 9 Môi-se đem tất cả các cây gậy đến trước mặt Đức Giê-hô-va và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi người thấy cây gậy của mình và lấy lại. \s5 \v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy đặt cây gậy của A-rôn trước hòm giao ước. Giữ nó làm dấu nhắc nhở về tội nổi loạn của dân sự, ngươi phải làm nín đi lời chúng phàn nàn Ta, nếu không chúng sẽ chết. ” \v 11 Môi-se làm theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. \s5 \v 12 Dân Y-sơ-ra-ên nói với Môi-se rằng, “Chúng tôi sẽ chết ở đây mất. Chúng tôi sẽ bị diệt mất! \v 13 Ai đến gần đền tạm của Đức Giê-hô-va sẽ chết. Chẳng lẽ chúng tôi phải bỏ mạng hết sao?” \s5 \c 18 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Ngươi, các con trai và thị tộc ngươi phải chịu trách nhiệm về những tội vi phạm đến nơi thánh. Riêng ngươi và các con trai ngươi sẽ chịu trách nhiệm về tội vi phạm đến chức tế lễ. \v 2 Với những người trong chi phái Lê-vi thuộc tông tộc ngươi, hãy đem họ đến cùng ngươi để họ tham gia và giúp đỡ ngươi khi ngươi và các con trai ngươi phục vụ trước lều giao ước. \s5 \v 3 Họ phải phục vụ ngươi và cả khu lều. Tuy nhiên, họ không được đến gần bất cứ vật gì trong nơi thánh hoặc có liên quan đến bàn thờ, nếu không cả họ và ngươi sẽ chết. \v 4 Họ phải cùng ngươi coi sóc lều hội họp và tất cả việc liên quan đến lều. Người ngoại quốc không được đến gần các ngươi. \v 5 Các ngươi phải chịu trách nhiệm về nơi thánh và bàn thờ để Ta không nổi cơn thịnh nộ trên dân Y-sơ-ra-ên nữa. \s5 \v 6 Này, chính Ta đã chọn con cháu người Lê-vi của ngươi từ trong dân Y-sơ-ra-ên. Họ là quà dành cho ngươi, họ được dâng lên Ta đặng lo công việc trong lều hội họp. \v 7 Nhưng chỉ có ngươi và các con trai ngươi thực thi chức tế lễ về mọi việc liên quan đến bàn thờ và mọi thứ bên trong bức màn. Chính các ngươi phải làm trọn trách nhiệm mình. Ta ban cho các ngươi chức vụ tế lễ như một đặc ân. Người ngoại quốc nào đến gần cũng sẽ bị xử tử.” \s5 \v 8 Sau đó Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Này, Ta đã trao cho ngươi trách nhiệm quản lý các của lễ dâng lên Ta, và tất cả những lễ vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta. Ta đã ban những của lễ này cho ngươi và các con trai ngươi xem như là phần vĩnh viễn. \v 9 Những thứ thuộc của lễ được dâng hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va, nhưng những thứ không bị thiêu sẽ là của các ngươi. Những lễ vật dân sự đem đến, gồm của lễ chay, của lễ chuộc tội, và của lễ tạ lỗi – tất cả những của lễ thánh này – được dâng cho Ta sẽ thuộc về ngươi và các con trai ngươi. \s5 \v 10 Của lễ ấy được dâng hoàn toàn cho Ta, các ngươi phải ăn những của lễ đó. Mọi người nam phải ăn các của lễ này. Ngươi phải xem đó là những của lễ được dâng cho Ta. \v 11 Đây là phần thuộc về các ngươi: những phần được dành riêng từ tất cả các của lễ do dân Y-sơ-ra-ên đem dâng, tức những của lễ được giơ cao trước mặt Ta và dâng lên Ta. Ta ban cho ngươi, con trai, con gái ngươi, như là phần vĩnh viễn. Trong gia đình ngươi, người nào tinh sạch về mặt nghi lễ có thể ăn bất kỳ phần nào trong số đó. \s5 \v 12 Dầu tốt nhất, rượu và ngũ cốc tốt nhất, trái cây tốt nhất mà dân sự dâng cho Ta – Ta tất cả ban cho các ngươi. \v 13 Hoa quả đầu mùa trên đất của họ mà họ dâng cho Ta, sẽ thuộc về ngươi. Hễ ai trong nhà ngươi tinh sạch thì được phép ăn. \s5 \v 14 Mọi thứ mà dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến sẽ thuộc về ngươi. \v 15 Mọi con đầu lòng của người và súc vật được cho Đức Giê-hô-va, chúng sẽ thuộc về các ngươi. Tuy nhiên, chắc chắn dân sự sẽ chuộc lại con trai đầu lòng, và họ phải chuộc con đực đầu lòng của các con vật không sạch. \v 16 Tất cả con đầu lòng mà dân sự mua chuộc phải được chuộc lại sau khi được một tháng tuổi. Sau đó dân sự có thể chuộc lại chúng, với giá là 5 siếc-lơ, tính theo cân lượng của siếc-lơ trong nơi thánh, tương đương với 20 ghê-ra. \s5 \v 17 Nhưng ngươi không được chuộc lại con bò đầu lòng, con chiên đầu lòng, hoặc con dê đầu lòng; chúng thuộc về Ta. Ngươi phải rảy huyết chúng trên bàn thờ và lấy lửa thiêu phần mỡ làm thành lễ vật tỏa ra một mùi thơm cho Ta. \v 18 Thịt của chúng huộc về ngươi. Chẳng hạn như cái ức và đùi phải đã được giơ cao, phần thịt của chúng sẽ thuộc về các ngươi. \s5 \v 19 Tất cả các của lễ thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta - Ta ban cho ngươi, con trai và con gái ngươi, như một điều bất di bất dịch. Chúng tượng trưng cho giao ước bằng muối, một giao ước vĩnh viễn trước mặt Ta với ngươi và con cháu ngươi. ” \v 20 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Các ngươi không được hưởng gì trong xứ của dân sự, các ngươi cũng không được hưởng bất cứ cơ nghiệp nào giữa dân sự. Ta là phần và là sản nghiệp của các ngươi giữa dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 21 Này, với con cháu người Lê-vi, Ta cho họ các khoản phần mười trong dân Y-sơ-ra-ên để họ làm gia tài để trả công cho họ vì đã phục vụ trong lều hội họp. \v 22 Kể từ bây giờ, dân Y-sơ-ra-ên không được đến gần lều hội họp, kẻo họ sẽ mắc tội và chết. \s5 \v 23 Người Lê-vi phải làm việc liên quan đến lều hội họp. Họ phải chịu trách nhiệm về bất cứ tội lỗi nào liên quan. Luật này được áp dụng đời đời trong suốt các thế hệ tiếp theo của ngươi. Và họ sẽ không được hưởng cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên. \v 24 Vì các khoản phần mười của dân Y-sơ-ra-ên, tức những khoản mà họ đã dâng cho Ta - Ta đã ban cho người Lê-vi làm gia tài. Đó là lý do Ta nói rằng, ‘Họ sẽ không được hưởng cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên. ’” \s5 \v 25 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 26 “Ngươi hãy nói với người Lê-vi rằng, ‘Khi anh em nhận phần mười từ dân Y-sơ-ra-ên mà Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em làm gia tài, hãy dâng một phần trong khoản phần mười đó cho Ngài. \v 27 Của lễ của anh em sẽ được xem như là một phần mười của lúa thóc từ sân đạp lúa hoặc sản phẩm của bồn ép nho. \s5 \v 28 Vậy anh em cũng phải dâng một của lễ cho Đức Giê-hô-va từ các khoản phần mười mà anh em nhận từ dân Y-sơ-ra-ên. \v 29 Trong tất cả các lễ vật được trao cho quý vị, hãy trích dâng cho một phần cho Đức Giê-hô-va. Hãy áp dụng đối với các lễ vật tốt nhất và thánh nhất mà anh em được trao.’ \s5 \v 30 Vậy ngươi phải nói với họ rằng, ‘Khi anh em dâng lễ vật tốt nhất từ phần mình đã nhận lãnh, thì người Lê-vi phải xem đó như là huê lợi của sân đạp lúa và bồn ép nho. \v 31 Anh em và gia đình mình có thể ăn những đồ còn lại ở bất cứ nơi đâu, vì đó là thù lao cho việc anh em làm trong lều hội họp. \v 32 Anh em sẽ không mắc tội khi ăn và uống của lễ đó, nếu như anh emđã dâng cho Đức Giê-hô-va phần tốt nhất của vật mà anh em đã nhận lấy. Nhưng anh em không được xúc phạm những lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên, nếu không anh em sẽ chết. ’” \s5 \c 19 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn, \v 2 “Đây là một luật thánh, quy luật mà Ta truyền cho ngươi: Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đem đến cho ngươi một con bò cái tơ màu đỏ không tật nguyền hoặc vết nhơ, và chưa từng mang ách. \s5 \v 3 Đưa con bò cái tơ cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và người ta sẽ giết nó trước mặt người. \v 4 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phải dùng ngón tay nhúng vào huyết con bò và rảy bảy lần về phía trước lều hội họp. \v 5 Một thầy tế lễ khác phải thiêu con bò cái tơ trước mặt người, bao gồm da, thịt, và huyết và phân con bò. \v 6 Thầy tế lễ phải lấy củi bá hương, cây bài hương, và chỉ len đỏ đậm, rồi quăng vào giữa con bò cái tơ đang cháy. \s5 \v 7 Người phải giặt quần áo và tắm trong nước, rồi người mới có thể vào trại, nhưng người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối. \v 8 Người thiêu con bò cái tơ phải giặt quần áo và tắm trong nước. Người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối. \s5 \v 9 Người tinh sạch phải hốt tro con bò và để ở một chỗ sạch bên ngoài trại. Tro sẽ được giữ cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ trộn tro trong nước để tẩy sạch tội, vì tro ấy được lấy từ của lễ chuộc tội. \v 10 Người gom tro con bò cái tơ phải giặt quần áo mình. Người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối. Đây là quy luật đời đời dành cho dân Y-sơ-ra-ên và người ngoại quốc ở với họ. \s5 \v 11 Ai đụng vào xác người chết sẽ bị ô uế trong bảy ngày. \v 12 Người đó phải làm sạch mình vào ngày thứ ba và thứ bảy. Sau đó người sẽ được sạch. \v 13 Ai đụng vào người chết, xác chết, mà không làm tinh sạch mình – người đó làm ô uế đền tạm của Đức Giê-hô-va. Người phải bị loại khỏi Y-sơ-ra-ên vì nước tẩy uế không được rảy lên người. Người sẽ vẫn bị ô uế; sự ô uế vẫn ở trên người đó. \s5 \v 14 Đây là luật phải áp dụng khi có người chết trong lều. Ai vào trong lều và ai đang ở trong lều sẽ bị ô uế trong bảy ngày. \v 15 Đồ chứa nào không đậy nắp sẽ bị ô uế. \v 16 Tương tự, hễ ai ở ngoài lều đụng vào người bị giết bằng gươm, hoặc bất kỳ xác chết nào, xương người, hay mồ mả - người đó sẽ bị ô uế trong bảy ngày. \s5 \v 17 Hãy làm như vầy đối với người bị ô uế: Lấy một ít tro từ của lễ chuộc tội và pha với nước sạch trong một cái bình. \v 18 Người tinh sạch phải lấy cây bài hương, nhúng trong nước, rồi rảy lên lều, các đồ chứa trong lều, những người trong lều, và người đã đụng vào xương, người bị giết, người chết, hoặc mồ mả. \v 19 Vào ngày thứ ba và thứ bảy, người tinh sạch phải rảy lên người ô uế. Vào ngày thứ bảy, người bị ô uế phải làm tinh sạch mình. Người phải giặt quần áo và tắm trong nước. Người sẽ được tinh sạch vào buổi chiều tối. \s5 \v 20 Nhưng hễ ai còn bị ô uế, không chịu tẩy sạch mình – người đó sẽ bị loại khỏi cộng đồng, vì người đã làm ô uế nơi thánh của Đức Giê-hô-va. Nước tẩy sạch chưa được rảy lên người; người vẫn còn bị ô uế. \v 21 Đây là quy luật đời đời áp dụng cho các trường hợp này. Người nào rảy nước tẩy sạch phải giặt quần áo mình. Người nào đụng vào nước tẩy sạch sẽ bị ô uế đến chiều tối. \v 22 Bất cứ thứ gì người bị ô uế đụng vào sẽ trở nên ô uế. Người nào đụng vào thứ đó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.” \s5 \c 20 \p \v 1 Vậy cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi vào hoang mạc Sin vào tháng đầu tiên; họ ở lại Ca-đe. Mi-ri-am qua đời và được chôn tại đó. \s5 \v 2 Ở đó không có nước cho hội chúng, vì vậy họ tụ tập chống đối Môi-se và A-rôn. \v 3 Dân sự oán trách Môi-se rằng, “Phải chi chúng tôi cùng chết với mấy người anh em Y-sơ-ra-ên khi họ chết trước mặt Đức Giê-hô-va thì tốt biết mấy! \s5 \v 4 Sao các ông đem hội chúng của Đức Giê-hô-va vào trong hoang mạc này để chúng tôi và bầy gia súc chết ở đây? \v 5 Và tại sao các ông khiến chúng tôi ra khỏi Ai Cập rồi đem chúng tôi vào nơi kinh khủng này? Ở đây chẳng có hạt giống, cây vả, nho, hoặc cây lựu nào, và cũng không có nước uống.” \s5 \v 6 Vậy Môi-se và A-rôn lui ra khỏi trước mặt hội chúng. Họ đến cửa lều hội họp và sấp mặt xuống đất. Tại đó, vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra với họ. \s5 \v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 8 “Ngươi, và A-rôn, anh ngươi, hãy lấy cây gậy của ngươi và triệu tập hội chúng. Hãy bảo vầng đá trước mắt họ, và ra lệnh nó cho ra nước. Ngươi sẽ khiến nước chảy ra từ vầng đá ấy cho họ, và ngươi phải cho hội chúng và gia súc uống nước. ” \v 9 Môi-se lấy cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va theo lời Ngài đã truyền cho ông. \s5 \v 10 Vậy Môi-se và A-rôn nhóm hội chúng lại trước vầng đá. Môi-se nói với họ, “Hãy nghe đây, hỡi những người phản loạn. Chúng tôi phải khiến nước chảy ra từ vầng đá này cho anh em sao? ” \v 11 Vậy Môi-se giơ tay lên và dùng gậy đập hai lần vào vầng đá, nước liền chảy xối xả. Hội chúng uống nước, và gia súc của họ cũng được uống nước. \s5 \v 12 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn, “Vì các ngươi không tin Ta và không tôn Ta nên thánh trước mắt dân Y-sơ-ra-ên, nên các ngươi sẽ không dẫn hội chúng này vào trong xứ mà Ta đã hứa cho họ. ” \v 13 Nơi này được gọi là nước Mê-ri-ba vì dân Y-sơ-ra-ên đã oán trách Đức Giê-hô-va tại đó, và Ngài đã tỏ cho họ thấy rằng Ngài là Đấng thánh. \s5 \v 14 Môi-se sai các sứ giả từ Ca-đe đến gặp vua Ê-đôm: Em của vua là Y-sơ-ra-ên có nói như vầy: “Vua biết tất cả các khó khăn mà chúng tôi đã gặp. \v 15 Vua biết tổ tiên chúng tôi đã xuống Ai Cập và sống ở đó trong một thời gian dài. Người Ai Cập đối xử tệ bạc với chúng tôi và tổ tiên chúng tôi. \v 16 Khi chúng tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va, Ngài nghe tiếng chúng tôi và sai một thiên sứ đến đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập. Này, chúng tôi đang ở Ca-đe, một thành phố nằm ở biên giới xứ của vua. \s5 \v 17 Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua. Chúng tôi sẽ không băng qua đồng ruộng hay vườn nho, chúng tôi cũng không uống nước giếng của vua. Chúng tôi sẽ đi theo con đường hoàng gia. Chúng tôi sẽ không xây qua bên trái hay bên phải cho đến khi chúng tôi đã ra khỏi biên giới của vua.” \s5 \v 18 Nhưng vua Ê-đôm trả lời, “Các ngươi không được phép băng qua lãnh thổ của ta. Nếu vi phạm, ta sẽ lấy gươm đánh các ngươi. ” \v 19 Vậy dân Y-sơ-ra-ên trả lời vua, “Chúng tôi sẽ đi dọc theo đường cái. Nếu chúng tôi hay bầy gia súc mình uống nước của vua, chúng tôi sẽ trả tiền. Xin vua cho chúng tôi đi bộ ngang qua, chứ không làm việc gì khác.’ \s5 \v 20 Nhưng vua Ê-đôm trả lời, “Các ngươi không được băng qua đây. ” Vậy vua Ê-đôm kéo binh lính hùng mạnh ra nghênh chiến Y-sơ-ra-ên. \v 21 Vua Ê-đôm không cho phép Y-sơ-ra-ên băng qua lãnh thổ của mình. Do đó, người Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ Ê-đôm. \s5 \v 22 Như vậy dân sự đi từ Ca-đe. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi đến Núi Hô-rơ. \v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trên Núi Hô-rơ, giáp biên giới xứ Ê-đôm. Ngài phán rằng, \v 24 “A-rôn sẽ về với tổ tiên mình, vì người sẽ không vào xứ mà Ta hứa ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Ấy là bởi vì hai ngươi đã chống lời Ta tại chỗ nước Mê-ri-ba. \s5 \v 25 Hãy dẫn A-rôn và Ê-lê-a-sa, con trai người lên Núi Hô-rơ. \v 26 Hãy cởi bộ y phục tế lễ của A-rôn và mặc cho con trai người là Ê-lê-a-sa. A-rôn sẽ chết và trở về với tổ tiên người.” \s5 \v 27 Môi-se làm y như lời Đức Giê-hô-va phán. Họ lên Núi Hô-rơ trước sự chứng kiến toàn thể hội chúng. \v 28 Môi-se cởi bộ y phục tế lễ của A-rôn và mặc cho Ê-lê-a-sa, con trai người. A-rôn qua đời trên đỉnh núi. Sau đó Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống núi. \v 29 Khi cả hội chúng hay rằng A-rôn đã chết, họ khóc thương A-rôn trong ba mươi ngày. \s5 \c 21 \p \v 1 Khi A-rát, vua dân Ca-na-an, sống tại Nê-ghép, hay tin rằng dân Y-sơ-ra-ên đang trên đường đến A-tha-rim, đã đánh lại Y-sơ-ra-ên và bắt một số người làm tù binh. \v 2 Y-sơ-ra-ên thề với Đức Giê-hô-va và nói rằng, “Nếu Chúa cho chúng con thắng dân này, chúng con sẽ hủy diệt toàn bộ thành trì của chúng. ” \v 3 Đức Giê-hô-va lắng nghe lời cầu xin của Y-sơ-ra-ên và Ngài cho họ thắng dân Ca-na-an. Họ hủy diệt hoàn toàn dân đó và thành trì của chúng. Nơi đó được gọi là Họt-ma. \s5 \v 4 Họ đi từ Núi Hô-rơ theo đường cái đến Biển Đỏ để đi vòng qua xứ Ê-đôm. Trên đường, dân sự trở nên rất chán nản. \v 5 Họ nói nghịch Đức Chúa Trời và Môi-se: “Sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập đặng chết trong hoang mạc này? Chẳng có bánh, chẳng có nước, và chúng tôi ngán cái thứ thức ăn nghèo nàn này lắm rồi.” \s5 \v 6 Sau đó, Đức Giê-hô-va sai các con rắn độc đến trong dân sự. Rắn cắn họ; nhiều người chết. \v 7 Dân sự đến gặp Môi-se và nói, “Chúng tôi đã phạm tội vì chúng tôi đã nói nghịch Đức Giê-hô-va và ông. Ông hãy cầu nguyện xin Đức Giê-hô-va cất những con rắn khỏi chúng tôi. ” Vậy Môi-se cầu thay cho dân sự. \s5 \v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy làm một con rắn và treo trên một cái cọc. Ai bị rắn cắn nếu nhìn con rắn ấy sẽ sống. ” \v 9 Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng và treo trên cây cọc. Khi con rắn cắn ai đó, nếu họ nhìn lên con rắn bằng đồng, họ sẽ sống. \s5 \v 10 Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục lên đường và hạ trại ở Ô-bốt. \v 11 Họ đi từ Ô-bốt và cắm trại ở Y-giê A-ba-rim trong hoang mạc đối diện Mô-áp về phía đông. \s5 \v 12 Từ đó, họ tiếp tục lên đường và cắm trại ở thung lũng Giê-rết. \v 13 Sau đó, họ lại đi tiếp và cắm trại ở phía bên kia sông Ạc-nôn, chảy trong hoang mạc từ biên giới của dân A-mô-rít. Sông Ạc-nôn tạo nên biên giới của Mô-áp, phân chia ranh giới giữa Mô-áp và A-mô-rít. \s5 \v 14 Đó là lý do vì sao trong cuộn giấy Chiến sử của Đức Giê-hô-va có chép, “Qua-hép ở Su-pha, và các thung lũng ở Ạc-nôn, \v 15 dốc những thung lũng dẫn đến thành phố Ạc và xuống tận biên giới Mô-áp.” \s5 \v 16 Từ đó họ đi tiếp đến Bê-e, tại đó có cái giếng mà Đức Giê-hô-va bảo Môi-se, “Hãy nhóm dân sự lại cho Ta đặng cho họ uống nước.” \s5 \v 17 Vậy dân Y-sơ-ra-ên ca bài ca này: “Hỡi giếng nước, hãy tuôn chảy. Hãy hát về giếng ấy. \v 18 Giếng mà các lãnh đạo chúng ta đã đào, giếng mà nhà quý tộc đã xây nó bằng quyền trượng và cây gậy. ” Rồi từ hoang mạc, họ đi đến Mát-ta-na. \s5 \v 19 Từ Mát-ta-na họ đi đến Na-ha-li-ên, và từ Na-ha-li-ên đi đến Ba-mốt, \v 20 và từ Ba-mốt đi đến thung lũng trong xứ Mô-áp. Đó là nơi mà đỉnh Núi Phích-ga có tầm nhìn hướng xuống hoang mạc. \s5 \v 21 Sau đó, Y-sơ-ra-ên sai các sứ giả đi gặp Si-hôn, vua dân A-mô-rít, tâu rằng, \v 22 “Xin vua cho chúng tôi băng qua xứ vua. Chúng tôi sẽ không đi vào ruộng hay vườn nho nào cả. Chúng tôi sẽ không uống nước giếng của vua. Chúng tôi sẽ đi theo đại lộ vua cho đến khi chúng tôi đã băng qua biên giới của vua. ” \v 23 Nhưng Vua Si-hôn không cho dân Y-sơ-ra-ên băng qua biên giới mình. Trái lại, Si-hôn tập họp binh lính đánh lại Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 24 Y-sơ-ra-ên tấn công quân Si-hôn bằng lưỡi gươm và chiếm xứ của dân đó từ Ạc-nôn đến sông Gia-bốc, đến tận xứ của dân Am-môn. Bấy giờ biên giới của dân Am-môn được gia cố chắc chắn. \v 25 Dân Y-sơ-ra-ên chiếm tất cả các thành của dân A-mô-rít và sống trong các thành đó, gồm có thành Hẹt-bôn và tất cả các làng mạc của thành ấy. \v 26 Hẹt-bôn là thành phố của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, tức là vua đã đánh lại vua trước của Mô-áp. Si-hôn đã chiếm cả xứ của vua ấy từ lãnh thổ của hắn đến Sông Ạc-nôn. \s5 \v 27 Đó là lý do tại sao có lời châm ngôn như vầy, “Hãy đến Hẹt-bôn. Hãy xây lại thành Si-hôn và lập lại thành đó. \v 28 Một ngọn lửa nổi lên từ Hẹc-bôn, một ngọn lửa từ thành Si-hôn thiêu đốt thành Ạc của Mô-áp, và những kẻ thống trị các ngọn đồi của Ạc-nôn. \s5 \v 29 Khốn cho mày, hỡi Mô-áp! Hỡi dân Kê-mốt, bay đã hư mất. Con trai nó trở thành kẻ lánh nạn và con gái nó trở thành tù nhân của Si-hôn, vua dân A-mô-rít. \v 30 Nhưng chúng ta đã chinh phục Si-hôn. Hẹc-bôn bị tàn phá trên đường đến Đi-bôn. Chúng tôi đã đánh bại chúng trên đường đến Nốp-pha, đến tận Mê-đê-ba.” \s5 \v 31 Vậy dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu sống trong xứ của dân A-mô-rít. \v 32 Sau đó Môi-se sai người đi do thám Gia-xe. Họ chiếm các thị trấn các làng mạc và đuổi dân A-mô-rít. \s5 \v 33 Vậy họ quay lại và đi lên theo đường Ba-san. Óc, vua Ba-san, kéo quân ra nghênh chiến họ tại Ết-rê-i. \v 34 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Chớ sợ vua ấy, vì Ta đã cho các ngươi thắng nó và cả quân đội nó và xứ nó. Hãy đánh nó như ngươi đã đánh vua Si-hôn của dân A-mô-rít tại Hẹc-bôn. ” \v 35 Vậy họ giết vua Óc, các con trai và cả quân đội của vua ấy cho đến khi không còn sót lại người nào. Rồi họ chiếm xứ của vua ấy. \s5 \c 22 \p \v 1 Dân Y-sơ-ra-ên ra đi tới khi họ đóng trại tại đồng bằng Mô-áp gần Giê-ri-cô, phía bên kia Sông Giô-đanh tính từ thành đó. \s5 \v 2 Ba-lác, con trai Xíp-bô, thấy tất cả mọi việc dân Y-sơ-ra-ên đã làm đối với dân A-mô-rít. \v 3 Mô-áp rất sợ dân sự vì họ đông, và Mô-áp đang kinh hãi dân Y-sơ-ra-ên. \v 4 Vua Mô-áp nói với các trưởng lão xứ Mi-đi-an, “Đoàn dân đông này sẽ ăn hết mọi thứ xung quanh chúng ta như bò đực ăn hết cỏ ngoài đồng. ” Bấy giờ Ba-lác, con trai Xíp-bô, là vua của Mô-áp khi đó. \s5 \v 5 Ông sai các sứ giả đến gặp Ba-la-am, con trai Bê-ô, tại Bê-thơ bên Sông Ơ-phơ-rát, trong xứ của nước ông và dân của ông. Ông gọi Ba-la-am và nói, “Này, một dân đã đến đây từ Ai Cập. Chúng đầy dẫy trên đất và ngay bây giờ đang ở cạnh ta. \v 6 Vậy ngươi hãy mau đến và rủa sả dân này cho ta, vì chúng quá mạnh so với ta. Sau đó có lẽ ta có thể dàn xếp tấn công chúng và đuổi chúng ra khỏi xứ. Ta biết hễ ai mà ngươi chúc phước thì sẽ được phước, và hễ ai mà ngươi rủa sả thì sẽ bị rủa.” \s5 \v 7 Vậy, các trưởng lão Mô-áp và trưởng lão của Mi-đi-an lên đường, đem theo tiền bói toán. Họ đến gặp Ba-la-am và thuật lại những lời của Ba-lác. \v 8 Ba-la-am trả lời họ, “Hãy ở lại đêm nay. Tôi sẽ cho các ông biết Đức Giê-hô-va phán với tôi điều gì. ” Vậy các lãnh đạo Mô-áp ở lại với Ba-la-am tối hôm đó. \s5 \v 9 Đức Chúa Trời đến gặp Ba-la-am và phán, “Những kẻ đến gặp ngươi là ai? ” \v 10 Ba-la-am trả lời Đức Chúa Trời, “Ba-lác, con trai Xíp-bô, vua Mô-áp, đã sai họ đến gặp con. Ông ấy nói, \v 11 ’Kìa, dân đến từ Ai Cập đang ngập tràn trong xứ tôi. Hãy đến và rủa sả họ cho tôi. Có thể tôi sẽ dàn xếp đánh họ và đuổi họ đi. ’” \s5 \v 12 Đức Chúa Trời trả lời Ba-la-am, “Ngươi chớ đi với những kẻ đó. Ngươi chớ rủa dân Y-sơ-ra-ên vì chúng đã được phước. ” \v 13 Ba-la-am thức dậy vào sáng hôm sau và thuật lại cho các lãnh đạo của Ba-lác, “Hãy trở về xứ các ông vì Đức Giê-hô-va không cho phép tôi đi với các ông. ” \v 14 Vậy các lãnh đạo Mô-áp ra đi và quay về gặp Ba-lác. Họ tâu, “Ba-la-am không chịu đi cùng chúng tôi.” \s5 \v 15 Ba-lác lại sai thêm các nhà lãnh đạo là những người được tôn trọng hơn những người trong nhóm đầu tiên. \v 16 Họ đến gặp Ba-la-am và nói như vầy, “Ba-lác, con trai Xíp-bô, nói rằng, ‘Xin ngươi đừng để điều gì cản trở ngươi đến gặp ta, \v 17 vì ta sẽ trả công hậu hĩnh cho ngươi và cho ngươi được tôn trọng, ta sẽ làm bất cứ điều gì ngươi bảo ta làm. Vậy hãy đến và rủa sả dân này cho ta.” \s5 \v 18 Ba-la-am trả lời và nói cùng người của Ba-lác, “Ngay cả nếu Ba-lác cho ta cả cái cung điện đầy bạc và vàng của ông ta, tôi không thể bất tuân lời của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời tôi, và làm ít hơn hay nhiều hơn điều Ngài phán cùng tôi. \v 19 Vậy bây giờ, xin anh em hãy đợi ở đây trong đêm nay, để tôi xem Đức Giê-hô-va sẽ phán gì với tôi. ” \v 20 Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am vào ban đêm và phán rằng, “Vì những kẻ này đã đến đặng mời gọi ngươi, hãy đứng dậy và đi cùng chúng. Nhưng chỉ được làm điều Ta dặn ngươi.” \s5 \v 21 hôm sau, Ba-la-am thức dậy, thắng yên lừa, và đi với các lãnh đạo Mô-áp. \v 22 Nhưng vì ông lên đường, nên Đức Chúa Trời nổi giận. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường như một người thù nghịch với Ba-la-am, là người đang cưỡi con lừa. Hai tôi tớ của Ba-la-am cũng đang đi với ông. \v 23 Con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng trên đường với tay người cầm một thanh gươm. Con lừa rẽ khỏi đường và đi vào ruộng. Ba-la-am đánh con lừa để khiến nó quay lại con đường. \s5 \v 24 Khi đó thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng ở chỗ hẹp của con đường giữa vườn nho và lối đi ở bên phải và lối đi ở bên trái. \v 25 Con lừa lại thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Nó đi sát vách làm cho chân Ba-la-am kẹt vào vách. Ba-la-am lại đánh nó. \s5 \v 26 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng xa hơn và đứng ở một chỗ hẹp hơn, là chỗ không có lối rẽ qua bên kia. \v 27 Con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va, nó quỳ xuống bên dưới Ba-la-am. Ba-la-am liền nổi giận, ông lấy gậy đánh con lừa. \s5 \v 28 Đức Giê-hô-va mở miệng con lừa khiến nó nói. Nó nói cùng Ba-la-am rằng, “Tôi đã làm gì cho ông mà khiến ông đánh tôi ba lần? ” \v 29 Ba-la-am trả lời con lừa, “Đó là vì ngươi hành động quá ngu ngốc với ta. Ta ước gì tay ta cầm thanh gươm. Nếu có thật, ta đã giết ngươi rồi. ” \v 30 Con lừa nói cùng Ba-la-am, “Chẳng phải tôi là con lừa mà ông đã cưỡi suốt từ đó đến giờ? Tôi có thói quen làm những điều như vậy cho ông trước giờ chưa? ” Ba-la-am nói, “Không.” \s5 \v 31 Rồi Đức Giê-hô-va mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường và tay cầm thanh gươm. Ba-la-am cúi đầu và sấp mặt xuống đất. \v 32 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán với ông, “Sao ngươi đánh con lừa của ngươi ba lần? Này, ta đến với tư cách là kẻ thù của ngươi vì hành động của ngươi trước mặt ta thật gian ác. \v 33 Con lừa thấy ta và quay đầu khỏi ta ba lần. Nếu nó không xây khỏi ta, hẳn ta đã giết ngươi rồi để nó sống.” \s5 \v 34 Ba-la-am trả lời thiên sứ của Đức Giê-hô-va, “Con đã phạm tội. Con không biết là Ngài đang đứng trên đường cản lối con. Bây giờ, nếu chuyến đi này làm Ngài không hài lòng, con sẽ quay về. ” \v 35 Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói với Ba-la-am, “Hãy đi tiếp với họ. Nhưng ngươi chỉ được nói những lời ta bảo ngươi. ” Vậy Ba-la-am đi cùng các lãnh đạo của Ba-lác. \s5 \v 36 Khi Ba-lác hay rằng Ba-la-am đã đến, vua ra đón ông ở thành Mô-áp trong xứ Ạc-nôn, ở vùng biên giới. \v 37 Ba-lác nói với Ba-la-am, “Ta đã không sai người đến triệu tập ngươi sao? Sao ngươi không đến gặp ta? Ta không thể làm cho ngươi được tôn trọng sao?” \s5 \v 38 Ba-la-am tâu với Ba-lác, “Kìa, tôi đã đến gặp vua. Bây giờ tôi có quyền nói gì chăng? Tôi chỉ có thể nói những lời mà Đức Chúa Trời đặt vào miệng tôi. ” \v 39 Ba-la-am đi với Ba-lác, và họ tới Ki-ri-át Hu-xốt. \v 40 Sau đó Ba-lác giết con bò và chiên để cúng và chia thịt cho Ba-la-am và các lãnh đạo đi với ông. \s5 \v 41 Sáng hôm sau, Ba-lác dẫn Ba-la-am lên miếu thờ Ba-anh. Từ đó, Ba-la-am có thể thấy chỉ một phần trại của Y-sơ-ra-ên. \s5 \c 23 \p \v 1 Ba-la-am tâu cùng Ba-lác, “Xin vua dựng cho tôi bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị bảy con bò đực, bảy con chiên đực. ” \v 2 Vậy Ba-lác làm theo yêu cầu của Ba-la-am. Sau đó, Ba-lác và Ba-la-am dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ. \v 3 Ba-la-am bảo Ba-lác, “Hãy đứng đó với của lễ thiêu của vua, còn tôi sẽ đi. Có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ đến gặp tôi. Tôi sẽ tâu lại cho vua bất cứ điều gì Ngài tỏ ra cho tôi. ” Vậy ông đi lên đỉnh núi trọc. \s5 \v 4 Đức Chúa Trời gặp ông, và Ba-la-am thưa cùng Ngài, “Con đã lập bảy bàn thờ, và con đã dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ. ” \v 5 Đức Giê-hô-va đặt một sứ điệp vào miệng Ba-la-am và phán, “Hãy trở lại gặp Ba-lác và nói với nó. ” \v 6 Vậy Ba-la-am trở lại gặp Ba-lác khi vua đang đứng bên cạnh của lễ thiêu của mình, và tất cả các lãnh đạo Mô-áp đang đứng đó với vua. \s5 \v 7 Vậy Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri rằng, “Ba-lác đã đem tôi đến từ A-ram. Vua Mô-áp từ các ngọn núi phương đông. Ông ấy bảo, ‘Hãy đến, rủa sả Gia-cốp cho ta. Hãy đến, thách thức Y-sơ-ra-ên. ’ \v 8 Làm sao tôi có thể rủa sả dân mà Đức Chúa Trời không rủa sả? Làm sao tôi có thể chống lại dân mà Đức Giê-hô-va không chống? \s5 \v 9 Vì từ đỉnh các vầng đá, tôi thấy Ngài; tôi thấy Ngài từ các ngọn đồi. Kìa, có một dân sống một mình và không xem mình là một nước bình thường. \s5 \v 10 Ai có thể đếm bụi của Gia-cốp hoặc thậm chí đếm một phần tư Y-sơ-ra-ên? Người công bình chết thế nào thì tôi nguyện chết thể ấy!” \s5 \v 11 Ba-lác bảo Ba-la-am, “Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Ta đã đem ngươi đến để rủa sả kẻ thù của ta, nhưng kìa, ngươi đã chúc phước chúng. ” \v 12 Ba-la-am trả lời và rằng, “Chẳng lẽ tôi không được cẩn thận nói những lời Đức Giê-hô-va đặt trong miệng mình sao?” \s5 \v 13 Ba-lác nói với ông, “Hãy đi với ta đến một nơi khác, tại đó ngươi có thể thấy chúng. Ngươi sẽ chỉ thấy chỗ gần nhất của chúng, chứ không phải thấy tất cả. Tại đó ngươi sẽ rủa sả chúng cho ta. ” \v 14 Vậy ông dẫn Ba-la-am vào cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh Núi Phích-ga, và dựng thêm bảy bàn thờ. Ông dâng lên một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ. \v 15 Vậy Ba-la-am nói cùng Ba-lác, “Vua hãy đứng đây với của lễ thiêu của vua, trong khi tôi đến gặp Đức Giê-hô-va tại đó.” \s5 \v 16 Vậy Đức Giê-hô-va gặp Ba-la-am và đặt một sứ điệp vào miệng ông. Ngài phán, “Hãy trở về gặp Ba-lác và nói cho nó biết sứ điệp của Ta. ” \v 17 Ba-la-am trở lại gặp vua, và kìa, vua đang đứng bên cạnh của lễ thiêu của mình, và các lãnh đạo của Mô-áp đang đứng với vua. Sau đó Ba-lác nói với Ba-la-am, “Đức Giê-hô-va đã phán gì? ” \v 18 Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri. Ông nói, “Hỡi Ba-lác, hãy đứng dậy và nghe. Hỡi con của Xíp-bô, hãy nghe tôi. \s5 \v 19 Đức Chúa Trời không phải là người đến nỗi phải nói dối, hoặc là người mà phải đổi ý. Ngài đã hứa điều gì mà không làm sao? Ngài đã nói sẽ thực hiện việc gì mà không làm sao? \v 20 Kìa, tôi đã được truyền lệnh là phải chúc phước. Đức Chúa Trời đã ban một ơn phước, và tôi không thể đảo ngược. \s5 \v 21 Ngài không thấy sự gian khổ trong Gia-cốp hoặc khó khăn trong Y-sơ-ra-ên. Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ ở cùng họ, và tiếng reo mừng vua ở giữa họ. \v 22 Đức Chúa Trời đã đem họ ra khỏi Ai Cập bằng sức mạnh như con bò đực hoang. \s5 \v 23 Không có yêu thuật nào chống lại Gia-cốp, và không có bói toán nào làm hại Y-sơ-ra-ên. Trái lại, phải nói về Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Hãy xem điều Chúa đã làm!’ \s5 \v 24 Kìa, một dân nổi lên như sư tử cái, như một con sư tử nổi lên và tấn công. Nó không nằm xuống cho đến khi ăn thịt con mồi và uống huyết con vật nó đã giết.” \s5 \v 25 Ba-lác bảo Ba-la-am, “Đừng rủa sả hay chúc phước chúng. ” \v 26 Nhưng Ba-la-am trả lời Ba-lác, “Chẳng phải tôi đã không nói với vua rằng tôi phải nói mọi lời Đức Giê-hô-va bảo tôi nói sao? ” \v 27 Vậy Ba-lác trả lời Ba-la-am, “Hãy đến đây, ta sẽ dẫn ngươi đến một nơi khác. Có lẽ nơi đó sẽ làm hài lòng Đức Chúa Trời cho phép ngươi rủa sả họ cho ta. \s5 \v 28 Vậy Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh Núi Phê-ô nhìn xuống hoang mạc. \v 29 Ba-la-am nói với Ba-lác, “Hãy dựng cho tôi bảy bàn thờ ở đây và chuẩn bị bảy con bò đực, bảy con chiên đực. ” \v 30 Vậy Ba-lác làm y như Ba-la-am đã nói; ông dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ. \s5 \c 24 \p \v 1 Khi Ba-la-am thấy rằng Đức Giê-hô-va hài lòng khi ông chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, ông không đi cậy đến bùa chú như những lần khác. Trái lại, ông nhìn về phía hoang mạc. \s5 \v 2 Ông căng mắt ra và thấy trại của dân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái đều có một khu trại, và Thần của Đức Chúa Trời ngự trên ông. \v 3 Ông nhận lấy lời tiên tri này và nói, “Ba-la-am, con trai của Bê-ô, sẽ nói, người có mắt mở ra. \s5 \v 4 Người nói và nghe lời của Chúa. Người thấy một sự hiện thấy từ Đấng Toàn năng, người quỳ xuống và mắt mở ra trước mặt Đấng ấy. \v 5 Hỡi Gia-cốp, lều của các ngươi đẹp thay, là nơi ngươi sống, hỡi Y-sơ-ra-ên! \s5 \v 6 Như những thung lũng trải dài, như những khu vườn bên bờ sông, như cây lô hội được Đức Giê-hô-va trồng, như cây tuyết tùng bên dòng nước. \s5 \v 7 Nước chảy từ gầu, và hạt giống được tưới tiêu. Vua của họ cao hơn vua A-gát, và nước của họ sẽ được tôn trọng. \s5 \v 8 Đức Chúa Trời đem người ra khỏi Ai Cập. Người có sức mạnh như con bò đực. Người sẽ ăn hết các nước chống lại người. Người sẽ bẻ gãy xương chúng thành từng miếng. Người sẽ lấy tên bắn chúng. \s5 \v 9 Người thu mình như con sư tử, như một sư tử cái. Ai dám quấy rầy người? Nguyện người nào chúc phước người sẽ được phước; nguyện người nào rủa sả người sẽ bị rủa sả.” \s5 \v 10 Ba-lác nổi giận bừng bừng với Ba-la-am và ông giận dữ đập tay mình. Ba-lác nói với Ba-la-am, “Ta đã gọi ngươi đến để rủa sả kẻ thù ta, nhưng kìa, ngươi đã chúc phước cho chúng ba lần. \v 11 Bây giờ hãy lui đi và trở về nhà. Ta đã nói là ta sẽ thưởng lớn cho ngươi, nhưng Đức Giê-hô-va đã ngăn không cho ngươi được thưởng.” \s5 \v 12 Ba-la-am trả lời Ba-lác, “Tôi đã nói với các sứ giả mà vua đã sai đến gặp tôi, \v 13 ‘Ngay cả nếu Ba-lác ban cho ta cả cung điện bằng bạc và vàng, tôi cũng không thể vượt ra khỏi lời của Đức Giê-hô-va và bất cứ điều xấu hay điều tốt nào, và bất cứ điều gì mà tôi không muốn làm. Tôi chỉ có thể nói điều Đức Giê-hô-va phán với tôi. ’ Chẳng phải tôi đã nói với họ sao? \v 14 Vậy bây giờ, tôi sẽ trở về dân tôi. Nhưng trước hết, tôi cảnh báo vua về điều dân này sẽ gây ra trên dân của vua trong những ngày tới.” \s5 \v 15 Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri. Ông nói rằng, “Ba-la-am con trai Bê-ô nói, người mà có mắt mở ra. \v 16 Đây là lời tiên tri của người nghe lời từ Đức Chúa Trời, có kiến thức từ Đấng Chí Cao, và có khải tượng từ Đấng Toàn năng, là Đấng mà người quỳ xuống mở mắt ra trước mặt. \s5 \v 17 Tôi thấy Ngài. Nhưng Ngài không ở đây. Tôi nhìn Ngài, nhưng Ngài không ở gần. Một ngôi sao sẽ ra từ Gia-cốp, và một ngôi vua sẽ nổi lên từ Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ làm tan lạc các lãnh đạo của Mô-áp và hủy diệt tất cả con cháu của Sết. \s5 \v 18 Vậy Ê-đôm sẽ trở thành tài sản của Y-sơ-ra-ên, và Si-ơ cũng sẽ trở thành tài sản của kẻ thù của Y-sơ-ra-ên, là kẻ mà Y-sơ-ra-ên sẽ chinh phục bằng vũ lực. \v 19 Từ Gia-cốp sẽ ra một vua thống trị, và Ngài sẽ hủy diệt những cư dân còn sót lại trong thành.” \s5 \v 20 Rồi Ba-la-am nhìn A-ma-léc và bắt đầu nói lời tiên tri của mình. Ông nói, “A-ma-léc từng là quốc gia hùng mạnh nhất, nhưng ngày cuối cùng của nó sẽ là ngày hủy diệt.” \s5 \v 21 Vậy Ba-la-am nhìn về phía dân Kê-ni-át và bắt đầu nói tiên tri. Ông nói, “Nơi ngươi đang sống là chỗ mạnh mẽ, và tổ của ngươi ở trên vầng đá. \v 22 Tuy nhiên, Ca-in sẽ bị phá hủy khi người A-sy-ri bắt ngươi làm phu tù.” \s5 \v 23 Vậy Ba-la-am bắt đầu nói lời tiên tri cuối. Ông nói: Khốn thay! Ai sẽ sống sót khi Đức Chúa Trời làm như vầy? \v 24 Tàu thuyền sẽ rời khỏi cảnh Kit-tim; chúng sẽ tấn công A-sy-ri-a và chinh phục được Ê-be, nhưng họ sẽ kết thúc bằng sự hủy diệt. ” \v 25 Sau đó Ba-la-am thức dậy sớm và rời đi. Ông trở về nhà mình và Ba-lác cũng bỏ đi. \s5 \c 25 \p \v 1 Dân Y-sơ-ra-ên ở tại Si-tim, và đàn ông bắt đầu ngủ chung với phụ nữ Mô-áp, \v 2 vì dân Mô-áp mời gọi dân sự dự những của cúng các thần của họ. Vậy dân sự ăn uống và quỳ lạy các thần của dân Mô-áp. \v 3 Đàn ông Y-sơ-ra-ên tham gia thờ cúng Ba-anh Phê-ô, vì vậy cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi bừng trên dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy giết tất cả các lãnh đạo trong dân và treo lên trước mặt Ta vào ban ngày hầu cho cơn giận dữ của Ta xây khỏi Y-sơ-ra-ên. ” \v 5 Vậy Môi-se bảo các lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, “Ai trong chi tộc mình đã thờ cúng Ba-anh Phê-ô thì phải bị xử tử.” \s5 \v 6 Bấy giờ, một người trong số những người đàn ông Y-sơ-ra-ên bước đến và dẫn theo một người nữ Mi-đi-an trong vòng bà con mình đến trước mặt Môi-se và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ khóc lóc ở lối vào lều hội họp. \v 7 Khi Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu thầy tế lễ A-rôn, thấy điều đó, liền đứng dậy từ giữa hội chúng, trong tay ông cầm một cây giáo. \s5 \v 8 Ông theo người nam Y-sơ-ra-ên vào trong lều và dùng giáo đâm xuyên qua người nam Y-sơ-ra-ên và người nữ đó. Vậy, tai họa mà Đức Chúa Trời đã giáng trên dân bèn Y-sơ-ra-ên dừng lại. \v 9 Số người chết bởi tai họa đó là 24. 000 người. \s5 \v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 11 “Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu thầy tế lễ A-rôn, đã làm Ta nguôi giận dân Y-sơ-ra-ên vì người nhiệt tình vì Ta giữa vòng dân sự. Vậy Ta không tiêu diệt dân Y-sơ-ra-ên nữa. \s5 \v 12 Ngươi hãy nói rằng, ‘Đức Giê-hô-va có phán, “Kìa, Ta sẽ ban cho Phi-nê-a giao ước bình an của Ta. \v 13 Ấy sẽ là một giao ước tế lễ đời đời dành cho người và con cháu người, vì người đã thể hiện lòng sốt sắng vì Ta, là Đức Chúa Trời của người. Người đã chuộc tội thay cho dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 14 Khi đó, người nam Y-sơ-ra-ên bị giết cùng người nữ Mi-đi-an tên là Xim-ri, con trai Sa-lu, lãnh đạo của một gia tộc trong chi phái Si-mê-ôn. \v 15 Người nữ Mi-đi-an bị giết tên là Cốt-bi, con gái của Xu-rơ, trưởng một chi phái và gia tộc ở Mi-đi-an. \s5 \v 16 Vậy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 17 “Hãy coi dân Mi-đi-an như là kẻ thù và tấn công chúng, \v 18 vì chúng đã xem các ngươi giống như kẻ thù và lừa dối các ngươi. Chúng đã dẫn dụ các ngươi vào con đường xấu xa trong vụ của Phê-ô và chị của chúng là Cốt-bi, con gái của một trưởng tộc ở Mi-đi-an, là kẻ đã bị giết trong ngày xảy ra tai vạ vì Phê-ô.” \s5 \c 26 \p \v 1 Sau khi tai vạ đã qua đi, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn. Ngài nói rằng, \v 2 thống kê tất cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, từ hai mươi tuổi trở lên, theo gia tộc, tức những người có thể ra trận chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.” \s5 \v 3 Vậy Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thuật lại với họ ở đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô rằng, \v 4 “Hãy thống kê số người từ hai mươi tuổi trở lên, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên, mà đã ra khỏi xứ Ai Cập.” \s5 \v 5 Ru-bên là con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên. Hê-nóc, con trai ông, sinh ra dòng họ Hê-nóc. Pha-lu sinh ra dòng họ Pha-lu. \v 6 Hẹt-rôn sinh ra dòng họ Hẹt-rôn. Cạt-mi sinh ra dòng họ Cạt-mi. \v 7 Đây là những dòng họ của con cháu Ru-bên, số là 43. 730 người. \s5 \v 8 Ê-li-áp là con trai của Pha-lu. \v 9 Con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram là hai người đã theo Cô-ra thách thức Môi-se và A-rôn đồng thời nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va. \s5 \v 10 Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê khiến tất cả những người theo ông đều chết. Khi đó, lửa thiêu đốt 250 người để cảnh cáo. \v 11 Nhưng dòng họ của Cô-rê không chết hết. \s5 \v 12 Dòng họ của con cháu Si-mê-ôn gồm: Nê-mu-ên sinh ra dòng họ Nê-mu-ên, Gia-min sinh ra dòng họ Gia-min, Gia-kin sinh ra dòng họ Gia-kin, \v 13 Xê-rách sinh ra dòng họ Xê-rách, Sau-lơ sinh ra dòng họ Sau-lơ. \v 14 Đây là những dòng họ của con cháu Si-mê-ôn, số là 22. 200 người. \s5 \v 15 Các dòng họ của con cháu Gát bao gồm: Xê-phôn sinh ra dòng họ Xê-phôn, Ha-ghi sinh ra dòng họ Ha-ghi, Su-ni sinh ra dòng họ Su-ni, \v 16 Ô-ni sinh ra dòng họ Ô-ni, Ê-ri sinh ra dòng họ Ê-ri, \v 17 A-rốt sinh ra dòng họ A-rốt, A-rê-li sinh ra dòng họ A-rê-li. \v 18 Đây là các dòng họ của con cháu Gát, số là 40. 500 người. \s5 \v 19 Ê-rơ và Ô-nan là con trai của Giu-đa, nhưng họ đã chết trong xứ Ca-na-an. \v 20 Các dòng họ từ những con cháu khác của Giu-đa gồm: Sê-la sinh ra dòng họ Sê-la, Phê-rê sinh ra dòng họ Phê-rê, và Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra. \v 21 Con cháu của Phê-rê gồm: Hẹt-rôn sinh ra dòng họ Hẹt-rôn, Ha-mun sinh ra dòng họ Ha-mun. \v 22 Đây là các dòng họ của con cháu Giu-đa, số là 76. 500 người. \s5 \v 23 Các dòng họ của con cháu Y-sa-ca gồm: Tô-la sinh ra dòng họ Tô-la, Phu-va sinh ra dòng họ Phu-va, \v 24 Gia-súp sinh ra dòng họ Gia-súp, Sim-rôn sinh ra dòng họ Sim-rôn. \v 25 Đây là các dòng họ của Y-sa-ca, số là 64. 300 người. \s5 \v 26 Các dòng họ của con cháu Sa-bu-lôn gồm: Sê-rết sinh ra dòng họ Sê-rết, Ê-lôn sinh ra dòng họ Ê-lôn, Gia-lê-ên sinh ra dòng họ Gia-lê-ên. \v 27 Đây là các dòng họ của người Sa-bu-lôn, số là 60. 500 người. \s5 \v 28 Các dòng họ của con cháu Giô-sép là Ma-na-se và Ép-ra-im. \v 29 Con cháu của Ma-na-se gồm: Ma-ki sinh ra dòng họ Ma-ki (Ma-ki là cha của Ghi-lê-át), Ghi-lê-át sinh ra dòng họ Ghi-lê-át. \s5 \v 30 Con cháu của Ghi-lê-át gồm: Y-ê-xê sinh ra dòng họ Y-ê-xê, Hê-léc sinh ra dòng họ Hê-léc, \v 31 A-ri-ên sinh ra dòng họ A-ri-ên, Si-chem sinh ra dòng họ Si-chem, \v 32 Sê-mi-đa sinh ra dòng họ Sê-mi-đa, Hê-phe sinh ra dòng họ Hê-phe. \s5 \v 33 Xê-lô-phát con trai Hê-phe không có con trai, nhưng chỉ có con gái. Các con gái của ông tên là Ma-la, Nô-ê, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa. \v 34 Đây là các dòng họ của Ma-na-se, số là 52. 700 người. \s5 \v 35 Các dòng họ của con cháu Ép-ra-im gồm: Su-thê-la sinh ra dòng họ Su-thê-la, Bê-che sinh ra dòng họ Bê-che, Ta-han sinh ra dòng họ Ta-han. \v 36 Con cháu của Su-thê-la gồm Ê-ran sinh ra dòng họ Ê-ran. \v 37 Đây là các dòng họ của con cháu Ép-ra-im, số là 32. 500 người. Họ là con cháu của Giô-sép, thống kê theo từng dòng họ. \s5 \v 38 Dòng họ của con cháu Ben-gia-min gồm: Bê-la sinh ra dòng họ Bê-la, Ách-bên sinh ra dòng họ Ách-bên, A-hi-ram sinh ra dòng họ A-hi-ram, \v 39 Sê-phu-pham sinh ra dòng họ Sê-phu-pham, Hu-pham sinh ra dòng họ Hu-pham. \v 40 Con trai của Bê-la là A-rết và Na-a-man. A-rết sinh ra dòng họ A-rết, và Na-a-man sinh ra dòng họ Na-a-man. \v 41 Đây là các dòng họ của con cháu Bên-gia-min. Có 45. 600 người. \s5 \v 42 Các dòng họ của con cháu Đan gồm: Su-ham sinh ra dòng họ Su-ham. Đây là các dòng họ của con cháu Đan. \v 43 Có 64. 400 người trong số tất cả các dòng họ của Su-ham. \s5 \v 44 Các dòng họ của con cháu A-se gồm: Im-na sinh ra dòng họ Im-na, Ích-vi sinh ra dòng họ Ích-vi, Bê-ri-a sinh ra dòng họ Bê-ri-a. \v 45 Con cháu của Bê-ri-a gồm: Hê-be sinh ra dòng họ Hê-be, Manh-ki-ên sinh ra dòng họ Manh-ki-ên. \v 46 Con gái của A-se là Sê-ra. \v 47 Đây là các dòng họ của con cháu A-se, số là 53. 400 người. \s5 \v 48 Các dòng họ của con cháu Nép-ta-li gồm: Gia-xê-ên sinh ra dòng họ Gia-xê-ên, Gu-ni sinh ra dòng họ Gu-ni, \v 49 Giê-xơ sinh ra dòng họ Giê-xơ, Si-lem sinh ra dòng họ Si-lem. \v 50 Đây là các dòng họ của con cháu Nép-ta-li, số là 45. 400 người. \s5 \v 51 Tổng cộng chính thức có 601. 730 người được thống kê trong dân Y-sơ-ra-ên. \s5 \v 52 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 53 “Xứ phải được chia cho những người này làm sản nghiệp theo số và tên của họ. \s5 \v 54 Dòng họ nào đông hơn sẽ nhận được nhiều sản nghiệp hơn, và dòng họ nào ít hơn sẽ nhận được ít sản nghiệp hơn. Với mỗi gia đình, ngươi phải ban sản nghiệp tùy theo số người được thống kê. \v 55 Tuy nhiên, xứ sẽ phải được phân chia bằng cách bốc thăm. Họ phải thừa hưởng xứ đó theo chi phái của mình. \v 56 Sản nghiệp của họ phải được chia giữa dòng họ đông hơn và dòng họ ít hơn, theo kết quả bốc thăm.” \s5 \v 57 Dòng họ Lê-vi, được tính theo từng dòng họ, bao gồm: Ghẹt-sôn sinh ra họ Ghẹt-sôn, Kê-hát sinh ra họ Kê-hát, Mê-ra-ri sinh ra họ Mê-ra-ri. Kê-hát là tổ tiên của Am-ram. \v 58 Dòng họ của Lê-vi gồm: dòng họ Líp-ni, dòng họ Hép-rôn, dòng họ Mách-li, dòng họ Mu-si, dòng họ Cô-rê. Kê-hát là tổ phụ của Am-ram. \v 59 Giô-kê-bết là vợ của Am-ram, con cháu của Lê-vi, được sinh ra trong xứ Ai Cập. Nàng sinh cho Am-ram các con là A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am là chị của hai ông. \s5 \v 60 A-rôn sinh ra Na-đáp và A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. \v 61 Na-đáp và A-bi-hu chết khi họ dâng trước mặt Đức Giê-hô-va một thứ lửa lạ. \v 62 Số người nam từ một tháng tuổi trở lên được thống kê trong vòng con cháu Y-sơ-ra-ên là 23. 000 người. Nhưng họ không được thống kê giữa con cháu Y-sơ-ra-ên vì họ không được hưởng sản nghiệp nào cả. \s5 \v 63 Đây là những người mà Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thống kê. Họ thống kê dân Y-sơ-ra-ên trong đồng bằng Mô-áp, bên cạnh Giô-đanh ở Giê-ri-chô. \v 64 Nhưng trong số này không có ai được Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thống kê khi con cháu Y-sơ-ra-ên được thống kê trong hoang mạc Si-nai. \s5 \v 65 Vì Đức Giê-hô-va đã phán rằng tất cả những người đó chắc chắn sẽ chết trong hoang mạc. Không còn người nào trong số họ còn sống sót, ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê và Giô-suê con trai Nun. \s5 \c 27 \p \v 1 Bấy giờ các con gái của Xê-lô-phê-hát, con trai Hê-phe, cháu Ghi-lê-át, chắt của Ma-ki, chít của Ma-na-se, thuộc dòng họ Ma-na-se, con trai Giô-sép, đến gặp Môi-se. Đây là tên các con gái của ông: Ma-la, Nô-ê, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa. \s5 \v 2 Họ đứng trước mặt Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các lãnh đạo, và toàn thể hội chúng ở lối vào lều hội họp. Họ nói, \v 3 “Cha chúng tôi đã chết trong hoang mạc. Ông ấy không hùa theo mấy kẻ nổi loạn thuộc phe Cô-ra chống đối Đức Giê-hô-va. Ông chết vì tội của mình; chính vì tội lỗi của ông mà ông đã chết. \s5 \v 4 Tại sao tên của cha chúng tôi bị loại khỏi danh sách dòng họ ông ấy chỉ vì ông không có con trai? Hãy chia xứ cho chúng tôi giữa họ hàng của cha chúng tôi. ” \v 5 Vậy Môi-se đem thưa với Đức Giê-hô-va về tình cảnh của họ. \s5 \v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 7 “Các con gái của Xê-lô-phê-hát nói đúng đó. Chắc chắn ngươi phải chia xứ cho họ làm sản nghiệp giữa bà con của cha họ, và ngươi phải đảm bảo rằng họ được nhận sản nghiệp của cha họ. \v 8 Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Nếu người nam nào không có con trai, anh em phải trao sản nghiệp của người cho con gái người. \s5 \v 9 Nếu người không có con gái, anh em phải trao sản nghiệp của người cho các anh em người. \v 10 Nếu người không có anh em, anh em phải trao sản nghiệp cho các chú bác người. \v 11 Nếu cha người không có anh em, anh em phải trao sản nghiệp của người cho người bà con gần nhất trong dòng họ của người, và người đó phải nhận sản nghiệp được chia. Đây là luật áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho tôi. ’” \s5 \v 12 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy lên núi A-ba-rim rồi nhìn xứ mà Ta đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên. \v 13 Sau khi xem xứ ấy, ngươi cũng sẽ trở về với tổ phụ, như A-rôn là anh ngươi. \v 14 Việc này sẽ xảy ra vì ngươi đã cãi lệnh Ta truyền trong hoang mạc Sin. Tại đó, ngươi đã giận dữ mà không tôn kính Ta nên thánh trước mặt cả hội chúng, khi nước chảy ra từ vầng đá. ” Đó là nước ở Mê-ri-ba tại Ca-đe trong hoang mạc Sin. \s5 \v 15 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va, \v 16 “Lạy Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của thần linh trên mọi loài xác thịt, xin Chúa lập một người cai quản hội chúng, \v 17 là người có thể ra vào trước mặt họ, dẫn họ ra, đưa họ vào, đặng hội chúng của Ngài sẽ không như chiên thiếu người chăn.” \s5 \v 18 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy chọn Giô-suê, con trai của Nun, là người được Thần Ta ngự, và đặt tay ngươi trên người. \v 19 Hãy dẫn người đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và trước mặt hội chúng, rồi truyền lệnh cho người trước mặt họ. \s5 \v 20 Ngươi phải trao một phần thẩm quyền của ngươi trên người, đặng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên vâng phục người. \v 21 Người sẽ đi trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa đặng tìm kiếm ý muốn Ta bày tỏ với người qua những quyết định của U-rim. Người sẽ ra lệnh dân sự đi ra và đi vào. tất cả dân Y-sơ-ra-ên ở bên cạnh người, cả hội chúng.” \s5 \v 22 Vậy Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. Ông dẫn Giô-suê đến ra mắt trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả hội chúng. \v 23 Ông đặt tay trên người và truyền cho người lãnh đạo, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. \s5 \c 28 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Các ngươi phải dâng lễ vật cho Ta theo kỳ đã định, tức thực phẩm của các của dâng bằng lửa có mùi thơm cho Ta.’ \s5 \v 3 Ngươi cũng hãy bảo họ rằng, ‘Đây là của lễ các ngươi phải dâng bằng lửa cho Đức Giê-hô-va – mỗi ngày dâng hai chiên con đực một tuổi lành lặn làm của lễ thiêu hàng ngày. \v 4 Các ngươi phải dâng một chiên con vào buổi sáng, và một chiên con vào buổi chiều. \v 5 Hãy dâng một phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay, trộn với một phần tư hin dầu ép. \s5 \v 6 Đây là của lễ thiêu hàng ngày đã được truyền tại Núi Si-nai, tức của lễ thiêu có mùi thơm dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va. \v 7 Của lễ quán kèm theo sẽ bằng một phần tư hin rượu cho mỗi chiên con. Của lễ quán bằng rượu mạnh sẽ được đổ ra trong nơi thánh cho Đức Giê-hô-va. \v 8 Dâng chiên con còn lại vào buổi chiều cùng với một của lễ chay khác giống như của lễ được dâng vào buổi sáng. Cũng hãy dâng một của lễ quán khác kèm theo, tức của lễ dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 9 Vào ngày Sa-bát, các ngươi phải dâng hai chiên con đực một tuổi lành lặn, và hai phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay, trộn với dầu, và của lễ quán kèm theo. \v 10 Đây sẽ là của lễ thiêu vào mỗi ngày Sa-bát, bên cạnh của lễ thiêu hàng ngày và của lễ quán kèm theo. \s5 \v 11 Đầu mỗi tháng, các ngươi phải dâng một của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va gồm hai con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi lành lặn. \v 12 Cũng hãy dâng ba phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay trộn với dầu cho mỗi con bò đực, và hai phần mười bột lọc làm của lễ chay trộn với dầu cho mỗi con chiên đực. \v 13 Cũng phải dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn với dầu làm của lễ chay cho từng chiên con. Đây là của lễ thiêu có mùi thơm dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va. \s5 \v 14 Của lễ quán của dân sự phải bằng nửa hin rượu cho mỗi con bò đực, một phần ba hin cho mỗi con chiên đực, và một phần tư hin cho mỗi chiên con. Đây là của lễ thiêu hàng tháng trong năm. \v 15 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ quán kèm theo. \s5 \v 16 Ngày mười bốn tháng giêng sẽ là Lễ Vượt qua. \v 17 Ngày mười lăm tháng giêng sẽ là ngày lễ. Các ngươi phải ăn bánh không men trong bảy ngày. \v 18 Ngày thứ nhất, các ngươi sẽ có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Trong ngày đó các ngươi chớ làm việc thường nhật nào. \s5 \v 19 Tuy nhiên, các ngươi phải dâng một lễ vật bằng lửa, tức là của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. Các ngươi phải dâng hai con bò đực con, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi, mỗi con đều lành lặn. \v 20 Kèm theo con bò đực, các ngươi phải dâng một của lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu, và hai phần mười cho con chiên đực. \v 21 Dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi con trong số bảy chiên con, \v 22 và một con dê đực làm của lễ chuộc tội để chuộc tội cho các ngươi. \s5 \v 23 Các ngươi phải dâng các của lễ này ngoài của lễ thiêu thường lệ vào mỗi buổi sáng. \v 24 Như đã mô tả, các ngươi phải dâng những của lễ này trong suốt bảy ngày vào dịp Lễ Vượt qua, tức là thực phẩm dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Của lễ đó phải được dâng ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ quán kèm theo. \v 25 Ngày thứ bảy, các ngươi phải có buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va, các ngươi chớ làm việc thường nhật nào trong bữa đó. \s5 \v 26 Ngoài ra, trong ngày thu hoạch đầu tiên, khi các ngươi dâng của lễ chay mới cho Đức Giê-hô-va nhân dịp Lễ các Tuần, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va, và chớ làm việc gì thường nhật gì trong ngày đó. \v 27 Các ngươi phải dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm hai con bò đực con, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi. \v 28 Cũng hãy dâng của lễ chay kèm theo: bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi con bò đực và hai phần mười cho mỗi con chiên đực. \s5 \v 29 Hãy dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi chiên con, \v 30 và một con dê đực để chuộc tội cho mình. \v 31 các ngươi dâng những con vật lành lặn đó, kèm theo của lễ quán của chúng, thì đây là những của lễ phải dâng ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ chay kèm theo. ’” \s5 \c 29 \p \v 1 “Ngày một tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Chớ làm công việc thường nhật trong ngày này. Đó sẽ là ngày các ngươi thổi kèn. \s5 \v 2 Hãy dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi lành lặn. \s5 \v 3 Kèm theo là của lễ chay, bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho con chiên đực, \v 4 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số bảy chiên con đực. \v 5 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội cho mình. \s5 \v 6 Hãy dâng các của lễ này vào tháng bảy ngoài các của lễ được dâng vào ngày một hàng tháng: của lễ thiêu đặc biệt và của lễ chay kèm theo. Đây sẽ là những của lễ ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. Các của lễ phải được dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va theo quy định. \s5 \v 7 Vào ngày mười tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Các ngươi phải hạ mình và chớ làm việc gì. \v 8 Hãy dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi. Mỗi con phải lành lặn. \s5 \v 9 Hãy dâng kèm theo một của lễ chay, bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho một con chiên đực, \v 10 và một phần mười ê-pha cho mỗi trong số bảy chiên con đực. \v 11 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. Đây là của lễ ngoài của lễ chuộc tội, của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 12 Vào ngày mười lăm tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Chớ làm công việc thường nhật gì trong ngày này, các ngươi phải giữ lễ cho Ngài trong bảy ngày. \v 13 Hãy dâng một của lễ thiêu bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Dâng mười ba con bò đực con, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi. Mỗi con phải lành lặn. \s5 \v 14 Kèm theo là một của lễ chay, bộc lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho mỗi con trong số mười ba con bò đực, hai phần mười ê-pha cho mỗi con trong số hai con chiên đực, \v 15 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số mười bốn chiên con. \v 16 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán kèm theo. \s5 \v 17 Vào ngày nhóm họp thứ nhì, các ngươi hãy dâng mười hai con bò đực con, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi lành lặn. \v 18 Kèm theo là một của lễ chay và của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 19 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 20 Vào ngày nhóm họp thứ ba, các ngươi phải dâng mười một con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \v 21 Các ngươi phải dâng kèm theo một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, như đã truyền. \v 22 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 23 Vào ngày nhóm họp thứ tư, hãy dâng mười con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \v 24 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 25 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 26 Vào ngày nhóm họp thứ năm, các ngươi phải dâng chín con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \v 27 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 28 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 29 Vào ngày nhóm họp thứ sáu, các ngươi phải dâng tám con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \v 30 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 31 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 32 Vào ngày nhóm họp thứ bảy, các ngươi phải dâng bảy con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \v 33 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 34 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 35 Vào ngày thứ tám, các ngươi phải có một buổi nhóm họp khác. Các ngươi chớ làm việc gì trong ngày đó. \v 36 Hãy dâng một của lễ thiêu bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Hãy dâng một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn. \s5 \v 37 Các ngươi phải dâng của lễ chay và các của lễ quán cho con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền. \v 38 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội bên cạnh của lễ thiêu thường niên, của lễ chay, và của lễ quán. \s5 \v 39 Đây là những của lễ các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va vào các kỳ lễ đã định. Đó phải là những của lễ ngoài những lời thề nguyện và của lễ lạc ý của các ngươi. Các ngươi phải dâng như của lễ thiêu, của lễ chay, của lễ quán, và của lễ thù ân. ” \v 40 Môi-se thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. \s5 \c 30 \p \v 1 Môi-se nói với các trưởng chi phái của dân Y-sơ-ra-ên rằng, “Đây là lời Đức Giê-hô-va đã truyền. \v 2 Khi một ai hứa nguyện với Đức Giê-hô-va, hoặc lấy lời thề ràng buộc mình với lời hứa, thì không được nuốt lời mình. Người phải giữ lời hứa và làm theo mọi điều đã ra khỏi miệng mình. \s5 \v 3 Khi một thiếu nữ sống trong nhà cha nàng có hứa nguyện với Đức Giê-hô-va và lấy lời thề ràng buộc mình với lời hứa đó, \v 4 nếu cha nàng nghe lời thề và lời hứa mà nàng đã buộc mình, và nếu cha nàng không phản đối, thì tất cả lời hứa nguyện của nàng sẽ vẫn có hiệu lực. Mỗi lời hứa mà nàng buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực. \s5 \v 5 Nhưng nếu cha nàng nghe lời thề và lời hứa của nàng, và nếu ông không nói gì, thì mọi lời thề và lời hứa mà nàng đã buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực. \s5 \v 6 Tuy nhiên, nếu cha nàng nghe mọi lời thề và lời hứa long trọng của nàng mà nàng đã buộc mình, và nếu cha nàng cấm nàng trong ngày hôm đó, thì những lời ấy sẽ không còn hiệu lực. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội cho nàng vì cha nàng cấm nàng. \v 7 Nếu nàng cưới chồng đang khi nàng còn bị ràng buộc với những lời thề đó, hoặc nếu nàng lỡ lời mà hứa bằng điều nàng ép buộc mình, thì nàng vẫn sẽ có trách nhiệm phải thực hiện. \s5 \v 8 Nhưng nếu chồng nàng không tán thành khi nghe lời đó, hủy lời thề mà nàng đã nói, tức lời mà nàng đã hấp tấp nói ra khiến mình bị buộc. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội nàng. \s5 \v 9 Nhưng đối với góa phụ hoặc phụ nữ đã ly dị, mọi lời nàng đã buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực. \v 10 Và nếu một người nữ thề trong khi có chồng - nếu nàng buộc mình bằng lời hứa với lời thề, \v 11 và chồng nàng nghe có nghe nhưng không nói gì – nếu chồng không hủy lời thề của nàng, thì mọi lời thề của nàng sẽ còn hiệu lực. Mọi lời hứa mà nàng đã buộc mình vẫn còn hiệu lực. \s5 \v 12 Nhưng nếu chồng nàng hủy những lời ấy ngay khi nghe được, thì bất cứ điều gì mà môi nàng đã khấn hứa hoặc thề sẽ không còn hiệu lực. Chồng nàng đã hủy chúng. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội nàng. \s5 \v 13 Mọi lời thề hay lời hứa mà nàng đã buộc phải tự từ bỏ điều gì đó có thể được chồng nàng tán thành hoặc hủy. \v 14 Nhưng nếu hôm sau chàng không nói gì với nàng, thì chàng tán thành mọi lời thề và lời hứa mang tính ràng buộc mà nàng đã nói. Chàng đã tán thành vì chàng không có ý kiến gì với nàng khi nghe những lời đó. \s5 \v 15 Và nếu về sau chồng nàng cố hủy lời thề của vợ mình sau khi đã nghe, thì chàng sẽ chịu trách nhiệm về tội của nàng. ” \v 16 Đây là những giới luật mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se thông báo – là những giới luật về những vấn đề giữa người nam và vợ mình và giữa người cha và con gái mình khi nàng còn thơ ấu sống ở trong nhà cha nàng. \s5 \c 31 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 2 “Hãy trả thù dân Mi-đi-an cho Y-sơ-ra-ên, rồi ngươi sẽ chết và trở về cùng tổ phụ.” \s5 \v 3 Vậy Môi-se thuật lại với dân sự. Ông nói rằng, “Anh em hãy trang bị vũ khí để ra trận đánh dân Ma-đi-an đặng báo thù dân đó cho Đức Giê-hô-va. \v 4 Mỗi chi phái trong Y-sơ-ra-ên phải gửi một ngàn lính ra trận. ” \v 5 Vậy dân Y-sơ-ra-ên tuyển một hàng ngàn lính, mỗi chi phái gửi một ngàn lính ra trận, tổng cộng có mười hai ngàn lính. \s5 \v 6 Sau đó, Môi-se sai họ ra trận, mỗi chi phái một ngàn người, ra trận cùng với Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, họ đem theo một số đồ dùng của nơi thánh và kèn có tiếng vang. \v 7 Họ tấn công dân Mi-đi-an, theo lệnh Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se. Họ giết quân thù. \v 8 Họ giết các vua Mi-đi-an cùng với những người khác: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba, là năm vua Mi-đi-an. Họ cũng dùng gươm giết Ba-la-am, con trai Bê-ô. \s5 \v 9 Quân Y-sơ-ra-ên bắt phụ nữ Mi-đi-an, trẻ em làm tù binh, họ cướp đoạt hết thảy gia súc, bầy chiên, đàn bò và của cải. \v 10 Họ phóng hỏa tất cả thành trì và trại của quân thù. \s5 \v 11 Họ cướp chiến lợi phẩm và tù nhân, cả người và động vật. \v 12 Họ đem tù nhân, của cải và những thứ thu được cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ đem đến trại ở đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô. \s5 \v 13 Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và tất cả các lãnh đạo của hội chúng ra đón họ ở bên ngoài trại. \v 14 Nhưng Môi-se giận các sĩ quan quân đội, các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn lính và sĩ quan chỉ huy hàng trăm quân, tức là những người đã ra trận. \v 15 Môi-se bảo họ, “Các ông tha mạng cho tất cả người nữ đó sao? \s5 \v 16 Kìa, những người nữ này đã theo lời khuyên của Ba-la-am, khiến dân Y-sơ-ra-ên phạm tội phản bội Đức Giê-hô-va trong vụ Phê-ô, xui cho tai vạ lan khắp hội chúng của Đức Giê-hô-va. \v 17 Vậy bây giờ, hãy giết các con trai trong số bọn con trẻ, và giết người nữ nào đã từng ngủ với người nam. \s5 \v 18 Nhưng hãy chừa lại những thiếu nữ chưa ngủvới người nam nào. \v 19 Anh em phải cắm trại bên ngoài trại của Y-sơ-ra-ên trong bảy ngày. Tất cả anh em, anh em và các tù nhân, ai có giết người hoặc đụng vào xác chết – phải tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy. \v 20 Cũng hãy làm sạch quần áo mình, những thứ làm bằng da thuộc và lông dê, và những thứ bằng gỗ.” \s5 \v 21 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ, “Đây là luật Đức Giê-hô-va ban cho Môi-se: \v 22 Vàng, bạc, đồng, sắc, thiếc, và chì, \v 23 và những thứ chịu lửa, phải được thử qua lửa, rồi chúng sẽ tinh sạch. Sau đó anh em phải thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Bất cứ vật gì không thể được đưa qua lửa phải được rửa bằng nước đó. \v 24 Anh em phải giặt quần áo mình vào ngày thứ bảy để tinh sạch và sau đó có thể vào trại Y-sơ-ra-ên.” \s5 \v 25 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, \v 26 “Hãy thống kê tất cả các chiến lợi phẩm, cả người và động vật. Ngươi, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các trưởng chi tộc trong hội chúng \v 27 phải chia chiến lợi phẩm thành hai phần. Một phần thuộc về binh lính đã chiến đấu và phần còn lại được chi cho hội chúng. \s5 \v 28 Sau đó, thu thuế của binh lính đã ra trận theo tỷ lệ là một phần năm trăm, dù là người, súc vật, lừa, chiên, hay dê. \v 29 Trích phân nửa thuế này đưa cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa để dâng cho Ta. \s5 \v 30 Cũng vậy, hãy trích từ phân nửa thuế của dân Y-sơ-ra-ên, – dù là người, gia súc, lừa, chiên, và dê. Hãy đưa cho người Lê-vi là người phụ trách đền tạm. ” \v 31 Vậy Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. \s5 \v 32 Bấy giờ chiến lợi phẩm còn lại mà binh lính đã đem về là 675. 000 con chiên, \v 33 72. 000 con bò, \v 34 61. 000 con lừa, \v 35 và 32. 000 người nữ chưa từng ngủ với người nam nào. \s5 \v 36 Một nửa còn lại được dành cho binh lính là 337. 000 con chiên. \v 37 Số chiên dâng cho Đức Giê-hô-va là 675 con. \v 38 Số bò là 36. 000, thuế dâng cho Đức Giê-hô-va là 72 con. \s5 \v 39 Lừa là 30. 500 con, thuế dâng cho Đức Giê-hô-va là 61 con. \v 40 Có 16. 000 người nữ, trong đó có 32 người được dâng cho Đức Giê-hô-va. \v 41 Môi-se nhận phần thuế được dâng cho Đức Giê-hô-va. Ông trao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, như lệnh Đức Giê-hô-va đã truyền. \s5 \v 42 Một nửa dành cho dân Y-sơ-ra-ên mà Môi-se đã nhận từ binh lính ra trận, \v 43 một nửa của hội chúng gồm 337. 500 con chiên, \v 44 36. 000 con bò, \v 45 30. 500 con lừa, \v 46 và 16. 000 người nữ. \s5 \v 47 Môi-se trích một phần năm mươi từ phân nửa của Y-sơ-ra-ên, gồm người và động vật. Ông giao cho người Lê-vi là những người phụ trách đền tạm của Đức Giê-hô-va, theo lời Ngài phán. \s5 \v 48 Sau đó các tướng lĩnh quân đội, các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân, đến gặp Môi-se. \v 49 Họ nói với ông, “Tôi tớ của ông đã thống kê binh lính dưới quyền của chúng tôi thì thấy không thiếu một ai cả. \s5 \v 50 Chúng tôi đã dâng cho Đức Giê-hô-va những thứ mà chúng tôi tìm thấy, các đồ dùng bằng vàng, vòng cổ tay, xuyến, nhẫn, bông tai, và vòng đeo cổ, đặng chuộc tội cho chúng tôi trước mặt Đức Giê-hô-va. ” \v 51 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận vàng và mọi đồ thủ công từ tay họ. \s5 \v 52 Tổng số lễ vật bằng vàng mà họ dâng cho Đức Giê-hô-va – gồm các lễ vật từ các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân – nặng 16. 750 siếc-lơ. \v 53 Mỗi binh lính đã cướp chiến lợi phẩm cho chính mình. \v 54 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận vàng từ các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân. Họ đem vào lều hội họp để làm vật nhắc dân Y-sơ-ra-ên nhớ đến Đức Giê-hô-va. \s5 \c 32 \p \v 1 Bấy giờ con cháu Ru-bên và con cháu Gát có nhiều đàn gia súc. Họ thấy xứ Gia-xe và Ghi-lê-át, là nơi xứ tuyệt vời cho bầy gia súc. \v 2 Vậy con cháu Gát và Ru-bên đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các lãnh đạo của hội chúng. Họ thưa rằng, \v 3 “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-xe, Nim-ra, Hẹt-bôn, Ê-lê-a-lê, Sê-bam, Nê-bô, và Bê-ôn, \s5 \v 4 tức những xứ mà Đức Giê-hô-va đã đánh trước mặt hội chúng Y-sơ-ra-ên, đều là những nơi tốt tươi cho bầy gia súc. Chúng tôi, tôi tớ của các ông, có nhiều bầy gia súc. ” \v 5 Họ nói, “Nếu chúng tôi được ơn trước mặt các ông, xin ban xứ này cho chúng tôi, là tôi tớ của các ông, để làm sản nghiệp. Đừng biểu chúng tôi qua bên kia sông Giô-đanh.” \s5 \v 6 Môi-se trả lời các con cháu Gát và Ru-bên, “Anh em anh em sẽ phải ra trận trong khi anh em ở lại đây sao? \v 7 Tại sao anh em gây cho dân Y-sơ-ra-ên nản lòng không muốn vào xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho họ? \s5 \v 8 Cha ông anh em đã phạm điều tương tự khi tôi sai họ từ Ca-đe Ba-nê-a đi do thám xứ. \v 9 Họ đến thung lũng Ếch-côn. Họ nhìn thấy xứ ấy rồi làm nản chí dân Y-sơ-ra-ên đặng dân chúng không muốn vào xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho họ. \s5 \v 10 Hôm đó Đức Giê-hô-va nổi cơn thịnh nộ. Ngài thề và phán rằng, \v 11 ‘Chắc chắn không một ai trong số những người đã ra khỏi Ai Cập, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ thấy xứ mà Ta đã thề cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, vì chúng hoàn toàn không theo Ta, ngoại trừ \v 12 Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai của Nun. Chỉ có Ca-lép và Giô-suê là hoàn toàn theo Ta.’ \s5 \v 13 Vậy cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài khiến họ đi lang thang trong hoang mạc suốt bốn mươi năm cho đến khi toàn bộ thế hệ làm điều ác trước mặt Ngài bị tiêu diệt. \v 14 Kìa, anh em đã nổi lên thay cha ông mình, y như những con người đầy tội lỗi hơn, gia thêm cơn giận đang cháy bừng của Đức Giê-hô-va trên Y-sơ-ra-ên. \v 15 Nếu anh em từ bỏ Ngài, Ngài lại sẽ rời bỏ Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc, và như thế anh em sẽ hủy phá cả dân này.” \s5 \v 16 Vậy họ đến gần Môi-se và nói, “Xin cho phép chúng tôi xây hàng rào ở đây cho bầy gia súc chúng tôi và xây thành phố cho gia đình chúng tôi. \v 17 Tuy nhiên, chính chúng tôi sẵn sàng và ra trận với quân đội Y-sơ-ra-ên cho đến khi chúng tôi đem họ vào trong xứ. Nhưng gia đình chúng tôi sẽ sống trong những thành trì kiên cố vì cớ những dân bản xứ vẫn còn đó. \s5 \v 18 Chúng tôi sẽ không trở về nhà mình cho đến khi toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên nhận được sản nghiệp của mình. \v 19 Chúng tôi sẽ không thừa hưởng xứ đó với họ bên kia sông Giô-đanh, vì sản nghiệp của chúng tôi ở bên này, là phía đông sông Giô-đanh.” \s5 \v 20 Vậy Môi-se trả lời họ, “Nếu anh em làm điều mình nói, nếu anh em cầm binh khí ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va, \v 21 thì tất cả anh em phải cầm binh khí vượt sông trước mặt Đức Giê-hô-va, cho đến chừng nào Ngài đã đuổi hết quân thù của Ngài khuất mắt Ngài \v 22 và xứ đó bị khuất phục trước mặt Ngài. Sau đó, anh em có thể trở về. Anh em sẽ vô tội đối với Đức Giê-hô-va và Y-sơ-ra-ên. Xứ này sẽ là sản nghiệp của anh em trước mặt Đức Giê-hô-va. \s5 \v 23 Nhưng nếu anh em không làm theo, thì khi đó anh em sẽ mắc tội đối với Đức Giê-hô-va. Chắc chắn tội lỗi anh em sẽ đổ lại trên quý vị. \v 24 Hãy xây thành cho gia đình anh em và các ràn cho bầy chiên của quý vị; rồi hãy làm điều anh em đã nói. ” \v 25 Con cháu Gát và Ru-bên thưa với Môi-se rằng, “Tôi tớ ông sẽ tuân theo lệnh ông, là chủ của chúng tôi. \s5 \v 26 Con cái chúng tôi, vợ chúng tôi, gia súc của chúng tôi, và tất cả bầy gia súc sẽ ở trong các thành của xứ Ghi-lê-át. \v 27 Tuy nhiên, chúng tôi, tôi tớ của ông, sẽ băng qua bên kia sông trước mặt Đức Giê-hô-va đặng đánh trận, mỗi người sẽ cầm binh khí ra trận, theo như lời ông, là chủ của chúng tôi, đã nói.” \s5 \v 28 Vậy Môi-se hướng dẫn cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun, và các trưởng tộc trong các chi phái của Y-sơ-ra-ên về những người đó. \v 29 Môi-se nói cùng họ, “Nếu con cháu Gát và Ru-bên băng qua sông Giô-đanh cùng quý vị, là những người cầm binh khí ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va, và nếu xứ đó khuất phục trước mặt quý vị, thì anh emhãy ban xứ Ghi-lê-át cho họ làm sản nghiệp. \v 30 Nhưng nếu họ không cầm binh khí vượt sông Giô-đanh cùng quý vị, họ sẽ nhận sản nghiệp với anh emtrong xứ Ca-na-an.” \s5 \v 31 Vậy con cháu Gát và Ru-bên trả lời rằng, “Như lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng chúng tôi, là tôi tớ của ông, đây là điều chúng tôi sẽ thực hiện. \v 32 Chúng tôi sẽ cầm binh khí băng qua sông Giô-đanh trước mặt Đức Giê-hô-va vào trong xứ Ca-na-an, nhưng sản nghiệp của chúng tôi sẽ vẫn thuộc về chúng tôi ở bên này sông Giô-đanh.” \s5 \v 33 Vậy Môi-se ban vương quốc của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và nước của Óc, vua Ba-san, cho con cháu Gát và Ru-bên, cùng một nửa chi phái Ma-na-se, con trai Giô-sép. Ông ban cho họ xứ ấy, và phân chia cho họ tất cả các thành trong xứ cùng các vùng biên giới, các thành phố của xứ xung quanh họ. \s5 \v 34 Con cháu Gát xây dựng lại Đi-bôn, A-ta-rốt, A-rô-e, \v 35 A-trốt Sô-phan, Gia-xe, Gióp-bê-ha, \v 36 Bết Nim-ra, và Bết Ha-ran thành những thành trì vững chắc có đồn điền cho bầy chiên mình. \s5 \v 37 Con cháu Ru-bên xây dựng lại Hẹt-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-át-ha-im, \v 38 Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn – tên của các thành này về sau đã được đổi, và Síp-ma. Họ đặt lại tên cho các thành phố mà họ đã xây dựng lại. \v 39 Con cháu Ma-kia, con trai Ma-na-se, đến Ghi-lê-át và chiếm thành đó từ tay dân A-mô-rít. \s5 \v 40 Vậy Môi-se ban xứ Ghi-lê-át cho Ma-kia, con trai Ma-na-se, và con cháu ông ở lại đó. \v 41 con trai Ma-na-se, ra đi và đánh chiếm các thành trong xứ đó và đặt tên là Ha-vốt Giai-rơ. \v 42 Nốp-ba ra đi và chiếm thành Kê-nát và các làng mạc của nó, ông lấy tên mình là Nốp-ba đặt cho thành đó. \s5 \c 33 \p \v 1 Đây là các cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên sau khi rời khỏi xứ Ai Cập theo các nhóm vũ trang dưới sự lãnh đạo của Môi-se và A-rôn. \v 2 Bởi lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, Môi-se ghi lại những nơi mà họ đã khởi hành và hạ trại. Đây là những chặng đường của họ, theo từng điểm khởi hành. \s5 \v 3 Ngày mười lăm tháng giêng, họ khởi hành từ Ram-se. Vào buổi sáng sau Lễ Vượt qua, dân Y-sơ-ra-ên rời đi cách công khai trước mặt dân Ai Câp. \v 4 Dân sự ra đi đang khi người Ai Cập chôn cất con đầu lòng của họ mà Đức Giê-hô-va giết chết, Ngài cũng đoán phạt các thần của họ. \s5 \v 5 Dân Y-sơ-ra-ên khởi hành từ Ram-se và cắm trại tại Su-cốt. \v 6 Họ nhổ trại rời Su-cốt và cắm trại tại Ê-tham, giáp ranh hoang mạc. \v 7 Họ nhổ trại rời Ê-tham và trở lại Phi Ha-ri-ốt, đối ngang Ba-anh Xê-phôn, là nơi họ cắm trại đối diện Mích-đôn. \s5 \v 8 nhổ trại rời Phi Ha-hi-rốt và băng qua biển đi vào hoang mạc. Họ đi suốt ba ngày trong hoang mạc Ê-tham và cắm trại tại Ma-ra. \v 9 nhổ trại rời Ma-ra và đến Ê-lim. Tại Ê-lim có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Họ cắm trại tại đó. \v 10 Họ nhổ trại rời Ê-lim và cắm trại ở biển Sậy. \s5 \v 11 Họ nhổ trại rời biển Sậy và cắm trại ở hoang mạc Sin. \v 12 Họ nhổ trại rời hoang mạc Sin và cắm trại tại Đô-pha-ca. \v 13 Họ nhổ trại rời Đô-pha-ca và cắm trại tại A-lút. \v 14 Họ nhổ trại rời A_lút và cắm trại tại Rê-phi-đim, là nơi dân sự không tìm thấy nước uống. \s5 \v 15 Họ nhổ trại rời Rê-phi-đim và cắm trại trong hoang mạc Si-nai. \v 16 Họ nhổ trại rời hoang mạc Si-nai và cắm trại tại Kíp-rốt Hát-ta-a-va. \v 17 Họ nhổ trại rời Kíp-rốt Hát-ta-a-va và cắm trại tại Ha-xê-rốt. \v 18 Họ nhổ trại rời Ha-xê-rốt và cắm trại tại Rít-ma. \s5 \v 19 Họ nhổ trại rời Rít-ma và cắm trại tại Rim-môn Phê-rê. \v 20 Họ nhổ trại rời Rim-môn Phê-rê và cắm trại tại Líp-na. \v 21 Họ nhổ trại rời Líp-na và cắm trại tại Ri-sa. \v 22 Họ nhổ trại rời Ri-sa và cắm trại tại Kê-hê-la-tha. \s5 \v 23 Họ nhổ trại rời Kê-hê-la-tha và cắm trại tại Núi Sê-phe. \v 24 Họ nhổ trại rời Núi Sê-phe và cắm trại tại Ha-ra-đa. \v 25 Họ nhổ trại rời Ha-ra-đa và cắm trại tại Ma-kê-lốt. \v 26 Họ nhổ trại rời Ma-kê-lốt và cắm trại tại Ta-hát. \s5 \v 27 Họ nhổ trại rời Ta-hát và cắm trại tại Tê-ra. \v 28 Họ nhổ trại rời Tê-ra và cắm trại tại Mích-ca. \v 29 Họ nhổ trại rời Mích-ca và cắm trại tại Hách-mô-na. \v 30 Họ nhổ trại rời Hách-mô-na và cắm trại tại Mô-sê-rốt. \s5 \v 31 Họ nhổ trại rời Mô-sê-rốt và cắm trại tại Bê-ne Gia-a-can. \v 32 Họ nhổ trại rời Bê-ne Gia-a-can và cắm trại tại Hô-rơ Ha-ghi-đát. \v 33 Họ nhổ trại rời Hô-rơ Ha-ghi-đát và cắm trại tại Giọt-ba-tha. \v 34 Họ nhổ trại rời Giọt-ba-tha và cắm trại tại Áp-rô-na. \s5 \v 35 Họ nhổ trại rời Áp-rô-na và cắm trại tại Ê-xi-ôn Ghê-be. \v 36 Họ nhổ trại rời Ê-xi-ôn Ghê-be và cắm trại trong hoang mạc Sin ở Ca-đe. \v 37 Họ nhổ trại rời Ca-đe và cắm trại tại Núi Hô-rơ, ở rìa xứ Ê-đôm. \s5 \v 38 Thầy tế lễ A-rôn lên Núi Hô-rơ theo lệnh của Đức Giê-hô-va và qua đời trên đó vào ngày một tháng năm, năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khởi xứ Ai Cập. \v 39 A-rôn thọ 123 tuổi khi ông qua đời trên Núi Hô-rơ. \s5 \v 40 Người Ca-na-an, vua của A-rát, ở phía nam hoang mạc trong xứ Ca-na-an, có nghe về việc dân Y-sơ-ra-ên sắp đến. \s5 \v 41 Họ nhổ trại rời Núi Hô-rơ và cắm trại tại Xanh-mô-na. \v 42 Họ nhổ trại rời Xanh-mô-na và cắm trại tại Phu-nôn. \v 43 Họ nhổ trại rời Phu-nôn và cắm trại tại Ô-bốt. \s5 \v 44 Họ nhổ trại rời Ô-bốt và cắm trại tại Y-giê A-ba-rim, ở biên giới Mô-áp. \v 45 Họ nhổ trại rời Y-giê A-ba-rim và cắm trại tại Đi-bôn Gát. \v 46 Họ nhổ trại rời Đi-bôn Gát và cắm trại tại Anh-môn Đíp-la-tha-im. \s5 \v 47 Họ nhổ trại rời Anh-môn Đíp-la-tha-im và cắm trại ở vùng núi A-ba-rim, đối ngang Nê-bô. \v 48 Họ nhổ trại rời vùng núi A-ba-rim và cắm trại ở đồng bằng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô. \v 49 Họ cắm trại gần sông Giô-đanh, từ Bết Giê-si-mốt đến A-bên Si-tim trong đồng bằng Mô-áp. \s5 \v 50 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô rằng, \v 51 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Khi các ngươi qua sông Giô-đanh tiến vào đất Ca-na-an, \v 52 các ngươi phải đuổi hết cư dân trong xứ khuất mắt ngươi. Các ngươi phải phá hủy tất cả các hình tượng chạm của chúng. Hãy phá hủy tất cả các tượng đúc và tiêu hủy các miễu thờ của chúng. \s5 \v 53 Các ngươi phải chiếm xứ và ở tại đó, vì Ta đã ban cho các ngươi xứ này. \v 54 Các ngươi sẽ hưởng xứ ấy bằng cách bốc thăm theo từng thị tộc. Thị tộc nào đông dân hơn thì các ngươi phải cho xứ rộng hơn, và thị tộc nào ít dân hơn thì các ngươi phải cho xứ nhỏ hơn. Thị tộc nào bốc được lá thăm ở nơi nào thì nơi đó sẽ thuộc về họ. Các ngươi sẽ hưởng xứ ấy theo chi phái của tổ phụ mình. \s5 \v 55 Nhưng nếu các ngươi không đuổi hết cư dân trong xứ khuất mắt mình, thì dân mà các ngươi để cho sống sẽ trở thành dân lố lăng trong mắt các ngươi và gai bên hông các ngươi. Chúng sẽ gây phiền toái cho các ngươi khi sống trong xứ đó. \v 56 Khi đó, Ta cũng sẽ đối xử với các ngươi như Ta sắp đối xử với chúng. ’” \s5 \c 34 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy, ‘Khi các ngươi vào xứ Ca-na-an, là xứ sẽ thuộc về các ngươi, tức xứ Ca-na-an và biên giới của xứ, \v 3 thì biên giới phía nam của các ngươi sẽ kéo dài từ hoang mạc Sin theo biên giới Ê-đôm. Về phía đông, biên giới phía nam sẽ trải dài đến tận cuối phía nam của Biển Muối. \s5 \v 4 Biên giới của các ngươi sẽ vòng xuống phía nam từ núi Ạc-ráp-bim và băng ngang qua hoang mạc Sin. Từ đó, nó sẽ kéo dài xuống phía nam Ca-đe Ba-nê-a và dài đến tận Ha-xa A-đa và ngang qua A-xơ-môn. \v 5 Từ A-xơ-môn, biên giới sẽ kéo dài đến suối Ai Cập và chạy dọc theo suối ra biển. \s5 \v 6 Biên giới phía tây sẽ là vùng duyên hải Biển Lớn. Đây sẽ là biên giới phía tây của các ngươi. \s5 \v 7 giới phía nam sẽ trải dài theo đường mà các ngươi phải vạch từ Biển Lớn đến Núi Hô-rơ, \v 8 sau đó từ Núi Hô-rơ chạy đến Lê-bô Ha-mát, và đến Xê-đa. \v 9 Biên giới sẽ tiếp tục chạy dài đến Xíp-rôn và kết thúc tại Ha-xa Ê-nan. Đây sẽ là biên giới phía bắc của các ngươi. \s5 \v 10 Các ngươi phải đánh dấu biên giới phía đông của các ngươi từ Ha-xa Ê-nan về phía nam ở Sê-pham. \v 11 Biên giới phía đông sẽ kéo dài từ Sê-pham đến Ríp-la, về phía đông A-in. Biên giới sẽ tiếp tục chạy dài giáp phía đông biển Kin-nê-rết. \v 12 Rồi nó tiếp tục chạy dài về phía nam dọc theo sông Giô-đanh đến Biển Muối và tiếp tục kéo xuống biên giới phía nam Biển Muối. Đây sẽ là xứ của các ngươi, tính theo các đường biên giới xung quanh. ’” \s5 \v 13 Vậy Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng, “Đây là xứ mà anh emsẽ nhận bằng cách bốc thăm, theo như lệnh của Đức Giê-hô-va đã truyền ban cho chín chi phái rưỡi. \v 14 Chi phái Ru-bên, tùy theo phần gia nghiệp của họ, và chi phái Gát, tùy theo phần gia nghiệp của họ, và một nửa chi phái Ma-na-se đều đã nhận xứ của họ. \v 15 Hai chi phái đó và nửa chi phái này đã lãnh xứ được cho bên kia sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô về phía đông, tức hướng mặt trời mọc.” \s5 \v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 17 “Đây là tên những người sẽ chia xứ cho các ngươi làm sản nghiệp: thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và Giô-suê, con trai của Nun. \v 18 Các ngươi phải chọn mỗi chi phái một lãnh đạo để chia xứ theo thị tộc. \s5 \v 19 Đây là tên những người đó: Về chi phái Giu-đa có Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. \v 20 Về chi phái Si-mê-ôn, có Sê-mu-ên, con trai A-mi-hút. \s5 \v 21 Về chi phái Ben-gia-min, có Ê-li-đát, con trai Kích-lôn. \v 22 Về chi phái Đan, có lãnh đạo Búc-ki, con trai Gióp-li. \v 23 Về con cháu Giô-sép, tức chi phái Ma-na-se, có lãnh đạo Ha-ni-ên, con trai Ê-phốt. \s5 \v 24 Về phía con cháu Ép-ra-im, có Kê-mu-ên, con trai Síp-tan, \v 25 Về chi phái Sa-bu-lôn, có lãnh đạo Ê-li-xa-phan, con trai Pha-nách. \v 26 Về chi phái Y-sa-ca, có lãnh đạo Pha-ti-ên, con trai A-xan. \s5 \v 27 Về chi phái A-se, có lãnh đạo A-hi-hút, con trai Sê-lô-mi. \v 28 Về chi phái Nép-ta-li, có lãnh đạo Phê-đa-ên, con trai A-mi-hút. ” \v 29 Đức Giê-hô-va truyền những người này chia xứ Ca-na-an cho từng chi phái trong Y-sơ-ra-ên. \s5 \c 35 \p \v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se ở đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô, \v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên ban một phần sản nghiệp mình trong xứ cho người Lê-vi. Họ phải cho người Lê-vi các thành phố để ở và đồng cỏ xung quanh các thành đó. \s5 \v 3 Người Lê-vi sẽ ở trong các thành này. Đồng cỏ sẽ được dành cho thú nuôi, gia súc, và tất cả các con vật của họ. \v 4 Đồng cỏ xung quanh các thành mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ có chu vi là một ngàn cu-bít tính từ các bức tường thành. \s5 \v 5 Về phía đông là hai ngàn cu-bít tính từ bên ngoài thành, và hai ngàn cu-bít về phía nam, hai ngàn cu-bít về phía tây, và hai ngàn cu-bít về phía bắc. Đây sẽ là các đồng cỏ dành cho thành phố của họ. Các thành phố ấy sẽ nằm ở trung tâm. \s5 \v 6 Sáu thành mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ được dùng làm thành ẩn náu, tức là nơi kẻ sát nhân có thể lẩn tránh. Cũng hãy cho thêm bốn mươi hai thành nữa. \v 7 Tổng cộng các ngươi sẽ cho người Lê-vi bốn mươi tám thành phố. Phải cho họ các đồng cỏ xung quanh những thành đó. \s5 \v 8 Những chi phái đông dân trong Y-sơ-ra-ên, tức những chi phái nào có nhiều đất hơn, phải cho nhiều thành hơn. Chi phái nào ít dân hơn sẽ cho ít thành hơn. Mỗi chi phái phải cho người Lê-vi tùy theo phần đất mình đã nhận.” \s5 \v 9 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng, \v 10 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ‘Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh tiến vào xứ Ca-na-an, \v 11 các ngươi phải chọn các thành phố làm thành ẩn náu cho mình, để nếu ai vô tình phạm tội sát nhân thì có thể lẩn tránh ở đó. \s5 \v 12 Các thành này phải là nơi lẩn tránh khỏi kẻ báo thù, để tội nhân sẽ không bị giết trước khi bị xét xử trước hội chúng. \v 13 Hãy chọn sáu thành phố làm thành ẩn náu. \s5 \v 14 Các ngươi phải cho ba thành phố bên kia sông Giô-đanh và ba thành phố trong xứ Ca-na-an. Đó sẽ là những thành ẩn náu. \v 15 Đối với dân Y-sơ-ra-ên, người ngoại quốc, và bất kỳ ai sống giữ các ngươi, sáu thành này sẽ là thành ẩn náu cho bất kỳ ai vô tình giết người có thể lẩn tránh. \s5 \v 16 Nhưng nếu ai dùng một vật bằng sắt đánh nạn nhân, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thực sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử. \v 17 Nếu ai cầm cục đá đánh nạn nhân đến nỗi đoạt mạng, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thật sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử. \v 18 ai dùng một vũ khí bằng gỗ đánh nạn nhân đến nỗi đoạt mạng người đó, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thật sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử. \s5 \v 19 Chính người đòi nợ máu có thể giết kẻ sát nhân. Người có thể giết chết nó nếu gặp. \v 20 Nhưng nếu ai vì lòng ghen ghét mà cư xử thô bạo với người khác hoặc ném vật gì vào người đó khi phục kích, khiến nạn nhân tử vong, \v 21 hoặc nếu vì lòng ghen ghét mà vung tay đánh đến nỗi nạn nhân chết, thì nó phải bị xử tử. Đó là kẻ sát nhân. Người báo thù huyết có thể giết chết kẻ sát nhân nếu gặp. \s5 \v 22 Nhưng nếu ai bỗng dưng đánh trúng nạn nhân mà không có chủ tâm ghét hoặc ném vật gì vào nạn nhân \v 23 hoặc nếu ném một cục đá làm nạn nhân chết mà trước đó không nhìn thấy nạn nhân, thì người đó không phải là kẻ thù của nạn nhân; người không cố ý hại nạn nhân. Nhưng nếu dù thế nào đi nữa mà nạn nhân tử vong, \s5 \v 24 thì trong trường hợp đó, hội chúng phải phân xử giữa bị cáo và người báo thù huyết chiếu theo các luật này. \v 25 Hội chúng phải cứu bị cáo khỏi tay của người báo thù huyết. Họ phải đưa bị cáo đến thành ẩn náu mà trước đó người đã đến lẩn tránh. Kẻ ấy phải sống ở đó cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm hiện tại qua đời, tức là người được xức bằng dầu thánh. \s5 \v 26 Nhưng nếu bất cứ lúc nào bị cáo ra khỏi ranh giới của thành ẩn náu mà mình đang ở, \v 27 và nếu người báo thù huyết bắt gặp nó ở bên ngoài ranh giới thành ẩn náu, và giết bị cáo, thì người báo thù huyết sẽ không mắc tội sát nhân. \v 28 Ấy là lẽ ra bị cáo phải ở lại trong thành ẩn náu của mình cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời. Sau khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời, bị cáo có thể trở về xứ có sản nghiệp của mình. \s5 \v 29 Đây là những luật thánh cho các ngươi và con cháu các ngươi khi sống trong xứ. \v 30 Ai giết người, thì kẻ sát nhân đó phải bị xử tử, dựa theo lời chứng của các nhân chứng. Tuy nhiên chỉ có một nhân chứng làm chứng thì không đủ bằng chứng để xử tử người đó. \s5 \v 31 Ngoài ra, các ngươi không được phép nhận tiền chuộc mạng của kẻ phạm tội giết người. Nó phải bị xử tử. \v 32 Các ngươi chớ nhận tiền chuộc mạng của kẻ lẩn tránh ở thành ẩn náu. Chớ cho phép nó cư trú trong xứ sản nghiệp của nó cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời. \s5 \v 33 Chớ làm ô uế xứ của các ngươi, vì huyết của kẻ sát nhân làm ô uế xứ. Không gì có thể tẩy sạch xứ một khi đã đổ huyết, ngoại trừ huyết của kẻ sát nhân. \v 34 Vậy các ngươi chớ làm ô uế xứ mình vì Ta ngự ở đó. Ta, Đức Giê-hô-va, là Đấng ở cùng dân Y-sơ-ra-ên. ’” \s5 \c 36 \p \v 1 Bấy giờ, các trưởng tộc thuộc thị tộc của Ghi-lê-át, con trai Ma-kia, cháu Ma-na-se – tức là các trưởng thị tộc của con cháu Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se và các lãnh đạo là những trưởng tộc trong dân Y-sơ-ra-ên. \v 2 nói rằng, “Thưa chủ, Đức Giê-hô-va đã bảo ông chia đất cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp bằng cách bốc thăm. Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông phải chia phần của anh em chúng tôi là Xê-lô-phát cho các con gái của người. \s5 \v 3 Nhưng nếu các nàng ấy cưới chồng ở những chi phái khác trong dân Y-sơ-ra-ên, thì phần sản nghiệp của họ sẽ bị loại khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi. Phần đó sẽ được nhập vào phần sản nghiệp của các chi phái mà họ làm vợ. Trong trường hợp đó, sản nghiệp ấy sẽ bị lấy khỏi sản nghiệp của chúng tôi. \v 4 Như vậy, đến năm hân hỉ của dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của họ sẽ được thêm vào sản nghiệp của chi phái mà họ làm vợ. Do đó, sản nghiệp của họ sẽ bị lấy ra khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi.” \s5 \v 5 Vậy Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lời của Đức Giê-hô-va. Ông nói rằng, “Điều mà con cháu của Giô-sép nói là đúng. \v 6 Đây là lời Đức Giê-hô-va truyền về các con gái của Xê-lô-phát. Ngài phán, ‘Hãy để họ cưới người nào mà họ ưng ý nhất, nhưng chỉ được cưới người trong chi phái của cha mình.’ \s5 \v 7 Sẽ không có sản nghiệp nào của dân Y-sơ-ra-ên bị chuyển từ chi phái này sang chi phái kia. Mỗi người Y-sơ-ra-ên phải luôn giữ sản nghiệp của chi phái tổ phụ mình. \s5 \v 8 Người nữ trong Y-sơ-ra-ên có phần sản nghiệp trong chi phái mình phải cưới chồng thuộc các thị tộc trong chi phái của tổ phụ mình. Các ngươi phải làm như vậy để mỗi người dân Y-sơ-ra-ên được giữ sản nghiệp của tổ phụ mình. \v 9 Sẽ không có sản nghiệp nào bị chuyển từ chi phái này sang chi phái khác. Các chi phái trong Y-sơ-ra-ên phải giữ sản nghiệp mình.” \s5 \v 10 Vậy các con gái của Xê-lô-phát làm theo lời Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se. \v 11 Mác-la, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca, và Nô-a, tức các con gái của Xê-lô-phát, cưới con cháu của Ma-na-se. \v 12 Họ cưới chồng thuộc các thị tộc của con cháu Ma-na-se, con trai Giô-sép. Như vậy, sản nghiệp của họ vẫn thuộc về chi phái của tổ phụ mình. \s5 \v 13 Đây là những mệnh lệnh và luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên trong đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.