OT books converted

This commit is contained in:
Larry Versaw 2018-04-11 15:39:32 -06:00
parent 19aad5f859
commit 3979177ee2
41 changed files with 46232 additions and 7 deletions

2908
01-GEN.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2908 @@
\id GEN
\ide UTF-8
\h SÁNG THẾ
\toc1 SÁNG THẾ
\toc2 SÁNG THẾ
\toc3 gen
\mt SÁNG THẾ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Ban đầu Đức Chúa Trời tạo dựng trời và đất.
\v 2 Đất chưa có hình dạng và còn trống không. Bóng tối bao phủ trên bề mặt của vực thẳm. Thần Linh của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.
\s5
\v 3 Đức Chúa Trời phán: “Phải có ánh sáng, ” thì có ánh sáng.
\v 4 Đức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt lành. Ngài phân ánh sáng khỏi bóng tối.
\v 5 Đức Chúa Trời gọi ánh sáng là “ngày, ” còn bóng tối Ngài gọi là “đêm. ” Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ nhất.
\s5
\v 6 Đức Chúa Trời phán: “Phải có khoảng không giữa các vùng nước, để phân chia nước với nước. ”
\v 7 Đức Chúa Trời làm ra khoảng không, chia ra nước ở dưới khoảng không với nước ở trên khoảng không. Việc có như vậy.
\v 8 Đức Chúa Trời gọi khoảng không ấy là “bầu trời. ” Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ hai.
\s5
\v 9 Đức Chúa Trời phán: “Nước ở dưới bầu trời phải gom lại một chỗ, và phải có đất khô bày ra. Việc xảy ra như vậy.
\v 10 Đức Chúa Trời gọi chỗ đất khô là “đất, ” còn các vùng nước đã gom lại đó Ngài gọi là “biển. ” Ngài thấy điều đó tốt lành.
\s5
\v 11 Đức Chúa Trời phán: “Từ đất phải mọc lên cây cỏ: cỏ kết hạt, cây ăn trái thì kết quả có hạt giống trong trái, mỗi thứ tùy theo loại của mình. ” Việc xảy ra như vậy.
\v 12 Đất sinh ra cây cỏ, cỏ sinh hạt giống theo loại của chúng, còn cây thì sinh trái có hạt bên trong, cũng theo loại của chúng. Đức Chúa Trời thấy việc ấy là tốt lành.
\v 13 Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ ba.
\s5
\v 14 Đức Chúa Trời phán: “Phải có các vì sáng ở trên trời để phân ra ngày và đêm. Và chúng sẽ làm dấu hiệu chỉ mùa, ngày và năm.
\v 15 Chúng sẽ là các vì sáng trên trời chiếu rọi xuống đất. ” Việc xảy ra như vậy.
\s5
\v 16 Đức Chúa Trời làm ra hai vì sáng lớn, vì lớn hơn cai trị ban ngày, còn vì nhỏ hơn thì cai trị ban đêm. Ngài cũng làm ra các ngôi sao.
\v 17 Đức Chúa Trời đặt chúng trên bầu trời để chiếu ánh sáng xuống đất,
\v 18 để cai trị ban ngày và ban đêm, và để phân ra ánh sáng với bóng tối. Đức Chúa Trời thấy việc ấy là tốt lành.
\v 19 Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ tư.
\s5
\v 20 Đức Chúa Trời phán: “Nước phải có đầy các đàn sinh vật, và chim phải bay trên đất trong khoảng không của bầu trời. ”
\v 21 Đức Chúa Trời tạo dựng các sinh vật biển to lớn cũng như mọi loài sinh vật theo loại của chúng, các sinh vật biết di chuyển có đầy trong các vùng nước, cùng mọi loài chim có cánh theo loại của chúng. Đức Chúa Trời thấy điều ấy là tốt lành.
\s5
\v 22 Đức Chúa Trời ban phước cho chúng, rằng: “Hãy sinh sôi nẩy nở và làm cho đầy các vùng nước dưới biển. Chim thì phải sinh sôi trên đất.
\v 23 Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ năm.
\s5
\v 24 Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật, mỗi thứ tùy theo loại của chúng, nào súc vật, loài bò sát và các loài thú của đất, mỗi thứ tùy theo loại. ” Việc xảy ra như vậy.
\v 25 Đức Chúa Trời làm ra các loài thú của đất theo loại của chúng, gia súc theo loại của chúng, và mọi thứ bò dưới đất theo loại của chúng. Ngài thấy điều đó là tốt lành.
\s5
\v 26 Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta. Họ sẽ thống trị cá dưới biển, chim trên trời, gia súc, cả trái đất, và mọi loài bò sát bò dưới đất. ”
\v 27 Đức Chúa Trời tạo dựng con người theo hình ảnh của chính Ngài. Theo hình ảnh mình mà Ngài dựng nên con người. Ngài tạo dựng họ, người nam và người nữ.
\s5
\v 28 Đức Chúa Trời ban phước cho và phán cùng họ: “Hãy sinh sôi nẩy nở. Hãy đầy dẫy đất, khiến đất phải phục tùng. Hãy thống trị cá dưới biển, các loài chim trên trời, và mọi sinh vật di chuyển trên đất. ”
\v 29 Đức Chúa Trời phán: “Này, Ta đã cho các con mọi thứ rau cỏ kết hạt trên khắp mặt đất, cùng mọi loại cây sinh quả có hạt giống bên trong. Đó sẽ là thức ăn cho các con.
\s5
\v 30 Đối với mọi loài thú của đất, mọi loài chim trên trời, và mọi vật bò dưới đất, cùng mọi loài sinh vật có hơi thở sự sống, thì Ta đã cho mọi thứ cỏ xanh làm thức ăn. ” Việc xảy ra như vậy.
\v 31 Đức Chúa Trời thấy mọi việc Ngài đã làm; chúng thật tốt lành. Đó là buổi chiều và buổi mai, ngày thứ sáu.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Vậy là trời và đất hoàn tất, cùng với mọi sinh vật sống ở đó.
\v 2 Vào ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời chấm dứt công việc Ngài đã thực hiện, nên Ngài nghỉ hết mọi công việc mình vào ngày thứ bảy.
\v 3 Đức Chúa Trời ban phước cho ngày thứ bảy và biệt ngày ấy ra thánh, vì vào ngày này Đức Chúa Trời nghỉ hết mọi công việc Ngài đã thực hiện trong công cuộc sáng tạo.
\s5
\v 4 Đây là những việc xảy ra liên quan đến trời và đất, khi chúng được tạo ra, trong ngày mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời dựng nên đất, trời.
\v 5 Vẫn chưa có bụi cây đồng nào trên đất, cũng chưa có cây cối gì ngoài đồng đâm chồi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chưa khiến mưa xuống đất và chưa có người làm đất.
\v 6 Nhưng có sương mù dưới đất bay lên tưới khắp mặt đất.
\s5
\v 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên con người, hà hơi sống vào lỗ mũi, và người trở thành một sinh vật.
\v 8 Giê-hô-va Đức Chúa Trời trồng một khu vườn ở phía đông, tại Ê-đen, rồi Ngài đặt ở đó con người mà Ngài đã nắn nên.
\s5
\v 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến từ đất mọc lên mọi thứ cây cối trông đẹp mắt, ăn ngon. Có cả cây sự sống ở giữa vườn, và cây phân biệt thiện-ác.
\v 10 Có một dòng sông từ Ê-đen chảy ra tưới vườn. Từ đó, nó chia nhánh ra thành bốn con sông.
\s5
\v 11 Tên của sông thứ nhất là Bi-sôn. Đây là con sông chảy khắp vùng Ha-vi-la, nơi có vàng.
\v 12 Vàng của xứ ấy tốt. Cũng có nhựa thơm và đá mã não ở đó.
\s5
\v 13 Tên của sông thứ hai là Ghi-hôn. Sông này chảy qua khắp xứ Cu-sơ.
\v 14 Tên của sông thứ ba là Ti-gơ, chảy về phía đông A-su-rơ. Sông thứ tư là sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem con người đặt trong vườn Ê-đen để làm đất và giữ vườn.
\v 16 Giê-hô-va Đức Chúa Trời truyền lệnh cho con người, rằng: “Con được tự do ăn mọi cây trái trong vườn.
\v 17 Nhưng trái của cây phân biệt thiện-ác thì con không được phép ăn, vì ngày nào con ăn trái nó hẵn con sẽ chết.”
\s5
\v 18 Rồi Giê-hô-va Đức Chúa Trời nói: “Con người ở một mình như vậy không tốt. Ta sẽ làm cho nó một kẻ giúp đỡ ứng với nó. ”
\v 19 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên mọi loài thú đồng cùng mọi loài chim trời. Rồi Ngài đưa chúng đến con người để xem người sẽ gọi chúng thế nào. Người gọi mỗi loài sinh vật tên gì thì đó là tên của chúng.
\v 20 Con người đặt tên cho mọi loài gia súc, mọi loài chim trời, và mọi loài thú đồng. Nhưng chính con người thì chẳng thấy có ai giúp đỡ ứng với mình.
\s5
\v 21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến giáng trên con người một giấc ngủ sâu, và người ngủ. Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đi một trong các xương sườn của người rồi bít lại chỗ thịt có xương sườn bị lấy.
\v 22 Với xương sườn mà Giê-hô-va đã lấy từ con người đó, Ngài làm ra một phụ nữ và đưa nàng đến với người.
\v 23 Con người nói: “Lần này, người này là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ, vì nàng từ người nam mà ra.”
\s5
\v 24 Vì vậy, người nam sẽ rời cha mẹ mình mà kết hiệp với người nữ, và họ sẽ thành một thịt.
\v 25 Người nam và vợ, cả hai đều trần truồng, nhưng chẳng thẹn thùng.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã tạo ra thì rắn là giống gian trá hơn cả. Nó nói với người nữ: “Có thật là Đức Chúa Trời đã phán dặn: Con không được ăn bất kỳ cây trái nào trong vườn chăng? ”
\v 2 Người nữ đáp lại con rắn: “Chúng tôi có thể ăn cây trái trong vườn,
\v 3 nhưng về trái của cây ở giữa vườn, Đức Chúa Trời có dặn: Con không được ăn, cũng không được chạm đến nó, nếu vi phạm con sẽ chết. ’”
\s5
\v 4 Con rắn nói với người nữ: “Chắc chắn bà không chết đâu.
\v 5 Vì Đức Chúa Trời biết rằng ngày mà bà ăn trái đó thì mắt bà sẽ mở ra, và bà sẽ giống như Đức Chúa Trời, phân biệt được điều thiện và điều ác. ”
\v 6 Khi người nữ thấy cây ăn ngon, trông đẹp mắt, mà cũng đáng ăn để được khôn ngoan, bà hái trái nó và ăn. Bà cũng đưa cho người chồng đang ở đó cùng với mình, và anh cũng ăn nữa.
\s5
\v 7 Mắt của cả hai mở ra, và họ biết mình đang trần truồng. Họ kết lá cây vả lại để làm đồ che thân.
\v 8 Nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi trong vườn lúc trời mát, người nam cùng vợ ẩn mình giữa các cây cối trong vườn để lánh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời gọi người nam, hỏi: “Con ở đâu? ”
\v 10 Người nam đáp: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn, và sợ, vì con trần truồng. Vậy nên, con đi ẩn mình. ”
\v 11 Đức Chúa Trời hỏi: “Ai cho con biết mình trần truồng? Con có ăn trái của cây mà Ta đã truyền dạy không được ăn đó chăng?”
\s5
\v 12 Người nam thưa: “Người nữ mà Chúa đã ban để ở với con nàng đưa cho con trái của cây đó, và con đã ăn. ”
\v 13 Giê-hô-va Đức Chúa Trời hỏi người nữ: “Việc mà con đã làm là gì vậy? ” Người nữ thưa: “Con rắn nó đánh lừa con, và con đã ăn rồi.”
\s5
\v 14 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán với con rắn: “Vì mày đã làm việc này, cho nên chỉ một mình mày bị rủa sả giữa vòng mọi loài gia súc cùng mọi loài thú đồng. Mày sẽ đi bằng bụng, và mày sẽ ăn bụi đất trọn những ngày mày còn sống.
\v 15 Ta sẽ khiến có sự thù địch giữa mày với người nữ, giữa hậu tự của mày với hậu tự người nữ. Người sẽ làm bầm dập đầu mày, còn mày sẽ gây thương tích gót chân người.
\s5
\v 16 Với người nữ, Ngài phán: “Ta sẽ gia tăng gấp bội cơn đau của con khi thai nghén; con sẽ sinh nở trong sự đau đớn. Khát vọng của con sẽ hướng về chồng, nhưng chồng sẽ cai trị con.”
\s5
\v 17 Với A-đam, Ngài phán: “Vì con đã nghe tiếng nói của vợ và đã ăn trái của cây, về cây đó mà Ta đã dạy con, rằng: Con không được ăn trái nó, cho nên đất bị rủa sả vì cớ con; trọn những ngày tháng của đời sống, con sẽ ăn bánh lao nhọc của mình.
\v 18 Đất sẽ sinh gai góc cho con, và con sẽ ăn các cây cỏ của đồng ruộng.
\v 19 Con sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi con trở về với đất, vì con từ đó mà ra. Vì con là cát bụi, nên con sẽ trở về cát bụi.”
\s5
\v 20 Người nam gọi tên vợ là Ê-va vì nàng là mẹ của mọi vật sống.
\v 21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam và vợ áo bằng da thú, rồi mặc cho họ.
\s5
\v 22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời nói: “Giờ đây con người đã thành ra giống như một kẻ trong chúng ta, phân biệt được thiện, ác. Cho nên chúng ta không được cho phép nó đưa tay ra hái trái của cây sự sống, rồi sống đời đời. ”
\v 23 Vì thế, Giê-hô-va Đức Chúa Trời truyền bảo con người ra khỏi vườn Ê-đen để canh tác đất, là đất mà từ đó có người.
\v 24 Đức Chúa Trời đuổi con người ra khỏi vườn là như vậy, và Ngài đặt các chê-ru-bim tại phía đông của vườn Ê-đen, cùng một thanh gươm lửa xoay hướng mọi phía để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống.
\s5
\c 4
\p
\v 1 A-đam ăn ở với vợ là Ê-va. Bà mang thai và sinh ra Ca-in. Bà nói: “Nhờ sự giúp đỡ của Giê-hô-va, tôi đã tạo ra một con người. ”
\v 2 Rồi bà sinh ra A-bên, em trai của Ca-in. A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in thì canh tác đất đai.
\s5
\v 3 Sau một thời gian, Ca-in đem một số sản vật của đất làm của lễ dâng cho Giê-hô-va.
\v 4 Về phần A-bên, anh dâng con đầu lòng trong bầy chiên mình cùng với mỡ. Giê-hô-va chấp nhận A-bên cùng lễ vật của anh,
\v 5 nhưng Ca-in và lễ vật của anh này thì Ngài không chấp nhận. Vậy nên Ca-in giận dữ và bực dọc.
\s5
\v 6 Giê-hô-va hỏi Ca-in: “Vì sao con giận, và vì sao con bực dọc?
\v 7 Nếu con làm phải thì có đâu con lại không được nhậm? Nhưng nếu con không làm phải thì tội lỗi đang ẩn ngoài cửa và muốn điều khiển con, nhưng con phải trị phục nó.”
\s5
\v 8 Ca-in nói với em mình là Ca-in, và trong lúc họ đang ở ngoài đồng, thì Ca-in đứng lên tấn công em mình rồi giết chết cậu đi.
\v 9 Giê-hô-va hỏi Ca-in: “A-bên, em con, đâu? ” Anh ta đáp: “Tôi không biết. Tôi là kẻ giữ em tôi sao?”
\s5
\v 10 Giê-hô-va phán: “Con đã làm gì vậy? Máu của em con từ dưới đất đang kêu là đến ta.
\v 11 Giờ đây con bị rủa sả từ đất mà đã há miệng uống máu của em con từ tay con.
\v 12 Từ nay trở đây, khi con canh tác đất thì nó sẽ không sinh huê lợi cho con. Con sẽ phải trốn tránh và phiêu bạt trên đất.”
\s5
\v 13 Ca-in nói với Giê-hô-va: “Hình phạt của tôi nặng quá, tôi không mang nổi.
\v 14 Thật, ngày nay Ngài đã đuổi tôi khỏi đất này, và tôi sẽ ẩn mình để khỏi gặp Ngài. Tôi sẽ trốn tránh, phiêu bạt trên đất, và người nào thấy tôi sẽ giết tôi đi. ”
\v 15 Giê-hô-va đáp lại anh: “Bất kỳ ai giết Ca-in thì người đó sẽ bị báo thù bảy lần. ” Vậy là Giê-hô-va đánh dấu lên Ca-in, để nếu ai gặp anh thì người đó sẽ không tấn công anh.
\s5
\v 16 Ca-in đi khuất mặt Giê-hô-va và đến sinh sống tại xứ Nốt, ở phía đông Ê-đen.
\v 17 Ca-in ăn ở với vợ và bà mang thai. Bà sinh ra Hê-nóc. Ca-in xây một cái thành và đặt tên thành theo tên con trai là Hê-nóc.
\s5
\v 18 Hê-nóc sinh Y-rát. Y-rát sinh Mê-hu-da-ên. Mê-hu-da-ên sinh Mê-tu-sa-ên. Mê-tu-sa-ên sinh Lê-méc.
\v 19 Lê-méc cưới hai vợ: một người tên A-đa, còn người kia là Si-la.
\s5
\v 20 A-đa sinh Gia-banh. Gia-banh là tổ phụ của những kẻ sống trong lều trại, nuôi gia súc.
\v 21 Em Gia-banh là Giu-banh. Giu-banh là tổ phụ những kẻ chơi đàn hạc và thổi sáo.
\v 22 Về phần Si-la, bà sinh Tu-banh Ca-in, người chuyên rèn các loại công cụ bằng đồng, bằng sắt. Chị của Tu-banh Ca-in là Na-a-ma.
\s5
\v 23 Lê-méc nói với hai vợ mình: “Này, A-đa và Si-la, hãy nghe tiếng tôi; hai vợ của Lê-méc, hãy nghe tôi nói đây. Tôi đã giết chết một người vì đã khiến tôi bị thương, một gã thanh niên đã gây thương tích cho tôi.
\v 24 Nếu Ca-in được báo thù bảy lần, thì quả Lê-méc sẽ được báo trả bảy mươi bảy lần.”
\s5
\v 25 A-đam lại ăn ở với vợ, và bà sinh một con trai nữa. Bà đặt tên cậu trai này là Sết, và nói: “Đức Chúa Trời đã cho tôi một con trai khác để thay thế A-bên, đã bị Ca-in giết chết. ”
\v 26 Sết sinh một con trai và anh đặt tên con là Ê-nót. Khi đó người ta bắt đầu kêu cầu danh Giê-hô-va.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Đây là bản ghi lại dòng dõi của A-đam. Ngày mà Đức Chúa Trời tạo ra loài người thì Ngài dựng nên họ giống như Ngài.
\v 2 Ngài dựng nên người nam và người nữ. Ngài ban phước cho họ và đặt tên cho họ là loài người, lúc họ được tạo dựng.
\s5
\v 3 Khi A-đam sống được 130 năm thì ông sinh một con trai giống như mình, theo hình ảnh của mình, và ông đặt tên con là Sết
\v 4 Sau khi A-đam sinh Sết thì ông sống thêm tám trăm năm. Ông sinh thêm con trai, con gái.
\v 5 A-đam thọ 930 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 6 Khi Sết sống được 105 năm, ông sinh Ê-nót.
\v 7 Sau khi sinh Ê-nót, Sết sống thêm 807 năm, sinh thêm con trai, con gái.
\v 8 Sết thọ 912 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 9 Khi Ê-nót sống được chín mươi năm, ông sinh Kê-nan.
\v 10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót sống thêm 815 năm. Ông sinh thêm con trai, con gái.
\v 11 Ê-nót thọ 905 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 12 Khi Kê-nan sống được bảy mươi năm, ông sinh Ma-ha-la-le.
\v 13 Sau khi sinh Ma-ha-la-le, Kê-nan sống thêm 840. Ông sinh thêm con trai, con gái.
\v 14 Kê-nan thọ 910 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 15 Khi Ma-ha-la-le sống được sáu mươi lăm năm, ông sinh Giê-rệt
\v 16 Sau khi sinh Giê-rệt, Ma-ha-la-le sống thêm 830 năm. Ông cũng sinh thêm con trai, con gái.
\v 17 Ma-ha-la-le thọ 895 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 18 Khi Giê-rệt sống được 162 năm, ông sinh Hê-nóc.
\v 19 Sau khi sinh Hê-nóc, Giê-rệt sống thêm tám trăm năm. Ông sinh thêm con trai, con gái.
\v 20 Giê-rệt thọ 962 tuổi, rồi qua đời.
\s5
\v 21 Khi Hê-nóc sống được sáu mươi lăm năm, ông sinh Mê-tu-sê-la.
\v 22 Hê-nóc đồng hành với Đức Chúa Trời trong ba trăm năm sau khi sinh Mê-tu-sê-la. Ông cũng sinh thêm con trai, con gái.
\v 23 Hê-nóc sống 365 năm.
\v 24 Hê-nóc đồng hành với Đức Chúa Trời, và rồi mất biệt, vì Đức Chúa Trời tiếp ông đi.
\s5
\v 25 Khi Mê-tu-sê-la sống được 187 năm, ông sinh Lê-méc.
\v 26 Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la sống thêm 782 năm. Ông sinh thêm con trai, con gái.
\v 27 Mê-tu-sê-la thọ 969 tuổi. Rồi ông qua đời.
\s5
\v 28 Khi Lê-méc sống được 182 năm, ông sinh được một con trai.
\v 29 Ông đặt tên cho con mình là Nô-ê, nói rằng: “Đứa con này sẽ cho chúng ta được nghỉ ngơi khỏi công việc mình và khỏi sự nhọc nhằn của tay mình, là điều chúng ta phải chịu vì Giê-hô-va đã rủa sả đất.
\s5
\v 30 Lê-méc sống thêm 595 năm sau khi sinh Nô-ê. Ông cũng sinh thêm con trai, con gái.
\v 31 Lê-méc thọ 777 tuổi. Rồi ông qua đời.
\s5
\v 32 Sau khi Nô-ê sống được năm trăm năm, ông sinh Sem, Cham và Gia-phết.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Khi loài người bắt đầu thêm nhiều trên mặt đất, và họ có con gái,
\v 2 các con trai của Đức Chúa Trời thấy con gái của loài người thật quyến rũ. Họ lấy bất kỳ ai trong đó mà họ chọn làm vợ mình.
\v 3 Giê-hô-va nói: “Thần Linh ta sẽ không cứ ở với loài người mãi, vì họ là xác phàm. Họ sẽ sống 120 năm.”
\s5
\v 4 Có những con người to lớn trên đất vào thời đó, cũng như về sau. Việc này xảy ra khi các con trai của Đức Chúa Trời cưới con gái loài người và có con cái với họ. Đây là những người mạnh mẽ thời xưa, những người có tiếng tăm.
\s5
\v 5 Giê-hô-va thấy sự gian ác của loài người trên mặt đất thật là nhiều, và mọi xu hướng của ý tưởng trong lòng họ chỉ là xấu luôn.
\v 6 Giê-hô-va hối hận vì Ngài đã tạo ra con người trên đất, và việc ấy khiến Ngài buồn lòng.
\s5
\v 7 Vì vậy, Giê-hô-va nói: “Ta sẽ diệt hết khỏi mặt đất loài người mà Ta đã dựng nên cùng với các loài thú lớn, các loài bò sát và các loài chim trời, vì Ta hối tiếc mình đã tạo ra họ. ”
\v 8 Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Đây là những việc liên quan đến Nô-ê. Nô-ê là người công chính và không chê trách được giữa vòng người cùng thời của ông. Nô-ê đồng hành cùng Đức Chúa Trời.
\v 10 Nô-ê sinh được ba con trai là Sem, Cham, và Gia-phết.
\s5
\v 11 Đất bị bại hoại trước mặt Đức Chúa Trời, và đầy dẫy bạo ngược.
\v 12 Đức Chúa Trời nhìn thấy đất; kìa, nó bị bại hoại, vì mọi xác phàm đều làm cho đường lối mình trên đất bại hoại.
\s5
\v 13 Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Ta thấy rằng đã đến lúc diệt hết mọi xác phàm, vì do chúng mà đất đầy dẫy sự bạo ngược. Quả vậy, Ta sẽ hủy diệt chúng cùng với đất.
\v 14 Hãy đóng cho mình một chiếc tàu bằng gỗ cây bách. Hãy ngăn phòng trên tàu, và trét nhựa đen phủ lên tàu cả trong lẫn ngoài.
\v 15 Con sẽ đóng chiếc tàu như thế này: chiều dài tàu là một trăm ba mươi lăm mét, chiều ngang là hai mươi ba mét, và chiều cao là mười ba mét.
\s5
\v 16 Con hãy làm mui cho tàu, đặt mui cách thành tàu nửa mét. Hãy làm một cái cửa bên mạn tàu, và làm tầng dưới, tầng giữa, và tầng trên.
\v 17 Nghe đây, Ta sắp giáng lũ lụt xuống đất để hủy diệt mọi xác phàm nào ở dưới trời có hơi thở trong mình. Mọi thứ ở trên đất đều sẽ chết.
\s5
\v 18 Nhưng Ta sẽ lập giao ước Ta với con. Các con sẽ vào tàu con, con trai, vợ, và các dâu của con.
\v 19 Con phải đem vào tàu một cặp mỗi loài sinh vật thuộc mọi xác phàm, đực - cái, trống-mái đều có, để giữ cho chúng được sống cùng với các con.
\s5
\v 20 Trong số các loài chim tùy theo loại, trong số các loài thú lớn tùy theo loại, trong số mọi loài bò dưới đất tùy theo loại, hai con mỗi loài sẽ đến với con để con giữ cho chúng được sống.
\v 21 Hãy tích trữ mọi thứ ăn được, để dùng làm thức ăn cho các con và cho chúng. ”
\v 22 Vậy là Nô-ê làm các việc ấy. Ông làm theo mọi việc mà Đức Chúa Trời đã truyền bảo.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Giê-hô-va nói với Nô-ê: “Con và cả nhà con hãy vào tàu, vì trong thế hệ này Ta thấy con công chính trước mặt Ta.
\v 2 Mọi loài vật thanh sạch thì con sẽ đem theo con vào tàu bảy đực, bảy cái. Và các loài không thanh sạch, thì con hãy đem vào hai con, một đực, một cái.
\v 3 Các loài chim trời, con cũng hãy đem vào bảy con trống, bảy con mái, để bảo toàn dòng giống của chúng trên khắp mặt đất.
\s5
\v 4 Vì trong bảy ngày nữa Ta sẽ khiến mưa xuống đất trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất mọi sinh vật mà Ta đã tạo ra. ”
\v 5 Nô-ê làm mọi việc Giê-hô-va đã truyền bảo mình.
\s5
\v 6 Nô-ê được sáu trăm tuổi khi trận lụt xảy ra trên đất.
\v 7 Nô-ê, các con trai, vợ, cùng các dâu của ông cùng vào trong tàu vì cớ nước lụt.
\s5
\v 8 Các con vật thanh sạch lẫn không thanh sạch, chim chóc, cùng mọi loài bò sát dưới đất,
\v 9 từng đôi một, đực-cái, trống-mái, đều đến với Nô-ê để vào tàu, y như Đức Chúa Trời đã truyền bảo Nô-ê.
\v 10 Bảy ngày sau, nước lụt trút đổ xuống đất.
\s5
\v 11 Năm thứ sáu trăm đời Nô-ê, tháng thứ hai, vào ngày thứ bảy trong tháng vào chính ngày đó, toàn bộ nguồn nước của các vực lớn tràn tuôn, và các cửa sổ trên trời đều được mở ra.
\v 12 Mưa khởi sự đổ xuống đất trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
\s5
\v 13 Vào chính ngày đó, Nô-ê và các con trai là Sem, Cham và Gia-phết, cùng vợ ông và vợ của ba con trai, đều vào tàu.
\v 14 Họ vào cùng với mỗi loài dã thú tùy theo loại, mỗi loài gia súc tùy theo loại, mỗi loài bò sát bò dưới đất tùy theo loại, và mọi loài chim tùy theo loại, tức từng loài sinh vật có cánh.
\s5
\v 15 Từng cặp thuộc mọi xác phàm có hơi sống trong chúng đến với Nô-ê để vào tàu.
\v 16 Những con vật đã vào tàu đó là con đực và con cái, hoặc con trống và con mái, thuộc mọi xác phàm; chúng vào tàu y như Đức Chúa Trời đã truyền dặn ông. Và Giê-hô-va đóng cửa tàu lại.
\s5
\v 17 Rồi lũ lụt xảy đến trên đất trong bốn mươi ngày; nước dâng lên và nâng chiếc tàu khỏi đất.
\v 18 Nước mưa trút xuống, dâng cao trên đất, và chiếc tàu nổi trên mặt nước.
\s5
\v 19 Nước cứ dâng cao, dâng cao thêm trên đất, và hoàn toàn bao phủ hết mọi ngọn núi cao dưới trời.
\v 20 Nước dâng cao hơn các ngọn núi khoảng bảy mét.
\s5
\v 21 Mọi sinh vật di chuyển trên đất đều chết: nào chim chóc, nào gia súc, nào dã thú, toàn bộ sinh vật đàn bầy sống thành đàn trên đất, và toàn thể loài người.
\v 22 Mọi sinh vật có hơi thở là sinh khí trong lỗ mũi, tức mọi loài sống trên đất khô, đều chết hết.
\s5
\v 23 Như vậy, mọi sinh vật trên mặt đất bị diệt sạch, từ loài người đến những loại vật to lớn, các loài bò sát, và các loài chim trời hết thảy đều bị hủy diệt khỏi đất. Chỉ còn lại Nô-ê và những người ở cùng với ông trong chiếc tàu.
\v 24 Nước bao phủ đất trong một trăm năm mươi ngày.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê và mọi loài dã thú cùng mọi loài gia súc ở với ông trong tàu. Đức Chúa Trời khiến một trận gió thổi trên đất, và nước bắt đầu rút.
\v 2 Những nguồn của vực sâu cùng các cửa sổ trên trời được đóng lại, và trời hết mưa.
\v 3 Nước lụt dần dần rút khỏi đất. Sau một trăm năm mươi ngày, nước đã giảm đi đáng kể.
\s5
\v 4 Chiếc tàu tấp đậu xuống đất vào ngày mười bảy tháng thứ bảy, trên vùng núi A-ra-rát.
\v 5 Nước tiếp tục rút cho đến tháng mười. Vào ngày một tháng ấy, các đỉnh núi lộ ra.
\s5
\v 6 Được bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ trên tàu mà ông đã làm.
\v 7 Ông thả một con quạ, và nó cứ bay tới lui cho đến khi nước khô ráo trên đất.
\s5
\v 8 Rồi ông thả một chim bồ câu để biết nước đã rút khỏi mặt đất chưa,
\v 9 nhưng bồ câu chẳng tìm được nơi nào đáp đậu, nên quay trở lại tàu, vì nước vẫn còn bao phủ cả đất. Nô-ê đưa tay ra bắt đem nó vào tàu lại với ông.
\s5
\v 10 Ông chờ thêm bảy ngày nữa, rồi thả bồ câu ra khỏi tàu.
\v 11 Đến chiều tối bồ câu lại trở về với ông. Kìa, trong mỏ nó có tha một lá ô-liu mới ngắt. Như vậy, Nô-ê biết rằng nước đã rút bớt khỏi đất.
\v 12 Ông chờ thêm bảy ngày nữa, rồi lại thả chim bồ câu. Bồ câu không trở về với ông.
\s5
\v 13 Đến năm sáu trăm lẻ một, tháng thứ nhất, vào ngày một của tháng, nước trên đất đã khô ráo. Nô-ê giở mui tàu nhìn ra và thấy mặt đất đã khô.
\v 14 Đến tháng thứ hai, ngày hai mươi bảy, đất đã khô ráo hết.
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời phán với Nô-ê:
\v 16 “Hãy ra khỏi tàu con, vợ của con, các con trai cùng các dâu con.
\v 17 Hãy đem ra mọi sinh vật thuộc mọi xác phàm đang ở với con, gồm chim chóc, gia súc, cùng mọi loài bò sát bò dưới đất, để chúng đầy dẫy đất, phát triển, sinh sôi trên đất.”
\s5
\v 18 Vậy là Nô-ê đi ra cùng các con trai, vợ và các con dâu.
\v 19 Mọi sinh vật, mọi loài bò sát, và mọi loài chim, tức mọi thứ di chuyển trên đất, tùy theo dòng giống của chúng, đều rời khỏi tàu.
\s5
\v 20 Nô-ê lập một bàn thờ cho Giê-hô-va. Ông lấy mấy con thú thanh sạch cùng một số chim thanh sạch dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ.
\v 21 Giê-hô-va hưởng lấy mùi thơm và tự nhủ trong lòng: “Ta sẽ không lại rủa sả đất vì cớ loài người nữa, cho dù xu hướng của lòng họ là xấu xa từ khi còn bé. Ta cũng sẽ không hủy diệt mọi sinh vật như Ta đã làm.
\v 22 Khi nào còn đất thì kỳ gieo trồng và thu hoạch, trời lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông, cùng ngày và đêm, sẽ chẳng dứt."
\s5
\c 9
\p
\v 1 Rồi Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con ông, rằng: “Hãy sinh sản thêm nhiều và đầy dẫy đất.
\v 2 Mọi sinh vật trên đất, mọi loài chim trên trời, mọi loài bò sát dưới đất, cùng mọi loài cá dưới biển đều sẽ kinh hãi các con, khiếp sợ các con.
\s5
\v 3 Mọi loài đi lại được và có sự sống sẽ là thức ăn cho các con. Như Ta đã cho các con cây cỏ, thì giờ đây Ta cho các con mọi thứ.
\v 4 Nhưng các con không được ăn thịt còn sự sống — tức huyết — trong đó.
\s5
\v 5 Mà Ta sẽ đòi lại máu của các con, tức sự sống trong máu các con. Ta sẽ đòi nó nơi mọi thú vật. Ta sẽ đòi phải chịu trách nhiệm về sự sống của người đó từ tay của bất kỳ người nào, tức từ tay của người đã giết chết anh em mình.
\v 6 Bất kỳ ai làm đổ máu người ta thì kẻ ấy sẽ bị người ta làm đổ máu, vì Đức Chúa Trời đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài.
\v 7 Về phần các con, hãy sinh sôi, hãy tràn ra khắp đất và tăng thêm thật nhiều.”
\s5
\v 8 Rồi Đức Chúa Trời phán với Nô-ê và các con ông, rằng:
\v 9 “Các con hãy nghe đây! Về phần mình, Ta sẽ thiết lập giao ước ta với các con và với hậu tự các con,
\v 10 cũng như với mọi sinh vật ở với các con, với các loài chim, các loài gia súc, và mọi sinh vật ở trên đất với các con từ mọi thứ ở trong tàu ra, cho đến mọi sinh vật trên đất.
\s5
\v 11 Bởi lời này, Ta thiết lập giao ước Ta với các con, rằng sẽ chẳng bao giờ mọi xác phàm lại bị nước lụt hủy diệt nữa. Sẽ chẳng bao giờ có thêm trận lụt nào hủy diệt đất. ”
\v 12 Đức Chúa Trời phán: “Đây là dấu hiệu giao ước mà Ta lập giữa Ta với các con và mọi sinh vật ở với các con, trải suốt các thế hệ sau này.
\v 13 Ta đã đặt cầu vồng của Ta trên mây, và đó sẽ là dấu hiệu của giao ước giữa Ta với đất.
\s5
\v 14 Khi Ta đem mây đến trên đất và cầu vồng xuất hiện trên mây,
\v 15 thì Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta, giữa Ta với các con cùng tất cả sinh vật thuộc mọi xác phàm. Nước sẽ chẳng bao giờ lại biến thành lũ lụt hủy diệt mọi xác phàm.
\s5
\v 16 Cầu vồng sẽ ở trên mây và Ta sẽ nhìn thấy nó, để nhớ lại giao ước đời đời giữa Đức Chúa Trời và mọi sinh vật thuộc mọi xác phàm trên đất. ”
\v 17 Rồi Đức Chúa Trời nói với Nô-ê: “Đây là dấu hiệu giao ước mà Ta đã lập giữa Ta với mọi xác phàm trên đất.”
\s5
\v 18 Các con trai Nô-ê từ trong tàu ra gồm Sem, Cham và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an.
\v 19 Ba người này là các con trai của Nô-ê, do họ mà người ta sinh ra khắp đất.
\s5
\v 20 Nô-ê khởi làm nghề nông, và trồng một vườn nho.
\v 21 Ông uống rượu nho rồi say khước. Ông nằm trần truồng trong lều.
\s5
\v 22 Khi đó, Cham, cha của Ca-na-an, nhìn thấy sự trần truồng của cha và thuật lại cho anh em mình ở bên ngoài.
\v 23 Vậy là Sem và Gia-phết lấy một cái áo khoác lên vai của cả hai người rồi đi thụt lùi đến đắp phủ lên sự trần truồng của cha. Mặt họ xây hướng khác nên họ không nhìn thấy sự trần truồng của cha.
\s5
\v 24 Khi Nô-ê tỉnh rượu, ông biết được điều mà người con út đã làm cho mình.
\v 25 Vì vậy, ông nói: “Ca-na-an đáng bị rủa sả. Nguyện nó làm tôi cho các tôi tớ của anh em nó.”
\s5
\v 26 Ông cũng nói: “Đáng chúc tụng Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Sem, và Ca-na-an phải làm tôi cho Sem.
\v 27 Nguyện Đức Chúa Trời mở rộng Gia-phết, và cho nó ở trong lều trại của Sem. Nguyện Ca-na-an làm tôi cho nó.”
\s5
\v 28 Sau trận lụt, Nô-ê sống thêm ba trăm năm mươi năm.
\v 29 Trọn những ngày của Nô-ê là chín trăm năm mươi năm, và rồi ông qua đời.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Đây là hậu tự của các con trai Nô-ê, tức Sem, Cham và Gia-phết. Sau trận lụt họ sinh con trai.
\s5
\v 2 Con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra.
\v 3 Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-ga-ma.
\v 4 Con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Đô-đa-nim.
\v 5 Các dân vùng duyên hải từ họ mà tách ra sống trong xứ sở mình, mỗi dân với thứ tiếng nói riêng, theo dòng tộc và dân tộc mình.
\s5
\v 6 Con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an.
\v 7 Con trai của Cúc là Xê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma, và Sáp-tê-ca. Con trai của Ra-ê-ma là Sê-ba và Đê-đan.
\s5
\v 8 Cúc sinh Nim-rốt, là kẻ chinh phục đầu tiên trên đất.
\v 9 Ông là một thợ săn dũng mãnh trước mặt Giê-hô-va. Đó là lý do có câu nói: “Giống như Nim-rốt, tay thợ săn dũng mãnh trước mặt Giê-hô-va. ”
\v 10 Các khu dân cư đầu tiên của vương quốc ông là Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-ne trong xứ Si-nê-a.
\s5
\v 11 Từ xứ này ông đi đến A-si-ri và xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bô-ti, Ca-lách,
\v 12 và Rê-sen, ở khoảng giữa Ni-ni-ve và Ca-lách. Đây là một thành lớn.
\v 13 Mích-ra-im sinh họ Lu-đít, họ A-na-mít, họ Lê-ha-bít, họ Náp-tu-hít
\v 14 họ Bát-ru-sít, họ Cách-lu-hít (từ đó có dân Phi-li-tin), và họ Cáp-tô-rít.
\s5
\v 15 Ca-na-an sinh Si-đôn, con trưởng mình, và Hếch,
\v 16 cùng họ Giê-bu-sít, họ A-mô-rít, họ Ghi-rê-ga-sít,
\v 17 họ Hê-vít, họ A-rê-kít, họ Si-nít,
\v 18 họ A-va-đít, họ Xê-ma-rít, và họ Ma-ha-tít. Sau đó, dòng tộc Ca-na-an lan tràn ra.
\s5
\v 19 Ranh giới của Ca-na-an là từ Si-đôn, về hướng Ghê-ra trải dài đến Ga-xa, còn về hướng Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im, thì trải dài đến Lê-sa.
\v 20 Đây là các con trai của Cham, theo dòng họ, ngôn ngữ, trong xứ sở họ và dân tộc họ.
\s5
\v 21 Sem, anh của Gia-phết, cũng có sinh con trai. Sem cũng là tổ phụ của dân Hê-be.
\v 22 Các con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bát-sát, Lút và A-ram.
\v 23 Các con trai của A-ram là U-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mách.
\s5
\v 24 A-bát-sát sinh Sê-lách; Sê-lách sinh Hê-be.
\v 25 Hê-be có hai con trai. Một người tên là Bê-léc, vì trong đời ông đất bị chia ra. Em trai của Bê-léc tên là Giốc-tan.
\s5
\v 26 Giốc-tan sinh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách,
\v 27 Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la,
\v 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,
\v 29 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả những người này là con trai của Giốc-tan.
\s5
\v 30 Lãnh thổ của họ là từ Mê-sa trải dài cho đến Sê-pha, ngọn núi ở phương đông.
\v 31 Những người này là con trai của Sem, dựa vào dòng họ và ngôn ngữ, tại xứ sở họ, theo dân tộc họ.
\s5
\v 32 Đó là dòng tộc của các con trai Nô-ê, dựa vào phả hệ, tùy theo dân tộc họ. Từ nơi họ mà các dân tộc phân chia ra đi khắp nơi trên đất sau trận lụt.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Lúc bấy giờ trên khắp đất người ta sử dụng chỉ một thứ tiếng và dùng cùng những từ như nhau.
\v 2 Khi họ di chuyển về phương đông, họ khám phá ra một đồng bằng trong xứ Si-nê-a và định cư ở đó.
\s5
\v 3 Họ nói với nhau: “Nào, chúng ta hãy làm gạch và nung trong lửa. ” Họ dùng gạch thay cho đá và dùng hắc ín để làm hồ.
\v 4 Họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy xây một cái thành cùng một cái tháp có ngọn vươn đến tận trời, và chúng ta sẽ làm cho mình nổi danh. Nếu không, chúng ta sẽ bị phân tán khắp mặt đất.”
\s5
\v 5 Giê-hô-va hiện xuống để xem cái thành và ngọn tháp mà con cháu A-đam xây nên.
\v 6 Giê-hô-va nói: “Hãy xem, nay họ là một dân nói cùng một thứ tiếng, và họ đang khởi sự làm chuyện này! Chẳng bao lâu nữa sẽ không có việc gì họ dự định làm là không được.
\v 7 Nào, chúng ta hãy xuống và khiến hỗn loạn tiếng nói của họ, để họ không còn hiểu được nhau.”
\s5
\v 8 Vậy là Giê-hô-va khiến họ từ đó phân tán ra trên khắp mặt đất, và họ ngưng xây cất thành.
\v 9 Do vậy mà thành có tên là Ba-bên, vì tại đó Giê-hô-va làm xáo trộn tiếng nói của cả đất và Ngài khiến người ta phải phân tán ra khắp đất.
\s5
\v 10 Đây là dòng dõi của Sem. Sem được một trăm tuổi khi sinh A-bác-sát hai năm sau trận lụt.
\v 11 Sem sống thêm năm trăm năm sau khi sinh A-bác-sát. Ông cũng sinh các con trai, con gái khác nữa.
\s5
\v 12 Khi A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi, ông sinh Sê-lách.
\v 13 A-bác-sát sống thêm 403 năm sau khi sinh Sê-lách, rồi sinh thêm các con trai, con gái khác.
\s5
\v 14 Khi Sê-lách được ba mươi tuổi, ông sinh Hê-be.
\v 15 Sê-lách sống thêm 403 năm sau khi sinh Hê-be, rồi sinh thêm các con trai, con gái khác.
\s5
\v 16 Khi Hê-be được ba mươi bốn tuổi, ông sinh Bê-léc.
\v 17 Hê-be sống thêm 430 năm sau khi sinh Bê-léc. Ông cũng sinh thêm các con trai, con gái khác nữa.
\s5
\v 18 Khi Bê-léc được ba mươi tuổi, ông sinh Rê-hu
\v 19 Bê-léc sống thêm 209 năm sau khi sinh Rê-hu. Ông cũng sinh thêm các con trai, con gái khác nữa.
\s5
\v 20 Khi Rê-hu được ba mươi hai tuổi, ông sinh Sê-rúc.
\v 21 Rê-hu sống thêm 207 năm sau khi sinh Sê-rúc. Ông cũng sinh các con trai, con gái khác.
\s5
\v 22 Khi Sê-rúc dược ba mươi tuổi, ông sinh Na-cô.
\v 23 Sê-rúc sống thêm hai trăm năm sau khi sinh Na-cô. Ông cũng sinh các con trai, con gái khác nữa.
\s5
\v 24 Khi Na-cô được hai mươi chín tuổi, ông sinh Tha-rê.
\v 25 Na-cô sống thêm 119 tuổi sau khi sinh Tha-rê. Ông cũng sinh các con trai, con gái khác.
\v 26 Khi Tha-rê được bảy mươi tuổi, ông sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran.
\s5
\v 27 Đây là dòng dõi của Tha-rê. Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô, và Ha-ran; Ha-ran là cha của Lót.
\v 28 Ha-ran qua đời tại quê hương mình, trong xứ U-rơ của dân Canh-đê, khi cha ông là Tha-rê vẫn còn sống.
\s5
\v 29 Áp-ram và Na-cô lấy vợ. Vợ của Áp-ram là Sa-rai, còn vợ của Na-cô là Minh-ca, con gái của Ha-ran, cha của Minh-ca và Dích-ca.
\v 30 Sa-rai thì son sẻ, không có con.
\s5
\v 31 Tha-rê đem Áp-ram, con trai mình; Lót, cháu mình, con của Ha-ran; và Sa-rai, dâu mình, vợ của Áp-ram họ cùng rời khỏi xứ U-rơ của người Canh-đê, để qua xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran thì họ ở lại đó.
\v 32 Tha-rê thọ 205 tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Bấy giờ, Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy rời xứ sở, đi khỏi những người thân, và khỏi nhà cha của con, để đến xứ mà Ta sẽ chỉ cho con.
\v 2 Ta sẽ khiến con thành một dân lớn; Ta sẽ ban phước cho con, khiến con nổi danh, và con sẽ thành một phước lành.
\v 3 Ta sẽ ban phước cho ai chúc lành cho con, và Ta sẽ rủa sả kẻ nào sỉ nhục con. Qua con, tất cả các dòng tộc trên đất sẽ được phước.”
\s5
\v 4 Vậy là Áp-ram đi theo như Giê-hô-va đã truyền bảo, có Lót đồng ý với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời bỏ Cha-ran.
\v 5 Áp-ram đem Sa-rai, vợ mình, Lót, cháu mình, cùng mọi tài sản họ đã tích góp với gia nhân mà họ có tại Cha-ran, để từ đó đi qua xứ Ca-na-an, và thế là họ đến Ca-na-an.
\s5
\v 6 Áp-ram trải qua xứ ấy đến tận Si-chem, chỗ cây sồi của Mô-rê. Lúc đó, dân Ca-na-an đang sống trong xứ.
\v 7 Giê-hô-va hiện ra phán với Áp-ram: “Ta sẽ ban cho hậu tự con xứ này. ” Vậy nên Áp-ram lập tại đó một bàn thờ cho Giê-hô-va, Đấng hiện ra với mình.
\s5
\v 8 Từ nơi đó, ông dời đến vùng đồi núi phía đông Bê-tên, rồi dựng trại, giữa Bê-tên ở hướng tây và A-hi ở hướng đông. Tại đó, ông lập một bàn thờ cho Giê-hô-va và kêu cầu danh Ngài.
\v 9 Rồi Áp-ram tiếp tục cuộc hành trình, đi về hướng Nê-ghép.
\s5
\v 10 Có một dịch đói xảy ra trong xứ, nên Áp-ram xuống Ai Cập để trú ngụ, vì dịch đói đó ở trong xứ thật nghiêm trọng.
\v 11 Khi sắp vào đất Ai Cập, ông nói với Sa-rai, vợ mình: “Này mình, tôi biết mình là một phụ nữ có nhan sắc.
\v 12 Khi dân Ai Cập nhìn thấy mình, họ sẽ bảo: Đây là vợ hắn, và họ sẽ giết chết tôi mà để cho mình sống.
\v 13 Vậy nên mình hãy xưng là em gái tôi, để nhờ mình mà mọi việc được suôn sẻ cho tôi, và sinh mạng tôi cũng nhờ đó được bảo toàn.”
\s5
\v 14 Khi Áp-ram vào Ai Cập, dân Ai Cập thấy Sa-rai rất xinh đẹp.
\v 15 Các triều thần của Pha-ra-ôn nhìn thấy bà; họ trầm trồ về bà trước mặt Pha-ra-ôn, và bà bị đem vào cung Pha-ra-ôn.
\v 16 Pha-ra-ôn hậu đãi Áp-ram vì cớ Sa-rai, ban cho ông nào chiên, bò, lừa đực, lừa cái, lạc đà, cả đầy tớ nam và đầy tớ nữ.
\s5
\v 17 Vì Sa-rai, vợ Áp-ram, mà Giê-hô-va hành hại Pha-ra-ôn và nhà ông ta phải chịu tai vạ lớn.
\v 18 Pha-ra-ôn triệu Áp-ram đến, hỏi: “Việc anh đã gây ra cho ta là gì vậy? Sao anh không cho ta biết đó là vợ anh?
\v 19 Sao anh lại nói: Nàng là em gái, khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Này, vợ anh đây. Hãy dẫn nàng đi đi. ”
\v 20 Rồi Pha-ra-ôn truyền lệnh cho triều thần của mình về Áp-ram, và họ đưa ông đi, cùng với vợ ông và mọi thứ ông có.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Như vậy, Áp-ram rời khỏi Ai Cập đi đến vùng Nê-ghép ông, vợ ông, cùng mọi thứ ông có. Lót cùng đi với họ.
\v 2 Bấy giờ, Áp-ram rất giàu, có nhiều súc vật, cùng bạc, vàng.
\s5
\v 3 Ông đi tiếp từ Nê-ghép đến Bê-tên, đến nơi ông đã dựng lều lúc trước, giữa Bê-tên và A-hi.
\v 4 Đây là nơi có bàn thờ mà ông đã lập trước đây, tại đó ông cầu khẩn danh Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Lót, người đi cùng Áp-ram, cũng có chiên, bò và lều trại.
\v 6 Vùng đất ấy không đủ cho hai người cùng sống, vì tài sản của họ nhiều lắm, đến nỗi không ở chung với nhau được.
\v 7 Hơn nữa, cũng có chuyện tranh cãi giữa những kẻ chăn bầy vật của Áp-ram và những kẻ chăn bầy vật của Lót. Lúc đó, dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít đang ở trong xứ.
\s5
\v 8 Vì vậy, Áp-ram nói với Lót: “Đừng nên để xảy ra tranh cãi giữa bác với cháu, giữa những kẻ chăn bầy vật bác với những kẻ chăn bầy vật cháu; dầu sao chúng ta đều là trong gia đình cả.
\v 9 Chẳng phải xứ đang ở trước mắt cháu đó sao? Cháu hãy cứ ra riêng đi. Nếu cháu đi qua bên trái thì bác sẽ sang bên phải. Còn nếu cháu qua bên phải thì bác sẽ sang bên trái.”
\s5
\v 10 Lót đưa mắt nhìn và thấy cả đồng bằng sông Giô-đanh đâu cũng có nước tưới, tận đến Xoa, giống như vườn của Giê-hô-va, giống như xứ Ai Cập. Đó là trước khi Giê-hô-va hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
\v 11 Vậy, Lót chọn cho mình toàn vùng đồng bằng sông Giô-đanh và đi về phía đông; thế là hai bác cháu phân rẽ nhau.
\s5
\v 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống giữa các thành của đồng bằng. Ông dời trại đến tận Sô-đôm.
\v 13 Dân thành Sô-đôm là những kẻ phạm tội trọng với Giê-hô-va.
\s5
\v 14 Giê-hô-va nói với Áp-ram sau khi Lót đã rời khỏi ông: “Từ chỗ con đang đứng đó, hãy nhìn tứ phía đông, tây, nam, bắc.
\v 15 Toàn bộ vùng đất mà con nhìn thấy đó Ta sẽ ban cho con cùng dòng dõi con đến đời đời.
\s5
\v 16 Ta sẽ khiến dòng dõi con đông như bụi đất, đến nỗi ai đong đếm được bụi đất thì mới đếm được hậu tự của con.
\v 17 Hãy đứng dậy đi dọc ngang khắp xứ, vì Ta sẽ ban nó cho con. ”
\v 18 Vậy, Áp-ram dời trại mình đến sống gần các cây sồi Mam-rê, trong vùng Hếp-rôn, tại đó ông lập một bàn thờ cho Giê-hô-va.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Trong đời Am-ra-phên, vua Si-nê-a, A-ri-óc, vua Ê-la-sa, Kết-rô-Lao me, vua Ê-lam, và Ti-đanh, vua Gô-im,
\v 2 các vua ấy gây chiến với Bê-ra, vua Sô-đôm, Bi-rê-sa, vua Gô-mô-rơ, Si-nê-áp, vua Át-ma, Sê-mê-bê, vua Xê-bô-im, và vua Bê-la (còn gọi là Xoa).
\s5
\v 3 Năm vua vừa kể hiệp lại tại thung lũng Si-điêm (còn gọi là Biển Muối).
\v 4 Suốt mười hai năm, họ đều là chưa hầu của vua Kết-rô-lao-me, nhưng sang năm thứ mười ba, họ dấy loạn.
\v 5 Vậy là vào năm thứ mười bốn, Kết-rô-lao-me cùng các vua thuộc phe vua này tiến đánh dân Rê-pha-im tại Ách-tê-rót-Ca-na-im, dân Xu-xin tại Ham, dân Ê-mim tại Ki-ri-a-ta-im,
\v 6 và dân Hô-rít tại vùng đồi núi Sê-i-rơ, tận đến Ên-Ba-ran, gần hoang mạc.
\s5
\v 7 Rồi họ quay lại đi đến Ên Mích-bát (còn gọi là Ca-đe), đánh bại toàn xứ của dân A-ma-léc, cùng với dân A-mô-rít sống tại Hát-sát-sôn Tha-ma.
\v 8 Lúc ấy, vua Sô-đôm, vua Gô-mô-rơ, vua Át-ma, vua Xê-bô-im, và vua Bê-la (cũng gọi là Xoa) kéo ra sửa soạn nghênh chiến
\v 9 với Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam, Ti-đanh, vua Gô-im, Am-ra-phên, vua Si-nê-a, A-ri-óc, vua Ê-la-sa bốn vua địch lại năm.
\s5
\v 10 Bấy giờ, trong thung lũng Si-điêm có đầy hố nhựa đen, nên khi các vua Sô-đôm và Gô-mô-rơ bỏ chạy, họ té xuống đó. Những kẻ còn lại được để cho chạy thoát lên núi.
\v 11 Quân thù cướp hết tài sản của Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng toàn bộ lương thực, rồi rút đi.
\v 12 Khi đi, họ cũng bắt theo Lót, cháu của Áp-ram, lúc đó đang sống tại Sô-đôm, cùng mọi tài sản của ông này.
\s5
\v 13 Một người chạy thoát đến báo tin cho Áp-ram, người Hy-bá. Ông đang sống gần những cây sồi của Mam-rê, người A-mô-rít, anh của Ếch-côn và A-ne, tất cả đều liên minh với Áp-ram.
\v 14 Khi Áp-ram nghe biết quân thù đã bắt đi thân nhân của mình, ông đem ba trăm mười tám người đã được tập luyện, sinh trưởng ngay trong nhà mình, kéo ra đuổi theo họ đến tận Đan.
\s5
\v 15 Lúc đêm tối, ông chia người ra tấn công họ và đuổi theo họ đến tận Hô-ba, phía bắc Đa-mách.
\v 16 Rồi ông đoạt lại hết mọi tài sản, và cũng đem về cháu mình là Lót cùng của cải của ông này, cùng vơi các phụ nữ và những người khác nữa.
\s5
\v 17 Sau khi Áp-ram đánh thắng Kết-rô-lao-me cùng các vua theo phe ông ta trở về, vua Sô-đôm đi ra đón ông tại thung lũng Sa-ve (còn gọi là Trũng Vua).
\v 18 Mê-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, đem bánh và rượu ra. Vua này là thầy tề lễ của Đức Chúa Trời Tối Cao.
\s5
\v 19 Vua chúc phước cho Áp-ram, rằng: “Nguyện Đức Chúa Trời Tối Cao, Đấng tạo dựng trời và đất, ban phước cho Áp-ram.
\v 20 Đáng tôn ngợi Đức Chúa Trời Tối Cao, Đấng đã phó kẻ thù ông vào tay ông. ” Rồi Áp-ram dâng cho vua một phần mười mọi thứ.
\s5
\v 21 Vua Sô-đôm nói với Áp-ram: “Hãy giao người cho ta, còn tài sản thì ông lấy hết đi. ”
\v 22 Áp-ram đáp lại vua Sô-đôm: “Tôi đã đưa tay lên Giê-hô-va, Đức Chúa Trời Tối Cao, Đấng tạo dựng trời đất,
\v 23 thề rằng tôi sẽ không lấy dầu là một sợi chỉ hay dây giày, hoặc bất kỳ thứ gì của vua, để vua chẳng bao giờ có thể nói: Nhờ ta mà Áp-ram giàu lên.
\v 24 Tôi sẽ không lấy gì hết, ngoại trừ số lương thực mà các thanh niên đã ăn và phần thuộc về những kẻ đi cùng tôi. Hãy để A-ne, Ết-côn và Mam-rê lấy phần của họ.”
\s5
\c 15
\p
\v 1 Sau các việc ấy, có lời của Giê-hô-va phán với Áp-ram trong một khải tượng, rằng: “Áp-ram, Đừng sợ! Ta đây là thuẫn bảo vệ con, là phần thưởng rất lớn của con. ”
\v 2 Áp-ram thưa: “Lạy Chúa Giê-hô-va, Ngài sẽ cho con thứ gì đây, khi mà con cứ mãi chẳng có con, và kẻ thừa hưởng nhà con vẫn là Ê-li-ê-se người Đa-mách? ”
\v 3 Áp-ram tiếp: “Vì Ngài chẳng ban con cái gì cho con, nên người quản gia của con chính là kẻ thừa kế con.”
\s5
\v 4 Và này, có lời của Giê-hô-va phán với ông: “Người đó sẽ không thừa kế con đâu, mà một người do chính con sinh ra mới là kẻ thừa kế con. ”
\v 5 Ngài đem ông ra ngoài, nói: “Hãy nhìn lên trời và đếm số ngôi sao, nếu con đếm được. ” Rồi Ngài nói tiếp với ông: “Dòng dõi con sẽ như vậy đó.”
\s5
\v 6 Áp-ram tin Giê-hô-va, bởi đó Ngài kể ông là công bình.
\v 7 Ngài nói với ông: “Ta là Giê-hô-va đã đem con ra khỏi xứ U-rơ của người Canh-đê, để ban đất này cho con làm sản nghiệp. ”
\v 8 Áp-ram thưa: “Lạy Chúa Giê-hô-va, làm sao tôi biết được rằng mình sẽ thừa hưởng đất này?”
\s5
\v 9 Ngài bảo ông: “Hãy đem đến cho Ta một bò cái tơ ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một chim bồ câu và một chim cu non. ”
\v 10 Áp-ram đem đến cho Ngài mọi thứ đó và xẻ chúng làm đôi, đặt mỗi nửa con đối với nửa kia, nhưng chim thì ông không xẻ ra.
\v 11 Khi chim săn mồi sà xuống các thây đó, Áp-ram xua chúng đi.
\s5
\v 12 Đến lúc mặt trời lặn, Áp-ram chìm vào giấc ngủ mê; này, có bóng tối kinh khiếp dày đặc ập xuống trên ông.
\v 13 Rồi Giê-hô-va nói với Áp-ram: “Con phải biết rằng dòng dõi con sẽ làm khách lạ trong một xứ không thuộc về chúng nó; chúng sẽ bị nô dịch và áp bức trong bốn trăm năm.
\s5
\v 14 Rồi Ta sẽ đoán phạt dân tộc mà chúng phục dịch, và sau đó chúng sẽ ra đi với rất nhiều của cải.
\v 15 Nhưng con sẽ được bình an về với tổ tiên mình và sẽ được chôn cất khi tuổi đã cao.
\v 16 Vào thế hệ thứ tư, chúng sẽ quay trở về đây, vì tội lỗi của dân A-mô-rít vẫn chưa đầy trọn.”
\s5
\v 17 Khi mặt trời lặn và trời đã tối, này, có một bình lửa bốc khói cùng một ngọn đuốc cháy đi qua giữa các phần xác chết.
\v 18 Vào ngày đó, Giê-hô-va lập giao ước với Áp-ram, rằng: “Ta sẽ ban cho dòng dõi con đất này, từ sông xứ Ai Cập cho đến sống lớn, tức sông Ơ-phơ-rát
\v 19 tức xứ của các dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít,
\v 20 Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im,
\v 21 A-mô-rít, Ca-na-an, Ghi-rê-ga-sít và Giê-bu-sít.”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Lúc ấy, Sa-rai, vợ Áp-ram, vẫn chưa sinh con cho ông, nhưng bà có một đầy tớ gái người Ai Cập, tên A-ga.
\v 2 Vậy, Sa-rai nói với Áp-ram: “Này, Giê-hô-va đã khiến tôi son sẻ. Ông hãy ăn ở với đứa đầy tớ của tôi, biết đâu nhờ nó mà tôi sẽ có con cái. ” Áp-ram nghe theo lời Sa-rai.
\v 3 Việc Sa-rai, vợ Áp-ram, giao A-ga, người đầy tớ người Ai Cập của bà, cho chồng làm vợ xảy ra sau khi Áp-ram đã sống trong xứ Ca-na-an được mười năm.
\v 4 Thế là ông đi lại với A-ga, và bà đã mang thai. Khi thấy mình đã có thai, bà ta bắt đầu xem thường bà chủ mình.
\s5
\v 5 Vậy, Sa-rai nói với Áp-ram: “Việc trái khuấy này tôi chịu là do ông. Tôi đã trao con đầy tớ mình vào lòng ông, và rồi khi nó thấy mình có thai, nó lại nhìn tôi cách khinh bỉ. Nguyện Giê-hô-va phân định đúng sai giữa tôi với ông. ”
\v 6 Nhưng Áp-ram nói với Sa-rai: “Kìa, đầy tớ gái của bà ở dưới tay bà, bà cư xử với cô ta thế nào tùy ý. ” Vậy là Sa-rai đối đãi hà khắc với A-ga, khiến bà ta phải trốn chạy.
\s5
\v 7 Thiên sứ của Giê-hô-va thấy A-ga gần bên suối nước trong hoang mạc, là dòng suối trên đường đi Su-rơ.
\v 8 Thiên sứ hỏi: “Này A-ga, đầy tớ của Sa-rai, bà từ đâu đến đây, và bà định đi đâu? ” A-ga đáp: “Tôi đang chạy trốn khỏi bà chủ Sa-rai của tôi.”
\s5
\v 9 Thiên sứ của Giê-hô-va bảo chị: “Hãy trở về với bà chủ của bà và phục dưới quyền của bà ấy. ”
\v 10 Rồi thiên sứ nói tiếp: “Ta sẽ khiến hậu tự bà gia tăng bội phần, đông đến nỗi không thể đếm được.”
\s5
\v 11 Thiên sứ của Giê-hô-va nói với chị: “Này, bà đang mang thai, rồi sẽ sinh một bé trai, và bà sẽ đặt tên con là Ích-ma-ên, vì Giê-hô-va đã nghe thấy nỗi thống khổ của chị.
\v 12 Đứa bé sẽ như con lừa rừng. Nó sẽ chống lại mọi người, mọi người cũng sẽ chống lại nó, và nó sẽ sống cách xa mọi anh em mình.”
\s5
\v 13 Rồi A-ga đặt tên cho Giê-hô-va đã phán với mình đó là “Ngài Là Đức Chúa Trời Nhìn Thấy Tôi, ” vì bà nói: “Tôi có thật tiếp tục nhìn thấy, thậm chí sau khi Ngài đã thấy tôi, chăng? ”
\v 14 Vì vậy, cái giếng có tên là Bê-e-la-cha-roi; nó ở khoảng giữa Ca-đe và Bê-rết.
\s5
\v 15 A-ga hạ sinh con trai cho Áp-ram, và Áp-ram đặt tên đứa bé mà A-ga đã sinh đó là Ích-ma-ên.
\v 16 Áp-ram được tám mươi sáu tuổi khi A-ga sinh Ích-ma-ên cho ông.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Giê-hô-va hiện ra với Áp-ram và nói với ông: “Ta là Đức Chúa Trời toàn năng. Hãy bước đi trước mặt Ta, làm một người trọn vẹn.
\v 2 Rồi Ta sẽ làm vững chắc giao ước Ta lập giữa Ta với con, và sẽ khiến dòng dõi con gia tăng gấp bội.”
\s5
\v 3 Áp-ram sấp mặt xuống đất, và Đức Chúa Trời nói tiếp với ông, rằng:
\v 4 "Về phần Ta, này, giao ước của Ta là với con. Con sẽ trở thành tổ phụ của nhiều dân tộc.
\v 5 Tên con sẽ không còn là Áp-ram nữa, mà con sẽ có tên là Áp-ra-ham vì Ta đã định cho con trở nên tổ phụ của nhiều dân tộc.
\v 6 Ta sẽ khiến con sinh sản thật nhiều, Ta sẽ khiến có các dân tộc ra từ con, và các vua sẽ do con mà có.
\s5
\v 7 Ta sẽ làm vững chắc giao ước giữa Ta và con cùng dòng dõi con về sau này, là giao ước đời đời trải suốt các thế hệ, để Ta làm Đức Chúa Trời của con và dòng dõi con.
\v 8 Ta sẽ ban cho con cùng hậu tự của con xứ mà con vẫn sống lâu nay, tức toàn xứ Ca-na-an, để làm cơ nghiệp đời đời, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng.”
\s5
\v 9 Rồi Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Về phần các con, các con phải giữ giao ước Ta con và hậu tự của con về sau này trải suốt các thế hệ.
\v 10 Đây là giao ước của Ta mà các con phải giữ, giữa Ta với con cùng dòng dõi con sau này: Mọi người nam giữa vòng các con phải chịu cắt bì.
\v 11 Da quy đầu của các con phải được cắt đi, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các con.
\s5
\v 12 Mọi người nam giữa vòng các con khi lên tám ngày tuổi phải chịu cắt bì, trải suốt các thế hệ của dân tộc các con. Điều này áp dụng cho người sinh ra trong nhà các con lẫn người dùng bạc mua về từ một người ngoại quốc không thuộc dòng dõi các con.
\v 13 Kẻ sinh ra trong nhà các con lẫn kẻ các con dùng bạc mua về đều phải chịu cắt bì. Giao ước của Ta ghi dấu trên thân thể các con để làm một giao ước đời là vậy.
\v 14 Bất kỳ người nam nào chưa cắt bì mà không chịu cắt bì trên thể xác mình sẽ bị loại ra khỏi dân tộc mình. Người đó đã vi phạm giao ước của Ta.”
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Về phần Sa-rai, vợ con, con đừng gọi nàng là Sa-rai nữa, mà hãy gọi là Sa-ra.
\v 16 Ta sẽ ban phước cho nàng, và Ta sẽ ban cho con một con trai do nàng sinh ra; nàng sẽ trở thành mẹ của các dân tộc. Vua của các dân sẽ từ nàng mà có.”
\s5
\v 17 Lúc đó, Áp-ra-ham sấp mặt xuống sát đất và cười thầm trong lòng, rằng: “Có thể nào người đã đã trăm tuổi lại có con chăng? Có thể nào Sa-ra đã chín mươi tuổi còn sanh được con trai? ”
\v 18 Áp-ra-ham thưa với Chúa: “Ôi, ước gì Ngài cho Ích-ma-ên được sống trước mặt Ngài!”
\s5
\v 19 Đức Chúa Trời đáp: “Không đâu, nhưng Sa-ra, vợ con, sẽ sinh cho con một con trai, và con phải đặt tên nó là Y-sác. Ta sẽ làm vững chắc giao ước của Ta với nó như một giao ước đời đời với hậu tự của nó.
\v 20 Về phần Ích-ma-ên thì Ta đã nghe con. Với lời này Ta ban phước cho nó, và sẽ khiến nó sinh sản và thêm nhiều lên gấp bội. Nó sẽ là cha của mười hai chi tộc, và ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn.
\v 21 Nhưng giao ước Ta thì Ta sẽ lập với Y-sác, đứa con mà Sa-ra sẽ sinh ra cho con vào cùng thời điểm này năm tới.”
\s5
\v 22 Khi đã chuyện trò với Áp-ra-ham xong thì Đức Chúa Trời lìa khỏi ông.
\v 23 Ngay ngày hôm đó, Áp-ra-ham đem con trai là Ích-ma-ên và mọi người sinh ra trong nhà mình, cùng tất cả những người ông đã mua bằng tiền mình, tức mọi người nam giữa vòng những người thuộc trong nhà ông, và cắt bì cho họ, như Đức Chúa Trời đã truyền cho ông.
\s5
\v 24 Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi ông chịu cắt bì.
\v 25 Còn Ích-ma-ên, con trai ông, được mười ba tuổi khi cậu chịu cắt bì.
\v 26 Vào chính ngày đó, cả Áp-ra-ham và con trai là Ích-ma-ên đều chịu cắt bì.
\v 27 Mọi người nam trong nhà ông cũng cùng chịu cắt bì với ông, gồm người sinh ra trong nhà ông lẫn người ông dùng tiền mua từ người ngoại quốc.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Giê-hô-va hiện ra với Áp-ra-ham gần mấy cây sồi của Mam-rê, khi ông ngồi ở cửa lều trại lúc trời nắng nóng trong ngày.
\v 2 Áp-ra-ham nhìn lên, và kìa, ông thấy có ba người đang đứng phía đối diện với mình. Khi trông thấy họ, ông từ cửa lều chạy ra đón họ và sụp người xuống đất bái chào.
\s5
\v 3 Ông thưa: “Lạy Chúa, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, thì xin Chúa đừng đi tiếp, mà hãy ghé lại chỗ tôi tớ Ngài đã.
\v 4 Xin hãy để chúng tôi đem ít nước ra rửa chân cho các vị, và các vị hãy nghỉ chân dưới cây này.
\v 5 Hãy để tôi lấy ít thức ăn bồi dưỡng cho các vị. Sau đó, các vị có thể lên đường, vì các vị đã ghé lại chỗ tôi tớ các vị. ” Các người ấy đáp: “Hãy làm như ông đã nói.”
\s5
\v 6 Vậy là Áp-ra-ham chạy nhanh vào trong lều gặp Sa-ra, nói: “Hãy mau lấy ba đấu bột mịn đem nhồi và làm bánh đi. ”
\v 7 Rồi Áp-ra-ham chạy ra bầy gia súc bắt một con bê non béo tốt, giao cho đầy tớ để anh nấu dọn gấp.
\v 8 Ông lấy sữa đông và sữa, cùng với thịt bê đã nấu xong, dọn các món ấy ra trước mặt các vị khách, còn ông thì đứng gần bên họ dưới cây trong lúc họ dùng bữa.
\s5
\v 9 Các vị ấy hỏi ông: “Sa-ra, vợ ông đâu rồi? ” Ông đáp: “Ở trong lều, đằng kia. ”
\v 10 Một vị nói: “Chắc chắn tôi sẽ quay trở lại gặp ông vào mùa xuân, lúc đó, vợ ông là Sa-ra sẽ có một con trai. ” Sa-ra đang đứng nghe ở nơi cửa lều, sau lưng Áp-ra-ham.
\s5
\v 11 Áp-ra-ham và Sa-ra đều đã già, tuổi cao, và Sa-ra đã quá độ tuổi mà người phụ nữ có thể sinh con.
\v 12 Vì vậy, Sa-ra cười thầm, tự nhủ: “Tôi đã tàn tạ thế này mà còn có được niềm vui ấy sao, khi mà chúa tôi cũng già rồi?”
\s5
\v 13 Giê-hô-va nói với Áp-ra-ham: “Vì sao Sa-ra cười và nói: Già như tôi đây lại sinh con được sao?
\v 14 Có việc gì khó quá đối với Giê-hô-va chăng? Đến thời điểm mà Ta đã định, vào mùa xuân, Ta sẽ trở lại đây. Khoàng thời gian này năm tới Sa-ra sẽ có con trai. ”
\v 15 Lúc ấy, Sa-ra sợ nên chối phăng, rằng: “Tôi có cười đâu. ” Vị khách đáp: “Có đấy. Bà có cười đấy.”
\s5
\v 16 Rồi mấy người đó đứng dậy ra đi và nhìn xuống hướng thành Sô-đôm: Áp-ra-ham đi theo để tiễn họ lên đường.
\v 17 Nhưng Giê-hô-va nói: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham việc mình sắp làm không,
\v 18 khi mà Áp-ra-ham quả sẽ trở thành một dân lớn hùng mạnh, và mọi dân trên đất sẽ nhờ người mà hưởng phước?
\v 19 Vì Ta đã chọn người để người chỉ dạy con cái cùng cả nhà người sau này tuân theo đường lối của Giê-hô-va, làm điều công bình, chánh trực, để Giê-hô-va thực hiện trên Áp-ra-ham những điều Ngài đã hứa với người.”
\s5
\v 20 Rồi Giê-hô-va nói: “Vì có rất nhiều lời cáo tội Sô-đôm và Gô-mô-rơ, và vì tội lỗi họ rất lớn,
\v 21 nên giờ Ta sẽ xuống đó để xem có đúng là họ gian ác như các lời cáo tội thấu đến Ta đã nêu hay không. Nếu không đúng thì ta cũng sẽ biết.”
\s5
\v 22 Vậy là mấy người ấy quay đi về hướng Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham cứ đứng đó trước mặt Giê-hô-va.
\v 23 Rồi Áp-ra-ham đến gần và hỏi: “Chúa sẽ hủy diệt người công chính chung với kẻ ác sao?
\s5
\v 24 Biết đâu có năm mươi người công chính ở trong thành. Lẽ nào Chúa sẽ hủy diệt thành và không tha cho vì cớ năm mươi người công chính sống ở đó?
\v 25 Không có chuyện Ngài sẽ làm như vậy giết chết người công chính cùng với kẻ ác, để rồi người công chính bị đối xử y như kẻ ác. Ngài không thể làm vậy được! Đấng xét xử toàn cõi đất lại không thi hành sự công chính sao? ”
\v 26 Giê-hô-va đáp: “Nếu Ta tìm được năm mươi người công chính trong thành, thì Ta sẽ tha cho cả thành vì cớ họ.”
\s5
\v 27 Áp-ra-ham trả lời: “Thưa, tôi đây chỉ là cát bụi, dầu vậy, tôi cũng mạo muội thưa thế này với Chúa tôi.
\v 28 Nếu lỡ thiếu mất năm người công chính thì sao? Ngài sẽ diệt cả thành vì thiếu mất năm người đó ư? ” Chúa đáp: “Ta sẽ không hủy diệt thành nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người ở đó.”
\s5
\v 29 Áp-ra-ham lại thưa với Ngài: “Nếu ở đó chỉ có được bốn mươi người thì sao? ” Ngài đáp: “Ta sẽ không diệt thành vì cớ bốn mươi người đó. ”
\v 30 Áp-ra-ham thưa: “Lạy Chúa, tôi xin Ngài đừng nổi giận. Biết đâu ở đó sẽ có được ba mươi người. ” Ngài đáp: “Ta sẽ không diệt thành nếu Ta tìm thấy ba mươi người tại đó. ”
\v 31 Áp-ra-ham nói: “Tôi xin cả gan thưa với Chúa tôi biết đâu ở đó có hai mươi người. ” Ngài đáp: “Ta sẽ không hủy diệt thành vì cớ hai mươi người.”
\s5
\v 32 Cuối cùng, ông thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, rồi tôi sẽ hỏi chỉ một lần cuối này. Biết đâu có mười người ở đó. ” Ngài đáp: “Ta sẽ không hủy diệt thành vì cớ mười người này. ”
\v 33 Nói chuyện với Áp-ra-ham xong, Giê-hô-va lên đường, còn Áp-ra-ham quay vào nhà.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Hai thiên sứ đến thành Sô-đôm vào lúc chiều tà, khi Lót đang ngồi tại cửa thành. Thấy họ, Lót đứng dậy tiếp đón và sấp mặt xuống đất bái chào.
\v 2 Ông nói: “Thưa các chúa, tôi xin các chúa tẻ bước ghé lại nhà tôi tớ các ngài để nghỉ đêm và rửa chân. Rồi các chúa có thể dậy sớm và tiếp tục lên đường. ” Họ đáp: “Không cần, chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài phố. ”
\v 3 Nhưng ông cứ ép nài, khiến họ phải theo ông vào nhà. Ông sửa soạn bữa ăn và nướng bánh không men, rồi họ ăn.
\s5
\v 4 Nhưng họ chưa kịp đi nằm nghỉ thì giới đàn ông trong thành, tức những người nam tại Sô-đôm, vây lấy ngôi nhà trẻ có, già có, tất cả đàn ông từ khắp nơi trong thành.
\v 5 Họ kêu réo Lót, hỏi ông, rằng: “Mấy gã đã đến nhà ông tối này đâu rồi? Hãy đem họ ra đây, để chúng tôi ngủ với họ.”
\s5
\v 6 Vì vậy, Lót đi ra gặp họ và đóng cửa lại sau lưng.
\v 7 Ông nói: “Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm chuyện gian ác như vậy.
\v 8 Kìa, tôi có hai con gái còn đồng trinh. Xin anh em hãy để tôi đem chúng ra đây, và anh em cứ làm điều gì với chúng mặc ý. Chỉ xin anh em đừng làm gì mấy người này, vì họ đã đến tá túc dưới mái nhà tôi.”
\s5
\v 9 Chúng bảo: “Ông lui ra! ” Rồi tiếp: “Gã này là dân ngoại quốc đến đây sống nhờ, mà nay lại muốn đoán xét chúng ta! Bọn tao sẽ xử tội mày nặng hơn mấy người kia. ” Họ lấn ép ông, tức Lót, và gần phá được cửa.
\s5
\v 10 Nhưng các vị khách đưa tay ra đem Lót vào nhà rồi đóng cửa lại.
\v 11 Đối với những gã đàn ông ở bên ngoài, các vị khách của Lót khiến họ già trẻ đều bị mù mắt, đến nỗi phải mòn mỏi kiếm cửa vào.
\s5
\v 12 Rồi các vị ấy hỏi Lót: “Nhà ông còn ai khác không? Con rễ, con trai, con gái, và bất cứ ai thân thích trong thành này hãy đưa họ ra khỏi đây.
\v 13 Chúng tôi sắp hủy diệt nơi này, vì những lời cáo tội nó đã vang thấu lên trước mặt Giê-hô-va, nên Ngài sai chúng tôi đến hủy diệt thành."
\s5
\v 14 Lót ra ngoài nói với mấy con rễ mình, tức những kẻ đã hứa hôn với các con gái ông, rằng: “Hãy mau ra khỏi nơi này, vì Giê-hô-va sắp hủy diệt thành phố. ” Nhưng mấy người này tưởng ông nói chơi.
\v 15 Khi trời hừng đông, các thiên sứ hối thúc Lót, rằng: “Hãy đi, đem theo vợ cùng hai con gái ông đang ở đây, để các người khỏi bị diệt mất chung với thành.”
\s5
\v 16 Nhưng ông lừng khừng. Vậy là mấy người đó nắm kéo tay ông, cùng vợ và hai người con gái, vì Giê-hô-va nhân từ với ông. Hai người đem họ ra và để họ bên ngoài thành.
\v 17 Khi đã đem họ ra rồi, một trong hai vị nói: “Hãy chạy mà thoát thân! Đừng nhìn lại, cũng đừng dừng lại bất kỳ chỗ nào trong đồng bằng. Hãy chạy trốn lên núi, để các người khỏi bị diệt mất.”
\s5
\v 18 Lót nói với họ: “Không đâu, thưa các chúa!
\v 19 Tôi tớ các chúa đã được ơn trước mặt các chúa, và các chúa đã tỏ lòng nhân từ khi cứu sống tôi, nhưng tôi không thể chạy thoát lên núi được, vì tai họa sẽ bắt kịp tôi và tôi phải chết.
\v 20 Kìa, có cái thành đằng kia cũng gần để tôi chạy đến, mà thành lại nhỏ. Xin cho tôi chạy thoát đến đó (nó không phải là một thành nhỏ đó sao?), và tôi sẽ bảo toàn được mạng sống.”
\s5
\v 21 Thiên sứ đáp: “Thôi được, ta cũng chìu theo yêu cầu của ông và sẽ không hủy diệt thành mà ông nói đó.
\v 22 Nhanh lên! Hãy chạy thoát đến đó, vì ta không thể làm gì cho đến khi các người đến nơi. ” Vậy nên thành đó mới có tên là Xoa.
\s5
\v 23 Khi Lót đến được Xoa thì mặt trời đã mọc trên đất.
\v 24 Rồi Giê-hô-va giáng mưa lưu huỳnh cùng với lửa từ trời đổ xuống thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
\v 25 Ngài hủy diệt các thành ấy và toàn vùng đồng bằng, cùng với mọi cư dân trong thành và cây cỏ mọc trên đất.
\s5
\v 26 Nhưng vợ của Lót ở phía sau ông ngoái nhìn lại, và bà biến thành một trụ muối.
\v 27 Áp-ra-ham thức dậy lúc sáng sớm và đi ra chỗ ông đã đứng chầu trước mặt Giê-hô-va.
\v 28 Ông nhìn xuống thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, cũng như toàn vùng đồng bằng. Ông nhìn, và kìa, khói từ dưới đất bay lên giống khói của một lò lửa lớn.
\s5
\v 29 Vậy, khi Giê-hô-va hủy diệt các thành trong vùng đồng bằng, Ngài nhớ đến Áp-ra-ham. Ngài giải cứu Lót khỏi chốn hủy diệt khi Ngài thiêu hủy các thành nơi Lót đã sống.
\s5
\v 30 Nhưng Lót bỏ thành Xoa mà lên núi sống cùng hai cô con gái, vì ông sợ không dám sống ở Xoa. Như vậy, ông sống trong một hang động ông cùng hai con gái mình.
\s5
\v 31 Cô con gái đầu nói với em: “Cha đã già, và lại chẳng còn đàn ông đâu mà ăn ở với chúng ta theo thói thường của đời này.
\v 32 Nào, chúng ta hãy phục rượu cha, rồi chúng ta sẽ ngủ với người, để chúng ta sẽ lưu truyền dòng giống cho cha. ”
\v 33 Vậy là tối hôm đó họ phục rượu ông. Rồi cô chị đến ngủ với cha mình; còn ông thì chẳng biết cô ta vào nằm lúc nào hoặc dậy khi nào.
\s5
\v 34 Ngày hôm sau, cô chị lại nói với cô em: “Nghe này, tối qua chị đã ngủ với cha. Tối nay chúng ta cũng sẽ phục rượu cha, rồi em sẽ vào ngủ với người, để chúng ta có thể lưu truyền dòng giống của cha. ”
\v 35 Vậy, tối đó họ lại phục rượu ông, rồi cô em vào ngủ với ông. Ông chẳng biết cô ta vào nằm lúc nào hoặc dậy khi nào.
\s5
\v 36 Như vậy, cả hai con gái của Lót đều bởi cha mình mà có thai.
\v 37 Cô chị sinh được một con trai và đặt tên là Mô-áp. Nó trở thành tổ phụ của dân Mô-áp ngày nay.
\v 38 Về phần cô em, cô ta cũng sinh một con trai, và đặt tên là Bên-Am-mi. Nó trở thành tổ phụ của dân Am-môn ngày nay.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Từ nơi đó Áp-ra-ham đi đến vùng đất Nê-ghép, sống giữa Ca-đe và Su-rơ. Ông trở thành một ngoại kiều sinh sống tại Ghê-ra.
\v 2 Áp-ra-ham nói về Sa-ra, vợ mình, rằng: “Bà ấy là em gái tôi. ” Vậy là A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra, sai người đến bắt Sa-ra.
\v 3 Nhưng Đức Chúa Trời hiện đến với A-bi-mê-léc trong một giấc mơ vào ban đêm, phán với ông: “Này, ngươi sẽ chết bởi cớ người phụ nữ mà ngươi đã chiếm đoạt, vì nàng đã có chồng.”
\s5
\v 4 Lúc ấy, A-bi-mê-léc chưa đến gần Sa-ra, nên ông thưa: “Lạy Chúa, Ngài sẽ diệt luôn cả một dân công bình sao?
\v 5 Chẳng phải chính ông ta đã nói với tôi rằng: Nàng là em tôi đó sao? Mà ngay cả nàng cũng nói: Ông ấy là anh tôi. Tôi đã làm việc này xuất phát từ lòng chính trực và đôi bàn tay thanh sạch của mình.”
\s5
\v 6 Rồi Đức Chúa Trời đáp lại ông trong giấc mơ: “Phải, Ta cũng biết rằng người đã làm chuyện đó bởi lòng chính trực mình, nên Ta cũng đã giữ ngươi khỏi phạm tội với Ta. Ta đã không để cho ngươi chạm đến nàng.
\v 7 Vậy, hãy trả lại vợ của ông ấy, vì ông ấy là nhà tiên tri. Ông ấy sẽ cầu nguyện cho ngươi, và ngươi sẽ được sống. Còn nếu người không trả nàng lại, thì hãy biết rằng ngươi cùng mọi người thuộc về ngươi hẵn sẽ chết.”
\s5
\v 8 A-bi-mê-léc thức dậy lúc sáng sớm và gọi hết các đầy tớ của mình lại. Ông thuật cho họ mọi điều đó, và những người ấy rất lo sợ.
\v 9 Rồi A-bi-mê-léc mời Áp-ra-ham đến và nói với ông: “Ông đã làm gì cho chúng ta vậy? Ta đã mắc tội với ông thế nào mà ông lại khiến cho ta và xứ của ta vướng vào tội ác này? Ông đã gây ra cho ta điều đáng ra không nên có.”
\s5
\v 10 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham: “Điều gì đã khiến ông làm vậy? ”
\v 11 Áp-ra-ham đáp: “Vì tôi nghĩ: Hẵn là người ta không kính sợ Đức Chúa Trời ở đây, và họ sẽ giết chết mình vì cớ vợ mình.
\v 12 Mà nàng cũng thật là em gái tôi, em cùng cha khác mẹ của tôi, và tôi lấy nàng làm vợ.
\s5
\v 13 Khi Đức Chúa Trời khiến tôi rời bỏ nhà cha đi lưu lạc đây đó, tôi đã nói với nàng: Nàng phải tỏ lòng chung thủy với tôi thế này: Tại bất kỳ nơi nào chúng ta đến, hãy nói về tôi rằng: “Ông ấy là anh tôi. ”’
\v 14 Sau đó, A-bi-mê-léc lấy chiên, bò, tôi trai tớ gái mà tặng cho Áp-ra-ham. Rồi vua cũng trả Sa-ra, vợ Áp-ra-ham, lại cho ông.
\s5
\v 15 A-bi-mê-léc nói: “Này, xứ của ta ở trước mặt ông đó. Ông có thể sinh sống ở đâu tùy ý. ”
\v 16 Với Sa-ra, vua nói: “Đấy, ta đã tặng cho anh nàng một ngàn miếng bạc. Số bạc đó là để bồi hoàn danh dự lại cho nàng trước mặt mọi kẻ đi cùng nàng, và trong mắt mọi người, nàng hoàn toàn không có gì sai quấy.”
\s5
\v 17 Rồi Áp-ra-ham cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và Ngài chữa bệnh cho A-bi-mê-léc, vợ vua, và các đầy tớ gái của vua, để họ có thể sinh con.
\v 18 Số là Giê-hô-va đã khiến tất cả phụ nữ thuộc nhà A-bi-mê-léc bị son sẻ vì cớ Sa-ra, vợ Áp-ra-ham.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Giê-hô-va quan tâm đến Sa-ra như Ngài đã nói và Giê-hô-va thực hiện cho Sa-ra điều Ngài hứa.
\v 2 Sa-ra mang thai rồi sinh một con trai cho Áp-ra-ham khi ông đã già, vào đúng thời điểm mà Đức Chúa Trời đã phán bảo với ông.
\v 3 Áp-ra-ham đặt tên cho con trai mà Sa-ra đã sinh cho mình là Y-sác.
\v 4 Khi Y-sác được tám ngày tuổi, Áp-ra-ham cắt bì cho cậu, theo như Đức Chúa Trời đã truyền dạy ông.
\s5
\v 5 Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi con trai mình là Y-sác sinh ra.
\v 6 Sa-ra nói: “Đức Chúa Trời đã khiến tôi phải cười; mọi người nghe biết chuyện sẽ cùng cười với tôi. ”
\v 7 Bà cũng nói: “Có ai dám nói với Áp-ra-ham là Sa-ra sẽ cho con bú, vậy mà tôi lại đã sinh cho ông nhà tôi con trai khi tuổi ông ấy đã cao!”
\s5
\v 8 Cậu bé lớn lên và thôi bú; vào ngày Y-sác dứt sữa, Áp-ra-ham dọn một bữa tiệc thật lớn.
\v 9 Sa-ra nhìn thấy con trai mà A-ga, người Ai Cập, đã sinh cho Áp-ra-ham giễu cợt.
\s5
\v 10 Vậy là bà bảo Áp-ra-ham: “Ông hãy đuổi ả đầy tớ đó cùng con của mụ ta đi, vì con của ả sẽ không được thừa kế cùng với con tôi là Y-sác đâu. ”
\v 11 Lời này khiến Áp-ra-ham buồn lòng, vì đó là con mình.
\s5
\v 12 Nhưng Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Đừng buồn vì cớ cậu bé và vì cớ người nữ đầy tớ đó. Hãy nghe theo lời Sa-ra trong mọi việc mà nàng bàn với con liên quan đến chuyện này, vì Y-sác mới là người mà theo đó dòng dõi con được đặt tên.
\v 13 Ta cũng sẽ làm con trai của người phụ nữ đầy tớ thành ra một dân tộc, vì nó cũng là dòng dõi con.”
\s5
\v 14 Áp-ra-ham dậy sớm vào buổi sáng lấy bánh với một bình nước, rồi đưa cho A-ga, đeo nó vào vai của bà. Ông giao cho bà cậu con trai, và bảo họ phải đi. Bà ra đi và lang thang trong vùng hoang mạc Bê-e-sê-ba.
\v 15 Khi nước trong bình đã cạn, bà để con dưới một bụi cây.
\v 16 Rồi bà bỏ đi đến ngồi cách đó một khoảng tên bắn, vì bà nói: “Phải làm sao để mình khỏi nhìn thấy đứa trẻ chết. ” Khi ngồi đối ngang cậu bé như vậy, bà cất tiếng la khóc.
\s5
\v 17 Đức Chúa Trời nghe tiếng cậu bé; thiên sứ của Đức Chúa Trời từ trên trời gọi A-ga và phán với chị: “Này, A-ga, chị sao vậy? Đừng sợ, vì Đức Chúa Trời đã nghe tiếng cậu bé tại chỗ cậu đang ngồi.
\v 18 Hãy đứng dậy đỡ cậu bé lên, và vỗ về cậu; vì Ta sẽ khiến cậu thành một dân lớn.”
\s5
\v 19 Rồi Đức Chúa Trời mở mắt bà, và bà thấy một cái giếng nước. Bà đến lấy nước đổ đầy bình và cho cậu bé uống.
\v 20 Đức Chúa Trời ở cùng cậu, và cậu lớn lên. Cậu sống trong hoang mạc, trở nên một cung thủ.
\v 21 Cậu sống trong vùng hoang mạc Pha-ran, rồi người mẹ cưới cho cậu một cô vợ từ xứ Ai Cập.
\s5
\v 22 Lúc ấy, A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan lãnh binh mình, nói với Áp-ra-ham, rằng: “Đức Chúa Trời đã ở cùng ông trong mọi việc ông làm.
\v 23 Vậy, bây giờ, ông hãy chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề với ta rằng ông sẽ không lừa dối ta, các con ta, và dòng dõi ta sau này. Hãy đối xử với ta và với xứ sở mà ông đã ở lâu này một cách trung thực y như ta đã đối xử với ông vậy. ”
\v 24 Áp-ra-ham đáp: “Tôi thề.”
\s5
\v 25 Áp-ra-ham cũng phàn nàn với A-bi-mê-léc về một giếng nước mà các tôi tớ của A-bi-mê-léc đã chiếm đoạt của ông.
\v 26 A-bi-mê-léc nói: “Ta không biết ai đã làm chuyện ấy. Lâu nay ông có nói cho ta đâu; bữa nay ta mới biết đó thôi. ”
\v 27 Vậy, Áp-ra-ham bắt chiên, bò tặng cho A-bi-mê-léc, và hai người lập giao ước.
\s5
\v 28 Rồi Áp-ra-ham để riêng ra bảy con chiên cái tơ trong bầy.
\v 29 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham: “Bảy con chiên tơ mà ông để riêng ra đó nghĩa là thế nào vậy? ”
\v 30 Áp-ra-ham đáp: “Bảy con chiên tơ này xin vua hãy nhận lấy từ tay tôi, để làm chứng cho tôi rằng chính tôi đã đào cái giếng này.”
\s5
\v 31 Vì vậy, ông gọi nơi ấy là Bê-e-sê-ba, vì đó là nơi hai người đã thề nguyện.
\v 32 Họ lập giao ước tại Bê-e-sê-ba, xong A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan lãnh binh của vua, quay trở về xứ của dân Phi-li-tin.
\s5
\v 33 Áp-ra-ham trồng tại Bê-e-sê-ba một cây thánh liễu. Ở đó, ông thờ lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời đời đời.
\v 34 Áp-ra-ham tiếp tục ngụ trong đất của người Phi-li-tin như một ngoại kiều suốt một thời gian dài.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Sau các việc ấy, Đức Chúa Trời thử nghiệm Áp-ra-ham. Ngài gọi ông: “Này, Áp-ra-ham! ” Áp-ra-ham đáp: “Có con đây! ”
\v 2 Đức Chúa Trời nói: “Hãy đem con trai con, tức con trai một của con mà con yêu quý, đi đến xứ Mô-ri-a. Hãy dâng nó làm của lễ thiêu trên một ngọn núi tại đó mà Ta sẽ cho con biết. ”
\v 3 Vậy là Áp-ra-ham dậy sớm vào buổi sáng, thắng lừa và đem theo mình hai gia nhân trẻ, cùng với con trai là Y-sác. Ông chặt củi để dùng dâng của lễ thiêu, rồi lên đường đi đến nơi mà Đức Chúa Trời đã cho ông biết.
\s5
\v 4 Đến ngày thứ ba, Áp-ra-ham nhìn lên và thấy nơi đó ở đằng xa.
\v 5 Áp-ra-ham nói với mấy người trẻ: “Hãy ở lại đây với con lừa, ta và cậu bé sẽ đi đến đó. Chúng ta sẽ thờ phượng và quay trở lại với các chú. ”
\v 6 Rồi Áp-ra-ham lấy củi dùng dâng của lễ thiêu chất lên con trai mình.
\s5
\v 7 Y-sác gọi Áp-ra-ham, cha mình: “Cha ơi! ” và ông đáp: “Có cha đây. ” Y-sác hỏi: “Ở đây có lửa và củi rồi, nhưng chiên con để dâng làm của lễ thiêu đâu? ”
\v 8 Áp-ra-ham đáp: “Con trai của cha, chính Đức Chúa Trời sẽ ban chiên con để dâng làm của lễ thiêu. ” Và hai cha con cứ tiếp tục đi.
\s5
\v 9 Khi họ đến chỗ mà Đức Chúa Trời đã chỉ cho Áp-ra-ham, ông làm một bàn thờ tại đó và chất củi lên. Rồi ông trói Y-sác, con trai mình, đặt cậu lên đống củi trên bàn thờ.
\v 10 Áp-ra-ham đưa tay lấy dao định giết con trai mình.
\s5
\v 11 Lúc ấy, thiên sứ của Giê-hô-va từ trên trời gọi ông: “Này, Áp-ra-ham, Áp-ra-ham! ” Ông đáp: “Có tôi đây. ”
\v 12 Thiên sứ bảo: “Đừng giết chết cậu bé, cũng đừng làm gì hại nó; giờ đây Ta biết rằng con kính sợ Đức Chúa Trời, vì con không tiếc với Ta chính con trai, là con một của mình.”
\s5
\v 13 Áp-ra-ham nhìn lên và, kìa, có một con chiên đực, sừng bị mắc trong các bụi rậm phía sau ông. Áp-ra-ham đến bắt con chiên đó dâng làm của lễ thiêu thay cho con mình.
\v 14 Vì vậy, Áp-ra-ham gọi chỗ đó là “Giê-hô-va sẽ cung ứng, ” và cho đến ngày nay người ta vẫn còn nói: “Trên núi của Giê-hô-va, Ngài sẽ cung ứng.”
\s5
\v 15 Thiên sứ của Giê-hô-va từ trên trời gọi ông lần thứ hai,
\v 16 rằng đây là lời phán của Giê-hô-va: “Ta đã chỉ chính Ta mà thề rằng vì con đã làm việc này, không tiếc chính con trai mình, là con một của con,
\v 17 nên Ta chắc chắn sẽ ban phước cho con và Ta sẽ khiến dòng dõi con trở nên đông đúc, nhiều như sao trời, nhiều như cát biển; dòng dõi con sẽ chiếm được cổng thành quân thù.
\s5
\v 18 Bởi hậu tự con mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước, vì con đã vâng theo tiếng Ta. ”
\v 19 Vậy, Áp-ra-ham quay trở lại chỗ mấy người trẻ, và họ cùng lên đường đi Bê-e-sê-ba; ông sống tại Bê-e-sê-ba.
\s5
\v 20 Sau các việc ấy, có người báo cho Áp-ra-ham rằng: “Minh-ca cũng đã sinh con cho em trai của ông là Na-cô. ”
\v 21 Các con đó là Út-xơ, trưởng nam, Bu-xơ, em trai cậu ta, Kê-mu-ên, cha của A-ram,
\v 22 Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp và Bê-tu-ên.
\s5
\v 23 Bê-tu-ên sinh Rê-be-ca. Đó là tám người con mà Minh-ca sinh cho Na-cô, em trai Áp-ra-ham.
\v 24 Vợ lẽ của Na-cô là Rê-u-ma cũng sinh con, đó là Tê-la, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Sa-ra sống được một trăm hai mươi bảy năm. Đó là số năm của cuộc đời Sa-ra.
\v 2 Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át A-ra-ba, tức Hếp-rôn, trong xứ Ca-na-an. Áp-ra-ham tiếc thương và than khóc Sa-ra.
\s5
\v 3 Rồi Áp-ra-ham đứng lên khỏi người vợ quá cố và đến nói với con cháu dòng họ Hếch:
\v 4 “Tôi đây chỉ là kiều dân giữa vòng các ông. Xin hãy nhượng lại cho tôi một mãnh đất làm mộ địa trong xứ các ông, để tôi chôn cất người chết của tôi.”
\s5
\v 5 Các con cháu dòng họ Hếch đáp lại Áp-ra-ham, rằng:
\v 6 “Thưa chúa, xin hãy nghe đây. Ông là công hầu của Đức Chúa Trời ở giữa chúng tôi. Hãy an táng người chết của ông nơi phần mộ tốt nhất của chúng tôi. Chẳng ai trong chúng tôi từ chối dành cho ông phần mộ của mình để ông chôn người chết của ông đâu.”
\s5
\v 7 Áp-ra-ham đứng dậy sụp người xuống trước mặt người dân vùng đó, tức các con cháu dòng họ Hếch.
\v 8 Ông nói với họ, rằng: “Nếu các ông đồng ý cho tôi chôn người chết của mình, thì xin hãy nghe tôi và nài xin Ép-rôn, con ông Xô-ha, giúp tôi.
\v 9 Xin nói với ông ấy bán cho tôi cái hang Mạc-bê-la mà ông ta sở hữu, nằm ở cuối cánh đồng; trước mặt mọi người đây, tôi xin mua lại đúng giá để làm mộ địa.”
\s5
\v 10 Ép-rôn lúc ấy đang ngồi giữa vòng các con cháu dòng họ Hếch, nên Ép-rôn, người Hê-tít, đáp lại Áp-ra-ham trước mặt con cháu dòng họ Hếch, tức mọi người đã tập hợp lại ở cửa thành, rằng:
\v 11 “Thưa chúa, không cần đâu. Xin hãy nghe tôi. Tôi tặng cho chúa cánh đồng, cùng với cái hang trên đó. Tôi xin tặng nó cho chúa trước mặt con cái dân tôi. Tôi tặng nó cho chúa để an táng người chết của ngài.”
\s5
\v 12 Áp-ra-ham sụp người xuống trước mặt dân xứ đó.
\v 13 Ông nói với Ép-rôn, có dân xứ ấy nghe thấy, rằng: “Xin ông hãy nghe tôi. Tôi sẽ mua cánh đồng đó. Ông cứ nhận tiền cho, rồi tôi mới chôn người chết của mình ở đó được.”
\s5
\v 14 Ép-rôn đáp lại Áp-ra-ham, rằng:
\v 15 “Xin chúa hãy nghe tôi đây. Miếng đất như vậy giá bốn trăm siếc-lơ bạc, nhưng giữa tôi và chúa thì nó có là bao! Xin hãy cứ chôn người chết của ngài đi. ”
\v 16 Áp-ra-ham nghe Ép-rôn định giá, ông cân lượng bạc mà Ép-rôn cho biết, trước sự nghe thấy của các con cháu dòng họ Hếch, tức bốn trăm siếc-lơ, theo chuẩn đo lường của giới thương buôn.
\s5
\v 17 Như vậy, cánh đồng của Ép-rôn ở Mạc-bê-la, kế cận với Mam-rê, tức cánh đồng, cái hang, cùng tất cả cây cối trên đó và chung quanh ranh giới nó, được bán lại
\v 18 cho Áp-ra-ham trước sự chứng kiến của các con cháu dòng họ Hếch, tức mọi người đã tập họp nơi cửa thành.
\s5
\v 19 Sau đó, Áp-ra-ham an táng bà Sa-ra, vợ ông, trong cái hang thuộc cánh đồng Mạc-bê-la, sát cạnh Mam-rê, tức Hếp-rôn, trong xứ Ca-na-an.
\v 20 Như vậy, cánh đồng và cái hang trên đó được các con cháu dòng họ Hếch nhượng lại cho Áp-ra-ham để làm mộ địa.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Áp-ra-ham đã già, tuổi cao, và Giê-hô-va đã ban phước cho Áp-ra-ham trong mọi việc.
\v 2 Áp-ra-ham nói với đầy tớ mình, là anh đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà và chịu trách nhiệm trông coi mọi tài sản của ông, rằng: “Hãy đặt bàn tay chú dưới đùi tôi đây
\v 3 rồi tôi sẽ buộc chú chỉ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của trời và Đức Chúa Trời của đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới vợ cho con trai tôi từ giữa vòng các phụ nữ xứ Ca-na-an, nơi tôi đang cư ngụ đây.
\v 4 Mà chú sẽ đi về xứ sở tôi, đến với các bà con của tôi, để kiếm vợ cho con trai tôi là Y-sác.”
\s5
\v 5 Anh đầy tớ thưa: “Nhưng nếu người nữ ấy không chịu theo tôi về xứ này thì sao? Tôi có phải đưa cậu chủ trở về vùng đất quê hương của ông chủ không? ”
\v 6 Áp-ra-ham nói với anh: “Chú phải hứa là sẽ không đem con trai tôi về lại đó!
\v 7 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của trời, Đấng đã đem tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi xứ sở của bà con tôi, và đã long trọng thề hứa với tôi, rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi con đất này Ngài sẽ sai thiên sứ Ngài đi trước chú, và chú sẽ cưới một người vợ cho con trai tôi từ nơi đó.
\s5
\v 8 Nhưng nếu người phụ nữ không chịu theo chú về, thì chú sẽ không còn bị mắc lời thề với tôi. Dầu gì thì cũng đừng đưa con trai tôi trở về xứ ấy. ”
\v 9 Vậy là anh đầy tớ để tay dưới đùi Áp-ra-ham, chủ mình, và thề hứa với ông về việc này.
\s5
\v 10 Anh lên đường, dẫn theo mười con lạc đà của chủ. Anh cũng đem theo mình đủ thứ phẩm vật của chủ mình. Anh khởi hành đi về xứ A-ram Na-ha-ra-im, đến thành của ông Na-cô.
\v 11 Anh cho lạc đà quỳ xuống nghỉ cạnh một giếng nước bên ngoài thành phố. Khi ấy đã xế chiều, là lúc giới phụ nữ đi ra kéo nước.
\s5
\v 12 Anh nói: “Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, xin hãy cho tôi làm thành việc bữa nay và tỏ lòng thành tín với chủ Áp-ra-ham tôi.
\v 13 Này, tôi đang đứng cạnh giếng nước này; các thiếu nữ của những người dân trong thành đang đến múc nước.
\v 14 Xin cho việc sẽ diễn ra thế này. Nếu tôi nói với một thiếu nữ rằng: Xin hãy hạ bình nước xuống cho tôi uống với, và nàng đáp lại: Ông uống đi, rồi tôi sẽ cho lạc đà của ông uống nữa, thì đó sẽ là người mà Ngài đã chọn làm vợ của Y-sác, kẻ tôi tớ Ngài. Nhờ đó, tôi sẽ biết rằng Chúa đã tỏ lòng thành tín với chủ tôi.”
\s5
\v 15 Thậm chí khi anh chưa nói xong thì, kìa, Rê-be-ca vác bình đựng nước từ trong thành đi ra. Cô là con gái của Bê-tu-ên, con trai Minh-ca, vợ Na-cô, em trai Áp-ra-ham.
\v 16 Thiếu nữ này rất xinh đẹp và còn trinh trắng, chưa ăn ở với ai. Cô xuống suối múc đầy bình nước rồi quay trở lên.”
\s5
\v 17 Anh đầy tớ chạy đến gặp cô, nói: “Xin cho tôi uống nước trong bình của cô với. ”
\v 18 Cô ta đáp: “Thưa chúa, xin cứ uống, ” và cô liền hạ bình nước xuống trên tay để anh uống.
\s5
\v 19 cho anh uống xong, cô nói: “Tôi cũng sẽ múc nước cho lạc đà của ông, cho đến khi chúng nghỉ uống. ”
\v 20 Vậy là cô lật đật trút đổ nước trong bình vào máng, rồi chạy lại giếng múc thêm nước nữa cho lạc đà của anh.
\s5
\v 21 Anh đầy tớ ngồi yên nhìn cô để xem Giê-hô-va có khiến chuyến đi của mình được thành chăng.
\v 22 Khi lạc đà uống xong, anh đầy tớ lấy một chiếc khuyên vàng nặng nửa siếc-lơ và đôi xuyến cũng bằng vàng nặng mười siếc-lơ để đeo vào tay cô,
\v 23 rồi hỏi: “Cô là con của ai vậy? Xin cho tôi biết trong nhà cô có chỗ cho chúng tôi nghỉ qua đêm không?”
\s5
\v 24 Cô ta đáp: “Tôi là con ông Bê-tu-ên, con trai của bà Minh-ca và ông Na-cô. ”
\v 25 Cô cũng nói với anh: “Chúng tôi có nhiều rơm và thức ăn cho súc vật, cũng có chỗ để các ông nghỉ đêm.”
\s5
\v 26 Anh đầy tớ quỳ xuống thờ lạy Giê-hô-va.
\v 27 Anh nói: “Đáng chúc tôn Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, Ngài không bỏ giao ước cũng như lòng thành tín của Ngài đối với chủ tôi. Về phần tôi, Giê-hô-va đã dẫn đưa tôi đến ngay nhà người thân của chủ tôi.”
\s5
\v 28 Vậy là cô thiếu nữ chạy về báo cho cả nhà mình biết mọi việc này.
\v 29 Rê-be-ca có một người anh tên La-ban. La-ban chạy đến chỗ anh đầy tớ lúc ấy vẫn còn đang ở ngoài thành tại bên đường cạnh giếng nước.
\v 30 Số là anh đã thấy chiếc khuyên và đôi xuyến trên tay em gái mình, và khi được nghe lời của Rê-be-ca, em gái mình, rằng: “Người đó nói với mình thế này, thế này, ” thì anh đi ra chỗ anh đầy tớ và thấy anh ta đang đứng gần mấy con lạc đà tại giếng nước.
\s5
\v 31 La-ban nói: “Này, cái anh được Giê-hô-va ban phước kia. Sao lại cứ đứng ngoài này như vậy? Chúng tôi đã sửa soạn ngôi nhà rồi, và cả chỗ cho lạc đà nữa. ”
\v 32 Vậy là anh đầy tớ vào nhà và dỡ đồ trên lưng lạc đà xuống. Họ đem rơm và thức ăn cho lạc đà, cũng lấy nước cho anh và những người cùng đi rửa chân.
\s5
\v 33 Họ dọn thức ăn ra mời anh, nhưng anh nói: “Tôi sẽ không ăn trước khi nói hết điều tôi phải nói đã. ” Vậy, La-ban bảo: “Anh cứ nói đi. ”
\v 34 Anh nói: “Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham.
\v 35 Giê-hô-va đã ban phước rất nhiều cho chủ tôi và người đã trở nên cường thạnh. Ngài đã ban cho người nào chiên, nào bò, nào bạc, vàng, cùng với tôi trai, tớ gái, lạc đà, và lừa.
\s5
\v 36 Sa-ra, vợ của chủ tôi, sinh cho ông một con trai khi tuổi đã cao, và chủ đã để lại cho cậu con mọi tài sản mình.
\v 37 Bắt tôi phải thề hứa, chủ bảo: Chú không được cưới vợ cho con trai tôi từ trong số các con gái xứ Ca-na-an, là nơi tôi đang kiều ngụ.
\v 38 Thay vì vậy, chú phải đi về gia đình của cha tôi, đến cùng các bà con của tôi để tìm vợ cho con trai tôi.
\s5
\v 39 Tôi thưa với chủ: Biết đâu người nữ ấy không chịu theo tôi về thì sao.
\v 40 Nhưng người nói với tôi: Giê-hô-va, trước mặt Ngài tôi bước đi, sẽ sai thiên sứ Ngài đi với chú và sẽ phù hộ chú, để chú kiếm được vợ cho con tôi từ giữa vòng bà con và từ trong dòng họ của cha tôi.
\v 41 Nhưng chú sẽ được giải lời thề hứa với tôi nếu chú đã đến với các bà con tôi mà họ không chịu để cô gái đi với chú. Lúc đó chú sẽ không còn bị buộc phải giữ lời thề.
\s5
\v 42 Vậy, hôm nay, khi đến chỗ suối, tôi thưa: “Ôi, Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, nếu quả Ngài có ý định khiến chuyến đi của tôi được thành, thì xin Ngài
\v 43 tôi đang đứng đây, cạnh con suối xin Ngài hãy cho thiếu nữ nào sẽ đến đây múc nước, tức người nữ mà tôi sẽ nói: “Xin cho tôi uống ít nước trong bình của cô, ”
\v 44 mà cô ta đáp lại: “Hãy uống đi, rồi tôi cũng sẽ múc nước cho lạc đà của ông uống nữa” thì cô ấy là người mà Ngài, là Giê-hô-va, đã chọn cho con trai chủ tôi.
\s5
\v 45 Thậm chí khi tôi chưa nói xong trong lòng như vậy thì, kìa, cô Rê-be-ca vác bình đi ra, và cô xuống suối múc nước. Vậy là tôi nói với cô: Xin cho tôi uống nước.
\v 46 Cô liền hạ bình nước trên vai xuống, đáp: Ông uống đi, rồi tôi sẽ cho lạc đà của ông uống nữa.
\s5
\v 47 Tôi hỏi cô gái rằng: Cô là con ai? Cô đáp: Con của Bê-tu-ên, con trai ông Na-cô mà bà Minh-ca đã sinh cho ông. Vậy là tôi đeo khuyên vào mũi và đôi xuyến vào tay cô gái.
\v 48 Rồi tôi sấp xuống thờ lạy Giê-hô-va, chúc tụng Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, Đấng đã đưa dắt tôi đi đúng đường để gặp được con gái người bà con của chủ tôi cho con trai của chủ.
\s5
\v 49 Vậy, bây giờ, nếu các ông sẵn sàng lấy tình nghĩa gia đình và lòng thành thực mà đối đãi với chủ tôi, thì xin cho tôi biết. Còn không thì cũng cho tôi hay, để tôi biết phải liệu thế nào.”
\s5
\v 50 La-ban và Bê-tu-ên đáp lại, rằng: “Việc này là do Giê-hô-va; chúng tôi không dám nói đó là tốt hay xấu.
\v 51 Kìa, Rê-be-ca ở trước mặt anh. Anh cứ đưa cô gái đi về làm vợ của con trai chủ anh, như Giê-hô-va đã phán.”
\s5
\v 52 Khi anh đầy tớ của Áp-ra-ham nghe họ nói vậy, anh sấp mình xuống đất thờ lạy Giê-hô-va.
\v 53 Anh lấy ra các món đồ bằng bạc, bằng vàng, cùng quần áo trao cho Rê-be-ca. Anh cũng tặng các món đồ quý giá cho anh và mẹ cô gái.
\s5
\v 54 Lúc ấy, anh và những người cùng đi mới ăn, uống. Họ trú qua đêm tại đó, và khi họ thức dậy vào buổi sáng, anh nói: “Xin hãy cho tôi về lại với chủ tôi. ”
\v 55 Người anh trai và bà mẹ nói: “Hãy để con bé ở lại với chúng tôi ít ra thêm mươi bữa nữa, sau đó hãy đi.”
\s5
\v 56 Nhưng anh đầy tớ đáp lại: “Xin đừng trì hoãn tôi, vì Giê-hô-va đã phù hộ tôi. Hãy cho tôi đi để tôi có thể về gặp lại chủ tôi. ”
\v 57 Họ bảo: “Chúng ta sẽ gọi con bé xem nó nghĩ sao. ”
\v 58 Vậy, họ gọi Rê-be-ca, hỏi: “Con muốn đi với chú này không? ” Cô đáp: “Vâng, con muốn đi.”
\s5
\v 59 Vậy là họ để cho em gái, cùng với người hầu gái của cô, lên đường với anh đầy tớ của Áp-ra-ham và những người cùng đi.
\v 60 Họ chúc lành cho Rê-be-ca, rằng: “Em gái chúng ta, chúc cho em thành tổ mẫu của muôn ngàn người, và chúc cho dòng dõi em chiếm được cửa thành quân thù.”
\s5
\v 61 Rồi Rê-be-ca đứng dậy; cô cùng các tớ gái lên lưng lạc đà đi theo anh đầy tớ. Như vậy, anh đem Rê-be-ca cùng đi với mình.
\v 62 Y-sác đang sống tại Nê-ghép, và vừa mới từ Bê-e-la-cha-roi trở về.
\s5
\v 63 Vào lúc chiều tối, Y-sác ra ngoài đồng để suy tư. Cậu nhìn lên và, kìa, cậu thấy có đàn lạc đà đang tiến đến.
\v 64 Rê-be-ca cũng nhìn, và khi cô thấy Y-sác, cô nhảy xuống khỏi lạc đà.
\v 65 Cô hỏi anh đầy tớ: “Người đang đi trong đồng ruộng tiến về phía chúng ta là ai vậy? ” Anh đầy tớ đáp: “Chủ tôi đấy. ” Vậy là cô lấy khăn voan che mặt lại.
\s5
\v 66 Anh đầy tớ thuật lại cho Y-sác nghe mọi việc mình đã làm.
\v 67 Rồi Y-sác đem Rê-be-ca vào trong lều của Sa-ra, mẹ mình, cưới cô làm vợ, và yêu thương cô. Như vậy, Y-sác được an ủi sau khi mẹ cậu qua đời.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Áp-ra-ham cưới một vợ khác; tên người vợ này là Kê-tu-ra.
\v 2 Bà sinh cho ông Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách.
\v 3 Giốc-chan sanh Sê-ba và Ðê-đan. Con cháu của Ðê-đan là dân A-si-ri, dân Lê-tút, và dân Lê-um.
\v 4 Các con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Tất cả họ đều là con cháu Kê-tu-ra.
\s5
\v 5 Áp-ra-ham cho Y-sác toàn bộ tài sản mình.
\v 6 Tuy nhiên, trong lúc còn sống, ông cũng cho con cái của những người vợ lẻ các phẩm vật và bảo họ đi sang xứ sở phương đông, cách xa con trai mình là Y-sác.
\s5
\v 7 Đó là những ngày tháng của cuộc đời Áp-ra-ham mà ông đã sống, được 175 năm.
\v 8 Áp-ra-ham tắt hơi và qua đời ở tuổi cao niên; ông về với tổ tông khi đã già và đã sống trọn vẹn cuộc đời.
\s5
\v 9 Các con trai ông là Y-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông trong cái hang Mạc-bê-la trên cánh đồng của Ép-rôn, con trai Xô-ba, người Hê-tít, gần Mam-rê.
\v 10 Đây là cánh đồng mà Áp-ra-ham đã mua của các con cháu dòng họ Hếch. Áp-ra-ham được chôn cất ở đó cùng với vợ là Sa-ra.
\v 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Đức Chúa Trời ban phước cho con trai ông là Y-sác, đang sống gần Bê-e-la-cha-roi.
\s5
\v 12 Đây là dòng dõi Ích-ma-ên, con trai Áp-ra-ham mà A-ga, người Ai Cập, đầy tớ Sa-ra, đã sinh cho Áp-ra-ham.
\s5
\v 13 Đây là tên các con trai của Ích-ma-ên, xếp theo độ tuổi: Nê-ba-giốt con trưởng của Ích-ma-ên, Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam,
\v 14 Mích-ma, Ðu-ma, Ma-sa,
\v 15 Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma.
\v 16 Đó là các con trai của Ích-ma-ên và tên của họ, tùy theo làng và nơi đóng trại của họ - mười hai công hầu tùy theo bộ tộc họ.
\s5
\v 17 Đó là những năm của cuộc đời Ích-ma-ên, được 137 năm: ông tắt hơi và về với tổ tông.
\v 18 Họ sống từ Ha-vi-la đến Su-rơ, gần Ai Cập, khi đi về hướng A-ri-ri. Họ sống trong tình trạng thù địch nhau.
\s5
\v 19 Đây là những chuyện liên qua đến Y-sác, con trai Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sinh Y-sác.
\v 20 Y-sác được bốn mươi tuổi khi ông cưới Rê-be-ca, con gái Bê-tu-ên người A-ram ở xứ Pha-đan A-ram, em gái của La-ban, người A-ram, làm vợ.
\s5
\v 21 Y-sác cầu khẩn Giê-hô-va cho vợ mình vì bà son sẻ; Giê-hô-va đáp lời cầu xin của ông, cho Rê-be-ca có thai.
\v 22 Các thai nhi xô đẩy nhau trong dạ bà, nên bà thắc mắc: “Sao chuyện này lại xảy ra với tôi nhỉ? ” Bà đến hỏi Giê-hô-va việc ấy.
\s5
\v 23 Giê-hô-va nói với bà: “Hai nước đang ở trong dạ con, hai dân tộc sẽ bị chia ra ở trong con. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, và đứa lớn sẽ phục vụ đứa nhỏ.”
\s5
\v 24 Khi đến lúc bà phải sinh nở, kìa, có một thai đôi trong dạ bà.
\v 25 Đứa thứ nhất ra trước đỏ hồng toàn thân giống như cái áo lông. Họ đặt tên nó là Ê-sau.
\v 26 Sau đó, em nó ra theo, tay nắm gót chân anh là Ê-sau. Họ đặt tên nó là Gia-cốp. Y-sác được sáu mươi tuổi khi vợ ông sinh con.
\s5
\v 27 Các cậu bé lớn lên, và Ê-sau trở thành một thợ săn thiện nghệ; còn Gia-cốp lại là người trầm lặng, cứ lẩn quẩn trong mấy chiếc lều.
\v 28 Y-sác yêu thương Ê-sau vì ông hay ăn các con thú mà anh này săn bắt, còn Rê-be-ca thì yêu thương Gia-cốp.
\s5
\v 29 Gia-cốp nấu món đậu. Ê-sau từ ngoài đồng về, người lả vì đói.
\v 30 Ê-sau nói với Gia-cốp: “Cho anh ăn món đậu đỏ hầm ấy đi. Anh xin em, anh đuối quá! ” Đó là lý do anh có tên là Ê-đôm.
\s5
\v 31 Gia-cốp trả lời: “Anh bán cho em quyền trưởng nam đi đã. ”
\v 32 Ê-sau đáp: “Ôi, anh chết đến nơi rồi. Cái quyền trưởng nam đó anh cần làm gì nữa? ”
\v 33 Gia-cốp đáp: “Anh thề với em trước đi. ” Thế là Ê-sau thề hứa, và như vậy anh bán quyền con trưởng của mình cho Gia-cốp.
\v 34 Rồi Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh mì với món đậu lăng hầm. Anh ta ăn, uống, rồi đứng dậy bỏ đi. Ê-sau khinh thường quyền trưởng nam mình là vậy.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Bấy giờ có nạn đói xảy ra trong xứ, ngoài cơn đói kém trước đó vào thời Áp-ra-ham. Y-sác đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra.
\s5
\v 2 Giê-hô-va hiện ra với ông, và phán: “Đừng đi xuống Ai Cập, mà hãy cứ ở trong xứ Ta chỉ bảo cho con.
\v 3 Hãy cư ngụ ngay trong xứ này, rồi Ta sẽ ở cùng con và ban phước cho con; vì Ta sẽ ban hết đất này cho con và dòng dõi con, và Ta sẽ làm thành lời thề hứa mà Ta đã thề với cha của con là Áp-ra-ham.
\s5
\v 4 Ta sẽ khiến dòng dõi con gia tăng thêm nhiều giống như sao trời, và Ta sẽ ban cho dòng dõi con tất cả đất này. Bởi hậu tự của con mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước.
\v 5 Ta sẽ làm như vậy vì Áp-ra-ham đã nghe theo tiếng Ta và vâng giữ các chỉ dẫn, điều răn, quy tắc, cùng luật pháp của Ta.”
\s5
\v 6 Vậy là Y-sác cứ sống tại Ghê-ra.
\v 7 Khi dân chúng nơi đó hỏi ông về vợ ông, ông đáp: “Bà ấy là em gái tôi. ” Ông sợ không dám nói: “Bà ấy là vợ tôi, ” vì ông nghĩ: “Giới đàn ông ở đây sẽ sát hại mình để cưỡng đoạt Rê-be-ca, vì nàng quá xinh đẹp. ”
\v 8 Sau khi Y-sác ở đó được một thời gian, A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tình cờ nhìn qua cửa sổ. Kìa, ông thấy Y-sác đang âu yếm Rê-be-ca, vợ mình.
\s5
\v 9 A-bi-mê-léc gọi Y-sác đến gặp vua, và bảo: “Này, hẳn bà ấy là vợ ông. Sao ông lại nói: Bà ấy là em gái tôi? ” Y-sác đáp: “Vì tôi nghĩ người ta có thể sát hại mình để cưỡng đoạt nàng. ”
\v 10 A-bi-mê-léc nói: “Việc ông đã làm cho chúng tôi đó là sao vậy? Lỡ một ai đó đến ăn nằm với vợ ông, và thế là ông khiến chúng tôi phải mắc tội. ”
\v 11 Vậy, A-bi-mê-léc cảnh báo toàn thể dân chúng, rằng: “Bất kỳ ai chạm vào người này hoặc vợ ông ta hẳn sẽ bị xử tử.”
\s5
\v 12 Y-sác gieo trồng trong xứ ấy và cùng năm đó thu hoạch gấp trăm lần, vì Giê-hô-va ban phước cho ông.
\v 13 Ông giàu lên và càng ngày càng cường thạnh đến nỗi ông trở nên đầy quyền lực.
\v 14 Ông có nhiều chiên và gia súc, cùng rất đông tôi tớ trong nhà. Người Phi-li-tin ganh tị với ông.
\s5
\v 15 Tất cả những giếng nước mà các tôi tớ của cha ông đã đào trong thời Áp-ra-ham đều bị người Phi-li-tin dùng đất lấp đầy hết.
\v 16 A-bi-mê-léc bảo Y-sác: “Hãy đi khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã quá cường thạnh so với chúng tôi. ”
\v 17 Vậy, Y-sác đi khỏi đó đến đóng trại tại thung lũng Ghê-ra và sống tại đây.
\s5
\v 18 Y-sác khơi lại các giếng nước mà người ta đã đào trong thời Áp-ra-ham, cha mình. Người Phi-li-tin đã lấp chúng lại sau khi Áp-ra-ham qua đời. Y-sác gọi các giếng đó bằng chính tên mà cha ông đã gọi.
\s5
\v 19 Khi các tôi tớ của của Y-sác đào trong thung lũng, họ tìm thấy ở đó một giếng nước mạch.
\v 20 Bọn chăn tại Ghê-ra tranh giành với bọn chăn của Y-sác, rằng: “Giếng này của bọn tao. ” Vậy nên Y-sác gọi cái giếng đó là “Ê-sét, ” vì chúng tranh giành với ông.
\s5
\v 21 Họ đào một giếng khác, nhưng chúng cũng tranh giành cái giếng ấy, nên ông đặt tên nó là “Sít-na. ”
\v 22 Ông bỏ chỗ đó và đào thêm một giếng thứ ba, lần này, chúng thôi, không tranh giành nữa. Vì vậy, ông gọi giếng đó là “Rê-hô-bốt, ” và nói rằng: “Bây giờ thì Giê-hô-va để chúng ta nơi rộng rãi, và chúng ta sẽ thạnh vượng trong vùng này.”
\s5
\v 23 Rồi từ đó Y-sác đi lên Bê-e-sê-ba.
\v 24 Ngay đêm hôm đó, Giê-hô-va hiện ra với ông và nói: “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha của con. Đừng sợ, vì Ta ở cùng con; Ta sẽ ban phước cho con và khiến dòng dõi con đông đúc, vì cớ đầy tớ Ta là Áp-ra-ham. ”
\v 25 Y-sác lập một bàn thờ tại đó, rồi cầu khẩn danh Giê-hô-va. Ông dựng trại và các tôi tớ ông đào một cái giếng.
\s5
\v 26 Lúc ấy, A-bi-mê-léc từ Ghê-ra đến gặp ông, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan lãnh binh mình, tháp tùng.
\v 27 Y-sác hỏi họ: “Các ông đến gặp tôi làm gì, khi mà các ông thù ghét tôi và đã đuổi chúng tôi khỏi giữa các ông?”
\s5
\v 28 Họ đáp: “Chúng tôi đã thấy rõ rằng Giê-hô-va đã ở cùng ông. Nên chúng tôi quyết định phải có sự thề ước giữa chúng ta vâng, giữa chúng tôi và các ông. Vậy, xin cho chúng tôi lập giao ước với ông,
\v 29 để ông không làm hại chúng tôi, y như chúng tôi đã không làm hại ông, mà đã đối xử tử tế với ông và để cho ông ra đi bình yên. Quả là ông được Giê-hô-va ban phước.”
\s5
\v 30 Vậy, Y-sác dọn tiệc đãi họ, và họ ăn, uống.
\v 31 Họ thức dậy sớm vào buổi sáng và lập lời thề với nhau. Rồi Y-sác tiễn mấy người đó lên đường và họ ra đi bình yên.
\s5
\v 32 Cùng ngày ấy, các tôi tớ của Y-sác đến báo cho ông về cái giếng mà họ đã đào. Họ thưa: “Chúng tôi đã thấy nước. ”
\v 33 Ông gọi giếng đó là Si-ba, cho nên tên của thành đó gọi là Bê-e-sê-ba cho đến ngày nay.
\s5
\v 34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi thì anh cưới hai cô vợ: Giu-đít, con gái ông Bê-e-ri, người Hê-tít, và Bách-mát, con gái ông Ê-lôn, cũng người Hê-tít.
\v 35 Họ khiến cho Y-sác và Rê-be-ca phải sầu muộn.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Khi Y-sác đã già và bị làng mắt đến nỗi không nhìn thấy được nữa, ông gọi Ê-sau, con trưởng mình: “Con trai của cha. ” Ê-sau đáp: “Có con đây. ”
\v 2 Y-sác nói: “Con thấy đó, cha nay đã già, chẳng biết sống được đến ngày nào.
\s5
\v 3 Vậy, con hãy đem khí giới, tức cung, tên của con, ra đồng săn bắt thú cho cha ăn.
\v 4 Con hãy nấu món mà cha ưa thích, rồi dọn lên cho cha, để cha sẽ ăn và chúc phước cho con trước khi cha qua đời.”
\s5
\v 5 Rê-be-ca nghe Y-sác nói với Ê-sau, con ông, như vậy. Trong lúc Ê-sau đi ra đồng săn thú để đem về,
\v 6 thì Rê-be-ca nói với con trai mình là Gia-cốp, rằng: “Này, con, mẹ nghe cha nói với anh Ê-sau của con, rằng:
\v 7 Hãy săn thú đem về và làm cho cha món ăn ngon, để cha ăn và chúc phước cho con trước mặt Giê-hô-va trước khi cha qua đời.
\s5
\v 8 Vậy, con trai, nghe lời mẹ dặn đây.
\v 9 Hãy đi ra bầy bắt vào cho mẹ hai con dê tơ béo tốt, để mẹ sẽ nấu cho cha món ngon theo như ông ấy ưa thích.
\v 10 Rồi con sẽ dọn ra cho cha, để cha ăn và chúc phước cho con trước khi ông ấy qua đời.”
\s5
\v 11 Gia-cốp đáp lại Rê-be-ca, mẹ mình, rằng: “Nhưng Ê-sau, anh con, có nhiều lông, trong khi con thì lại không.
\v 12 Nhỡ cha chạm vào con và xem con như kẻ lừa đảo, lúc ấy con sẽ phải hứng chịu lời rủa sả thay vì được chúc phước.”
\s5
\v 13 Người mẹ bảo: “Con trai à, mọi lời rủa sả sẽ đổ lại trên mẹ. Cứ nghe theo lời mẹ và đem mọi thứ đến đây. ”
\v 14 Vậy, Gia-cốp ra bắt mấy con dê tơ đem vào cho mẹ mình, rồi mẹ ông nấu đúng món ăn mà người cha ưa thích.
\s5
\v 15 Rê-be-ca lấy quần áo tốt nhất của con trưởng mình là Ê-sau mà bà có trong nhà, đem mặc cho Gia-cốp, người con út.
\v 16 Bà lấy da dê tơ đắp lên hai bàn tay cũng như lên phần cổ nhẵn nhụi của ông.
\v 17 Rồi bà đặt món ăn ngon cùng với bánh mà bà đã làm vào tay con trai mình là Gia-cốp.
\s5
\v 18 Gia-cốp vào gặp cha, nói: “Thưa cha. ” Y-sác đáp: “Cha đây. Con là ai vậy, con trai? ”
\v 19 Gia-cốp đáp lại cha: “Con là Ê-sau, con trưởng của cha; con đã làm như cha dặn bảo. Xin cha hãy ngồi dậy và ăn thịt săn của con, rồi chúc phước cho con.”
\s5
\v 20 Y-sác hỏi: “Làm sao con kiếm được thú săn nhanh thế, con trai? ” Gia-cốp đáp: “Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của cha, đưa nó đến chỗ con. ”
\v 21 Y-sác nói với Gia-cốp: “Hãy lại gần cha đây, con trai, để cha sờ vào con xem có đúng thật là Ê-sau, con trai cha không.”
\s5
\v 22 Gia-cốp lại gần Y-sác, cha mình; Y-sác sờ vào ông rồi nói: “Tiếng nói là tiếng của Gia-cốp, nhưng tay lại là tay của Ê-sau. ”
\v 23 Y-sác không nhận ra ông, vì hai tay ông đầy lông, giống như tay của Ê-sau, anh mình; vậy là Y-sác chúc phước cho ông.
\s5
\v 24 Y-sác hỏi: “Con có thật là Ê-sau, con trai của cha không? ” Ông đáp: “Chính là con đây. ”
\v 25 Y-sác bảo: “Hãy đem thức ăn đến cho cha, để cha ăn thịt con săn bắt, rồi cha sẽ chúc phước cho.”
\s5
\v 26 Rồi Y-sác, cha ông, lại bảo: “Hãy đến gần đây hôn cha đi, con trai. ”
\v 27 Gia-cốp đến gần hôn ông; Y-sác ngửi thấy mùi áo quần, và chúc phước cho Gia-cốp. Y-sác nói: “Chà, mùi của con trai cha giống như mùi thơm của cánh đồng mà Giê-hô-va ban phước cho.
\s5
\v 28 Nguyện Đức Chúa Trời ban cho con sương móc từ trời, sự mầu mỡ của đất, cùng thật nhiều lúa mì và rượu mới.
\s5
\v 29 Nguyện các dân làm tôi cho con, các nước quy phục con. Con hãy quản trị anh em con, và nguyện các con trai của mẹ con cúi mình xuống trước con. Nguyện người nào rủa sả con sẽ bị rủa sả, còn người nào chúc phước cho con sẽ được ban phước.”
\s5
\v 30 Vừa khi Y-sác chúc phước cho Gia-cốp xong, khi Gia-cốp chưa lui ra khỏi trước mặt cha mình, thì ngay lúc ấy Ê-sau, anh của Gia-cốp, đi săn trở về.
\v 31 Ê-sau cũng đã nấu thức ăn ngon và mang đến cho cha. Ông nói với cha: “Thưa cha, xin hãy dậy ăn thức mà con trai cha đã săn bắt, và chúc phước cho con.”
\s5
\v 32 Y-sác, cha ông, hỏi: “Con là đứa nào? ” Ông đáp: “Con là con trai cha, là Ê-sau, con trưởng của cha. ”
\v 33 Y-sác run lẩy bẩy, hỏi: “Vậy thì đứa nào đã săn về thịt này và đã dọn lên cho cha? Cha đã ăn hết trước khi con về và đã chúc phước cho nó rồi. Quả hẵn nó sẽ được phước thôi.”
\s5
\v 34 Khi Ê-sau nghe mấy lời ấy của cha, thì ông khóc òa lên cách cay đắng, nói với cha: “Cha ơi, xin cũng hãy chúc phước cho con nữa chứ. ”
\v 35 Y-sác đáp: “Em con đã vào đây đánh lừa cha và đã cướp hết phước lành của con rồi.”
\s5
\v 36 Ê-sau đáp: “Người ta gọi nó là Gia-cốp thật chẳng sai. Nó đã lừa con hai lần. Nó đã chiếm mất quyền trưởng nam của con, và giờ đây nó lại đoạt luôn phước lành của con. ” Rồi ông hỏi: “Bộ cha không chừa lại phước nào cho con sao? ”
\v 37 Y-sác đáp lại Ê-sau: “Này, cha đã lập nó làm chủ của con, và cha đã cho nó hết thảy anh em đặng làm tôi tớ nó. Cha cũng đã cho nó lúa mì và rượu mới. Cha còn làm gì được cho con, con trai?”
\s5
\v 38 Ê-sau hỏi cha mình: “Bộ cha không còn lấy một phước lành nào cho con sao, cha? Cha ơi, xin chúc phước cho con, xin chúc phước cho con nữa. ” Ê-sau khóc lớn tiếng.
\s5
\v 39 Y-sác, cha ông, đáp lại: “Kìa, nơi con ở sẽ cách xa chỗ đất đai mầu mỡ, thiếu đi sương móc từ trời.
\v 40 Con sống được là nhờ thanh gươm của mình, và con sẽ phục dịch em con. Nhưng khi con nổi lên chống lại thì con sẽ giũ bỏ ách nó khỏi cổ mình.”
\s5
\v 41 Ê-sau thù ghét Gia-cốp vì cớ phước lành mà cha mình đã dành cho Gia-cốp. Ê-sau nói trong lòng: “Ngày để tang cho cha đã gần; rồi thì mình sẽ giết thằng em Gia-cốp ấy. ”
\v 42 Có người thuật lại cho Rê-be-ca lời của người con trưởng Ê-sau. Vậy là bà cho người gọi Gia-cốp đến và bảo ông: “Này, anh Ê-sau của con đang tự an ủi mình về chuyện liên quan đến con bằng cách dự tính sẽ giết chết con đấy.
\s5
\v 43 Vậy, con trai mẹ, hãy nghe lời mẹ mà chạy trốn đến nhà cậu La-ban, anh của mẹ, tại Cha-ran.
\v 44 Hãy ở lại đó với cậu ấy ít lâu, cho đến khi cơn thạnh nộ của anh con nguôi đi,
\v 45 cho đến lúc anh con không còn cưu giận con nữa. Lúc đó mẹ sẽ cho người qua rước con về. Cớ sao mẹ phải chịu mất luôn cả hai con trong cùng một ngày chứ?”
\s5
\v 46 Rê-be-ca nói với Y-sác: “Tôi quá mệt mỏi với cuộc sống vì mấy đứa con gái dòng họ Hếch. Nếu Gia-cốp cưới một người trong số mấy cô họ Hếch đó làm vợ, tức mấy cô như các phụ nữ này, như một số đứa con gái trong xứ đây, thì tôi chẳng thiết gì để sống nữa?”
\s5
\c 28
\p
\v 1 Y-sác gọi Gia-cốp, chúc phước cho ông, và căn dặn: “Con không được lấy vợ từ giữa vòng các phụ nữ Ca-na-an,
\v 2 mà hãy đứng dậy đi qua xứ Pha-đan A-ram, đến nhà ông ngoại con là Bê-tu-ên, và cưới một người vợ tại đó, từ trong số các con gái của La-ban, cậu con.
\s5
\v 3 Nguyện Đức Chúa Trời toàn năng ban phước cho con, khiến con sinh sản thêm nhiều và đông lên gấp bội, rồi con sẽ phát triển thành nhiều dân tộc.
\v 4 Nguyện Ngài ban cho con phước lành của Áp-ra-ham, cho con và cho dòng dõi con về sau, để con hưởng được xứ nơi con sống lâu nay mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham.”
\s5
\v 5 Như vậy, Y-sác sai Gia-cốp đi xa. Gia-cốp qua Pha-đan A-ram, đến chỗ của La-ban, con trai ông Bê-tu-ên người A-ram, anh của Rê-be-ca, mẹ của Gia-cốp và Ê-sau.
\s5
\v 6 Khi ấy, Ê-sau thấy rằng Y-sác đã chúc phước cho Gia-cốp và sai em mình đi qua Pha-đan A-ram để cưới vợ tại đó. Ê-sau cũng thấy rằng Y-sác đã chúc phước cho Gia-cốp và căn dặn: “Con không được lấy vợ từ giữa vòng các phụ nữ Ca-na-an. ”
\v 7 Ê-sau cũng thấy thể nào Gia-cốp đã vâng lời cha mẹ và đi qua Pha-đan A-ram.
\s5
\v 8 Ê-sau hiểu rằng cha mình không hài lòng với các người vợ xứ Ca-na-an.
\v 9 Vậy, Ê-sau đi đến nhà người bác là Ích-ma-ên và cưới thêm con gái ông này là Ma-ha-lát, chị của Nê-ba-giốt, làm vợ (ngoài hai người vợ mà ông đã có).
\s5
\v 10 Gia-cốp rời khỏi Bê-e-sê-ba đi qua Cha-ran.
\v 11 Ông đến một chỗ nọ và ở lại đó qua đêm, vì mặt trời đã lặn. Ông lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm xuống ngủ tại chỗ ấy.
\s5
\v 12 Gia-cốp nằm mơ thấy một cầu thang bắc từ dưới đất vươn lên đến tận trời, có thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên đó.
\v 13 Kìa, Giê-hô-va đứng phía trên cầu thang, phán: “Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ con, cũng là Đức Chúa Trời của Y-sác. Chỗ đất nơi con đang nằm đó Ta sẽ cho con cùng dòng dõi con.
\s5
\v 14 Hậu tự con sẽ như bụi dưới đất, và các con sẽ tràn ra khắp phương tây, phương đông, phương bắc và phương nam. Mọi chi tộc trên đất sẽ được phước qua con và dòng dõi con.
\v 15 Này, Ta ở cùng con, và con đi đâu Ta sẽ theo gìn giữ đó. Ta sẽ đem con về lại xứ này, vì Ta sẽ không rời bỏ con. Ta sẽ thực hiện mọi việc mà Ta đã hứa với con.”
\s5
\v 16 Gia-cốp bừng tỉnh dậy và nói: “hẳn là Giê-hô-va hiện diện ở đây mà mình không biết. ”
\v 17 Ông sợ hãi, nói: “Chỗ này kinh khủng quá! Đây chẳng gì khác hơn là nhà của Đức Chúa Trời. Đây chính là cổng thiên đàng.”
\s5
\v 18 Gia-cốp dậy sớm vào buổi sáng và lấy hòn đá mà mình đã dùng gối đầu dựng đứng lên như cây trụ và đổ dầu lên đầu trụ.
\v 19 Ông gọi tên nơi ấy là Bê-tên, còn cái thành nguyên có tên là Lu-xơ.
\s5
\v 20 Gia-cốp đưa ra lời thề nguyện, rằng: “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng tôi và bảo vệ tôi trên con đường tôi đang đi qua, ban cho tôi bánh ăn, áo mặc,
\v 21 để tôi được an toàn trở về lại nhà cha tôi, thì Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời của tôi.
\v 22 Rồi hòn đá mà tôi đã dựng lên thành cây trụ này sẽ là hòn đá thánh. Tôi hứa sẽ dâng lại cho Ngài một phần mười từ mọi thứ mà Ngài ban cho tôi.”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Rồi Gia-cốp tiếp tục chuyến đi và đến được xứ của dân đông phương.
\v 2 Ông nhìn và thấy có một giếng nước ngoài đồng; kìa, cũng có ba bầy chiên nằm cạnh giếng. Vì từ giếng này người ta lấy nước cho bầy chiên uống, và có một hòn đá lớn nằm chặn trên miệng giếng.
\v 3 Khi tất cả các bầy gia súc đã tụ tập lại, bọn chăn sẽ lăn hòn đá khỏi miệng giếng và cho chiên uống nước, sau đó họ lại lăn hòn đá chặn lấp lại như cũ.
\s5
\v 4 Gia-cốp hỏi họ: “Chào anh em. Anh em là người ở đâu vậy? ” Họ đáp: “Chúng tôi là dân Cha-ran. ”
\v 5 Ông hỏi tiếp: “Anh em có biết ông La-ban, con ông Na-cô không? ” Họ đáp: “Có, chúng tôi biết ông ấy. ”
\v 6 Gia-cốp lại hỏi: “Ông ấy vẫn khỏe chứ? ” Họ đáp: “Ông ấy khỏe, và kia kìa, cô Ra-chên con gái ông ấy đang dắt chiên đến đấy.”
\s5
\v 7 Gia-cốp nói: “Chà, bây giờ là giữa ban ngày, chưa phải là lúc cho bầy gia súc tụ tập lại. Anh em nên cho chiên uống nước, rồi dắt chúng đi gặm cỏ đi. ”
\v 8 Họ đáp: “Chúng tôi không được cho chiên uống nước cho đến khi mọi bầy gia súc đã tụ tập lại hết. Lúc đó mấy anh sẽ lăn hòn đá khỏi miệng giếng và chúng tôi sẽ cho chiên uống nước.”
\s5
\v 9 Trong lúc Gia-cốp còn đang nói với họ thì Ra-chên đến với bầy chiên của cha mình, vì cô là người chăn.
\v 10 Khi Gia-cốp thấy Ra-chên, con của La-ban, cậu mình, đến cùng với bầy chiên của ông, thì Gia-cốp đến lăn hòn đá khỏi miệng giếng và cho đàn chiên của cậu La-ban uống nước.
\s5
\v 11 Gia-cốp hôn Ra-chên và khóc òa lên.
\v 12 Gia-cốp cho Ra-chên biết mình là bà con của cha cô, là con trai của Rê-be-ca. Vậy là cô chạy đi báo tin cho cha mình.
\s5
\v 13 Khi La-ban nghe tin về Gia-cốp, ông chạy đi gặp cháu, ôm chầm lấy mà hôn, rồi đưa về nhà. Gia-cốp kể lại cho La-ban nghe mọi chuyện.
\v 14 La-ban nói với Gia-cốp: “Cháu đúng là bà còn ruột thịt của cậu. ” Gia-cốp ở lại với ông được chừng một tháng.
\s5
\v 15 Rồi La-ban nói với Gia-cốp: “Phải chăng vì cháu là họ hàng thân thích nên cậu lại bắt cháu giúp việc cho cậu không công? Cháu muốn cậu trả công thế nào, cứ cho cậu biết. ”
\v 16 Số là La-ban có hai con gái. Cô chị tên Lê-a, còn cô em tên Ra-chên.
\v 17 Lê-a có đôi mắt không được tốt, nhưng Ra-chên thì có vóc dáng và ngoại hình xinh đẹp.
\v 18 Gia-cốp yêu mến Ra-chên, nên ông đáp: “Cháu sẽ giúp việc cậu bảy năm để cưới Ra-chên, con gái út của cậu.”
\s5
\v 19 La-ban đáp: “Đúng là cậu gả nó cho cháu sẽ tốt hơn gả cho người khác. Được, cứ ở đây với cậu. ”
\v 20 Vậy là Gia-cốp giúp việc bảy năm để cưới Ra-chên, nhưng thời gian đó đối với ông chỉ như có mấy ngày, vì ông rất yêu thương Ra-chên
\s5
\v 21 Rồi Gia-cốp nhắc La-ban: “Cháu đã làm đủ số ngày, vậy, hãy trao vợ cháu cho cháu, để cháu cưới nàng. ”
\v 22 Vậy, La-ban mời hết mọi người trong vùng đến đãi một bữa tiệc lớn.
\s5
\v 23 Đến tối, La-ban đưa con gái là Lê-a đến giao cho Gia-cốp, rồi Gia-cốp ngủ với Lê-a.
\v 24 La-ban cũng cho người tớ gái Xinh-ba theo hầu Lê-a, con gái mình.
\v 25 Sáng đến thì, ô kìa, hóa ra đó là Lê-a, Gia-cốp hỏi La-ban: “Việc cha đã làm cho tôi đó là sao vậy? Chẳng phải vì Ra-chên mà tôi giúp việc cha sao thế mà cha lại đánh lừa tôi?”
\s5
\v 26 La-ban đáp: “Phong tục ở đây không gả em gái trước chị nó.
\v 27 Con cứ đợi cho xong tuần tân hôn với đứa chị đi, rồi hai ta sẽ gả luôn đứa kia cho con để đổi lấy thêm bảy năm giúp việc nữa của con.”
\s5
\v 28 Gia-cốp nghe theo và ăn ở một tuần với Lê-a. Sau đó, La-ban giao luôn con gái là Ra-chên cho Gia-cốp để làm vợ.
\v 29 La-ban cũng cho người tớ gái Bi-la theo hầu Ra-chên, con gái mình.
\v 30 Như vậy, Gia-cốp cưới luôn Ra-chên, và ông yêu thương Ra-chên hơn Lê-a. Ông cũng giúp việc La-ban thêm bảy năm nữa.
\s5
\v 31 Giê-hô-va thấy Lê-a không được yêu thương nên Ngài cho bà mang thai, trong khi Ra-chên thì son sẻ.
\v 32 Lê-a có thai và sinh một con trai; bà đặt tên cho con là Ru-bên, vì bà nói: “Vì Giê-hô-va đã đoái xem nỗi ưu phiền của tôi; giờ đây chồng sẽ yêu thương tôi.”
\s5
\v 33 Rồi bà lại có thai và sinh thêm một con trai. Bà nói: “Vì Giê-hô-va đã nghe biết tôi không được yêu thương, nên Ngài cũng ban cho tôi đứa con trai này, ” và bà đặt tên cho nó là Si-mê-ôn.
\v 34 Rồi bà lại có thai tiếp và sinh thêm một bé trai khác nữa. Bà nói: “Giờ thì chồng tôi sẽ gắn bó với tôi, vì tôi đã sinh cho anh ấy ba con trai. ” Vì vậy, bà gọi tên con là Lê-vi.
\s5
\v 35 Bà tiếp tục có thai và sinh thêm một con trai thứ tư. Bà nói: “Lần này tôi sẽ ca tụng Giê-hô-va. ” Vì vậy, bà gọi tên cậu bé là Giu-đa, rồi bà thôi sinh đẻ.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Khi Ra-chên thấy mình không sinh con cho Gia-cốp, bà ganh tị với chị mình. Bà nói với Gia-cốp: “Anh phải cho em có con, không thì em chết đấy. ”
\v 2 Gia-cốp nổi giận với Ra-chên. Ông đáp: “Bộ anh có thể thay Đức Chúa Trời khiến cho em bị son sẻ sao?”
\s5
\v 3 Ra-chên nói: “Nè, có đứa tớ gái Bi-la của em đó. Anh ngủ với nó đi, để nó sinh đẻ cho em và nhờ nó em cũng có con nữa. ”
\v 4 Vậy là cô giao người tớ gái Bi-la cho ông làm vợ, và Gia-cốp ngủ với chị này.
\s5
\v 5 Bi-la mang thai, sinh cho Gia-cốp một con trai.
\v 6 Vậy, Ra-chên nói: “Đức Chúa Trời đã nhậm lời tôi. hẳn Ngài đã nghe tiếng tôi và ban cho tôi một con trai. ” Vì vậy, bà đặt tên nó là Đan.
\s5
\v 7 Bi-la, tôi tớ Ra-chên, lại mang thai và sinh cho Gia-cốp con trai thứ hai.
\v 8 Ra-chên nói: “Tôi đã dùng sức mạnh mà tranh chiến với chị mình và tôi đã thắng. ” Bà đặt tên con là Nép-ta-li.
\s5
\v 9 Khi Lê-a thấy rằng mình đã thôi sinh đẻ, bà bắt đầy tớ mình là Xinh-ba trao cho chồng làm vợ.
\v 10 Xinh-ba, đầy tớ của Lê-a, sinh cho Gia-cốp một con trai.
\v 11 Lê-a nói: “Tôi thật may mắn! ” nên bà đặt tên nó là Gát.
\s5
\v 12 Rồi Xinh-ba, tôi tớ của Lê-a, sinh cho Gia-cốp con trai thứ hai.
\v 13 Lê-a nói: “Tôi thật sung sướng, vì bọn con gái sẽ nói tôi hạnh phúc. ” Vậy, bà đặt tên nó là A-se.
\s5
\v 14 Vào mùa gặt lúa mì, Ru-bên đi ra đồng và tìm được mấy cái rễ cây khoai ma. Cậu đem về cho mẹ mình là Lê-a. Ra-chên nói với Lê-a: “Cho tôi xin ít rễ khoai ma của con trai chị đi. ”
\v 15 Lê-a đáp: “Bộ mày tưởng đoạt chồng của tao là việc nhỏ sao mà nay lại muốn cướp luôn mấy rễ khoai ma của con trai tao? ” Ra-chên đề nghị: “Vậy tối nay anh ấy ngủ với chị đi, để đổi cho tôi mấy cái rễ khoai ma đó.”
\s5
\v 16 Đến chiều tối, Gia-cốp từ ngoài đồng trở về. Lê-a ra đón ông và nói: “Anh phải ngủ với em tối này, vì em đã mướn được anh bằng mấy cái rễ khoai ma của con trai em. ” Vậy là Gia-cốp ngủ với Lê-a đêm hôm đó.
\v 17 Đức Chúa Trời nhậm lời Lê-a; bà mang thai và sinh cho Gia-cốp con trai thứ năm.
\v 18 Lê-a nói: Đức Chúa Trời đã trả công cho tôi vì tôi đã trao cho chồng người tớ gái mình. ” Bà đặt tên con là Y-sa-ca.
\s5
\v 19 Lê-a lại mang thai nữa và sinh con trai thứ sáu cho Gia-cốp.
\v 20 Lê-a nói: “Đức Chúa Trời đã ban cho tôi một món quà quý giá. Giờ thì chồng tôi sẽ xem trọng tôi, vì tôi đã sinh cho anh sáu con trai. ” Bà đặt tên con là Sa-bu-lôn.
\v 21 Sau đó, bà sinh một con gái và đặt tên là Đi-na.
\s5
\v 22 Đức Chúa Trời nhớ đến Ra-chên và nghe lời cầu khẩn của bà. Ngài cho bà mang thai.
\v 23 Bà có thai và sinh một con trai. Bà nói: “Đức Chúa Trời đã cất đi nỗi hổ nhục của tôi. ”
\v 24 Bà đặt tên con là Giô-sép, vì nói rằng: “Giê-hô-va đã cho thêm tôi một con trai nữa.”
\s5
\v 25 Sau khi Ra-chên sinh Giô-sép, Gia-cốp nói với La-ban: “Hãy để tôi đi, để tôi về quê nhà, về xứ sở tôi.
\v 26 Hãy giao cho tôi vợ, con mà tôi có được nhờ giúp việc cho cha, và để tôi đi, vì cha biết tôi đã phục vụ cha thế nào rồi.”
\s5
\v 27 La-ban đáp lại ông: “Khoan đã. Ước gì cha được ơn con, vì cha đoán rằng Giê-hô-va đã ban phước cho cha vì cớ con. ”
\v 28 Rồi ông tiếp: “Hãy cứ định công giá đi, rồi cha sẽ trả cho.”
\s5
\v 29 Gia-cốp nói với ông ta: “Cha biết tôi đã giúp việc cha thế nào, cũng như đàn gia súc của cha đã nhờ tôi mà gia tăng ra sao.
\v 30 Vì trước lúc tôi đến thì cha chẳng có bao nhiêu, mà giờ thì chúng đã tăng lên gấp bội. Giê-hô-va đã ban phước cho mọi việc tôi làm. Đến khi nào tôi mới được lo việc nhà của tôi đây?”
\s5
\v 31 La-ban hỏi: “Cha sẽ trả công cho con thế nào nhỉ? ” Gia-cốp đáp: “Cha chẳng cần phải trả tôi tiền bạc gì cả. Nếu cha đồng ý thế này, thì tôi sẽ trở lại nuôi nấng, chăn giữ bầy vật cho cha.
\v 32 Hôm nay tôi sẽ đi kiểm tra toàn bộ bầy vật của cha và tách riêng mọi con có đốm và mọi con sắc đen trong đàn chiên, cùng các con có đốm trong đàn dê. Đó sẽ là phần của tôi.
\s5
\v 33 Sự thanh liêm của tôi sẽ làm chứng cho tôi sau này, khi cha đến kiểm tra phần công giá của tôi. Mọi con nào không có đốm trong đàn dê, và không phải sắc đen trong đàn chiên nếu có con nào như vậy trong đàn của tôi, thì đó sẽ bị xem là trộm cắp. ”
\v 34 La-ban đáp: “Được. Cứ theo lời đề nghị của con mà thực hiện.”
\s5
\v 35 Ngay hôm đó, La-ban để riêng những dê đực có vằn và có đốm, và mọi dê cái có đốm, tức mọi con có sắc trắng trên mình, cùng tất cả các con sắc đen trong bầy chiên, và giao hết cho các con trai mình.
\v 36 La-ban cũng để cho mình và Gia-cốp cách nhau ba ngày đường. Như vậy, Gia-cốp cứ chăn dắt số còn lại trong bầy súc vật của La-ban.
\s5
\v 37 Gia-cốp lấy các nhánh cây bạch dương, cây hạnh đào và cây ngô đồng còn tươi lột đi những lằn vỏ để lộ ra phần gỗ màu trắng bên trong.
\v 38 Rồi ông đặt những nhánh cây đã lột vỏ đó trước các bầy vật, tức trước các máng nước nơi chúng đến uống nước. Chúng giao phối khi đến uống nước.
\s5
\v 39 Các con vật này thụ thai trước các cành cây, và chúng sinh ra con có vằn, có đốm.
\v 40 Gia-cốp để riêng các chiên cái và hướng mặt chúng về phía các con có vằn và mọi con chiên sắc đen trong bầy của La-ban. Rồi ông tách riêng bầy của mình ra, không để chúng pha trộn với bầy của La-ban nữa.
\s5
\v 41 Mỗi khi các con chiên khỏe mạnh trong bầy giao phối, Gia-cốp lấy các nhánh cây đặt vào máng nước để chúng nhìn thấy, để chúng thụ thai trước các cành cây đó.
\v 42 Nhưng khi các con ốm yếu trong bầy đến thì ông không đặt các nhánh cây đó trước mặt chúng. Vậy là các con ốm yếu thuộc về La-ban, còn các con mạnh khỏe thuộc về Gia-cốp.
\s5
\v 43 Ông trở nên rất giàu có, với các bầy vật lớn, tôi trai, tớ gái, cùng lạc đà và lừa.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Rồi thì Gia-cốp nghe được lời của các con trai La-ban, nói rằng: “Gia-cốp đã chiếm đoạt mọi thứ của cha, và nó đã giàu lên nhờ số tài vật ấy của cha. ”
\v 2 Gia-cốp nhìn thấy vẻ mặt của La-ban. Ông thấy rằng thái độ của La-ban đối với mình đã đổi khác.
\v 3 Rồi Giê-hô-va bảo Gia-cốp: “Hãy trở về xứ sở của tổ phụ con, về với họ hàng của con, và Ta sẽ ở cùng con.”
\s5
\v 4 Gia-cốp cho gọi Ra-chên và Lê-a ra đồng chỗ ông chăn bầy súc vật,
\v 5 và nói với họ: “Anh thấy thái độ của cha đối với anh đã đổi khác, nhưng Đức Chúa Trời của cha anh vẫn ở cùng anh.
\v 6 Hai em biết là anh đã giúp việc cho cha hết sức mình.
\s5
\v 7 Cha đã dối gạt anh và mười lần thay đổi công giá anh, nhưng Đức Chúa Trời đã không cho phép cha làm hại anh.
\v 8 Khi cha nói: Các con có đốm sẽ là công giá con, thì cả đàn đều sinh con có đốm. Rồi khi cha nói: Các con có vằn sẽ là công giá con, thì cả đàn đều sinh con có vằn.
\v 9 Theo cách đó, Đức Chúa Trời đã lấy đi đàn gia súc của cha mà ban cho anh.
\s5
\v 10 Một lần nọ đang mùa giao phối, trong giấc mơ anh nhìn thấy các con dê đực giao phối với đàn. Các dê đực đó có vằn và có đốm.
\v 11 Thiên sứ của Đức Chúa Trời gọi anh trong giấc mơ: Này, Gia-cốp. Anh đáp: Có tôi đây.
\s5
\v 12 Người bảo: Hãy ngước mắt lên để thấy hết các dê đực đang giao phối với đàn. Chúng có vằn và có đốm, vì La-ban đối xử với con thế nào thì Ta đã thấy hết rồi.
\v 13 Ta là Đức Chúa Trời ở Bê-tên, nơi con xức dầu cho cây trụ đá, nơi con đã thề hứa với Ta. Bây giờ, hãy rời bỏ xứ này và quay trở về sinh quán của con. ’”
\s5
\v 14 Ra-chên và Lê-a đáp lại ông: “Chúng em đâu có phần hoặc quyền thừa hưởng gì trong nhà cha!
\v 15 Chẳng phải là cha đã đối xử với chúng em như người dưng đó sao? Ông ấy đã gả bán chúng em, và tiền bạc của chúng em ông cũng đã tiêu sạch hết.
\v 16 Mọi của cải mà Đức Chúa Trời đã lấy đi của cha giờ đây thuộc về chúng em và con cái chúng em. Vậy nên, bất kỳ điều gì Đức Chúa Trời đã truyền bảo anh, thì anh cứ làm đi.”
\s5
\v 17 Vậy là Gia-cốp đứng dậy đỡ vợ, con lên lưng lạc đà.
\v 18 Ông lùa đi hết đàn gia súc của mình cùng mọi tài sản mà ông có được, tức đàn gia súc thuộc về ông mà ông đã gầy dựng tại Pha-đan A-ram. Ông lên đường đi về với cha mình là Y-sác, tại xứ Ca-na-an.
\s5
\v 19 Lúc đó, La-ban đã đi hớt lông chiên nên Ra-chên lấy trộm mấy tượng thần giữ nhà của cha mình.
\v 20 Gia-cốp cũng đánh lừa La-ban người A-ram khi không cho ông ta biết mình hồi hương.
\v 21 Như vậy, Gia-cốp trốn chạy và nhanh chóng qua sông, cùng với mọi thứ mình có, rồi hướng về vùng đồi núi Ga-la-át.
\s5
\v 22 Sang ngày thứ ba, La-ban được báo cho biết Gia-cốp đã trốn chạy.
\v 23 Vậy là ông ta huy động người thân cùng với mình đuổi theo Gia-cốp trong bảy ngày. Ông ta theo kịp Gia-cốp tại vùng đồi Ga-la-át.
\s5
\v 24 Đức Chúa Trời hiện ra với La-ban người A-ram trong giấc mơ vào ban đêm và bảo ông ta: “Dầu lành hay dữ, hãy cẩn thận, đừng nói gì với Gia-cốp hết. ”
\v 25 La-ban đuổi kịp Gia-cốp. Lúc đó, Gia-cốp đang dựng trại trong vùng đồi. La-ban cùng người thân cũng đóng trại trong vùng đồi Ga-la-át.
\s5
\v 26 La-ban nói với Gia-cốp: “Cha đã làm gì con, đến nỗi con lừa cha và mang con gái của cha đi giống như tù bình vậy?
\v 27 Sao con lại lén lút trốn chạy, và lừa dối cha, chẳng cho cha biết gì cả vậy? Hẵn cha đã cho đưa tiễn các con một cách vui vẻ với lời ca tiếng hát, tiếng trống, tiếng đàn.
\v 28 Con chẳng để cha có cơ hội hôn tiễn biệt cháu trai, cháu gái của cha. Con đã hành động thật xuẩn ngốc.
\s5
\v 29 Cha thừa sức làm hại con, nhưng Đức Chúa Trời của cha con có phán với cha tối qua, rằng: Dầu lành hay dữ, hãy cẩn thận, đừng nói gì với Gia-cốp.
\v 30 Thôi thì con đã ra đi vì con nóng lòng trở về nhà cha mình. Nhưng sao con lại lấy trộm mấy tượng thần của cha?”
\s5
\v 31 Gia-cốp đáp lại La-ban: “Tôi lén lút ra đi vì tôi sợ rằng cha sẽ dùng vũ lực bắt lại hai con gái của cha.
\v 32 Còn kẻ nào lấy trộm mấy pho tượng của cha sẽ phải chết. Trước mặt người thân của chúng ta đây, cha hãy tìm xem nơi tôi có vật nào của cha thì cha cứ lấy đi. ” Vì Gia-cốp không biết Ra-chên đã lấy các thứ đó.
\s5
\v 33 La-ban vào trong lều của Gia-cốp, lều của Lê-a, và lều của hai người tớ gái, nhưng chẳng tìm thấy gì. Ông ra khỏi lều Lê-a rồi vào lều của Ra-chên.
\s5
\v 34 Ra-chên đã lấy mấy tượng thần giữ nhà ấy giấu dưới yên lạc đà rồi ngồi lên trên. La-ban lục soát khắp lều nhưng chẳng tìm được.
\v 35 Bà nói với cha: “Xin chúa đừng nổi giận khi con không đứng dậy tiếp đón được, vì con đang bị hành kinh.”
\s5
\v 36 Gia-cốp nổi giận gây gổ với La-ban. Ông nói: “Tôi đã sai phạm gì? Tôi có tội gì mà cha lại hằm hằm đuổi theo tôi như vậy?
\v 37 Cha đã lục soát hết đồ của tôi rồi đó. Nếu cha tìm thấy món đồ nào lấy trong nhà cha thì cứ để ngay đây trước mặt người thân chúng, để họ phân định đúng sai giữa chúng ta.
\s5
\v 38 Tôi đã ở với cha hai mươi năm. Chưa có chiên cái, dê cái của cha bị sảo thai, mà tôi cũng chưa từng ăn thịt con chiên đực nào trong bầy của cha.
\v 39 Con nào bị thú dữ xé thịt thì tôi đâu có bắt cha phải chịu, mà chính tôi chịu đó thôi. Cha luôn buộc tôi phải đền lại bất kỳ con nào bị thiếu mất, bất kể bị bắt trộm ban ngày hay ban đêm.
\v 40 Ở đó, ngày thì tôi phải chịu nắng nóng thiêu đốt, đêm đến thì chịu sương giá, và tôi phải thức trắng.
\s5
\v 41 Hai mươi năm tôi ở trong nhà cha. Tôi giúp việc cho cha mười bốn năm để cưới hai con gái của cha, rồi thêm sáu năm để có được bầy gia súc. Còn cha thì mười lần thay đổi công giá của tôi.
\v 42 Nếu Đức Chúa Trời của cha tôi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đấng Y-sác kính thờ, không ở cùng tôi, thì hẵn giờ này cha đã đuổi tôi đi tay không. Vì Đức Chúa Trời thấy tôi bị chèn ép cũng như phải làm việc cực nhọc như thế nào, nên Ngài đã cảnh báo cha tối qua đấy.”
\s5
\v 43 La-ban đáp: “Con gái là con gái cha, mấy đứa cháu là cháu của cha, bầy vật là bầy vật của cha. Mọi điều con thấy đây đều là của cha. Nhưng ngày nay cha còn quyền gì trên con gái hay trên con cái chúng đã sinh ra?
\v 44 Vậy, bây giờ, chúng ta hãy lập giao ước, giữa cha và con, để làm chứng giữa chúng ta.”
\s5
\v 45 Vậy, Gia-cốp lấy một tảng đá dựng đứng lên thành cây trụ.
\v 46 Gia-cốp nói với người thân của mình: “Hãy góp nhặt đá lại. ” Vậy, họ nhặt đá và dồn thành đống. Rồi họ ăn uống tại đó, bên cạnh đống đá.
\v 47 La-ban gọi nó là Y-ê-ga Sa-ha-đu-ta; còn Gia-cốp thì gọi là Ga-lét.
\s5
\v 48 La-ban nói: “Đống đá này hôm nay làm chứng giữa cha và con. ” Vì thế, tên của nó gọi là Ga-lét.
\v 49 Nó cũng được gọi là Mích-ba, vì La-ban nói: “Nguyện Giê-hô-va canh giữ cha và con khi chúng ta sống cách xa nhau.
\v 50 Nếu con xử tệ các con gái của cha, hoặc nếu con lấy thêm vợ khác, cho dù chẳng có ai ở cùng chúng ta, thì Đức Chúa Trời vẫn làm chứng giữa cha và con.”
\s5
\v 51 La-ban nói với Gia-cốp: “Hãy nhìn đống đá này, và nhìn cây trụ mà cha đã dựng giữa con và cha. ”
\v 52 Đống đá này làm chứng, và cây trụ này làm chứng, rằng cha sẽ không vượt qua đống đá này đến chỗ con, mà con cũng sẽ không vượt qua đống đá và cây trụ này đến chỗ cha, để làm hại nhau.
\v 53 Nguyện Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Na-cô, Đức Chúa Trời của cha hai người, phân xử giữa chúng ta. ” Gia-cốp thề hứa trước Đức Chúa Trời, Đấng mà Y-sác, cha mình, kính sợ.
\s5
\v 54 Gia-cốp dâng một sinh tế trên núi và mời người thân của ông dùng bữa. Họ ăn uống và ở suốt đêm trên núi.
\v 55 Sáng sớm hôm sau, La-ban thức dậy hôn các cháu cùng hai con gái mình và chúc phước cho. Rồi ông lên đường quay trở về nhà.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Gia-cốp cũng lên đường, và có các thiên sứ của Đức Chúa Trời gặp ông.
\v 2 Khi Gia-cốp thấy họ, ông nói: “Đây là trại của Đức Chúa Trời, ” nên ông gọi chỗ đó là Ma-ha-na-im.
\s5
\v 3 Gia-cốp sai các sứ giả đi trước gặp anh mình là Ê-sau, trong xứ Sê-i-rơ, thuộc vùng Ê-đôm.
\v 4 Ông dặn bảo họ, rằng: “Đây là lời các chú phải nói với chúa tôi là Ê-sau: Gia-cốp, tôi tớ ông, có nói thế này: Lâu nay em đã ở chỗ của cậu La-ban.
\v 5 Em có bò, lừa, các đàn gia súc, cùng tôi trai, tớ gái. Em sai mấy chú này đi báo cho chúa rõ, mong được chúa vui lòng chấp nhận. ’”
\s5
\v 6 Các sứ giả quay về với Gia-cốp, báo: “Chúng tôi đã gặp anh của ngài là Ê-sau. Ông ấy đang đến đón ngài, dẫn theo bốn trăm người. ”
\v 7 Gia-cốp rất lo sợ. Ông chia người của mình, cùng với các đàn chiên, đàn bò và lạc đà, thành hai đội.
\v 8 Ông bảo: “Nếu Ê-sau đến tấn công đội này, thì đội còn lại sẽ thoát được.”
\s5
\v 9 Gia-cốp cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời của tổ phụ Áp-ra-ham tôi, và Đức Chúa Trời của cha Y-sác tôi; ôi Giê-hô-va, Đấng đã phán bảo tôi: Hãy trở về xứ sở con, về với người thân của con, rồi Ta sẽ khiến con nên cường thạnh,
\v 10 Con chẳng xứng hiệp để hưởng các việc làm thành tín và đáng tin cậy mà Ngài đã thực hiện cho tôi tớ Ngài. Vì khi qua sông Giô-đanh con chỉ có mỗi cây trượng của mình, mà nay con đã phát triển thành hai đội này.
\s5
\v 11 Xin hãy cứu con khỏi tay anh con là Ê-sau, vì con lo sợ anh ấy sẽ đến tấn công mình, cùng với mẹ và con.
\v 12 Trong khi Ngài đã hứa: Ta hẳn sẽ khiến con nên cường thạnh. Ta sẽ khiến dòng dõi con giống như cát biển, đông đến nỗi không ai đếm được. ’”
\s5
\v 13 Gia-cốp ở lại đó đêm hôm ấy. Ông lấy một phần các thứ mình có để dâng tặng Ê-sau, gồm:
\v 14 hai trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái cùng hai mươi chiên đực,
\v 15 ba mươi lạc đà đang cho bú cùng con của chúng, bốn mươi bò cái và mười bò đực, hai mươi lừa cái và mười lừa đực.
\v 16 Những thứ này ông giao hết cho các đầy tớ mình, loài nào theo bầy nấy. Ông dặn các đầy tớ ấy, rằng: “Hãy đi trước tôi và giữ khoảng cách giữa các đàn gia súc.”
\s5
\v 17 Ông bảo người đầy tớ thứ nhất, rằng: “Khi anh tôi là Ê-sau gặp chú và hỏi: Anh là người của ai? Anh đi đâu? Đàn gia súc đi trước anh đó là của ai?
\v 18 lúc đó, chú sẽ đáp: Chúng là bầy vật của Gia-cốp, tôi tớ ông. Chúng là quà gửi tặng cho chúa tôi là Ê-sau. Ông ấy đang theo sau chúng tôi. ’”
\s5
\v 19 Gia-cốp cũng chỉ bảo tốp thứ hai, tốp thứ ba cùng mọi người theo sau các bầy vật. Ông nói: “Các chú sẽ nói tương tự với Ê-sau khi gặp ông ấy.
\v 20 Các chú cũng nói: Tôi tớ ông là Gia-cốp đang theo sau chúng tôi. ’” Vì Gia-cốp nghĩ: “Bằng cách gửi tặng vật đi trước như vậy mình sẽ khiến anh nguôi giận, để rồi khi gặp anh sau đó, anh sẽ chấp nhận mình. ”
\v 21 Vậy là các tặng phẩm đi trước Gia-cốp. Còn chính ông thì cứ ở lại trại trong đêm đó.
\s5
\v 22 Đang ban đêm, Gia-cốp thức dậy đưa hai vợ, hai đầy tớ gái, cùng mười một con trai qua chỗ cạn của rạch Gia-bốc.
\v 23 Như vậy, ông cho họ qua bên kia rạch cùng với mọi tài sản mình.
\s5
\v 24 Gia-cốp ở lại một mình. Có một người vật lộn với ông cho đến sáng.
\v 25 Khi người kia thấy không thể thắng hơn Gia-cốp, ông ta đánh vào hông Gia-cốp. Vậy là hông của Gia-cốp bị trật khớp trong lúc ông vật lộn với người kia.
\v 26 Người kia bảo: “Để tôi đi, vì trời sáng rồi. ” Gia-cốp đáp: “Tôi sẽ không để người đi nếu người không chúc phước cho tôi.”
\s5
\v 27 Người đó hỏi ông: “Ông tên gì? ” Gia-cốp đáp: “Tên Gia-cốp. ”
\v 28 Người đó nói: “Tên ông không còn là Gia-cốp nữa, mà sẽ là Y-sơ-ra-ên. Vì ông đã đấu sức với Đức Chúa Trời lẫn con người, và đều thắng hơn.”
\s5
\v 29 Gia-cốp hỏi: “Xin cho tôi biết tên ông. ” Người ấy đáp: “Ông hỏi tên tôi làm gì? ” Rồi ông ta ban phước cho Gia-cốp ở đó.
\v 30 Gia-cốp gọi nơi ấy là Phê-ni-ên, vì ông nói: “Tôi đã thấy Đức Chúa Trời mặt đối mặt, và mạng sống tôi được giải cứu.”
\s5
\v 31 Khi Gia-cốp đi qua Phê-ni-ên thì mặt trời đã lên. Ông bước khập khiểng vì xương hông bị sái.
\v 32 Đó là lý do vì sao cho đến ngày nay người Y-sơ-ra-ên vẫn không ăn phần gân hông ở khớp xương hông, vì người kia đã khiến mấy gân đó bị thương tích khi làm trật khớp hông Gia-cốp.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Gia-cốp ngẩng lên thì, kìa, Ê-sau đang đến, với bốn trăm người theo mình. Gia-cốp chia con cho Lê-a, Ra-chên, và hai người tớ gái trông coi.
\v 2 Rồi ông sắp hai người tớ gái cùng con cái họ đi trước, tiếp đến là Lê-a cùng các con bà, và cuối cùng là Ra-chên cùng với Giô-sép.
\v 3 Còn chính ông thì dẫn đầu. Ông cúi người xuống đất bảy lần, cho đến khi đến gần anh mình.
\s5
\v 4 Ê-sau chạy đến đón tiếp, ôm chầm lấy cổ ông và hôn. Rồi họ đều khóc.
\v 5 Khi Ê-sau nhìn lên, ông thấy nào phụ nữ, nào trẻ con, nên hỏi: “Mấy người đi với chú đây là ai vậy? ” Gia-cốp đáp: “Đó là con cái mà Đức Chúa Trời đã độ lượng ban cho tôi tớ của chúa.”
\s5
\v 6 Các người tớ gái cùng con cái họ tiến đến cúi chào.
\v 7 Tiếp đến, Lê-a cùng các con bà cũng tiến đến cúi chào. Cuối cùng là Giô-sép và Ra-chên đến cúi chào.
\v 8 Ê-sau hỏi: “Mấy toán mà tôi đã gặp kia là để chi vậy? ” Gia-cốp đáp: “Để được anh đoái thương.”
\s5
\v 9 Ê-sau nói: “Tôi đã có đủ rồi, em trai. Chú cứ giữ lấy những thứ chú có đó đi. ”
\v 10 Gia-cốp nói: “Không đâu. Nếu anh đoái thương tôi thì xin anh hãy nhận lấy tặng phẩm của tôi, vì quả là tôi đã thấy được mặt anh, vốn chẳng khác gì thấy mặt Đức Chúa Trời, và được anh chấp nhận.
\v 11 Xin anh hãy nhận lấy số phẩm vật của tôi mang theo tặng anh, vì Đức Chúa Trời đã đối đãi nhân từ với tôi, và vì tôi đã đầy đủ. ” Gia-cốp nài nỉ Ê-sau như vậy, nên ông bằng lòng nhận.
\s5
\v 12 Rồi Ê-sau nói: “Chúng ta lên đường thôi. Tôi sẽ đi trước chú. ”
\v 13 Gia-cốp đáp lại ông: “Chúa biết rằng mấy cháu còn nhỏ, rồi bầy chiên, bầy bò của tôi cũng có con. Nếu thúc chúng đi thậm chí chỉ trong một ngày thôi thì chúng sẽ chết.
\v 14 Xin chúa cứ đi trước tôi tớ chúa. Tôi sẽ đi chậm hơn, theo bước của đàn gia súc đi trước cũng như của bọn trẻ, cho đến khi đến được chỗ của chúa tại Sê-i-rơ.”
\s5
\v 15 Ê-sau đáp: “Tôi sẽ để lại mấy người của tôi để cùng đi với chú. ” Nhưng Gia-cốp nói: “Không cần đâu. Chúa đã quá nhân từ với tôi rồi. ”
\v 16 Như vậy Ê-sau lên đường trở về Sê-i-rơ ngay hôm đó.
\v 17 Còn Gia-cốp thì đi đến Su-cốt, dựng cho mình một nơi ở, và làm chuồng trại cho đàn gia súc. Vậy nên nơi đó mới có tên là Su-cốt.
\s5
\v 18 Khi Gia-cốp từ Pha-đan A-ram trở về, ông đã đến thành Si-chem trong xứ Ca-na-an được bình an. Ông dựng trại gần thành này.
\v 19 Rồi ông mua lại thửa đất nơi ông đã dựng trại đó từ các con trai ông Hê-mô, cha của Si-chem, với giá một trăm miếng bạc.
\v 20 Tại đó, ông lập một bàn thờ và gọi nó là Ên Ê-lô-hê Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Cô Đi-na, con gái bà Lê-a đã sinh cho Gia-cốp, đi ra thăm hỏi các thiếu nữ trong xứ.
\v 2 Si-chem, con trai ông Hê-mô, người Hê-vít, hoàng tử của xứ ấy, gặp cô thì bắt cô, hãm hiếp, rồi ngủ với cô.
\v 3 Cậu ta quyến luyến Đi-na, con gái Gia-cốp. Cậu thương mến cô và nói lời đường mật với cô.
\s5
\v 4 Si-chem nói với Hê-mô, cha mình, rằng: “Xin cha cưới thiếu nữ này cho con làm vợ. ”
\v 5 Gia-cốp đã nghe biết cậu ta làm uế nhục Đi-na, con gái mình. Các con trai ông thì đang ở ngoài đồng với bầy gia súc, nên Gia-cốp cứ bình thản cho đến khi họ trở về.
\s5
\v 6 Hê-mô, cha của Si-chem đi ra gặp Gia-cốp để nói chuyện với ông.
\v 7 Các con trai Gia-cốp ở ngoài đồng trở về thì họ nghe biết sự việc. Họ thấy rất bực tức. Họ phẫn nộ vì Si-chem đã sỉ nhục Y-sơ-ra-ên khi hãm hiếp con gái Gia-cốp, là việc đáng ra không được làm.
\s5
\v 8 Hê-mô nói với họ: “Con trai tôi là Si-chem phải lòng con gái các ông. Xin các ông gả cháu để làm vợ nó.
\v 9 Các ông hãy kết thông gia với chúng tôi. Hãy gả con gái các ông cho chúng tôi, và cưới con gái chúng tôi cho mình.
\v 10 Các ông sẽ sống chung với chúng tôi; xứ chúng tôi sẽ mở rộng cửa để các ông sinh sống, làm ăn, và tậu ruộng đất.”
\s5
\v 11 Si-chem nói với cha và các anh cô gái: “Xin hãy chấp nhận tôi, và tôi sẽ làm bất kỳ điều gì các ông yêu cầu.
\v 12 Bác và mấy anh cứ đòi một sính lễ cho cao, quà cáp cho nhiều, còn tôi sẽ đáp ứng bất kỳ điều quý ông yêu cầu, miễn là quý ông gả cô gái cho tôi làm vợ. ”
\v 13 Các con trai Gia-cốp dùng mưu mẹo đáp lại Si-chem và Hê-mô, cha cậu ta, vì Si-chem đã làm uế nhục Đi-na, em gái họ.
\s5
\v 14 Họ nói với hai người: “Chúng tôi không thể làm như vậy, tức là gả em gái chúng tôi cho người nào chưa cắt bì, vì đó sẽ là điều sỉ nhục đối với chúng tôi.
\v 15 Chúng tôi chỉ đồng ý với duy nhất một điều kiện, đó là: các ông phải chịu cắt bì như chúng tôi, mọi người nam giữa vòng các ông phải chịu cắt bì.
\v 16 Lúc đó, chúng tôi sẽ gả con gái chúng tôi cho các ông, và chúng ta sẽ cưới con gái các ông cho chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ sống cùng các ông, trở nên cùng một dân.
\v 17 Nhưng nếu các ông không đáp ứng chúng tôi và chịu cắt bì, thì chúng tôi sẽ bắt em gái chúng tôi lại và chúng tôi sẽ dời đi chỗ khác.”
\s5
\v 18 Lời của họ khiến Hê-mô và con trai ông là Si-chem hài lòng.
\v 19 Cậu thanh niên không chậm trễ thực hiện điều họ yêu cầu, vì cậu say mê con gái của Gia-cốp, và vì cậu là nhân vật được trọng vọng nhất trong cả nhà cha mình.
\s5
\v 20 Hê-mô và con trai là Si-chem đi đến cổng thành nói chuyện với giới đàn ông trong thành, rằng:
\v 21 “Những người này sống hòa thuận với chúng ta, nên hãy cứ để họ sinh sống và buôn bán trong xứ, vì thật sự, xứ chúng ta cũng đủ rộng cho họ ở. Chúng ta sẽ lấy con gái họ làm vợ, và gả cho họ con gái chúng ta.
\s5
\v 22 Chỉ với một điều kiện này thôi thì những người đó sẽ đồng ý ở với chúng ta và trở thành một dân, đó là: mọi người nam giữa vòng chúng ta phải chịu cắt bì, giống như họ đã chịu vậy.
\v 23 Chẳng phải đàn gia súc và tài sản của họ, tức toàn bộ bầy vật của họ, sẽ thuộc về chúng ta hay sao? Vậy nên hãy đồng ý với họ, rồi họ sẽ sống giữa chúng ta.”
\s5
\v 24 Mọi đàn ông trong thành đều nghe theo lời Hê-mô-và Si-chem, con trai ông.
\v 25 Đến ngày thứ ba, khi họ đang đau đớn, thì hai con trai của Gia-cốp là Si-mê-ôn và Lê-vi, anh của Đi-na, mỗi người cầm gươm mình đi vào thành lúc không ai ngờ, giết hết giới đàn ông.
\v 26 Họ giết chết Hê-mô và Si-chem, con trai ông, bằng chính lưỡi gươm của mình. Họ cướp cô Đi-na khỏi nhà Si-chem rồi đi.
\s5
\v 27 Các con trai khác của Gia-cốp đến gặp những xác chết và cướp phá thành vì cớ dân thành đã làm ô nhục em gái mình.
\v 28 Họ cướp hết các đàn chiên, đàn bò, lừa, cùng mọi thứ trong thành lẫn ngoài đồng ruộng,
\v 29 toàn bộ của cải. Còn vợ, con những người đó thì họ bắt đi. Mọi thứ gì trong nhà họ đều lấy sạch hết.
\s5
\v 30 Gia-cốp nói với Si-mê-ôn và Lê-vi: “Chúng mày đã gây rắc rối cho tao, khiến tao bị oán ghét giữa vòng cư dân trong xứ, tức dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. Tao đây chỉ có mấy người. Nếu họ hiệp lại đáng tao, thì tao cùng cả nhà sẽ bị diệt vong. ”
\v 31 Nhưng Si-môn và Lê-vi đáp: “Chẳng lẽ cứ để cho thằng Si-chem đối xử với em gái tụi con như con điếm sao?”
\s5
\c 35
\p
\v 1 Đức Chúa Trời phán với Gia-cốp: “Hãy đứng dậy đi lên Bê-tên và ở lại đó. Hãy lập một bàn thờ ở đó cho Đức Chúa Trời, Đấng đã hiện ra cùng con khi con trốn chạy khỏi Ê-sau, anh mình. ”
\v 2 Vậy là Gia-cốp nói với gia đình cùng mọi người ở với ông, rằng: “Hãy dẹp bỏ hết các tượng thần ngoại quốc giữa vòng các người, tẩy uế mình và thay quần áo đi.
\v 3 Rồi chúng ta sẽ khởi hành đi lên Bê-tên. Tại đó ta sẽ lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời, Đấng đã đáp lời ta trong ngày ta gặp gian truân và đã ở cùng ta mọi nơi ta đi đến.”
\s5
\v 4 Vậy, họ trao cho Gia-cốp mọi tượng thần ngoại quốc mình đang giữ, cùng với các vòng đeo tai. Gia-cốp chôn tất cả các thứ ấy dưới cây sồi gần Si-chem.
\v 5 Đang khi họ đi thì Đức Chúa Trời giáng sự kinh sợ lên các thành chung quanh, khiến dân chúng các thành đó không dám đuổi theo các con trai Gia-cốp.
\s5
\v 6 Gia-cốp đến Lu-xơ (tức Bê-tên), trong xứ Ca-na-an ông cùng mọi người đồng đi với ông.
\v 7 Ở đó ông lập một bàn thờ và gọi nơi ấy là Ên Bê-tên, vì đó là nơi Đức Chúa Trời tự mặc khải Ngài cho ông, trong lúc ông trốn chạy anh mình.
\v 8 Đê-bô-ra, người vú của Rê-be-ca, qua đời. Bà được chôn cất bên dưới Bê-tên, dưới cây sồi, nên nó được gọi là A-lôn-ba-cút.
\s5
\v 9 Khi Gia-cốp từ Pha-đan A-ram đến thì Đức Chúa Trời lại hiện ra với ông và ban phước cho ông.
\v 10 Ngài nói với ông: “Tên con là Gia-cốp, nhưng con sẽ không còn được gọi là Gia-cốp nữa, mà tên con sẽ là Y-sơ-ra-ên. ” Như vậy Đức Chúa Trời gọi tên ông là Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Đức Chúa Trời nói với ông: “Ta là Đức Chúa Trời toàn năng. Hãy sinh sản và thêm lên thật nhiều. Một dân và một cộng đồng các dân tộc sẽ sinh ra từ nơi con, và giữa vòng các hậu tự con sẽ có các vua cai trị.
\v 12 Xứ mà Ta ban cho Áp-ra-ham và Y-sác thì nay Ta ban cho con. Ta cũng sẽ ban xứ này cho con cháu con sau này. ”
\v 13 Đức Chúa Trời lìa ông về trời tại nơi mà Ngài đã phán cùng ông.
\s5
\v 14 Gia-cốp dựng một cây trụ tại nơi Đức Chúa Trời đã phán với mình, một cây trụ đá. Ông rưới rượu lên đó dâng của lễ quán, và đổ dầu lên.
\v 15 Gia-cốp gọi tên nơi Đức Chúa Trời phán với mình đó là Bê-tên.
\s5
\v 16 Từ Bê-tên, họ lên đường đi tiếp. Đang khi họ còn cách Ép-ra-ta một quãng đường thì Ra-chên chuyển dạ. Bà sinh khó.
\v 17 Lúc cơn đau đẻ lên đến cùng cực thì người đỡ đẻ nói với bà: “Đừng sợ, vì bây giờ bà sẽ có thêm một con trai. ”
\v 18 Trong lúc hấp hối, khi tắt hơi Ra-chên đặt tên con là Bê-nô-ni, nhưng cha đứa bé gọi nó là Bên-gia-min.
\v 19 Ra-chên qua đời và được chôn trên con đường đến Ép-ra-ta (tức Bết-lê-hem).
\v 20 Gia-cốp dựng một cây trụ trên nấm mộ. Trụ đó làm mộ bia cho Ra-chên cho đến ngày nay.
\s5
\v 21 Y-sơ-ra-ên tiếp tục chuyến đi và dựng trại bên kia Mích-đan Ê-đe.
\v 22 Trong lúc Y-sơ-ra-ên sống trong xứ này thì Ru-bên ngủ với Bi-la, vợ hầu của cha mình, và Y-sơ-ra-ên nghe biết chuyện này. Số là Gia-cốp có mười hai con trai.
\s5
\v 23 Các con trai do Lê-a sinh ra gồm Ru-bên, con trưởng, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn.
\v 24 Các con trai do Ra-chên sinh ra gồm Giô-sép và Bên-gia-min.
\v 25 Các con trai do Bi-la, người tớ gái của Ra-chên, sinh ra gồm Đan và Nép-ta-li.
\s5
\v 26 Các con trai của Xinh-ba, người tớ gái của Lê-a, gồm Gát và A-se. Tất cả đều là con trai sinh cho Gia-cốp tại Pha-đan A-ram.
\v 27 Gia-cốp đến chỗ của Y-sác, cha mình, tại Mam-rê trong vùng Ki-ri-át A-ra-ba (cũng là Hếp-rôn), nơi Áp-ra-ham và Y-sác đã sinh sống.
\s5
\v 28 Y-sác sống được một trăm tám mươi tuổi.
\v 29 Y-sác tắt hơi, qua đời, và được về cùng các tổ phụ mình, sau khi sống trọn đời cho đến tuổi già. Hai người con trai là Ê-sau và Gia-cốp chôn cất ông.
\s5
\c 36
\p
\v 1 Đây là dòng dõi của Ê-sau (còn gọi là Ê-đôm).
\v 2 Ê-sau lấy vợ từ trong dân Ca-na-an. Đây là các người vợ của ông: A-đa, con gái của Ê-lôn, người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na, cháu ngoại của Xi-bê-ôn, người Hê-vít.
\v 3 và Bách-mát, con gái Ích-ma-ên, em gái Nê-ba-giốt.
\s5
\v 4 A-đa sinh Ê-li-pha cho Ê-sau, còn Bách-mát sinh Rê-u-ên.
\v 5 Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Đó là các con trai sinh cho Ê-sau trong xứ Ca-na-an.
\s5
\v 6 Ê-sau dẫn vợ, con trai, con gái, và mọi người trong nhà mình, cùng với bầy gia súc tức toàn bộ thú vật, và tất cả tài sản mà ông gom góp được trong xứ Ca-na-an rồi đi đến một vùng đất cách xa em mình là Gia-cốp.
\v 7 Ông làm vậy vì tài sản của họ nhiều quá, không thể ở chung với nhau được. Xứ mà họ đã sinh sống lúc trước không đủ chỗ cho bầy gia súc của hai người.
\v 8 Như vậy, Ê-sau, cũng gọi là Ê-đôm, định cư trong vùng đồi Sê-i-rơ.
\s5
\v 9 Sau đây là dòng dõi của Ê-sau, tổ phụ của dân Ê-đôm, trong vùng đồi Sê-i-rơ.
\v 10 Đây là tên các con trai Ê-sau: Ê-li-pha, con A-đa, vợ Ê-sau; Rê-u-ên, con trai Bách-mát, vợ Ê-sau.
\v 11 Các con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham, và Kê-na.
\v 12 Còn Thim-na, vợ lẽ của Ê-li-pha, con trai Ê-sau, sinh A-ma-léc. Đó là các cháu trai của A-đa, vợ Ê-sau.
\s5
\v 13 Đây là các con trai của Rê-u-ên: Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa. Đó là các cháu trai của Bách-mát, vợ Ê-sau.
\v 14 Đây là các con trai của Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau, con gái của A-na và cháu của Xi-bê-ôn. Bà sinh cho Ê-sau Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.
\s5
\v 15 Đây là các chi tộc giữa vòng hậu tự của Ê-sau: dòng dõi Ê-li-pha, con trưởng của Ê-sau: Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Kê-na,
\v 16 Cô-ra, Ga-tham, và A-ma-léc. Các chi tộc này là hậu tự của Ê-li-pha trong xứ Ê-đôm. Họ đều là cháu của A-đa.
\s5
\v 17 Đây là các chi tộc ra từ Rê-u-ên, con trai Ê-sau: Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, Mích-xa. Các chi tộc này là hậu tự của Rê-u-ên trong xứ Ê-đôm. Họ đều là cháu của Bách-mát, vợ Ê-sau.
\v 18 Đây là các chi tộc ra từ Ô-hô-li-ba-ma, vợ của Ê-sau: Giê-úc, Gia-lam, Cô-ra. Các chi tộc này do Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau, con gái A-na, sinh ra.
\v 19 Đó là các con trai Ê-sau, và các chi tộc của họ.
\s5
\v 20 Đây là các con trai của Sê-i-rơ, người Hô-rít, tức cư dân trong xứ: Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na,
\v 21 Đi-sôn, Ét-xe, và Đi-san. Đó là các chi tộc của dân Hô-rít, cư dân vùng Sê-i-rơ trong xứ Ê-đôm.
\v 22 Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hê-man; còn Thim-na là em gái Lô-than.
\s5
\v 23 Đây là các con trai của Sô-banh: Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và Ô-nam.
\v 24 Đây là các con trai của Xi-bê-ôn: Ai-gia và A-na. Ai-gia này là người đã tìm thấy các suối nước nóng trong hoang mạc, khi ông chăn lừa cho Xi-bê-ôn, cha mình.
\s5
\v 25 Đây là con cái của A-na: Đi-sôn và Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na.
\v 26 Đây là các con trai của Đi-sôn: Hem-đan, Ếch-ban, Ích-ran, và Kê-ran.
\v 27 Đây là các con trai của Ét-xe: Binh-han, Xa-van, và A-can.
\v 28 Đây là con trai của Đi-san: Út-xơ và A-ran.
\s5
\v 29 Đây là các chi tộc của người Hô-rít: Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na,
\v 30 Đi-sôn, Ét-xe, Đi-san: đó là các chi tộc của dân Hô-rít, theo như danh sách các chi tộc họ trong xứ Sê-i-rơ.
\s5
\v 31 Đây là các vua cai trị xứ Ê-đôm trước khi có bất kỳ vua nào cai trị Y-sơ-ra-ên.
\v 32 Bê-la, con trai Bê-ô, cai trị Ê-đôm; tên thành của vua là Đin-ha-ba.
\v 33 Khi Bê-la qua đời, Giô-báp, con trai Xê-rách, người thành Bốt-ra, lên kế vị.
\s5
\v 34 Khi Giô-báp qua đời, Hu-sam người xứ Thê-man, lên kế vị.
\v 35 Khi Hu-sam qua đời, Ha-đát, con trai Bê-đát, kẻ đã đánh bại dân Ma-đi-an trong xứ Mô-áp, lên kế vị. Tên thành của vua là A-vít.
\v 36 Khi Ha-đát qua đời, Sam-la, người thành Ma-rê-ca, lên kế vị.
\s5
\v 37 Khi Sam-la qua đời, Sau-lơ, người thành Rê-hô-bốt ở ven sông, lên kế vị.
\v 38 Khi Sau-lơ qua đời, Ba-anh Ha-nan, con trai Ạc-bồ, lên kế vị.
\v 39 Khi Ba-anh Ha-nan, con trai Ạc-bồ, qua đời, Ha-đa lên kế vị. Tên thành của vua là Ba-u. Vợ ông tên Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu của Mê Xa-háp.
\s5
\v 40 Đây là tên của các trưởng tộc từ giữa vòng con cháu Ê-sau, tùy theo chi tộc và vùng đất của họ, theo tên của họ: Thim-na, Anh-va, Giê-hết,
\v 41 Ô-hô-li-ba-ma, Ê-la, Phi-nôn,
\v 42 Kê-na, Thê-man, Míp-xa,
\v 43 Mác-đi-ên, và Y-ram. Đó là các trưởng tộc của Ê-đôm, theo vùng định cư trong xứ mà họ sở hữu. Ê-sau là tổ phụ của dân Ê-đôm vậy.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Gia-cốp sống trong xứ cha mình đang kiều ngụ, tức xứ Ca-na-an.
\v 2 Đây là các việc liên quan đến Gia-cốp. Giô-sép, lúc đó ở tuổi mười bảy, đi giữ chiên cùng các anh mình. Cậu chơi với các con của bà Bi-la và Xinh-ba, vợ của cha mình. Cậu mách lại với cha những việc xấu của họ.
\s5
\v 3 Số là Y-sơ-ra-ên yêu thương Giô-sép hơn mọi con trai khác của mình vì cậu là con trai sinh muộn của ông. Ông may cho cậu một cái áo thật đẹp.
\v 4 Các anh Giô-sép thấy cha yêu thương Giô-sép hơn hết thảy bọn mình, nên họ oán ghét cậu và chẳng nói năng nhẹ nhàng với cậu.
\s5
\v 5 Giô-sép nằm mơ rồi thuật lại cho các anh, khiến họ oán ghét cậu càng thêm.
\v 6 Cậu nói với họ: “Xin các anh nghe em kể giấc mơ mà em nằm thấy.
\s5
\v 7 Em thấy chúng ta đang bó lúa ngoài đồng thì, kìa, bó lúa của em ngóc lên và đứng thẳng dậy, còn mấy bó lúa của các anh thì xúm lại và cúi rạp xuống trước bó lúa của em. ”
\v 8 Các anh cậu đáp lại cậu: “Vậy mày sẽ thật nắm quyền trên chúng tao sao? Mày sẽ thật cai trị chúng tao ư? ” Vậy là vì các giấc mơ của cậu và lời cậu nói mà họ lại ghét cậu càng hơn.
\s5
\v 9 Cậu lại nằm mơ nữa và cũng đi thuật cho các anh mình nghe. Cậu nói: “Này, em lại thấy một giấc mơ nữa. Mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao cúi xuống trước em. ”
\v 10 Cậu cũng thuật lại cho cha mình như đã thuật cho các anh, và cậu bị cha quở mắng. Ông nói với cậu: “Giấc mơ mà con nằm thấy đó là sao? Phải chăng cha, mẹ, cùng các anh con đều sẽ sấp mình xuống trước mặt con? ”
\v 11 Các anh thì ghen ghét cậu, nhưng cha thì ghi nhớ việc ấy.
\s5
\v 12 Các anh đi chăn bầy chiên cho cha tại Si-chem.
\v 13 Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: “Chắc các anh con đang chăn bầy ở Si-chem. Lại đây, để cha sai con đi thăm họ. ” Giô-sép đáp lại cha: “Con đi ngay. ”
\v 14 Ông dặn cậu: “Con hãy đi để xem các anh có mạnh giỏi chăng, và đàn gia súc có ổn không, rồi về thuật cho cha biết. ” Vậy là Giô-sép vâng lời cha; từ thung lũng Hếp-rôn cậu lên đường đi Si-chem
\s5
\v 15 Có người bắt gặp Giô-sép lang thang trên một cánh đồng. Ông ta hỏi cậu: “Cậu tìm ai vậy? ”
\v 16 Giô-sép đáp: “Tôi đi tìm các anh tôi. Xin cho tôi biết họ đang chăn bầy ở đâu vậy. ”
\v 17 Người kia đáp: “Họ đã đi khỏi đây, vì tôi nghe họ bảo: Chúng ta hãy đến Đô-than. ’” Giô-sép đuổi theo các anh và tìm thấy họ ở Đô-than.
\s5
\v 18 Họ trông thấy cậu từ xa, nhưng trước khi cậu đến gần thì họ tính kế hại cậu, để giết cậu đi.
\v 19 Các anh Giô-sép nói với nhau: “Kìa, thằng nằm mộng đến kia.
\v 20 Vậy, bây giờ, nào, chúng ta hãy giết chết nó rồi quăng nó xuống một cái hố. Chúng ta sẽ nói: Nó đã bị thú dữ ăn thịt. Rồi để xem các giấc mơ của nó sẽ thế nào.”
\s5
\v 21 Ru-bên nghe lời đó nên giải cứu cậu khỏi tay họ. Ông nói: “Chúng ta đừng giết nó. ”
\v 22 Ru-bên bàn với họ: “Đừng làm đổ máu. Hãy quăng nó xuống cái hố này ở nơi hoang mạc, nhưng đừng ra tay giết nó” ông nói vậy để giải cứu Giô-sép khỏi tay họ và đem cậu về trả cho cha.
\s5
\v 23 Vậy là khi Giô-sép đến nơi, họ lột chiếc áo đẹp của cậu.
\v 24 Họ bắt cậu quăng xuống hố. Cái hố ấy khô cạn, không có nước.
\s5
\v 25 Rồi họ ngồi lại dùng bữa. Khi nhướng mắt lên nhìn, họ thấy, kìa, có một đoàn dân buôn người Ích-ma-ên từ Ga-la-át đến, dẫn theo lạc đà chở gia vị, dầu xoa bóp và thuốc thơm.
\v 26 Giu-đa nói với các anh em mình: “Giết em rồi phi tang đi thì có ích gì?
\s5
\v 27 Thôi thì chúng ta cứ bán nó cho dân Ích-ma-ên và đừng làm gì hại nó, vì nó cũng là em, là ruột thịt với chúng ta. ” Mấy anh em nghe theo Giu-đa.
\v 28 Đoàn lái buôn người Ma-đi-an đi qua. Các anh Giô-sép kéo cậu từ dưới hố lên. Họ bán Giô-sép cho những người Ích-ma-ên đó với giá hai mươi miếng bạc. Người Ích-ma-ên đem Giô-sép sang Ai Cập.
\s5
\v 29 Ru-bên quay trở lại cái hố và, ôi thôi, Giô-sép không còn ở dưới đó. Ông xé áo mình.
\v 30 Ông trở lại gặp các em, hỏi: “Cậu bé đâu rồi? Còn tôi, tôi biết đi đâu đây?”
\s5
\v 31 Họ giết một con dê và lấy áo Giô-sép nhúng vào máu nó.
\v 32 Rồi họ mang nó về cho cha, thưa: “Chúng con tìm thấy cái áo này. Cha xem có phải là của con trai cha không. ”
\v 33 Gia-cốp nhận ra chiếc áo và thốt lên: “Đúng là áo của con ta. Thú dữ đã ăn thịt nó. Giô-sép hẵn đã bị xé xác rồi.”
\s5
\v 34 Gia-cốp xé áo quần rồi lấy bao bố quấn ngang hông. Ông khóc thương con mình trong nhiều ngày.
\v 35 Hết thảy con trai, con gái đều tìm cách an ủi ông, nhưng ông từ chối, rằng: “Thật, cha sẽ để tang con mình cho đến ngày xuống âm phủ. ” Cha Giô-sép khóc thương cậu như vậy đó.
\v 36 Tại Ai Cập, những người Ma-đi-an bán cậu cho ông Phô-ti-pha, vị quan của Pha-ra-ôn chỉ huy đội thị vệ.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Vào khoảng thời gian đó, Giu-đa lìa anh em mình đến ở với một người A-đu-lam nọ tên là Hi-ra.
\v 2 Ở đó ông gặp con gái của một người Ca-na-an có tên là Su-a. Giu-đa cưới người này và ăn ở với người.
\s5
\v 3 Bà có thai rồi sinh một con trai. Đứa bé được đặt tên là Ê-rơ.
\v 4 Bà lại có thai và sinh một con trai nữa. Bà đặt tên nó là Ô-nan.
\v 5 Bà lại có một con trai khác nữa và đặt tên nó là Sê-la. Bà sinh cậu bé này tại Kê-xíp.
\s5
\v 6 Giu-đa cưới vợ cho Ê-rơ, con trưởng nam của mình. Tên của cô này là Ta-ma.
\v 7 Ê-rơ, con trưởng của Giu-đa, là người gian ác trước mặt Giê-hô-va, nên Ngài giết chết anh ta.
\s5
\v 8 Giu-đa nói với Ô-nan: “Hãy ăn ở với chị dâu của con. Hãy làm trọn bổn phận của em chồng đối với chị ấy, để có con nối dõi cho anh con. ”
\v 9 Ô-nan biết rằng con sinh ra sẽ không phải là con mình, nên khi ăn ở với chị dâu, anh ta làm cho tinh rơi vãi xuống đất, để người anh khỏi có con.
\v 10 Việc anh làm đó là ác trước mặt Giê-hô-va, nên Ngài cũng giết chết anh.
\s5
\v 11 Vậy là Giu-đa nói với Ta-ma, dâu mình: “Con cứ về bên nhà cha con và ở góa như vậy cho đến khi Sê-la, con trai cha, khôn lớn. ” Vì ông nghĩ: “Không khéo nó cũng chết như các anh nó. ” Ta-ma về sống ở nhà cha cô.
\s5
\v 12 Sau một thời gian lâu, con gái Su-a, vợ của Giu-đa, qua đời. Khi lòng đã khuây khỏa, Giu-đa cùng với ông bạn người A-đu-lam là Hi-ra đi lên chỗ những người thợ hớt lông chiên của mình tại Thim-na.
\v 13 Có người báo cho Ta-ma: “Kìa, ông gia cô sắp lên Thim-na để hớt lông chiên. ”
\v 14 Ta-ma cởi bỏ bộ đồ góa phụ, lấy khăn trùm lên người, phủ kín mình lại. Cô ngồi tại cổng thành Ê-na-im, ven con đường đi Thim-na. Làm vậy là vì cô thấy Sê-la đã lớn rồi mà họ vẫn chưa gả mình cho cậu làm vợ.
\s5
\v 15 Khi Giu-đa thấy cô, ông tưởng cô là gái điếm vì cô đã che mặt mình.
\v 16 Ông đến gặp cô ở ven đường, bảo: “Này, tôi muốn ngủ với cô? vì ông không biết đó là con dâu mình. Cô hỏi: “Ông trả cho tôi bao nhiêu để ngủ với tôi?”
\s5
\v 17 Ông đáp: “Tôi sẽ gửi trả cô một con dê tơ trong bầy của tôi. ” Cô lại hỏi: “Ông cho tôi vật gì để làm tin cho đến khi ông gửi con dê đó? ”
\v 18 Ông đáp: “Tôi có thể cho cô vật gì để làm tin đây? ” Cô đáp: “Cái ấn, sợi dây, và cây trượng ông đang cầm. ” Giu-đa trao các thứ đó cho cô và ngủ với cô. Vậy là cô bởi ông mà mang thai.
\s5
\v 19 Cô lên đường đi về, cởi bỏ khăn trùm và mặc lại đồ góa phụ.
\v 20 Giu-đa nhờ ông bạn người A-đu-lam gửi cho người phụ nữ con dê tơ trong bầy để nhận lại vật làm tin, nhưng ông này không tìm được cô.
\s5
\v 21 A-đu-lam hỏi thăm giới đàn ông ở đó, rằng: “Cô gái điếm đứng đường ở thành Ê-na-im đi đâu rồi? ” Họ đáp: “Chưa bao giờ có gái điếm ở vùng này cả. ”
\v 22 Ông gặp lại Giu-đa và nói: “Tôi không tìm được cô ta. Mà mấy ông ở đó cũng nói: “Ở đây không có kỵ nữ nào cả. ”
\v 23 Giu-đa đáp: “Cứ để cho cô ta giữ các thứ ấy, không khéo chúng ta lại mang tiếng. Vì quả là tôi có gửi con dê tơ này, nhưng anh không gặp được cô ta đó thôi.”
\s5
\v 24 Khoảng chừng ba tháng sau có người thuật lại cho Giu-dã, rằng: “Con dâu ông là Ta-ma đi làm gái điếm, và vì vậy cô ta đã mang thai. ” Giu-đa đáp: “Đem nó đến đây và rồi thiêu sống nó đi. ”
\v 25 Khi người ta mang cô ra thì cô sai nhắn thế này với ông gia mình: “Con có thai là do người chủ của các món đồ này. ” Cô tiếp: “Xin cha xác định xem chúng là của ai cái ấn, sợi dây, và cây trượng. ”
\v 26 Giu-đa nhận ra các thứ ấy và nói: “Nó đúng hơn mình, vì mình không gả nó cho Sê-la, con trai mình, làm vợ. ” Rồi ông không ăn ở với cô nữa.
\s5
\v 27 Đến kỳ sinh nở thì, kìa, trong dạ cô có thai đôi.
\v 28 Khi cô sinh, một đứa đưa tay ra trước; người đỡ đẻ lấy một sợi chỉ đỏ buộc lên tay nó và nói: “Đứa này ra trước.”
\s5
\v 29 Nhưng nó lại rút tay vào và, này, đứa kia lại ra trước. Người đỡ để thốt lên: “Mày xông ra như vậy đó! ” Và người ta đặt tên cho nó là Phê-rết.
\v 30 Kế đến, em nó, là đứa có sợi chỉ đỏ trên tay, cũng ra theo, được người ta đặt tên là Sê-rách.
\s5
\c 39
\p
\v 1 Giô-sép bị đem xuống Ai Cập. Ông Phô-ti-pha, vị quan người Ai Cập của Pha-ra-ôn chỉ huy đội thị vệ, mua lại cậu từ tay các lái buôn Ích-ma-ên đã đem cậu xuống đó.
\v 2 Giê-hô-va ở cùng Giô-sép. Cậu trở nên người thành công. Cậu ở trong nhà người chủ Ai Cập của mình.
\s5
\v 3 Chủ nhận biết Giê-hô-va ở với cậu và Giê-hô-va khiến mọi việc cậu làm đều thành công tốt đẹp.
\v 4 Giô-sép được chủ mến chuộng. Cậu phục vụ Phô-ti-pha. Phô-ti-pha cắt đặt cậu làm quản gia, và mọi tài sản mình có ông đều giao cho cậu trông coi.
\s5
\v 5 Từ khi ông ta giao cho cậu quản lý nhà cửa cùng mọi thứ mình sở hữu, thì Giê-hô-va đã ban phước cho nhà ông ta vì cớ Giô-sép. Phước của Giê-hô-va giáng trên mọi thứ thuộc về Phô-ti-pha trong nhà cũng như ngoài đồng.
\v 6 Phô-ti-pha đặt mọi thứ mình có dưới quyền coi sóc của Giô-sép. Ông chẳng cần quan tâm đến bất kỳ việc gì ngoài trừ các thức mình ăn. Giô-sép là người bảnh trai, duyên dáng.
\s5
\v 7 Sau các việc đó, vợ của chủ động lòng tham muốn Giô-sép. Bà ta bảo: “Hãy lại nằm với em. ”
\v 8 Nhưng cậu từ chối và đáp lại vợ chủ: “Kìa, chủ chẳng cần lưu ý việc tôi làm trong nhà, và người đã đặt mọi thứ mình có dưới quyền coi sóc của tôi.
\v 9 Trong nhà này chẳng ai lớn hơn tôi. Chủ chẳng giữ lại thứ gì ngoại trừ bà, vì bà là vợ của người. Làm sao tôi có thể làm chuyện đại ác đó, để rồi phạm tội với Đức Chúa Trời?”
\s5
\v 10 Ngày này sang ngày khác, bà chủ này cứ tiếp tục dụ dỗ Giô-sép, nhưng cậu vẫn không chịu ngủ với hoặc ở riêng với bà ta.
\v 11 Ngày nọ, Giô-sép vào nhà để làm công việc mình. Chẳng có gia nhân nào trong đó.
\v 12 Bà ta túm lấy áo cậu, bảo: “Ngủ với em đi. ” Cậu cởi bỏ áo lại trong tay bà ta rồi chạy thoát ra ngoài.
\s5
\v 13 Khi bà ta thấy cậu bỏ lại áo và chạy thoát ra ngoài,
\v 14 bà gọi các đầy tớ trong nhà, bảo: “Này, hãy xem ông Phô-ti-pha đã đem về một tên Hê-bơ-rơ để trêu chọc chúng ta. Nó vào nhà định ngủ với tôi, nhưng tôi la lớn.
\v 15 Khi nghe tôi la thì nó bỏ áo lại chạy ra ngoài.
\s5
\v 16 Rồi bà ta giữ chiếc áo bên mình cho đến khi ông chủ cậu về.
\v 17 Bà ta mách với ông thế này: “Thằng Hê-bơ-rơ mà ông đem về đã vào nhà trêu chọc tôi.
\v 18 Thấy tôi la lên thì nó bỏ áo chạy ra ngoài.”
\s5
\v 19 Khi chủ cậu nghe lời người vợ kể lại, rằng: “Thằng đầy tớ của ông đã làm thế này, thế này với tôi, ” ông ta rất tức giận.
\v 20 Chủ bắt Giô-sép tống giam vào ngục, là nơi giam giữ các tù nhân của vua. Vậy là Giô-sép ở tù.
\s5
\v 21 Nhưng Giê-hô-va ở cùng Giô-sép và tỏ lòng thành tín với cậu. Ngài khiến cho cậu chiếm được cảm tình của người quản ngục.
\v 22 Viên quản ngục giao cho Giô-sép trông coi tất cả tù nhân trong ngục. Giô-sép chịu trách nhiệm mọi việc họ làm trong đó.
\v 23 Viên quản ngục chẳng cần phải bận tâm về mọi việc đã giao cho cậu, vì Giê-hô-va ở cùng cậu. Cậu làm gì Giê-hô-va cũng khiến thành công.
\s5
\c 40
\p
\v 1 Sau các việc đó, quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai Cập phạm lỗi với chúa mình, tức vua Ai Cập.
\v 2 Pha-ra-ôn nổi giận với hai vị quan này, tức quan chước tửu và quan ngự thiện.
\v 3 Ông giam họ vào nhà lao của vị quan chỉ huy đội thị vệ, tức cùng nơi Giô-sép bị giam giữ.
\s5
\v 4 Quan thị vệ giao cho Giô-sép chịu trách nhiệm chăm sóc hai vị quan này. Họ bị giam như vậy một thời gian.
\v 5 Vào cùng một đêm nọ, cả hai ông đều nằm mơ quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai Cập đang bị giam trong nhà lao mỗi người đều năm mơ, mỗi giấc mơ đều có ý nghĩa.
\s5
\v 6 Giô-sép đến gặp họ vào buổi sáng, và thấy họ buồn rầu.
\v 7 Cậu hỏi hai vị quan của Pha-ra-ôn đang bị giam cùng với mình trong dinh của chủ, rằng: “Sao hai vị hôm nay trông rầu rĩ quá vậy? ”
\v 8 Họ đáp lại cậu: “Cả hai chúng tôi đều nằm mơ, nhưng chẳng ai giải nghĩa được. ” Giô-sép bảo họ: “Chẳng phải giải mộng là việc của Đức Chúa Trời sao? Xin cứ thuật lại cho tôi.”
\s5
\v 9 Vậy là quan chước tửu thuật giấc mơ mình thấy cho Giô-sép. Ông nói: “Khi nằm mơ, tôi thấy, kìa, có một cây nho trước mặt.
\v 10 Cây nho ấy có ba nhánh. Khi cây nho nứt lộc thì hoa nở và các chùm nho chín.
\v 11 Tay tôi đang cầm chén của Pha-ra-ôn. Tôi lấy nho đó ép nước vào chén Pha-ra-ôn rồi đặt chén vào tay Pha-ra-ôn.”
\s5
\v 12 Giô-sép nói với ông: “Ý nghĩa là thế này. Ba nhánh là ba ngày.
\v 13 Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ trả tự do và phục chức cho quan. Rồi quan sẽ dâng rượu vào tay Pha-ra-ôn, y như khi quan còn làm chức chước tửu cho vua vậy.
\s5
\v 14 Nhưng xin nhớ đến tôi khi hoàn cảnh của quan được thuận lợi, và làm ơn cho tôi. Xin trình bày trường hợp của tôi cho Pha-ra-ôn và giúp đem tôi ra khỏi chốn lao tù.
\v 15 Vì quả là tôi đã bị bắt đi khỏi xứ sở của người Hê-bơ-rơ. Ở đây tôi cũng chẳng làm điều gì khiến phải bị giam trong ngục như thế này.”
\s5
\v 16 Khi quan ngự thiện thấy lời giải mộng có chiều thuận lợi, ông nói với Giô-sép: “Tôi cũng nằm mơ, và thấy mình đang đội ba rỗ bánh.
\v 17 Trong rỗ trên cùng có đủ thứ bánh nướng cho Pha-ra-ôn, nhưng chim đến rỉa các bánh đó trong chiếc rỗ tôi đang đội trên đầu.”
\s5
\v 18 Giô-sép đáp lại, rằng: “Ý nghĩa là thế này. Ba rỗ bánh là ba ngày.
\v 19 Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ đem vua ra và cho treo quan lên cây. Rồi chim sẽ đến rỉa thịt quan.”
\s5
\v 20 Ba ngày sau là sinh nhật của Pha-ra-ôn. Vua mở tiệc thết đãi triều thần. Ông đặc biệt lưu ý đến quan chước tửu và quan ngự thiện nhiều hơn tất cả các vị quan khác.
\v 21 Vua phục hồi chức việc lại cho quan chước tửu, và ông ta lại được dâng rượu vào tay vua.
\v 22 Nhưng vua lại cho treo quan ngự thiện lên, y như lời Giô-sép đã giải nghĩa cho họ.
\v 23 Nhưng quan chước tửu chẳng nhớ gì đến Giô-sép, mà lại quên mất cậu.
\s5
\c 41
\p
\v 1 Đúng hai năm sau, Pha-ra-ôn nằm mơ. Vua thấy mình đang đứng ở mé sông Nin.
\v 2 Kìa, có bảy con bò cái béo tốt, mập mạp từ dưới sông đi lên ăn cỏ giữa đám lau sậy.
\v 3 Kìa, lại có thêm bảy con bò cái khác xấu xí, ốm yếu từ dưới sông theo lên. Chúng đứng cạnh các con bò kia trên bờ sông.
\s5
\v 4 Rồi mấy con bò xấu xí, ốm yếu đó ăn mất mấy con bò béo tốt, mập mạp kia. Lúc đó Pha-ra-ôn thức giấc.
\v 5 Rồi ông ngủ tiếp và lại nằm mơ. Kìa có bảy bông lúa mọc lên trên cùng một cọng lúa, khỏe và tốt.
\v 6 Kìa, lại có bảy bông lúa lép và bị háp vì gió đông đâm ra theo sau đó.
\s5
\v 7 Các bông lúa lép này nuốt chửng bảy bông lúa khỏe và chắc kia. Pha-ra-ôn thức giấc và thấy đó là giấc mơ.
\v 8 Đến sáng tâm thần ông bối rối. Ông cho triệu đến tất cả các thuật sĩ và giới thông thái Ai Cập. Pha-ra-ôn thuật cho họ nghe các giấc mơ, nhưng chẳng ai giải nghĩa được cho Pha-ra-ôn.
\s5
\v 9 Lúc đó, quan chước tửu mới thưa với Pha-ra-ôn: “Hôm nay thần ngẫm lại các lỗi lầm của mình.
\v 10 Trước đây, bệ hạ có nổi giận với quần thần và đã tống giam tôi cùng quan ngự thiện tại dinh của quan thị vệ.
\v 11 Chúng tôi, tức ông ấy và tôi, đều nằm mơ trong cùng một đêm nọ. Chúng tôi mỗi người nằm mơ, giấc mơ của mỗi người đều có ý nghĩa riêng.
\s5
\v 12 Bị giam chung với chúng tôi ở đó có một thanh niên Hê-bơ-rơ, đầy tớ của quan thị vệ. Chúng tôi thuật cho anh ta nghe và anh ta đã giải mộng cho chúng tôi. Anh ta giải thích cho mỗi người dựa vào giấc mơ người đó đã thấy.
\v 13 Việc xảy ra y như lời giải mộng của anh ta. Bệ hạ phục chức cho tôi, nhưng lại cho treo quan kia lên.”
\s5
\v 14 Vậy là Pha-ra-ôn sai người triệu Giô-sép đến. Họ liền đem ông ra khỏi ngục, cho ông cạo mặt, thay áo quần, rồi vào diện kiến Pha-ra-ôn.
\v 15 Pha-ra-ôn nói với Giô-sép: “Ta nằm mơ, mà chẳng có ai giải mộng được. Ta nghe biết rằng anh có thể nghe người ta thuật lại giấc mơ và giải nghĩa được. ”
\v 16 Giô-sép đáp lại Pha-ra-ôn, rằng: “Không phải là tự tôi đâu, mà là Đức Chúa Trời sẽ ưu ái đáp lời bệ hạ.”
\s5
\v 17 Pha-ra-ôn thuật lại cho Giô-sép: “Trong giấc mơ, ta đang đứng trên bờ sông Nin.
\v 18 Kìa, có bảy con bò cái mập mạp, béo tốt từ dưới sông đi lên và ăn cỏ giữa đám lau sậy.
\s5
\v 19 Kìa, lại có bảy con bò khác đi theo lên, dáng xấu xí, gầy guộc. Trong cả xứ Ai Cập này ta chưa bao giờ thấy thứ gì xấu xí giống như vậy.
\v 20 Mấy con bò ốm yếu, xấu xí đó nuốt chửng bảy con bò mập béo lúc đầu.
\v 21 Chúng ăn nuốt như vậy mà cũng giống như chưa ăn gì cả, vì chúng vẫn cứ xấu xí như trước. Lúc đó ta tỉnh giấc.
\s5
\v 22 Ta lại nằm mơ và, kìa, có bảy bông lúa mọc lên trên cùng một cọng lúa, chắc và tốt.
\v 23 Kìa, lại có bảy bông khác, héo hon, lép và bị háp vì gió đông, mọc lên theo.
\v 24 Các bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa chắc. Ta đã kể các giấc mơ này cho giới thuật sĩ, nhưng chẳng có ai giải thích ý nghĩa cho ta được.”
\s5
\v 25 . ” Giô-sép nói với Pha-ra-ôn: “Hai giấc mơ của bệ hạ chỉ là một. Điều Đức Chúa Trời sắp làm thì Ngài rao báo cho bệ hạ biết.
\v 26 Bảy con bò cái béo tốt là bảy năm, và bảy bông lúa chắc cũng là bảy năm. Các giấc mơ này giống nhau.
\s5
\v 27 Bảy con bò gầy guộc, xấu xí đi lên sau, cũng như bảy bông lúa lép queo quắt vì gió đông sẽ là bảy năm đói kém.
\v 28 Đó là điều mà tôi đã nói cho bệ hạ. Việc Đức Chúa Trời sắp làm thì Ngài đã bày tỏ cho bệ hạ.
\v 29 Kìa, sẽ có bảy năm bội thu trên khắp Ai Cập.
\s5
\v 30 Sau đó sẽ đến bảy năm đói kém, và trong đất Ai Cập người ta sẽ quên hết tình trạng dư giả kia, do nạn đói sẽ khiến xứ bị điêu tàn.
\v 31 Trong xứ người ta không còn nhớ thế nào là dư giả vì nạn đói theo sau đó sẽ rất trầm trọng.
\v 32 Giấc mơ của bệ hạ được lặp lại vì đó là việc Đức Chúa Trời đã quyết và Ngài sẽ sớm thực hiện.
\s5
\v 33 Bây giờ đây, bệ hạ phải tìm một người khôn sáng và cắt đặt người đó cai quản xứ Ai Cập.
\v 34 Bệ hạ hãy để người đó chỉ định những quản đốc trong xứ, để họ thu vào một phần năm sản lượng của Ai Cập trong bảy năm bội thu.
\s5
\v 35 Họ phải thu góp toàn bộ lương thực của những năm được mùa sắp đến. Họ phải theo sự ủy quyền của bệ hạ mà tồn trữ ngũ cốc để dùng làm lương thực trong các thành. Họ phải bảo vệ số lương thực ấy.
\v 36 Đó sẽ là nguồn cung cấp cho xứ sở trong bảy năm đói kém sẽ xảy ra trong đất Ai Cập. Như vậy, đất nước sẽ không bị điêu tàn bởi nạn đói.”
\s5
\v 37 Lời bàn này được Pha-ra-ôn và toàn thể quần thần ông lấy làm phải.
\v 38 Pha-ra-ôn nói với các quần thần mình: “Một người thế này, có Thần Linh của Đức Chúa Trời trong mình, chúng ta có thể tìm được chăng?”
\s5
\v 39 Vậy là Pha-ra-ôn nói với Giô-sép: “Vì Đức Chúa Trời đã tỏ cho anh mọi việc này, nên chẳng có ai khôn sáng như anh cả.
\v 40 Anh sẽ cai quản nhà của ta, và toàn thể dân tộc ta sẽ phải tuân theo lời của anh. Ta chỉ hơn anh vì ta ngự trên ngai mà thôi. ”
\v 41 Pha-ra-ôn lại nói với Giô-sép: “Này, ta đã lập anh cầm quyền trên khắp xứ Ai Cập đó.”
\s5
\v 42 Pha-ra-ôn cởi chiếc nhẫn ấn khỏi tay mình và đeo vào tay Giô-sép. Ông được cho mặc áo vải lanh sợi mảnh, và đeo chuyền vàng vào cổ.
\v 43 Vua cho ông đi trong chiếc xe thứ hai mà người sở hữu. Trước mặt ông người ta hô lên: “Hãy quỳ xuống. ” Pha-ra-ôn lập ông cai trị toàn xứ Ai Cập.
\s5
\v 44 Pha-ra-ôn nói với Giô-sép: “Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu không có anh thì cả xứ Ai Cập này chẳng có ai đưa tay đưa chân lên được. ”
\v 45 Pha-ra-ôn đặt tên cho Giô-sép là “Xa-phơ-nát Pha-nê-ách. ” Vua gả cho Giô-sép cô Ách-nát làm vợ; cô này là con gái ông Phô-ti-phê-ra, tư tế thành Ôn. Quyền hành của Giô-sép là trên toàn cõi Ai Cập.
\s5
\v 46 Giô-sép được ba mươi tuổi khi ông ra mắt Pha-ra-ôn, vua Ai Cập. Ông cáo từ Pha-ra-ôn ra đi khắp xứ Ai Cập.
\v 47 Trong bảy năm được mùa, đất sản sinh huê lợi dư dật.
\s5
\v 48 Giô-sép thu gom hết lương thực của bảy năm đó trong xứ Ai Cập và trữ trong các thành. Ông đem vào mỗi thành lương thực thu hoạch từ các ruộng đồng chung quanh đó.
\v 49 Giô-sép tích trữ ngũ cốc như cát biển, nhiều đến độ ông không đong lường nữa vì không thể tính được.
\s5
\v 50 Trước khi các năm nói kém xảy đến thì Giô-sép có được hai con trai do Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, tư tế thành Ôn, sinh cho ông.
\v 51 Giô-sép đặt tên cho con trai đầu là Ma-na-se, vì ông nói: “Đức Chúa Trời đã khiến tôi quên đi mọi nhọc nhằn và cả nhà cha tôi. ”
\v 52 Ông đặt tên cho con thứ hai là Ép-ra-im, vì ông nói: “Đức Chúa Trời đã khiến tôi thành công trong xứ tôi chịu đau khổ.”
\s5
\v 53 Bảy năm bội thu trong xứ Ai Cập kết thúc.
\v 54 Bảy năm đói kém khởi sự, y như Giô-sép đã nói. Tình trạng đói kém xảy ra khắp mọi nơi, nhưng trên toàn xứ Ai Cập vẫn có lương thực.
\s5
\v 55 Đến khi toàn Ai Cập bị đói, dân chúng kêu nài Pha-ra-ôn xin cấp lương thực. Pha-ra-ôn nói với mọi người Ai Cập: “Hãy đến với Giô-sép và làm theo mọi điều anh ta dặn bảo. ”
\v 56 Nạn đói xảy ra trên khắp cả xứ. Giô-sép mở tất cả các kho vựa ra bán cho người Ai Cập.
\v 57 Hêt thảy các xứ người ta đều đến Ai Cập để mua ngũ cốc từ Giô-sép, vì nạn đói ấy trầm trọng trên khắp đất.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Gia-cốp nghe biết bên Ai Cập có thóc lúa. Ông nói với các con trai mình: “Sao các con lại nhìn nhau như vậy? ”
\v 2 Ông tiếp: “Này, cha có nghe ở Ai Cập có bán lúa. Các con hãy xuống đó mua đi để chúng ta sống mà khỏi phải chết chứ. ”
\v 3 Vậy là mười người anh Giô-sép xuống Ai Cập mua lúa.
\v 4 Nhưng Bên-gia-min, em trai Giô-sép, thì Gia-cốp không sai đi cùng các anh, vì ông bảo: “Nhỡ nó gặp họa không chừng.”
\s5
\v 5 Các con trai Y-sơ-ra-ên đến mua lúa cùng với những người khác, vì xứ Ca-na-an gặp nạn đói.
\v 6 Lúc ấy, Giô-sép nắm toàn quyền tại Ai Cập. Ông là người bán lương thực cho dân chúng trong xứ. Các anh Giô-sép đến và sấp mặt xuống đất trước ông.
\s5
\v 7 Giô-sép thấy các anh và nhận ra họ, nhưng ông làm như không biết và nói với họ cách xẳng xớm. Ông hỏi họ: “Các người từ đâu đến? ” Họ đáp: “Từ xứ Ca-na-an, đến để mua lương thực. ”
\v 8 Giô-sép nhận ra họ, nhưng họ không nhận ra ông.
\s5
\v 9 Giô-sép nhớ lại các giấc mơ mà ông đã thấy về họ. Ông bảo họ: “Các người là kẻ dọ thám. Các người đến để dòm ngó các chỗ yếu trong xứ. ”
\v 10 Họ đáp lại ông: “Không đâu, thưa chúa. Các tôi tớ chúa đây đến để mua lương thực.
\v 11 Tất cả chúng tôi là con cùng một cha. Chúng tôi đều là dân lương thiện. Các tôi tớ chúa chẳng phải kẻ dọ thám đâu.”
\s5
\v 12 Ông đáp: “Không đúng. Các người đã đến để dọ thám các nơi không được phòng thủ của xứ này. ”
\v 13 Họ đáp: “Các tôi tớ của chúa đây có mười hai anh em, con của cùng một cha trong xứ Ca-na-an. Chú út hiện vẫn ở nhà với cha chúng tôi, một chú em khác thì không còn nữa.”
\s5
\v 14 Giô-sép nói với họ: “Đúng như ta đã nói; các người là quân dọ thám.
\v 15 Ta sẽ dùng điều này để thử các người. Ta chỉ mạng Pha-ra-ôn thề rằng các người sẽ không được phép ra khỏi chốn này trừ khi chú em út của các người xuống đây.
\v 16 Hãy sai một người trong bọn về đem chú em kia xuống. Các người sẽ bị ràng buộc để ta kiểm tra lời các người, xem các người có nói thật không; nếu chẳng thật thì, ta chỉ mạng Pha-ra-ôn, hẳn các người là kẻ dọ thám. ”
\v 17 Rồi ông bắt giam tất cả trong ba ngày.
\s5
\v 18 Vào ngày thứ ba, Giô-sép nói với họ: “Hãy làm thế này để được sống, vì ta kính sợ Đức Chúa Trời.
\v 19 Nếu các người là kẻ lương thiện. thì hãy để một người nào đó chịu giam lại ở đây, còn những người khác sẽ mang lúa về cứu đói cho gia đình.
\v 20 Hãy đem em út các người xuống gặp ta, để ta kiểm chứng lời các người và các người khỏi chết. ” Vậy là họ làm theo.
\s5
\v 21 Họ nói với nhau: “Chúng ta thực sự mắc tội về em của mình vì chúng ta thấy nỗi thống khổ của linh hồn nó khi nó van nài chúng ta mà chúng ta không nghe. Vậy nên tai họa này mới xảy đến cho chúng ta. ”
\v 22 Ru-bên đáp lại họ: “Bộ tôi chẳng nói với các chú: Đừng có phạm tội với thằng bé đó sao? Vậy mà các chú có nghe đâu. Bây giờ thì máu nó bị đòi lại nơi chúng ta.”
\s5
\v 23 Họ không biết rằng Giô-sép hiểu lời họ nói, vì có một người phiên dịch giữa họ.
\v 24 Ông quay sang chỗ khác mà khóc. Rồi ông quay lại nói tiếp với họ. Ông bắt Si-mê-ôn từ giữa họ và trói người này lại trước mặt họ.
\v 25 Rồi Giô-sép bảo đầy tớ đổ đầy thóc vào bao của các anh, và bỏ tiền mỗi người vào lại bao của họ, cũng như cấp lương thực cho họ dùng khi đi đường. Việc được thực hiện đúng như vậy.
\s5
\v 26 Các anh chất lúa lên lưng lừa rồi lên đường.
\v 27 Đến quán trọ, khi một người giữa vòng họ mở bao ra cho lừa ăn lúa, thì thấy số tiền mình đã trả. Kìa, nó nằm trong miệng bao.
\v 28 Ông nói với các anh em mình: “Họ trả tiền tôi lại. Xem này, nó ở ngay trong bao của tôi. ” Lòng họ bối rối; họ kinh hoảng nói với nhau: “Việc Đức Chúa Trời làm cho chúng ta đây là thế nào vậy?”
\s5
\v 29 Họ về gặp Gia-cốp, cha mình, trong xứ Ca-na-an và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra với mình. Họ nói:
\v 30 “Người làm chúa trong xứ ăn nói với chúng con cách xẳng xớm và cho rằng chúng con đi dọ thám xứ ấy.
\v 31 Chúng con nói với ông ta: Chúng tôi là dân lương thiện. Chúng tôi không phải kẻ dọ thám.
\v 32 Chúng tôi có mười hai anh em, là con cùng một cha. Một chú không còn nữa, còn chú út hiện đang ở với cha trong xứ Ca-na-an.
\s5
\v 33 Người đó, tức ông chúa xứ ấy, đáp lại chúng con: Bằng cách này ta sẽ biết các người có lương thiện hay không. Hãy để lại đây với ta một người, lấy lúa về cứu đói cho gia đình và đi đi.
\v 34 Hãy đem em út các người đến cho ta. Khi đó, ta sẽ biết rằng các người không phải là kẻ dọ thám, mà là dân lương thiện. Rồi ta sẽ phóng thích người anh em này và các người sẽ được mua bán trong xứ. ’”
\s5
\v 35 Khi họ trút bao mình ra thì, kia, cọc tiền của mỗi người vẫn còn trong bao. Khi họ và người cha thấy tiền đó, tất cả đều phát sợ.
\v 36 Gia-cốp, người cha, nói với họ: “Chúng bây đã cướp mất các con của cha. Giô-sép không còn, Si-mê-ôn cũng mất, rồi giờ chúng bây lại muốn lấy đi thêm Bên-gia-min. Mọi điều này cha phải chịu hết.”
\s5
\v 37 Ru-bên thưa với cha, rằng: “Cha có thể giết chết hai con trai con nếu con không đem Bên-gia-min về lại cho cha. Cha hãy giao em cho con, rồi con sẽ đem em về lại cho cha. ”
\v 38 Gia-cốp đáp: “Con trai cha sẽ không xuống đó với chúng bây. Vì anh nó đã chết, cha chỉ còn mỗi một mình nó. Nếu chuyện không hay xảy ra cho nó trên đường đi thì chúng bay sẽ khiến cho cái đầu bạc của cha phải đau buồn mà xuống âm phủ.”
\s5
\c 43
\p
\v 1 Tình trạng đói kém trong xứ vẫn trầm trọng.
\v 2 Khi họ đã ăn hết số lúa mua ở Ai Cập, cha họ bảo: “Hãy trở xuống mua thêm một ít lương thực cho chúng ta.”
\s5
\v 3 Giu-đa đáp lại ông: “Người đó đã nghiêm nghị bảo chúng con: Các người đừng mong thấy được mặt ta nếu không có em các người đi cùng.
\v 4 Nếu cha để em đi cùng chúng con thì chúng con mới xuống đó mua lương thực được.
\v 5 Còn nếu cha không để em đi thì chúng con sẽ không xuống đâu. Vì người đó đã nói với chúng con: Các người đừng hòng thấy mặt ta trừ khi có em các người đi cùng. ’”
\s5
\v 6 Y-sơ-ra-ên nói: “Sao chúng bây lại xử tệ với cha như vậy mà nói cho người đó biết mình còn em? ”
\v 7 Họ đáp: “Người đó hỏi kỹ càng về chúng con và gia đình. Ông ta hỏi: Cha các người còn sống chăng? Các người có anh em nào khác không? Và chúng con cứ theo mấy câu hỏi đó mà trả lời. Làm sao chúng con biết được ông ta sẽ bảo: Phải đem em các người xuống?”
\s5
\v 8 Giu-đa nói với Y-sơ-ra-ên, cha mình: “Cứ cho em theo con, rồi chúng con sẽ đứng dậy đi ngay, để chúng ta cả chúng con, cha và con cái chúng con đều được sống, khỏi phải chết.
\v 9 Con xin bảo lãnh em. Con sẽ chịu trách nhiệm về em trước mặt cha. Nếu con không đem em về cho cha và trình em trước mặt cha, thì con đây sẽ chịu tội mãi mãi.
\v 10 Vì nếu chúng ta không nấn ná thì hẳn chúng con đã đi chuyến thứ hai và quay trở về đây rồi.”
\s5
\v 11 Y-sơ-ra-ên, cha họ, bảo họ: “Nếu phải như vậy thì hãy làm thế này. Hãy mang theo trong bao một số sản vật tốt nhất của xứ, đem xuống tặng cho người đó: một ít dầu xoa và mật ong, gia vị và nhựa thơm, phi tử và hạnh nhân.
\v 12 Hãy cầm theo gấp đôi số bạc. Số bạc bị bỏ lại ở miệng bao các con phải cầm theo. Chắc có sự nhầm lẫn nào đó.
\s5
\v 13 Cũng hãy dẫn theo em các con. Hãy đứng dậy trở xuống mà gặp người đó.
\v 14 Nguyện Đức Chúa Trời toàn năng thương xót các con trước mặt người đó, để ông ta tha đứa em kia cùng với Bên-gia-min cho các con. Nếu cha mất con thì cha đành chịu vậy. ”
\v 15 Những người ấy lấy lễ vật, và đem theo gấp đôi số bạc, cùng với Bên-gia-min. Họ đứng dậy đi xuống Ai Cập và ra mắt Giô-sép.
\s5
\v 16 Khi Giô-sép thấy Bên-gia-min đi cùng họ, ông nói với viên quản gia: “Hãy đưa mấy người ấy về nhà, và giết thịt con gì đó làm món ăn, vì trưa nay họ sẽ dùng bữa với tôi. ”
\v 17 Viên quản gia làm y như Giô-sép dặn bảo. Ông đưa mấy người đó đến nhà Giô-sép.
\s5
\v 18 Những người ấy lo sợ khi họ được đưa đến nhà Giô-sép. Họ bảo: “Chắc vì số bạc đã trả lại trong các bao của chúng ta mà chúng ta bị đưa vào đây, để ông ta tìm dịp làm hại chúng ta. Ông ta có thể giữ chúng ta lại, bắt chúng ta làm nô lệ, rồi lấy hết lừa của chúng ta. ”
\v 19 Họ lại gần viên quản gia của Giô-sép và nói với ông này ở chỗ cửa ra vào,
\v 20 rằng: “Thưa chúa tôi, lần đầu chúng tôi xuống đây mua lương thực.
\s5
\v 21 Khi đến quán trọ, chúng tôi mở bao ra và, kìa bạc của mỗi người ở ngay trong miệng bao mình, đúng y số bạc chúng tôi trả. Chúng tôi có đem theo đây.
\v 22 Chúng tôi cũng có đem thêm bạc để mua lương thực. Chúng tôi chẳng biết ai đã để số bạc trong bao chúng tôi. ”
\v 23 Viên quản gia nói: “Các ông cứ yên lòng, đừng sợ. hẳn là Đức Chúa Trời của các ông và Đức Chúa Trời của cha các ông đã để bạc đó trong bao các ông. Còn tôi đã nhận đủ số bạc của các ông rồi. ” Rồi viên quản gia đem Si-mê-ôn ra gặp họ.
\s5
\v 24 Viên quản gia đưa mấy người đó vào nhà Giô-sép. Ông mang nước ra cho họ rửa chân. Ông cũng đem thức ăn cho lừa của họ.
\v 25 Họ sửa soạn phẩm vật tặng cho Giô-sép khi ông về vào buổi trưa, vì họ nghe mình sẽ dùng bữa tại đây.
\s5
\v 26 Khi Giô-sép về, họ đem các tặng phẩm mà họ mang theo vào trong nhà, và sấp mình xuống trước mặt ông.
\v 27 Ông hỏi thăm sức khỏe của họ, rằng: “Người cha già mà các người nói đó có mạnh giỏi không? Ông cụ vẫn còn sống đấy chứ?”
\s5
\v 28 Họ đáp: “Tôi tớ ông là cha chúng tôi vẫn khỏe. Ông cụ vẫn còn sống. ” Họ lại sấp mình xuống đất mà lạy.
\v 29 Giô-sép ngước mắt nhìn và thấy Bên-gia-min, em mình, con trai của mẹ mình. Ông hỏi: “Có phải đây là chú em út mà các người đã nói với ta không? ” Ông tiếp: “Cầu Đức Chúa Trời làm ơn cho con, con trai.”
\s5
\v 30 Rồi Giô-sép vội vã ra khỏi phòng vì ông vô cùng xúc động khi thấy em mình. Ông tìm chỗ để khóc. Ông về phòng riêng và khóc ở đó.
\v 31 Rồi ông rửa mặt và trở ra. Ông cầm lòng, bảo: “Đem thức ăn ra.”
\s5
\v 32 Các đầy tớ dọn cho Giô-sép ăn riêng và các anh em ăn riêng. Những người Ai Cập dùng bữa với ông ở đó cũng ngồi riêng, vì người Ai Cập không ăn chung với người Hê-bơ-rơ được, bởi họ xem đó là việc ghê tởm.
\v 33 Các anh em ngồi đối diện với Giô-sép, anh cả ngồi chỗ của anh cả, em út ngồi chỗ của em út. Họ ngẩn ngơ nhìn nhau.
\v 34 Giô-sép sai đem các phần thức ăn trước mặt mình cho họ, nhưng phần Bên-gia-min nhiều gấp năm lần các người khác. Họ ăn, uống và vui vẻ cùng với ông.
\s5
\c 44
\p
\v 1 Giô-sép dặn bảo người quản gia của mình, rằng: “Những người đó chở được bao nhiêu lương thực thì cứ đổ vào bao cho họ bấy nhiêu, rồi để bạc của mỗi người vào miệng bao của họ.
\v 2 Cũng hãy để cái chén bạc của tôi trong miệng bao của chú em út, cùng với số bạc mua lúa của chú ấy. ” Viên quản gia làm y như Giô-sép dặn bảo.
\s5
\v 3 Trời rạng sáng, người ta để những người đó ra đi cùng với lừa của mình.
\v 4 Khi ho đã ra khỏi thành nhưng chưa đi được bao xa, thì Giô-sép bảo viên quản gia: “Hãy đứng dậy đuổi theo mấy người kia, và khi đã đuổi kịp, hãy nói với họ: “Sao các người lấy oán trả ơn như vậy?
\v 5 Chẳng phải đây là cái chén mà chủ ta dùng để uống và để bói toán hay sao? Việc các người làm đó thật là tệ bạc.”
\s5
\v 6 Viên quản gia đuổi kịp họ và nói những lời ấy với họ.
\v 7 Họ đáp lại ông: “Sao chúa tôi lại nói những lời như thế? Không thể nào có chuyện đầy tớ của chúa lại làm chuyện như vậy.
\s5
\v 8 Kìa, tiền mà chúng tôi thấy trong miệng bao thì chúng tôi đã từ xứ Ca-na-an đem đến trả lại. Làm sao chúng tôi lại có thể ăn cắp bạc hay vàng gì trong nhà của chủ người?
\v 9 Nếu ai bị bắt gặp đang giữ vật ấy, thì người đó phải chết, và chúng tôi cũng xin làm nô lệ cho chúa tôi. ”
\v 10 Viên quản gia đáp: “Rồi, cứ theo như lời các người đã nói. Cái chén được tìm thấy nơi ai thì người đó sẽ làm nô lệ cho tôi, còn những người khác vô tội.”
\s5
\v 11 Vậy là mỗi người vội vàng hạ bao của mình xuống đất và mở bao ra.
\v 12 Viên quản gia lục soát, người anh cả trước hết và người em út sau cùng, và cái chén được tìm thấy trong bao của Bên-gia-min.
\v 13 Họ liền xé quần áo mình. Mỗi người lại chất đồ lên lưng lừa và quay trở vào thành.
\s5
\v 14 Giu-đa và anh em ông đến nhà Giô-sép. Ông vẫn còn ở nhà, và họ sấp mình xuống trước ông.
\v 15 Giô-sép hỏi họ: “Việc các người đã làm đó là sao vậy? Bộ các người không biết rằng một người như ta đây biết bói toán sao?”
\s5
\v 16 Giu-đa đáp: “Chúng tôi có thể nói gì với chúa tôi đây? Chúng tôi biết nói gì? Hoặc có thể tự biện minh thế nào đây? Đức Chúa Trời đã biết được sự gian ác của các tôi tớ chúa. Này, chúng tôi đây đều cam làm nô lệ cho chúa tôi kẻ bị bắt gặp giữ cái chén cùng mọi người khác. ”
\v 17 Giô-sép đáp: “Ta chẳng bao giờ có ý làm vậy. Ai bị bắt gặp lấy cắp cái chén, thì chỉ người đó mới phải làm nô lệ cho ta, còn những kẻ khác cứ yên lòng ra đi trở về với cha mình.”
\s5
\v 18 Giu-đa đến gần Giô-sép và nói: “Thưa chúa tôi, vì chúa chẳng khác nào Pha-ra-ôn, nên xin hãy nghe tôi tớ chúa nói lời này, rồi chúa cứ nổi giận với tôi tớ chúa.
\v 19 Chúa tôi có hỏi các tôi tớ mình, rằng: Các người còn cha hay anh em gì không?
\s5
\v 20 Và chúng tôi có đáp lại chúa tôi: Chúng tôi còn một cha già, cùng một con nhỏ của ông cụ ở tuổi xế chiều. Người anh của chú em đó đã chết và chú ấy là con còn lại duy nhất của mẹ mình, được cha yêu thương.
\v 21 Chúa có bảo các tôi tớ chúa: Hãy đem chú ấy xuống đây để ta thấy mặt.
\v 22 Và chúng tôi có đáp lại với chúa tôi: Cậu bé không thể rời cha được, vì nếu cậu lìa xa cha thì cha sẽ chết.
\s5
\v 23 Nhưng chúa lại bảo các tôi tớ chúa: Nếu em út các người không xuống gặp ta, thì các người đừng mong thấy lại mặt ta.
\v 24 Nên khi chúng tôi trở lên gặp lại tôi tớ chúa là cha chúng tôi, chúng tôi có thuật cho người lời của chúa tôi.
\v 25 Rồi khi cha chúng tôi bảo: Hãy quay xuống đó mua lương thực cho chúng ta,
\v 26 chúng tôi đáp: Chúng con không thể đi được. Nếu em út đi với chúng con, thì chúng con mới đi, vì chúng con không thể thấy mặt người đó trừ khi có em út cùng đi.
\s5
\v 27 Tôi tớ chúa, tức cha chúng tôi, đáp: Chúng bây biết là vợ của cha đã sinh cho cha hai con trai.
\v 28 Một đứa đã ra đi biệt tích, và cha có nói: “hẳn nó đã bị xé xác, nên đến nay vẫn chưa gặp lại. ”
\v 29 Nếu chúng bây lại đem đứa này đi và nhỡ nó bị hại gì, thì chúng bay sẽ khiến cái đầu bạc này phải đau buồn mà xuống âm phủ.
\s5
\v 30 Vì sự sống của cha buộc chặt với sinh mạng cậu bé, nên nếu tôi trở về cùng tôi tớ chúa là cha mình mà không có cậu bé về theo
\v 31 thì, khi ông cụ thấy cậu bé không đi cùng chúng tôi, ông cụ sẽ chết mất. Như thế các tôi tớ chúa sẽ khiến đầu bạc của tôi tớ chúa là cha chúng tôi phải đau lòng mà xuống âm phủ.
\v 32 Vì tôi tớ của chúa đây đã đứng ra bảo lãnh cậu bé với cha, rằng: Nếu con không đem em về cùng cha, thì con xin chịu tội với cha mãi mãi.
\s5
\v 33 Cho nên, giờ đây, xin cho tôi tớ chúa ở lại làm nô lệ cho chúa thay cho cậu bé, và xin để cho cậu bé đi về cùng các anh của nó.
\v 34 Vì làm sao tôi dám về cùng cha nếu không có cậu bé cùng về? Tôi e phải chứng kiến điều tồi tệ xảy đến cho cha mình.”
\s5
\c 45
\p
\v 1 Lúc đó Giô-sép không cầm lòng được trước mặt các đầy tớ đang đứng cạnh ông. Ông quát lớn: “Mọi người ra ngoài hết. ” Vậy là chẳng có tôi tớ nào của Giô-sép ở cạnh khi ông tỏ mình ra cho các anh em.
\v 2 Ông khóc lớn đến nỗi người Ai Cập nghe được, và việc đó đến tai nhà Pha-ra-ôn.
\v 3 Giô-sép nói với các anh em: “Tôi là Giô-sép. Cha tôi vẫn còn sống chứ? ” Nhưng trước mặt ông, các anh em quá sửng sốt, không trả lời được.
\s5
\v 4 Rồi Giô-sép nói với các anh em: “Xin hãy lại gần đây. ” Họ tiến lại. Ông tiếp: “Tôi là Giô-sép, người em mà các anh đã bán qua Ai Cập.
\v 5 Nhưng giờ đây, các anh đừng có đau buồn hoặc tự trách mình vì đã bán tôi đến đây, vì Đức Chúa Trời sai tôi đi trước để bảo toàn sự sống.
\v 6 Nạn đói đã kéo dài trong xứ hai năm nay, và vẫn còn năm năm nữa người ta sẽ không cày cấy, gặt hái gì được.
\s5
\v 7 Đức Chúa Trời đã sai tôi đi trước các anh để bảo tồn dòng dõi các anh trên đất và giữ cho các anh được sống bằng một cuộc giải cứu lớn lao.
\v 8 Vậy, không phải các anh đã đưa tôi đến đây, mà là Đức Chúa Trời, và Ngài đã khiến tôi trở nên như cha của Pha-ra-ôn, làm chủ cả nhà người, và cai trị toàn cõi Ai Cập.
\s5
\v 9 Anh em hãy mau trở lên gặp cha tôi và báo cho ông, rằng: Giô-sép, con trai cha, nói thế này: Đức Chúa Trời đã khiến con trở nên người chủ của cả Ai Cập. Hãy xuống đây với con, đừng chậm trễ.
\v 10 Cha sẽ sống trong vùng Gô-sen và cha, cùng các con, cháu của cha, sẽ được gần con, với bầy bò, bầy chiên, và mọi thứ mà cha có.
\v 11 Con sẽ chu cấp cho cha tại đó, vì vẫn còn đến năm năm đói kém nữa, để cha sẽ không rơi vào cảnh nghèo thiếu cha, cả nhà cha, và mọi thứ cha có.
\s5
\v 12 Này nhé, các anh đã chứng kiến tận mắt, cũng như em tôi là Bên-gia-min, chính miệng tôi nói với các anh đây.
\v 13 Các anh hãy thuật lại cho cha tôi biết mọi quyền hành của tôi tại Ai Cập, cùng mọi điều các anh đã thấy. Rồi hãy gấp rút đưa cha tôi xuống đây.”
\s5
\v 14 Giô-sép ôm choàng lấy cổ Bên-gia-min, em mình mà khóc, và Bên-gia-min cũng khóc trên cổ anh.
\v 15 Ông cũng hôn tất cả các anh mình và khóc. Sau đó, các anh em chuyện trò với ông.
\s5
\v 16 Tin về chuyện này lan đến nhà Pha-ra-ôn, rằng: “Các anh em của Giô-sép đã đến. ” Tin đó khiến Pha-ra-ôn và quần thần ông vui thích.
\v 17 Pha-ra-ôn nói với Giô-sép: “Bảo các anh em của anh làm thế này: Hãy chất đồ lên lưng lừa rồi trở về Ca-na-an.
\v 18 Hãy rước cha và cả nhà các anh xuống đây với tôi. Tôi sẽ cấp cho các anh những vật tốt của xứ Ai Cập, và các anh sẽ được hưởng mẫu mỡ của đất.
\s5
\v 19 Anh phải bảo họ, rằng: Hãy làm thế này: hãy đem xe cộ từ xứ Ai Cập về rước con cái và vợ mình. Cũng hãy đón cha các anh xuống đây.
\v 20 Đừng lo gì về các tài sản của mình, vì những thứ tốt đẹp của cả xứ Ai Cập là của các anh. ’”
\s5
\v 21 Các con trai của Y-sơ-ra-ên làm theo. Giô-sép cấp cho họ xe cộ, theo như lệnh truyền của Pha-ra-ôn, và phát cho họ lương thực để dùng trong chuyến đi.
\v 22 Ông cho mỗi người áo quần để mặc thay đổi, nhưng riêng Bên-gia-min, ông cho ba trăm miếng bạc và năm bộ áo quần.
\v 23 Với cha mình, ông gửi mười con lừa chở các phẩm vật quý của Ai Cập, mười lừa cái chở lúa, bánh và các thứ nhu yếu khác dùng khi đi đường.
\s5
\v 24 Vậy, Giô-sép đưa tiễn các anh em mình lên đường và họ ra đi. Ông nói với họ: “Anh em đừng có cãi vả nhau dọc đường. ”
\v 25 Họ khởi hành từ Ai Cập và đi về xứ Ca-na-an cùng cha mình.
\v 26 Họ thưa với ông: “Giô-sép vẫn còn sống, và chú ấy hiện đang cai trị cả xứ Ai Cập. ” Nhưng lòng ông kinh ngạc, không tin lời họ.
\s5
\v 27 Họ thuật lại cho ông mọi lời Giô-sép đã nói với mình. Khi Gia-cốp thấy các cỗ xe mà Giô-sép đã phái về để đưa mình đi, thì tâm thần Gia-cốp, cha họ, mới tỉnh lại.
\v 28 Y-sơ-ra-ên nói: “Thế là đủ. Con trai mình là Giô-sép vẫn còn sống. Mình sẽ đi thăm con trước khi qua đời.”
\s5
\c 46
\p
\v 1 Y-sơ-ra-ên ra đi với mọi tài sản mình có và đến Bê-e-sê-ba. Ở đó, ông dâng sinh tế cho Đức Chúa Trời của cha mình là Y-sác.
\v 2 Đức Chúa Trời gọi Y-sơ-ra-ên trong một khải tượng lúc ban đêm: “Này, Gia-cốp, Gia-cốp. ” Ông đáp: “Có con đây. ”
\v 3 Ngài phán: “Ta là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời của cha con. Đừng sợ khi phải xuống Ai Cập, vì tại đó Ta sẽ khiến con thành một dân lớn.
\v 4 Ta sẽ đi cùng con xuống Ai Cập, và chắc chắn Ta sẽ đem con trở lên. Chính Giô-sép sẽ vuốt mắt con.”
\s5
\v 5 Gia-cốp rời khỏi Bê-e-sê-ba. Các con của Y-sơ-ra-ên chở cha mình là Gia-cốp, con cái cùng vợ họ trên các xe mà Pha-ra-ôn đã phái đến chở ông.
\v 6 Họ đem theo bầy vật và tài sản mà họ tích góp được trong xứ Ca-na-an. Rồi Gia-cốp và tất cả con cháu đồng đi với ông cùng vào đất Ai Cập.
\v 7 Ông đem theo các con trai và cháu trai, con gái và cháu gái, tức tất cả con cháu mình.
\s5
\v 8 Đây là tên các con của Y-sơ-ra-ên đã đến Ai Cập: Ru-bên, con trưởng của Gia-cốp;
\v 9 các con trai của Ru-bên là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi.
\v 10 Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha, và Sau-lơ, con của một phụ nữ Ca-na-an.
\v 11 Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
\s5
\v 12 Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, Sê-la, Phê-rết và Sê-rách, (nhưng Ê-rơ và Ô-nan đã chết trong xứ Ca-na-an, và các con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun).
\v 13 Các con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn.
\v 14 Các con trai của Sa-bu-lôn là Sê-rết, Ê-lôn, và Gia-lê-ên.
\v 15 (Họ là các con trai mà Lê-a đã sinh cho Gia-cốp tại Pha-đan A-ram, cùng với người con gái của ông tên Đi-na; số các con trai và con gái là ba mươi ba người).
\s5
\v 16 Các con trai của Gát là Xí-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi và A-rê-li.
\v 17 Các con trai A-se là Dim-na, Dích-va, Dích-vi, Bê-ri-a; em gái họ là Sê-rách; và các con trai Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên.
\v 18 (Họ là các con trai của Xinh-ba, người mà La-ban đã cho theo hầu Lê-a, con gái ông. Bà sinh những người ấy cho Gia-cốp, tổng cộng là mười sáu người).
\s5
\v 19 Các con trai của Ra-chên, vợ của Gia-cốp là Giô-sép và Bên-gia-min.
\v 20 (Tại xứ Ai Cập, Giô-sép có hai con là Ma-na-se và Ép-ra-im, do Ách-nát, con gái của thầy tư tế thành Ôn là Phô-ti-phê-ra, sinh cho ông.)
\v 21 Các con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, Ách-bên, Giê-ra, Na-a-man, Ê-hi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim và A-rết.
\v 22 (Họ là các con trai Ra-chên sinh cho Gia-cốp, tổng cộng là mười bốn người.)
\s5
\v 23 Con trai của Đan là Hu-sim.
\v 24 Con trai của Nép-ta-li là Giát-sê-ên, Gu-ni, Giê-xe, và Si-lem.
\v 25 (Đó là các con trai mà Bi-la, người được La-ban cho theo hầu con gái mình là Ra-chên, sinh cho Gia-cốp. Cả thảy là bảy người.)
\s5
\v 26 Toàn bộ số người đi cùng Gia-cốp xuống Ai Cập là con, cháu ông, không kể các con dâu, là sáu mươi sáu người.
\v 27 Số các con trai Giô-sép sinh cho ông tại Ai Cập là hai người. Như vậy, tổng số những người thuộc nhà Gia-cốp đên Ai Cập là bảy mươi.
\s5
\v 28 Gia-cốp sai Giu-đa đi trước gặp Giô-sép để chỉ đường cho ông đến Gô-sen, và họ đến vùng Gô-sen.
\v 29 Giô-sép chuẩn bị xe rồi đi lên đón cha mình tại Gô-sen. Ông gặp cha, ôm lấy cổ cha và khóc một hồi lâu.
\v 30 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Bây giờ cha có chết cũng thỏa lòng, vì cha đã thấy được mặt con và biết con vẫn còn sống.”
\s5
\v 31 Giô-sép nói với các anh em và người nhà cha mình: “Tôi sẽ lên tâu với Pha-ra-ôn, rằng: “Các anh em và cả nhà cha tôi ở xứ Ca-na-an đã đến cùng tôi.
\v 32 Họ vốn là người chăn, vì lâu nay họ vẫn chăn nuôi bầy vật. Họ cũng đem theo bầy chiên, bầy bò cùng mọi tài sản của mình.
\s5
\v 33 Khi Pha-ra-ôn triệu anh em đến và hỏi: Các người làm nghề gì?
\v 34 thì anh em phải nói: Tôi tớ của bệ hạ, cả chúng tôi và tổ phụ chúng tôi, vẫn làm nghề chăn nuôi súc vật từ nhỏ cho đến ngày nay. Hãy nói vậy để anh em được sống trong vùng Gô-sen, vì dân Ai Cập thấy ghê tởm mọi người chăn chiên.”
\s5
\c 47
\p
\v 1 Rồi Giô-sép vào tâu với Pha-ra-ôn: “Cha và các anh em tôi đã từ Ca-na-an đến, cùng với chiên, bò, và mọi thứ họ sở hữu. Hiện họ đang ở tại vùng Gô-sen. ”
\v 2 Ông đưa năm trong số các anh em mình đến ra mắt Pha-ra-ôn.
\s5
\v 3 Pha-ra-ôn hỏi các anh Giô-sép: “Các người làm nghề gì? ” Họ đáp lại Pha-ra-ôn: “Các tôi tớ bệ hạ là kẻ chăn súc vật, giống như tổ phụ của chúng tôi. ”
\v 4 Rồi họ lại thưa với Pha-ra-ôn: “Chúng tôi đến để tạm trú trong xứ của bệ hạ. Nạn đói tại xứ Ca-na-an rất trầm trọng nên chẳng còn đồng cỏ cho bầy vật của tôi tớ bệ hạ. Vậy, xin bệ hạ cho chúng tôi được sống trong vùng Gô-sen.”
\s5
\v 5 Pha-ra-ôn nói với Giô-sép, rằng: “Cha và anh em của anh đã đến cùng anh.
\v 6 Xứ Ai Cập ở trước mặt các anh. Hãy sắp đặt cho cha và anh em của anh sống tại vùng đất tốt nhất trong xứ, tức vùng Gô-sen. Nếu anh biết có ai giữa vòng họ giỏi thì hãy cắt đặt người đó trông coi bầy vật của ta.”
\s5
\v 7 Rồi Giô-sép đưa cha mình là Gia-cốp vào giới thiệu với Pha-ra-ôn. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn.
\v 8 Pha-ra-ôn hỏi Gia-cốp: “Cụ được bao nhiêu tuổi rồi? ”
\v 9 Gia-cốp đáp lại Pha-ra-ôn: “Cuộc đời phiêu bạt của tôi đến nay được một trăm ba mươi năm. Số năm tháng của đời sống tôi thật ngắn ngủi và nhọc nhằn, không được như của các tổ phụ tôi. ”
\v 10 Rồi Gia-cốp lại chúc phước cho Pha-ra-ôn và cáo từ.
\s5
\v 11 Vậy là Giô-sép ổn định cuộc sống cho cha và anh em mình. Ông cấp cho họ một khu đất tại xứ Ai Cập, chỗ tốt nhất, trong vùng Ram-se, theo như lệnh của Pha-ra-ôn.
\v 12 Giô-sép cấp dưỡng cho cha và các anh em, cùng cả nhà cha mình, tùy theo số người phụ thuộc.
\s5
\v 13 Chẳng còn lương thực trong khắp cả xứ, vì nạn đói rất trầm trọng. Xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an đều bị kiệt quệ vì nạn đói đó.
\v 14 Giô-sép thu vào toàn bộ tiền bạc trong xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an bằng cách bán lúa ra cho dân chúng. Rồi Giô-sép đem hết số bạc đó vào cung Pha-ra-ôn.
\s5
\v 15 Khi xứ Ai Cập và Ca-na-an không còn tiền bạc nữa, thì mọi người dân Ai Cập đến gặp Giô-sép nói: “Xin cấp cho chúng tôi lương thực! Chẳng lẽ trước mặt ngài mà chúng tôi phải chết vì hết tiền? ”
\v 16 Giô-sép đáp: “Nếu các người hết tiền thì hãy giao súc vật cho tôi, rồi tôi sẽ đổi lương thực cho. ”
\v 17 Vậy là họ đem súc vật mình đến cho Giô-sép. Giô-sép cấp cho họ lương thực để đổi lấy ngựa, bầy chiên, bầy bò, và lừa. Ông cấp cho họ bánh ăn năm đó để đổi lấy toàn bộ súc vật của họ.
\s5
\v 18 Hết năm đó, sang năm sau, họ lại đến gặp ông và nói: “Chúng tôi chẳng giấu gì chúa, tiền bạc chúng tôi đã hết, các đàn gia súc cũng đã giao cho chúa. Trước mặt chúa chúng tôi chẳng còn gì ngoài thân này và ruộng đất của chúng tôi.
\v 19 Chẳng lẽ cả chúng tôi và đất ruộng đều phải tiêu hao trước mặt chúa? Hãy mua chúng tôi cùng ruộng đất chúng tôi bằng lương thực, rồi chúng tôi và ruộng đất chúng tôi sẽ làm tôi cho Pha-ra-ôn. Hãy cấp hạt giống để chúng tôi được sống mà không phải chết, và để đất khỏi bị hoang phế.”
\s5
\v 20 Vậy là Giô-sép mua hết đất đai tại Ai Cập về cho Pha-ra-ôn. Mọi người Ai Cập đều bán đi đồng ruộng mình vì nạn đói rất trầm trọng. Cứ như vậy mà đất đai đều thuộc về Pha-ra-ôn.
\v 21 Đối với dân chúng, ông bắt họ phục dịch từ đầu này đến đầu kia của lãnh thổ Ai Cập.
\v 22 Chỉ có đất của các thầy tư tế là Giô-sép không mua, vì giới tư tế được hưởng trợ cấp, và họ ăn từ phần mà Pha-ra-ôn cấp cho. Nhờ đó, họ không phải ban đi đất ruộng mình
\s5
\v 23 Giô-sép bảo dân chúng: “Này, giờ thì tôi đã mua các người cùng ruộng đất các người cho Pha-ra-ôn. Đây là hạt giống cho các người, để các người gieo trồng.
\v 24 Đến vụ thu hoạch, các người phải nộp một phần năm huê lợi cho Pha-ra-ôn, còn bốn phần kia sẽ là của các người, để làm giống và để nuôi sống nhà mình, con cái mình.”
\s5
\v 25 Họ đáp: “Ngài đã cứu mạng chúng tôi. Chúng tôi mong được nhờ ơn ngài. Chúng tôi sẽ làm tôi cho Pha-ra-ôn. ”
\v 26 Như vậy, Giô-sép đã thiết đặt một luật định vẫn còn hiệu lực tại xứ Ai Cập đến ngày nay, đó là một phần năm huê lợi thuộc về Pha-ra-ôn. Chỉ đất đai của giới tư tế là không thuộc về Pha-ra-ôn.
\s5
\v 27 Như vậy, Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại xứ Ai Cập, trong vùng Gô-sen. Con cháu ông có được tài sản tại đó. Họ sinh sản và gia tăng gấp bội.
\v 28 Gia-cốp sống tại xứ Ai Cập mười bảy năm, như vậy số năm của cuộc đời Gia-cốp là một trăm bốn mươi bảy năm.
\s5
\v 29 Khi đến thời điểm Y-sơ-ra-ên sắp qua đời, ông gọi Giô-sép, con trai mình, bảo: “Nếu cha được nhờ ơn con, con hãy đặt tay dưới đùi cha đây, để tỏ ra con thành tín và đáng tin cậy. Xin đừng chôn cha tại Ai Cập.
\v 30 Khi cha đã về cùng các tổ phụ mình, con hãy đưa cha ra khỏi Ai Cập và chôn cất cha trong mộ địa của các tổ phụ. ” Giô-sép hứa: “Con sẽ làm theo lời cha dặn. ”
\v 31 Y-sơ-ra-ên bảo ông: “Con hãy thề với cha đi, ” và Giô-sép thề với ông. Rồi Y-sơ-ra-ên cúi mình xuống ở đầu gường.
\s5
\c 48
\p
\v 1 Sau các việc đó, có người báo cho Giô-sép: “Kìa, cha của ngài lâm bệnh. ” Vậy, Giô-sép dắt hai con là Ma-na-se và Ép-ra-im theo mình.
\v 2 Khi Gia-cốp được báo rằng: “Kìa, có con trai ông là Giô-sép đến thăm, ” thì Y-sơ-ra-ên gượng ngồi dậy trên gường.
\s5
\v 3 Gia-cốp nói với Giô-sép: “Đức Chúa Trời toàn năng có hiện ra với cha tại Lu-xơ trong xứ Ca-na-an. Ngài ban phước cho cha
\v 4 và phán với cha: Này, Ta sẽ khiến cho con sinh sản và thêm lên nhiều. Ta sẽ khiến con thành một nhóm các dân tộc. Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi con làm sản nghiệp đời đời.
\s5
\v 5 Giờ đây, hai con trai được sinh ra cho con tại xứ Ai Cập trước khi cha đến Ai Cập kể như thuộc về cha. Ép-ra-im và Ma-na-se sẽ là của cha, cũng giống như Ru-bên và Si-mê-ôn là của cha vậy.
\v 6 Con cái mà con sẽ có sau này sẽ là của con; chúng sẽ được hưởng cơ nghiệp dưới danh nghĩa của hai anh mình.
\v 7 Phần cha, khi cha từ Pha-đan A-ram trở về, cha phải đau buồn vì Ra-chên qua đời dọc đường, trong xứ Ca-na-an, gần đến Ép-ra-ta. Cha chôn mẹ con tại đó, trên đường đi Ép-ra-ta (tức Bết-lê-hem).”
\s5
\v 8 Khi Y-sơ-ra-ên thấy thấy các con trai Giô-sép, ông hỏi: “Ai đây? ”
\v 9 Giô-sép đáp lại cha: “Các con trai của con mà Đức Chúa Trời đã ban cho tại đây. ” Y-sơ-ra-ên bảo: “Đưa mấy cháu đến với cha, để cha chúc phước cho. ”
\v 10 Lúc đó Y-sơ-ra-ên đã bị làng mắt vì cao tuổi, nên không thấy rõ. Vì vậy, Giô-sép đưa hai con đến với ông; ông hôn và ôm các cháu.
\s5
\v 11 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Cha chẳng bao giờ mong thấy lại mặt con, vậy mà Đức Chúa Trời lại cho cha thấy được cả đến con cái con. ”
\v 12 Giô-sép đem hai con ra khỏi giữa đầu gối của cha rồi ông sấp mặt xuống đất.
\v 13 Giô-sép lại đưa hai con đến gần cha, tay phải ông dắt Ép-ra-im đến tay trái của Y-sơ-ra-ên, còn tay trái thì dắt Ma-na-se đến tay phải của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 14 Y-sơ-ra-ên đưa tay phải qua đặt lên đầu Ép-ra-im, là đứa em, còn tay trái thì ông đặt lên đầu Ma-na-se. Ông đặt tréo tay, vì Ma-na-se mới là con trưởng.
\v 15 Y-sơ-ra-ên chúc phước cho Giô-sép, rằng: “Nguyện Đức Chúa Trời mà tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác đã kính thờ, tức Đức Chúa Trời đã chăn dắt tôi cho đến ngày nay,
\v 16 nguyện thiên sứ đã bảo vệ tôi khỏi mọi tai họa xin hãy ban phước cho hai cậu trai này. Nguyện chúng sẽ nối danh tôi cũng như danh của tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác. Nguyện chúng sinh sản ra thật đông đúc trên đất.”
\s5
\v 17 Khi Giô-sép thấy cha đặt tay phải trên đầu Ép-ra-im thì ông không vừa ý. Ông gỡ tay cha khỏi đầu Ép-ra-im đặt lên đầu Ma-na-se.
\v 18 Giô-sép nói với cha: “Thưa cha, không phải vậy; đây mới là con trưởng. Hãy đặt tay phải cha lên đầu nó.”
\s5
\v 19 Nhưng cha ông từ chối, rằng: “Cha biết, con trai, cha biết mà. Nó cũng sẽ trở thành một dân, và nó cũng sẽ lớn vậy. Nhưng em nó sẽ lớn hơn, và hậu tự đứa em sẽ phát triển thành nhiều dân tộc. ”
\v 20 Ngày đó, Y-sơ-ra-ên chúc phước cho chúng thế này: “Dân Y-sơ-ra-ên sẽ dùng danh các cháu mà chúc phước, rằng: Nguyện Đức Chúa Trời khiến ông bà nên giống như Ép-ra-im và Ma-na-se. ” Như vậy, Y-sơ-ra-ên đặt Ép-ra-im trước Ma-na-se.
\s5
\v 21 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Này, cha sắp qua đời, nhưng Đức Chúa Trời sẽ ở cùng con, và sẽ đem con về xứ của các tổ phụ.
\v 22 Phần con như là kẻ trổi hơn các anh em mình, thì cha cho con sườn núi mà cha đã dùng cung kiếm chiếm được từ dân A-mô-rít.”
\s5
\c 49
\p
\v 1 Rồi Gia-cốp cho gọi các con trai đến, bảo: “Hãy tập họp lại để cha nói cho các con biết việc sẽ xảy ra sau này.
\v 2 Hãy nhóm hiệp lại, các con trai của Gia-cốp, và nghe lời của Y-sơ-ra-ên, cha các con.
\s5
\v 3 Ru-bên, con là con trưởng của cha, là sức mạnh của cha và khởi đầu của sức lực cha, với phẩm giá và quyền lực nổi trội.
\v 4 Dầu bất trị như dòng nước chảy xiết, nhưng con sẽ không trổi vượt được, vì con đã lên gường cha! Con đã lên chỗ cha nằm và khiến nó ô uế.
\s5
\v 5 Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em. Thanh gươm chúng là khí giới hung bạo.
\v 6 Hỡi linh hồn ta, đừng đi vào chốn hội họp của chúng; đừng tham gia nghị bàn với chúng, vì lòng ta không thể hạ cố để làm vậy. Vì trong cơn thạnh nộ chúng đã giết người. Vì vui thích mà chúng cắt nhượng chân bò mộng.
\s5
\v 7 Đáng rủa sả cơn thạnh nộ của chúng, vì nó dữ dằn và cơn nóng giận của chúng, vì nó tàn bạo. Ta sẽ ly gián chúng trong nhà Gia-cốp, và phân tán chúng giữa Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Còn Giu-đa, các anh em con sẽ tán dương con. Tay con sẽ nắm lấy cổ quân thù. Các con trai của cha con sẽ sấp mình xuống trước con.
\s5
\v 9 Giu-đa là sư tử tơ. Con trai ta, săn mồi xong con đã trở về. Nó cúi xuống, nằm phục như sư tử, giống như sư tử cái. Kẻ nào dám đánh thứ nó?
\s5
\v 10 Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-da, cây trượng của vua sẽ không dời khỏi giữa hai chân nó, cho đến khi Đấng Si-lô đến. Các dân sẽ quy phục người.
\s5
\v 11 Buộc ngựa non mình vào gốc nho, và lừa con mình vào cây nho tốt, người lấy rượu giặt áo, lấy máu trái nho giặt áo choàng mình.
\v 12 Đôi mắt người sẽ sẫm như rượu, còn răng người sẽ trắng như sữa.
\s5
\v 13 Sa-bu-lôn sẽ sống cạnh mé biển. Nó sẽ làm nơi cho tàu bè trú đậu, và ranh giới nó sẽ vươn đến tận Si-đôn.
\s5
\v 14 Y-sa-ca là con lừa mạnh sức, nằm xuống giữa các chuồng trại.
\v 15 Nó thấy chốn nghỉ ngơi tốt đẹp, và vùng đất êm ả. Nó sẽ khom xuống khuân vác gánh nặng và trở nên kẻ phục dịch công việc.
\s5
\v 16 Đan sẽ xét xử dân mình như một trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên.
\v 17 Đan sẽ là con rắn bên đường, là rắn độc trên lối đi cắn gót chân ngựa, khiến người cưỡi ngựa phải ngã ngữa.
\v 18 Hỡi Giê-hô-va, con chờ đợi ơn cứu rỗi của Ngài.
\s5
\v 19 Còn Gát quân cướp sẽ đánh nó, nhưng nó sẽ đuổi theo đánh lại.
\v 20 Vật thực của A-se sẽ béo bổ, và nó sẽ cung cấp cao lương mỹ vị cho vua.
\v 21 Nép-ta-li là con nai cái thả rong, nó sẽ có các nai con xinh đẹp.
\s5
\v 22 Giô-sép là cành nho sai trái, gần bên suối nước, các nhánh nó leo vượt tường.
\v 23 Các cung thủ sẽ tấn công nó, nhắm bắn nó và quấy nhiễu nó.
\s5
\v 24 Nhưng cung nó sẽ cứ vững vàng, và đôi tay nó sẽ thiện nghệ nhờ tay Đấng Mạnh Sức của Gia-cốp, nhờ danh của Đấng Chăn Chiên, Hòn Đá của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 25 Nhờ Đức Chúa Trời của cha con, Đấng sẽ phù hộ con, và nhờ Đức Chúa Trời toàn năng, Đấng sẽ ban cho con phước lành của bầu trời bên trên, phước lành của vực thẵm bên dưới, phước lành của nhũ hoa và tử cung.
\s5
\v 26 Các phước lành của cha chúc cho con sẽ lớn hơn phước lành của núi cổ, những thứ đáng khát khao của đồi xưa. Chúng sẽ ở nơi đầu Giô-sép, những phước lành làm mão miện cho kẻ làm chúa các anh em mình.
\s5
\v 27 Bên-gia-min là con sói thiếu ăn. Buổi sáng nó ngấu nghiến con mồi, buổi chiều nó phân chia phần cướp được.”
\s5
\v 28 Đó là mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. Đó là lời cha họ nói với họ khi ông chúc phước cho họ. Ông chúc cho họ lời chúc phù hợp với từng người.
\v 29 Rồi ông chỉ thị cho họ, rằng: “Cha sắp về cùng tổ tông mình. Hãy chôn cất cha chung với các tổ phụ trong cái hang tại cánh đồng của Ép-rôn, người Hê-tít,
\v 30 tức cái hang trong đồng ruộng Mạc-bê-la, gần Mam-rê, trong xứ Ca-na-an, cánh đồng mà Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn, người Hê-tít, để làm mộ địa.
\s5
\v 31 Đó là nơi chôn cất Áp-ra-ham cùng với vợ người là Sa-ra; đó là nơi chôn cất Y-sác cùng vợ người là Rê-be-ca; đó cũng là nơi cha chôn cất Lê-a.
\v 32 Cánh đồng cùng cái hang trên đó đã được mua lại từ người thuộc dòng họ Hếch. ”
\v 33 Khi Gia-cốp trối xong những lời đó với các con mình, ông rút chân lên gường, tắt hơi và về với tổ tông mình.
\s5
\c 50
\p
\v 1 Giô-sép gục vào mặt cha, khóc thương ông và hôn ông.
\v 2 Giô-sép truyền bảo các đầy tớ mình là thầy thuốc ướp xác cha. Vậy là các thầy thuốc ướp xác Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Họ thực hiện việc này trong bốn mươi ngày, vì đó là thời gian cần cho việc ướp xác. Người Ai Cập khóc thương ông trong bảy mươi ngày.
\s5
\v 4 Khi những ngày than khóc đã qua, Giô-sép tâu với triều đình Pha-ra-ôn: “Xin các ông làm ơn cho tôi mà tâu cùng Pha-ra-ôn, rằng:
\v 5 Cha tôi có bắt tôi thề, rằng: “Giờ thì cha sắp chết. Hãy chôn cất cha trong ngôi mộ mà cha đã đào cho mình trong xứ Ca-na-an. Hãy chôn cất cha tại đó. ” Vậy, hãy cho tôi đi lên chôn cất cha tôi, rồi tôi sẽ trở xuống. ”’
\v 6 Pha-ra-ôn đáp: “Hãy đi chôn cất cha anh, theo như điều ông đã bắt anh thề hứa.”
\s5
\v 7 Giô-sép đi lên chôn cất cha mình. Cùng đi với ông có toàn thể các quan trong triều Pha-ra-ôn, tức các cận thần trong nhà ông, và tất cả các quan chức cấp cao của xứ Ai Cập,
\v 8 cùng hết thảy nhà Giô-sép, các anh em ông, và cả nhà cha ông. Nhưng con cái còn nhỏ, bầy chiên, bầy bò của họ thì họ để lại Gô-sen.
\v 9 Cũng có xe ngựa và lính kỵ tháp tùng ông. Đó là một đoàn rất đông người.
\s5
\v 10 Khi đến sân đạp lúa của A-tát bên kia sông Giô-đanh, họ khóc than rất não nề. Rồi Giô-sép cử hành lễ tang cho cha trong bảy ngày.
\v 11 Khi dân bản xứ, tức dân Ca-na-an, thấy tang lễ trong sân của A-tát, họ bảo: “Lễ tang thật là đau buồn với người Ai Cập. ” Đó là lý do vì sao nơi đó ở bên kia sông Giô- đanh được gọi là A-bên Mích-ra-im.
\s5
\v 12 Như vậy, các con trai Gia-cốp đã làm cho ông theo như ông chỉ dạy.
\v 13 Họ đưa ông vào xứ Ca-na-an và chôn cất ông trong hang đá trên cánh đồng Mạc-bê-la gần Mam-rê. Áp-ra-ham đã mua lại hang đá đó cùng với cánh đồng để làm mộ địa, do Ép-rôn người Hê-tít bán lại.
\v 14 Sau khi chôn cất cha xong, Giô-sép quay trở lại Ai Cập cùng với các anh em mình và mọi người đã cùng ông đi đưa xác cha.
\s5
\v 15 Khi các anh thấy cha mình đã chết, họ bảo: “Không chừng Giô-sép vẫn oán giận và muốn báo thù chúng ta về mọi việc ác mà chúng ta đã làm đối với chú ấy! ”
\v 16 Vậy là họ cho người đến nói với Giô-sép, rằng: “Cha của chú trước khi chết có căn dặn:
\v 17 'Hãy nói với Giô-sép thế này: “Xin con hãy tha thứ cho các anh cùng những việc sai trái mà họ đã mắc phải khi xử tệ với con. ”’ Vậy nên xin chúa tha thứ cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời của cha chú. ” Giô-sép khóc khi nghe những lời đó.
\s5
\v 18 Các anh cũng đến sấp mặt xuống đất trước ông. Họ nói: “Này, các anh đây đều là tôi tớ của chú. ”
\v 19 Nhưng Giô-sép đáp lại họ: “Anh em đừng sợ. Bộ tôi thay mặt Đức Chúa Trời được sao?
\v 20 Về phần các anh, các anh toan hãm hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại định làm ích cho tôi, để bảo tồn sinh mạng của nhiều người như các anh thấy ngày nay.
\v 21 Vậy nên các anh đừng sợ. Tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh. ” Ông an ủi họ như vậy và nói lời tử tế với họ.
\s5
\v 22 Giô-sép sống tại Ai Cập cùng với gia đình của cha mình. Ông thọ một trăm mười tuổi.
\v 23 Giô-sép thấy được con cháu Ép-ra-im đến đời thứ ba. Ông cũng thấy được các con của Ma-ki, con trai Ma-na-se. Chúng được “sinh ra trên đầu gối ông.”
\s5
\v 24 Giô-sép nói với các anh em: “Tôi sắp qua đời; nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em và đưa dẫn anh em ra khỏi xứ này để vào xứ mà Ngài đã thề hứa ban cho Áp-ra-ham, cho Y-sác, và cho Gia-cốp. ”
\v 25 Rồi Giô-sép bắt người nhà Y-sơ-ra-ên phải thề. Ông nói: “Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đến viếng anh em. Lúc đó, anh em phải đem hài cốt tôi ra khỏi đây. ”
\v 26 Như vậy, Giô-sép qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Sau khi họ đã ướp xác ông, họ đặt ông vào cổ quan tài tại Ai Cập.

2240
02-EXO.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2240 @@
\id EXO
\ide UTF-8
\h XUẤT AI CẬP
\toc1 XUẤT AI CẬP
\toc2 XUẤT AI CẬP
\toc3 exo
\mt XUẤT AI CẬP
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên đã vào xứ Ai Cập cùng với Gia-cốp, mỗi người dẫn gia đình mình theo:
\v 2 Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa,
\v 3 Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, và Ben-gia-min,
\v 4 Đan, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
\v 5 Gia-cốp có tất cả 70 con cháu. Còn Giô-sép đã ở tại Ai Cập rồi.
\s5
\v 6 Sau đó, Giô-sép, tất cả anh em của người, và cả thế hệ đó đều qua đời.
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên sanh sản ra thêm, dân số đông đảo, và trở nên rất mạnh mẽ; họ sống tràn khắp xứ.
\s5
\v 8 Về sau, một vua mới lên ngôi cai trị Ai Cập, vua này không hề nhớ đến Giô-sép.
\v 9 Vua nói với thần dân: “Hãy xem dân Y-sơ-ra-ên kia; họ đông và mạnh hơn chúng ta.
\v 10 Nào, chúng ta hãy đối phó khôn ngoan với họ. Kẻo họ sẽ tiếp tục sinh sôi thêm, và nếu có chiến tranh, họ sẽ liên minh với kẻ thù của chúng ta, đánh chúng ta, và rời khỏi xứ.”
\s5
\v 11 Do vậy, người Ai Cập đặt những cai nô trên dân Y-sơ-ra-ên và đàn áp bắt họ lao động khổ sai để xây dựng các thành phố dự trữ lương thực cho Pha-ra-ôn là thành Phi-thom và Ram-se.
\v 12 Nhưng người Ai Cập càng áp bức dân Y-sơ-ra-ên nhiều chừng nào, họ lại càng sanh sản thêm hơn và sống tràn khắp xứ. Vì vậy, người Ai Cập bắt đầu khiếp sợ người Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 13 Họ bắt dân Y-sơ-ra-ên lao động cực khổ.
\v 14 Họ khiến đời sống của dân Y-sơ-ra-ên trở nên đắng cay trong việc trộn vữa để đúc gạch, cùng mọi loại hình công việc đồng áng. Tất cả công việc họ phải làm đều nặng nhọc.
\s5
\v 15 Khi ấy, vua Ai Cập ra lệnh cho các bà mụ người Hê-bơ-rơ; một người tên là Siếp-ra và người kia tên là Phu-a.
\v 16 Vua nói: “Khi các ngươi đỡ đẻ cho sản phụ Hê-bơ-rơ, hãy quan sát lúc họ sinh. Nếu đứa bé là con trai, các ngươi phải giết nó; nhưng nếu đó là con gái, hãy tha mạng nó. ”
\v 17 Nhưng các bà mụ kính sợ Đức Chúa Trời và không thi hành lệnh của vua Ai Cập; trái lại, họ cứ để cho các bé trai sống.
\s5
\v 18 Vua Ai Cập triệu tập các bà mụ và hỏi: “Tại sao các ngươi để cho những đứa bé trai sống? ”
\v 19 Hai bà mụ tâu với Pha-ra-ôn. “Phụ nữ Hê-bơ-rơ không như phụ nữ Ai Cập; họ khỏe mạnh và đã sinh đứa bé xong trước khi có bà mụ đến giúp.”
\s5
\v 20 Đức Chúa Trời bảo vệ các bà mụ này. Dân Y-sơ-ra-ên càng tăng lên và trở nên rất hùng cường.
\v 21 Vì các bà mụ kính sợ Đức Chúa Trời, nên Ngài cho họ có gia đình.
\v 22 Pha-ra-ôn ra lệnh cho toàn dân của ông: “Các ngươi phải ném đứa con trai nào mới sinh xuống sông, còn đứa con gái thì để lại.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Bấy giờ, một người nam trong chi phái Lê-vi cưới một người nữ Lê-vi.
\v 2 Nàng thụ thai và sanh một con trai. Thấy đó là một đứa bé trai khỏe mạnh, nàng đã giấu đứa bé trong ba tháng.
\s5
\v 3 Nhưng khi không thể giấu được nữa, nàng lấy một cái thúng cói và trét nhựa với hắc ín, sau đó đặt đứa trẻ vào thúng và thả giữa đám sậy dọc theo con sông.
\v 4 Chị của đứa bé đứng đằng xa để trông chừng.
\s5
\v 5 Công chúa của Pha-ra-ôn xuống sông để tắm trong khi các nàng hầu đi bộ dọc trên bờ sông. Công chúa thấy chiếc thúng giữa đám sậy và sai nàng hầu đến xem.
\v 6 Khi mở chiếc thúng ra, công chúa thấy đứa bé nằm trong đó, và kìa, đứa bé đang khóc. Công chúa động lòng thương đứa bé và nói: “Đây chắc hẳn là một trong những con trẻ của người Hê-bơ-rơ.”
\s5
\v 7 Sau đó, chị của đứa bé nói với con gái Pha-ra-ôn: “Em có thể đi tìm cho công chúa một người nữ Hê-bơ-rơ để nuôi đứa bé cho công chúa không? ”
\v 8 Con gái Pha-ra-ôn trả lời cô gái: “Hãy đi. ” Cô bé liền đi gọi mẹ đứa bé đến.
\s5
\v 9 Con gái Pha-ra-ôn bảo bà ấy: “Bà hãy đem đứa bé này về nuôi nó cho tôi, tôi sẽ trả công cho bà. ” Người nữ đem đứa bé về và săn sóc.
\v 10 Khi đứa trẻ đã khôn lớn, bà dẫn đến cho con gái Pha-ra-ôn và công chúa nhận nó làm con. Nàng đặt tên đứa trẻ là Môi-se và nói: “Vì ta đã vớt nó ra khỏi nước.”
\s5
\v 11 Khi Môi-se trưởng thành, ông đến thăm đồng bào mình và trông thấy họ làm việc nặng nhọc. Ông thấy một người Ai Cập đang đánh một người Hê-bơ-rơ, một trong những đồng bào của ông.
\v 12 Ngó quanh quất, thấy không có ai gần đó, ông liền giết người Ai Cập này và vùi xác dưới cát.
\s5
\v 13 Hôm sau, ông đi ra và thấy hai người Hê-bơ-rơ đang đánh lộn. Ông hỏi người có lỗi: “Sao anh đánh bạn mình? ”
\v 14 Nhưng người đó đáp: “Ai khiến ông làm lãnh đạo và đoán xét chúng tôi? Bộ ông định giết tôi như đã giết người Ai Cập kia à? ” Nghe rồi Môi-se cảm thấy sợ hãi và nói rằng: “Chắc việc mình gây ra bị lộ rồi.”
\s5
\v 15 Bấy giờ khi Pha-ra-ôn biết chuyện, vua bèn tìm cách giết Môi-se. Nhưng Môi-se chạy trốn Pha-ra-ôn và ở trong xứ Ma-đi-an. Tại đó ông dừng chân bên một giếng nước.
\v 16 Bấy giờ, một thầy tế lễ ở Ma-đi-an có bảy người con gái. Họ đến giếng múc nước và đổ đầy vào máng cho bầy gia súc của cha mình uống.
\v 17 Có mấy người chăn chiên đến và đuổi họ đi, nhưng Môi-se đến bênh vực các cô gái đó và cho bầy gia súc của họ uống nước.
\s5
\v 18 Khi các cô gái chạy về gặp cha mình là Rê-u-ên, ông hỏi: “Sao hôm nay các con về nhà sớm vậy? ”
\v 19 Họ đáp: “Một người Ai Cập đã cứu chúng con khỏi mấy gã chăn chiên. Ông ấy thậm chí còn kéo nước cho chúng con và cho bầy gia súc uống nữa. ”
\v 20 Ông nói với các con gái mình: “Vậy người đó ở đâu? Sao các con để người ở lại? Hãy đến gọi người về dùng bữa với chúng ta.”
\s5
\v 21 Môi-se đồng ý ở lại với thầy tế lễ, người cũng gả con gái mình là Sê-phô-ra cho ông.
\v 22 Nàng sanh một con trai, và Môi-se đặt tên cho đứa bé là Ghẹt-sôn; ông nói: “Tôi là cư dân ngụ ở xứ ngoại quốc.”
\s5
\v 23 Một thời gian dài sau đó, vua Ai Cập băng hà. Dân Y-sơ-ra-ên kêu rên vì bị làm nô lệ lao động khổ sở. Họ kêu xin được giúp đỡ, và lời cầu xin của họ thấu đến Đức Chúa Trời vì cớ cảnh nô lệ của họ.
\v 24 Khi Đức Chúa Trời nghe sự kêu rên của họ, Ngài bèn nhớ lại giao ước đã lập với Áp-ra-ham, Y-sác và với Gia-cốp.
\v 25 Đức Chúa Trời thấy dân Y-sơ-ra-ên và Ngài hiểu hoàn cảnh của họ.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Bấy giờ Môi-se vẫn đang chăn bầy của cha vợ mình là Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an. Môi-se dẫn bầy gia súc đến phía bên kia hoang mạc và đến Hô-rếp, núi của Đức Chúa Trời.
\v 2 Tại đó, một thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với ông trong ngọn lửa ở một bụi gai. Môi-se nhìn xem, và kìa, bụi gai đang cháy nhưng không hề tàn.
\v 3 Môi-se thầm nghĩ: “Ta sẽ bước lại xem điều kì diệu này, tại sao bụi gai cháy mà không tắt.”
\s5
\v 4 Khi Đức Giê-hô-va thấy ông lại gần để xem bụi gai, Đức Chúa Trời từ bụi gai gọi ông: “Môi-se, Môi-se. ” Môi-se đáp: “Có con đây. ”
\v 5 Đức Chúa Trời phán: “Đừng lại gần! Hãy cởi giày ra khỏi chân ngươi, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh. ”
\v 6 Ngài phán tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. ” Khi ấy Môi-se che mặt mình lại vì ông sợ nhìn xem Đức Chúa Trời.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán: “Thật Ta đã nhìn thấy sự đau khổ của dân Ta tại Ai Cập. Ta đã nghe tiếng kêu la của họ vì những tên cai nô, vì Ta biết sự cực nhọc của họ.
\v 8 Ta đã ngự xuống để giải cứu họ khỏi quyền lực của người Ai Cập và đem họ ra khỏi đó để đến một xứ tốt đẹp, rộng lớn, một xứ đầy sữa và mật; xứ của dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-ri-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít.
\s5
\v 9 Và giờ đây tiếng kêu la của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta. Hơn nữa, Ta thấy sự đàn áp mà dân Ai Cập gây ra.
\v 10 Vậy, Ta sẽ sai ngươi đến gặp Pha-ra-ôn đặng ngươi đem dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 11 Nhưng Môi-se thưa cùng Đức Chúa Trời: “Con là ai mà phải đến gặp Pha-ra-ôn và đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập? ”
\v 12 Đức Chúa Trời đáp: “Chắc chắn Ta sẽ ở cùng ngươi. Đây sẽ là dấu hiệu để ngươi biết rằng Ta đã sai ngươi. Khi ngươi đã đem dân sự ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ tôn thờ Ta trên ngọn núi này.”
\s5
\v 13 Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Khi con đến gặp dân Y-sơ-ra-ên và nói, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị đã sai tôi đến gặp quý vị, và nếu họ hỏi Tên của Đấng đó là gì? thì con nên trả lời họ thế nào? ”
\v 14 Đức Chúa Trời trả lời Môi-se: “TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU. ” Đức Chúa Trời phán: “Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, ĐẤNG ĐÓ đã sai tôi đến gặp quý vị. ”
\v 15 Đức Chúa Trời phán tiếp với Môi-se: “Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã sai tôi đến gặp quý vị. Đây là danh đời đời của Ta, đó là danh mà mọi thế hệ sẽ ghi nhớ.
\s5
\v 16 Hãy đi và tập hợp các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên quý vị, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với tôi và phán, Thật Ta đã thấy các ngươi và nhìn thấy điều đã xảy đến với các ngươi ở Ai Cập.
\v 17 Ta đã hứa sẽ giải thoát ngươi khỏi sự đàn áp ở Ai Cập để đến xứ của dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-ri-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, một xứ đầy sữa và mặt. ’”
\v 18 Họ sẽ lắng nghe ngươi. Ngươi và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên phải đến gặp vua Ai CẬp, và ngươi phải nói với vua rằng, Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ, đã hiện ra với chúng tôi. Bây giờ, hãy cho chúng tôi thực hiện chuyến đi ba ngày vào đồng vắng đặng chúng tôi có thể dâng của lễ cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng tôi.
\s5
\v 19 Nhưng Ta biết rằng vua Ai Cập sẽ không để các ngươi đi, nếu tay của nó không bị ép buộc.
\v 20 Ta cũng sẽ giơ tay ra và tấn công dân Ai Cập bằng đủ thứ phép lạ mà Ta sẽ thực hiện giữa họ. Sau đó, nó sẽ để các ngươi đi.
\v 21 Ta sẽ ban cho dân này được ơn trước mặt dân Ai Cập, để khi các ngươi rời đi, các ngươi sẽ không đi trắng tay.
\v 22 Mỗi người nữ sẽ xin các món nữ trang bạc và vàng cùng quần áo từ hàng xóm Ai Cập và bất cứ người nữ nào ở trong nhà hàng xóm của người đó. Các ngươi sẽ đeo những vật đó cho con trai và con gái các ngươi. Đó là cách các ngươi sẽ lột trần dân Ai Cập.”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Môi-se trả lời: “Liệu sẽ thế nào nếu họ không tin con hoặc nghe con nhưng nói rằng, Đức Giê-hô-va không hiện ra với ông đâu? ”
\v 2 Đức Giê-hô-va trả lời ông: “Trong tay ngươi có gì? ” Môi-se trả lời: “Một cây gậy. ”
\v 3 Đức Giê-hô-va phán: “Hãy quăng cây gậy xuống đất. ” Môi-se quăng cây gậy xuống đất, và gậy biến thành một con rắn. Môi-se chạy trốn khỏi con rắn.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy giơ tay ra nắm đuôi con rắn. ” Ông giơ tay ra nắm lấy con rắn, rắn lại biến thành cây gậy trong tay ông.
\v 5 “Dấu hiệu này là để họ tin rằng Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với ngươi.”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va lại phán: “Bây giờ, hãy đặt tay vào trong áo. ” Môi-se cho tay vào trong áo. Khi ông lấy tay ra, và kìa, tay bị nổi phong trắng như tuyết.
\v 7 Đức Giê-hô-va phán: “Hãy đặt tay vào trong áo ngươi lần nữa. ” Môi-se để tay vào trong áo, và khi ông lấy tay ra thì thấy tay được lành như thịt mình.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán: “Nếu họ không tin ngươi nếu họ không chú ý đến dấu hiệu thứ nhất mà Ta đã thể hiện quyền năng Ta hoặc tin dấu hiệu đó, thì họ sẽ tin dấu hiệu thứ nhì.
\v 9 Và nếu thậm chí sau khi ngươi đã thực hiện hai dấu hiệu này, họ không tin hoặc lắng nghe ngươi, ngươi hãy múc nước dưới sông và đổ lên đất. Nước mà ngươi múc sẽ biến thành huyết trên mặt đất.”
\s5
\v 10 Vậy, Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Thưa Chúa, con chưa bao giờ có tài ăn nói, trước kia cũng vậy hoặc kể từ khi Ngài phán với tôi tớ Ngài. Miệng lưỡi con chậm chạp và hay ấp úng. ”
\v 11 Đức Giê-hô-va phán: “Ai tạo nên miệng? Ai làm câm hoặc điếc, thấy hoặc mù? Chẳng phải đó là Ta, Đức Giê-hô-va sao?
\v 12 Vậy, hãy đi, ta sẽ ở cùng miệng ngươi và dạy ngươi điều phải nói. ”
\v 13 Nhưng Môi-se đáp: “Thưa Chúa, xin hãy sai người khác, bất cứ ai mà Ngài muốn sai.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va giận Môi-se. Ngài phán: “Còn A-rôn, anh ngươi, về dòng Lê-vi thì sao? Ta biết người có thể nói giỏi. Vả lại, người đang đến tìm ngươi, và người sẽ vui mừng lắm khi thấy ngươi.
\v 15 Ngươi sẽ nói với người và đặt những lời phải nói vào miệng người. Ta sẽ ở cùng với miệng ngươi và miệng người, và Ta sẽ chỉ cho hai ngươi điều phải làm.
\v 16 A-rôn sẽ thay mặt ngươi mà nói chuyện với dân chúng. Người sẽ là phát ngôn viên của ngươi, ngươi sẽ truyền đạt cho người như Ta, là Đức Chúa Trời.
\v 17 Ngươi sẽ cầm cây gậy này trong tay và thực hiện các phép lạ.”
\s5
\v 18 Vậy, Môi-se trở về gặp Giê-trô, cha vợ mình, và nói: “Xin cha cho con trở về gặp những họ hàng con, là những người đang sống ở Ai Cập, để xem họ còn sống không. ” Giê-trô trả lời Môi-se: “Con hãy ra đi bình an. ”
\v 19 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se ở Ma-đi-an: “Hãy đi, trở về Ai Cập, vì những người tìm giết ngươi đã chết rồi. ”
\v 20 Môi-se dẫn vợ con mình trở về xứ Ai Cập bằng lừa, trong tay ông cầm cây gậy của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Khi ngươi trở về Ai Cập, hãy làm trước mặt Pha-ra-ôn tất cả những phép lạ cùng với quyền năng mà Ta ban cho ngươi. Nhưng Ta sẽ khiến vua cứng lòng, và vua ấy sẽ không để cho dân chúng ra đi.
\v 22 Ngươi phải tâu với Pha-ra-ôn: “Này là lời Đức Giê-hô-va phán: Y-sơ-ra-ên là con trai Ta, con trưởng nam Ta,
\v 23 và Ta phán với ngươi: “Hãy để con Ta ra đi, để nó có thể thờ phượng Ta. ” Nhưng bởi vì ngươi không muốn để cho nó đi, nên chắc chắn Ta sẽ giết con trai ngươi, con trưởng nam của ngươi. ’”
\s5
\v 24 Khi đang trên đường đi, họ dừng lại nghỉ qua đêm, Đức Giê-hô-va gặp Môi-se và định giết ông.
\v 25 Nhưng Sê-phô-ra lấy một con dao đá lửa và cắt bao quy đầu của con trai bà, rồi chạm lên chân Môi-se. Bà nói: “Bởi huyết mà anh là chàng rể của em. ”
\v 26 Vậy Đức Giê-hô-va rời khỏi người. Bà nói: “Anh là chàng rể huyết” vì cớ sự cắt bì.
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán với A-rôn: “Hãy vào đồng vắng gặp Môi-se. ” A-rôn ra đi, gặp em mình ở núi của Đức Chúa Trời và hôn ông.
\v 28 Môi-se kể cho A-rôn về mọi lời Đức Giê-hô-va đã sai ông nói và tất cả những phép lạ về quyền năng của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã ra lệnh cho ông thực hiện.
\s5
\v 29 Khi ấy, Môi-se và A-rôn cùng đến gặp tất cả trưởng lão của dân Y-sơ-ra-ên.
\v 30 A-rôn nói mọi lời mà Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se. Ông cũng làm những phép lạ về quyền năng của Đức Giê-hô-va trước mặt mọi người.
\v 31 Những người đó tin. Khi họ nghe rằng Đức Giê-hô-va đã lưu tâm đến dân Y-sơ-ra-ên và Ngài đã thấy sự áp bức của họ, họ liền cúi đầu và tôn thờ Ngài.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Sau khi những sự việc này đã xảy ra, Môi-se và A-rôn đến tâu Pha-ra-ôn: “Đây là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: Hãy để dân Ta ra đi, đặng họ có thể cử hành một lễ cho Ta trong đồng vắng. ’”
\v 2 Pha-ra-ôn hỏi: “Giê-hô-va là ai? Tại sao ta phải nghe lời Đấng đó mà thả dân Y-sơ-ra-ên? Ta không biết Giê-hô-va; hơn nữa, ta sẽ không cho dân Y-sơ-ra-ên đi.”
\s5
\v 3 Hai người thưa: “Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã gặp chúng tôi. Xin hãy để chúng tôi vào đồng vắng trong ba ngày và dâng tế lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi hầu cho Ngài không giáng dịch bệnh hay gươm giáo trên chúng tôi. ”
\v 4 Nhưng vua Ai Cập trả lời họ: “Hỡi Môi-se và A-rôn, sao hai ngươi xui cho dân chúng không làm việc? Hãy trở về làm việc của các ngươi đi. ”
\v 5 Vua nói tiếp: “Bây giờ dân số Hê-bơ-rơ trong xứ chúng ta đã nhiều rồi, và các ngươi lại xúi họ không làm việc.”
\s5
\v 6 Cũng trong ngày đó, Pha-ra-ôn ra lệnh cho các cai nô và đốc công của họ,
\v 7 “Các ngươi không được cấp rơm cho dân này để làm gạch như trước kia nữa. Hãy để chúng tự đi kiếm rơm.
\v 8 Tuy nhiên, các ngươi vẫn phải bắt chúng sản xuất cùng một số lượng gạch như trước đó. Đừng để chúng làm ít hơn, vì chúng lười biếng. Vì vậy nên chúng kêu la, Xin cho phép chúng tôi đi dâng của lễ cho Đức Chúa Trời chúng tôi.
\v 9 Hãy giao thêm việc nặng nhọc để chúng tập trung làm và không nghe theo những lời dối trá nữa.”
\s5
\v 10 Vậy, các cai nô và đốc công đến và thông báo rằng: “Này là lời Pha-ra-ôn truyền: Ta sẽ không cấp cho các ngươi rơm nữa.
\v 11 Chính các ngươi phải tự đi tìm rơm ở bất cứ nơi nào mà các ngươi có thể tìm thấy, nhưng công việc của các ngươi sẽ không được giảm. ’”
\s5
\v 12 Vậy, dân chúng tản ra khắp xứ Ai Cập để gom các gốc rạ làm rơm.
\v 13 Các cai nô cứ thúc giục họ: “Hãy làm xong việc của các ngươi y như lúc các ngươi đã nhận rơm. ”
\v 14 Cai nô của Pha-ra-ôn đánh đập các đốc công người Y-sơ-ra-ên, là những người mà họ đã giao nhiệm vụ quản lý nhân công. Các cai nô cứ hỏi họ: “Sao hôm qua và hôm nay các ngươi không sản xuất lượng gạch theo yêu cầu như trước kia?”
\s5
\v 15 Vậy, các đốc công người Y-sơ-ra-ên đến gặp Pha-ra-ôn và kêu van vua: “Sao vua đối xử với tôi tớ của vua như vầy?
\v 16 Chúng tôi không còn được cấp rơm nữa, nhưng họ vẫn cứ bảo chúng tôi, Hãy làm gạch đi! Giờ đây, chúng tôi, tôi tớ của vua, thậm chí còn bị đánh đập, nhưng đó là lỗi từ phía người của vua. ”
\v 17 Nhưng Pha-ra-ôn đáp: “Các ngươi làm biếng! Các ngươi làm biếng! Các ngươi nói rằng, Xin cho chúng tôi ra đi để dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va.
\v 18 Vậy bây giờ hãy trở lại với công việc của các ngươi. Các ngươi sẽ không được cấp rơm nữa, nhưng các ngươi vẫn phải làm đủ số gạch như trước.”
\s5
\v 19 Các đốc công Y-sơ-ra-ên thấy bối rối khi nghe vua nói: “Các ngươi không được giảm số gạch hàng ngày. ”
\v 20 Sau khi đã yết kiến vua, họ đến gặp Môi-se và A-rôn, hai ông đang đứng ngoài cung điện.
\v 21 Họ nói với Môi-se và A-rôn: “Nguyện xin Đức Giê-hô-va đoái đến các ông và trừng phạt các ông, vì các ông đã khiến chúng tôi trở nên gớm ghiếc trước mặt Pha-ra-ôn và các tôi tớ vua. Các ông đã trao gươm cho họ đặng giết chúng tôi.”
\s5
\v 22 Môi-se trở về gặp Đức Giê-hô-va và thưa: “Lạy Chúa, sao Ngài khiến dân này gặp rắc rối? Sao Chúa lại sai con đến đây?
\v 23 Kể từ khi con gặp Pha-ra-ôn để nhân danh Ngài mà tâu với vua, thì vua đã gây khó khăn cho dân này, và Ngài thì chẳng giải thoát họ.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Bây giờ ngươi sẽ thấy việc Ta làm đối với Pha-ra-ôn. Ngươi sẽ thấy điều này, vì tay quyền năng của Ta, vua sẽ để cho họ ra đi. Vì tay quyền năng của Ta, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi xứ.”
\s5
\v 2 Đức Chúa Trời phán với Môi-se: “Ta là Giê-hô-va.
\v 3 Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp với tư cách là Đức Chúa Trời Toàn năng; nhưng danh Ta, Đức Giê-hô-va, thì họ không biết.
\v 4 Ta cũng đã lập giao ước Ta với họ, đặng ban cho họ xứ Ca-na-an, là xứ mà họ đã cư ngụ như dân ngoại, một nơi đất khách quê người.
\v 5 Hơn nữa, Ta đã nghe tiếng kêu rên của dân Y-sơ-ra-ên mà người Ai Cập đã bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của Ta.
\s5
\v 6 Vậy, hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Ta là Đức Giê-hô-va. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, và Ta sẽ giải cứu các ngươi khỏi quyền lực họ. Ta sẽ giải cứu các ngươi bằng quyền năng của Ta, và bằng sự đoán phạt to lớn.
\v 7 Ta sẽ xem các ngươi là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi. Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đã đem ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập.
\s5
\v 8 Ta sẽ đem các ngươi vào xứ mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi làm tài sản. Ta là Đức Giê-hô-va. ’”
\v 9 Khi Môi-se thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên về điều này, họ không chịu nghe ông vì nản lòng về ách nô lệ nặng nề.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se
\v 11 “Hãy đến nói Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, để cho dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ. ”
\v 12 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va: “Nếu người Y-sơ-ra-ên đã không nghe con, thì tại sao Pha-ra-ôn phải nghe con, vì con không có tài ăn nói? ”
\v 13 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se và A-rôn, truyền lệnh cho họ phải đi đến dân Y-sơ-ra-ên và gặp Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, để đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\s5
\v 14 Đây là những trưởng tộc trong dòng dõi họ: Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. Đó là những thị tộc của Ru-bên.
\v 15 Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ - con của một người nữ xứ Ca-na-an. Đó là các thị tộc của Si-mê-ôn.
\s5
\v 16 Đây là tên các con trai của Lê-vi, tùy theo con cháu họ. Đó là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. Lê-vi hưởng thọ được 137 tuổi.
\v 17 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-y.
\v 18 Các con trai của Kê-hát là: Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. Kê-hát hưởng thọ được 133 tuổi.
\v 19 Các con trai của Mê-ra-ri là: Mách-li, và Mu-si. Đó là các họ hàng của Lê-vi, tùy theo dòng dõi họ.
\s5
\v 20 Am-ram cưới Giô-kê-bết, em gái của cha mình. Nàng sanh cho ông A-rôn và Môi-se. Am-ram hưởng thọ 137 tuổi.
\v 21 Các con trai Dít-sê-ha là: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri.
\v 22 Các con trai của U-xi-ên là: Mi-sa-ên, En-sa-phan và Sít-ri.
\s5
\v 23 A-rôn cưới Ê-li-sê-ba, con gái A-mi-na-đáp, em của Na-ha-sôn. Các con trai của họ là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
\v 24 Các con trai của Cô-rê là A-si, Ên-ca-na, và A-bi-a-sáp. Đó là các thị tộc của dân Cô-rê.
\v 25 Ê-lê-a-sa, con trai của A-rôn, cưới một trong các con gái của Phu-ti-ên. Con trai của họ là Phi-nê-a. Đây là các trưởng tộc của người Lê-vi, tùy theo con cháu họ.
\s5
\v 26 A-rôn và Môi-se là hai người mà Đức Giê-hô-va đã phán: “Hãy đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, theo binh ngũ. ”
\v 27 A-rôn và Môi-se tâu với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, xin vua để dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập. Đấy là Môi-se và A-rôn.
\s5
\v 28 Khi Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trong xứ Ai Cập,
\v 29 Ngài phán: “Ta là Giê-hô-va. Hãy tâu với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, về mọi điều mà Ta sẽ bảo ngươi. ”
\v 30 Nhưng Môi-se đáp cùng Đức Giê-hô-va: “Con không có tài ăn nói, vậy làm sao Pha-ra-ôn nghe con được?”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Này, Ta sẽ khiến ngươi như một vị thần trước mặt Pha-ra-ôn. A-rôn, anh ngươi, sẽ là tiên tri của ngươi.
\v 2 Ngươi sẽ nói mọi điều mà Ta truyền cho ngươi phải nói. Còn A-rôn, anh ngươi, sẽ tâu với Pha-ra-ôn để nó thả dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ.
\s5
\v 3 Nhưng Ta sẽ để cho Pha-ra-ôn cứng lòng, và dùng quyền năng Ta làm nhiều phép lạ, dấu kỳ, trong xứ Ai Cập.
\v 4 Tuy nhiên, Pha-ra-ôn sẽ không nghe ngươi đâu, vậy nên Ta sẽ giáng tay Ta trên Ai Cập và đem những đội quân của Ta, là dân Ta, là con cháu Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ai Cập bằng những cơn đoán phạt nặng nề.
\v 5 Dân Ai Cập sẽ biết Ta là Giê-hô-va khi Ta giơ tay ra trên Ai Cập và đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ của chúng.”
\s5
\v 6 Môi-se và A-rôn làm theo y như vậy; họ làm đúng như Đức Giê-hô-va đã truyền lệnh.
\v 7 Môi-se được 80 tuổi, còn A-rôn được 83 tuổi khi họ đến diện kiến Pha-ra-ôn.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se và A-rôn,
\v 9 “Khi Pha-ra-ôn bảo ngươi, Hãy làm phép lạ đi! thì ngươi hãy nói với A-rôn, Lấy cây gậy trong tay anh và quăng xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn để nó biến thành rắn. ’”
\v 10 Vậy Môi-se và A-rôn đến gặp Pha-ra-ôn, và họ làm theo đúng như lời Đức Giê-hô-va đã truyền. A-rôn quăng cây gậy xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn và các quần thần, gậy liền biến thành con rắn.
\s5
\v 11 Khi ấy, Pha-ra-ôn cũng triệu tập các pháp sư và phù thủy đến. Họ dùng pháp thuật mình mà làm điều tương tự.
\v 12 Mỗi người đều ném gậy mình xuống đất, và các cây gậy đều hóa thành rắn. Nhưng gậy của A-rôn nuốt hết các con rắn của họ.
\v 13 Lòng Pha-ra-ôn trở nên cứng cỏi, vua không chịu nghe, y như Đức Giê-hô-va đã nói trước.
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Pha-ra-ôn thật cứng lòng, nó từ chối không để cho dân sự ra đi.
\v 15 Các ngươi hãy đến gặp Pha-ra-ôn vào sáng sớm khi nó đi ra sông. Hãy gặp nó trên bờ sông, và dùng cây gậy trong tay ngươi là gậy đã biến thành rắn.
\s5
\v 16 Hãy tâu với nó, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ, đã sai tôi đến gặp vua để nói: “Hãy để dân Ta ra đi, để chúng có thể thờ phượng Ta trong đồng vắng. Đến giờ thì vua vẫn từ chối. ”
\v 17 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Bởi điều này, ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va. Tôi sẽ dùng gậy đập vào nước sông Nin, và sông sẽ hóa thành huyết.
\v 18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ có mùi hôi tanh. Người Ai Cập sẽ không thể uống nước sông. ””
\s5
\v 19 Sau đó Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Hãy lấy gậy của anh và giơ ra trên các mặt nước của Ai Cập, và trên sông ngòi của xứ, suối, ao, cùng các vũng nước của xứ, để nước hóa thành huyết. Hãy làm phép lạ này để khắp nơi trong xứ Ai Cập sẽ toàn là huyết, thậm chí là huyết trong các thùng gỗ hay là vại đá. ’”
\s5
\v 20 Môi-se và A-rôn thực hiện theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền. A-rôn giơ gậy lên và đập xuống nước sông, trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Toàn bộ nước sông đều biến thành huyết.
\v 21 Cá dưới sông chết hết, và sông bắt đầu có mùi tanh. Người Ai Cập không thể uống nước sông, và khắp trong xứ Ai Cập đều có huyết.
\v 22 Nhưng các thuật sĩ Ai Cập cũng dùng pháp thuật họ mà làm điều tương tự. Do đó, Pha-ra-ôn vẫn ương ngạnh và từ chối nghe theo Môi-se và A-rôn, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán sẽ xảy đến.
\s5
\v 23 Sau đó, Pha-ra-ôn quay về cung điện. Ông thậm chí còn không ngó ngàng gì đến việc này.
\v 24 Tất cả người Ai Cập đào giếng dọc theo sông để tìm nước uống, nhưng họ không thể uống nước sông.
\v 25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi Đức Giê-hô-va giáng họa trên sông.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn và bảo, Đức Giê-hô-va có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 2 Nếu ngươi từ chối không cho chúng đi, Ta sẽ khiến ếch nhái tràn đầy trong xứ ngươi.
\v 3 Sông ngòi sẽ lúc nhúc ếch nhái. Chúng sẽ lên bờ và vào trong cung ngươi, phòng ngủ ngươi, và trên giường ngươi. Chúng sẽ vào nhà các quần thần ngươi và dân chúng ngươi, nhảy vào lò và vào các chậu nướng bánh của ngươi.
\v 4 Ếch nhái sẽ tấn công ngươi, người dân và tất cả quần thần ngươi. ””
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Anh hãy giơ gậy ra trên sông, suối, ao hồ, khiến cho ếch nhái ngoi lên khắp xứ Ai Cập. ’”
\v 6 A-rôn giơ tay ra trên những nơi có nước ở Ai Cập, khiến ếch nhái nhảy lên bờ và tràn khắp xứ Ai Cập.
\v 7 Nhưng các thuật sĩ cũng làm y vậy bằng pháp thuật họ: họ khiến ếch nhái tràn khắp xứ Ai Cập.
\s5
\v 8 Sau đó, Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Hai ngươi hãy cầu nguyện xin Giê-hô-va xua ếch nhái ra khỏi ta và dân chúng. Ta sẽ để cho họ ra đi đặng dâng của lễ cho Ngài. ”
\v 9 Môi-se tâu với Pha-ra-ôn: “Xin vua cho biết khi nào tôi nên cầu nguyện cho vua, các quần thần, và thần dân của vua, để ếch nhái biến khỏi vua và cung điện vua và sẽ chỉ ở dưới sông.”
\s5
\v 10 Pha-ra-ôn đáp: “Ngày mai. ” Môi-se thưa: “Sẽ y theo điều vua nói, đặng vua biết rằng chẳng có đấng nào như Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng tôi.
\v 11 Ếch nhái sẽ lui khỏi vua, gia đình vua, quần thần vua, và thần dân của vua. Chúng sẽ chỉ ở dưới sông. ”
\v 12 Môi-se và A-rôn rời khỏi Pha-ra-ôn. Sau đó, Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va về nạn ếch nhái mà Ngài đã giáng trên Pha-ra-ôn.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va làm y như lời Môi-se cầu xin: ếch nhái chết trong nhà, ngoài sân, và ngoài đồng.
\v 14 Người ta gom chúng lại thành từng đống, và cả xứ đầy mùi hôi tanh.
\v 15 Nhưng khi Pha-ra-ôn nhận thấy tai nạn đã qua, ông cứng lòng, không nghe lời Môi-se và A-rôn, y như Đức Giê-hô-va đã báo trước.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se: “Hãy nói với A-rôn, Anh hãy giơ gậy ra và đập vào bụi đất, để bụi bay lên biến thành muỗi khắp xứ Ai Cập. ’”
\v 17 Họ làm như vậy: A-rôn giơ gậy và tay mình ra. Ông đập vào bụi đất, muỗi bèn bu vào người và súc vật. Bụi đất đều hóa thành muỗi bay khắp xứ Ai Cập.
\s5
\v 18 Các thuật sĩ cố dùng pháp thuật mà làm ra muỗi, nhưng đều thất bại. Muỗi bu vào người và súc vật.
\v 19 Khi ấy, các thuật sĩ tâu với Pha-ra-ôn: “Đây đúng là ngón tay của Đức Chúa Trời. ” Nhưng lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, vì vậy ông không nghe họ. Việc này xảy ra y theo lời Đức Giê-hô-va đã phán rằng Pha-ra-ôn sẽ không chịu nghe.
\s5
\v 20 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Sáng hôm sau ngươi hãy dậy sớm và đến gặp Pha-ra-ôn khi nó đi ra sông. Ngươi hãy nói với hắn, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy để cho dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 21 Bằng không, Ta sẽ giáng ruồi nhặng trên ngươi, quần thần ngươi, và dân ngươi, và chúng sẽ tràn vào trong cung điện ngươi. Nhà của dân Ai Cập sẽ đầy ruồi nhặng, và thậm chí trên mặt đất cũng đầy ruồi.
\s5
\v 22 Nhưng trong ngày đó, Ta sẽ đối xử khác trên xứ Gô-sen, là xứ mà dân Ta đang sống, xứ đó sẽ không có ruồi nhặng. Việc này sẽ xảy ra đặng ngươi biết Ta là Giê-hô-va giữa xứ này.
\v 23 Ta sẽ phân biệt giữa dân Ta và dân ngươi. Phép lạ này sẽ xảy đến vào ngày mai. ””
\v 24 Đức Giê-hô-va làm y như vậy, hàng bầy ruồi nhặng dày đặc bay vào cung điện Pha-ra-ôn và nhà của các quần thần. Khắp trong xứ Ai Cập đều bị điêu tàn vì cớ những đám ruồi đó.
\s5
\v 25 Pha-ra-ôn gọi Môi-se và A-rôn đến và nói: “Hãy đi đi, hãy dâng của tế lễ cho Đức Chúa Trời các ngươi trong xứ của chúng ta. ”
\v 26 Môi-se đáp: “Chúng tôi làm vậy là không đúng, vì của tế lễ chúng tôi dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi là thứ mà dân Ai Cập ghê tởm. Nếu chúng tôi dâng của tế lễ trước mặt người Ai Cập là những thứ mà họ gớm ghiếc, thì liệu họ sẽ không ném đá chúng tôi chứ?
\v 27 Không, chúng tôi phải đi ba ngày vào đồng vắng, đặng dâng của lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, y theo lời Ngài truyền cho chúng tôi.”
\s5
\v 28 Pha-ra-ôn đáp: “Ta sẽ cho phép các ngươi đi và dâng của lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi trong đồng vắng, miễn là các ngươi không được phép đi quá xa. Và hãy cầu nguyện cho ta. ”
\v 29 Môi-se đáp: “Khi tôi rời khỏi vua, tôi sẽ cầu nguyện xin Đức Giê-hô-va khiến cho đám ruồi nhặng rời khỏi vua, thưa vua Pha-ra-ôn, và rời khỏi các quần thần và thần dân của vua vào ngày mai. Nhưng vua không được lừa gạt nữa bằng cách không cho chúng tôi đi dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 30 Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn và cầu nguyện với Đức Giê-hô-va.
\v 31 Đức Giê-hô-va đáp lời Môi-se cầu xin: Ngài khiến đám ruồi nhặng bay khỏi Pha-ra-ôn, các quần thần, và dân của vua. Không ai còn bị ruồi nhặng bu vào nữa.
\v 32 Nhưng lần này Pha-ra-ôn cũng ương bướng, và vua không để cho dân chúng ra đi.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn và tâu rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta. ”
\v 2 Còn nếu vua từ chối cho họ đi, nếu vua giữ họ lại,
\v 3 thì tay của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên gia súc của vua ở ngoài đồng và trên ngựa, lừa, lạc đà, đàn bò, và các đàn chiên, khiến chúng bị bệnh và chết.
\v 4 Đức Giê-hô-va sẽ phân biệt giữa gia súc của người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Ai Cập: sẽ không có con vật nào của người Y-sơ-ra-ên chết cả.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va đã ra một hạn định; Ngài phán: “Ngày mai, Ta sẽ giáng điều này trên xứ. ””
\v 6 Hôm sau, Đức Giê-hô-va giáng tai họa này: tất cả gia súc ở Ai Cập đều chết. Nhưng không có con vật nào của người Y-sơ-ra-ên chết, một con cũng không.
\v 7 Pha-ra-ôn ra lệnh điều tra, và kìa, không có một con vật nào của người Y-sơ-ra-ên bị chết. Tuy nhiên, vua ương ngạnh và không để cho dân sự ra đi.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn: “Hãy lấy vài nắm tro từ lò. Môi-se phải tung tro ấy vào không trung trước mặt Pha-ra-ôn.
\v 9 Tro sẽ biến thành bụi bay khắp xứ Ai Cập. Chúng sẽ khiến người dân và súc vật trên cả nước Ai Cập bị rộp và nổi loét. ”
\v 10 Môi-se và A-rôn bèn lấy tro từ trong lò và đứng trước mặt Pha-ra-ôn. Sau đó Môi-se tung tro lên cao. Tro khiến người dân và súc vật trên bị rộp và nổi loét.
\s5
\v 11 Các thuật sĩ không thể chống lại Môi-se vì những vết rộp; vì họ và tất cả những người Ai Cập khác đều bị rộp.
\v 12 Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vì vậy Pha-ra-ôn không nghe lời Môi-se và A-rôn. Việc này y theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se rằng Pha-ra-ôn sẽ ương ngạnh.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Sáng hôm sau, ngươi hãy dậy sớm, đứng chầu trước mặt Pha-ra-ôn, và thưa rằng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ, có phán như vầy: “Hãy để dân Ta đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 14 Vì lần này, Ta sẽ giáng mọi tai ương trên chính ngươi, quần thần, và thần dân ngươi. Ta sẽ làm việc này để ngươi biết rằng chẳng có ai như Ta trên thế gian.
\s5
\v 15 Ngay bây giờ, Ta có thể giơ tay Ta ra và giáng bệnh tật trên ngươi và dân tộc ngươi, và ngươi sẽ bị nhổ khỏi xứ.
\v 16 Nhưng đây là lý do Ta để cho ngươi sống: đặng tỏ cho ngươi thấy sức mạnh Ta, hầu cho danh Ta được công bố khắp nơi trên đất.
\v 17 Ngươi vẫn chống lại dân Ta và không để chúng ra đi.
\s5
\v 18 Hãy nghe đây! Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ giáng một trận mưa đá rất lớn chưa từng thấy ở Ai Cập từ ngày lập quốc cho đến nay.
\v 19 Vậy bây giờ, hãy sai người đi gom gia súc của ngươi và mọi thứ ngươi có ngoài đồng đến một nơi an toàn. Nếu người nào và súc vật còn ở ngoài đồng mà chưa được đưa về nhà mưa đá sẽ rơi trên họ, và họ sẽ chết. ””
\s5
\v 20 Lúc đó, quần thần của Pha-ra-ôn, là những người tin lời phán của Đức Giê-hô-va liền nhanh chóng đem nô lệ và gia súc của họ vào nhà.
\v 21 Nhưng những người xem nhẹ lời phán của Đức Giê-hô-va thì vẫn để nô lệ và gia súc của họ ở lại ngoài đồng.
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi lên trời để mưa đá giáng xuống khắp xứ Ai Cập, dân chúng, thú vật, và mọi loài thực vật ngoài đồng trên khắp nước Ai Cập. ”
\v 23 Môi-se giơ gậy lên trời, và Đức Giê-hô-va khiến cho nổi sấm chớp, mưa đá, và sét đánh xuống đất. Ngài cũng khiến mưa đá rơi trên đất Ai Cập.
\v 24 Vậy nên có mưa đá và sấm chớp lóe lên giữa lúc trời đang mưa đá rất nặng nề chưa từ có trên khắp xứ Ai Cập kể từ thời lập quốc.
\s5
\v 25 Mưa đá tàn phá mọi thứ ngoài đồng, trên cả con người và súc vật trong khắp xứ Ai Cập. Mưa đá phá hủy hoa màu ngoài đồng và làm gãy mọi cây cối.
\v 26 Duy trong xứ Gô-sen, nơi dân Y-sơ-ra-ên sinh sống, không có mưa đá.
\s5
\v 27 Pha-ra-ôn bèn sai người triệu tập Môi-se và A-rôn. Ông nói: “Lần này ta đã phạm tội. Giê-hô-va là Đấng công bình, còn ta và dân tộc ta thì tệ hại.
\v 28 Ngươi hãy cầu nguyện với Giê-hô-va, vì sấm sét và mưa đá thật quá kinh hãi. Ta sẽ để các ngươi đi, các ngươi sẽ không ở lại đây nữa.”
\s5
\v 29 Môi-se tâu rằng: “Ngay khi tôi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay hướng về Đức Giê-hô-va. Sấm sét sẽ dừng, và sẽ không còn mưa đá nữa. Bởi đó vua sẽ biết rằng thế gian thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 30 Nhưng đối với vua và quần thần của vua, tôi biết là vua vẫn không thật sự tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 31 Bấy giờ, cây lanh và lúa mạch bị tàn phá, vì lúa mạch đã trổ bông, còn cây lanh đã có nụ.
\v 32 Nhưng lúa mì và lúa miến không bị thiệt hại vì các cây này cho ra vụ mùa chậm hơn.
\v 33 Khi Môi-se đã rời khỏi Pha-ra-ôn và thành phố, ông giơ tay lên cao hướng về Đức Giê-hô-va; sấm chớp và mưa đá liền dừng, trời không còn mưa nữa.
\s5
\v 34 Khi Pha-ra-ôn thấy rằng mưa, mưa đá, và sấm sét đã dừng, ông và các quần thần lại phạm tội và ngang bướng.
\v 35 Lòng Pha-ra-ôn cứng cỏi, bởi đó ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Đây là cách mà Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se rằng Pha-ra-ôn sẽ làm như vậy.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy đến gặp Pha-ra-ôn, vì Ta đã làm cứng lòng nó cùng các tôi tớ của nó. Ta làm vậy là để chứng minh những phép lạ về quyền năng Ta ở giữa chúng.
\v 2 Ta cũng làm vậy là để ngươi có thể kể cho con cháu ngươi về những việc mà Ta đã làm, cách Ta đối đãi nước Ai Cập khắc nghiệt ra sao, và cách Ta đã thể hiện các phép lạ khác nhau về quyền năng Ta giữa chúng. Bởi đó, ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 3 Môi-se và A-rôn bèn đến gặp Pha-ra-ôn và tâu: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ phán rằng: Ngươi sẽ còn không chịu hạ mình trước mặt Ta bao lâu nữa? Hãy để cho dân Ta ra đi đặng chúng thờ phượng Ta.
\v 4 Còn nếu ngươi không để cho chúng đi, hãy nghe đây, ngày mai Ta sẽ giáng họa châu chấu trên xứ ngươi.
\s5
\v 5 Chúng sẽ phủ kín khắp đất đến nỗi không ai có thể nhìn thấy mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn những gì còn sót lại sau trận mưa đá. Chúng cũng sẽ ăn mọi loài thực vật các ngươi trồng ở ngoài đồng.
\v 6 Chúng sẽ bay đầy trong cung điện ngươi, trong nhà của quần thần ngươi, và trong nhà của mọi dân Ai Cập đây là một tai họa mà tổ cha ngươi hoặc tổ tiên ngươi chưa từng thấy kể từ thời họ được sinh ra trên đất cho đến nay. ’” Vậy, Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn.
\s5
\v 7 Các quần thần của Pha-ra-ôn tâu với vua: “Người này sẽ là mối đe dọa đối với chúng ta trong bao lâu nữa? Xin vua hãy để cho người Y-sơ-ra-ên ra đi đặng họ tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Vua vẫn chưa thấy rằng Ai Cập đã bị hủy diệt sao? ”
\v 8 Pha-ra-ôn lại triệu tập Môi-se và A-rôn đến và nói rằng: “Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi. Nhưng những người nào sẽ đi?”
\s5
\v 9 Môi-se tâu: “Chúng tôi sẽ đi cùng người trẻ và người già, con trai và con gái chúng tôi. Chúng tôi sẽ đi cùng các bầy đàn gia súc của mình, vì chúng tôi phải làm một lễ cho Đức Giê-hô-va. ”
\v 10 Pha-ra-ôn đáp: “Cầu xin Giê-hô-va ở cùng các ngươi, vì ta không để cho ngươi và các con nhỏ của ngươi đi đâu. Kìa, ngươi đang có suy nghĩ đen tối.
\v 11 Không! Hãy đi đi, chỉ những người nam ở giữa ngươi được đi, và hãy thờ phượng Giê-hô-va, vì đó là điều các ngươi muốn. ” Sau đó, Môi-se và A-rôn bị đuổi khỏi Pha-ra-ôn.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi ra trên đám châu chấu ở xứ Ai Cập để chúng tấn công xứ và ăn mọi hoa màu của xứ, là những thứ còn sót lại sau trận mưa đá. ”
\v 13 Môi-se giơ gậy ra trên xứ Ai Cập, và Đức Giê-hô-va khiến nổi lên một cơn gió đông thổi trên khắp xứ cả ngày và đêm. Vào buổi sáng, gió đông đã thổi châu chấu vào xứ.
\s5
\v 14 Châu chấu bay tràn khắp xứ Ai Cập và phá hoại mọi miền. Châu chấu đông đến nỗi trước đó chưa từng có và sau này cũng không bao giờ có như vậy.
\v 15 Chúng bao phủ khắp đất đến nỗi đất tối đen. Chúng ăn mọi hoa màu trong xứ cùng mọi hoa quả trên cây còn sót lại sau trận mưa đá.
\s5
\v 16 Khi ấy, Pha-ra-ôn nhanh chóng triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Ta đã phạm tội chống lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi và chống lại các ngươi.
\v 17 Vậy bây giờ, hãy tha thứ cho ta lần này, và cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi cất sự chết này khỏi ta. ”
\v 18 Môi-se bèn rời khỏi Pha-ra-ôn và cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va khiến nổi lên một trận gió tây rất mạnh cuốn đi bầy châu chấu và thổi xuống Biển Đỏ; đến nỗi không còn sót lại con châu chấu nào trên khắp lãnh thổ Ai Cập.
\v 20 Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên đi.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy giơ tay ngươi lên trời, hầu cho bóng tối bao trùm khắp xứ Ai Cập, bóng tối đó có thể cảm nhận được. ”
\v 22 Môi-se giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao phủ khắp xứ Ai Cập trong ba ngày.
\v 23 Không ai có thể nhìn thấy nhau; không ai rời khỏi nhà mình trong ba ngày. Tuy nhiên, ở nơi người Y-sơ-ra-ên sống thì tràn đầy ánh sáng.
\s5
\v 24 Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn và nói: “Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va. Các ngươi có thể dẫn theo gia đình các ngươi, nhưng bầy đàn gia súc thì phải để lại. ”
\v 25 Tuy vậy, Môi-se tâu: “Vua cũng phải cho chúng tôi súc vật để làm của tế lễ và làm của lễ thiêu dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.
\v 26 Gia súc cũng sẽ đi cùng chúng tôi; không một móng nào bị bỏ lại, vì chúng tôi phải dùng chúng để thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi. Vì chúng tôi không biết mình phải dùng gì để thờ phượng Đức Giê-hô-va cho đến khi chúng tôi tới đó.”
\s5
\v 27 Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân sự ra đi.
\v 28 Pha-ra-ôn nói cùng Môi-se “Hãy rời khỏi ta! Hãy cẩn thận một điều, đừng gặp ta nữa, vì một mai ngươi gặp mặt ta, ngươi sẽ chết. ”
\v 29 Môi-se đáp: “Xin theo như lời vua đã nói. Tôi sẽ không diện kiến vua nữa.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: “Vẫn còn một tai họa nữa mà Ta sẽ giáng trên Pha-ra-ôn và Ai Cập. Sau đó, nó sẽ để các ngươi rời khỏi đây. Cuối cùng, khi nó để các ngươi đi, nó sẽ đuổi các ngươi hoàn toàn.
\v 2 Hãy bảo dân sự rằng mỗi người nam và mỗi người nữ phải xin láng giềng mình những vật bằng bạc và bằng vàng. ”
\v 3 Bấy giờ Đức Giê-hô-va khiến người Ai Cập tự nguyện đáp ứng yêu cầu của người Y-sơ-ra-ên. Hơn nữa, chính Môi-se rất được ấn tượng trước các quần thần của Pha-ra-ôn và người dân xứ Ai Cập.
\s5
\v 4 Môi-se nói: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Vào khoảng nửa đêm, Ta sẽ đi khắp Ai Cập.
\v 5 Tất cả con đầu lòng trong xứ Ai Cập sẽ chết, từ con đầu lòng của Pha-ra-ôn, là đứa ngồi trên ngai, cho đến con đầu lòng của nữ nô lệ đang ngồi sau cối xay, và cho đến con đầu lòng của các bầy gia súc.
\s5
\v 6 Khi đó sẽ có tiếng than khóc lớn trên khắp xứ Ai Cập, đến nỗi trước giờ chưa từng có hoặc sau này cũng vậy.
\v 7 Nhưng trong cả dân Y-sơ-ra-ên dầu đến một con chó cũng sẽ chẳng sủa hoặc người, hoặc vật. Bởi đó, ngươi sẽ biết rằng Ta đối xử khác biệt giữa người Ai Cập và người Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Thưa vua Pha-ra-ôn, hết thảy các quần thần của vua sẽ đến gặp tôi và quỳ trước mặt tôi. Họ sẽ nói, Đi đi, ông và dân của ông hãy đi đi! ” Sau đó tôi sẽ rời đi. ” Nói xong, Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn với vẻ giận dữ lắm.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Pha-ra-ôn sẽ không nghe ngươi đâu. Việc này là để Ta sẽ làm nhiều phép lạ trong xứ Ai Cập. ”
\v 10 Môi-se và A-rôn đã làm tất cả những phép lạ ấy trước mặt Pha-ra-ôn. Nhưng Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, và ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ mình.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trong xứ Ai Cập. Lời Ngài phán như vầy,
\v 2 “Tháng này sẽ là tháng đầu của các tháng trong năm, là tháng giêng của các ngươi.
\s5
\v 3 Hãy nói với hội chúng Y-sơ-ra-ên, Vào ngày thứ 10 của tháng này, mỗi gia đình phải bắt một con chiên hoặc dê con, mỗi nhà một con chiên.
\v 4 Nếu nhà nào quá ít người ăn không hết một con chiên, thì láng giềng của nhà đó phải lấy phần thịt chiên con hoặc thịt dê con đủ cho số người trong nhà của người đó. Mỗi người phải ăn đủ phần thịt, do đó họ phải lấy đủ phần thịt cho tất cả mọi người.
\s5
\v 5 Chiên con hoặc dê con của các ngươi phải là con đực hoàn hảo và được một tuổi. Các ngươi có thể chọn một con trong đàn chiên hoặc đàn dê.
\v 6 Các ngươi phải giữ nó đến ngày 14 tháng ấy. Sau đó, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên phải giết những con vật này vào lúc chạng vạng.
\v 7 Các ngươi phải lấy một chút huyết và bôi lên hai thanh dọc và trên thanh ngang của cửa nhà mà các ngươi sẽ ăn thịt tại đó.
\v 8 Các ngươi phải ăn thịt trong đêm ấy, sau khi đã nướng thịt trên lửa. Hãy ăn với bánh không men và rau đắng.
\s5
\v 9 Không được ăn thịt tái hoặc luộc trong nước. Trái lại, các ngươi hãy nướng phần đầu, chân và bộ lòng trên lửa.
\v 10 Các ngươi không được chừa lại bất cứ phần thịt nào cho đến sáng. Các ngươi phải đem thiêu bất cứ phần thịt nào còn lại vào buổi sáng.
\v 11 Đây là cách các ngươi phải ăn thịt đó: buộc thắt lưng, chân mang giày, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã. Đó là Lễ Vượt qua của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đi khắp xứ Ai Cập trong đêm đó và tấn công tất cả con đầu lòng của loài người và thú vật trong xứ. Ta sẽ giáng sự trừng phạt trên tất cả các thần của Ai Cập. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 13 Huyết sẽ là dấu hiệu trên nhà các ngươi vào đêm ấy. Khi Ta thấy huyết, Ta sẽ vượt qua các ngươi đang khi Ta tấn công xứ Ai Cập. Các ngươi sẽ không gặp tai họa này và sẽ không bị tiêu diệt.
\v 14 Ngày này sẽ trở thành ngày kỉ niệm của các ngươi, là lễ các ngươi phải giữ cho Đức Giê-hô-va. Lễ này sẽ luôn là quy luật của các ngươi, trải qua mọi đời con cháu các ngươi, các ngươi phải giữ ngày này.
\s5
\v 15 Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào ngày thứ nhất, các ngươi sẽ cất men khỏi nhà mình. Hễ ai ăn bánh có men từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy, người đó sẽ bị loại khỏi Y-sơ-ra-ên.
\v 16 Vào ngày thứ nhất sẽ có một lễ nhóm họp thánh, và ngày thứ bảy cũng sẽ có một lễ nhóm họp thánh. Không ai được làm việc trong các ngày này, ngoại trừ việc nấu nướng cho mọi người ăn uống. Đó là việc duy nhất các ngươi được phép làm.
\s5
\v 17 Các ngươi phải giữ Lễ Bánh không Men vì chính trong ngày này Ta đem các ngươi, quân đội các ngươi, ra khỏi xứ Ai Cập. Các ngươi phải giữ ngày này qua các thế hệ. Lễ này sẽ luôn là luật định đối với các ngươi.
\v 18 Các ngươi phải ăn bánh không men từ hoàng hôn ngày 14 tháng giêng đến hoàng hôn ngày 21 tháng giêng.
\s5
\v 19 Trong bảy ngày này, trong nhà các ngươi sẽ không có men. Hễ ai ăn bánh có men sẽ bị loại khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, dù đó là người ngoại quốc hay người được sinh ra trong xứ các ngươi.
\v 20 Các ngươi không được ăn những gì có men. Dù sống ở bất cứ nơi nào, các ngươi phải ăn bánh không men. ’”
\s5
\v 21 Sau đó, Môi-se mời tất cả trưởng lão của Y-sơ-ra-ên đến và nói: “Hãy đi chọn chiên con cho mỗi gia đình quý vị và giết con chiên đó cho Lễ Vượt qua.
\v 22 Sau đó lấy một bó cây bài hương nhúng vào chậu huyết. Bôi huyết trong chậu lên đầu khung cửa và hai thanh dọc. Không ai được ra khỏi nhà mình cho đến sáng hôm sau.
\s5
\v 23 Vì Đức Giê-hô-va sẽ đi ngang qua để tấn công người Ai Cập. Khi Ngài thấy huyết trên đầu khung cửa và trên hai thanh dọc, Ngài sẽ lướt qua cửa nhà quý vị và không cho phép thần hủy diệt vào nhà tấn công quý vị.
\s5
\v 24 Quý vị phải giữ lễ này. Đây sẽ luôn là quy định dành cho quý vị và con cháu quý vị.
\v 25 Khi quý vị vào xứ mà Đức Giê-hô-va ban cho, như Ngài đã hứa, quý vị phải giữ sự thờ phượng này.
\s5
\v 26 Khi con cái quý vị hỏi: Hành động thờ phượng này có nghĩa là gì?
\v 27 hãy trả lời: ‘Đó là sinh tế trong Lễ Vượt qua của Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va đã vượt qua nhà của người Y-sơ-ra-ên ở Ai Cập khi Ngài tấn công dân Ai Cập. Ngài đã chừa lại nhà của chúng ta. ” Sau đó dân sự quỳ xuống và tôn thờ Đức Giê-hô-va.
\v 28 Dân Y-sơ-ra-ên đi và làm theo y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và A-rôn.
\s5
\v 29 Vào nửa đêm, Đức Giê-hô-va tấn công hết thảy con đầu lòng ở xứ Ai Cập, từ con đầu lòng của Pha-ra-ôn, là con ngồi trên ngai vua ấy, cho đến con đầu lòng của người bị cầm tù và con đầu của gia súc.
\v 30 Pha-ra-ôn thức dậy trong đêm đó ông, tất cả quần thần, và toàn bộ dân Ai Cập. Có tiếng than khóc lớn tại Ai Cập, vì không nhà nào mà không có người chết.
\s5
\v 31 Pha-ra-ôn triệu tập Môi-se và A-rôn trong đêm và nói: “Hãy đứng dậy, ngươi và dân Y-sơ-ra-ên hãy ra khỏi giữa dân ta. Hãy đi thờ phượng Giê-hô-va như các ngươi muốn. ”
\v 32 Hãy đem theo các đàn gia súc của các ngươi, như các ngươi đã nói, hãy đi, và cũng hãy cầu chúc cho ta. ”
\v 33 Người Ai Cập vội vã hối dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ, vì họ nói: “Tất cả chúng ta đều chết hết.”
\s5
\v 34 Vậy dân sự đem theo bột đã nhào nhưng chưa kịp dậy men. Họ cột các chén nhào bột vào trong quần áo và vác trên vai.
\v 35 Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên làm y như lời Môi-se đã nói. Họ hỏi xin người Ai Cập cho các đồ bằng bạc, vàng và quần áo.
\v 36 Đức Giê-hô-va khiến người Ai Cập tích cực đáp ứng yêu cầu của người Y-sơ-ra-ên. Vậy người Ai Cập đưa cho họ bất cứ thứ gì họ xin. Bởi đó, dân Y-sơ-ra-ên cưỡng đoạt dân Ai Cập.
\s5
\v 37 Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ram-sét đến Su-cốt. Có khoảng 600. 000 người nam đi bộ, ngoài phụ nữ và trẻ em.
\v 38 Cũng có một đám dân tạp đi với họ, cùng số lượng lớn các bầy đàn gia súc.
\v 39 Họ nướng bánh không men nhào với bột mà họ đem khỏi Ai Cập. Đó là bột không men vì họ đã bị đuổi ra khỏi Ai Cập và không kịp chuẩn bị thức ăn.
\v 40 Dân Y-sơ-ra-ên đã sống tại Ai Cập được 430 năm.
\s5
\v 41 Vào cuối 430 năm, chính ngày đó, tất cả các quân đội của Đức Giê-hô-va đã ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 42 Đây là đêm phải thức tỉnh để Đức Giê-hô-va đem họ ra khỏi xứ Ai Cập. Đây là đêm của Đức Giê-hô-va mà mọi thế hệ trong dân Y-sơ-ra-ên phải giữ.
\s5
\v 43 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn: “Đây là quy định về Lễ Vượt qua: không người ngoại quốc nào được ăn lễ ấy.
\v 44 Tuy nhiên, nô lệ của người Y-sơ-ra-ên, được mua bằng tiền, có thể ăn lễ đó sau khi đã làm phép cắt bì.
\s5
\v 45 Người ngoại quốc và đầy tớ được thuê mướn không được ăn bất cứ món nào trong lễ ấy.
\v 46 Các ngươi phải ăn thức ăn đó trong nhà. Các ngươi không được đem bất cứ phần thịt nào ra khỏi nhà cũng không được phép làm gãy bất kỳ xương nào trong đó.
\s5
\v 47 Cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ này.
\v 48 Nếu một người ngoại quốc sống với các ngươi và muốn giữ Lễ Vượt qua cho Đức Giê-hô-va, thì tất cả những người nam trong họ hàng người đó phải được cắt bì. Sau đó người mới có thể đến và giữ lễ. Người sẽ trở nên giống như dân bản xứ. Tuy nhiên, không người nào được phép ăn bất kỳ món nào nếu chưa cắt bì.
\s5
\v 49 Luật này sẽ áp dụng với cả người bản xứ và người ngoại quốc sống giữa các ngươi. ”
\v 50 Vậy tất cả dân Y-sơ-ra-ên làm theo y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và A-rôn.
\v 51 Chính trong ngày đó, Đức Giê-hô-va đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập theo quân đội của họ.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy biệt riêng cho Ta mọi con đầu lòng, con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên và các loài động vật. Con đầu lòng thuộc về Ta.”
\s5
\v 3 Môi-se nói với dân sự: “Hãy ghi nhớ ngày này, là ngày quý vị ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ, vì Đức Giê-hô-va đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Ngài đem quý vị ra khỏi nơi này. Đừng ăn bánh có men.
\v 4 Hôm nay quý vị ra khỏi Ai Cập, nhằm ngày trong tháng A-bi.
\v 5 Khi Đức Giê-hô-va đem quý vị vào xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, là xứ mà Ngài đã thề với tổ tiên quý vị để ban cho quý vị, một xứ đượm sữa và mật vậy hãy giữ lễ thờ phượng này trong tháng này.
\s5
\v 6 Vì quý vị phải ăn bánh không men trong bảy ngày; ngày thứ bảy sẽ là kỳ lễ được tổ chức để tỏ lòng tôn kính Đức Giê-hô-va.
\v 7 Quý vị phải ăn bánh không men trong suốt bảy ngày; không có bánh có men nào được thấy giữa quý vị. Không có men nào được thấy nơi quý vị trong lãnh thổ quý vị.
\s5
\v 8 Ngày hôm đó, hãy nói với con cái mình rằng: Cha mẹ làm điều này là để tưởng nhớ việc Đức Giê-hô-va đã làm cho cha mẹ khi cha mẹ ra khỏi Ai Cập.
\v 9 Đây sẽ là lời nhắc nhở trên tay quý vị, và là lời nhắc nhở trên trán quý vị. Hầu cho miệng quý vị có thể dạy dỗ luật pháp của Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ của Ngài đem quý vị ra khỏi Ai Cập.
\v 10 Vậy, hãy giữ luật này vào thời gian như đã định hàng năm.
\s5
\v 11 Khi Đức Giê-hô-va đem quý vị vào xứ của dân Ca-na-an, như Ngài đã thề với quý vị và tổ tiên quý vị, và khi Ngài ban xứ đó cho quý vị,
\v 12 quý vị phải biệt riêng cho Ngài mọi con đầu lòng của quý vị và súc vật. Con đực sẽ thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 13 Riêng với con đầu lòng của con lừa, quý vị phải mua một con chiên để chuộc lại. Nếu không chuộc lại, quý vị phải bẻ cổ nó. Nhưng riêng với mỗi con đầu lòng nam giữa con trai của quý vị - hãy chuộc lại chúng.
\s5
\v 14 Khi sau này con cái quý vị hỏi: Điều này có nghĩa là gì? hãy trả lời: Ấy là bởi Đức Giê-hô-va dùng tay quyền năng Ngài đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ.
\v 15 Khi Pha-ra-ôn ương ngạnh không cho cha mẹ đi, Đức Giê-hô-va đã giết mọi con đầu lòng ở Ai Cập, cả con đầu lòng của loài người và súc vật. Đó là lý do cha mẹ dâng con đầu lòng của con người và súc vật cho Đức Giê-hô-va, và là lý do cha mẹ chuộc lại con đầu lòng trong số các con trai của cha mẹ.
\v 16 Đây sẽ là lời nhắc nhở trên tay và trên trán quý vị, vì chính Đức Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ của Ngài đem chúng ta ra khỏi Ai Cập.”
\s5
\v 17 Khi Pha-ra-ôn để cho dân sự ra đi, Đức Chúa Trời không dẫn họ đi qua xứ của dân Phi-li-tin, dù xứ đó gần. Vì Đức Chúa Trời nói: “Có lẽ chúng sẽ đổi ý khi chúng chiến tranh với dân đó và trở về xứ Ai Cập. ”
\v 18 Vì vậy, Đức Chúa Trời dẫn dân sự đi qua đồng vắng để đến Biển Đỏ. Dân Y-sơ-ra-ên được vũ trang để chiến đấu đứng dậy ra khỏi xứ Ai Cập.
\s5
\v 19 Môi-se đem theo hài cốt của Giô-sép, vì Giô-sép đã bắt dân Y-sơ-ra-ên long trọng thề và nói rằng: “Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ các ngươi, hãy đem hài cốt ta theo các ngươi. ”
\v 20 Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Su-cốt và cắm trại ở Ê-tam, ngay rìa của đồng vắng.
\v 21 Đức Giê-hô-va dẫn họ đi trong ban ngày bằng trụ mây. Ban đêm, Ngài dẫn họ đi bằng một trụ lửa để soi sáng họ. Bởi đó, họ có thể đi được cả ngày lẫn đêm.
\v 22 Đức Giê-hô-va không cất trụ mây ban ngày hoặc trụ lửa ban đêm khỏi trước mặt dân sự.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên quay lại và cắm trại đối diện Phi Ha-hi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện Ba-anh Xê-phôn. Các ngươi phải cắm trại ngay biển đối diện Phi Ha-hi-rốt”.
\v 3 Pha-ra-ôn sẽ nói về dân Y-sơ-ra-ên: “Chúng đang lẩn quẩn trong xứ. Đồng vắng đã chặn hết đường của chúng”.
\s5
\v 4 Ta sẽ làm cứng lòng Pha-ra-ôn, nó sẽ đuổi theo họ. Ta sẽ được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn và quân đội nó. Người Ai Cập sẽ biết rằng Ta là Đức Giê-hô-va. ” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại theo như sự hướng dẫn.
\v 5 Khi vua Ai Cập được báo rằng dân Y-sơ-ra-ên đã bỏ trốn, Pha-ra-ôn và quần thần ông đều đổi ý chống lại dân sự. Họ nói: “Chúng ta đã làm gì khi thả cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi để chúng không làm việc cho chúng ta?”
\s5
\v 6 Vậy Pha-ra-ôn chuẩn bị các xe chiến mã và dẫn theo quân đội.
\v 7 Ông đem 600 xe chiến mã được tuyển chọn và tất cả xe chiến mã khác của Ai Cập, với các sĩ quan chỉ huy các xe đó.
\v 8 Đức Giê-hô-va làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, ông đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên đã ra đi thắng lợi vẻ vang.
\v 9 Nhưng người Ai Cập đuổi theo họ, cùng với ngựa, xe chiến mã, kỵ binh và quân đội của vua. Chúng đuổi kịp người Y-sơ-ra-ên đang khi họ cắm trại ở bờ biển gần Phi Ha-hi-rốt, đối diện Ba-anh Xê-phôn.
\s5
\v 10 Khi Pha-ra-ôn đến gần, người Y-sơ-ra-ên nhìn lên và ngạc nhiên. Người Ai Cập đang hành quân sau họ, và họ kinh hãi. Dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Giê-hô-va.
\v 11 Họ nói với Môi-se: “Bộ không có mồ mả ở Ai Cập nên ông mới dẫn chúng tôi ra đi để chết trong đồng vắng này chăng? Sao ông đối xử với chúng tôi như vậy, sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập?
\v 12 Chẳng phải đây là điều chúng tôi đã bảo ông khi ở Ai Cập? Chúng tôi đã nói rằng, Hãy để chúng tôi yên, đặng chúng tôi có thể làm việc cho người Ai Cập. Lẽ ra chúng tôi làm việc cho họ thì tốt hơn là chết trong đồng vắng. ’”
\s5
\v 13 Môi-se trả lời dân sự: “Đừng sợ. Hãy đứng yên và xem sự giải cứu mà Đức Giê-hô-va sẽ làm trên quý vị hôm nay. Vì quý vị sẽ chẳng bao giờ thấy người Ai Cập mà ngày nay quý vị thấy.
\v 14 Đức Giê-hô-va sẽ tranh chiến cho quý vị, chỉ hãy đứng yên.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hỡi Môi-se, tại sao ngươi cứ kêu cầu Ta? Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đi tiếp.
\v 16 Hãy giơ gậy ngươi lên, hướng về biển và chia biển làm đôi, để dân Y-sơ-ra-ên băng qua biển trên đất khô.
\v 17 Hãy biết rằng Ta sẽ làm cứng lòng người Ai Cập, khiến chúng đuổi theo họ. Ta sẽ được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn và đội quân, xe chiến mã, và kỵ binh của nó.
\v 18 Rồi dân Ai Cập sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va khi Ta được tôn kính vì cớ Pha-ra-ôn, các xe chiến mã và kỵ binh của nó.”
\s5
\v 19 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va vốn đi trước người Y-sơ-ra-ên, di chuyển ra phía sau họ. Trụ mây chuyển từ phía trước họ về phía sau.
\v 20 Mây phủ giữa trại của Ai Cập và trại của Y-sơ-ra-ên. Với người Ai Cập thì đó là mây tối, nhưng mây đã soi sáng cho dân Y-sơ-ra-ên vào ban đêm, để người Ai Cập không tiếp cận phía bên kia được.
\s5
\v 21 Môi-se giơ tay ra trên biển. Đức Giê-hô-va dùng một trận gió đông mạnh thổi lui biển trong suốt đêm đó và khiến đất khô dưới biển lộ ra. Như vậy nước biển bị chia đôi.
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên đi vào giữa biển trên đất khô. Nước tụ lại thành một bức tường ở cả bên trái và bên phải.
\s5
\v 23 Người Ai Cập rượt theo họ. Hết thảy ngựa, xe chiến mã, và kỵ binh của Pha-ra-ôn đuổi theo họ vào lòng biển.
\v 24 Nhưng sáng sớm hôm sau, Đức Giê-hô-va từ trụ lửa và trụ mây nhìn xuống đội quân Ai Cập. Ngài khiến người Ai Cập hoảng sợ.
\v 25 Các bánh xe chiến mã bị kẹt, kỵ binh không điều khiển được. Người Ai Cập nói rằng: “Chúng ta hãy chạy trốn khỏi Y-sơ-ra-ên, vì Giê-hô-va đang thay họ tranh chiến lại chúng ta.”
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy giơ tay ra trên biển để nước nhấn chìm người Ai Cập, các xe chiến mã và kỵ binh của chúng. ”
\v 27 Vậy Môi-se giơ tay ra trên biển, biển trở lại trạng thái bình thường vào bình minh hôm sau. Người Ai Cập bỏ chạy xuống biển, Đức Giê-hô-va đã đuổi người Ai Cập xuống giữa biển.
\v 28 Nước biển đổ sập xuống và chôn vùi các xe chiến mã, kỵ binh, và toàn bộ quân đội của Pha-ra-ôn dưới nước. Không ai sống sót.
\s5
\v 29 Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên đã đi trên đất khô ở giữa biển. Nước tụ lại thành bức tường ở cả hai bên.
\v 30 Vậy, ngày hôm đó Đức Giê-hô-va đã giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay người Ai Cập, họ thấy xác của người Ai Cập trôi dạt vào bờ biển.
\v 31 Khi Y-sơ-ra-ên thấy quyền năng lớn lao mà Đức Giê-hô-va đã thể hiện trên người Ai Cập, họ tôn kính Đức Giê-hô-va, họ tin cậy Đức Giê-hô-va và tôi tớ Ngài là Môi-se.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Vậy Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca này dâng lên Đức Giê-hô-va: “Tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã đắc thắng vinh quang; ngựa và kỵ binh đều bị Ngài quăng xuống biển.
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là bài ca của tôi, Ngài là sự cứu rỗi của tôi. Này là Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ ngợi khen Ngài, Ngài là Đức Chúa Trời của tổ tiên tôi, tôi sẽ tôn ngợi Ngài.
\v 3 Đức Giê-hô-va là chiến binh; danh Ngài là Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Ngài quăng các xe chiến mã và quân đội của Pha-ra-ôn xuống biển. Các sĩ quan được tuyển chọn của Pha-ra-ôn bị nhấn chìm xuống biển Sậy.
\v 5 Vực sâu bao phủ chúng; chúng như cục đá chìm xuống đáy vực sâu.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va ơi, tay phải Ngài bày tỏ quyền năng vinh quang; Đức Giê-hô-va ơi, tay phải Ngài đánh tan quân thù.
\v 7 Với đại quyền lớn lao, Ngài đánh đổ những kẻ nổi dậy chống lại Ngài. Ngài nổi cơn thạnh nộ; thiêu đốt chúng như gốc rạ.
\v 8 Bởi hơi thở từ lỗ mũi Ngài, nước liền dồn lại; nước biển dựng lên thành một đống; nước dưới lòng biển sâu khựng lại.
\s5
\v 9 Quân thù nói, Ta sẽ đuổi bắt, ta sẽ bắt kịp, ta sẽ chia của cướp; ta sẽ tha hồ; ta sẽ rút gươm ra; tay ta sẽ tiêu diệt chúng.
\v 10 Nhưng Ngài thổi bằng một trận gió, và biển bao phủ chúng; chúng chìm như chì xuống đáy nước sâu.
\v 11 Đức Giê-hô-va ơi, trong các thần có ai như Ngài? Ai uy nghiêm thánh khiết, được tôn kính ngợi khen, làm phép lạ như Ngài?
\s5
\v 12 Ngài giơ tay phải ra, khiến đất nuốt chúng.
\v 13 Bằng sự thành tín về giao ước, Ngài dẫn dắt dân được cứu. Bằng sức mạnh, Ngài dẫn họ đến nơi ngự thánh của Ngài.
\s5
\v 14 Các dân sẽ nghe và run sợ; sự kinh hãi sẽ bao vây cư dân xứ Phi-li-tin.
\v 15 Các tướng lĩnh Ê-đôm sẽ sợ hãi; binh lính của Mô-áp sẽ run rẩy; hết thảy cư dân Ca-na-an sẽ tan biến.
\s5
\v 16 Sự kinh hãi và khiếp đảm sẽ giáng trên chúng. Vì quyền năng trong tay Ngài, chúng sẽ đứng chết trân như đá cho đến khi người ta đi ngang qua, Đức Giê-hô-va ơi cho đến khi dân được cứu của Ngài đi ngang qua.
\s5
\v 17 Ngài sẽ đem họ vào và trồng trên núi của cơ nghiệp Ngài, Đức Giê-hô-va ơi, là nơi mà Ngài đã dựng nên cho họ sống, lạy Chúa của chúng con, là nơi thánh mà tay Ngài đã dựng nên.
\v 18 Đức Giê-hô-va sẽ cai trị đời đời vô cùng.”
\s5
\v 19 Vì ngựa cùng các xe chiến mã và kỵ binh của Pha-ra-ôn chạy xuống biển, nên Đức Giê-hô-va khiến nước biển nhấn chìm chúng. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bước đi trên đất khô ở giữa biển.
\v 20 Nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của A-rôn, cầm một cái trống lục lạc, và tất cả những người nữ cầm trống lục lạc đi ra, nhảy múa cùng với bà.
\v 21 Mi-ri-am hát với họ: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va, vì Ngài đắc thắng vinh quang. Ngài đã ném ngựa và kỵ binh xuống biển.”
\s5
\v 22 Sau đó, Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên đi tiếp từ biển Sậy. Họ vào đồng vắng Su-rơ. Họ đi trong ba ngày trong đồng vắng và không tìm được nước.
\v 23 Khi đến Ma-ra, họ không thể uống nước tại đó vì nước có vị đắng. Vậy họ gọi nơi đó là Ma-ra.
\s5
\v 24 Dân sự oán trách Môi-se mà rằng: “Chúng tôi có thể uống gì đây? ”
\v 25 Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va chỉ cho ông thấy một khúc cây. Môi-se quăng khúc cây ấy xuống nước, nước liền hóa nên ngọt. Chính tại nơi đó Đức Giê-hô-va ban cho họ một luật lệ nghiêm khắc, và chính tại nơi đó Ngài thử họ.
\v 26 Ngài phán: “Nếu các ngươi cẩn thận lắng nghe Ta, là Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, và làm điều thiện trước mặt Ta nếu các ngươi chú ý đến điều răn Ta và vâng giữ luật pháp Ta, Ta sẽ không giáng trên các ngươi bất cứ bệnh tật nào như Ta đã giáng trên dân Ai Cập; vì Ta là Giê-hô-va, Đấng chữa lành các ngươi.”
\s5
\v 27 Sau đó dân sự đến Ê-lim, là nơi có 12 suối nước và 70 cây chà là. Họ hạ trại tại đó bên cạnh các suối nước.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Dân sự đi tiếp từ Ê-lim, và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên tiến vào đồng vắng Sin, giữa Ê-lim và Si-nai, nhằm ngày 15 tháng thứ hai sau khi họ rời khỏi xứ Ai Cập.
\v 2 Cả hội chúng người Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn trong đồng vắng.
\v 3 Người Y-sơ-ra-ên nói với hai ông: “Giá như tay Đức Giê-hô-va giết chúng tôi trong xứ Ai Cập khi chúng tôi đang ngồi ăn bên các nồi thịt và ăn bánh no nê. Vì hai ông đã đem chúng tôi vào trong đồng vắng này đặng giết cả hội chúng bằng cơn đói.”
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ giáng mưa bánh từ trời xuống cho các ngươi. Chúng sẽ đi ra và gom phần ăn cho ngày đó đặng Ta thử chúng và xem chúng có vâng theo luật pháp Ta không.
\v 5 Ngày thứ sáu, chúng sẽ gom gấp hai lần so với những ngày khác, và nấu phần mình đã gom.”
\s5
\v 6 Sau đó Môi-se và A-rôn nói cùng dân Y-sơ-ra-ên: “Đến chiều tối, quý vị sẽ biết rằng chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã đem quý vị ra khỏi xứ Ai CẬp.
\v 7 Đến sáng mai, quý vị sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-hô-va, vì Ngài có nghe lời oán trách của quý vị về Ngài. Chúng tôi là ai mà quý vị oán trách chúng tôi? ”
\v 8 Môi-se nói thêm: “Quý vị sẽ biết điều này khi Đức Giê-hô-va ban thịt cho quý vị vào chiều nay và sáng mai sẽ được ăn bánh no nê vì Ngài có nghe lời quý vị oán trách Ngài. A-rôn và tôi là ai? Quý vị oán trách không phải là oán trách chúng tôi, mà là oán trách Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 9 Môi-se nói với A-rôn: “Anh hãy nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, Hãy đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài có nghe lời oán trách của quý vị. ’”
\v 10 Khi A-rôn nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, dân sự nhìn về phía đồng vắng, và kìa, vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trong đám mây.
\v 11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 12 “Ta đã nghe mọi lời oán trách của dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với chúng rằng, Đến chiều tối, các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai các ngươi sẽ được ăn bánh no nê. Rồi các ngươi sẽ biết Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.”
\s5
\v 13 Buổi chiều, chim cút bay đến và phủ kín cả trại. Đến sáng có lớp sương phủ khắp trại.
\v 14 Khi lớp sương ấy tan đi, kìa, trên đất đồng vắng hiện ra một thứ mỏng mịn, mịn như sương muối trên đất.
\v 15 Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy thứ đó, họ nói với nhau: “Đây là gì? ” Họ không biết thứ đó. Môi-se nói với họ: “Đây là bánh mà Đức Giê-hô-va ban cho quý vị.
\s5
\v 16 Này là mạng lệnh Đức Giê-hô-va đã truyền: Mỗi người phải gom đủ số lượng cần ăn, mỗi người gom 1 ô-me theo số người ở trong lều. Nghĩa là: hãy gom đủ cho từng người trong lều mình. ’”
\v 17 Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy. Một số thì gom nhiều hơn, một số thì gom ít hơn.
\v 18 Khi họ đã gom đủ 1 ô-me, thì ai gom nhiều cũng ăn hết, ai gom ít cũng không thiếu. Mỗi người đều gom đủ tùy theo nhu cầu mình.
\s5
\v 19 Môi-se nói với họ: “Không ai được chừa lại đến sáng hôm sau. ”
\v 20 Tuy nhiên, họ không nghe lời Môi-se. Có người chừa lại một ít bánh đến sáng hôm sau, nhưng bánh nổi giòi và có mùi hôi thối. Vậy Môi-se giận họ.
\v 21 Họ gom bánh vào mỗi buổi sáng. Mỗi người gom đủ phần ăn trong ngày đó. Khi mặt trời lên cao, bánh còn sót lại trên đất tan biến.
\s5
\v 22 Vào ngày thứ sáu, họ gom nhiều gấp đôi so với những ngày khác, mỗi người được 2 ô-me. Các lãnh đạo trong hội chúng đến gặp Môi-se.
\v 23 Ông nói với họ: “Đây là lời Đức Giê-hô-va phán: Ngày mai là ngày yên nghỉ, là ngày Sa-bát thánh để tôn kính Đức Giê-hô-va. Hãy nấu thứ gì mà quý vị muốn nấu, luộc thứ gì mình muốn luộc. Những gì còn dư, hãy để cho sáng mai. ’”
\s5
\v 24 Vậy họ để bánh ấy riêng cho sáng hôm sau, như Môi-se đã chỉ dẫn. Bánh không bị thối, cũng không bị giòi bọ.
\v 25 Môi-se nói: “Hôm nay quý vị hãy ăn phần đó, vì hôm nay là ngày Sa-bát được dành riêng để tôn kính Đức Giê-hô-va. Hôm nay quý vị sẽ không thấy bánh đó ngoài đồng.
\s5
\v 26 Quý vị sẽ gom bánh trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát. Ngày Sa-bát sẽ không có ma-na. ”
\v 27 Vào ngày thứ bảy có một số người đi ra đồng để gom ma-na nhưng họ không tìm được cái nào.
\s5
\v 28 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Các ngươi còn không giữ điều răn và luật pháp Ta cho đến khi nào?
\v 29 Hãy xem, Ta, Đức Giê-hô-va đã ban cho các ngươi ngày Sa-bát. Vậy vào ngày thứ sáu, Ta sẽ ban bánh cho các ngươi đủ trong hai ngày. Mỗi người trong các ngươi phải ở trong lều mình; không ai được ra khỏi nơi mình trong ngày thứ bảy. ”
\v 30 Vậy dân sự nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy.
\s5
\v 31 Dân Y-sơ-ra-ên gọi thức ăn đó là “ma-na”. Ma-na có màu trắng như hạt cây rau mùi, mùi vị như bánh quế trộn với mật ong.
\v 32 Môi-se nói: “Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền: Hãy giữ 1 ô-me ma-na qua các đời của các ngươi để con cháu các ngươi thấy bánh mà Ta đã nuôi các ngươi trong đồng vắng, sau khi Ta đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập. ’”
\s5
\v 33 Môi-se nói với A-rôn: “Anh hãy lấy một cái nồi và nhặt 1ô-me ma-na bỏ vào đó. Hãy giữ ma-na này trước mặt Đức Giê-hô-va trong các thế hệ. ”
\v 34 Như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se, A-rôn đựng ma-na trong bình đặt bên cạnh chứng cớ.
\v 35 Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong 40 năm cho đến khi bước vào xứ Ca-na-an.
\v 36 Bấy giờ 1 ô-me bằng 1/10 của 1 ê-pha.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi tiếp từ đồng vắng Sin, theo lời hướng dẫn của Đức Giê-hô-va. Họ hạ trại tại Rê-phi-đim, nhưng nơi đó không có nước cho dân sự uống.
\v 2 Vì vậy họ đổ thừa Môi-se về tình huống đó và rằng: “Hãy cho chúng tôi nước uống. ” Môi-se đáp: “Sao quý vị gây sự với tôi? Sao quý vị thử Đức Giê-hô-va? ”
\v 3 Dân sự rất khát nước, và họ oán trách Môi-se. Họ nói: “Sao các ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập? Để giết chúng tôi cùng con cháu chúng tôi và gia súc bằng cơn khát sao?”
\s5
\v 4 Vậy Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va: “Con nên làm gì với dân này? Thiếu điều họ ném đá con. ”
\v 5 Đức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se: “Hãy đi trước dân sự, và đem theo ngươi vài trưởng lão trong Y-sơ-ra-ên. Hãy đem theo cây gậy mà ngươi đã đập dưới nước và ra đi.
\v 6 Ta sẽ đứng trước mặt ngươi tại hòn đá ở Hô-rếp, hãy đập vào hòn đá đó. Nước sẽ chảy ra khỏi hòn đá để dân sự uống. ” Môi-se làm y như vậy trước mặt các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Ông gọi nơi đó là Ma-sa và Mê-ri-ba vì cớ lời oán trách của Y-sơ-ra-ên, và vì họ đã thử Chúa khi nói rằng: “Đức Giê-hô-va có ngự giữa chúng ta không?”
\s5
\v 8 Sau đó, một đội quân của người A-ma-léc đến tấn công Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim.
\v 9 Môi-se nói cùng Giô-suê: “Hãy chọn vài người nam và ra trận. Hãy chiến đấu chống lại dân A-ma-léc. Ngày mai ta sẽ đứng trên đỉnh đồi cầm cây gậy của Đức Chúa Trời trong tay. ”
\v 10 Vậy Giô-suê đánh dân A-ma-léc như Môi-se đã ra lệnh, trong khi Môi-se, A-rôn, và Hu-rơ lên đỉnh đổi.
\s5
\v 11 Hễ Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-sơ-ra-ên thắng; hễ ông hạ tay xuống, thì dân A-ma-léc bắt đầu thắng.
\v 12 Khi Môi-se mỏi tay, A-rôn và Hu-rơ lấy một cục đá và đặt dưới chân ông để ông ngồi. Đồng thời, A-rôn và Hu-rơ giữ hai tay của ông, một người ở bên này, và người kia ở bên kia. Vậy tay của Môi-se được giữ vững cho đến khi mặt trời lặn.
\v 13 Do đó Giô-suê đánh bại dân A-ma-léc bằng gươm.
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy chép lại điều này trong một quyển sách và đọc cho Giô-suê nghe rõ, vì Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm hoàn toàn về A-ma-léc dưới trời. ”
\v 15 Vậy Môi-se dựng một bàn thờ và đặt tên “Đức Giê-hô-va là ngọn cờ của tôi. ”
\v 16 Ông làm như vậy, vì ông nói: “Đức Giê-hô-va đã thề rằng Ngài sẽ đánh dân A-ma-léc từ đời này qua đời kia.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an, cha vợ của Môi-se, đã nghe về tất cả mọi việc Đức Chúa Trời làm cho Môi-se và Y-sơ-ra-ên là dân Ngài. Ông có nghe rằng Đức Giê-hô-va đã đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập.
\v 2 Giê-trô, cha vợ Môi-se, đã nhận lại Sê-phô-ra, vợ Môi-se, sau khi ông cho bà về nhà,
\v 3 và hai con trai; một người tên là Ghẹt-sôm, vì Môi-se nói rằng: “Tôi là người ngoại quốc ở xứ ngoại quốc. ”
\v 4 Người còn lại tên là Ê-li-ê-xe, vì Môi-se nói rằng: “Đức Chúa Trời của tổ tiên tôi là Đấng giúp đỡ tôi. Ngài đã cứu tôi khỏi gươm của Pha-ra-ôn.”
\s5
\v 5 Giê-trô, cha vợ Môi-se, dẫn hai con trai và vợ của Môi-se đến gặp Môi-se trong đồng vắng là nơi ông đang hạ trại dưới chân núi của Đức Chúa Trời.
\v 6 Ông nói với Môi-se: “Cha Giê-trô, cha vợ của con, có dẫn theo vợ và hai con trai của con đến gặp con đây.”
\s5
\v 7 Môi-se đi ra gặp cha vợ mình, quỳ xuống, và hôn người. Họ hỏi thăm nhau rồi vào trong lều.
\v 8 Môi-se kể cho cha vợ về mọi điều Đức Giê-hô-va đã giáng trên Pha-ra-ôn và dân Ai Cập vì cớ dân Y-sơ-ra-ên, về mọi gian khó họ đã gặp dọc đường, và cách Đức Giê-hô-va giải cứu họ.
\s5
\v 9 Giê-trô vui mừng về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên, Ngài đã giải cứu họ khỏi sức mạnh của người Ai Cập.
\v 10 Giê-trô nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va được ngợi khen, vì Ngài đã giải cứu các con khỏi người Ai Cập và quyền lực của Pha-ra-ôn, Ngài đã giải thoát họ khỏi sự cai trị của chúng.
\v 11 Bây giờ cha biết rằng Đức Giê-hô-va lớn hơn tất cả các thần, vì khi người Ai Cập đối xử ngạo mạn với người Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Ngài.”
\s5
\v 12 Giê-trô, cha vợ Môi-se, dâng một của lễ thiêu và các của tế lễ lên Đức Chúa Trời. A-rôn và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến ăn trước mặt Đức Chúa Trời cùng với cha vợ của Môi-se.
\s5
\v 13 Hôm sau, Môi-se ngồi xét xử dân sự. Dân chúng đứng quanh ông từ sáng đến chiều tối.
\v 14 Khi cha vợ Môi-se thấy mọi điều ông đã làm cho dân sự, ông nói: “Con đang làm gì với dân này vậy? Sao con phải ngồi một mình và mọi người đứng quanh con từ sáng đến tối?”
\s5
\v 15 Môi-se trả lời cha vợ ông: “Dân này đến gặp con đặng muốn biết sự hướng dẫn của Chúa.
\v 16 Khi họ tranh cãi, họ đến gặp con. Con phân xử giữa người này với người kia, và dạy họ các quy chế cùng luật pháp của Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 17 Cha vợ Môi-se nói cùng ông: “Điều con đang làm thật không tốt.
\v 18 Chắc chắn con và những người đến gặp con sẽ mệt mỏi, vì gánh nặng này quá nặng nề cho con. Con không thể làm một mình.
\v 19 Hãy nghe cha. Cha sẽ cho con lời khuyên, và Đức Chúa Trời sẽ ở cùng con, vì con là người đại diện của dân sự trước mặt Đức Chúa Trời, con sẽ trình lên Ngài mọi sự bất đồng của họ.
\v 20 Con phải dạy dỗ họ các quy chế và luật pháp Ngài. Con phải chỉ cho họ con đường phải đi và việc cần làm.
\s5
\v 21 Hơn nữa, con phải chọn những người có năng lực từ trong dân sự, những người nam tôn kính Chúa, những con người chân thật ghét của hối lộ. Con phải đặt họ cai trị dân sự, làm lãnh đạo của hàng ngàn, hàng trăm, năm chục, và mười người.
\v 22 Họ sẽ xét xử dân sự đối với tất cả các việc thường, nhưng việc nào khó thì họ sẽ đưa cho con xét xử. Với tất cả những việc thường, họ có thể xét xử. Bởi đó sẽ dễ dàng hơn cho con, họ sẽ cùng con chia sẻ gánh nặng.
\v 23 Nếu con làm vậy, và nếu Đức Chúa Trời truyền con phải làm vậy, con sẽ có thể chịu đựng, và cả dân sự sẽ thỏa mãn mà về nhà.”
\s5
\v 24 Vậy Môi-se nghe lời của cha vợ mình và làm mọi điều y như ông đã nói.
\v 25 Môi-se chọn những người có năng lực từ trong Y-sơ-ra-ên và lập họ làm đầu dân sự, lãnh đạo một ngàn, một trăm, năm mươi, và mười người.
\v 26 Họ xét xử dân sự đối với các việc thường. Việc nào khó thì họ chuyển qua cho Môi-se, còn họ tự xét xử tất cả những việc nhỏ.
\v 27 Môi-se tiễn cha vợ mình, và Giê-trô trở về trong xứ của ông.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đến tháng ba sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khỏi xứ Ai Cập, trong ngày đó, họ đến đồng vắng Si-nai.
\v 2 Sau khi rời Rê-phi-đim và đến đồng vắng Si-nai, họ hạ trại ở đồng vắng đối diện núi.
\s5
\v 3 Môi-se lên núi để ra mắt Đức Chúa Trời. Đức Giê-hô-va gọi ông từ trên núi và phán rằng: “Ngươi phải nói với nhà Gia-cốp, dân Y-sơ-ra-ên:
\v 4 Các ngươi đã chứng kiến việc Ta làm trên dân Ai Cập, thể nào Ta đã cõng các ngươi trên cánh đại bàng và đem các ngươi đến với Ta.
\v 5 Vậy bây giờ, nếu các ngươi thuận phục lắng nghe tiếng Ta và giữ giao ước Ta, các ngươi sẽ là tài sản đặc biệt của Ta từ giữa các dân, vì cả thế gian thuộc về Ta.
\v 6 Các ngươi sẽ là vương quốc của thầy tế lễ và là quốc gia thánh của Ta. Đây là những lời ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 7 Vậy Môi-se xuống núi và triệu tập các trưởng lão trong dân chúng. Ông trình bày với họ mọi lời mà Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 8 Cả dân sự đồng thanh trả lời và nói: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều Đức Giê-hô-va phán. ” Sau đó Môi-se trình cho Đức Giê-hô-va lời của dân sự.
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ ngự trong đám mây đen đến cùng ngươi đặng chúng có thể nghe khi Ta phán cùng ngươi và tin ngươi mãi mãi. ” Vậy Môi-se thuật lại lời của dân sự cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Hãy đến gặp dân sự. Hôm nay và ngày mai các ngươi phải biệt riêng cho Ta, hãy bảo chúng giặt sạch quần áo.
\v 11 Hãy sẵn sàng cho ngày thứ ba, vì trong ngày thứ ba, Ta, Giê-hô-va, sẽ ngự xuống núi Si-nai.
\s5
\v 12 Ngươi phải định ranh giới quanh núi cho dân sự. Hãy nói với chúng, Quý vị phải cẩn thận, đừng lên núi hay đụng vào ranh giới. Ai đụng đến núi thì chắc chắn sẽ chết.
\v 13 Không ai được đụng đến người đó. Bằng không, ai làm vậy chắc chắn sẽ bị ném đá hoặc bắn chết bằng cung tên. Dù đó là người hay thú vật, hễ ai đụng vào sẽ chết. Khi nào có tiếng kèn thổi dài, chúng có thể đi lên núi.”
\s5
\v 14 Vậy Môi-se xuống núi gặp dân sự. Ông biệt riêng họ ra thánh cho Đức Giê-hô-va, và họ giặt quần áo mình.
\v 15 Ông nói với họ: “Hãy sẵn sàng cho ngày thứ ba; đừng lại gần vợ quý vị.”
\s5
\v 16 Sáng thứ ba, có sấm sét, chớp nhoáng và đám mây dày trên núi, cùng tiếng kèn rất dài. Cả dân sự trong trại đều run sợ.
\v 17 Môi-se dẫn dân sự ra khỏi trại để gặp Đức Chúa Trời, họ đứng ở chân núi.
\v 18 Khói bao phủ Núi Si-nai hoàn toàn vì Đức Giê-hô-va ngự trong lửa và khói. Khói bay lên như khói từ lò, và núi đều rung động dữ dội.
\s5
\v 19 Khi tiếng kèn thổi to hơn và to hơn, Môi-se nói, và Đức Chúa Trời cất tiếng trả lời ông.
\v 20 Đức Giê-hô-va ngự xuống Núi Si-nai, trên đỉnh núi, Ngài gọi Môi-se lên đỉnh. Vậy Môi-se đi lên đó.
\v 21 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy xuống và cảnh báo chúng chớ vượt qua ranh giới để nhìn Ta, kẻo nhiều người trong chúng sẽ bị diệt vong.
\v 22 Hãy bảo các thầy tế lễ nào đến gần Ta phải biệt riêng mình chuẩn bị chính mình cho sự hiện đến của Ta đặng Ta không giáng phạt họ.”
\s5
\v 23 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Dân sự không thể lên núi, vì Ngài đã ra lệnh cho chúng con: Hãy đặt ranh giới quanh núi và biệt riêng núi ấy cho Đức Giê-hô-va. ’”
\v 24 Đức Giê-hô-va trả lời ông: “Hãy đi, xuống núi, và dẫn A-rôn lên với ngươi, nhưng đừng để thầy tế lễ và dân sự vượt qua lằn ranh để đến với Ta, nếu không Ta sẽ đánh phạt chúng. ”
\v 25 Vậy Môi-se xuống núi gặp dân sự và nói với họ.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Đức Chúa Trời phán những lời này:
\v 2 “Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ.
\v 3 Ngươi chớ có các thần khác ở trước mặt Ta.
\s5
\v 4 Ngươi chớ làm hình tượng cho mình hoặc hình tượng của vật gì ở trên trời cao kia, hoặc bên dưới đất, hoặc dưới nước.
\v 5 Ngươi chớ quỳ lạy trước chúng hay thờ lạy chúng, vì Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đức Chúa Trời đố kỵ. Ta sẽ trừng phạt tội gian ác của tổ tiên bằng sự giáng phạt trên con cháu, từ đời thứ ba đến đời thứ tư của những kẻ nào ghét Ta.
\v 6 Nhưng Ta sẽ tỏ lòng thành tín theo thỏa ước cho hàng ngàn người nào yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta.
\s5
\v 7 Ngươi chớ lấy danh Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, mà làm chơi, vì Ta sẽ không xem kẻ nào lấy danh Ta mà làm chơi là vô tội.
\s5
\v 8 Hãy nhớ ngày Sa-bát và biệt riêng cho Ta.
\v 9 Ngươi phải lao động và làm hết mọi công việc mình trong sáu ngày.
\v 10 Nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát dành cho Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Trong ngày đó, ngươi. Con trai, con gái, tớ trai, tớ gái, gia súc, hay khách ngoại quốc ở trong nhà ngươi, chớ làm việc chi cả.
\v 11 Vì trong sáu ngày Ta, Giê-hô-va, đã dựng nên trời, đất, và biển, cùng mọi vật ở trong đó, và nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Vậy Ta, Giê-hô-va, đã ban phước cho ngày Sa-bát và dành riêng ngày đó cho Ta.
\s5
\v 12 Hãy tôn kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, sẽ ban cho.
\v 13 Ngươi chớ giết người.
\v 14 Ngươi chớ phạm tội ngoại tình.
\s5
\v 15 Ngươi chớ trộm cướp.
\v 16 Ngươi chớ làm chứng dối về kẻ lân cận ngươi.
\v 17 Ngươi chớ thèm muốn nhà của láng giềng ngươi; ngươi chớ tham vợ của láng giềng ngươi, tớ trai, tớ gái, bò, lừa, hay vật chi thuộc về láng giềng ngươi.”
\s5
\v 18 Cả dân sự thấy sấm sét và chớp nhoáng, họ nghe tiếng kèn thổi, và núi bốc khói. Khi dân sự thấy điều đó, họ run sợ và đứng xa xa.
\v 19 Họ nói với Môi-se: “Hãy nói với chúng tôi, chúng tôi sẽ nghe; nhưng đừng để Đức Chúa Trời phán cùng chúng tôi, nếu không chúng tôi ắt sẽ chết. ”
\v 20 Môi-se nói cùng dân sự: “Chớ sợ hãi, vì Đức Chúa Trời đã ngự đến đặng thử quý vị hầu cho quý vị tôn kính Ngài và không phạm tội. ”
\v 21 Vậy dân sự đứng xa xa, và Môi-se đến gần đám mây đen nơi Đức Chúa Trời đang ngự.
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Đây là điều ngươi phải nói cùng dân Y-sơ-ra-ên: Chính các ngươi đã thấy Ta phán với các ngươi từ trời.
\v 23 Các ngươi chớ làm cho mình thần nào khác ngoài Ta, dù là thần bằng bạc hay thần bằng vàng.
\s5
\v 24 Các ngươi phải làm một bàn thờ bằng đất nung cho Ta, các ngươi phải dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an, cừu, dê và bò trên bàn thờ ấy. Bất cứ nơi nào Ta làm cho tên Ta được tôn kính, Ta sẽ đến và ban phước cho các ngươi.
\v 25 Nếu các ngươi thiết lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì đừng dùng đá đẽo, vì các ngươi sẽ làm ô uế bàn thờ khi dùng dụng cụ để đẽo đá.
\v 26 Ngươi chớ đi lên bàn thờ bằng bực thang, để sự lõa lồ của ngươi sẽ không bị lộ.'"
\s5
\c 21
\p
\v 1 Bây giờ, đây là những luật lệ ngươi phải truyền cho dân sự:
\s5
\v 2 “Nếu ngươi mua một nô lệ người Hê-bơ-rơ, nó sẽ phục vụ trong sáu năm, đến năm thứ bảy, nó sẽ được tự do ra đi mà không cần phải đóng tiền chuộc.
\v 3 Nếu một mình nó về nhà ngươi, thì một mình nó sẽ được tự do; nếu nó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với nó.
\v 4 Nếu chủ cưới vợ cho nó, và nàng sanh cho nó con trai hay con gái, thì vợ và con cái nàng sẽ thuộc về chủ nàng, còn một mình nó sẽ được tự do.
\s5
\v 5 Nhưng nếu nó tuyên bố: “Tôi yêu chủ tôi, vợ tôi, và các con tôi; tôi không muốn tự do, ”
\v 6 thì chủ phải dẫn nó đến trước mặt Đức Chúa Trời. Chủ dẫn nó đến trước cánh cửa hoặc khung cửa, lấy dùi xỏ tai nó. Như vậy, nô lệ ấy sẽ hầu hạ chủ suốt đời.
\s5
\v 7 Nếu ai bán con gái mình làm tỳ nữ, nàng sẽ không được tự do như các nam nô lệ.
\v 8 Nếu nàng không làm hài lòng chủ mình, là người đã chọn nàng để hầu hạ, thì chủ phải để nàng được chuộc lại. Chủ không có quyền bán nàng cho người ngoại quốc. Chủ không có quyền đó, vì người đã đối xử bất công với nàng.
\s5
\v 9 Nếu chủ gả nàng cho con trai mình, người phải đối xử với nàng y như là con gái mình.
\v 10 Nếu chủ cưới người khác, thì không được cắt giảm thức ăn, quần áo, hoặc quyền phối ngẫu của nàng.
\v 11 Nhưng nếu chủ không làm cho nàng ba điều này, nàng có thể ra đi tự do mà không phải trả tiền.
\s5
\v 12 Ai đánh chết người, chắc chắn phải bị xử tử.
\v 13 Nếu người đó không cố ý, nhưng vô tình làm thiệt mạng người khác, Ta sẽ bố trí một nơi để người có thể lẩn trốn.
\v 14 Nếu ai toan tính làm hại rồi giết đi, ngươi phải bắt nó đem đi xử tử, dù nó trốn tại bàn thờ của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 15 Ai đánh cha hay mẹ mình, phải bị xử tử.
\v 16 Ai bắt cóc người ta và bán đi, hoặc nạn nhân bị bắt cóc được phát hiện đang khi bị giam giữ, thì kẻ bắt cóc ấy sẽ bị xử tử.
\v 17 Ai mắng cha hay mẹ mình phải bị xử tử.
\s5
\v 18 Nếu hai người đánh lộn, người này lấy đá hoặc dùng tay đánh người kia mà không làm người đó chết, nhưng nằm liệt giường;
\v 19 vậy nếu nạn nhân phục hồi và có thể chống gậy đi đứng, người đánh phải trả tiền chữa trị thiệt hại nạn nhân suốt thời gian dưỡng bệnh; người cũng phải thanh toán cho đến khi người kia hoàn toàn bình phục. Tuy nhiên người đánh sẽ không mắc tội sát nhân.
\s5
\v 20 Nếu ai lấy gậy đánh tôi trai tớ gái mình, và nếu nô lệ đó chết vì cú đánh, thì chủ phải bị trừng phạt.
\v 21 Tuy nhiên, nếu nô lệ còn sống được một hay hai ngày, chủ sẽ không bị trừng phạt, vì người đã mua nô lệ đó.
\s5
\v 22 Nếu hai người đánh nhau, trúng một phụ nữ có thai đến nỗi khiến sẩy thai nhưng không gây ra thương tích cho nàng, thì người mắc lỗi phải bị phạt, nếu chồng nàng đòi nộp phạt, thì người gây sự phải bồi thường theo phán quyết của thẩm phán.
\v 23 Nhưng nếu gây thiệt hại nghiêm trọng, thì mạng đền mạng,
\v 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân,
\v 25 bỏng đền bỏng, thương tích đền thương tích, hoặc bầm đền bầm.
\s5
\v 26 Nếu ai đánh trúng mắt của tôi trai tớ gái mình và gây mù mắt, thì chủ phải thả tự do cho người đó để bồi thường cho mắt của người.
\v 27 Nếu ai đánh gãy răng tôi trai tớ gái mình thì phải thả tự do cho người đó để đền răng bị gãy.
\s5
\v 28 Nếu một con bò đực húc chết một người nam hay người nữ, con bò đó phải bị ném đá, các ngươi không được ăn thịt của nó; tuy nhiên chủ con bò sẽ được tha bổng.
\v 29 Nhưng nếu con bò từng có tật húc người khi trước, chủ bò đã bị cảnh cáo nhưng không quản lý bò, và con bò húc chết một người nam hay người nữ, thì con bò đó phải bị ném đá, chủ nó cũng phải bị ném đá cho tới chết.
\v 30 Nếu người ta yêu cầu người phải trả tiền để chuộc mạng sống mình, thì người phải trả y như yêu cầu đó.
\s5
\v 31 Nếu con bò húc con trai hay con gái của người khác, chủ của nó phải tuân theo luật lệ này.
\v 32 Nếu con bò húc một tôi trai hay tớ gái, thì con bò phải trả ba mươi miếng bạc, rồi ném đá con bò ấy.
\s5
\v 33 Nếu ai mở miệng giếng mà không đậy nắp, hoặc nếu ai đào giếng mà không đậy lại, thì con bò hay con lừa rơi xuống đó,
\v 34 chủ giếng phải bồi thường thiệt hại. Người phải trả tiền cho chủ của con vật bị chết, và con thú chết đó sẽ trở thành vật của người.
\s5
\v 35 Nếu bò của người này húc bò của người khác làm nó chết, họ phải bán con bò còn sống và chia đôi số tiền, họ cũng phải chia con bò chết.
\v 36 Nhưng nếu xác định là con bò từng có thói quen húc trong quá khứ, và chủ nó không có trách nhiệm giữ nó, người phải đền con bò của mình cho người kia, và giữ lại con vật bị chết.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Nếu ai trộm một con bò hay một con chiên rồi giết nó hoặc bán nó, kẻ trộm phải đền năm con bò cho một con bò bị ăn cắp, và bốn con chiên cho một con chiên bị ăn cắp.
\v 2 Nếu tên trộm bị bắt quả tang khi đang đột nhập, và nếu nó bị đánh chết, thì người đánh nó sẽ không phạm tội sát nhân.
\v 3 Nhưng nếu mặt trời đã mọc trước khi tên trộm đột nhập, người giết kẻ trộm sẽ mang tội sát nhân. Kẻ trộm phải bồi thường. Nếu tên trộm không có gì để bồi thường, hãy bán nó làm nô lệ để bồi thường cho việc trộm cắp.
\v 4 Nếu con vật ăn cắp còn sống trong tay kẻ trộm, dù đó là bò, lừa, hay chiên, tên trộm phải đền gấp đôi.
\s5
\v 5 Nếu ai thả gia súc mình vào ruộng hay vườn nho và không quản lý chúng, để chúng đi lạc qua ruộng của người khác và gây thiệt hại, người đó phải bồi thường bằng những hoa quả tốt nhất của ruộng mình và vụ mùa tốt nhất của vườn nho mình.
\s5
\v 6 Nếu lửa nổi lên rồi lan sang cỏ gai, cháy lan ra lúa mới gặt, hoặc lúa chưa gặt, hoặc cháy cả đám ruộng, thì người đốt lửa phải bồi thường thiệt hại.
\s5
\v 7 Nếu ai đưa tiền hoặc đồ vật mình cho láng giềng giữ hộ, nếu xảy ra trộm cắp trong nhà của người giữ, và nếu tên trộm bị bắt, nó phải bồi thường gấp đôi.
\v 8 Nhưng nếu không bắt được trộm, chủ nhà phải đến trình diện các quan tòa để xác định rằng mình không rớ tay vào tài sản của láng giềng mình.
\v 9 Nếu xảy ra vấn đề tranh cãi, dù là tranh cãi về bò, lừa, chiên, quần áo, hay bất cứ vật nào thất lạc mà một bên nói rằng: “Vật này thuộc về tôi, ” thì hai bên phải khiếu nại trước mặt quan tòa. Ai bị quan tòa định tội sẽ phải bồi thường gấp đôi cho láng giềng mình.
\s5
\v 10 Nếu ai nhờ láng giềng mình giữ hộ một con lừa, bò, chiên, hoặc bất cứ con vật nào, và nếu con vật đó chết, bị thương hoặc bị trộm mà không ai hay biết,
\v 11 thì hai bên phải thề với Đức Giê-hô-va, rằng người ấy không nhúng tay vào tài sản của láng giềng mình. Chủ nhân phải chấp nhận lời thề đó, và người kia sẽ không phải bồi thường.
\v 12 Nhưng nếu con vật đã bị trộm, thì người phải bồi thường cho chủ con vật.
\v 13 Nếu một con vật bị thú dữ xé xác, người giữ phải đem con vật về làm bằng chứng. Người sẽ không phải bồi thường cho con vật bị xé xác.
\s5
\v 14 Nếu ai mượn một con vật nào từ láng giềng mình và con vật đó bị thương hay chết khi không có mặt người chủ, người mượn sẽ phải bồi thường.
\v 15 Nhưng nếu có mặt chủ của nó tại đó, người mượn sẽ không phải bồi thường; nếu con vật được cho mướn, người mướn phải thanh toán chi phí thuê mướn.
\s5
\v 16 Nếu người nam nào dụ dỗ một trinh nữ chưa đính hôn, nếu ngủ với nàng, thì người đó phải cưới nàng làm vợ bằng cách nộp sính lễ.
\v 17 Nếu cha nàng hoàn toàn từ chối chịu gả nàng, người đó phải trả tiền tương đương với sính lễ cưới trinh nữ.
\s5
\v 18 Ngươi chớ để phù thủy nào sống.
\v 19 Ai ngủ với thú vật sẽ bị xử tử.
\s5
\v 20 Ai dâng của lễ cho bất cứ thần nào ngoài Đức Giê-hô-va sẽ bị diệt hoàn toàn.
\v 21 Chớ bạc đãi người ngoại quốc nào hoặc áp bức người, vì ngươi từng là dân ngoại quốc trong xứ Ai Cập.
\s5
\v 22 gươi chớ ngược đãi góa phụ hoặc trẻ mồ côi cha.
\v 23 Nếu ngươi khiến họ đau khổ, và nếu họ kêu cầu Ta, là Đức Giê-hô-va, chắc chắn Ta sẽ nghe tiếng kêu cầu của họ.
\v 24 Ta sẽ nổi giận bừng bừng, Ta sẽ dùng gươm mà giết ngươi; vợ ngươi sẽ thành góa bụa, con cái ngươi sẽ mồ côi cha.
\s5
\v 25 Nếu ngươi cho một người nào trong dân Ta, là người nghèo khó, được vay mượn, thì chớ đối xử với họ như người cho vay tiền và cũng đừng lấy lãi.
\v 26 Nếu ngươi lấy áo quần của láng giềng mình làm của nợ, thì phải trả lại cho người trước khi hoàng hôn,
\v 27 vì đó là đồ mặc duy nhất của người; đó là áo quần để người che thân. Người sẽ mặc gì để ngủ? Nếu người kêu cầu Ta, Ta sẽ nghe tiếng người, vì Ta hay thương xót.
\s5
\v 28 Chớ báng bổ Ta, là Đức Chúa Trời, cũng chớ rủa người cai trị dân ngươi.
\s5
\v 29 Ngươi chớ chậm trễ dâng hoa quả mùa vụ hoặc rượu nho ngươi thu hoạch. Hãy dâng cho Ta con trai đầu lòng của ngươi.
\v 30 Ngươi cũng hãy dâng cho Ta con đầu lòng của bò và chiên ngươi. Vì chúng có thể ở với mẹ chúng trong bảy ngày, nhưng ngày thứ tám là ngày ngươi phải đem dâng cho Ta.
\v 31 Các ngươi sẽ là dân thánh của Ta. Vậy ngươi chớ ăn thịt con vật nào bị thú dữ cắn xé ngoài đồng. Trái lại, hãy quăng nó cho chó ăn.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Ngươi chớ phao tin đồn nhảm. Chớ cùng kẻ gian ác mà làm chứng dối.
\v 2 Chớ hùa theo đám đông mà làm ác, khi ngươi làm nhân chứng cũng chớ hùa theo đám đông mà xuyên tạc công lý.
\v 3 Chớ thiên vị người nghèo khi họ kiện tụng.
\s5
\v 4 Nếu ngươi thấy con bò hay lừa của kẻ thù mình đi lạc, hãy dẫn nó về cho người ấy.
\v 5 Nếu ngươi thấy con lừa của kẻ ghét mình ngã quỵ xuống đất khi chở nặng thì chớ làm ngơ. Hãy giúp người ấy cùng con lừa.
\s5
\v 6 Chớ xuyên tạc công lý về phía người nghèo khi họ kiện tụng.
\v 7 Chớ thông đồng với kẻ khác mà vu khống, cũng chớ giết người vô tội hay người công bình, vì Ta sẽ không tha cho kẻ gian ác.
\v 8 Chớ bao giờ nhận hối lộ, vì của hối lộ làm mù những kẻ sáng mắt, và xuyên tạc lời nói của người thành thật.
\v 9 Ngươi chớ áp bức người ngoại quốc, vì ngươi biết thân phận của người ngoại quốc, ngươi đã từng là khách ngoại quốc trong xứ Ai Cập.
\s5
\v 10 Hãy gieo giống trong sáu năm và thâu gặt hoa lợi.
\v 11 Nhưng đến năm thứ bảy thì chớ cày xới và trồng trọt, để người nghèo trong dân ngươi thu nhặt mà ăn. Những gì họ bỏ lại, thú đồng sẽ ăn. Hãy làm tương tự với vườn nho và vườn cây ô-liu ngươi.
\s5
\v 12 Ngươi hãy làm việc mình trong sáu ngày, nhưng đến ngày thứ bảy ngươi phải nghỉ ngơi. Như vậy để bò và lừa ngươi được nghỉ ngơi, và con trai của nữ tỳ ngươi và bất kỳ khách ngoại quốc nào cũng được nghỉ ngơi.
\v 13 Hãy chú ý mọi lời Ta đã phán cùng ngươi. Chớ đề cập danh các các thần khác, miệng ngươi cũng chớ xưng danh các thần đó.
\s5
\v 14 Ngươi hãy giữ kỳ lễ cho ta một năm ba lần.
\v 15 Hãy giữ Lễ Bánh không men. Như Ta đã truyền, ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào đúng thời điểm ấn định trong tháng A-bíp, ngươi sẽ ra mắt Ta. Đây là tháng mà ngươi đã ra khỏi Ai Cập. Nhưng chớ đi tay không đến ra mắt Ta.
\s5
\v 16 Hãy giữ Lễ Mùa gặt, là lễ hoa quả đầu mùa do sức lao động ngươi mà ra và thời gian ngươi gieo giống ngoài đồng. Cũng hãy giữ Lễ Thu hoạch vào cuối năm, là lúc ngươi thu hoạch nông sản mình.
\v 17 Tất cả đàn ông phải ra mắt Ta, là Đức Giê-hô-va, mỗi năm ba lần.
\s5
\v 18 Chớ dâng huyết con sinh tế cho Ta chung với bánh có men. Chớ để lại mỡ của con sinh tế dâng cho Ta trọn đêm cho đến sáng.
\v 19 Hãy đem những hoa quả đầu mùa tốt nhất của ngươi vào nhà Ta, là nhà của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Ngươi chớ nấu dê con trong sữa mẹ nó.
\s5
\v 20 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi đặng bảo vệ ngươi dọc đường, và đem ngươi đến nơi mà Ta đã sắm sẵn.
\v 21 Hãy chú ý và vâng lời thiên sứ đó. Chớ khiêu khích người, vì người sẽ không bỏ qua sự vi phạm ngươi. Danh Ta ở cùng người.
\v 22 Nếu ngươi thật sự nghe lời người và làm theo mọi điều Ta truyền, thì Ta sẽ là kẻ thù của quân thù ngươi và là địch thủ của đối thủ ngươi.
\s5
\v 23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi và đem ngươi đến xứ của dân Am-môn, dân Hê-tít, dân Phê-ri-sít, dân Ca-na-an, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Ta sẽ hủy diệt chúng.
\v 24 Ngươi chớ quỳ lạy trước các thần của chúng, tôn thờ, hoặc bắt chước chúng. Trái lại, hãy tiêu hủy chúng hoàn toàn và đập nát các trụ thờ của chúng.
\v 25 Hãy thờ phượng Ta, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Nếu ngươi làm theo, Ta sẽ ban phước cho bánh và nước uống của ngươi. Ta sẽ loại trừ bệnh tật khỏi giữa ngươi.
\s5
\v 26 Sẽ không có người nữ nào hiếm muộn hoặc bị sẩy thai trong xứ ngươi. Ta sẽ cho ngươi được sống lâu.
\v 27 Ta sẽ giáng sự kinh sợ trên dân trong xứ mà ngươi sẽ đến. Ta sẽ giết mọi dân ngươi gặp. Ta sẽ khiến hết thảy kẻ thù ngươi sợ hãi chạy trốn khỏi ngươi.
\v 28 Ta sẽ sai ong bắp cày bay trước ngươi đặng đuổi dân Hê-vít, dân Ca-na-an, và dân Hê-tít khỏi trước mặt ngươi.
\v 29 Ta sẽ không đuổi chúng khuất mắt ngươi trong một năm, kẻo xứ đó hoang vu và thú hoang sanh sôi quá nhiều đến nỗi làm hại ngươi.
\s5
\v 30 Trái lại, Ta sẽ dần dần đuổi chúng khuất mắt ngươi cho đến khi ngươi sinh sản nhiều và đầy khắp đất.
\v 31 Ta sẽ ấn định biên giới ngươi từ biển Sậy đến biển Phi-li-tin, và từ đồng vắng đến Sông Ơ-phơ-rát. Ta sẽ cho ngươi chiến thắng các dân trong xứ. Chính ngươi sẽ đuổi chúng khuất mắt ngươi.
\v 32 Ngươi chớ lập giao ước với chúng hoặc với các thần của chúng.
\v 33 Chúng không được sống trong xứ ngươi, kẻo chúng khiến ngươi phạm tội đối cùng Ta. Nếu ngươi thờ thần của chúng, thì đây chắc chắn sẽ là một cái bẫy cho ngươi.”
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se: “Ngươi, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên hãy lên núi gặp Ta và thờ phượng Ta từ đằng xa.
\v 2 Chỉ một mình Môi-se được đến gần Ta. Những người khác không được đến gần, kể cả những người đi cùng với ông.”
\s5
\v 3 Môi-se đến gặp dân sự và thuật lại cho họ về mọi lời và sắc lệnh của Đức Giê-hô-va. Cả dân sự đều đồng thanh trả lời và nói rằng: “Chúng tôi sẽ làm y như lời Đức Giê-hô-va đã phán. ”
\v 4 Vậy Môi-se ghi lại mọi lời của Đức Giê-hô-va. Sáng sớm hôm sau, Môi-se dựng một bàn thờ ở chân núi và xếp mười hai trụ đá, tượng trưng cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Ông sai một số nam thanh niên người Y-sơ-ra-ên dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân bằng bò đực cho Đức Giê-hô-va.
\v 6 Môi-se lấy một nửa huyết và đựng trong các chậu; một nửa còn lại ông rảy lên bàn thờ.
\s5
\v 7 Ông lấy Sách Giao ước và đọc lớn tiếng cho dân sự nghe. Họ nói: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều y như Đức Giê-hô-va đã phán. Chúng tôi sẽ vâng phục. ”
\v 8 Sau đó, Môi-se lấy huyết và rảy lên dân sự. Ông nói: “Đây là huyết của giao ước mà Đức Giê-hô-va đã lập với quý vị qua việc ban cho quý vị lời hứa cùng với mọi lời này.”
\s5
\v 9 Nói rồi, Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên lên núi.
\v 10 Họ nhìn thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có một mặt lát làm bằng đá sa-phia, trong suốt như trời xanh.
\v 11 Đức Chúa Trời không giận dữ ra tay trên các lãnh đạo người Y-sơ-ra-ên. Họ thấy Đức Chúa Trời, và họ ăn uống tại đó.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy lên núi gặp Ta và ở lại đó. Ta sẽ ban cho ngươi các bảng đá và luật pháp cùng các điều răn mà Ta đã viết, đặng ngươi dạy lại cho dân sự. ”
\v 13 Vậy Môi-se cùng trợ lý mình là Giô-suê đi lên núi của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Môi-se nói với các trưởng lão: “Quý vị hãy ở lại đây và chờ chúng tôi trở về. A-rôn và Hu-rơ ở với quý vị. Nếu ai có tranh cãi gì, hãy để người gặp họ. ”
\v 15 Vậy Môi-se lên núi, mây bao phủ núi.
\s5
\v 16 Vinh quang của Đức Giê-hô-va ngự trên Núi Si-nai, và mây che phủ núi trong sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, Ngài gọi Môi-se từ bên trong đám mây.
\v 17 Vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra như lửa cháy trên đỉnh núi trước mắt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Môi-se bước vào trong đám mây và đi lên núi. Ông ở trên núi trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy nói dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta một của lễ, ai cảm thấy được thúc đẩy sẵn lòng dâng thì ngươi hãy nhận lấy.
\s5
\v 3 Đây là những của lễ ngươi phải nhận từ dân sự: vàng, bạc, đồng,
\v 4 sợi xanh, sợi tím, và đỏ tươi cùng vải lanh tốt; lông dê;
\v 5 da chiên nhuộm đỏ và da cá nước; gỗ keo;
\v 6 dầu để thắp đèn nơi thánh, hương liệu dùng làm dầu xức và hương thơm,
\v 7 mã não và những thứ đá ngọc khác để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực.
\s5
\v 8 Hãy nói họ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự giữa họ.
\v 9 Hãy dựng đền tạm và các vật dụng trong đó y như Ta sẽ chỉ ngươi.
\s5
\v 10 Họ sẽ làm một cái hòm bằng gỗ keo dài hai cu-bít rưỡi, rộng một cu-bít rưỡi, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 11 Dùng vàng ròng bọc bên ngoài và bên trong hòm, làm một đường viền bằng vàng.
\s5
\v 12 Đúc bốn khoen vàng và gắn vào bốn chân hòm, hai khoen bên này và hai khoen bên kia.
\v 13 Ngươi hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ keo và bọc vàng lại.
\v 14 Xỏ các cây đòn vào các khoen ở hai bên hòm để khiêng hòm.
\s5
\v 15 Cây đòn phải được xỏ cố định vào trong khoen; chớ rút ra.
\v 16 Ngươi hãy để trong hòm các bảng giao ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
\v 17 Hãy làm một nắp thi ân bằng vàng ròng, dài hai cu-bít rưỡi, và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 18 Làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng để ở hai đầu nắp.
\s5
\v 19 Một chê-ru-bim ở đầu bên này và một chê-ru-bim để ở đầu bên kia. Cả hai dính liền với nắp thi ân.
\v 20 Các chê-ru-bim có cánh giương lên và phủ nắp thi ân. Hai chê-ru-bim đối mặt nhau và hướng về giữa nắp thi ân.
\v 21 Hãy đậy nắp thi ân lên hòm, và đặt vào trong đó các bản giao ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.
\s5
\v 22 Ta sẽ gặp ngươi tại hòm. Ta sẽ nói chuyện với ngươi từ trên nắp thi ân. Từ giữa hai chê-ru-bim trên hòm giao ước, Ta truyền cho ngươi mọi mạng lệnh dành cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 23 Hãy đóng một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai cu-bít, rộng một cu-bít, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 24 Lấy vàng ròng bọc bàn và làm một cái viền xung quanh bàn.
\s5
\v 25 Làm một khung rộng một bàn tay và viền vàng quanh khung.
\v 26 Hãy làm bốn khoen vàng và gắn vào bốn góc ở bốn chân bàn.
\v 27 Gắn khoen vào khung để xỏ đòn khiêng.
\s5
\v 28 Hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ keo và bọc vàng.
\v 29 Ngươi hãy làm dĩa, muỗng, bình và chén dùng cho việc dâng của lễ quán. Những thứ này phải được làm bằng vàng ròng.
\v 30 Phải thường xuyên dâng bánh trần thiết trên bàn trước mặt Ta.
\s5
\v 31 Ngươi hãy làm một cây đèn bằng vàng ròng dát mỏng có đế và thân. Đài đèn, bầu và hoa phải dính vào thân đèn.
\v 32 nhánh tẻ ra hai bên ba nhánh bên này, và ba nhánh bên kia.
\s5
\v 33 Nhánh thứ nhất có ba đài đèn hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa, và ba đài đèn ở nhánh kia cũng có đài đèn hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa. Tất cả sáu nhánh tẻ ra hai bên cây đèn phải giống nhau.
\v 34 Ngay trên chân đèn, ở trụ giữa, có bốn đài hình hoa hạnh nhân, với bầu và cánh hoa.
\s5
\v 35 Dưới cặp nhánh thứ nhất có một cái bầu dính vào thân đèn, và dưới cặp nhánh thứ nhì cũng có một cái bầu dính vào thân đèn. Cặp nhánh thứ ba cũng có bầu tương tự và dính vào thân. Sáu nhánh tẻ ra từ cây đèn phải giống nhau.
\v 36 Các bầu và nhánh phải dính vào thân, tất cả làm bằng vàng ròng dát mỏng.
\s5
\v 37 Ngươi hãy làm chân đèn và bảy ngọn đèn, đặt lên cây đèn để thắp sáng.
\v 38 Kẹp và khay làm bằng vàng ròng.
\v 39 Hãy lấy một ta-lâng vàng ròng làm cây đèn và các phụ tùng của nó.
\v 40 Ngươi hãy làm y theo mẫu mà Ta chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Ngươi hãy làm một đền tạm với mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn và chỉ xanh dương, tím và đỏ sậm có trang trí hình chê-ru-bim. Thợ thủ công lành nghề sẽ làm công việc này.
\v 2 Mỗi màn dài hai mươi tám cu-bít, rộng bốn cu-bít. Tất cả các màn phải đồng kích thước.
\v 3 Nối năm tấm màn lại với nhau, và năm tấm màn kia cũng vậy.
\s5
\v 4 Làm các vòng bằng chỉ xanh dương dọc theo biên màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và làm tương tự như vậy dọc theo biên màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\v 5 Ngươi hãy làm năm mươi vòng trên tấm màn thứ nhất, và năm mươi vòng trên mép màn của bộ thứ nhì. Các vòng sẽ được đặt đối nhau.
\v 6 Ngươi hãy làm năm mươi cái móc bằng vàng và nối các tấm màn để tạo thành một miếng.
\s5
\v 7 Lấy lông dê làm mười một tấm màn để làm mái che đền tạm.
\v 8 Mỗi tấm dài ba mươi cu-bít, và rộng bốn cu-bít. Tất cả mười một tấm đều có đồng kích thước.
\v 9 Nối năm màn này với nhau, cũng nối sáu màn còn lại luôn. Gấp đôi tấm thứ sáu ở phía trước lều.
\s5
\v 10 Ngươi hãy làm năm mươi vòng ở đường biên của tấm màn cuối trong bộ thứ nhất, và năm mươi vòng ở đường biên của tấm màn cuối trong bộ thứ nhì.
\v 11 Làm năm mươi cái móc bằng đồng và gắn vào vòng. Sau đó kết tấm đậy mái lều lại thành một miếng.
\s5
\v 12 Nửa tấm còn lại, là phần dư từ các tấm màn của lều, sẽ được phủ ở phía sau đền tạm.
\v 13 Một cu-bít màn ở bên này, và một cu-bít màn ở bên kia đây là phần chiều dài của tấm màn dư được phủ dọc hai bên đền tạm.
\v 14 Hãy làm một tấm phủ đền tạm bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm bằng da mịn phủ bên trên.
\s5
\v 15 Hãy làm các tấm ván dựng đứng bằng gỗ keo cho đền tạm.
\v 16 Mỗi tấm ván dài mười cu-bít và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 17 Mỗi tấm có hai lỗ mộng để ghép lại. Tất cả tấm ván của đền tạm phải được làm y như vậy.
\v 18 Khi làm tấm ván cho đền tạm, hãy làm hai mươi tấm cho mặt phía nam.
\s5
\v 19 Làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván. Dưới tấm ván thứ nhất có hai đế làm bệ, và dưới mỗi tấm ván kia cũng có hai đế làm bệ.
\v 20 Ở mặt thứ nhì của đền tạm, về phía bắc, hãy làm hai mươi tấm ván
\v 21 và bốn mươi đế bạc. Dưới tấm ván thứ nhất phải có hai đế và cứ dưới mỗi tấm ván thì có hai đế.
\s5
\v 22 Ở phía sau đền tạm về hướng tây, hãy làm sáu tấm ván.
\v 23 Làm hai tấm ván cho các góc sau đền tạm.
\v 24 Các tấm ván này không dính vào đáy, nhưng được ghép ở phía trên bằng một cái khoen. Cả hai góc sau phải được làm giống như vậy.
\v 25 Hãy làm tám tấm ván có đế bạc. Tổng cộng là mười sáu đế, dưới tấm thứ nhất có hai đế, tấm thứ hai cũng có hai đế, mỗi tấm đều y như vậy.
\s5
\v 26 Hãy làm các thanh ngang bằng gỗ keo năm thanh cho các tấm ván ở bên này đền tạm,
\v 27 năm thanh ngang cho các tấm ván ở bên kia đền tạm, và năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía sau đền tạm về hướng tây.
\v 28 Thanh ngang giữa các tấm ván sẽ chạy dài từ đầu này đến đầu kia.
\s5
\v 29 Lấy vàng bọc các tấm ván. Làm các khoen vàng để giữ các thanh ngang, bọc các thanh này bằng vàng.
\v 30 Ngươi hãy lập đền tạm theo kiểu mẫu Ta chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\v 31 Làm một tấm màn bằng chỉ xanh dương, tím, đỏ thắm và bằng vải gai mịn, rồi giao cho một thợ thủ công lành nghề trang trí hình các chê-ru-bim lên đó.
\v 32 Treo tấm màn đó trên bốn cột gỗ keo được bọc vàng. Các trụ này có các móc vàng được đặt trên bốn đế bạc.
\v 33 Treo tấm màn vào các móc, rồi đem hòm giao ước vào đó. Tấm màn này sẽ phân chia nơi thánh và nơi chí thánh.
\s5
\v 34 Đậy nắp thi ân lên hòm giao ước, là hòm được đặt trong nơi chí thánh.
\v 35 Đặt cái bàn bên ngoài tấm màn. Đặt cây đèn đối diện bàn về phía nam của đền tạm. Phải để bàn ở phía bắc.
\s5
\v 36 Tại cửa lều, hãy làm một cái rèm bằng chỉ màu xanh dương, tím, đỏ thắm do thợ dệt dệt bằng vải gai mịn.
\v 37 Làm năm cái trụ bằng gỗ keo và bọc vàng để treo tấm rèm này. Các móc trên trụ phải làm bằng vàng, hãy làm năm đế đồng cho các trụ đó.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Hãy làm một bàn thờ bằng gỗ keo, dài năm cu-bít và rộng năm cu-bít. Bàn thờ có hình vuông và cao ba cu-bít.
\v 2 Ngươi hãy gắn thêm các vật hình sừng bò ở bốn góc bàn. Các sừng này sẽ liền với bàn thờ, hãy lấy đồng bọc các sừng ấy.
\s5
\v 3 Hãy làm các vật dụng cho bàn thờ: bình đựng tro, xẻng, chậu, nĩa, và khay. Tất cả vật dụng này phải được làm bằng đồng.
\v 4 Hãy làm một rá lưới bằng đồng cho bàn thờ. Làm bốn khoen đồng cho bốn góc rá lưới.
\s5
\v 5 Ngươi hãy đặt rá lưới bên dưới rìa bàn thờ, nằm ở giữa tính từ đáy lên trên.
\v 6 Dùng gỗ keo làm các đòn khiêng bàn thờ, sau đó bọc bằng đồng.
\s5
\v 7 Xỏ đòn khiêng vào khoen ở hai bên bàn thờ.
\v 8 Ngươi hãy làm bàn thờ rỗng bên trong, lấy ván đóng lại. Hãy làm bàn thờ theo như mẫu Ta đã chỉ cho ngươi trên núi.
\s5
\v 9 Ngươi hãy làm một sân nhỏ cho đền tạm. Về phía nam của sân nhỏ, hãy làm các tấm rèm bằng sợi gai mịn dài một trăm cu-bít.
\v 10 Các tấm rèm có hai mươi trụ với hai mươi đế đồng. Trên các trụ ấy cũng có các móc cũng như thanh ngang bằng bạc.
\s5
\v 11 Tương tự, ở mặt phía bắc sân, hãy làm các tấm rèm dài một trăm cu-bít với hai mươi trụ, hai mươi đế đồng, trên trụ có lỗ và các tay đòn bằng bạc.
\v 12 Dọc theo sân nhỏ ở phía tây, hãy làm một tấm màn dài năm mươi cu-bít, có mười trụ và mười đế.
\v 13 Sân nhỏ ở phía đông cũng dài năm mươi cu-bít.
\s5
\v 14 Hãy làm các tấm rèm dài năm mươi cu-bít ở lối ra vào, với ba trụ và ba đế.
\v 15 Cũng hãy làm các tấm rèm dài năm mươi cu-bít ở phía bên kia, với ba trụ và ba đế.
\v 16 Ngươi hãy làm một tấm màn dài hai mươi cu-bít ở cổng sân nhỏ. Màn được làm bằng vải lanh xanh dương, tím, và đỏ, do thợ thêu dệt bằng sợi gai mịn. Hãy làm bốn trụ với bốn đế cho tấm màn này.
\s5
\v 17 Tất cả các trụ của sân nhỏ phải có các thanh ngang bằng bạc, móc bạc, và đế đồng.
\v 18 Sân nhỏ phải dài một trăm cu-bít, rộng năm mươi cu-bít, và cao năm cu-bít, có các tấm rèm được dệt bằng vải gai mịn treo dọc theo sân trên các đế đồng.
\v 19 Tất cả vật dụng phải được dùng trong đền tạm, và tất cả mười cái cọc lều dành cho đền tạm và sân nhỏ phải được làm bằng đồng.
\s5
\v 20 Ngươi hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu ô-liu tinh khiết ép từ trái ô-liu đến làm dầu thắp đèn để đèn cháy luôn.
\v 21 Trong lều hội họp, bên ngoài tấm màn phía trước hòm giao ước, A-rôn và các con trai người phải giữ đèn cháy từ chiều đến sáng trước mặt Đức Giê-hô-va. Yêu cầu này sẽ là lễ nghi được giữ đời đời qua các thế hệ Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Từ trong dân Y-sơ-ra-ên, hãy gọi A-rôn anh ngươi và các con trai người Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 2 Hãy làm cho A-rôn, anh ngươi, những lễ phục thánh. Các lễ phục này sẽ làm cho người được kính trọng và rực rỡ.
\v 3 Hãy bảo những thợ giỏi có tài năng, là những người mà Ta đã ban cho thần trí của sự khôn ngoan, làm những bộ lễ phục của A-rôn để người làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 4 Bộ lễ phục mà họ phải làm là một bảng đeo ngực, một ê-phót, một áo choàng, một áo lễ dài, một khăn vấn đầu, và một khăn thắt lưng. Hãy bảo họ làm bộ lễ phục thánh này. Bộ lễ phục này sẽ dành cho A-rôn, anh trai ngươi, cùng các con trai người, họ sẽ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 5 Thợ thủ công phải dùng vải gai mịn với vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm.
\s5
\v 6 Hãy bảo họ làm ê-phót bằng vàng, có chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Đây phải là công việc của thợ thủ công lành nghề.
\v 7 Ê-phót phải có hai cầu vai gắn vào hai góc phía trên.
\v 8 Đai để cột ê-phót cũng phải được gia công tinh vi; đai được may dính vào ê-phót, vải dệt bằng sợi gai mịn, có chất liệu vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm.
\v 9 Ngươi hãy lấy hai viên bạch ngọc và khắc lên đó tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Sáu tên trên viên này, và sáu tên trên viên kia, theo thứ tự năm sinh của các con trai.
\v 11 Theo cách thợ chạm khắc trên đá, ngươi hãy khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên trên hai viên đá, giống như khắc ấn. Lắp các viên bạch ngọc vào khung vàng.
\v 12 Ngươi hãy gắn hai viên bạch ngọc lên hai cầu vai của ê-phót, chúng sẽ là những viên đá nhắc Đức Giê-hô-va về các con trai của Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ đeo tên của họ trên vai đến trước mặt Đức Giê-hô-va để tưởng nhớ họ.
\s5
\v 13 Ngươi hãy làm các khung vàng
\v 14 và hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng như dây thừng, rồi nó vào khung.
\s5
\v 15 Ngươi hãy bảo thợ khéo làm một bảng đeo ngực để đưa ra quyết định, có kiểu giống như ê-phót. Bảng này được làm bằng vàng, có chỉ màu xanh dương, tím, và đỏ thắm, và dệt bằng vải gai mịn.
\v 16 Bảng có hình vuông. Ngươi hãy gấp bảng đeo ngực làm đôi, dài một gang tay và rộng một gang tay.
\s5
\v 17 Hãy gắn vào bảng ấy bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất gồm ngọc mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc.
\v 18 Hàng thứ nhì gồm thanh ngọc, ngọc lam, và kim cương.
\v 19 Hàng thứ ba gồm ngọc hồng bửu, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\v 20 Hàng thứ tư gồm lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và ngọc thạch anh. Tất cả phải được lắp vào khung vàng.
\s5
\v 21 Ngươi hãy xếp các viên ngọc theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Hãy làm các dây chuyền trên bảng đeo ngực như dây thừng, có viền bằng vàng ròng.
\v 23 Hãy làm hai khoen bằng vàng và gắn vào hai mép bảng đeo ngực.
\v 24 Gắn hai dây chuyền vàng vào hai góc bảng đeo ngực.
\s5
\v 25 Gắn các đầu cuối của hai dây chuyền có viền vào hai khung. Sau đó lắp lên hai cầu vai ê-phót ở phía trước.
\v 26 Ngươi hãy làm hai khoen vàng, rồi gắn vào hai góc trong của bảng đeo ngực, về phía trong ê-phót.
\s5
\v 27 Làm thêm hai khoen vàng, kết chúng vào dưới hai cầu vai phía trước ê-phót, sát với đường biên trên đai thắt của ê-phót.
\v 28 Cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng vải xanh, để cố định trên băng chéo của ê-phót. Như vậy tấm che ngực sẽ không bị rơi khỏi ê-phót.
\s5
\v 29 Khi A-rôn bước vào nơi thánh, người phải đem theo tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên trên bảng đeo ngực dùng để đưa ra quyết định bên tim mình. Đây sẽ luôn là một sự gợi nhớ trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 30 Hãy đặt U-rim và Thum-mim trong bảng đeo ngực để biết quyết định của Ta. Các thẻ này phải nằm trong bảng đeo trên ngực A-rôn khi người ra mắt Đức Giê-hô-va, và A-rôn phải luôn đeo bảng đựng thẻ quyết định cho dân Y-sơ-ra-ên trên ngực mình trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Hãy làm áo dài cho ê-phót hoàn toàn bằng vải xanh.
\v 32 Áo phải có lỗ tròng đầu ở giữa. Lỗ này có viền được dệt để không bị rách. Thợ dệt phải làm công việc này.
\s5
\v 33 Trên đường viền phía dưới áo, ngươi hãy làm các quả lựu có chỉ màu xanh dương, màu tía, và đỏ thắm để kết xung quanh. Gắn các chuông vàng xen kẽ các quả lựu.
\v 34 Cứ một chuông vàng thì có một quả lựu, một chuông vàng thì có một quả lựu cứ tiếp tục như vậy xung quanh lai áo dài.
\v 35 A-rôn phải mặc áo này khi hành lễ, để người ta có thể nghe tiếng chuông khi người vào nơi thánh trước mặt Đức Giê-hô-va và khi người rời khỏi. Như vậy người sẽ không bị chết.
\s5
\v 36 Ngươi hãy làm một cái thẻ bằng vàng ròng và khắc lên đó, như khắc ấn, là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 37 Dùng dây màu xanh dương buộc thẻ này vào khăn vấn đầu.
\v 38 Thẻ này sẽ ở trên trán A-rôn; người sẽ luôn mang lấy bất cứ tội lỗi nào liên quan đến việc dâng các của lễ thánh mà dân Y-sơ-ra-ên biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ luôn đeo thẻ trên trán để Đức Giê-hô-va chấp nhận các của dâng đó.
\s5
\v 39 Hãy làm áo lót bằng vải gai mịn, một khăn vấn đầu bằng vải gai mịn. Cũng hãy bảo thợ thuê làm một cái khăn thắt lưng.
\s5
\v 40 Ngươi hãy làm áo lót, thắt lưng, và băng quấn đầu cho các con trai của A-rôn để họ được kính trọng và uy nghi.
\v 41 Hãy mặc cho A-rôn anh ngươi, và các con trai của người. Hãy xức dầu cho họ, phong chức, và biệt riêng họ cho Ta, để họ thi hành chức tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 42 Hãy làm cho họ những đồ lót bằng vải lanh để che thân họ từ thắt lưng đến bắp đùi.
\v 43 A-rôn và các con trai người phải mặc những thứ này khi vào lều hội họp hoặc khi đến gần bàn thờ để phục vụ trong nơi thánh. Họ phải mặc vậy đặng không mắc tội chết. Đây sẽ là luật đời đời dành cho A-rôn và hậu duệ của người.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Sau đây là những việc ngươi phải làm để biệt riêng họ cho Ta đặng họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 2 Hãy lấy một con bò đực tơ và hai con chiên đực hoàn hảo, hai bánh mì không men, và bánh ngọt không men trộn với dầu. Cũng hãy lấy bánh quế không men có phết dầu. Dùng bột lúa mì nguyên chất làm các bánh quế đó.
\s5
\v 3 Để chúng vào một rổ, đem rổ bánh đó đến dâng cùng với con bò đực và hai con chiên đực.
\v 4 Ngươi hãy dẫn A-rôn và các con trai người đến cửa lều hội họp. Lấy nước thanh tẩy A-rôn và các con trai người.
\s5
\v 5 Lấy bộ lễ phục và mặc cho A-rôn gồm áo dài, áo choàng ê-phót, ê-phót, và bảng đeo ngực, lấy đai của ê-phót đã được khéo léo thêu đan thắt cho người.
\v 6 Đội khăn vấn đầu cho người và đặt mão thánh trên khăn ấy.
\v 7 Lấy dầu xức và đổ lên đầu người để xức dầu cho người.
\s5
\v 8 Hãy đem các con trai người đến và mặc áo dài cho họ.
\v 9 Lấy khăn thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người rồi đội mũ cho họ. Họ sẽ thi hành chức tế lễ theo luật đời đời. Như vậy, ngươi hãy thánh hiến A-rôn và các con trai người cho Ta để phục vụ Ta.
\s5
\v 10 Tất cả các ngươi hãy đem con bò đực đến trước lều hội họp, rồi A-rôn và các con trai người phải đặt tay trên đầu nó.
\v 11 Hãy giết con bò trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, ở cửa lều hội họp.
\s5
\v 12 Lấy một chút huyết của con bò đực và dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ, rồi đổ phần huyết còn lại xuống chân bàn thờ.
\v 13 Lấy tất cả lớp mỡ bọc bộ lòng, cũng lấy lớp mỡ dính với lá gan và hai quả thận, đem thiêu tất cả trên bàn thờ.
\v 14 Nhưng phần thịt của con bò đực, cũng như da và phân của nó, hãy thiêu bên ngoài hội trại. Đó sẽ là của lễ chuộc tội.
\s5
\v 15 Cũng hãy lấy một con chiên đực, A-rôn và các con trai người phải đặt tay trên đầu nó.
\v 16 Giết con chiên đực đó. Lấy huyết con chiên và rải xung quanh bàn thờ và trên bàn thờ.
\v 17 Chặt con chiên đực thành từng miếng, rửa bộ lòng và chân nó, sau đó đặt bộ lòng, cùng với các miếng thịt và đầu con chiên
\v 18 lên bàn thờ. Thiêu toàn bộ con chiên. Đó sẽ là của lễ thiêu dâng lên Ta, là Đức Giê-hô-va. Của lễ này sẽ tỏa ra một mùi thơm cho Ta; đó sẽ là của lễ thiêu dâng cho Ta.
\s5
\v 19 Sau đó ngươi hãy lấy một con chiên đực khác, A-rôn và các con trai người phải đặt tay lên đầu nó.
\v 20 Giết con chiên và lấy một ít huyết của nó. Bôi huyết lên vành tai phải của A-rôn, và vành tai phải của các con trai người, bôi lên ngón cái của tay phải họ, và ngón chân cái trên chân phải của họ. Ngươi hãy rưới huyết xung quanh bàn thờ.
\s5
\v 21 Lấy một ít huyết trên bàn thờ và một chút dầu xức, rưới lên A-rôn và áo quần người, cũng như các con trai người và áo quần của họ.
\s5
\v 22 Lấy phần mỡ của con chiên đực, mỡ đuôi, lớp mỡ che bộ lòng, lớp mỡ của gan và hai quả thận và bắp vế phải vì con chiên đực này được dâng cho Ta trong lễ tấn phong các thầy tế lễ.
\v 23 Lấy một ổ bánh mì, một bánh ngọt pha dầu, và bánh xốp ra khỏi giỏ bánh mình không men để trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Đặt những thứ này trong tay A-rôn và tay của các con trai người.
\v 25 Sau đó lấy thức ăn từ tay họ và thiêu trên bàn thờ với của lễ thiêu. Của lễ sẽ tỏa ra một hương thơm cho Ta; đây sẽ là của lễ thiêu dâng lên Ta.
\s5
\v 26 Hãy lấy cái ức con chiên đực dùng cho lễ tấn phong của A-rôn và giơ lên cao, đó là của lễ dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va. Rồi phần đó sẽ thuộc về ngươi.
\v 27 Hãy biệt riêng ra thánh cái ức được giơ cao và bắp đùi của phần của lễ được trình dâng cái ức được giơ cao và bắp đùi được trình dâng của con chiên đực, được dành riêng cho A-rôn và các con trai người.
\v 28 Các phần thịt do người Y-sơ-ra-ên dâng phải luôn được chia cho A-rôn và con cháu người. Theo các quy định của lễ thù ân, đây sẽ là những phần dành cho các thầy tế lễ từ các của lễ do dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 29 Bộ lễ phục thánh của A-rôn cũng phải được truyền lại cho các con trai nối sau người. Họ sẽ được xức dầu và phong chức khi mặc lễ phục đó.
\v 30 Thầy tế lễ nối nghiệp kế vị người trong số các con trai người, khi vào lều hội họp để phục vụ Ta trong nơi thánh, phải mặc lễ phục đó trong bảy ngày.
\s5
\v 31 Hãy lấy thịt con chiên đực trong lễ tấn phong thầy tế lễ cho Ta và nấu thịt ấy trong nơi thánh.
\v 32 A-rôn và các con trai người phải ăn thịt chiên đực và bánh trong giỏ đặt tại cửa lều hội họp.
\v 33 Họ phải ăn thịt và bánh mì được dâng để chuộc lỗi cho họ và phong chức cho họ, biệt riêng cho Ta. Không ai khác được ăn món đó, vì đó là phần được biệt riêng ra thánh và dành riêng cho Ta.
\v 34 Nếu còn sót lại phần thịt nào trong của lễ phong chức, hoặc phần bánh mì, thì đến sáng hôm sau, ngươi hãy đem thiêu đi. Không ai được ăn món đó vì nó đã được dành riêng cho Ta.
\s5
\v 35 Như vậy, bởi làm theo mọi điều Ta đã phán truyền ngươi làm, ngươi hãy làm lễ cho A-rôn và các con trai người. Hãy dành bảy ngày để biệt riêng họ cho Ta.
\v 36 Mỗi ngày ngươi hãy dâng một con bò đực làm của lễ chuộc tội. Hãy làm sạch bàn thờ bằng của lễ chuộc tội, và xức dầu trên bàn thờ để biệt riêng cho Ta.
\v 37 Trong bảy ngày, ngươi hãy làm lễ chuộc tội cho bàn thờ và biệt riêng nó cho Đức Giê-hô-va. Sau đó, bàn thờ sẽ hoàn toàn nên thánh. Bất cứ thứ gì chạm vào bàn thờ sẽ được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 38 Hàng ngày hãy thường xuyên dâng trên bàn thờ hai con chiên một tuổi.
\v 39 Ngươi hãy dâng một con chiên vào buổi sáng, và một con chiên vào lúc hoàng hôn.
\s5
\v 40 Với con chiên thứ nhất, hãy dâng một phần mười ê-pha bột thượng hạng trộn với một phần tư hin dầu từ quả ô-liu ép, và một phần tư hin rượu làm lễ quán.
\s5
\v 41 Hãy dâng con chiên thứ nhì vào lúc hoàng hôn. Ngươi hãy dâng của lễ chay và của lễ quán tương tự vào buổi sáng. Các của lễ này sẽ tỏa ra một mùi hương thơm lên Ta; đó sẽ là của lễ thiêu dâng cho Ta.
\v 42 Đây phải là những của lễ thiêu thường xuyên được dâng từ thế hệ này qua thế hệ kia.
\s5
\v 43 Hãy dâng của lễ thiêu ở lối vào lều hội họp trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, Ta sẽ gặp ngươi và phán cùng ngươi tại đó.
\v 44 Ta sẽ biệt riêng lều hội họp và bàn thờ vì đây là những thứ thuộc về Ta. Ta cũng sẽ biệt riêng A-rôn và các con trai người để làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\s5
\v 45 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ.
\v 46 Họ sẽ biết Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai Cập đặng Ta ngự ở giữa họ. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của họ.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Ngươi hãy làm một bàn thờ làm bằng gỗ keo để dâng hương.
\v 2 Bàn thờ dài một cu-bít, rộng một cu-bít, theo hình vuông, cao hai cu-bít. Ngươi phải gắn các sừng lên bàn thờ ấy.
\s5
\v 3 Dùng vàng ròng bọc bàn thờ xông hương ở trên mặt bàn, các cạnh, và các sừng. Ngươi hãy làm một đường viền bằng vàng cho bàn thờ.
\v 4 Ngươi hãy làm hai khoen vàng gắn vào dưới đường viền ở hai bên. Các khoen này dùng để xỏ đòn khiêng bàn thờ.
\s5
\v 5 Ngươi hãy lấy gỗ keo làm các cây đòn, sau đó bọc bằng vàng.
\v 6 Hãy đặt bàn thờ xông hương ở trước tấm màn che hòm giao ước, nghĩa là trước nắp thi ân đậy hòm giao ước, là nơi Ta sẽ gặp ngươi.
\s5
\v 7 Mỗi buổi sáng, A-rôn phải xông hương thơm. Người phải xông hương khi trông nom các cây đèn.
\v 8 Buổi chiều, khi A-rôn thắp đèn, người cũng phải dâng hương trên bàn thờ xông hương. Đây phải là nghi thức dâng hương thường xuyên trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va, qua suốt các thế hệ của dân ngươi.
\v 9 Nhưng ngươi chớ dâng thứ hương nào khác trên bàn thờ xông hương, hoặc bất cứ của lễ thiêu hay của lễ chay trên đó. Chớ rưới của lễ quán lên bàn thờ ấy.
\s5
\v 10 Mỗi năm một lần, A-rôn phải làm nghi thức chuộc tội trên các sừng của bàn thờ xông hương. Người sẽ làm nghi thức này bằng cách dùng huyết của của lễ chuộc tội. Thầy tế lễ thượng phẩm sẽ làm nghi thức này trải qua khắp các đời của dân ngươi. Của lễ này sẽ hoàn toàn được biệt riêng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 12 “Khi ngươi điều tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi người phải đóng cho Đức Giê-hô-va một món tiền chuộc mạng. Hãy làm việc này sau khi đã thống kê dân số, đặng sẽ không có tai họa nào trên họ khi ngươi thống kê.
\v 13 Ai có tên trong phần điều tra dân số sẽ đóng một nửa se-ken bạc, theo trọng lượng se-ken của nơi thánh (một se-ken bằng hai mươi ghê-ra). Nửa se-ken này sẽ là của dâng cho Ta, là Đức Giê-hô-va.
\v 14 Ai từ hai mươi tuổi trở lên được vào sổ thống kê thì phải dâng của lễ này cho Ta.
\s5
\v 15 Khi dân sự dâng của lễ này cho Ta để chuộc mạng, thì người giàu không được dâng quá phân nửa se-ken, và người nghèo chớ dâng ít hơn.
\v 16 Hãy nhận số tiền chuộc này từ dân Y-sơ-ra-ên và hãy phân bổ món tiền ấy cho việc phục vụ trong lều hội họp. Đây sẽ là một dấu nhắc cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Ta, đặng các ngươi chuộc mạng mình.”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 18 “Ngươi cũng hãy làm một cái chậu đồng lớn có đế bằng đồng, dùng vào việc tẩy rửa. Hãy đặt cái chậu ấy ở giữ lều hội họp và bàn thờ, hãy đổ nước vào chậu.
\s5
\v 19 A-rôn và các con trai người phải dùng nước đó mà rửa tay chân mình.
\v 20 Khi họ đi vào trong lều hội họp hoặc khi đến gần bàn thờ để thiêu của lễ phục vụ Ta, họ phải rửa tay bằng nước để không chết.
\v 21 Họ phải rửa tay chân để không chết. Đây phải là luật cố định cho A-rôn và con cháu người trong suốt các thế hệ của họ.”
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 23 “Hãy lấy những hương liệu thượng hạng này: 500 se-ken một dược lỏng, 250 se-ken hương nhục quế, 250 se-ken hương quế thanh,
\v 24 500 se-ken quế bì, cân theo trọng lượng se-ken của nơi thánh, và 1 hin dầu ô-liu.
\v 25 Hãy giao cho thợ làm nước hoa dùng các thành phần này để làm dầu xức thánh. Đây sẽ là dầu xức thánh dành riêng cho Ta.
\s5
\v 26 Ngươi hãy dùng dầu này xức lều hội họp, cũng như hòm giao ước,
\v 27 cái bàn và tất cả đồ dùng của nó, chân đèn và các dụng cụ đi kèm, bàn thờ xông hương,
\v 28 bàn thờ dâng của lễ thiêu cùng các thiết bị kèm theo, và cái chậu với đế chậu.
\s5
\v 29 Ngươi hãy biệt riêng chúng cho Ta để chúng hoàn toàn được dành riêng cho Ta. Bất cứ thứ gì chạm vào chúng cũng sẽ được dành riêng cho Ta.
\v 30 Ngươi hãy xức dầu cho A-rôn và các con trai người và biệt riêng họ cho Ta để họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 31 Ngươi hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Đây sẽ là dầu xức được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va trải qua khắp các thế hệ của quý vị.
\s5
\v 32 Không dùng dầu này để xức lên da, cũng không dùng công thức của dầu này để làm bất kỳ dầu nào khác vì nó được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Quý vị phải xem đó là dầu thánh.
\v 33 Ai chế biến dầu thơm giống như thế, hoặc ai xức dầu ấy lên người khác, thì người đó sẽ bị loại trừ khỏi dân sự. ’”
\s5
\v 34 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy lấy những hương vị - gồm tô hộp hương, hoa yểm hương, và phong tử hương là những hương thơm cùng với nhũ hương nguyên chất, mỗi thứ có lượng như nhau.
\v 35 Hãy làm một thứ hương, trộn với dầu thơm, thêm muối vào, để đó sẽ là một thứ hương nguyên chất dâng cho Ta.
\v 36 Hãy tán hương liệu ấy thành hỗn hợp mịn. Đặt một ít ở phía trước hòm giao ước, trong lều hội họp, là nơi Ta sẽ gặp ngươi. Ngươi hãy biệt riêng thứ hương ấy cho Ta.
\s5
\v 37 Đối với thứ hương này mà ngươi làm, chớ làm cho mình bất cứ hương nào khác bằng công thức này. Đấy phải là thứ hương thánh nhất đối với ngươi.
\v 38 Ai làm thứ hương nào giống vậy để dùng làm dầu thơm sẽ bị khai trừ khỏi dân sự.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy xem, Ta đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con của U-ri, cháu của Hu-rơ, từ chi phái Giu-đa.
\s5
\v 3 Ta đã đổ đầy Thần Ta trên Bết-sa-lê-ên, đặng ban cho người sự khôn ngoan, hiểu biết, và kiến thức, về sự thạo nghề,
\v 4 đặng thiết kế những tác phẩm nghệ thuật và chế tác bằng vàng, bạc, và đồng;
\v 5 ngoài ra cũng cắt và mài đá và khảm vào gỗ - làm đủ mọi việc đòi hỏi thạo nghề.
\s5
\v 6 Bên cạnh người, Ta đã chỉ định Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc chi phái Đan. Ta đã ban sự khéo léo cho những ai khôn ngoan đặng họ có thể chế tạo tất cả mọi thứ Ta đã truyền cho ngươi. Việc này bao gồm
\v 7 lều hội họp, hòm giao ước, nắp thi ân đậy hòm, và mọi đồ đạc trong lều
\v 8 bàn và dụng cụ của bàn, cây đèn bằng vàng ròng và mọi phụ tùng của đèn, bàn thờ xông hương,
\v 9 bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi phụ tùng của nó, và cái chậu lớn có đế.
\s5
\v 10 Việc này cũng bao gồm y phục được dệt tinh xảo bộ y phục thánh dành cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người, được biệt riêng cho Ta để họ mặc khi làm thầy tế lễ phục vụ Ta.
\v 11 Việc này cũng bao gồm dầu xức và hương thơm dành cho nơi thánh. Các thợ nghề phải làm tất cả những thứ y như Ta đã truyền cho ngươi.”
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 13 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: Quý vị chắc chắn phải giữ ngày Sa-bát của Đức Giê-hô-va, vì đây sẽ là dấu hiệu giữa Ngài và quý vị trải qua khắp các đời con cháu quý vị đặng quý vị biết rằng Ngài là Đức Giê-hô-va, Đấng biệt riêng quý vị cho Ngài.
\v 14 Vậy hãy giữ ngày Sa-bát và làm nên ngày thánh, là ngày dành cho Ngài. Ai làm ô uế ngày đó sẽ bị xử tử. Ai làm việc trong ngày Sa-bát chắc chắn sẽ bị loại khỏi dân mình.
\v 15 Hãy làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi hoàn toàn, là ngày thánh, được dành riêng để tôn kính Đức Giê-hô-va. Ai làm bất cứ việc gì vào ngày Sa-bát chắc chắn sẽ bị xử tử.
\s5
\v 16 Vậy người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát. Họ phải giữ ngày này qua các thế hệ mình vì đây là luật cố định.
\v 17 Ngày Sa-bát sẽ luôn là một dấu hiệu giữ Đức Giê-hô-va và dân Y-sơ-ra-ên, vì trong sáu ngày Đức Giê-hô-va đã dựng nên trời và đất, và Ngài nghỉ ngơi và ngừng việc vào ngày thứ bảy. ’”
\s5
\v 18 Khi Đức Chúa Trời đã nói chuyện xong với Môi-se trên Núi Si-nai, Ngài ban cho ông hai bảng giao ước, làm bằng đá, do chính tay Ngài viết.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Khi dân sự thấy đã lâu rồi mà Môi-se chưa xuống núi, họ tụ họp quanh A-rôn và nói rằng: “Nào, ông hãy làm cho chúng tôi một thần tượng đặng dẫn đầu chúng tôi. Vì Môi-se, là người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập, chúng tôi không biết ông ấy đã gặp chuyện gì. ”
\v 2 Vậy A-rôn trả lời họ: “Hãy tháo bông tai vàng của vợ, con trai, con gái quý vị, rồi đưa tôi.”
\s5
\v 3 Hết thảy dân sự đều tháo bông tai vàng và đem đưa A-rôn.
\v 4 Ông nhận vàng từ họ, dùng một cái khuôn tạo hình, và đúc thành một con bò. Sau đó, dân sự nói: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là thần của quý vị, đã đem quý vị ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 5 Khi A-rôn thấy vậy, ông dựng một bàn thờ trước tượng con bò rồi tuyên bố; ông nói: “Ngày mai là lễ tôn kính Đức Giê-hô-va. ”
\v 6 Hôm sau, dân sự dậy sớm, dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Họ ngồi ăn uống, rồi đứng dậy chè chén trụy lạc.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy đi ngay, vì dân ngươi, là dân mà ngươi đã đem ra khỏi đất Ai Cập, đã trở nên thối nát.
\v 8 Chúng đã vội bỏ đường lối Ta đã truyền dạy. Chúng đúc cho mình một con bò rồi thờ cúng nó. Chúng nói, Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là thần của ngươi, đấng đã dẫn ngươi ra khỏi Ai Cập. ’”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta đã thấy dân này. Kìa, chúng là một dân bướng bỉnh.
\v 10 Vậy bây giờ, đừng ngăn cản Ta. Cơn giận Ta sẽ bừng lên nghịch chúng, Ta sẽ tiêu diệt chúng. Rồi Ta sẽ làm một dân lớn ra từ ngươi. ”
\v 11 Nhưng Môi-se cố van nài Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Ông nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, sao Ngài giận dân của Ngài, là dân mà Ngài đã đem ra khỏi Ai Cập bằng quyền năng lớn lao và tay hùng mạnh?
\s5
\v 12 Tại sao để người Ai Cập nói, Ngài dẫn chúng ra khỏi xứ vì mục đích xấu, ấy là đặng giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi giận và động lòng thương không trừng phạt dân của Ngài.
\v 13 Xin Chúa nhớ lại Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, các tôi tớ Ngài, là người mà chính Ngài đã thề và phán rằng, Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như sao trên trời, và Ta sẽ ban cho con cháu ngươi xứ mà Ta đã nói. Chúng sẽ hưởng xứ đó đời đời. ’”
\v 14 Vậy Đức Giê-hô-va bỏ qua sự trừng trị mà Ngài nói là sẽ giáng trên dân Ngài.
\s5
\v 15 Môi-se xuống núi, trở về gặp dân sự, trong tay cầm hai bảng giao ước. Các bảng ấy được viết trên cả hai mặt, mặt trước và mặt sau.
\v 16 Hai bảng này là do Đức Chúa Trời làm, và chính Đức Chúa Trời viết, khắc chữ trên đó.
\s5
\v 17 Khi Giô-suê nghe tiếng huyên náo của dân sự, ông nói với Môi-se: “Có tiếng đánh nhau ở trong trại. ”
\v 18 Nhưng Môi-se trả lời: “Đấy không phải là tiếng thắng trận đâu, và cũng không phải là tiếng bại trận, nhưng đó là tiếng hát.”
\s5
\v 19 Khi đến gần trại, ông thấy con bò và dân sự đang nhảy múa. Ông nổi giận và ném bai bảng đá đến nỗi vỡ ra dưới chân núi.
\v 20 Ông lấy con bò mà dân sự đã đúc, đốt nó, và nghiền nát thành bột, rồi bỏ vào nước. Ông bắt dân Y-sơ-ra-ên uống nước đó.
\s5
\v 21 Môi-se hỏi A-rôn: “Dân này đã làm gì cho anh đến nỗi anh khiến họ phạm tội nặng vậy? ”
\v 22 A-rôn trả lời: “Xin chủ đừng nổi giận. Chủ biết dân này, họ luôn có xu hướng làm ác.
\v 23 Họ bảo tôi, ông hãy làm cho chúng tôi một thần tượng đặng dẫn đầu chúng tôi. Vì Môi-se, là người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập, chúng tôi không biết ông ấy đã gặp chuyện gì.
\v 24 Do đó, tôi bảo họ, Ai có vàng thì hãy tháo ra. Họ đưa vàng cho tôi và tôi bỏ vào lửa, rồi đúc nên con bò này.”
\s5
\v 25 Môi-se thấy dân sự buông thả, vì A-rôn đã để họ sống phóng túng, khiến họ thành trò cười cho kẻ thù.
\v 26 Môi-se đứng ở lối cửa trại và nói: “Ai đứng về phía Đức Giê-hô-va, hãy đến gặp tôi. ” Tất cả người Lê-vi đến tụ họp quanh ông.
\v 27 Ông nói cùng họ: “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Mỗi người hãy tra gươm vào hông mình, đi tới đi lui từ cửa lều này qua cửa lều kia trong trại, rồi giết anh em, bạn hữu, và láng giềng mình. ’”
\s5
\v 28 Người Lê-vi làm theo y như lời Môi-se ra lệnh. Hôm đó, khoảng ba ngàn người bị giết.
\v 29 Môi-se nói nói với Lê-vi: “Ngày nay quý vị đã được biệt riêng để phục vụ Đức Giê-hô-va, vì mỗi người trong quý vị đã ra tay trên anh em mình, do đó hôm nay Đức Giê-hô-va đã ban phước cho quý vị.”
\s5
\v 30 Hôm sau, Môi-se nói cùng dân sự: “Quý vị đã phạm một tội trọng. Bây giờ tôi sẽ đi lên gặp Đức Giê-hô-va. Có lẽ tôi có thể chuộc tội cho quý vị. ”
\v 31 Môi-se trở lại gặp Đức Giê-hô-va và thưa: “Ôi, dân này đã phạm tội lớn và dựng cho mình một tượng bằng vàng.
\v 32 Nhưng bây giờ, xin Chúa tha tội cho họ; còn nếu không, xin Ngài xóa tên con khỏi sách Ngài đã viết.”
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Ai phạm tội đối cùng Ta, Ta sẽ xóa tên người đó khỏi sách Ta.
\v 34 Vậy bây giờ hãy lên đường, hãy dẫn dân sự đến nơi mà Ta đã phán cùng ngươi. Này, thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi. Nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ phạt tội chúng nó.
\v 35 Vậy Đức Giê-hô-va giáng bệnh dịch trên dân sự vì họ đã làm tượng con bò, là thứ mà A-rôn đã đúc.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ngươi và dân ngươi đã đem ra khỏi xứ Ai Cập hãy rời khỏi đây. Hãy đến xứ mà Ta đã thề với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, khi Ta phán, Ta sẽ ban xứ đó cho con cháu ngươi.
\v 2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi, và Ta sẽ đuổi dân Ca-na-an, A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít.
\v 3 Hãy đến xứ đó, là xứ đượm sữa và mật, nhưng Ta sẽ không đi cùng các ngươi, vì các ngươi là một dân cứng cổ. Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường.”
\s5
\v 4 Khi dân sự nghe tin phiền muộn này, họ than khóc, và không ai đeo trang sức nào cả.
\v 5 Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se: “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, Các ngươi là một dân cứng cổ. Nếu Ta mà đi với các ngươi, Ta sẽ tiêu diệt các ngươi. Vậy bây giờ, hãy tháo trang sức ra để Ta xem nên làm gì với các ngươi. ’”
\v 6 Vậy dân Y-sơ-ra-ên không đeo trang sức nào từ Núi Hô-rếp trở đi.
\s5
\v 7 Môi-se lấy một cái lều và dựng bên ngoài cách xa trại. Ông gọi đó là lều hội họp.
\v 8 Khi Môi-se đi ra lều, toàn dân sẽ đứng ở cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào lều.
\v 9 Hễ khi nào Môi-se vào lều, trụ mây hạ xuống và dừng ngay cửa lều, và Đức Giê-hô-va sẽ phán cùng Môi-se.
\s5
\v 10 Hễ khi nào dân sự thấy trụ mây ở cửa lều, ai nấy đều đứng dậy và thờ lạy, mỗi người thờ lạy ngay cửa lều mình.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán trực tiếp cùng Môi-se, như một người nói chuyện với bạn hữu. Sau đó, Môi-se trở về trại, nhưng tôi tớ trẻ tuổi của ông là Giô-suê, con trai của Nun, thì ở lại trong lều.
\s5
\v 12 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va: “Thưa Chúa, Ngài đã phán cùng con là, Hãy dẫn dân này đi, nhưng Chúa chưa cho biết rằng Ngài sẽ sai ai đi với con. Ngài có phán, Ta biết tên ngươi, và ngươi cũng đã được ơn trước mặt Ta.
\v 13 Bây giờ, nếu con được ơn trước mặt Ngài, xin chỉ cho con đường lối của Ngài để con biết Ngài và luôn được ơn trước mặt Ngài. Xin Chúa nhớ rằng dân này là dân của Ngài.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va trả lời: “Ta sẽ đi cùng ngươi, Ta sẽ cho ngươi nghỉ ngơi. ”
\v 15 Môi-se thưa với Chúa: “Nếu Ngài không đi với chúng con, xin đừng đưa chúng con ra khỏi đây.
\v 16 Vì nếu không, thì làm thế nào mà con biết rằng con được ơn trước mặt Ngài, cả con và dân sự của Ngài? Há không phải chỉ là nếu Ngài đi cùng chúng con đặng con và dân sự Ngài trở nên khác biệt giữa những dân sống trên đất này sao?”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Ta sẽ làm điều ngươi đã cầu xin, vì ngươi được ơn trước mặt Ta, và Ta biết tên ngươi. ”
\v 18 Môi-se đáp: “Xin cho con thấy sự vinh quang Ngài.”
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ thể hiện tất cả sự tốt lành của Ta trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Giê-hô-va trước mặt ngươi. Ta sẽ nhân từ với ai mà Ta muốn nhân từ, và Ta sẽ thương xót với ai mà Ta muốn thương xót. ”
\v 20 Nhưng Đức Giê-hô-va phán: “Ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không ai có thể thấy Ta mà còn sống.”
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va lại phán: “Này, đây là một chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá này.
\v 22 Khi sự vinh quang của Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi trong một khe đá và lấy tay Ta che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua.
\v 23 Sau đó, Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ thấy sau lưng Ta, nhưng ngươi sẽ không thấy mặt Ta.”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy đục hai bảng đá như hai bảng trước. Ta sẽ viết trên đó những lời được ghi trên các bảng trước mà ngươi đã đập bể.
\v 2 Hãy dậy sớm và sửa soạn lên Núi Si-nai, rồi ra mắt Ta trên đỉnh núi.
\s5
\v 3 Không ai được lên núi cùng ngươi. Chớ để Ta thấy ai ở nơi nào trên núi. Ngay cả các bầy gia súc cũng không được đi đến trước núi. ”
\v 4 Vậy Môi-se đục hai bảng đá như các bảng thứ nhất, rồi sáng hôm sau ông dậy sớm lên Núi Si-nai, như Đức Giê-hô-va đã truyền. Môi-se đem theo các bảng đá.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va ngự xuống núi trong đám mây và ở lại đó với Môi-se, và xưng danh “Giê-hô-va”.
\v 6 Đức Giê-hô-va đi ngang qua trước mặt ông và tuyên bố: “Giê-hô-va, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời là Đấng nhân từ và rộng lượng, chậm giận, và đầy thành tín theo giao ước và chân thật,
\v 7 Đấng giữ thành tín trong lời giao ước đến ngàn đời, tha thứ sự gian ác, vi phạm, và tội lỗi. Nhưng Ngài không kể kẻ có tội là vô tội. Ngài sẽ đoán phạt tội lỗi của cha mẹ trên con cái và tội lỗi của con cái trên con cháu, đến đời thứ ba và thứ tư.”
\s5
\v 8 Môi-se vội cúi đầu xuống đất và thờ lạy.
\v 9 Ông thưa rằng: “Nếu bây giờ con được ơn trước mặt Ngài, thưa Chúa, xin Chúa đi cùng chúng con, vì dân này cứng cổ. Xin Chúa tha thứ sự gian ác và tội lỗi của chúng con, và xem chúng con là cơ nghiệp Ngài.”
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán: “Kìa, Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt dân sự ngươi, Ta sẽ làm nhiều dấu kỳ chẳng hạn như những việc chưa từng xảy ra trên đất hay ở bất cứ nước nào. Toàn dân xung quanh ngươi sẽ thấy những việc lành của Ta, vì đó là một việc đáng sợ mà Ta sẽ làm cho ngươi.
\v 11 Hãy vâng lời phán của Ta hôm nay. Ta sắp đuổi dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, chỗ Phê-ri-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít khuất mắt ngươi.
\s5
\v 12 Hãy giữ mình, đừng kết ước với dân trong xứ mà ngươi sẽ đến, nếu không thì chúng sẽ trở thành cái bẫy cho các ngươi.
\v 13 Trái lại, phải phá đổ bàn thờ của chúng, nghiền nát các trụ đá cúng tế của chúng, và đốn hạ các cột thờ thần A-suê-ra của chúng.
\v 14 Ngươi không được thờ thần nào khác, vì Ta, là Đức Giê-hô-va, danh Ngài là Đấng ghen tỵ, và là Đức Chúa Trời kỵ tà.
\s5
\v 15 Hãy cẩn thận đừng kết ước với dân nào trong xứ, vì chúng làm điếm với các thần khác và cúng tế các thần đó, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn các của cúng đó.
\v 16 Các ngươi thậm chí đem con trai con gái mình làm điếm cho các thần của chúng, và chúng xui con trai các ngươi đàng điếm với các thần của chúng.
\v 17 Đừng nắn cho chính mình bất cứ thần nào nấu bằng kim loại.
\s5
\v 18 Hãy giữ lễ bánh không men. Như Ta đã truyền, các ngươi hãy ăn bánh không men trong bảy ngày theo thời điểm đã định trong tháng A-bíp, vì ngươi đã ra khỏi Ai Cập trong tháng A-bíp.
\s5
\v 19 Tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta, kể cả con đầu lòng của bầy bò và chiên.
\v 20 Ngươi phải lấy một chiên con để chuộc lại con lừa đầu lòng, nhưng nếu không chuộc lại, hãy bẻ cổ nó.
\s5
\v 21 Hãy làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ. Ngươi phải nghỉ ngơi dù nhằm lúc cày cấy hay vụ mùa.
\v 22 Hãy giữ Lễ các Tuần và dâng hoa lợi đầu mùa gặt lúa mì, và hãy giữ Lễ Thu hoạch vào cuối năm.
\s5
\v 23 Tất cả người nam phải ra mắt Ta, là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mỗi năm ba lần.
\v 24 Vì Ta sẽ đuổi các dân khỏi trước mặt ngươi và mở rộng bờ cõi ngươi. Sẽ không ai muốn xâm lược xứ ngươi và chiếm xứ đó khi ngươi đến ra mắt Ta, là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời các ngươi, mỗi năm ba lần.
\s5
\v 25 Ngươi chớ dâng huyết của con sinh tế với men, hoặc thịt của con sinh tế trong Lễ Vượt qua còn lại đến sáng.
\v 26 Ngươi hãy dâng hoa quả đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi vào nhà Ta. Ngươi chớ nấu dê con trong sữa mẹ nó.”
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy viết những lời này, vì chính Ta cam kết trên những lời này mà Ta đã phán, và đã lập giao ước với ngươi và Y-sơ-ra-ên. ”
\v 28 Môi-se ở lại đó với Đức Giê-hô-va trong bốn mươi ngày và đêm; ông không ăn hay uống gì cả. Ngài viết trên hai bảng đá các lời giao ước, tức mười điều răn.
\s5
\v 29 Khi Môi-se đem theo hai bảng đá xuống Núi Si-nai, ông không biết rằng da mặt ông đã trở nên sáng chói khi đang nói chuyện với Đức Chúa Trời.
\v 30 Khi A-rôn và dân Y-sơ-ra-ên thấy Môi-se, da mặt chói lói của ông, họ sợ không dám đến gần ông.
\v 31 Nhưng Môi-se gọi họ, và A-rôn cùng các lãnh đạo cộng đồng đến gặp ông. Vậy Môi-se nói cùng họ.
\s5
\v 32 Sau việc này, toàn dân Y-sơ-ra-ên đến gặp Môi-se, và ông nói với họ về mọi mạng lệnh mà Đức Giê-hô-va đã ban cho ông trên Núi Si-nai.
\v 33 Khi Môi-se đã nói xong, ông lấy màn che mặt mình lại.
\s5
\v 34 Hễ khi nào Môi-se đến trước mặt Đức Giê-hô-va để thưa chuyện với Ngài, ông sẽ cởi màn ra. Sau đó ông lại đeo màn lại khi trở về trại. Ông ra khỏi lều và nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên về những gì ông đã được dạy dỗ.
\v 35 Dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt của Môi-se sáng ngời. Nhưng sau đó ông lại lấy màn che mặt cho đến chừng nào ông trở lại thưa chuyện với Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Môi-se tập họp cả cộng đồng dân Y-sơ-ra-ên và nói rằng: “Đây là những điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm.
\v 2 Hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi hoàn toàn, là ngày thánh của Đức Giê-hô-va. Ai làm việc trong ngày này sẽ bị xử tử.
\v 3 Chớ nổi lửa trong nhà vào ngày Sa-bát.”
\s5
\v 4 Môi-se nói với cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên: “Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 5 Mỗi người tùy lòng, hãy dâng cho Đức Giê-hô-va vàng, bạc, đồng,
\v 6 chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm và vải gai mịn; lông dê;
\v 7 da chiên nhuộm đỏ và da cá nược; gỗ keo;
\v 8 dầu thắp đèn trong nơi thánh, hương liệu làm dầu xức và hương thơm,
\v 9 bạch bảo ngọc và các thứ đá quý để gắn trên ê-phót và bảng đeo ngực.
\s5
\v 10 Ai trong quý vị có tay nghề hãy đến làm những gì Đức Giê-hô-va đã phán truyền
\v 11 đền tạm và lều, mái che lều, móc, tấm ván, thanh ngang, trụ, và đế trụ;
\v 12 hòm và đòn khiêng, nắp thi ân, và tấm màn che.
\s5
\v 13 Cái bàn và đòn khiêng, các đồ phụ tùng của bàn, và bánh trần thiết;
\v 14 cây đèn để thắp sáng và đồ phụ tùng, đèn, và dầu thắp đèn;
\v 15 bàn thờ xông hương và đòn khiêng, dầu xức và hương thơm; màn che cửa đền tạm;
\v 16 bàn thờ dâng của lễ thiêu và rá đồng, đòn khiêng và phụ tùng; một bồn lớn có đế.
\s5
\v 17 Các tấm màn che sân được gắn trên trụ có đế, và màn che cửa vào sân;
\v 18 cọc cắm lều đền tạm và xung quanh sân, cùng dây thừng.
\v 19 Các bộ lễ phục dệt công phu dùng trong nơi thánh, bộ lễ phục thánh dành cho A-rôn và các con trai người, để họ thi hành chức tế lễ khi phục vụ.”
\s5
\v 20 Sau đó, toàn thể chi phái Y-sơ-ra-ên lui khỏi Môi-se và trở về.
\v 21 Những người có lòng và tinh thần đều tự nguyện đến dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va để dựng đền tạm, cùng mọi việc phục vụ liên quan, và bộ lễ phục thánh.
\v 22 Cả nam và nữ, ai có lòng thành đều đến. Họ đem theo trâm, hoa tai, nhẫn, và đồ trang sức, cùng mọi thứ nữ trang bằng vàng. Cả dân chúng đều dâng của lễ bằng vàng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 23 Ai có chỉ xanh dương, tím, hoặc đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, hoặc da cá nược đều đem đến.
\v 24 Ai có lễ vật bằng bạc hay đồng đều đem đến dâng cho Đức Giê-hô-va, và ai có gỗ keo dùng trong công việc đều đem đến.
\s5
\v 25 Tất cả phụ nữ khéo tay thì tự dệt rồi đem đến những sản phẩm mình đã dệt bằng chỉ xanh dương, tím, hoặc đỏ thắm, hoặc vải gai mịn.
\v 26 Tất cả người nữ đều vui lòng dệt lông dê.
\s5
\v 27 Các lãnh đạo đã dâng bạch bảo ngọc và những viên ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực;
\v 28 họ đem đến hương liệu và dầu thắp đèn, chế ra dầu xức và hương thơm.
\v 29 Người Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ tự nguyện; người nam và người nữ nào có lòng đều đem lễ vật đến để làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán truyền qua Môi-se.
\s5
\v 30 Môi-se nói với người Y-sơ-ra-ên: “Kìa, Đức Giê-hô-va đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con của U-ri, cháu Hu-rơ, từ chi phái Giu-đa.
\v 31 Ngài đã đổ đầy thần Ngài trên Bết-sa-lê-ên, ban cho người có sự khôn ngoan, hiểu biết, và thông biết, về mọi nghề thợ,
\v 32 đặng làm các kiểu nghệ thuật và chế tạo bằng vàng, bạc, và đồng;
\v 33 cũng để cắt, mài ngọc và chạm gỗ - làm mọi công việc nghệ thuật.
\s5
\v 34 Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp, con của A-hi-sa-mạc, từ chi phái Đan, được Chúa ban cho khả năng dạy dỗ.
\v 35 Ngài đã ban cho họ mọi tài khéo léo để làm đủ mọi thứ công việc, làm việc như thợ thủ công, thợ khắc, và thợ dệt chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm và vải gai mịn, và y như thợ dệt. Họ là thợ thủ công làm những việc được giao, họ là những nhà thiết kế có đầu óc nghệ thuật.
\s5
\c 36
\p
\v 1 “Vậy, Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp sẽ làm việc cùng những người khôn sáng mà Đức Giê-hô-va đã ban cho sự khéo tay và thông hiểu để biết cách xây nơi thánh theo mọi sự hướng dẫn mà Ngài đã truyền quý vị phải làm.”
\s5
\v 2 Môi-se triệu tập Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người có tài mà Đức Giê-hô-va đã ban cho kỹ năng và được giục lòng đến làm việc.
\v 3 Họ nhận từ Môi-se mọi lễ vật mà người Y-sơ-ra-ên đã đem đến để xây dựng nơi thánh. Sáng nào dân chúng cũng vẫn đem lễ vật đến cho Môi-se.
\v 4 Vậy hết thảy thợ chuyên môn làm việc ở nơi thánh đều phải tạm ngưng việc mình đang làm.
\s5
\v 5 Họ nói với Môi-se: “Dân sự đang đem đến nhiều hơn số cần thiết để chúng tôi làm các việc Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm. ”
\v 6 Vậy Môi-se truyền lệnh rằng không ai trong trại được đem đến thêm lễ vật nào nữa để xây nơi thánh. Vậy dân sự không đem gì đến nữa.
\v 7 Họ có thừa vật liệu cho mọi công việc.
\s5
\v 8 Vậy tất cả thợ thủ công trong số đó làm đền tạm bằng mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm cùng các hình chê-ru-bim. Đây là công việc của Bết-sa-lê-ên, thợ có tay nghề.
\v 9 Mỗi tấm màn dài hai mươi tám cu-bít, rộng bốn cu-bít. Tất cả các tấm màn đều có cùng kích cỡ.
\v 10 Bết-sa-lê-ên nối năm tấm màn với nhau, và năm tấm còn lại cũng được nối.
\s5
\v 11 Ông làm các vòng bằng chỉ xanh dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và ông cũng làm các vòng tương tự dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\v 12 Ông làm năm mươi vòng trên tấm màn thứ nhất và năm mươi vòng trên mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhì. Vậy các vòng được lắp đối xứng nhau.
\v 13 Ông làm năm mươi cái móc vàng và nối các tấm màn vào để đền tạm thành hình.
\s5
\v 14 Bết-sa-lê-ên làm các tấm màn bằng lông dê, tạo thành mái lều che đền tạm; ông làm mười một tấm màn như vậy.
\v 15 Mỗi tấm màn dài ba mươi cu-bít, và rộng bốn cu-bít. Mỗi cái trong số mười một tấm màn đều có cùng kích cỡ.
\v 16 Ông kết năm tấm màn với nhau, và sáu tấm màn kia cũng được kết.
\v 17 Ông làm năm mươi vòng ở mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhất, và năm mươi vòng ở mép màn ngoài cùng của bộ thứ nhì.
\s5
\v 18 Bết-sa-lê-ên làm năm mươi cái móc đồng để kết hai bộ thành một tấm.
\v 19 Ông làm một tấm phủ lều bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm phủ khác làm bằng da loại tốt để phủ lên trên.
\s5
\v 20 Bết-sa-lê-ên làm các tấm ván đứng bằng gỗ keo cho đền tạm.
\v 21 Mỗi tấm ván dài mười cu-bít, và rộng một cu-bít rưỡi.
\v 22 Mỗi tấm có hai cái mộng để ghép lại với nhau. Tất cả các tấm ván của đền tạm được làm y như vậy.
\v 23 Ông làm các tấm ván cho đền tạm theo như vậy. Ông làm hai mươi tấm ván cho mặt phía nam.
\s5
\v 24 Bết-sa-lê-ên làm bốn mươi đế bạc dưới hai mươi tấm ván. Tấm ván thứ nhất có hai đế phía dưới để ráp, và mỗi tấm còn lại cũng có hai đế phía dưới để ráp.
\v 25 Phía bên kia đền tạm, về phía bắc, ông làm hai mươi tấm ván
\v 26 và bốn mươi đế bạc. Dưới tấm ván thứ nhất có hai đế, tấm tiếp theo cũng có hai đế.
\s5
\v 27 Ở mặt sau của đền tạm về phía tây, Bết-sa-lê-ên làm sáu tấm ván.
\v 28 Ông làm hai tấm ván ở hai góc sau của đền tạm.
\s5
\v 29 Các tấm ván này không dính vào đáy, nhưng được ghép ở đầu bằng cùng một cái khoen tương tự. Cả hai góc sau đều được làm như vậy.
\v 30 Có tám tấm ván, cùng với các đế bạc. Có mười sáu đế tất cả, hai đế dưới tấm ván thứ nhất, hai đế dưới tấm ván thứ nhì, và cứ như vậy.
\s5
\v 31 Bết-sa-lê-ên làm các thanh ngang bằng gỗ keo năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía bên này đền tạm,
\v 32 năm thanh ngang cho các tấm ở phía bên kia đền tạm, và năm thanh ngang cho các tấm ván ở phía bên kia đền tạm về hướng tây.
\v 33 Ông làm thanh ngang đặt chính giữa các tấm ván, từ đầu này đến đầu kia.
\v 34 Ông bọc vàng cho các tấm ván. Ông làm khoen vàng để xỏ các thanh ngang, và lấy vàng bọc các thanh ngang.
\s5
\v 35 Bết-sa-lê-ên làm tấm màn bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, và vải gai mịn, cho thợ lành nghề thêu hình các chê-ru-bim.
\v 36 Ông làm bốn trụ bằng gỗ keo để treo tấm màn, và bọc các trụ ấy bằng vàng. Ông cũng làm các móc vàng trên trụ, và đúc bốn đế bạc.
\s5
\v 37 Ông làm một tấm màn che cửa vào lều. Màn được làm bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn, đây là công việc của thợ thêu.
\v 38 Ông cũng làm năm cây trụ có móc để treo màn. Ông lấy vàng bọc các đầu trụ và đai trụ. Năm đế trụ được làm bằng đồng.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Bết-sa-lê-ên làm một cái hòm bằng gỗ keo. Hòm dài hai cu-bít rưỡi; rộng một cu-bít rưỡi; và cao một cu-bít rưỡi.
\v 2 Ông lấy vàng ròng bọc bên trong lẫn bên ngoài hòm và làm đường viền bằng vàng chung quanh.
\v 3 Ông đúc bốn khoen vàng gắn vào bốn chân hòm, mỗi bên có hai khoen.
\s5
\v 4 Ông làm các cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 5 Ông xỏ đòn khiêng vào các khoen ở hai bên hòm.
\v 6 Ông làm một nắp thi ân bằng vàng ròng dài hai cu-bít rưỡi, và rộng một cu-bít rưỡi.
\s5
\v 7 Bết-sa-lê-ên làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng rồi gắn ở hai đầu nắp thi ân.
\v 8 Một chê-ru-bim ở đầu này và một chê-ru-bim ở đầu kia của nắp.
\v 9 Các chê-ru-bim giương cánh che nắp thi ân. Hai chê-ru-bim đứng đối diện nhau và mặt hướng xuống nắp thi ân.
\s5
\v 10 Bết-sa-lê-ên làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài hai cu-bít, rộng một cu-bít, và cao một cu-bít rưỡi.
\v 11 Ông lấy vàng ròng bọc bàn và làm một đường viền bằng vàng ròng quanh bàn.
\v 12 Ông đóng khung quanh bàn, rộng một gang tay, và một đường viền bằng vàng.
\v 13 Ông đúc bốn khoen vàng và gắn vào bốn chân bàn ở bốn góc.
\s5
\v 14 Các khoen được gắn vào khung để xỏ đòn khiêng.
\v 15 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 16 Ông làm các dụng cụ để trên bàn dĩa, muỗng, chén, và bình dùng cho của lễ quán. Các dụng cụ này được làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 17 Ông làm cây đèn bằng vàng dát có đế và trục. Các đài hoa, nụ hoa, và cánh hoa đều được gắn vào cây đèn thành một khối.
\v 18 Sáu nhánh tỏa ra hai bên ba nhánh bên này và ba nhánh bên kia cây đèn.
\v 19 Nhánh thứ nhất có ba đài hoa như hình hoa hạnh nhân, với một nụ hoa và một cánh hoa. Sáu nhánh tỏa ra hai bên cây đèn đều giống nhau.
\s5
\v 20 Trên thân đèn, ở trục giữa, có bốn đài có hình giống như hoa hạnh nhân, với nụ và cánh hoa.
\v 21 Có một nụ ở dưới cặp nhánh thứ nhất dính liền thành một khối, và một nụ ở dưới cặp nhánh thứ nhì dính liền thành một khối. Cũng vậy, có một nụ ở dưới cặp nhánh thứ ba, dính liền thành một khối. Tất cả sáu nhánh hai bên cây đèn đều được thiết kế như nhau.
\v 22 Các nụ và nhánh đều dính liền nhau, được làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 23 Bết-sa-lê-ên làm cây đèn và bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và khay bằng vàng ròng.
\v 24 Ông dùng một ta-lâng vàng ròng làm cây đèn và các phụ kiện của đèn.
\s5
\v 25 Bết-sa-lê-ên làm một bàn thờ xông hương. Ông làm bàn thờ này bằng gỗ keo, dài một cu-bít, và rộng một cu-bít. Bàn có hình vuông, cao hai cu-bít. Bàn thờ có các sừng được gắn dính liền.
\v 26 Ông bọc vàng ròng cho bàn thờ xông hương trên mặt bàn, bốn bên, và sừng của bàn thờ. Ông cũng làm một đường viền bàn bằng vàng.
\s5
\v 27 Ông làm hai khoen vàng gắn vào hai bên bàn dùng để xỏ đòn khiêng.
\v 28 Ông làm các cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.
\v 29 Ông làm dầu xức thánh và hương thơm, đây là việc của thợ pha chế nước hoa.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Bết-sa-lê-ên dùng gỗ keo làm bàn thờ dâng của lễ thiêu. Bàn thờ có hình vuông, dài năm cu-bít, rộng năm cu-bít và cao ba cu-bít.
\v 2 Ông làm bốn sừng bò ở bốn góc bàn. Sừng được gắn dính liền vào bàn thờ thành một khối, rồi ông lấy đồng bọc bàn thờ.
\v 3 Ông làm các đồ dùng cho bàn thờ - thùng đựng tro, xẻng, cái chậu, nĩa xiên thịt, và mâm đựng lửa. Tất cả đồ dùng này được làm bằng đồng.
\s5
\v 4 Ông làm một cái rá bằng lưới đồng cho bàn thờ, đặt dưới viền, nằm ở lưng chừng tính từ đáy.
\v 5 Ông đúc bốn khoen gắn ở bốn góc của rá đồng để xỏ đòn khiêng.
\s5
\v 6 Họ chế tác các viên bạch bảo ngọc, gắn vào các khuôn vàng, giống như chạm trổ trên con dấu, và khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bết-sa-lê-ên đặt các viên ngọc lên cầu vai của ê-phót, như những viên đá để Đức Giê-hô-va nhớ đến mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên theo như Ngài đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 8 Thợ thủ công lành nghề làm một bảng đeo ngực, có kiểu cách như ê-phót. Ông làm bảng đeo ngực bằng vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\s5
\v 9 Bảng có dạng hình vuông. Họ gấp đôi bảng đeo ngực. Bảng đeo ngực dài một gang tay và rộng một gang tay.
\v 10 Họ gắn vào đó bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất là hồng ngọc, hoàng bích ngọc, và ngọc hồng lựu.
\s5
\v 11 Hàng thứ nhì là ngọc lục bảo, lam bảo ngọc, và kim cương.
\v 12 Hàng thứ ba là hoàng hồng ngọc, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\s5
\v 13 Hàng thứ tư là lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên đá quý được gắn vào khuôn vàng.
\v 14 Các viên ngọc được xếp theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên. Y như việc khắc dấu, mỗi tên tượng trưng cho một trong mười hai chi phái.
\v 15 Trên bảng đeo ngực, họ làm các sợi dây chuyền bằng vàng.
\v 16 Họ làm hai khuôn vàng và hai khoen vàng, rồi gắn hai khoen vào hai góc trên bảng đeo ngực.
\s5
\v 17 Họ gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen trên hai góc bảng đeo ngực.
\v 18 Họ gắn hai đầu còn lại của dây chuyền vào hai khuôn. Họ gắn chúng vào các cầu vai phía trước ê-phót.
\v 19 Họ làm hai khoen vàng và gắn lên hai góc khác trên bảng đeo ngực, ở mép kế đường viền bên trong.
\v 20 Họ làm thêm hai khoen vàng và gắn dưới đáy hai cầu vai phía trước ê-phót, gần với đường nối phía trên thắt lưng bằng vải gai mịn của ê-phót.
\s5
\v 21 Họ cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng một dây màu xanh, để cố định trên thắt lưng được làm bằng vải gai mịn của ê-phót. Như vậy bảng đeo ngực sẽ không rớt khỏi ê-phót. Công việc này được thực hiện theo như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 22 Bết-sa-lê-ên sai thợ dệt làm áo choàng cho ê-phót hoàn toàn bằng vải tím.
\v 23 Áo choàng có lỗ tròng đầu ở giữa. Xung quanh cổ áo có một đường viền để không bị rách.
\s5
\v 24 Trên gấu áo, họ làm các quả lựu bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 25 Họ làm các chuông vàng, rồi gắn chuông giữa các quả lựu xung quanh gấu áo choàng, giữa các quả lựu
\v 26 mỗi quả nằm xen kẽ với một cái chuông, và cứ một cái chuông thì có một quả lựu quanh gấu áo choàng mà A-rôn mặc để phục vụ. Đây là việc Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 27 Họ làm các áo trong bằng vải gai mịn cho A-rôn và các con của người.
\v 28 Họ làm khăn quấn đầu bằng vải gai mịn, băng bịt đầu có hoa mỹ làm bằng vải gai mịn, áo lót làm bằng vải gai mịn,
\v 29 và dây thắt lưng do thợ dệt làm bằng vải gai mịn với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm. Đây là việc mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 30 Họ làm cái thẻ cho vương miện bằng vàng ròng; họ khắc lên đó, như cách khắc dấu, ghi là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 31 Họ dùng sợi xanh dương buộc khăn quấn đầu. Việc này được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se
\s5
\c 39
\p
\v 1 Họ dùng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm để dệt những bộ lễ phục cho thầy tế lễ phục vụ trong nơi thánh. Họ may lễ phục cho A-rôn theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 2 Bết-sa-lê-ên làm cái ê-phót bằng vàng, có chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 3 Họ dát mỏng vàng lá và cắt thành sợi, thêu với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, trên vải gai mịn, việc này do thợ thủ công lành nghề thực hiện.
\s5
\v 4 Họ làm hai cầu vai cho ê-phót, gắn vào hai bên góc trên của ê-phót.
\v 5 Đai cột ê-phót làm bằng vải gai mịn như ê-phót; đai được gắn vào ê-phót thành một khối, đai được làm bằng vàng, dệt bằng vải gai mịn, với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 6 Họ chế tác các viên bạch bảo ngọc, gắn vào các khuôn vàng, giống như chạm trổ trên con dấu, và khắc tên mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bết-sa-lê-ên đặt các viên ngọc lên cầu vai của ê-phót, như những viên đá để Đức Giê-hô-va nhớ đến mười hai con trai của Y-sơ-ra-ên theo như Ngài đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 8 Thợ thủ công lành nghề làm một bảng đeo ngực, có kiểu cách như ê-phót. Ông làm bảng đeo ngực bằng vàng, chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\v 9 Bảng có dạng hình vuông. Họ gấp đôi bảng đeo ngực. Bảng đeo ngực dài một gang tay và rộng một gang tay.
\s5
\v 10 Họ gắn vào đó bốn hàng đá quý. Hàng thứ nhất là hồng ngọc, hoàng bích ngọc, và ngọc hồng lựu.
\v 11 Hàng thứ nhì là ngọc lục bảo, lam bảo ngọc, và kim cương.
\v 12 Hàng thứ ba là hoàng hồng ngọc, ngọc mã não, và thạch anh tím.
\v 13 Hàng thứ tư là lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên đá quý được gắn vào khuôn vàng.
\s5
\v 14 Các viên ngọc được xếp theo thứ tự tên của mười hai con trai Y-sơ-ra-ên. Y như việc khắc dấu, mỗi tên tượng trưng cho một trong mười hai chi phái.
\v 15 Trên bảng đeo ngực, họ làm các sợi dây chuyền bằng vàng.
\v 16 Họ làm hai khuôn vàng và hai khoen vàng, rồi gắn hai khoen vào hai góc trên bảng đeo ngực.
\s5
\v 17 Họ gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen trên hai góc bảng đeo ngực.
\v 18 Họ gắn hai đầu còn lại của dây chuyền vào hai khuôn. Họ gắn chúng vào các cầu vai phía trước ê-phót.
\s5
\v 19 Họ làm hai khoen vàng và gắn lên hai góc khác trên bảng đeo ngực, ở mép kế đường viền bên trong.
\v 20 Họ làm thêm hai khoen vàng và gắn dưới đáy hai cầu vai phía trước ê-phót, gần với đường nối phía trên thắt lưng bằng vải gai mịn của ê-phót.
\s5
\v 21 Họ cột khoen bảng đeo ngực vào khoen của ê-phót bằng một dây màu xanh, để cố định trên thắt lưng được làm bằng vải gai mịn của ê-phót. Như vậy bảng đeo ngực sẽ không rớt khỏi ê-phót. Công việc này được thực hiện theo như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 22 Bết-sa-lê-ên sai thợ dệt làm áo choàng cho ê-phót hoàn toàn bằng vải tím.
\v 23 Áo choàng có lỗ tròng đầu ở giữa. Xung quanh cổ áo có một đường viền để không bị rách.
\v 24 Trên gấu áo, họ làm các quả lựu bằng chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm, dệt bằng vải gai mịn.
\s5
\v 25 Họ làm các chuông vàng, rồi gắn chuông giữa các quả lựu xung quanh gấu áo choàng, giữa các quả lựu
\v 26 mỗi quả nằm xen kẽ với một cái chuông, và cứ một cái chuông thì có một quả lựu quanh gấu áo choàng mà A-rôn mặc để phục vụ. Đây là việc Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 27 Họ làm các áo trong bằng vải gai mịn cho A-rôn và các con của người.
\v 28 Họ làm khăn quấn đầu bằng vải gai mịn, băng bịt đầu có hoa mỹ làm bằng vải gai mịn, áo lót làm bằng vải gai mịn,
\v 29 và dây thắt lưng do thợ dệt làm bằng vải gai mịn với chỉ xanh dương, tím, và đỏ thắm. Đây là việc mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 30 Họ làm cái thẻ cho vương miện bằng vàng ròng; họ khắc lên đó, như cách khắc dấu, ghi là BIỆT RIÊNG CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA.
\v 31 Họ dùng sợi xanh dương buộc khăn quấn đầu. Việc này được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 32 Như vậy, việc thi công đền tạm, lều hội họp, đều hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên đã làm mọi thứ. Họ làm theo mọi chỉ dẫn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 33 Họ đem đền tạm đến cho Môi-se cái lều và mọi đồ dùng, các móc, tấm ván, thanh ngang, cột, và đế;
\v 34 tấm phủ lều làm bằng da chiên nhuộm đỏ, mái che làm bằng da cá nược, và bức màn che
\v 35 chiếc hòm giao ước, cũng như các cây đòn và nắp thi ân.
\s5
\v 36 Họ đem đến cái bàn, đồ dùng của bàn, và bánh trần thiết;
\v 37 cây đèn bằng vàng ròng và dãy đèn, cùng các phụ kiện của cây đèn và dầu thắp đèn;
\v 38 bàn thờ bằng vàng, dầu xức và hương thơm; màn treo ở cửa lều;
\v 39 bàn thờ bằng đồng với lưới đồng, các đòn và vật dụng cùng cái chậu lớn có đế.
\s5
\v 40 Họ đem đến các tấm màn che sân cùng với cột có đế, tấm màn che cửa vào sân; dây và các cọc căng lều; cùng mọi trang thiết bị phục vụ ở đền tạm, lều hội họp.
\v 41 Họ đem đến bộ lễ phục dệt bằng vải gai mịn dùng để phục vụ ở nơi thánh, các bộ lễ phục dành cho A-rôn và các con trai người, để họ thi hành chức tế lễ.
\s5
\v 42 Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên làm đủ mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán truyền cho Môi-se.
\v 43 Môi-se kiểm tra tất cả công việc, và họ đã hoàn tất. Họ làm y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền. Sau đó Môi-se chúc phước cho họ.
\s5
\c 40
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi hãy dựng đền tạm, lều hội họp.
\s5
\v 3 Hãy đặt hòm giao ước trong lều, và lấy màn che hòm lại.
\v 4 Ngươi hãy đem bàn vào lều và sắp xếp các đồ dùng của bàn cho ngăn nắp. Sau đó, hãy đem vào lều cây đèn và đặt đèn lên đó.
\s5
\v 5 Ngươi hãy đặt bàn thờ xông hương bằng vàng trước hòm giao ước, và treo màn ở cửa đền tạm.
\v 6 Đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu ở trước lối vào đền tạm, tức lều hội họp.
\v 7 Đặt cái chậu lớn ở giữa lều hội họp và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó.
\s5
\v 8 Làm một cái sân quanh lều, treo màn ở lối vào sân.
\v 9 Lấy dầu xức và xức lên đền tạm và mọi thứ trong đó. Ngươi hãy biệt riêng lều cùng mọi thứ trong đó cho Ta; đó sẽ là đền thánh.
\v 10 Ngươi hãy xức dầu lên bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi đồ phụ tùng. Hãy biệt riêng bàn thờ cho Ta, nó sẽ hoàn toàn được dành cho Ta.
\v 11 Hãy xức dầu lên chậu đồng và đế chậu, rồi biệt riêng nó cho Ta.
\s5
\v 12 Hãy đem A-rôn và các con trai người đến cửa lều hội họp, rồi lấy nước rửa sạch họ.
\v 13 Hãy mặc bộ lễ phục thánh cho A-rôn, xức dầu cho người, và biệt riêng người cho Ta để người làm thầy tế lễ hầu việc Ta.
\s5
\v 14 Hãy đem các con trai người đến và mặc áo dài cho họ.
\v 15 Hãy xức dầu cho họ như ngươi xức cho cha của họ đặng họ làm thầy tế lễ phục vụ Ta. Bởi xức dầu, các đời con cháu họ sẽ giữ chức thầy tế lễ. ”
\v 16 Đây là việc Môi-se đã làm; ông tuân theo mọi điều Đức Giê-hô-va truyền cho ông. Ông làm hết những việc này.
\s5
\v 17 Vậy đền tạm được dựng lên vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ nhì.
\v 18 Môi-se dựng đền tạm, đặt các đế vào đúng vị trí, dựng các tấm ván, gắn các thanh ngang, dựng các cột và trụ.
\v 19 Ông trải tấm phủ lên đền tạm và trải tấm bạt lên trên theo như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 20 Ông lấy các bảng giao ước và đặt vào trong hòm. Ông cũng xỏ đòn khiêng lên hòm rồi đậy nắp thi ân.
\s5
\v 21 Ông đem hòm vào trong đền tạm. Ông treo tấm màn che hòm giao ước, y như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 22 Ông đặt cái bàn vào trong lều hội họp, về phía bắc đền tạm, bên ngoài bức màn.
\v 23 Ông để bánh ngăn nắp lên bàn trước mặt Đức Giê-hô-va theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 24 Ông đặt cây đèn vào lều hội họp, đối diện bàn, về phía nam của đền tạm.
\v 25 Ông thắp đèn trước mặt Đức Giê-hô-va theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 26 Ông đặt bàn thờ xông hương bằng vàng vào trong lều hội họp, phía trước tấm màn.
\v 27 Ông đốt hương thơm trên đó theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 28 Ông giăng màn ở cửa đền.
\v 29 Ông đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu ở cửa đền tạm, tức lều hội họp. Ông dâng lên đó của lễ thiêu và của lễ chay theo như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 30 Ông đặt cái chậu ở giữa lều hội họp và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó để rửa.
\s5
\v 31 Môi-se, A-rôn, và các con trai người rửa tay chân bằng nước trong chậu này
\v 32 bất cứ khi nào họ vào lều hội họp hay bất cứ khi nào họ đến bàn thờ. Họ rửa sạch mình theo như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 33 Môi-se dựng cái sân quanh đền tạm và bàn thờ. Ông giăng tấm màn ở cửa vào sân. Môi-se hoàn tất công trình theo y như vậy.
\s5
\v 34 Mây che lều hội họp, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đổ đầy trên đền tạm.
\v 35 Môi-se không thể bước vào lều hội họp vì đám mây che trên lều, và vì vinh quang của Đức Giê-hô-va ngập tràn đền tạm.
\s5
\v 36 Bất cứ khi nào đám mây rời khỏi đền tạm, dân Y-sơ-ra-ên sẽ đi tiếp.
\v 37 Nhưng nếu đám mây không rời khỏi đền tạm, thì dân sự sẽ không đi. Họ sẽ ở lại cho đến ngày đám mây cất lên.
\v 38 Vì mây của Đức Giê-hô-va bao phủ đền tạm vào ban ngày, và lửa của Ngài ngự vào ban đêm, trước mặt toàn thể dân sự Y-sơ-ra-ên trong suốt hành trình của họ.

1664
03-LEV.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1664 @@
\id LEV
\ide UTF-8
\h LÊ-VI KÝ
\toc1 LÊ-VI KÝ
\toc2 LÊ-VI KÝ
\toc3 lev
\mt LÊ-VI KÝ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va đòi Môi-se đến và phán cùng người từ chỗ nhóm lại như sau:
\v 2 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ: 'Bất kỳ người nào giữa vòng các con đem của lễ đến dâng cho Đức Giê-hô-va, hãy đem một trong các súc vật của các con làm của lễ, hoặc từ trong bầy hay từ trong đàn.
\s5
\v 3 Nếu của lễ của người là của lễ thiêu từ trong đàn, người phải dâng một con đực không tì vít. Người cần phải dâng nó ngay lối vào của nơi nhóm lại, hầu cho của lễ ấy được nhậm trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 4 Người ấy cần phải đặt tay trên đầu của của lễ thiêu, và khi ấy nó sẽ được nhậm vì ích của người ấy, làm sự chuộc tội cho mình.
\s5
\v 5 Khi ấy, người sẽ giết con bò đực trước mặt Đức Giê-hô-va. Các con trai của A-rôn, những thầy tế lễ, sẽ trình huyết ra rồi rải huyết ấy trên bàn thờ ở ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\v 6 Rồi người phải lột da của lễ thiêu rồi sả nó ra từng mảnh.
\s5
\v 7 Tiếp đến, các con trai của thầy tế lễ A-rôn sẽ châm lửa lên bàn thờ rồi chất củi chụm lửa lên.
\v 8 Các con trai A-rôn, những thầy tế lễ, cần phải đặt những miếng thịt, đầu và mỡ, lên trên củi đã châm lửa trên bàn thờ.
\v 9 Nhưng bộ lòng và hai cái giò của nó người phải dùng nước rửa. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu mọi thứ trên bàn thờ làm một của lễ thiêu. Điều đó sẽ tạo ra của lễ có mùi thơm cho ta; đó sẽ là một của lễ dâng lên cho ta bằng lửa.
\s5
\v 10 Nếu của lễ của người là của lễ thiêu lấy từ bầy, một trong các con chiên hay một trong các con dê, người phải dâng một con đực không tì vít.
\v 11 Người phải giết nó ở cạnh phía Bắc của bàn thờ trước mặt Đức Giê-hô-va. Các con trai của A-rôn, những thầy tế lễ, sẽ rưới huyết nó trên từng cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 12 Tiếp đến, người phải cắt thịt nó thành nhiều mảnh, với đầu và mỡ nó, và thầy tế lễ sẽ đặt chúng trên củi đã chụm lửa trên bàn thờ,
\v 13 nhưng bộ lòng và hai cái giò người ấy phải dùng nước mà rửa. Khi ấy, thầy tế lễ sẽ dâng cả thảy, và thiêu nó trên bàn thờ. Đây là một của lễ thiêu, và nó sẽ tạo ra một mùi thơm dâng lên cho Đức Giê-hô-va; nó sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\v 14 Nếu của lễ của người dâng lên cho Đức Giê-hô-va cần phải làm của lễ thiêu là các loài chim, khi ấy người phải đem của lễ ấy, một là chim bồ câu hay bồ câu con.
\v 15 Thầy tế lễ phải đem nó đến bàn thờ, rứt đầu nó ra, rồi thiêu nó trên bàn thờ. Khi ấy, huyết của nó phải được rưới lên cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 16 Người phải gỡ lấy cái diều với lông của nó, rồi liệng nó cạnh bàn thờ về phía Đông, trong chỗ dành cho tro.
\v 17 Người phải xé nó ra nơi hai cánh, nhưng người không được tách rời ra thành hai phần. Khi ấy, thầy tế lễ sẽ thiêu nó trên bàn thờ, lên củi có châm lửa trên bàn thờ. Nó sẽ trở thành một của lễ thiêu, và nó tạo ra một mùi thơm dâng lên cho Đức Giê-hô-va; nó sẽ trở thành một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Khi có ai dâng của lễ chay cho Đức Giê-hô-va, của lễ của người ấy phải là bột tốt nhứt, và người sẽ đổ dầu và đặt hương lên đó.
\v 2 Người đem của lễ đến cho các thầy tế lễ con trai của A-rôn, và ở đó thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột tốt nhứt với dầu và hương trên nó. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu của lễ trên bàn thờ với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va. Làm thế sẽ tạo ra một mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va; đó sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\v 3 Bất cứ thứ chi còn lại của của lễ chay sẽ thuộc về A-rôn cùng các con trai người. Của lễ hoàn toàn được dâng lên cho Đức Giê-hô-va từ các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Khi nào anh em dâng lên của lễ chay không có men nướng trong lò, đó phải là bánh làm bằng bột mịn trộn với dầu, hoặc bánh cứng không men, được phủ bằng dầu.
\v 5 Nếu của lễ chay anh em chiên trong chảo làm bằng sắt, thì của lễ phải là bột nhất hạng không men được trộn với dầu.
\s5
\v 6 Anh em cần phải bẻ bánh ra làm hai rồi rưới dầu lên. Đây là của lễ chay.
\v 7 Nếu của lễ chay được chiên trong chảo, của lễ ấy phải được làm bằng bột nhất hạng và dầu.
\s5
\v 8 Anh em phải đem của lễ chay được làm bằng những thứ nầy dâng cho Đức Giê-hô-va, và của lễ phải được trình cho thầy tế lễ, người sẽ đem nó vào bàn thờ.
\v 9 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ lấy ra một phần từ của lễ chay với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va, và người sẽ thiêu nó trên bàn thờ. Đó sẽ là một của lễ làm bằng lửa, và của lễ ấy sẽ tạo ra một mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va.
\v 10 Những gì còn lại của của lễ chay sẽ thuộc về A-rôn cùng các con trai người. Của lễ ấy được dâng lên hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va từ các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Không một của lễ chay nào mà anh em dâng lên cho Đức Giê-hô-va được làm với men, vì anh em không được dùng men, cũng không được dùng mật, làm một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 12 Anh em sẽ dâng chúng lên cho Đức Giê-hô-va làm một của lễ bông trái đầu mùa, nhưng chúng sẽ không được dùng để tạo ra mùi thơm ngạt ngào trên bàn thờ.
\v 13 Anh em phải nêm từng của lẽ chay với muối. Anh em đừng bao giờ để cho muối của giao ước của Đức Chúa Trời bị thiếu mất trong của lễ chay của anh em. Với mọi thứ của lễ, anh em phải dùng đến muối.
\s5
\v 14 Nếu anh em dâng của lễ chay về bông trái đầu mùa lên cho Đức Giê-hô-va, hãy dâng gạo mới dùng lửa chiên lên rồi tán nát ra.
\v 15 Khi ấy, anh em phải thêm dầu và hương lên của lễ ấy. Đây là một của lễ chay.
\v 16 Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu một phần gạo tán nát ra, dầu cùng hương với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va. Đây là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Nếu có ai dâng một con sinh làm của lễ tương giao bằng con vật ở trong bầy, dù là con đực hay con cái, người ấy phải dâng một con vật không tì vít ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 2 Người sẽ đặt tay mình lên đầu của lễ vật mình rồi giết nó tại nơi cửa của nơi nhóm lại. Tiếp đến, các con trai của A-rôn, sẽ rải huyết ở bốn bên bàn thờ.
\s5
\v 3 Người sẽ dùng lửa dâng con sinh của lễ tương giao lên cho Đức Giê-hô-va. Mỡ bao lấy với bộ đồ lòng,
\v 4 và hai trái cật cùng mỡ trên chúng cạnh hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mấy thứ nầy.
\v 5 Các con trai A-rôn sẽ thiêu trên bàn thờ với của lễ thiêu, mọi thứ đặt củi chụm lửa rồi. Làm như vầy sẽ tạo ra mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va; đây sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\v 6 Nếu con sinh của người là của lễ tương giao dâng lên cho Đức Giê-hô-va được lấy ra từ bầy; đực hay cái, người ấy phải dâng một con sinh không tì vít.
\v 7 Nếu người dâng một con chiên làm con sinh của mình, khi ấy người phải dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 8 Người sẽ đặt tay mình lên đầu của con sinh rồi giết nó ở trước nơi nhóm lại. Khi ấy, các con trai A-rôn sẽ rải huyết của nó lên bốn cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 9 Người sẽ dâng con sinh làm của lễ tương giao làm của lễ được dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va. Mỡ, toàn bộ mỡ và nguyên cái đuôi cắt ra gần xương sống, và mỡ bao lấy bộ đồ lòng và tất cả mỡ ở gần bộ đồ lòng,
\v 10 và hai trái cật cùng mỡ dính sát vào chúng, ở cạnh hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mọi thứ nầy.
\v 11 Và thầy tế lễ sẽ thiêu hết mọi thứ trên bàn thờ như một của lễ thức ăn dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Và nếu lễ vật của người là một con dê, thế thì người sẽ dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 13 Người phải đặt tay lên đầu của con dê rồi giết nó trước nơi nhóm lại. Khi ấy, các con trai của A-rôn sẽ rải huyết nó ở bốn bên của bàn thờ.
\v 14 Người sẽ dùng lửa dâng con sinh của mình lên cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ gỡ bỏ mỡ bao lấy bộ đồ lòng, và hết thảy mỡ gần bộ đồ lòng.
\s5
\v 15 Người cũng sẽ gỡ hai trái cật và mỡ dính với chúng, ở gần hông, và thùy của gan với hai trái cật.
\v 16 Thầy tế lễ sẽ dùng lửa thiêu hết thảy các thứ ấy trên bàn thờ làm của lễ thức ăn, tạo ra một mùi thơm ngào ngạt. Hết thảy mỡ đều thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 17 Đây sẽ là một luật lệ thường trực xuyên suốt bao thế hệ của dân sự anh em ở từng nơi mà anh em lập làm quê hương của mình, để anh em không được ăn mỡ hay huyết".
\s5
\c 4
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên biết: 'Khi nào có ai phạm tội mà không cố ý phạm tội, làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền đừng nên làm, và nếu người làm một việc gì bị cấm, thì phải làm như sau:
\v 3 Nếu chính thầy tế lễ thượng phẩm phạm tội, khiến cho tội lỗi phải giáng trên dân sự, khi ấy người phải dâng của lễ vì tội mình đã phạm một con bò tơ không tì vít cho Đức Giê-hô-va làm sinh tế chuộc tội.
\s5
\v 4 Người phải đem con bò đực ra lối vào của nơi nhóm lại trước mặt Đức Giê-hô-va, đặt tay lên đầu nó, rồi giết con bò đực trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 5 Thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ lấy một ít huyết của con bò đực đem nó vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 6 Thầy tế lễ sẽ nhúng ngón tay mình trong huyết rồi rải một ít huyết bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va, trước bức màn của nơi chí thánh.
\v 7 Rồi thầy tế lễ sẽ bôi một ít huyết vào sừng của bàn thờ xông hương trước mặt Đức Giê-hô-va, bàn thờ ở trong nơi nhóm lại, và người sẽ đổ phần huyết còn lại của con bò nơi chân của bàn thờ làm của lễ thiêu, bàn thờ đặt ngay lối vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 8 Người sẽ gỡ mọi lớp mỡ của con bò đực làm sinh tế chuộc tội; mỡ bao quanh bộ đồ lòng, mọi lớp mỡ dính liền với bộ đồ lòng,
\v 9 hai trái cật và lớp mỡ ở trên chúng, gần bên hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mọi thứ nầy.
\v 10 Người sẽ gỡ hết chúng, giống như người gỡ nó ra khỏi con bò dùng làm con sinh cho của lễ thù ân. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu hết các phần nầy trên bàn thờ dành cho của lễ thiêu.
\s5
\v 11 Da của con bò đực và bất kỳ thịt nào còn chừa lại, với cái đầu, hai chân và bộ đồ lòng cùng phân của nó,
\v 12 mọi phần còn lại bộ đồ lòng của con bò đực — người sẽ mang hết các thứ nầy ra ngoài trại quân, đến một chỗ mà chúng được làm sạch cho ta, ở đó họ đổ các thứ tro; họ sẽ thiêu các phần ấy trên củi ở đó. Họ phải thiêu các thứ ấy ở chỗ họ đổ tro.
\s5
\v 13 Nếu cả hội chúng của Y-sơ-ra-ên phạm tội mà không muốn phạm tội, và hội chúng không ý thức được là họ đã phạm tội và đã làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, và nếu họ phạm tội,
\v 14 thế thì, khi tội lỗi họ đã phạm đã được nhận ra, khi ấy hội chúng phải dâng một con bò đực tơ dùng làm sinh tế chuộc tội và đem nó đến trước nơi nhóm lại.
\v 15 Các trưởng lão của hội chúng sẽ đặt tay lên đầu của con bò đực ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và con bò đực sẽ bị giết ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ đem một ít huyết của con bò vào nơi nhóm lại,
\v 17 và thầy tế lễ sẽ nhúng ngón tay mình vào trong huyết rồi rải nó bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va, ở phía trước bức màn.
\s5
\v 18 Người sẽ bôi một ít huyết lên sừng của bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, bàn thờ nầy đặt ở trong nơi nhóm lại, và người sẽ đổ huyết đó dưới chân bàn thờ làm của lễ thiêu, bàn thờ đặt ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\v 19 Người sẽ gỡ hết mỡ ra khỏi nó rồi thiêu mỡ ấy trên bàn thờ.
\s5
\v 20 Đấy là những gì người phải làm với con bò đực. Giống như người đã làm với con bò đực sinh tế chuộc tội, vì vậy người cũng sẽ làm với con bò đực nầy, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho dân sự, và họ sẽ được tha tội.
\v 21 Người sẽ đem con bò đực ra ngoài trại quân rồi thiêu nó giống như người đã thiêu con bò đực đầu tiên vậy. Đây là của lễ chuộc tội cho hội chúng.
\s5
\v 22 Khi một quan trưởng phạm tội mà không dự định phải phạm tội, khi làm bất cứ những điều gì mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời người đã truyền chớ nên làm, và nếu người đã phạm tội,
\v 23 khi ấy tội lỗi mà người đã phạm đã được nhận ra, người phải dâng một con dê làm con sinh, một con đực không tì vít.
\s5
\v 24 Người sẽ đặt tay trên đầu con dê rồi giết nó ở chỗ mà họ giết của lễ thiêu ở trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây là một của lễ chuộc tội.
\v 25 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của sinh tế chuộc tội với ngón tay mình rồi bôi nó trên sừng bàn thờ dành cho của lễ thiêu, và người sẽ đổ huyết của nó ra nơi chân bàn thờ của lễ thiêu.
\s5
\v 26 Người sẽ thiêu hết phần mỡ trên bàn thờ, giống như mỡ con sinh của lễ thù ân. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho quan trưởng về tội lỗi của người, và quan trưởng ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 27 Nếu có thường dân nào phạm tội mà không dự tính phạm tội, làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, và nếu người đã phạm tội,
\v 28 khi ấy nếu tội lỗi mà người đã phạm được nhận ra, khi ấy người sẽ đem một con dê làm con sinh tế, một con cái không tì vít, vì tội lỗi mà người đã phạm.
\s5
\v 29 2Người sẽ đặt tay lên đầu sinh tế chuộc tội rồi giết sinh tế chuộc tội tại nơi của của lễ thiêu.
\v 30 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết với ngón tay mình rồi bôi nó lên sừng của bàn thờ dâng của lễ thiêu. Người sẽ đổ phần huyết còn lại nơi chân của bàn thờ.
\s5
\v 31 Người sẽ gở bỏ hết lớp mỡ, giống như lớp mỡ bị gỡ ra khỏi sinh tế của lễ thù ân. Thầy tế lễ sẽ thiêu nó trên bàn thờ tạo ra mùi hương ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người, và người sẽ được tha tội.
\s5
\v 32 Nếu người đem một con chiên làm sinh tế cho của lễ chuộc tội, người sẽ đem đến một con cái không tì vít.
\v 33 Người sẽ đặt tay mình lên đầu sinh tế chuộc tội rồi giết nó để làm của lễ chuộc tội ở chỗ mà họ giết sinh tế làm của lễ thiêu.
\s5
\v 34 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết sinh tế chuộc tội với ngón tay mình rồi bôi huyết lên sừng của bàn thờ dành cho của lễ thiêu, và người sẽ đổ hết phần huyết của nó nơi chân của bàn thờ.
\v 35 Người sẽ gỡ bỏ hết phần mỡ, giống như mỡ của con chiên bị gỡ ra khỏi sinh tế của lễ thù ân, và thầy tế lễ sẽ thiêu mỡ ấy trên bàn thờ giống như các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người vì tội lỗi mà người đã phạm, và người sẽ được tha tội.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Nếu người nào phạm tội vì người không làm rõ khi người làm chứng một việc mà người buộc phải làm rõ, trong trường hợp người đã thấy hoặc nghe nói về việc ấy, người sẽ chịu trách nhiệm.
\v 2 Hoặc nếu người nào chạm đến thứ chi Đức Chúa Trời đã ấn định là không sạch, trong trường hợp đó là xác của con thú hoang không sạch hoặc thây của thú rừng hay loài vật đã chết, ngay cả người ấy không có ý chạm đến nó, người ấy là ô uế và phạm tội.
\s5
\v 3 Hoặc nếu người chạm đến sự ô uế của ai đó, bất luận là ô uế nào đi nữa, và nếu người không nhận ra sự ấy, khi đó người sẽ bị xem là phạm tội khi người học biết về sự ấy.
\v 4 Hay nếu có ai dùng môi miệng mình thề phải làm việc ác, hoặc làm việc lành, bất luận điều chi mà một người thề thốt bằng một lời thề, dù người không nhận ra việc ấy, khi người học biết được, khi ấy người đã phạm tội, trong bất kỳ việc nào trong các việc này.
\s5
\v 5 Khi có ai phạm tội việc gì trong những việc nầy, người ấy phải xưng ra bất kỳ tội gì mà người đã phạm.
\v 6 Tiếp đến, người phải đem sinh tế chuộc tội đến với Đức Giê-hô-va vì tội lỗi mà mình đã phạm, một con cái lấy từ trong bầy, dù là chiên hay dê, để làm sinh tế chuộc tội, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người có liên quan đến tội lỗi nầy.
\s5
\v 7 Nếu người không có khả năng mua một con chiên, khi ấy người có thể đem sinh tế chuộc tội vì tội lỗi của mình hai con bồ câu hay hai con chim cu tơ dâng cho Đức Giê-hô-va, một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu.
\v 8 Người phải đem chúng đến thầy tế lễ, thầy tế lễ sẽ dâng một con làm sinh tế chuộc tội trước tiên - người sẽ rứt đầu nó lìa khỏi cổ nhưng sẽ không gỡ nó hoàn toàn ra khỏi thân.
\v 9 Khi ấy, người sẽ rải một ít huyết của sinh tế chuộc tội ở một cạnh của bàn thờ, và người sẽ rải phần huyết còn lại ở dưới chân bàn thờ. Đây là của lễ chuộc tội.
\s5
\v 10 Khi ấy, người phải dâng con chim thứ nhì làm của lễ thiêu, như đã được mô tả trong phần hướng dẫn, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ấy vì tội lỗi mà người đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 11 Nhưng nếu người không có khả năng để mua hai con chim bồ câu hay hai con chim cu con, khi ấy người phải đem sinh tế chuộc tội vì cớ tội lỗi mình một phần mười ê-pha bột nhứt hạng để làm sinh tế chuộc tội. Người không phải chế dầu hay hương liệu nào trên nó, vì đó là sinh tế chuộc tội.
\s5
\v 12 Người phải đem nó đến với thầy tế lễ, và thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột đó với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va và rồi thiêu nó trên bàn thờ, trong các thứ của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ chuộc tội.
\v 13 Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho bất kỳ tội lỗi nào mà người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội. Bột còn dư lại từ của lễ sẽ thuộc về thầy tế lễ, giống như với của lễ chay vậy'".
\s5
\v 14 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 15 "Nếu ai vi phạm mạng lịnh và phạm tội nghịch lại những thứ thuộc về Đức Giê-hô-va, song không cố ý, thế thì người phải đem sinh tế chuộc tội mình đến với Đức Giê-hô-va. Sinh tế này phải là một con chiên đực không tì vít bắt từ trong bầy; giá trị của nó phải được định bằng những siếc-lơ bạc — siếc-lơ của nơi thánh — giống như sinh tế chuộc tội vậy.
\v 16 Người phải làm hài lòng Đức Giê-hô-va về những gì người đã làm sai trái khi kết nối với những gì là thánh, và người phải phụ thêm một phần năm thứ ấy rồi trao nó cho thầy tế lễ. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người với con chiên đực sinh tế chuộc tội, và người ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 17 Nếu có ai phạm tội và làm việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, ngay cả nếu người không biết việc ấy, người ấy vẫn là có tội và phải mang lấy chính tội lỗi của mình.
\v 18 Người phải đem một con chiên đực không tì vít bắt lấy từ trong bầy, xứng theo giá đã định, làm sinh tế chuộc tội cho thầy tế lễ. Khi ấy thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ấy về tội lỗi mà người đã phạm, về việc ấy người không biết, và người ấy sẽ được tha tội.
\v 19 Đây là một của lễ chuộc tội, và người chắc đã phạm tội ở trước mặt Đức Giê-hô-va".
\s5
\c 6
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Nếu có ai phạm tội và phá vỡ một điều răn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, tỉ như đối xử giả dối với người lân cận về một vật được giao cho mình, hoặc nếu người lừa đảo hay tước đoạt của người ấy, hoặc lấn lướt kẻ lân cận mình,
\v 3 hay đã tìm được thứ mà người lân cận mình bị thất lạc rồi nói dối về đồ vật ấy, và thề dối, hay trong các vấn đề giống như các việc nầy mà người ta phạm tội trong đó,
\v 4 khi đến lúc đó, nếu người đã phạm tội và mắc lỗi, người phải hồi trả bất cứ thứ chi người đã lấy bằng cách tước đoạt hay áp bức hoặc lấy thứ chi người ta giao cho người hay vật thất lạc mà người đã tìm được.
\s5
\v 5 Hoặc nếu người nói dối không cứ việc gì, người phải hồi trả nó đầy đủ và phải cộng thêm một phần năm để trả cho người mà mình đã mắc, vào ngày người nhận thấy mình mắc lỗi.
\v 6 Tiếp đến, người phải đem của lễ chuộc tội dâng lên cho Đức Giê-hô-va: một con chiên đực không tì vít bắt từ trong bầy với giá trị tương ứng, như một sinh tế chuộc sự mắc lỗi dâng cho thầy tế lễ.
\v 7 Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và người sẽ được tha tội về điều người đã mắc lỗi trong việc làm"
\s5
\v 8 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 9 "Hãy truyền cho A-rôn cùng các con trai người như sau: 'Đây là luật về của lễ thiêu: Của lễ thiêu phải ở trên đống lửa của bàn thờ suốt cả đêm cho tới sáng, và lửa của bàn thờ phải được giữ cho cháy luôn.
\s5
\v 10 Thầy tế lễ sẽ mặc y phục bằng vải lanh, và người cũng sẽ mặc đồ lót bằng vải lanh. Người sẽ hốt tro bị chừa lại sau khi lửa đã đốt của lễ thiêu trên bàn thờ, rồi người sẽ đem tro đến cạnh bàn thờ.
\v 11 Người sẽ cởi y phục ra rồi mặc bộ khác để đem tro ra ngoài trại quân đến một chỗ nào sạch sẽ.
\s5
\v 12 Lửa trên bàn thờ sẽ phải giữ cho cháy luôn. Lửa không thể bị tắt đi, và thầy tế lễ sẽ chụm thêm củi mỗi sáng. Người sẽ sắp của lễ thiêu như đã qui định cho nó, và người sẽ thiêu trên đó mỡ của sinh tế thù ân.
\v 13 Lửa phải được giữ cho cháy luôn liên tục trên bàn thờ. Nó không được tắt đi.
\s5
\v 14 Đây là luật về của lễ chay. Các con trai của A-rôn sẽ dâng của lễ ấy trước mặt Đức Giê-hô-va ở trước bàn thờ.
\v 15 Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột nhất hạng của của lễ chay và dầu cùng hương liệu chế trên của lễ chay, rồi người sẽ thiêu nó trên bàn thờ tạo ra mùi hương ngạt ngào khi suy nghĩ với lòng biết ơn đối với sự nhân từ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 A-rôn cùng các con trai người sẽ ăn bất kỳ thứ chi còn lại của sinh tế. Họ phải ăn nó không có men trong nơi thánh. Họ sẽ ăn nó trong sân của nơi nhóm lại.
\v 17 Nó không được nấu với men. Ta đã ban nó làm phần của họ trong các sinh tế được dâng lên bằng lửa. Sinh tế ấy là thánh nhất, giống như sinh tế chuộc tội và sinh tế chuộc sự mắc lỗi vậy.
\v 18 Trong mọi thời kỳ sắp đến xuyên suốt các dòng dõi của dân sự, các con trai, bất kỳ người nam nào ra từ A-rôn đều có thể ăn của lễ ấy là phần của người, lấy từ các sinh tế của Đức Giê-hô-va được dâng lên bằng lửa. Hễ ai đụng đến chúng sẽ được nên thánh".
\s5
\v 19 Vậy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se một lần nữa như sau:
\v 20 "Đây là của lễ của A-rôn cùng của các con trai người, thứ họ dâng lên cho Đức Giê-hô-va nhằm ngày từng người con được xức dầu: một phần mười ê-pha bột nhất hạng làm của lễ chay đều đặn, phân nửa của lễ ban sáng và phân nửa của lễ lúc ban chiều.
\s5
\v 21 Của lễ ấy được chiên sẵn với chảo có dầu. Khi của lễ chín rồi, các con sẽ đem nó đi dâng. Trong những miếng thịt đã chiên, các con sẽ dâng của lễ chay để tạo ra mùi thơm ngào ngạt cho Đức Giê-hô-va.
\v 22 Con trai của thầy tế lễ thượng phẩm nào sắp sửa làm thầy tế lễ thượng phẩm mới từ giữa vòng các con trai người sẽ dâng của lễ đó. Như đã truyền cho đến đời đời, mỗi của lễ ấy sẽ được thiêu trọn cho Đức Giê-hô-va.
\v 23 Từng của lễ chay của thầy tế lễ sẽ phải thiêu hết hoàn toàn. Họ không được ăn nó".
\s5
\v 24 Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se:
\v 25 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người như sau: 'Đây là luật về của lễ chuộc tội: Sinh tế chuộc tội phải bị giết ở chỗ mà sinh tế của lễ thiêu bị giết trước mặt Đức Giê-hô-va. Của lễ ấy phải là thánh nhất.
\v 26 Thầy tế lễ nào dâng sinh tế chuộc tội ấy sẽ ăn nó. Họ phải ăn nó trong nơi thánh ở sân của nơi nhóm lại.
\s5
\v 27 Bất cứ thứ chi đụng đến thịt đó sẽ được nên thánh, và nếu huyết được rải ra trên bất kỳ y phục nào, các con phải giặt nó, phần dính huyết phải được giặt sạch, trong nơi thánh.
\v 28 Những cái bình bằng đất chứa thịt trong đó phải bị đập bể đi. Nếu thịt được nấu trong nồi bằng đồng, người ta phải cạo nồi ấy và dùng nước rửa cho sạch.
\s5
\v 29 Bất cứ người nam nào giữa vòng các thầy tế lễ sẽ ăn thịt đó vì thịt ấy rất thánh.
\v 30 Và không một sinh tế chuộc tội nào có huyết được đem vào nơi nhóm lại để làm sự chuộc tội trong nơi thánh. Sinh tế ấy phải bị thiêu đi.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đây là luật về của lễ chuộc sự mắc lỗi. Của lễ nầy là chí thánh.
\v 2 Họ phải giết sinh tế chuộc sự mắc lỗi trong chỗ để giết nó, và họ phải rải huyết nó bốn bên của bàn thờ.
\v 3 Hết thảy mỡ phải được dâng lên: phần đuôi có mỡ, mỡ bao quanh bộ đồ lòng,
\v 4 hai trái cật cùng mỡ trên chúng, ở gần hông, và mỡ bao quanh gan, với hai trái cật — mọi thứ nầy phải được gỡ ra.
\s5
\v 5 Thầy tế lễ phải thiêu các phần nầy trên bàn thờ như một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ chuộc sự mắc lỗi.
\v 6 Từng người nam trong vòng thầy tế lễ sẽ ăn phần thịt của sinh tế nầy. Thịt đó họ phải ăn trong nơi thánh vì đó là vật chí thánh.
\s5
\v 7 Sinh tế chuộc tội thì giống như sinh tế chuộc sự mắc lỗi. Cùng một luật lệ áp dụng cho cả hai sinh tế nầy. Chúng thuộc về thầy tế lễ nào làm sự chuộc tội với chúng.
\v 8 Thầy tế lễ nào dâng của lễ thiêu của ai đó sẽ lấy cho mình phần da của sinh tế ấy.
\s5
\v 9 Từng của lễ chay nào được nấu trong lò, và từng sinh tế nào được chiên trên chảo hoặc nướng trên vĩ sẽ thuộc về thầy tế lễ nào dâng lên của lễ đó.
\v 10 Từng của lễ chay, một là khô hay trộn với dầu, sẽ thuộc về hết thảy dòng dõi của A-rôn.
\s5
\v 11 Đây là luật về sinh tế của lễ thù ân mà dân sự sẽ dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 12 Nếu ai dâng của lễ đó để cảm tạ, thì người ấy phải dâng nó với bánh sinh tế không có men, nhưng trộn với dầu, về bánh không có men, nhưng rưới dầu lên, và về bánh làm với bột nhất hạng trộn với dầu.
\s5
\v 13 Cũng vì mục đích dâng lên sự cảm tạ, người ấy phải dâng với bánh sinh tế thù ân được làm với men.
\v 14 Người cần phải dâng mỗi thứ sinh tế nầy như một của lễ trình lên cho Đức Giê-hô-va. Của lễ ấy sẽ thuộc về các thầy tế lễ nào rải huyết sinh tế thù ân lên trên bàn thờ.
\s5
\v 15 Người dâng của lễ thù ân vì mục tiêu cảm tạ phải ăn thịt của sinh tế nhằm ngày dâng của lễ. Người không nên chừa lại thứ chi của sinh tế ấy cho tới sáng mai.
\v 16 Nhưng nếu sinh tế của của lễ là vì mục đích thề hứa, hay vì mục đích dâng hiến theo lòng mình muốn, thịt phải được ăn trong ngày người dâng của lễ mình, nhưng thứ chi chừa lại phải được ăn trong ngày hôm sau.
\s5
\v 17 Tuy nhiên, bất cứ thịt nào của con sinh còn lại qua đến ngày thứ ba phải bị thiêu đi.
\v 18 Nếu thịt con sinh của sinh tế thù ân được ăn vào ngày thứ ba, điều đó sẽ không được chấp nhận, sẽ không được kể đến đối với người dâng của lễ đó. Nó sẽ là một thứ ghê tởm, và người nào ăn nó sẽ mang lấy tội lỗi của mình.
\s5
\v 19 Bất cứ thịt nào đụng đến một vật ô uế không nên ăn. Nó phải bị thiêu đi. Đối với phần thịt còn lại, người nào thanh sạch có thể ăn nó.
\v 20 Tuy nhiên, một người ô uế ăn bất kỳ thịt nào từ sinh tế thù ân thuộc về — người đó phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 21 Nếu người nào đụng đến bất kỳ vật ô uế nào — trong trường hợp ô uế của con người, hay ô uế của loài vật, hoặc một vật ô uế ghê tởm, và nếu người ăn thịt của sinh tế của lễ thù ân thuộc về Đức Giê-hô-va, người đó phải bị truất khỏi dân sự người'".
\s5
\v 22 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 23 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Các con không nên ăn mỡ của con bò hay chiên hoặc dê.
\v 24 Mỡ của thú vật nào chết mà không phải là con sinh, hay mỡ của thú vật bị thú hoang xé xác, có thể được dùng cho các mục đích khác, nhưng nhất định các con không được ăn nó.
\s5
\v 25 Hễ ai ăn mỡ của con thú nào mà người ta có thể dùng lửa dâng làm con sinh cho Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\v 26 Các con không nên ăn huyết trong nhà mình, dù là huyết con chim hay thú vật.
\v 27 Hễ ai ăn bất kỳ huyết nào, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình'".
\s5
\v 28 Thế là Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 29 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Người nào dâng con sinh của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va phải đem một phần con sinh của mình dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 30 Của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va phải được dùng lửa dâng lên, chính hai tay người ấy phải dâng nó lên. Người ấy phải dâng mỡ với cái vú, để cái vú làm của lễ đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình dâng cho Ngài.
\s5
\v 31 Thầy tế lễ phải thiêu mỡ trên bàn thờ, nhưng cái vú sẽ thuộc về A-rôn cùng dòng dõi của ông.
\v 32 Các con phải dâng cái giò bên phải cho thầy tế lễ làm của lễ lấy từ con sinh dâng lên làm của lễ thù ân của các con.
\s5
\v 33 Thầy tế lễ, một trong các dòng dõi của A-rôn, là người dâng huyết và mỡ sinh tế thù ân — người ấy sẽ có cái giò bên phải của sinh tế làm phần của mình.
\v 34 Vì ta đã nhận cái vú và cái giò của con sinh đưa qua đưa lại và trình dâng cho ta, và ta đã ban chúng cho A-rôn, thầy tế lễ thượng phẩm cùng dòng dõi của người; điều nầy sẽ luôn luôn là phần của họ lấy từ sinh tế của lễ thù ân mà dân Y-sơ-ra-ên trình lên.
\s5
\v 35 Đây là phần của A-rôn cùng dòng dõi của ông lấy từ những thứ của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, nhằm ngày mà Môi-se trình họ để hầu việc Đức Giê-hô-va trong công tác của thầy tế lễ.
\v 36 Đây là phần mà Đức Giê-hô-va đã truyền phải cung ứng cho họ từ dân Y-sơ-ra-ên, nhằm ngày họ xức dầu cho các thầy tế lễ. Đây luôn luôn sẽ là phần của họ trải qua bao đời.
\s5
\v 37 Đây là luật của của lễ thiêu, của của lễ chay, của của lễ chuộc tội, của của lễ chuộc sự mắc lỗi, của của lễ phong chức, và của sinh tế của lễ thù ân,
\v 38 về luật ấy Đức Giê-hô-va đã ban các điều răn cho Môi-se trên Núi Si-na-i nhằm ngày Ngài truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải dâng các thứ của lễ của họ lên cho Đức Giê-hô-va trong đồng vắng Si-na-i'".
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy đem A-rôn cùng các con trai người, y phục cùng dầu để xức, con bò đực dùng làm của lễ thiêu, hai con chiên đực, và giỏ bánh không men.
\v 3 Hãy nhóm cả hội chúng lại ở lối vào nơi nhóm lại".
\s5
\v 4 Vậy, Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn người, và hội chúng đến nhóm lại ngay lối vào của nơi nhóm.
\v 5 Tiếp đến Môi-se nói với hội chúng: "Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải lo làm".
\s5
\v 6 Môi-se đem A-rôn cùng các con trai người và lấy nước rửa họ.
\v 7 Ông mặc áo trong cho A-rôn rồi thắt đai lưng, mặc áo dài cho người rồi khoác lên người cái ê-phót, tiếp đến ông dùng đai cột cái ê-phót quanh người.
\s5
\v 8 Ông đặt bảng đeo ngực lên cho người, và ông tra U-rim và Thu-mim lên đó.
\v 9 Ông đội cái mão lên đầu người, và phía trước mão ông buộc cái thẻ vàng, chiếc mão thánh, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 10 Môi-se lấy dầu, xức cho đền tạm cùng mọi thứ trong đó, rồi dâng họ cho Đức Giê-hô-va.
\v 11 Ông rải dầu lên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu cho bàn thờ cùng các thứ đồ đạt nó, và cái chậu rửa cùng đáy chậu, dâng chúng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Ông đổ một chút dầu lên đầu của A-rôn rồi xức cho người để dâng người cho Đức Giê-hô-va.
\v 13 Môi-se đem các con trai A-rôn rồi mặc áo trong cho họ; ông thắt đai quanh hông họ rồi quấn khăn quanh đầu họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 14 Môi-se đem con bò đực dùng làm sinh tế chuộc tội, A-rôn cùng các con trai người đặt tay họ lên đầu của con bò đực mà họ mang theo dùng làm của lễ thiêu.
\v 15 Ông giết nó, rồi ông lấy huyết dùng ngón tay bôi nó trên sừng của bàn thờ, làm sạch bàn thờ, đổ huyết ra dưới chân của bàn thờ, rồi biệt nó riêng ra cho Đức Chúa Trời để làm sự chuộc tội cho nó.
\s5
\v 16 Ông lấy mỡ có nơi bộ đồ lòng, thùy của gan, và hai trái cật cùng mỡ chúng, và Môi-se thiêu nó hết thảy trên bàn thờ.
\v 17 Nhưng con bò đực, da, thịt và phân của nó ông đem thiêu ở ngoài trại quân, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 18 Môi-se trình con chiên đực dùng làm của lễ thiêu, A-rôn cùng các con trai người đặt tay lên đầu của con chiên.
\v 19 Ông giết nó rồi rải huyết nó ở chung quanh bàn thờ.
\s5
\v 20 Ông sả con chiên đực thành nhiều miếng rồi thiêu cái đầu cùng các miếng thịt và mỡ.
\v 21 Ông rửa bộ đồ lòng, hai cái giò bằng nước, rồi ông thiêu cả con chiên đực lên bàn thờ. Đây là của lễ thiêu, tạo ra mùi hương ngào ngạt, một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se.
\s5
\v 22 Tiếp đến Môi-se trình con chiên kia, con chiên về lễ phong chức, và A-rôn cùng các con trai người đặt tay trên đầu của con chiên.
\v 23 A-rôn giết nó, còn Môi-se lấy huyết của nó bôi nó trên trái tai bên hữu của A-rôn, trên ngón cái bàn tay phải của người, và trên ngón cái bàn chân bên phải của người.
\v 24 Ông đem các con trai của A-rôn, rồi ông bôi huyết trên trái tai bên phải của họ, trên ngón tay cái của bàn tay bên phải của họ, và trên ngón cái của bàn chân bên phải của họ. Khi ấy Môi-se rải huyết nó về phía bốn bên của bàn thờ.
\s5
\v 25 Ông lấy mỡ, phần đuôi có mỡ, hết thảy mỡ còn ở trong bộ đồ lòng, phần thùy của gan, hai trái cật mỡ của chúng, và cái giò hữu.
\v 26 Từ giỏ bánh không men đặt trước mặt Đức Giê-hô-va, ông lấy một ổ bánh không men, và một ổ bánh có dầu, rồi một cái bánh tráng, rồi đặt chúng lên mỡ cùng cái giò hữu.
\v 27 Ông đặt hết thảy trong tay của A-rôn cùng các con trai người, giơ chúng lên cao làm của lễ dâng lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Tiếp đến Môi-se lấy các thứ ấy khỏi tay của họ rồi thiêu chúng trên bàn thờ dùng làm của lễ thiêu. Chúng là của lễ về sự phong chức và tạo ra một mùi thơm ngào ngạt. Đây là của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 29 Môi-se lấy bánh giơ nó lên cao làm một của lễ cho Đức Giê-hô-va. Đây là phần của Môi-se về con chiên đực dùng phong chức cho các thầy tế lễ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn ông.
\s5
\v 30 Môi-se lấy một ít dầu dùng để xức và huyết ở trên bàn thờ; ông rải các thứ nầy lên A-rôn, lên y phục người, lên các con trai người, và trên y phục của các con trai người với người. Làm như thế nầy, ông đã dâng A-rôn cùng y phục người, và các con trai người cùng y phục của họ cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Vậy, Môi-se phán cùng A-rôn và các con trai người: "Hãy luộc thịt tai lối vào nơi nhóm lại, rồi ở đó ăn thịt ấy và bánh có trong giỏ của lễ phong chức, y như ta đã truyền: 'A-rôn cùng các con trai người sẽ ăn thịt đó'.
\v 32 Những gì còn thừa lại về thịt và về bánh anh em phải đem thiêu.
\v 33 Và anh em không được đi ra lối vào nơi nhóm lại trong bảy ngày, cho tới khi những ngày phong chức đã mãn. Vì Đức Giê-hô-va sẽ phong chức cho anh em trong bảy ngày.
\s5
\v 34 Những gì đã được làm ra trong ngày nầy — Đức Giê-hô-va đã truyền phải được làm ra để thực hiện sự chuộc tội cho anh em.
\v 35 Anh em sẽ ở lại cả ngày lẫn đêm trong bảy ngày tại lối vào nơi nhóm lại, và giữ mạng lịnh của của Đức Giê-hô-va, vậy anh em sẽ không chết, vì đây là những gì đã truyền ra".
\v 36 Vậy A-rôn cùng các con trai người dã làm theo mọi sự mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho họ qua Môi-se.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đến ngày thứ tám Môi-se cho mời A-rôn cùng các con trai người và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ông nói với A-rôn: "Hãy bắt một con bò con đực trong bầy để làm sinh tế chuộc tội, và một con chiên đực không vít đặng làm sinh tế của lễ thiêu, rồi dâng chúng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Anh phải nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Hãy bắt con dê đực làm sinh tế chuộc tội, một con bò con đực cùng một con chiên, cả hai đều một tuổi và không vít, đặng làm sinh tế của lễ thiêu;
\v 4 cũng hãy bắt một con bò tơ và một con chiên đực làm sinh tế thù ân dâng lên trước mặt Đức Giê-hô-va, và của lễ chay trộn với dầu, vì ngày nay Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra với anh em".
\v 5 Vậy, họ đem hết thảy các thứ mà Môi-se căn dặn đến nơi nhóm lại, và hết thảy hội chúng Y-sơ-ra-ên đến gần đứng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Khi ấy Môi-se nói: "Đây là điều Đức Giê-hô-va truyền cho anh em phải làm, hầu cho sự vinh hiển của Ngài sẽ hiện ra cùng anh em".
\v 7 Môi-se nói với A-rôn: "Hãy đến gần bàn thờ rồi dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu, rồi làm sự chuộc tội cho mình và cho dân sự, và dâng sinh tế vì mọi người đặng làm sự chuộc tội cho họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dạy".
\s5
\v 8 Vậy, A-rôn đến gần bàn thờ rồi giết con bò tơ đặng làm của lễ chuộc tội, cho bản thân ông.
\v 9 Các con trai của A-rôn trình huyết cho ông, và ông nhúng ngón tay mình vào đó rồi bôi huyết lên sừng của bàn thờ; khi ấy ông đổ huyết ra nơi chân của bàn thờ.
\s5
\v 10 Tuy nhiên, ông thiêu mỡ, hai trái cật, và thùy của gan trên bàn thờ làm của lễ chuộc tội, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se.
\v 11 Và ông thiêu thịt và da ở ngoài trại quân.
\s5
\v 12 A-rôn giết sinh tế của lễ thiêu, và các con trai ông trình huyết cho ông, ông rải huyết ấy ở bốn bên của bàn thờ.
\v 13 Khi ấy, họ trao cho ông của lễ thiêu, từng miếng một, cùng với cái đầu, và ông thiêu chúng trên bàn thờ.
\v 14 Ông rửa bộ đồ lòng, mấy cái giò rồi thiêu chúng làm của lễ thiêu trên bàn thờ.
\s5
\v 15 A-rôn trình của lễ của dân sự — một con dê, rồi bắt nó làm sinh tế chuộc tội cho họ và giết nó; ông dâng của lễ để chuộc tội, y như ông đã làm với con dê thứ nhứt.
\v 16 Ông trình của lễ thiêu rồi dâng nó y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn.
\v 17 Ông trình của lễ chay; ông bụm đầy tay mình rồi thiêu nó trên bàn thờ, cùng với của lễ thiêu ban sáng.
\s5
\v 18 Ông cũng giết con bò tơ và con chiên đực, sinh tế cho của lễ thù ân, là vì dân sự. Các con trai của A-rôn trình huyết cho ông, ông rải huyết ở bốn bên bàn thờ.
\v 19 Tuy nhiên, mỡ của bò đực và chiên đực, mỡ của cái đuôi, mỡ bao lấy bộ đồ lòng, hai trái cật, và thùy của gan —
\s5
\v 20 Họ sắp các thứ nầy trên phần ngực, và khi đó A-rôn thiêu mỡ trên bàn thờ.
\v 21 A-rôn giơ cao hai cái ngực và giò bên phải như một của lễ trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình chúng cho Ngài, như Môi-se đã căn dặn.
\s5
\v 22 Khi ấy A-rôn giơ cao hai bàn tay của ông lên hướng về dân sự rồi chúc phước cho họ; khi ấy ông bước xuống dâng của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, và của lễ thù ân.
\v 23 Môi-se và A-rôn vào trong nơi nhóm lại, rồi trở ra chúc phước cho dân sự, thì sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va hiện ra với mọi người.
\v 24 Lửa ra từ Đức Giê-hô-va rồi thiêu đốt của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi hết thảy dân sự nhìn thấy điều nầy, họ reo mừng và sấp mặt xuống đất.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Na-đáp và A-bi-hu, hai con trai của A-rôn, mỗi người lấy lư hương mình, đặt lửa ở trong đó, rồi bỏ hương lên. Thế rồi họ dâng lên thứ lửa không được chấp nhận trước mặt Đức Giê-hô-va, là lửa mà Ngài không truyền họ phải dâng.
\v 2 Vậy lửa ra từ trước mặt Đức Giê-hô-va rồi nuốt lấy họ, họ ngã chết trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Khi ấy Môi-se nói với A-rôn: "Đây là điều Đức Giê-hô-va đã nói khi Ngài phán: 'Ta sẽ tỏ sự thánh khiết ra cho những ai đến gần ta. Ta sẽ được vinh hiển trước mặt hết thảy dân sự'" A-rôn không nói được điều chi hết.
\v 4 Môi-se gọi Mi-sa-ên và Ên-sa-phan, hai con trai của U-xi-ên chú của A-rôn, ông nói với họ: "Hãy lại đây và khiêng hai anh em nầy ra khỏi trại quân ngay trước mặt đền tạm".
\s5
\v 5 Vậy, họ đến gần rồi khiêng chúng, vẫn còn mặt áo trong của thầy tế lễ, ra khỏi trại quân, y như Môi-se đã truyền dặn.
\v 6 Khi ấy Môi-se nói với A-rôn, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, các con trai của ông: "Đừng đề đầu trần, và đừng xé áo các con, hầu cho các con không phải chết, và để Đức Giê-hô-va sẽ không nổi giận với cả hội chúng. Nhưng hãy để cho bà con, cả nhà Y-sơ-ra-ên, than khóc về những kẻ mà lửa của Đức Giê-hô-va đã lòe ra.
\v 7 Các con không nên ra khỏi lối vào nơi nhóm lại, hoặc các con sẽ chết, vì dầu xức của Đức Giê-hô-va đang ở trên các con". Vậy, họ làm theo huấn thị của Môi-se.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn như sau:
\v 9 "Đừng uống rượu hay thứ chi mạnh, anh, các con trai của anh còn lại kia, khi bước vào nơi nhóm lại, anh và chúng nó sẽ không chết đâu. Đây là luật lệ thường trực xuyên suốt bao thế hệ của dân sự anh,
\v 10 để phân biệt giữa người thánh và người thường, và giữa kẻ ô uế và người thanh sạch,
\v 11 hầu cho anh em có thể dạy dỗ dân sự Y-sơ-ra-ên mọi luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se".
\s5
\v 12 Môi-se nói với A-rôn, Ê-lê-a-sa và với Y-tha-ma, các con trai còn lại của ông: "Hãy lấy của lễ chay còn lại từ các thứ của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, rồi hãy ăn nó không có men bên cạnh bàn thờ, vì là vật chí thánh.
\v 13 Phải ăn nó trong nơi thánh, vì đó là phần của anh và phần của các con trai anh trong các thứ của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va, đây là điều được truyền cho để nói cho anh em biết.
\s5
\v 14 Phần ngực được giơ lên làm của lễ và cái giò được trình lên cho Đức Giê-hô-va — hai thứ nầy anh em phải ăn ở một nơi thanh sạch đáng chấp nhận đối với Đức Chúa Trời. Anh cùng các con trai con gái với anh sẽ ăn các phần ấy, vì chúng đã được ban cho làm phần của anh và phần của các con trai anh về các thứ sinh tế trong của lễ tương giao của dân Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Cái giò được trình dâng cho Đức Giê-hô-va và phần ngực được giơ lên làm của lễ — chúng phải được đem chung với nhau với các sinh tế dùng lửa có mỡ, giơ chúng lên cao và trình chúng như một của lễ cho Đức Giê-hô-va. Chúng sẽ là phần thuộc về anh cùng các con trai anh với anh em cho đến đời đời, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn".
\s5
\v 16 Khi ấy Môi-se yêu cầu về con dê đực làm của lễ chuộc tội, thì thấy rằng nó đã bị thiêu. Vì vậy, ông nổi giận với Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, các con trai còn lại của A-rôn; ông nói:
\v 17 "Tại sao các cháu không ăn sinh tế chuộc tội trong khu vực của đền tạm, một khi đó là vật chí thánh, và khi Đức Giê-hô-va đã ban nó cho các cháu để cất đi tội lỗi của hội chúng, để làm sự chuộc tội cho họ trước mặt Ngài?
\v 18 Kìa, huyết nó không được đem vào trong đền tạm, vậy các cháu nhất định phải ăn nó trong khu vực đền tạm, y như ta đã truyền".
\s5
\v 19 Khi ấy A-rôn trả lời Môi-se: "Hãy xem, ngày nay chúng đã dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu của chúng trước mặt Đức Giê-hô-va, và việc nầy đã xảy ra cho tôi ngày nay. Nếu tôi đã ăn sinh tế chuộc tội hôm nay, điều đó có đẹp lòng trước mặt Đức Giê-hô-va hay không?"
\v 20 Khi Môi-se nghe điều đó, ông được hài lòng.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và cùng A-rôn như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: 'Đây là những vật sống mà anh em có thể ăn giữa vòng các loài thú đang sống trên đất.
\s5
\v 3 Anh em có thể ăn bất kỳ con thú nào có móng rẽ ra và nhơi.
\v 4 Tuy nhiên, có loài thú một là nhơi hay có móng rẽ ra, và anh em không nên ăn chúng, loài thú như lạc đà, vì nó nhơi song không có móng rẽ ra. Vậy, lạc đà là không sạch cho anh em.
\s5
\v 5 Cũng vậy, con chuột đồng: vì nó nhơi song không có móng rẽ ra, loài nầy cũng là không sạch cho anh em.
\v 6 Còn con thỏ: vì nó nhơi song chẳng có móng rẽ ra, đối với anh em con vật nầy là không sạch.
\v 7 Và con heo: mặc dù nó có móng rẽ ra, nó không có nhơi, vì vậy đối với anh em con vật nầy là không sạch.
\v 8 Anh em không nên ăn bất cứ thịt gì của chúng, cũng không đụng đến xác chết của chúng nữa. Đối với anh em chúng là không sạch.
\s5
\v 9 Các loài thú sống trong nước để anh em ăn là tất cả những con vật nào có vây và có vảy, dù là trong nước biển hay nước sông.
\v 10 Nhưng mọi vật sống nào không có vây cũng không có vảy sống dưới biển hay dưới sông, gồm mọi vật động nào đang sống trong nước — anh em phải gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 11 Một khi chúng bị gớm ghiếc, anh em không nên ăn thịt của chúng; anh em cũng không nên đụng vào xác chết của chúng nữa.
\v 12 Bất cứ thứ chi không có vây cũng không có vảy sống trong nước thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\s5
\v 13 Loài chim anh em phải gớm ghiếc và anh em không nên ăn là đây: chim ưng, chim kên kên,
\v 14 diều hâu, bất kỳ loại ó biển nào,
\v 15 từng thứ quạ,
\v 16 chim đà điểu và chim cú, chim mòng biển, và bất kỳ loài chim ưng nào.
\s5
\v 17 Anh em cũng phải gớm ghiếc chim cú nhỏ và chim cú lớn, cò quắm,
\v 18 con hạc chim thằng bè, chim ưng biển,
\v 19 con cò, bất kỳ loài diệc nào, chim đầu rìu, và loài dơi nữa.
\s5
\v 20 Mọi côn trùng hay bay, đi bằng chân thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\v 21 Tuy nhiên, anh em có thể ăn bất kỳ loài côn trùng hay bay nào cũng đi bằng chân nếu chúng có mấy chân khác phía trên đôi chân của chúng, chúng sử dụng các chân ấy để nhảy trên đất.
\v 22 Và anh em cũng có thể ăn bất kỳ loại cào cào, loài ve, châu chấu tùy theo loại.
\v 23 Nhưng hết thảy loài côn trùng hay bay có bốn chân thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\s5
\v 24 Anh em sẽ trở nên không sạch cho tới chiều tối bởi các loài thú nầy nếu anh em đụng đến xác chết của một loài trong chúng nó.
\v 25 Và ai mang xác chết của nó phải giặt áo mình và cứ ô uế cho đến chiều tối.
\s5
\v 26 Và từng loài thú có móng rẽ ra chân không hoàn toàn không chia hai hoặc không nhơi đều là không sạch cho anh em. Người nào đụng đến chúng sẽ bị ô uế.
\v 27 Bất cứ giống gì bốn cẳng giữa vòng các loài thú, chúng là không sạch đối với anh em. Hễ ai đụng đến cái thây đó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 28 Và hễ ai mang lấy một cái xác đó phải giặt áo của mình và bị ô uế cho đến chiều tối. Các loài vật nầy sẽ là không sạch đối với anh em.
\s5
\v 29 Trong các loài thú bò trên đất, đây là loài thú sẽ là không sạch cho anh em: chuột nhủi, chuột lắt, từng loại kỳ đà,
\v 30 cắc kè, thằn lằn, kỳ nhông và rắn mối.
\s5
\v 31 Trong các loài thú nào biết bò, đây là các loài thú sẽ là không sạch cho anh em. Hễ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 32 Và nếu bất kỳ loài nào trong số chúng chết đi và rơi trúng bất cứ thứ gì, vật đó sẽ bị ô uế, dù vật đó làm bằng gỗ, áo, da, hay bao. Dù đó là gì và người ta thường sử dụng, nó phải chịu ngâm trong nước; nó sẽ cầm là không sạch cho đến chiều tối. Khi ấy, nó sẽ được sạch lại.
\v 33 Khi bất kỳ vật ô uế nào rơi nhằm bình bằng đất sét, thứ chi đựng ở trong bình sự bị ô uế, và anh em phải đập bể cái bình đó đi.
\s5
\v 34 Mọi thứ đồ ăn đều là thanh sạch và được phép ăn, nhưng khi nước của bình ấy nhiễu vào, sẽ bị xem là không sạch. Và bất kỳ thức uống nào từ cái bình đó sẽ bị xem là không sạch.
\v 35 Mọi thứ trên đó một phần của xác chết loài thú ô uế rớt nhằm sẽ bị xem là không sạch, dù là bếp lò gì thì cũng phải phá tan thành từng mảnh. Nó là ô uế và phải xem là không sạch đối với anh em.
\s5
\v 36 Một con suối hay hồ chứa nước uống được kể là tinh sạch nếu một vật như thế rơi vào đấy. Nhưng nếu có ai đụng đến thây của một con vật ô uế ở trong nước, người đó bị kể là ô uế.
\v 37 Nếu bất kỳ phần nào của cái thây ô uế rơi nhằm bất kỳ giống gì để gieo trồng, giống đó sẽ được xem là tinh sạch.
\v 38 Nhưng nếu nước tưới lên giống đó, và nếu bất kỳ phần nào của thây ô uế kia rơi trên chúng, thì chúng sẽ bị kể lại không sạch đối với anh em.
\s5
\v 39 Nếu bất kỳ con vật nào anh em có thể ăn chết đi, khi ấy người nào chạm đến cái xác sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 40 Và hễ ai ăn bất kỳ cái xác nào phải giặt áo mình và bị kể là ô uế cho đến chiều tối. Và bất cứ ai mang lấy cái xác chết đó sẽ giặt áo mình và bị kể là ô uế cho đến chiều tối.
\s5
\v 41 4ừng loài vật nào bò trên đất sẽ bị xem là gớm ghiếc; anh em không nên ăn nó.
\v 42 Bất cứ thứ chi bò bằng bụng, và bất cứ con gì đi trên bốn chân, hay bất cứ vật chi có nhiều chân — mọi loài vật bò trên đất, anh em không nên ăn các thứ nầy, vì anh em phải gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 43 Anh em đừng nên làm cho mình ra ô uế với bất cứ loài vật sống nào biết bò; anh em đừng làm cho mình ra ô uế với chúng, anh em đừng làm cho mình ra không sạch với chúng.
\v 44 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em. Vì lẽ đó, hãy dâng thân thể mình cho Ta và phải nên thánh vì Ta là thánh. Anh em đừng nên làm ô uế mình với bất cứ loài vật nào đi trên đất.
\v 45 Vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để làm Đức Chúa Trời của anh em. Anh em vì lẽ đó phải nên thánh, vì Ta là thánh.
\s5
\v 46 Đây là luật lệ về các loài súc vật, loài chim, từng vật sống di động ở trong nước, và từng loài vật bò trên mặt đất,
\v 47 vì luật lệ nầy là một sự phân biệt được lập nên giữa loài ô uế và loài thanh sạch, và giữa những vật sống có thể ăn được và các vật sống không nên ăn'".
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, rằng: 'Nếu một người nữ mang thai rồi sanh một con trai, khi ấy người sẽ bị ô uế trong bảy ngày, y như người bị ô uế trong suốt thời kỳ kinh nguyệt của người.
\v 3 Đến ngày thứ tám đứa trẻ phải chịu phép cắt bì.
\s5
\v 4 Khi ấy sự thanh sạch của người mẹ đối với việc xuất huyết của người sẽ tiếp tục trong ba mươi ba ngày. Người không được chạm đến bất kỳ vật thánh nào hoặc đến trong khu vực đền tạm cho đến khi kỳ tinh sạch của người đã xong rồi.
\v 5 nếu nàng sanh một bé gái, khi ấy người sẽ bị ô uế trong hai tuần, như trong kỳ kinh nguyệt. Khi ấy kỳ tinh sạch của người mẹ sẽ tiếp tục trong sáu mươi sáu ngày.
\s5
\v 6 Khi những ngày tinh sạch của người mãn rồi, dù là trai hay gái, người phải đem chiên con một tuổi làm của lễ thiêu, và chim bồ câu con hay chim bồ câu làm của lễ chuộc tội, ngay lối vào của nơi nhóm lại, dâng cho thầy tế lễ.
\s5
\v 7 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va và làm sự chuộc tội cho người, và người sẽ được sạch không còn xuất huyết nữa. Đây là luật lệ về một người nữ sanh con, một là con trai hay con gái.
\v 8 ếu người không thể dâng một chiên con, khi ấy người phải bắt hai con chim bồ câu hoặc hai chim cu, một làm của lễ thiêu và con kia làm của lễ chuộc tội, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người; khi ấy người sẽ được sạch'".
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn như sau:
\v 2 "Khi ai đó có vết sưng trên da của mình hay mụt lở hoặc một đốm trắng, rồi da bị nhiễm và có một bệnh về da trên thân thể người, khi ấy người phải được dẫn đến A-rôn thầy tế lễ thượng phẩm, hay đến với một trong các con trai của dòng thầy tế lễ.
\s5
\v 3 Khi ấy thầy tế lễ sẽ khám bệnh về da trên thân thể người. Nếu lông ở khu vực bệnh đổi thành màu trắng, và nếu vết thương tỏ ra sâu hơn mặt da, khi ấy đó là một bệnh truyền nhiễm. Sau khi thầy tế lễ khám người, ông phải tuyên bố người là không sạch.
\v 4 Nếu có đốm trắng trên da, và đốm ấy không sâu hơn da, và nếu lông ở vùng không đổi thành màu trắng, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người với chứng bệnh ra trong bảy ngày.
\s5
\v 5 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ phải khám người để xem coi chỗ đó chẳng thấy tệ hơn, và nếu nó không lan trên da. Nếu không thấy lan ra, khi ấy thầy tế lễ phải biệt người riêng ra thêm bảy ngày nữa.
\v 6 Thầy tế lễ sẽ khám người một lần nữa vào ngày thứ bảy để xem coi chứng bệnh có khá hơn không và không lan ra xa trên da. Nếu nó không lan ra, khi ấy thầy tế lễ sẽ tuyên bố người là tinh sạch. Đó chỉ là mụt lở mà thôi. Người phải giặt áo mình, và khi ấy người được sạch.
\s5
\v 7 Nhưng nếu mụt lở lan ra trên da sau khi người tỏ mình ra với thầy tế lễ về sự tinh sạch của mình, khi ấy người phải tỏ mình cùng thầy tế lễ một lần nữa.
\v 8 Thầy tế lễ sẽ khám người để xem coi mụt lở có lan xa trên da hay không. Nếu nó lan ra, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một bệnh truyền nhiễm.
\s5
\v 9 Khi bệnh da bị nhiễm ở nơi người nào, khi ấy người phải được dẫn đến thầy tế lễ.
\v 10 Thầy tế lễ sẽ khám người để xem coi nếu có vết sưng sắc trắng trên da hay không, nếu lông đổi thành màu trắng, hoặc nếu có lằn thịt chín đổ ở nơi ấy hay không.
\v 11 Nếu có, khi ấy nó là bệnh da thâm niên, và thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Ông sẽ không biệt riêng họ, vì người là không sạch rồi.
\s5
\v 12 Nếu chứng bệnh lở ra trên da, bao phủ hết da của người ấy với chứng đó từ đầu đến chân, chỗ nào thầy tế lễ nhìn thấy bất kỳ,
\v 13 khi ấy thầy tế lễ phải khám người để xem coi chứng bệnh đã bao phủ hết cả thân người chưa. Nếu có, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người nầy có bệnh là tinh sạch. Nếu nó đổi sang màu trắng, khi ấy thì người là tinh sạch.
\v 14 Nhưng nếu thịt đỏ xuất hiện trên người, người sẽ bị xem là không sạch.
\s5
\v 15 Thầy tế lễ phải nhìn thấy thịt chín đỏ và công bố người là không sạch vì thịt chín đỏ là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 16 Nhưng nếu thịt chín đỏ đổi sang màu trắng trở lại, khi ấy người phải đi gặp thầy tế lễ.
\v 17 tế lễ sẽ khám người để xem coi nếu thịt đổi sang màu trắng hay không. Nếu nó đổi sang màu trắng thì thầy tế lễ sẽ công bố người ấy là tinh sạch.
\s5
\v 18 Khi một người có nhọt trên da và nó đã lành,
\v 19 và ở chỗ mụt nhọt có vết sung màu trắng hay một đốm trắng hồng, khi ấy chỗ nầy phải được thầy tế lễ khám.
\v 20 Thầy tế lễ sẽ khám coi nếu nó ăn sâu dưới da hay không, và nếu lông đổi sang màu trắng. Nếu vậy, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là chứng bệnh truyền nhiễm, nếu nó đã phát triển ở chỗ có mụt nhọt.
\s5
\v 21 Nhưng nếu thầy tế lễ khám nó và thấy chẳng có lông trắng ở đó, và không ăn sâu dưới da song đã tái rồi, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người trong bảy ngày.
\v 22 Nếu nó lan rộng trên da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 23 Nhưng nếu đốm trắng ở tại chỗ của nó mà không lan ra, rồi đó là vết thẹo của mụt nhọt, thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch.
\s5
\v 24 Khi da có vết phỏng và thịt chín đỏ do phỏng trở thành đốm trắng hay đốm trắng hồng,
\v 25 khi ấy thầy tế lễ sẽ khám nó để xem coi nếu lông ở chỗ đốm đó có đổi sang màu trắng hay không, và nếu nó ăn sâu dưới da. Nếu nó đổi sang màu trắng, khi ấy nó là chứng bệnh truyền nhiễm. Nó lở ra từ mụt phỏng, và thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là chứng bệnh truyền nhiễm.
\s5
\v 26 Nhưng nếu thầy tế lễ khám nó rồi thấy rằng chẳng có lông trắng ở chỗ đó, và da không bị ăn sâu song đã tái rồi, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người trong bảy ngày.
\v 27 Thế rồi, thầy tế lễ phải khám người vào ngày thứ bảy. Nếu nó lan rộng trên da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 28 Nếu đốm đó trụ lại trong chỗ của nó mà không lan ra trên da song đã tái rồi, khi ấy đó là vết sưng từ chỗ phỏng, và thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch, vì đó chẳng khác gì hơn vết sẹo của da bị phỏng.
\s5
\v 29 Nếu một người nam hay một người nữ có chứng bệnh truyền nhiễm trên đầu hay càm,
\v 30 khi ấy thầy tế lễ phải khám người về chứng bệnh truyền nhiễm để xem coi nó có ăn sâu dưới da hay không, và nếu có màu vàng, lông dày lên ở đó. Nếu có, thì thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đó là chứng ngứa, một chứng bệnh truyền nhiễm trên đầu và càm.
\s5
\v 31 Nếu thầy tế lễ khám chứng ngứa và thấy rằng nó không ăn sâu dưới da, và nếu không có lông đen ở đó, khi ấy thầy tế lễ sẽ biệt riêng người với bệnh ngứa trong bảy ngày.
\s5
\v 32 Đến ngày thứ bảy thầy tế lễ sẽ khám chứng bệnh xem coi nó có lan ra hay không. Nếu không có lông màu vàng, và nếu chứng bệnh chỉ có sâu dưới da,
\v 33 khi ấy người phải cạo râu, nhưng khu vực bệnh không được cạo, và thầy tế lễ phải biệt riêng người ra với bệnh ngứa trong bảy ngày nữa.
\s5
\v 34 Đến ngày thứ bảy thầy tế lễ sẽ khám bệnh để xem coi nó thôi không lan ra trên da hay không. Nếu nó không ăn sâu dưới da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch. Người phải giặt áo mình, và khi ấy người sẽ được sạch.
\s5
\v 35 Nhưng nếu bệnh ngứa đã lan rộng trên da sau khi thầy tế lễ đã nói người được sạch,
\v 36 khi ấy thầy tế lễ phải khám người trở lại. Nếu chứng bệnh lan ra trên da, thầy tế lễ không cần phải tìm kiếm có lông vàng hay không mà chi. Người ấy là không sạch.
\v 37 Nhưng nếu theo cách thấy của thầy tế lễ bệnh ngứa đã dứt không lan ra và lông đen mọc lại trên khu vực đó, khi ấy chứng bệnh đã được chữa lành. Người được sạch, và thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch.
\s5
\v 38 Nếu một người nam hay một người nữ có những đốm trắng trên da,
\v 39 khi ấy thầy tế lễ phải khám người xem coi nếu các đốm ấy màu trắng đục, chỉ là đốm lở trên da mà thôi. Người là tinh sạch.
\s5
\v 40 Nếu tóc của một người bị rụng đi, người bị sói đầu, nhưng người là tinh sạch.
\v 41 Và nếu tóc người đã rụng chổ trước đầu, và nếu trán người bị sói, người là tinh sạch.
\s5
\v 42 Nhưng nếu có chỗ vít trắng hồng trên chỗ sói đầu hay trên trán, đây là chứng bệnh truyền nhiễm đã lở ra.
\v 43 Khi ấy thầy tế lễ phải khám người để xem coi nếu vết sưng nơi khu vực bệnh trên chỗ sói đầu hay trên trán có màu trắng hồng, giống như bề ngoài của bệnh truyền nhiễm trên da.
\v 44 Nếu thực vậy, khi ấy người đang có chứng bệnh truyền nhiễm và người là không sạch. Thầy tế lễ phải chắc chắn công bố người là không sạch vì cớ chứng bệnh trên đầu người.
\s5
\v 45 Người nào có bệnh truyền nhiễm phải mặc thứ áo rách, tóc người thả xuôi, và người phải che mặt mình lên tới mũi và la lớn: 'Ô uế, ô uế'.
\v 46 Trọn những ngày người bị bệnh truyền nhiễm, người sẽ là không sạch. Vì người là không sạch với chứng bệnh có thể lây lan, người phải sống một mình. Người phải sống ở ngoài trại quân.
\s5
\v 47 Một cái áo bị nhiễm mốc, dù là len hay vải thường,
\v 48 hay đồ vật được đan dệt dù bằng len hay vải mịn, hoặc bằng da hay bất cứ gì làm bằng da —
\v 49 nếu chỗ nhiễm đó màu xanh hay đỏ trên quần áo, trên da, được đan dệt hoặc món nào bằng da, khi ấy đó là vít mốc lan ra; cần phải đi khám nơi thầy tế lễ.
\s5
\v 50 Thầy tế lễ phải khám thứ có vít mốc; ông phải biệt riêng ra bất cứ thứ chi có mốc trong bảy ngày.
\v 51 Ông phải khám mốc một lần nữa vào ngày thứ bảy. Nếu nó lan ra trên quần áo hoặc bất cứ thứ chi được đan dệt bằng len hoặc vải mịn, hay da hoặc bất cứ thứ chi da được dùng đến, khi ấy đây là thứ mốc có hại, và mọi thứ đều là không sạch.
\v 52 Ông phải thiêu bộ quần áo, hay bất cứ thứ chi đan dệt từ len hay vải mịn, hoặc da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da, bất cứ thứ chi trong đó mốc gây hại được tìm thấy, vì nó có thể dẫn tới bệnh tật. Đồ đạt phải bị thiêu hết.
\s5
\v 53 Nếu thầy tế lễ khám đồ đạt và thấy rằng mốc không lan ra trong quần áo hay đồ vật được đan dệt bằng len hay vải mịn, hoặc các thứ bằng da,
\v 54 khi ấy ông sẽ truyền cho họ phải giặt đồ đạt có mốc được tìm thấy trong đó, và ông phải biệt lập nó thêm bảy ngày nữa.
\v 55 Khi ấy thầy tế lễ sẽ khám đồ đạt sau khi thứ có mốc đã được đem giặt rồi. Nếu mốc không thay đổi màu sắc của nó, mặc dù nó không lan ra, nó là không sạch. Anh em phải thiêu món đồ ấy đi, vô luận chỗ mốc đã làm hỏng nó.
\s5
\v 56 Nếu thầy tế lễ khám đồ vật, và nếu vết mốc tái đi sau khi món đồ đã được giặt, khi ấy ông phải xé toạc phần bị nhiễm từ quần áo hay từ đồ da, hoặc từ đồ được làm bằng vật liệu đan dệt.
\v 57 Nếu vết mốc vẫn còn lan ra trong quần áo, dù là đan hay dệt, hoặc bất kỳ thứ gì làm bằng da, nó đang lan ra. Ông phải thiêu bất kỳ món gì có vết mốc.
\v 58 Quần áo hay bất kỳ thứ chi đan dệt từ len hay vải mịn, hoặc da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da — nếu ông giặt món đồ đó và vết mốc không còn nữa, thế thì món đồ phải đem giặt lần thứ nhì và nó sẽ được sạch.
\s5
\v 59 Đây là luật lệ về vết mốc trong quần áo hay đồ đan dệt, hoặc bất cứ thứ chi được đan dệt từ len hay vải mịn, hay đồ da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da, hầu cho ông có thể công bố món đồ đó là sạch hay không sạch".
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se như sau:
\v 2 "Đây sẽ là luật cho người nhiễm bệnh nhằm ngày tinh sạch của người. Người bệnh phải được đưa tới gặp thầy tế lễ.
\s5
\v 3 Thầy tế lễ sẽ ra ngoài trại quân để khám cho người, xem coi da bị nhiễm đã được lành chưa!
\v 4 Khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền cho người bệnh đã được sạch phải đem hai con chim tinh sạch còn sống, cây tuyết tùng, màu đỏ sặm và dụng cụ để rải nước.
\v 5 Thầy tế lễ sẽ truyền cho người phải giết một con chim trên chỗ có nước đựng trong bình bằng đất sét.
\s5
\v 6 Thầy tế lễ khi ấy bắt con chim còn sống và cây tuyết tùng màu đỏ sặm và dụng cụ rải nước, rồi ông nhúng hết thảy các thứ nầy, kể cả con chim sống, vào trong huyết của con chim đã bị giết trên chỗ có nước.
\v 7 Khi ấy thầy tế lễ sẽ rải nước nầy bảy lần lên trên người đã được xem là tinh sạch đối với chứng bệnh, và khi ấy thầy tế lễ sẽ công bố người là tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ thả con chim còn sống kia ra ngoài đồng.
\s5
\v 8 Người nào đã được xem là tinh sạch sẽ giặt áo mình, cạo râu, và tắm mình trong nước, và khi ấy người sẽ được sạch. Sau đó, người phải vào trong trại quân, song người sẽ sống ở ngoài lều của mình trong bảy ngày.
\v 9 Đến ngày thứ bảy, người phải cạo hết tóc trên đầu mình, và người cũng phải cạo râu và chân mày. Người phải cạo hết tóc, rồi phải giặt quần áo, tắm mình trong nước, thì người sẽ được sạch.
\s5
\v 10 Đến ngày thứ tám, người phải bắt hai con chiên không vít, một con chiên cái một tuổi không vít, và 3/10 ê-pha bột nhất hạng trộn với một chút dầu giống như của lễ chay.
\v 11 Thầy tế lễ làm cho người tinh sạch sẽ đứng với người được làm cho tinh sạch, cùng với các thứ đó, trước mặt Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 12 Thầy tế lễ sẽ bắt một con chiên rồi dâng nó lên làm của lễ chuộc sự mắc lỗi, cùng với một chút dầu; người sẽ giơ chúng lên như một của lễ ở trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình chúng cho Ngài.
\v 13 Người phải giết con chiên đực trong chỗ mà họ giết sinh tế chuộc tội và sinh tế làm của lễ thiêu, trong khu vực của đền tạm, vì của lễ chuộc tội thuộc về thầy tế lễ, như của lễ chuộc sự mắt lỗi vậy, vì nó là vật chí thánh.
\s5
\v 14 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi rồi bôi nó vào trái tai bên phải của người được xem là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái bàn chân phải của người.
\v 15 Khi ấy thầy tế lễ lấy một chút dầu rồi chế vào bàn tay trái của mình,
\v 16 rồi nhúng ngón tay phải vào trong dầu đang ở trong bàn tay trái mình, rồi rải một ít dầu với ngón tay mình bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Thầy tế lễ sẽ bôi phần dầu còn lại trên tai bên phải của người được kể là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải của người ấy. Ông phải bôi dầu nầy trên lớp huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi.
\v 18 Còn phần dầu còn lại ở trong bàn tay của thầy tế lễ, ông sẽ bôi nó lên đầu của người được kể là tinh sạch, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Khi ấy thầy tế lễ sẽ dâng sinh tế chuộc tội và làm sự chuộc tội cho người nào được xem là tinh sạch vì cớ sự không sạch của mình, rồi sau đó ông sẽ giết sinh tế của lễ thiêu.
\v 20 Khi ấy thầy tế lễ dâng của lễ thiêu và của lễ chay trên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người đó, và rồi người sẽ được sạch.
\s5
\v 21 Tuy nhiên, nếu người nầy nghèo không thể dâng các con sinh nầy, khi ấy người sẽ bắt một con chiên đực làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi, nó được giơ lên và trình cho Đức Giê-hô-va đặng làm sự chuộc tội cho chính mình, và 1/10 ê-pha bột nhất hạng với dầu làm của lễ chay, và một chút dầu,
\v 22 cùng với hai con chim bồ câu hay hai con chim cu con, tùy theo phương thế mình; một con chim sẽ là của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu.
\v 23 Đến ngày thứ tám người phải đem chúng để làm sạch cho mình đến với thầy tế lễ, tại lối vào của nơi nhóm lại, ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Khi ấy thầy tế lễ sẽ bắt lấy con chiên dùng làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi với một chút dầu, và ông sẽ giơ chúng lên như một của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va và trình chúng cho Ngài.
\v 25 Ông sẽ giết con chiên dùng làm sinh tế của lễ thiêu, và ông sẽ lấy một ít huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi rồi bôi nó trên trái tai bên phải của người được xem là tinh sạch, trên ngón cái tay phải, và trên ngón cái chân phải của người ấy.
\s5
\v 26 Khi đó thầy tế lễ sẽ chế một chút dầu vào lòng bàn tay bên trái của ông,
\v 27 rồi ông sẽ dùng ngón tay phải rải một ít dầu đang ở trên bàn tay trái của ông bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Thầy tế lễ khi ấy sẽ lấy một chút dầu trên bàn tay của mình bôi trên trái tai bên phải của người được cho là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải, cùng vị trí mà ông bôi huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi.
\v 29 Ông sẽ bôi phần dầu còn lại ở trong bàn tay của mình lên đầu của người nào được xem là tinh sạch, để làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 30 Người phải dâng một trong hai con chim bồ câu hay hai con chim cu, y như người thường làm —
\v 31 một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, cùng với của lễ chay. Khi ấy thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người được xem là tinh sạch ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 32 Đây là luật cho một người có bệnh truyền nhiễm về da nơi họ, người nầy không thể dâng các thứ con sinh tiêu chuẩn để làm sự tinh sạch cho mình".
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và với A-rôn như sau:
\v 34 "Khi hai con vào trong xứ Ca-na-an mà ta đã ban cho các con làm cơ nghiệp, và nếu ta đặt một vết mốc lan trong một ngôi nhà trong xứ sản nghiệp của các con,
\v 35 khi ấy người chủ nhà phải đến trình cùng thầy tế lễ. Người phải nói: 'Đối với tôi, dường như có một thứ giống như vết mốc trong nhà của tôi'.
\s5
\v 36 Khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền rằng họ lo dọn dẹp trống căn nhà trước khi ông bước vào để xem bằng chứng về vết mốc, hầu cho không một thứ chi trong nhà sẽ bị kể là không sạch. Sau đó thầy tế lễ bước vào trong để xem xét ngôi nhà.
\v 37 Ông phải khám vết mốc để xem coi vết ấy có ở trên tường nhà hay không, và để xem nó có màu xanh hay màu đỏ ở các lỗ trên bề mặt của bức tường hay không.
\v 38 Nếu ngôi nhà không có vết mốc, khi ấy thầy tế lễ sẽ ra khỏi nhà, đóng cửa ngôi nhà lại trong bảy ngày.
\s5
\v 39 Khi ấy thầy tế lễ sẽ trở lại một lần nữa nhằm ngày thứ bảy và khám xét nó để xem coi vết mốc có lan ra trên các bức tường của ngôi nhà hay không?
\v 40 Nếu vết mốc lan ra, khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền rằng họ phải gỡ lấy hết những hòn đá được thấy có vết mốc rồi liệng chúng vào một chỗ dơ dáy ở bên ngoài thành phố.
\s5
\v 41 Ông sẽ buộc người ta phải cạo đi các bức tường bên trong ngôi nhà, và họ phải hốt thứ bị cạo đó đem ra ngoài thành bỏ ở một nơi dơ dáy.
\v 42 Họ phải lấy mấy hòn đá khác rồi đặt chúng ở chỗ mấy hòn đá đã bị dời đi, và họ phải sử dụng đất sét mới trám lại cả ngôi nhà.
\s5
\v 43 Nếu vết mốc tái phát ở chỗ mấy hòn đá được dời đi và các bức tường đã bị cạo và trám lại,
\v 44 khi ấy thầy tế lễ phải bước vào khám lại ngôi nhà để xem coi vết mốc có lan ra trong nhà hay không? Nếu vết mốc có lan ra, khi ấy đó là vết mốc gây hại, và ngôi nhà là không sạch.
\s5
\v 45 Ngôi nhà phải bị đập bỏ đi. Những hòn đá, gỗ, và hồ trong ngôi nhà phải bị bỏ đi ở ngoài thành ở một nơi dơ dáy.
\v 46 Thêm nữa, hễ ai vào trong ngôi nhà trong thời điểm trong ngôi nhà bị niêm sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 47 Bất kỳ người nào ngủ trong ngôi nhà phải giặt quần áo mình, và bất kỳ ai ăn uống trong ngôi nhà phải giặt quần áo mình.
\s5
\v 48 Nếu thầy tế lễ bước vào ngôi nhà để khám nó xem coi vết mốc có còn lan ra trong nhà hay không sau khi ngôi nhà đã được trám, khi ấy, nếu vết mốc không còn nữa, ông sẽ công bố ngôi nhà được sạch.
\s5
\v 49 Khi ấy thầy tế lễ phải bắt hai con chim để thanh tẩy ngôi nhà, và cây tuyết tùng, màu đỏ sặn và dụng cụ rải nước.
\v 50 Ông sẽ giết một con chim trong cái bình đất sét đựng nước.
\v 51 Ông sẽ lấy cây tuyết tùng, dụng cụ rải nước, màu đỏ sặm, và con chim còn sống, rồi nhúng chúng vào huyết của con chim bị giết, trong chậu nước, rồi rải trên nhà ấy bảy lần.
\s5
\v 52 Ông sẽ làm sạch cho ngôi nhà với huyết của con chim và với nước sạch, với con chim còn sống, cây tuyết tùng, dụng cụ rải nước màu đỏ sặm.
\v 53 Nhưng ông sẽ thả con chim sống bay đi khỏi thành vào trong đồng vắng. Bằng cách nầy ông làm sự chuộc tội cho ngôi nhà, và ngôi nhà ấy sẽ được sạch.
\s5
\v 54 Đây là luật cho mọi loại chứng bệnh truyền nhiễm về da cùng những thứ gây ra chứng bệnh đó, và cho bệnh ngứa,
\v 55 và cho vết mốc nơi quần áo và nhà cửa,
\v 56 cho vết sưng, cho chỗ lở, và chỗ có đốm,
\v 57 để quyết định khi nào bất kỳ các thứ trường hợp nầy được sạch hay không sạch. Đây là luật về những chứng bệnh truyền nhiễm về da và vết mốc".
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và với A-rôn như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, và hãy nói với họ: 'Khi bất kỳ người nào có bệnh bạch trược, chất lỏng thải ra khỏi thân thể mình, người ấy là không sạch.
\v 3 Tình trạng không sạch của người phù hợp với bạch trược đó. Dù thân thể người chảy ra chất lỏng hoặc bị ứ lại, nó là không sạch.
\s5
\v 4 Từng cái giường nào người nằm trên đó sẽ là không sạch, và mọi thứ nào người ngồi lên sẽ là không sạch.
\v 5 Hễ ai chạm đến giường người phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và cứ không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 6 Bất kỳ người nào ngồi lên thứ chi mà người bị bệnh bạch trược đã ngồi, người ấy phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, rồi người cứ không sạch cho đến chiều tồi.
\v 7 Và bất cứ ai đụng đến thân thể của người bị bệnh bạch trược phải giặt quần áo rồi tắm trong nước, và là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 8 Nếu người nào bị bệnh bạch trược nhổ nhằm người nào tinh sạch, thì người ấy phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\v 9 Bất kỳ yên ngựa nào người mắc bệnh nầy ngồi lên sẽ bị kể là không sạch.
\s5
\v 10 Hễ ai đụng đến bất kỳ thứ chi ở dưới người ấy sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối, và người nào mang lấy những vật ấy phải giặt quần áo rồi tắm mình trong nước; người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 11 Hễ ai mà người bị bệnh bạch trược đụng đến mà trước hết không rửa tay mình trong nước, người bị đụng đến phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\v 12 Bất kỳ cái bình đất sét nào mà người bệnh bạch trược đụng đến phải bị đập bể đi, và bình chứa bằng gỗ phải được rửa trong nước.
\s5
\v 13 Khi người nào bị bệnh bạch trược đã được lành rồi, khi ấy người phải tính từ ngày lành đến bảy ngày; rồi người phải giặt quần áo và tắm trong nước chảy. Khi ấy người sẽ được sạch.
\v 14 Nhằm ngày thứ tám, người phải bắt hai con chim bồ câu hay hai con chim cu rồi đến trước mặt Đức Giê-hô-va ở lối vào của nơi nhóm lại; ở đó người phải dâng hai con chim cho thầy tế lễ.
\v 15 Thầy tế lễ phải dâng chúng, một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, và thầy tế lễ phải làm sự chuộc tội cho người ấy trước mặt Đức Giê-hô-va vì bệnh của mình.
\s5
\v 16 Nếu tinh dịch của bất kỳ người nào tự ý tuôn ra khỏi người, khi ấy người phải tắm cả thân mình trong nước; người sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 17 Từng cái áo cái quần hay da có tinh dịch dính đến phải được rửa với nước; việc ấy bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 18 Và nếu một người nữ và một người nam ngủ với nhau và có sự chuyển tinh dịch qua cho nàng, cả hai người phải tự tắm mình trong nước; họ sẽ bị coi là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 19 Khi một người nữ có kinh nguyệt, tình trạng không sạch của nàng sẽ tiếp tục trong bảy ngày, và hễ ai đụng đến nàng sẽ bị coi là không sạch cho đến chiều tối.
\v 20 Mọi sự nàng nằm lên trong suốt thời kỳ của nàng sẽ bị coi là không sạch; mọi sự nàng ngồi lên cũng sẽ là không sạch.
\s5
\v 21 Hễ ai đụng đến giường của nàng phải giặt quần áo và tắm mình trong nước; người ấy sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 22 Hễ ai đụng đến bất cứ thứ chi nàng ngồi lên phải giặt quần áo và tắm mình trong nước; người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 23 Trong trường hợp vật đó ở trên giường hay trên vật chi nàng ngồi lên, nếu nàng đụng đến, người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 24 Nếu có người nào ngủ với nàng ta, và nếu tình trạng không sạch của nàng chảy ra dính người, người sẽ là không sạch trong bảy ngày. Giường nào người nằm trên đó sẽ bị kể là không sạch.
\s5
\v 25 Nếu người nữ xuất huyết trong nhiều ngày mà không phải là kỳ kinh nguyệt, hoặc nếu nàng cứ xuất huyết quá thời hạn kinh nguyệt, trong suốt những ngày xuất huyết đó nàng bị kể là không sạch, nàng sẽ bị kể là không sạch y như trong thời kỳ của mình vậy. Nàng là không sạch.
\v 26 Cái giường nào trên đó nàng nằm trọn lúc xuất huyết sẽ y như lúc trong thời kỳ kinh nguyệt, và mọi sự trên đó nàng ngồi lên sẽ bị xem là không sạch, y như tình trạng không sạch của thời kỳ kinh nguyệt của nàng vậy.
\v 27 Và hễ ai đụng đến bất kỳ thứ chi trong các thứ đó sẽ bị kể là không sạch; người phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 28 Nhưng nếu nàng được sạch khỏi sự xuất huyết mình rồi, khi ấy nàng sẽ tự tính bảy ngày, và sau đó nàng sẽ được sạch.
\v 29 Đến ngày thứ tám nàng sẽ bắt hai con chim bồ câu hoặc hai con chim cu con rồi đem chúng đến thầy tế lễ tại chỗ lối vào của nơi nhóm lại.
\v 30 Thầy tế lễ dâng một con chim làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, và ông sẽ làm sự chuộc tội cho nàng trước mặt Đức Giê-hô-va vì sự xuất huyết không sạch của nàng.
\s5
\v 31 Đây là cách các con phải phân biệt dân Y-sơ-ra-ên đối với tình trạng không sạch của họ, vì vậy họ sẽ không chết so với sự ô uế của họ, do làm ô uế đền tạm của ta, nơi ta ngự giữa vòng họ.
\s5
\v 32 Đây là luật lệ cho bất cứ ai bị bệnh bạch trược, cho bất cứ ai bị xuất tinh ra ngoài và làm cho họ không sạch,
\v 33 cho bất kỳ người nữ nào có thời kỳ kinh nguyệt, cho bất kỳ ai bị bạch trược, dù là nam hay nữ, và cho bất kỳ người nam nào ngủ với một người nữ không sạch'".
\s5
\c 16
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se — điều nầy đã xảy ra sau cái chết của hai con trai A-rôn, khi họ đến gần Đức Giê-hô-va và rồi ngã chết.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: "Hãy nói với A-rôn anh của con, và nói cho người biết: đừng bước vào nơi chí thánh bất kỳ giờ giấc nào bên trong bức màn, trước nắp chuộc tội đậy trên hòm. Nếu người bước vào, người sẽ chết, vì ta hiện ra trong đám mây trên nắp chuộc tội”.
\s5
\v 3 Vậy, đây là cách A-rôn phải bước vào nơi chí thánh. Người phải bước vào với con bò đực làm sinh tế chuộc tội, và một con chiên đực làm sinh tế của lễ thiêu.
\v 4 Người phải mặc áo thánh bằng vải mịn, và người phải mặc trên người quần bằng vải mịn, và người phải thắt đai và đội mão bằng vải mịn. Đây là bộ áo thánh. Người phải tắm thân thể mình trong nước và tự mặc lấy với các thứ y phục nầy.
\v 5 Người phải bắt từ trong hội chúng dân Y-sơ-ra-ên hai con dê đực làm sinh tế chuộc tội và một con chiên đực làm sinh tế của lễ thiêu.
\s5
\v 6 Khi ấy A-rôn phải trình con bò đực làm sinh tế của lễ chuộc tội, chuộc tội cho bản thân mình, làm sự chuộc tội cho bản thân mình và gia đình mình.
\v 7 Khi ấy ông phải bắt hai con dê rồi đặt chúng ở trước mặt Đức Giê-hô-va ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\s5
\v 8 Khi ấy A-rôn phải bóc thăm cho hai con dê, một thăm cho Đức Giê-hô-va, và thăm kia về A-xa-sên.
\v 9 A-rôn khi ấy phải trình con dê có lá thăm về phần Đức Giê-hô-va, và dâng con dê kia làm sinh tế chuộc tội.
\v 10 Nhưng con dê có thăm về phần A-xa-sên phải được đem đến còn sống trước mặt Đức Giê-hô-va, để làm sự chuộc tội bằng cách đuổi nó vào trong đồng vắng.
\s5
\v 11 Khi ấy A-rôn phải trình con bò đực đặng làm sinh tế chuộc tội, để chuộc tội cho bản thân ông. Ông phải làm sự chuộc tội cho bản thân mình và cho gia đình mình, vậy ông phải giết con bò đực làm sinh tế chuộc tội cho bản thân mình.
\s5
\v 12 A-rôn phải lấy lư hương đầy than rực đỏ từ bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, với hai bàn tay ông đầy những hương liệu ngào ngạt, rồi đem các thứ nầy vào bên trong bức màn.
\v 13 Ở đó, ông phải đặt hương liệu trên ngọn lửa ở trước mặt Đức Giê-hô-va hầu cho khói từ hương liệu sẽ bao phủ nắp chuộc tội đậy trên hòm giao ước. Ông phải làm điều nầy để ông sẽ không ngã chết.
\s5
\v 14 Khi ấy ông phải lấy một ít huyết của con bò đực rồi rải nó với ngón tay ông ở trước nắp chuộc tội. Ông phải rải một ít huyết với ngón tay mình bảy lần ở trước nắp chuộc tội.
\s5
\v 15 Khi ấy ông phải giết con dê làm sinh tế chuộc tội cho dân sự rồi đem huyết của nó vào bên trong bức màn. Ở đó ông phải làm với huyết như ông đã làm với huyết của con bò đực: ông phải rải huyết ấy trên nắp chuộc tội và kế đó ở trước nắp chuộc tội.
\v 16 Ông phải làm sự chuộc tội cho nơi thánh vì cớ những hành vi bất khiết của dân Y-sơ-ra-ên, và vì cớ sự loạn nghịch của họ và mọi tội lỗi của họ. Ông cũng phải làm điều nầy cho nơi nhóm lại, ở đó Đức Giê-hô-va ngự giữa vòng họ, trong sự hiện diện của mọi hành vi bất khiết của họ.
\s5
\v 17 Không một người nào được ở trong nơi nhóm lại khi A-rôn bước vào làm sự chuộc tội tại nơi chí thánh, và cho đến khi ông bước ra và đã thực hiện xong sự chuộc tội cho bản thân ông cùng gia đình ông, và cho cả hội chúng của Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Ông phải ra khỏi bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va rồi làm sự chuộc tội cho nó, và ông phải lấy một ít huyết của con bò đực và huyết của con dê rồi bôi nó lên các sừng bốn bên bàn thờ.
\v 19 Ông phải rải một ít huyết lên nó với ngón tay ông bảy lần để làm sạch nó và dâng nó cho Đức Giê-hô-va, là vì mọi hành vi bất khiết của dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 20 Khi ông làm xong sự chuộc tội cho nơi chí thánh, nơi nhóm lại, bàn thờ, ông phải trình con dê còn sống.
\v 21 A-rôn phải đặt cả hai tay mình lên đầu con dê còn sống rồi xưng trên nó mọi sự gian ác của dân Y-sơ-ra-ên, mọi sự loạn nghịch của họ, cùng mọi tội lỗi của họ. Khi ấy ông phải đặt mọi tình trạng tội lỗi đó lên đầu của con dê rồi đuổi con dê đi trong sự chực sẵn của một người, người ấy sẵn sàng dẫn con dê vào trong đồng vắng.
\v 22 Con dê phải mang trên mình mọi sự gian ác của con người vào một nơi vắng vẻ. Ở đó trong đồng vắng, người kia phải để cho con dê đi tự do.
\s5
\v 23 Khi ấy A-rôn phải trở vào nơi nhóm lại rồi lấy bộ y phục bằng vải mịn mà ông đã mặc trước khi bước vào nơi chí thánh, và ông phải để bộ đồ tại đó.
\v 24 Ông phải tắm thân thể mình trong nước ở nơi thánh, rồi mặc bộ thường phục; khi ấy, ông phải bước ra ngoài rồi dâng của lễ thiêu của mình và của lễ thiêu cho dân sự, và theo cách thức nầy làm sự chuộc tội cho bản thân mình và cho dân sự.
\s5
\v 25 Ông phải thiêu mỡ của sinh tế chuộc tội trên bàn thờ.
\v 26 Người nào thả con dê A-xa-sên phải gặt y phục mình rồi tắm thân thể mình trong nước; sau đó, ông sẽ trở vào trong trại quân.
\s5
\v 27 Con bò đực dùng làm sinh tế chuộc tội và con dê dùng làm sinh tế chuộc tội, huyết của chúng được mang vào trong để làm sự chuộc tội trong nơi thánh, phải được đem ra ngoài trại quân. Ở đó họ phải thiêu da, thịt, và phân của nó.
\v 28 Người nào thiêu các phần ấy phải giặt y phục mình rồi tắm mình trong nước; sau đó, người có thể trở vào trại quân.
\s5
\v 29 Điều nầy sẽ là một luật cho các con, đến tháng thứ bảy, nhằm ngày mồng mười tháng ấy, các con phải tự hạ mình xuống và chớ làm công việc nào hết, dù người bản xứ sinh đẻ hay một người ngoại quốc đang sống giữa vòng các con.
\v 30 Sở dĩ như vậy là vì nhằm ngày nầy sự chuộc tội sẽ được làm cho các con, để thanh tẩy các con khỏi mọi tội lỗi hầu cho các con sẽ được sạch ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 31 là một ngày Sa-bát trang trọng yên nghỉ cho các con, và các con phải tự hạ mình xuống và chớ làm công việc nào hết. Điều nầy sẽ luôn luôn là một lệ định giữa vòng các con.
\s5
\v 32 Thầy tế lễ thượng phẩm, ông là người được xức dầu và được tấn phong làm thầy tế lễ thượng phẩm trong chỗ của cha người, người phải thực hiện sự chuộc tội nầy và mặc lấy bộ y phục bằng vải mịn, tức là bộ đồ thánh.
\v 33 Ông phải làm sự chuộc tội cho nơi chí thánh; ông phải làm sự chuộc tội cho nơi nhóm lại và cho bàn thờ, và ông phải làm sự chuộc tội cho các thầy tế lễ và cho toàn bộ dân sự của hội chúng.
\s5
\v 34 Điều nầy sẽ luôn luôn là một luật lệ cho các con, để làm sự chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên vì cớ mọi tội lỗi của họ, mỗi năm một lần". Và điều nầy được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người, và cho cả dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói cho họ biết điều Đức Giê-hô-va đã truyền:
\v 3 'Bất cứ người nào từ Y-sơ-ra-ên giết một con bò, con chiên, hay con dê trong trại quân, hoặc người nào giết nó ngoài trại quân, để hy sinh nó —
\v 4 nếu người không đem nó đến lối vào nơi nhóm lại để dâng nó làm của lễ cho Đức Giê-hô-va trước đền tạm của Ngài, người đó phạm tội làm đổ huyết. Người đã làm đổ huyết, và người đó phải bị trục xuất ra khỏi dân sự mình.
\s5
\v 5 Mục đích của mạng lịnh nầy là để cho dân sự Y-sơ-ra-ên sẽ đem các thứ của lễ của họ dâng cho Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại, cho thầy tế lễ để làm sinh tế như của lễ tương giao với Đức Giê-hô-va, thay vì dâng các sinh tế ở ngoài đồng trống.
\v 6 Thầy tế lễ sẽ rải huyết trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại; ông sẽ thiêu mỡ vì mỡ tạo ra mùi thơm ngào ngạt cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Dân sự không phải dâng của lễ của họ cho các hình tượng dê, vì hình tượng ấy họ hành động như gái điếm. Đây sẽ là luật lệ thường trực cho họ trải bao thế hệ của dân tộc họ'.
\s5
\v 8 Con phải nói cho họ biết: 'Bất kỳ người nào trong dân Y-sơ-ra-ên, hay bất cứ người ngoại nào sống giữa vòng họ, người nào dâng sinh tế của lễ thiêu hay của lễ
\v 9 và không đem nó đến lối vào nơi nhóm lại để dâng nó cho Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 10 Và bất cứ ai trong Y-sơ-ra-ên, hoặc bất kỳ người ngoại nào sống giữa vòng họ, ăn bất cứ huyết nào, ta sẽ chóng nghịch ra nghịch cùng kẻ ấy, bất kỳ người nào ăn huyết; Ta sẽ truất người ấy ra khỏi dân sự mình.
\v 11 Vì sinh mạng của con thú ở trong huyết của nó. Ta đã ban huyết của nó cho con để làm sự chuộc tội trên bàn thờ cho sinh mạng của con, vì chính huyết mới làm sự chuộc tội, vì chính huyết mới chuộc lấy sinh mạng.
\s5
\v 12 Vì lẽ đó, Ta phán cùng dân sự Y-sơ-ra-ên rằng: “không một ai giữa vòng các con được ăn huyết, bất kỳ khách lạ nào sống giữa vòng các con cũng không được ăn huyết.
\v 13 Và bất kỳ ai trong dân Y-sơ-ra-ên, hoặc bất kỳ khách lạ nào sống giữa vòng họ, ai săn và giết chết một con thú hay con chim để ăn thịt, người ấy phải đổ huyết nó ra và lấp đất lại trên huyết ấy.
\s5
\v 14 Vì sinh mạng của từng tạo vật là huyết của nó”. Đấy là lý do tại sao dân Y-sơ-ra-ên: "Các con không nên ăn huyết của bất kỳ tạo vật nào, vì sinh mạng của từng tạo vật sống chính là huyết. Hễ ai ăn huyết sẽ bị truất bỏ.
\s5
\v 15 Từng người nào ăn một con thú đã chết hay bị thú dữ xé, trong trường hợp người ấy là người bản xứ hay người lạ sống giữa vòng các con, người ấy phải giặt quần áo mình rồi tắm mình trong nước, và người sẽ là không sạch cho đến chiều tối. Khi ấy, người sẽ được sạch.
\v 16 Nhưng nếu người không giặt quần áo hay tắm mình trong nước, khi ấy người phải mang lấy lầm lỗi mình'".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 3 Các con không nên làm những việc mà người ta làm trong xứ Ai-cập, là nơi các con đã sống trước đây. Và các con không nên làm những việc mà người ta làm trong xứ Ca-na-an, là xứ mà Ta đưa các con đến. Đừng theo thông tục của họ.
\s5
\v 4 Luật pháp của Ta là điều các con phải làm theo, và điều răn của Ta là những gì các con phải tuân giữ, hầu cho các con ăn ở trong những điều ấy, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 5 Vì lẽ đó, các con phải giữ theo mạng lịnh và luật pháp của Ta. Nếu một người vâng theo chúng, người ấy sẽ sống vì cớ chúng. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Không một người nào nên ngủ với bất kỳ ai có quan hệ gần gũi. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 7 Đừng bất kính với cha của các con bằng cách ngủ với mẹ của các con. Bà là mẹ của các con! Các con không nên bất kính với bà.
\v 8 Đừng ngủ với bất kỳ người vợ nào của cha mình; các con không nên bất kính với cha của các con như vậy.
\s5
\v 9 Đừng ngủ với bất kỳ chị em nào của các con, dầu nàng là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình, dầu nàng được nuôi dạy trong nhà hoặc ở xa các con. Các con không được ngủ với chị em các con.
\v 10 Đừng ngủ với con gái của con trai các con hoặc với con gái của con gái các con. Đấy sẽ là sự xấu hổ của chính các con.
\v 11 Đừng ngủ với con gái của vợ của cha các con, cha các con đã sanh nó ra. Nàng là chị em của các con, và các con không được ngủ với nàng.
\s5
\v 12 Đừng ngủ với em gái của cha các con. Nàng là người thân gần với cha các con.
\v 13 Đừng ngủ với em gái của mẹ các con. Nàng là người thân gần với mẹ các con.
\v 14 Đừng bất kính với anh của cha các con bằng cách ngủ với vợ người. Đừng đền gần nàng vì mục đích đó; nàng là bác hay thím của các con.
\s5
\v 15 Đừng ngủ với con dâu của các con. Nàng là vợ của con trai các con; đừng ngủ với nàng.
\v 16 Đừng ngủ với vợ của anh các con; đừng bất kính người theo cách nầy.
\s5
\v 17 Đừng ngủ với một người nữ và con gái của người, hoặc con gái của con trai nàng hay con gái của con gái nàng. Chúng là bà con gần với nàng, và ngủ với chúng sẽ là điều ác.
\v 18 Các con không nên lấy em gái của vợ mình làm vợ hai và ngủ với nàng đang khi vợ thứ nhứt còn sống.
\s5
\v 19 Đừng ngủ với một người nữ trong khi nàng có kinh nguyệt. Nàng là không sạch trong thời kỳ ấy.
\v 20 Đừng ngủ với vợ kẻ lân cận của các con và tự mình bị ô uế với nàng theo cách nầy.
\s5
\v 21 Các con không nên dâng con cái mình qua lửa, để các con dâng chúng cho thần Mo-lóc, vì các con không nên báng bổ danh của Đức Chúa Trời các con. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 22 Đừng ngủ với người nam khác y như ngủ với một người nữ. Điều nầy là ác dục.
\v 23 Đừng ngủ với bất kỳ con thú nào mà làm ô uế mình với nó. Không một người nữ nào phải xem xét việc nằm ngủ với bất kỳ thú vật nào. Điều nầy là trụy lạc.
\s5
\v 24 Đừng tự làm ô uế mình dù là kỳ điều nào trong những cách thế nầy, vì trong hết thảy cách thức nầy các dân tộc đã bị ô uế, các dân mà Ta đã đuổi khỏi trước mặt các con.
\v 25 Xứ sẽ bị ô uế, vì vậy Ta đã trừng phạt tội lỗi của họ, và đất sẽ mửa dân cư của nó ra vậy.
\s5
\v 26 Vì lẽ đó, các con phải tuân giữ các điều răn và mạng lịnh của ta, và các con không nên làm theo bất kỳ việc nào trong các việc gớm ghiếc nầy, người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ và người ngoại sống giữa vòng các con cũng không nên làm như vậy.
\v 27 Vì đây là sự gian ác mà dân sự trong xứ đã phạm, những kẻ đã sống ở đây trước các con, và giờ đây đất đã bị ô uế.
\v 28 Vì vậy phải cẩn thận hầu cho đất cũng không mửa các con ra sau khi các con đã làm ô uế nó, y như nó đã mửa các dân đã sống ở đó trước các con.
\s5
\v 29 Hễ ai phạm những việc nào trong các việc gớm ghiếc nầy, những ai phạm các việc thể ấy sẽ bị truất khỏi vòng dân sự của họ.
\v 30 Vì lẽ đó các con phải giữ mạng lịnh Ta đừng làm theo các thông lệ gớm ghiếc mà họ đã làm ở đây trước các con, hầu cho các con không tự làm ô uế mình bởi chúng. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Anh em phải nên thánh, vì Ta Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là thánh.
\v 3 Ai nấy phải tôn kính cha mẹ mình, và anh em phải giữ những ngày Sa-bát của Ta. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\v 4 Đừng xây qua các hình tượng chẳng có giá trị chi, cũng đừng làm cho mình thần tượng nào bằng kim loại. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 5 Khi anh em dâng sinh tế của lễ tương giao lên cho Đức Giê-hô-va, anh em phải dâng sao cho được nhậm.
\v 6 Sinh tế đó phải được ăn cùng ngày anh em dâng nó, hoặc qua ngày hôm sau. Nếu chừa lại bất cứ điều gì qua ngày thứ ba, nó phải bị thiêu đi.
\v 7 Nếu để lại ăn đến ngày thứ ba, đó là điều gớm ghiếc. Nó chẳng được nhậm,
\v 8 nhưng hễ ai ăn nó phải mang lấy tội lỗi mình vì người đã làm ô uế những gì đã được dâng cho Đức Giê-hô-va. Người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 9 Khi anh em thu hoạch mùa màng trong đất mình, anh em không nên gặt hết mấy cái góc của đồng ruộng mình, anh em cũng không nên thâu hết sản vật thu hoạch của mình.
\v 10 Anh em chớ thâu từng trái nho từ vườn nho mình, cũng không thâu lấy những trái nho rụng trên đất trong vườn nho của anh em. Anh em phải chừa chúng lại cho người nghèo và cho người khách lạ. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 11 Đừng ăn cắp. Đừng nói dối. Đừng lừa đảo nhau.
\v 12 Đừng thề bằng danh ta cách dối trá mà báng bổ danh Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Đừng hà hiếp kẻ lân cận hay cướp giựt người. Tiền công của tôi tớ làm mướn phải không ở lại với anh em cho tới sáng.
\v 14 Đừng rủa sã kẻ điếc hay đặt hòn đá vấp chơn trước mặt người mù. Thay vì thế, anh em phải kính sợ Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Đừng làm cho sự xét đoán ra giả hình. Anh em không nên thiên vị với ai đó vì người ấy nghèo, và anh em không tỏ ra thiên vị với người nào vì người ấy là quan trọng. Thay vì thế, hãy xét đoán công bình cho kẻ lân cận của anh em.
\v 16 Đừng lòng vòng lan truyền chuyện giả dối giữa vòng dân sự của anh em, nhưng hãy tìm cách bảo vệ sinh mạng của kẻ lân cận mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Ở trong lòng chớ thù ghét anh em mình. Anh em phải thành thật quở trách kẻ lân cận mình để không mắc tội vì cớ họ.
\v 18 Đừng nắm lấy sự báo thù hay cứ ôm giữ thù hằn nghịch cùng bất cứ ai trong dân sự mình, nhưng thay vì thế hãy yêu kẻ lân cận như mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Anh em phải giữ các mạng lịnh của Ta. Đừng tìm cách gây giống thú vật của mình với loại thú vật khác. Đừng trộn hai hột giống khác nhau khi gieo cấy đồng ruộng của anh em. Đừng mặc quần áo làm bằng hai loại vật liệu khác nhau.
\s5
\v 20 Hễ ai ngủ với nữ nô lệ đã được hứa cho người chồng, nhưng nàng chưa được chuộc hoặc chưa được tự do, họ phải bị phạt. Họ phải bị tử hình vì nàng chưa được tự do.
\v 21 Người nam phải đem sinh tế chuộc sự mắc lỗi dâng cho Đức Giê-hô-va ngay lối vào nơi nhóm lại — một con chiên đực làm của lễ chuộc sự mắc lỗi.
\v 22 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người với con chiên đực làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi trước mặt Đức Giê-hô-va, vì tội mà người đã phạm. Khi ấy, tội mà người đã phạm sẽ được tha.
\s5
\v 23 Khi anh em vào trong xứ rồi trồng đủ loại cây ăn trái, khi ấy anh em phải xem trái chúng đốc ra là cấm không được ăn. Trái phải bị cấm cho anh em trong ba năm. Anh em không được ăn.
\v 24 Nhưng qua năm thứ tư hết thảy trái sẽ là thánh, một của lễ ngợi khen dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 25 Qua năm thứ năm anh em có thể ăn trái, hầu cho cây sẽ thêm hoa quả. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 26 Đừng ăn bất kỳ thịt nào với huyết vẫn còn trong đó. Đừng cầu hỏi tà linh về tương lai, và đừng tìm cách điều khiển người khác bằng các thứ quyền phép siêu nhiên.
\v 27 Đừng làm theo thói quen tà giáo như cạo mé tóc mình hay cắt bỏ khóe râu mình.
\v 28 Đừng cắt thân thể mình vì kẻ chết hoặc đặt các dấu xăm trên thân thể anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 29 Đừng làm nhục con gái người bằng cách biến nó thành gái điếm, hoặc xứ sở sẽ sa vào vòng dâm loạn và xứ sẽ đầy sự gian ác.
\v 30 Anh em phải giữ những ngày Sa-bát Ta và tôn kính nơi thánh trong đền tạm Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Đừng xây qua những kẻ trò chuyện với người chết hoặc với các tà linh. Đừng tìm kiếm chúng, hay chúng sẽ làm ô uế anh em. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 32 Anh em phải đứng dậy trước mặt người tóc bạc và tôn kính sự hiện diện của một người già cả. Anh em phải kính sợ Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 33 Nếu một khách lạ sống giữa vòng anh em trong đất của anh em, anh em đừng làm chi sai quấy với người.
\v 34 Người khách lạ nào sống với anh em anh em phải đối với họ giống như người Y-sơ-ra-ên bản xứ đang sống giữa vòng anh em, và anh em phải yêu thương người như mình, vì anh em là người ngoại ở trong xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 35 Đừng gian lận khi cân, đo, đong, đếm
\v 36 Anh em phải dùng cái cân đúng, trọng lượng đúng, một ê-pha đúng, và một hin đúng (bình 5 lít của người Do thái). Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, là Đấng đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập.
\v 37 Anh em phải vâng theo mọi mạng lịnh và mọi luật lệ của Ta, và làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va'".
\s5
\c 20
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: 'Bấy kỳ ai giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, hay bất kỳ người ngoại nào sống trong Y-sơ-ra-ên dâng bất kỳ con cái nào của mình cho thần Mo-lóc, chắc chắn phải bị tử hình. Dân sự trong xứ phải ném đá người đó.
\s5
\v 3 Ta cũng nghịch cùng người đó và sẽ truất người khỏi giữa dân sự người vì người đã dâng con mình cho thần Mo-lóc, làm ô uế nơi thánh Ta cùng báng bổ danh Ta.
\v 4 Nếu dân trong xứ nhắm mắt lại với người ấy khi người dân con cái mình cho thần Mo-lóc, nếu họ không xử từ người đó,
\v 5 thì chính Ta sẽ nghịch cùng người ấy và gia đình của người, và Ta sẽ truất người cùng mọi người nào hành dâm với người để thông dâm với thần Mo-lóc.
\s5
\v 6 Người nào xây qua những kẻ trao đổi với người chết, hay người nào trò chuyện với các tà linh mà thông dâm cùng chúng, Ta sẽ nghịch cùng người ấy; Ta sẽ truất người ấy ra khỏi dân sự người.
\v 7 Vì lẽ đó, hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va và phải nên thánh, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\s5
\v 8 Các con phải tuân giữ các mạng lịnh Ta và làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng các con cho chính mình Ta.
\v 9 Kẻ nào sả cha hay mẹ mình chắc chắn phải bị xử tử. Người dám rủa sả cha hay mẹ mình, vì vậy người phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 10 Người nào phạm tội tà dâm với vợ của người khác, tức là, bất cứ ai phạm tội tà dâm với vợ của người lân cận — cả nam và nữ chắc chắn phải bị xử tử.
\v 11 Người nào nằm với vợ của cha mình ngủ với nàng đã làm xấu hổ cho cha ruột mình. Cả hai: con trai và vợ của cha nó chắcc chắn phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\v 12 Nếu một người ngủ với con dâu mình, cả hai chắc chắn phải bị tử hình. Họ đã phạm một sự gớm ghiếc. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 13 Nếu một người nam ngủ với người nam khác, như với người nữ, cả hai người đã làm một sự gớm ghiếc. Chắc chắn họ phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\v 14 Nếu một người nam lấy một người nữ làm vợ và cũng lấy mẹ của nàng nữa, đây là sự gian ác. Họ phải bị thiêu đi, vả người nam đó cùng hai người nữ kia, hầu cho sẽ chẳng có sự gian ác giữa vòng các con.
\s5
\v 15 Nếu một người nam ngủ với một con vật, người ấy chắc chắn phải bị tử hình, và các con phải giết con thú kia đi.
\v 16 Nếu một người nữ đến gần bất kỳ con vật nào để ngủ với nó, các con phải giết người nữ ấy và con thú kia đi. Chắc chắn họ phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 17 Nếu người nam ngủ với em gái mình, một là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình — nếu người ngủ với nàng và nàng với người, đây là một việc đáng xấu hổ. Họ phải bị truất khỏi sự hiện diện của dân sự họ, vì người đã ngủ với em gái mình. Người phải mang lấy tội lỗi của mình.
\v 18 Nếu người nam ngủ với một người nữ trong thời kỳ kinh nguyệt của người và đã ngủ với nàng, người ấy đã làm cho huyết nàng chảy ra, nguồn của huyết nàng. Cả hai: người nam và người nữ phải bị truất khỏi giữa vòng dân sự của họ.
\s5
\v 19 Các con chớ ngủ với em gái của mẹ mình, cũng không ngủ với em gái của cha mình, vì các con sẽ làm nhục cốt nhục của các con. Các con phải mang lấy chính tội lỗi của các con.
\v 20 Nếu một người ngủ với vợ của bác mình, người làm nhục bác mình. Họ phải mang lấy tội lỗi của chính họ và chết không con.
\v 21 Nếu một người nam lấy vợ của em mình, đây là sự ô uế vì người đã có những quan hệ vi phạm hôn nhân với em mình, và họ sẽ chết không con.
\s5
\v 22 Các con vì lẽ đó phải giữ mọi luật lệ và các mạng lịnh của Ta; các con phải vâng theo chúng hầu cho xứ mà Ta đã đem các con vào đó để sống sẽ không mửa các con ra.
\v 23 Các con đừng ăn ở theo thói tục của các dân trong xứ mà Ta đã đuổi khỏi trước mặt các con, vì chúng đã làm các việc nầy, và Ta gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 24 Ta đã phán cùng các con: "Các con sẽ thừa hường đất đai của họ; Ta sẽ ban nó cho các con làm cơ nghiệp, một đất đượm sữa và mật. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con, là Đấng đã biệt riêng các con ra khỏi các dân khác.
\v 25 Các con vì lẽ đó phải phân biệt giữa loài vật thanh sạch và ô uế, và giữa loài chim ô uế và thanh sạch. Các con chớ làm ô uế mình với loại vật hay loài chim ô uế hay với bất kỳ tạo vật côn trùng nào trên đất, những thứ mà Ta đã phân biệt là ô uế đối với các con.
\s5
\v 26 Các con phải nên thánh, vì Ta, Đức Giê-hô-va, là thánh, và Ta đã biệt riêng các con đối với các dân khác, vì các con thuộc về Ta.
\s5
\v 27 Một người nam hay một người nữ nào trao đổi với người chết hay người nào trò chuyện với tà linh chắc chắn sẽ bị tử hình. Dân sự phải ném đá họ. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi'".
\s5
\c 21
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: "Hãy nói với dòng thầy tế lễ, các con trai của A-rôn, và nói với họ: 'Không một người nào giữa vòng anh em sẽ làm cho mình ra ô uế vì kẻ chết kia giữa vòng dân sự người,
\v 2 trừ ra vì bà con thân thích — vì mẹ và cha mình, vì con trai và con gái mình, hay vì em mình
\v 3 hoặc em gái còn đồng trinh còn ở trong nhà mình và nó chưa có chồng. Vì nàng người có thể làm cho mình ra ô uế.
\s5
\v 4 Nhưng người chớ làm cho mình ra ô uế vì những người thân thích khác, như vậy là làm ô uế cho bản thân mình.
\v 5 Các thầy tế lễ chớ có cạo đầu hay cạo khóe râu, cũng chớ cắt thân thể mình.
\v 6 Họ phải biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời của họ, và chớ làm nhục danh Đức Chúa Trời của họ, vì các thầy tế lễ dâng các thứ của lễ cho Đức Chúa Trời bằng lửa, đồ ăn của Đức Chúa Trời họ. Vì lẽ đó, họ phải biệt riêng ra.
\s5
\v 7 Họ chớ lấy bất kỳ người nữ nào là gái điếm làm vợ và kẻ nào đã bị ô uế, và họ chớ lấy người nữ nào đã ly dị chồng nàng làm vợ, vì họ được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời của họ.
\v 8 Các con phải dâng người ấy vì người dâng đồ ăn từ Đức Chúa Trời của các con. Người phải nên thánh trước mặt các con, vì Ta, Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng các con cho chính mình Ta, Ta cũng là thánh.
\v 9 Bất kỳ con gái của thầy tế lễ nào làm ô uế mình bằng cách trở thành gái điếm làm nhục cho cha mình. Nàng phải bị thiêu đi.
\s5
\v 10 Người nào là thầy tế lễ thượng phẩm giữa vòng các anh em người, trên đầu người có xức dầu đã đổ ra, và người nào dâng mình mặc bộ y phục thánh của thầy tế lễ thượng phẩm, chớ có để tóc buông thả hoặc xé áo mình.
\v 11 Người chớ đến chỗ có thi thể người chết và làm ô uế mình, thậm chí là cha hay mẹ mình.
\v 12 Thầy tế lễ thượng phẩm chớ có lìa khỏi khu vực nơi thánh trong đền tạm hoặc báng bổ nơi thánh của Đức Chúa Trời mình, vì người đã dâng mình làm thầy tế lễ thượng phẩm bằng cách xức dầu của Đức Chúa Trời mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Thầy tế lễ thượng phẩm phải lấy người nữ đồng trinh làm vợ mình.
\v 14 Người chớ lấy góa phụ, người nữ đã ly dị, hoặc người nữ nào là gái điếm làm vợ. Người chớ lấy loại người nữ nào như thế nầy làm vợ. Người chỉ có thể lấy người nữ đồng trinh từ dân sự của mình.
\v 15 Người phải vâng theo các luật lệ nầy, làm vậy người không làm ô uế con cái mình giữa vòng dân sự người, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng người cho chính mình Ta '".
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 17 "Hãy nói với A-rôn và dặn người: 'Hễ ai trong dòng dõi của anh trải qua các đời có khuyết điểm trong cơ thể, người chớ tới gần để dâng đồ ăn của Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 18 Bất kỳ người nam nào có khuyết điểm trong thân thể chớ có tới gần Đức Giê-hô-va, tỉ như một người bị mù, một người què, một người sệp mũi hay tứ chi không đều,
\v 19 một người với một bàn tay hay chân bị què,
\v 20 người có bướu trên lưng hoặc còi cọc, hay một người với tật nơi mắt, hoặc với một căn, ghẻ chốc, có lác, hay bộ phận riêng bị thương tích.
\v 21 Không một người nào giữa vòng dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn có khuyết điểm trong thân có thể đến gần để dùng lửa dâng các của lễ lên cho Đức Giê-hô-va. Một người như vậy có khuyết điểm trong thân; người ấy chớ có đến gần để dâng đồ ăn của Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 22 Người có thể ăn đồ ăn của Đức Chúa Trời mình, dù là đồ chí thánh hay đồ thánh.
\v 23 Tuy nhiên, người chớ có bước vào phía trong bức màn hoặc đến gần bàn thờ, vì người có khuyết điểm trong cơ thể, hầu cho người không làm ô uế nơi thánh của Ta, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng họ cho chính mình Ta '".
\v 24 Vậy, Môi-se nói các lời nầy với A-rôn, với các con trai người, và với cả dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với A-rôn và các con trai người, hảy bảo họ phải giữ kẻ đối với các vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên, dâng lên cho Ta. Họ không nên báng bổ danh thánh Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 3 Hãy nói với họ: 'Bất kỳ ai giữa vòng các dòng dõi anh em xuyên suốt bao thế hệ đều là ô uế khi họ đến gần các vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va, người đó phải bị truất khỏi trước mặt Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Không một ai trong các dòng dõi của A-rôn, người nào có bệnh da bị tiêm nhiễm, hay một sự lây nhiễm lan từ thân thể người ấy, có thể ăn bất kỳ của lễ nào dâng cho Đức Giê-hô-va cho tới chừng nào người được sạch. Hễ ai đụng đến bất kỳ vật gì ô uế qua cái chạm với kẻ chết, hoặc bởi đụng đến một người bị xuất tinh,
\v 5 hoặc ai đụng đến bất kỳ loài côn trùng nào làm cho người phải ô uế, hay bất kỳ người nào làm cho người ra ô uế, dù là bất kỳ loại ô uế nào đi nữa —
\v 6 khi ấy thầy tế lễ nào đụng đến bất kỳ vật ô uế nào sẽ bị ô uế cho đến chiều tối. Người ấy không nên ăn bất kỳ vật thánh nào, trừ khi người ấy tắm thân thể mình trong nước.
\s5
\v 7 Khi mặt trời đã lặn rồi, thì người ấy sẽ được sạch. Sau khi mặt trời lặn, người ấy có thể ăn từ các vật thánh, vì đấy là đồ ăn của người.
\v 8 Người không nên ăn bất kỳ vật nào thấy đã chết hoặc bị thú hoang giết, bởi đó người sẽ làm ô uế mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 9 Thầy tế lễ phải làm theo huấn thị của Ta, hoặc họ sẽ mắc phải tội và có thể ngã chết vì đã báng bổ Ta, Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dâng họ cho chính mình Ta.
\s5
\v 10 Không một ai ngoài gia đình của thầy tế lễ, kể cả khách của thầy tế lễ hoặc tôi tớ thuê mướn của người, có thể ăn bất kỳ thứ gì là thánh.
\v 11 Nhưng nếu một thầy tế lễ mua bất kỳ nô lệ nào với chính tiền bạc của mình, kẻ nô lệ ấy có thể ăn từ những thứ biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va. Và các thành viên trong gia đình của thầy tế lễ cùng những nô lệ sanh trong nhà người, họ cũng có thể ăn với người từ các vật ấy.
\s5
\v 12 Nếu con gái của thầy tế lễ kết hôn với người nào không phải là thầy tế lễ, người ấy không thể ăn các thứ của dâng thánh nào cả.
\v 13 Nhưng nếu con gái của thầy tế lễ là một góa phụ, hay đã ly hôn, và nếu nàng không có con cái, và nếu nàng trở lại sống trong nhà cha của nàng như khi còn nhỏ, nàng có thể ăn từ đồ ăn của cha mình. Nhưng không một người nào không phải là gia đình thầy tế lễ có thể ăn từ đồ ăn của thầy tế lễ.
\s5
\v 14 Nếu một người ăn đồ ăn thánh mà không nhận biết nó, khi ấy người phải đền lại nó cho thầy tế lễ; người phải phụ thêm 1/5 cho vật ấy rồi trao trả nó lại cho thầy tế lễ.
\v 15 Dân Y-sơ-ra-ên không nên bất kính đối với những vật thánh mà họ đã giơ lên cao mà trình cho Đức Giê-hô-va,
\v 16 và khiến cho bản thân họ phải mang lấy tội lỗi đã làm cho họ phạm lỗi ăn lấy đồ vật thánh, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng họ cho chính mình Ta '".
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 18 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người, và với cả dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với họ: 'Bất kỳ người Y-sơ-ra-ên nào, hay khách kiều ngụ trong Y-sơ-ra-ên, khi họ dâng của lễ — dù là để làm trọn sự khấn nguyện, hoặc của lễ lạc ý, hay họ dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ thiêu,
\v 19 nếu của lễ ấy được nhậm, họ phải dâng một con đực không vít từ bầy bò, bầy chiên, hay bầy dê.
\s5
\v 20 Nhưng anh em chớ dâng con nào có tì vít. Ta sẽ không nhậm nó vì ích cho anh em.
\v 21 Hễ ai dâng con sinh của lễ tương giao từ trong bầy hoặc bò hay chiên cho Đức Giê-hô-va để làm tròn lời thề, hoặc là của lễ lạc ý, nó phải không tì không vít thì mới được nhậm. Sẽ chẳng có tì vít chi nơi con thú.
\s5
\v 22 Anh em chớ dâng con thú nào bị mù, bị què, hoặc ghẻ chốc, hay bị lác. Anh em chớ dâng các thứ nầy cho Đức Giê-hô-va làm của lễ dùng lửa trên bàn thờ.
\v 23 Anh em dâng của lễ lạc ý một con bò hay một con chiên có giò dài hoặc ngắn quá, nhưng một của lễ như thế sẽ không được nhậm cho một lời thề.
\s5
\v 24 Chớ dâng cho Đức Giê-hô-va những con thú có hòn nang bị dập, bị rứt hay bị thiến. Đừng dâng các con thú nầy trong xứ anh em,
\v 25 và chớ chấp nhận chúng từ tay của người khách lạ làm đồ ăn trình cho Đức Chúa Trời, vì có những dấu vít nơi chúng. Ta sẽ không chấp nhận chúng vì ích của anh em.'"
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 27 "Khi một con bò hay một con chiên hoặc một con dê ra đời, nó phải giữ bảy ngày với mẹ nó. Khi ấy từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được nhậm làm con sinh cho của lễ dùng lửa dâng lên Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Chớ giết bò cái hay chiên cái cùng với con nhỏ của nó, cả hai trong cùng một ngày.
\v 29 Khi anh em dâng của lễ cảm tạ cho Đức Giê-hô-va, anh em phải dâng nó theo cách có thể được nhậm.
\v 30 Nó phải được ăn trong cùng ngày mà nó phải làm con sinh tế. Anh em không được để lại thứ gì cho tới sáng hôm sau. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Vì vậy anh em phải giữ các điều răn của Ta rồi làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 32 Anh em chớ bất kỉnh với danh thánh của Ta. Ta phải được công nhận là thánh bởi dân Y-sơ-ra-ên. Ta là Đức Giê-hô-va là Đấng dâng anh em cho chính mình Ta,
\v 33 là Đấng đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để làm Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va".
\s5
\c 23
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Những ngày lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va, những ngày lễ các con phải công bố là những lần nhóm hiệp thánh, là những ngày lễ đều đặn.
\s5
\v 3 Các con phải làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát nghỉ hoàn toàn, một ngày nhóm hiệp thánh. Các con không nên làm việc vì đây là ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va trong mọi chỗ mà các con sinh sống.
\s5
\v 4 Đây là những ngày lễ đã ấn định của Đức Giê-hô-va, những lần nhóm hiệp thánh mà các con phải công bố là những thời điểm đã ấn định:
\v 5 Trong tháng thứ nhứt, vào ngày mười bốn của tháng lúc chiều tối, là Lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va.
\v 6 Vào ngày mười lăm của cùng tháng ấy là Lễ Bánh Không Men cho Đức Giê-hô-va. Trong bảy ngày các con phải ăn bánh không men.
\s5
\v 7 Vào ngày thứ nhứt, các con có một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, các con không nên làm công việc thường lệ.
\v 8 con phải dùng lửa dâng một của lễ cho Đức Giê-hô-va trong bảy ngày. Ngày thứ bảy là một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, trong đó các con không nên làm công việc thông thường.'"
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 10 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Khi các con đã vào trong xứ mà Ta sẽ ban cho các con, và khi các con thu hoạch mùa màng của nó, khi ấy các con phải đem bó lúa đầu mùa dâng cho thầy tế lễ.
\v 11 Người sẽ đem bó lúa đến trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình nó cho Ngài, vì nó được nhậm vì ích của các con. Chính ngày sau lễ Sa-bát, thầy tế lễ sẽ giơ bó lúa lên và trình nó cho Ta.
\s5
\v 12 Nhằm ngày mà các con giơ bó lúa trình nó cho Ta, các con phải dâng một con chiên đực một tuổi không vít làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\v 13 Của lễ chay phải là 2/10 ê-pha bột nhất hạng trộn với dầu, một con sinh dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, tạo ra mùi thơm ngạt ngào, rồi với lễ quán bằng ¼ hin rượu (hin=5 lít)...
\v 14 Các con không được ăn bánh, cũng không ăn hột lúa rang, cho tới cái ngày các con đem của lễ nầy dâng cho Đức Chúa Trời. Đây sẽ là một mạng lịnh thường trực trải bao các thế hệ dân sự của các con, trong từng nơi các con sinh sống.
\s5
\v 15 Các con phải tính từ ngày sau lễ Sa-bát ấy, từ ngày mà các con đem của lễ bó lúa giơ lên và trình dâng, bảy tuần lễ trọn, bảy ngày Sa-bát,
\v 16 cho đến ngày sau lễ Sa-bát thứ bảy. Nghĩa là, các con phải tính năm mươi ngày. Khi ấy các con phải dâng một của lễ chay mới cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Các con phải đem ra khỏi nhà các con hai ổ bánh làm bằng 2/10 ê-pha. Chúng phải được làm từ bột nhất hạng và hấp với men; chúng sẽ là một của lễ từ bông trái đầu mùa sẽ được giơ lên và trình cho Đức Giê-hô-va.
\v 18 Các con phải trình với bánh bảy con chiên một tuổi không vít, một con bò đực tơ, và hai con chiên đực. Chúng sẽ là của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, với của lễ chay và của lễ quán, một của lễ dùng lửa và tạo ra mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Các con phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, và hai con chiên đực một tuổi làm con sinh, như của lễ tương giao.
\v 20 Thầy tế lễ phải dâng chúng lên trước mặt Đức Giê-hô-va, cùng với bánh của bông trái đầu mùa, và trình chúng cho Ngài như một của lễ với hai chiên con. Chúng sẽ là của lễ thánh cho Đức Giê-hô-va dâng cho thầy tế lễ.
\v 21 Các con phải thực hiện công bố ra vào chính ngày ấy. Sẽ có một sự nhóm hiệp thánh, và các con chớ có làm việc như thường lệ. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao các thế hệ của dân sự các con ở những nơi mà các con sinh sống.
\s5
\v 22 Khi các con thu hoạch mùa màng trong xứ, các con chớ gặt cho hết các góc của đồng ruộng mình, và các con không nên mót lúa sót trong mùa vụ của mình. Các con phải chừa chúng lại cho kẻ nghèo và cho người khách lạ. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 24 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Vào tháng thứ bảy, ngày thứ nhứt của tháng ấy sẽ là ngày nghỉ trọng thể cho các con, một lễ kỷ niệm với tiếng kèn thổi, và một sự nhóm hiệp thánh.
\v 25 Các con chớ làm việc như thường lệ, và các con phải dùng lửa dâng một con sinh cho Đức Giê-hô-va'".
\s5
\v 26 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 27 "Giờ đây, ngày thứ mười của tháng thứ bảy nầy sẽ là Ngày Lễ Chuộc Tội. Đấy sẽ là một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, các con phải tự hạ mình xuống và lập một con sinh dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Các con chớ có làm việc nào hết nhằm ngày ấy vì đây là Ngày Lễ Chuộc Tội, làm sự chuộc tội cho các con trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 29 Hễ ai không hạ mình xuống vào ngày ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 30 Hễ ai làm bất kỳ công việc nào vào ngày ấy, Ta, Đức Giê-hô-va, sẽ hủy diệt người ấy khỏi giữa vòng dân sự người.
\v 31 Các con chớ làm công việc gì dù là loại nào trong ngày ấy. Điều nầy sẽ là một mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ dân sự của các con ở những nơi mà các con sinh sống.
\v 32 Ngày nầy đối với các con phải là một ngày Sa-bát yên nghỉ trọng thể, và các con tự hạ mình xuống ngày thứ chín của tháng. Từ chiều nay đến chiều mai các con phải giữ ngày Sa-bát của các con."
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 34 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Vào ngày thứ mười lăm của tháng thứ bảy sẽ là Lễ Lều Tạm cho Đức Giê-hô-va. Lễ nầy sẽ kéo dài bảy ngày.
\s5
\v 35 Vào ngày thứ nhứt sẽ là một sự nhóm hiệp thánh. Các con chớ làm công việc thường lệ nào hết.
\v 36 Trong bảy ngày các con phải dùng lửa dâng một con sinh lên cho Đức Giê-hô-va. Đến ngày thứ tám phải có một sự nhóm hiệp thánh, và các con phải lập một con sinh dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là một sự nhóm hiệp trọng thể, và các con chớ làm một công việc thường lệ nào hết.
\s5
\v 37 Đây là những ngày lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va, các con phải công bố là những sự nhóm hiệp thánh để dâng của lễ dùng lửa cho Đức Giê-hô-va, một của lễ thiêu và một của lễ chay, các của lễ và lễ quán, mỗi thứ của lễ vào đúng ngày của nó.
\v 38 Những ngày lễ nầy sẽ thêm vào với những ngày Sa-bát của Đức Giê-hô-va và các lễ vật của các con, mọi lời thề hứa, và các của lễ lạc ý mà các con dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 39 Về Lễ Lều Tạm, vào ngày mười lăm của tháng thứ bảy, khi các con thâu lấy hoa quả trong xứ, các con phải giữ lễ nầy của Đức Giê-hô-va trong bảy ngày. Ngày thứ nhứt sẽ là ngày yên nghỉ trọng thể, và ngày thứ tám cũng sẽ là ngày yên nghỉ trọng thể.
\s5
\v 40 Vào ngày thứ nhứt các con phải lấy hoa quả tốt nhứt từ vườn cây, những nhánh cây chà là, và nhành cây rậm, và cây dương liễu, các con sẽ vui vẻ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con trong bảy ngày.
\v 41 Trong bảy ngày mỗi năm, các con phải kỷ niệm lễ nầy cho Đức Giê-hô-va. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ của các con ở những nơi mà các con sinh sống. Các con phải kỷ niệm lễ nầy vào tháng thứ bảy.
\s5
\v 42 Các con phải sống trong các túp lều nhỏ hẹp trong bảy ngày. Hết thảy những người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ phải sống trong những túp lều nhỏ bảy ngày,
\v 43 hầu cho dòng dõi của các con, hết thế hệ nầy đến thế hệ khác, có thể học biết Ta đã khiến cho dân Y-sơ-ra-ên sống trong những túp lều như vậy khi Ta dẫn họ ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\v 44 Bằng cách nầy, Môi-se đã công bố cho dân Y-sơ-ra-ên những kỳ lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải đem cho con dầu sạch ép từ trái ô-li-ve đặng thắp đèn, để họ giữ cho đèn cháy luôn.
\s5
\v 3 Ngoài bức màn trước hòm giao ước trong nơi nhóm lại, A-rôn phải liên tục, từ chiều tối cho đến sáng mai, giữ cho đèn cháy luôn trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ dân sự của con.
\v 4 Thầy tế lễ thượng phẩm phải luôn giữ cho đèn cháy ở trước mặt Đức Giê-hô-va, các ngọn đèn trên chân đèn làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 5 Con phải lấy bột nhất hạng và mười hai ổ bánh với bột ấy. Mỗi ổ bánh cân nặng 2/10 ê-pha.
\v 6 Khi ấy con phải sắp thành hai hàng, sáu ổ một hàng, trên bàn bằng vàng ròng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Con phải rắc hương liệu dọc theo mỗi hàng bánh như một biểu tượng nói tới bánh. Thức hương nầy sẽ đem thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\v 8 Mỗi ngày sa-bát thầy tế lễ thượng phẩm phải đều đặn sắp bánh ra trước mặt Đức Giê-hô-va vì ích của dân Y-sơ-ra-ên, là một dấu hiệu nói tới giao ước đời đời.
\v 9 Của lễ nầy sẽ dành cho A-rôn cùng các con trai người. Họ phải ăn bánh ấy trong một nơi thánh, vì bánh ấy đã được dâng hoàn toàn cho Ngài, một khi nó được lấy từ các của dâng dùng lửa trình cho Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 10 Giờ đây có một việc xảy ra, con trai của một người nữ Y-sơ-ra-ên, cha nó là một người Ai-cập, đi giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên. Con trai nầy của một người nữ Y-sơ-ra-ên đã đánh nhau nghịch cùng một người nam Y-sơ-ra-ên trong trại quân.
\v 11 Con trai của người nữ Y-sơ-ra-ên đã xúc phạm danh của Đức Giê-hô-va và đã rủa sả Đức Chúa Trời, vì vậy dân sự đem nó đến với Môi-se. Tên của mẹ nó là Sê-lô-mít, con gái của Điệp-ri, xuất thân từ chi phái Đan.
\v 12 Họ giữ nó trong nhà ngục cho đến khi chính Đức Giê-hô-va sẽ tuyên bố ý muốn Ngài đối với họ.
\s5
\v 13 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 14 "Hãy đưa kẻ đã rủa sả Đức Chúa Trời ra ngoài trại quân. Hết thảy những ai nghe người nói phải đặt tay trên đầu người, và rồi cả hội chúng phải ném đá người.
\s5
\v 15 Con phải giải thích cho dân sự Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Hễ ai rủa sả Đức Chúa Trời mình phải mang lấy tội mình.
\v 16 Người nào xúc phạm danh của Đức Giê-hô-va chắc chắn phải bị tử hình. Cả hội chúng chắc chắn phải ném đá người, dù người là dân ngoại hoặc dân Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ. Nếu ai xúc phạm đến danh của Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị tử hình.
\s5
\v 17 Và người nào giết chết một người khác chắc chắn phải bị tử hình.
\v 18 Người nào giết thú vật của ai đó phải chịu đền bù, mạng đền mạng.
\s5
\v 19 Nếu một người gây thương tích cho kẻ lân cận mình, phải thực hiện cho người y như người đã làm cho kẻ lân cận mình:
\v 20 gãy xương đền gãy xương, mắt đền mắt, răng đền răng. Khi người gây thương tích cho một người khác, thì cũng phải làm y như thế cho người.
\v 21 Hễ ai giết một con thú phải đền bù lại con thú, và hễ ai giết một người thì phải bị tử hình.
\s5
\v 22 Con phải xử cùng một luật ấy cho cả hai: khách lạ và người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con'".
\v 23 Vậy Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên, và dân sự đem người kia ra ngoài trại quân, là kẻ đã rủa sả Đức Giê-hô-va. Họ dùng đá ném người. Dân Y-sơ-ra-ên đã thực thi mạng lịnh của Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trên Núi Si-na-i như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Khi anh em vào trong xứ mà Ta ban cho anh em, khi ấy đất phải được giữ một lễ Sa-bát cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Anh em phải gieo ruộng mình trong sáu năm, và trong sáu năm anh em phải hớt nho mình và thu hoạch thổ sản.
\v 4 Nhưng qua năm thứ bảy, một lễ Sa-bát yên nghỉ trọng thể cho xứ phải được tuân giữ, một lễ Sa-bát cho Đức Giê-hô-va. Anh em chớ có gieo trong ruộng hay hớt nho mình.
\s5
\v 5 Anh em chớ có thâu lấy vụ mùa bất cứ gì mọc trong ruộng đó, và anh em chớ có thu hoạch vụ mùa nho trên những cây nho không hớt sửa đó. Đây sẽ là một năm trọng thể dành cho xứ.
\v 6 Bất cứ thứ chi mà đất không được dọn mọc lên trong năm Sa-bát sẽ là đồ ăn cho anh em. Anh em, tôi trai và tớ gái của anh em, tôi tớ thuê mướn của anh em và người ngoại nào sống với anh em có thể mót lấy đồ ăn.
\v 7 Và bầy gia súc của anh em và loài thú hoang cũng có thể ăn bất cứ gì mà đất sản xuất ra.
\s5
\v 8 Anh em phải tính bảy lần Sa-bát của các năm, nghĩa là, bảy lần bảy năm, hầu cho sẽ có bảy ngày Sa-bát của các năm, tổng cộng là bốn mươi chín năm.
\v 9 Khi ấy anh em phải thổi kèn tiếng vang khắp nơi nhằm ngày thứ mười của tháng thứ bảy. Vào ngày Lễ Chuộc Tội, anh em phải thổi kèn khắp cả xứ.
\s5
\v 10 Anh em phải dâng năm thứ năm mươi cho Đức Giê-hô-va và công bố tự do khắp cả xứ cho hết thảy cư dân nó. Ấy sẽ là năm hân hỉ cho anh em, trong đó cơ nghiệp và nô lệ phải được trả lại cho các gia đình họ.
\s5
\v 11 Năm thứ năm mươi sẽ là năm hân hỉ cho anh em. Anh em không được gieo hay lo liệu cho cả một mùa gặt. Hãy ăn bất cứ gì tự nó mọc lên, và thâu lấy những trái nho lọc lên trên các cây nho không được dọn.
\v 12 Vì đây là năm hân hỉ, năm nầy sẽ là thánh cho anh em. Anh em phải ăn sản vật tự nó mọc lên ngoài đồng ruộng.
\s5
\v 13 Anh em phải trả lại tài sản của chính cho ai đó trong năm hân hỉ nầy.
\v 14 Nếu anh em bán bất kỳ sở đất nào cho người lân cận hoặc mua bất cứ sở đất nào từ người lân cận của anh em, anh em chớ lừa đảo hay sai trái với nhau.
\s5
\v 15 Nếu anh em mua đất từ kẻ lân cận mình, hãy xem số năm và mùa màng có thể thu hoạch cho đến năm hân hỉ kế đó. Kẻ lân cận của anh em bán sở đất đó cũng phải xem xét như thế.
\v 16 Một số nhiều năm cho đến năm hân hỉ kế tiếp sẽ làm tăng giá trị của sở đất, và một số năm ít hơn cho đến năm hân hỉ kế tiếp sẽ làm giảm giá trị, vì số mùa gặt đất sản xuất cho người chủ mới có liên quan đến số năm trước năm hân hỉ kế tiếp.
\v 17 Anh em chớ có lừa đảo hay sai trái với nhau; thay vì thế, anh em phải tôn kính Đức Chúa Trời của anh em, vì Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 18 Vì lẽ đó anh em phải vâng theo các mạng lịnh của Ta, giữ luật lệ Ta, và làm theo chúng. Khi ấy anh em sẽ sống trong xứ thật an toàn.
\v 19 Đất sẽ sanh ra sản vật của nó, và anh em sẽ ăn no nê và sống an ninh ở đó.
\s5
\v 20 Anh em sẽ nói: "Chúng tôi sẽ ăn gì trong năm thứ bảy? Hãy xem, chúng ta không thể gieo hay thu hoạch sản vật của chúng ta".
\v 21 Ta sẽ giáng ơn phước của Ta trên anh em vào năm thứ sáu, và đất sẽ sanh sản vật đủ cho ba năm.
\v 22 Anh em sẽ gieo trong năm thứ tám và tiếp tục ăn từ sản vật của năm trước và đồ ăn còn trong kho. Cho tới vụ mùa của năm thứ chín đem về, anh em có thể ăn từ các khoản dự trữ trong năm trước.
\s5
\v 23 Đất không được đem bán cho người chủ thường trực mới, vì đất là của Ta. Anh em hết thảy là khách lạ và kiều ngụ tạm thời trên đất Ta.
\v 24 Anh em phải tuân giữ quyền chuộc lại trong cả xứ anh em sinh sống; anh em phải để cho đất phải được trả lại cho gia đình mà anh em đã mua đất từ đó.
\v 25 Nếu đồng bào Y-sơ-ra-ên của anh em bị nghèo đi rồi vì lý do đó đã bán tài sản của mình, khi ấy người bà con gần nhất có thể đến và mua lại tài sản mà người kia bán cho anh em.
\s5
\v 26 Nếu một người không có người thân nào để chuộc lấy tài sản của người, nhưng nếu người phất lên và có khả năng chuộc lại nó,
\v 27 khi ấy người có thể tính số năm kể từ khi đất đem bán và bù lại cân đối cho người đã mua đất đó. Khi ấy, người có thể hồi lại với chính tài sản của mình.
\v 28 Nhưng nếu người không thể chuộc đất lại cho mình, khi ấy đất mà người đã bán sẽ ở trong tay người có quyền làm chủ đã mua nó cho đến năm hân hỉ. Đến năm hân hỉ, đất sẽ trở về với người đã bán nó, và người chủ nguyên thủy sẽ trở về với tài sản của mình.
\s5
\v 29 Nếu một người bán ngôi nhà trong thành phố có tường bao quanh, khi ấy người có thể mua nó lại trong vòng một năm sau khi đã bán nó đi. Trong một năm trọn, người ấy sẽ có quyền chuộc.
\v 30 Nếu ngôi nhà chưa được chuộc trong một năm trọn, thì ngôi nhà trong thành có tường vây quanh sẽ trở thành tài sản thường trực của người đứng mua nó, trải khắp các thế hệ của dòng dõi người. Ngôi nhà ấy không được hồi lại vào năm hân hỉ.
\s5
\v 31 Nhưng nhà cửa trong làng mạc không có tường vây quanh chúng sẽ là tài sản gắn với đồng ruộng của xứ. Chúng sẽ được mua lại, và chúng phải được hồi lại trong năm hân hỉ.
\v 32 Tuy nhiên, nhà cửa do người Lê-vi làm chủ trong các thành của họ có thể được chuộc vào bất kỳ thời điểm nào.
\s5
\v 33 Nếu một người Lê-vi không chuộc lại ngôi nhà mà người đã bán đi, khi ấy ngôi nhà bị bán đi trong thành phố mà nó tọa lạc phải được hồi lại trong năm hân hỉ, vì ngôi nhà ở trong các thành của người Lê-vi là tài sản của họ giữa vòng dân sự Y-sơ-ra-ên.
\v 34 Nhưng đồng ruộng ở chung quanh các thành của họ không được bán đi vì chúng là tài sản thường trực của người Lê-vi.
\s5
\v 35 Nếu đồng bào của anh em bị nghèo đi, người nầy không còn tự chu cấp cho mình nữa, khi ấy anh em phải giúp đỡ cho người y như anh em sẽ giúp cho một người lạ hoặc bất kỳ ai khác đang sinh sống giữa vòng anh em.
\v 36 Đừng buộc tiền lời hay kiếm lợi từ người ấy cho dù là thế nào đi nữa, nhưng hãy tôn kính Đức Chúa Trời của anh em hầu cho anh em kia có thể cứ sống với anh em.
\v 37 Anh em chớ cho người vay tiền mà kiếm lời, cũng không bán cho người đồ ăn để kiếm lãi.
\v 38 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, là Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để Ta ban cho anh em xứ Ca-na-an, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 39 Nếu đồng bào của anh em bị nghèo đi rồi bán mình cho anh em, anh em chớ có bắt người lao động như một nô lệ.
\v 40 Hãy đối đãi với người như một tôi tớ được thuê mướn. Người phải sống giống như kẻ sống tạm thời với anh em vậy. Người sẽ phục vụ với anh em cho đến năm hân hỉ.
\v 41 Khi ấy người sẽ rời khỏi anh em, người và con cái người với người, và người sẽ trở lại với gia đình của chính mình và với tài sản của cha người.
\s5
\v 42 Vì họ là tôi tớ của Ta mà Ta đã mua ra khỏi xứ Ai-cập. Họ sẽ không bị bán đi làm nô lệ.
\v 43 Anh em chớ cai trị trên họ cách khắc nghiệt, nhưng anh em phải tôn kính Đức Chúa Trời của anh em.
\v 44 Giống như với nô lệ nam và nữ của anh em, anh em có thể nhận lấy họ từ các dân sống ở chung quanh anh em, anh em có thể mua nô lệ từ nơi họ.
\s5
\v 45 Anh em cũng có thể mua nô lệ từ những người ngoại nào đang sống giữa vòng anh em, nghĩa là, từ gia đình của những người đang sống với anh em, con cái đã sanh ra trong xứ của anh em. Họ có thể trở thành tài sản của anh em.
\v 46 Anh em có thể cung cấp những nô lệ như thế làm cơ nghiệp cho con cái đến sau anh em, để giữ lấy làm tài sản. Đối với họ, anh em có thể mua làm nô lệ cho anh em, nhưng anh em chớ có cai trị khắc nghiệt trên các anh em mình giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 47 Nếu một người ngoại hay ai đó đang sống tạm với anh em trở nên giàu có, và nếu một đồng bào Y-sơ-ra-ên bị nghèo đi rồi bán mình cho người ngoại, hay cho ai đó trong gia đình của người ngoại,
\v 48 sau khi đồng bào Y-sơ-ra-ên của anh em bị bán đi, người ấy có thể được mua lại. Ai đó trong gia đình có thể chuộc lại người.
\s5
\v 49 Có thể là bác, hoặc con trai của bác, đứng ra chuộc người, hoặc bất cứ ai là bà con gần với gia đình của người. Hay, nếu người trở nên giàu, người có thể chuộc lấy bản thân mình.
\v 50 Người phải mặc cả với kẻ đã mua mình; họ phải tính những năm từ năm người bán mình đi với người mua cho đến năm hân hỉ. Cái giá chuộc người phải được tính toán trong việc giữ giá phải trả cho người tôi tớ thuê mướn, vì số năm người phải tiếp tục làm việc cho kẻ đã mua mình.
\s5
\v 51 Nếu vẫn còn nhiều năm cho đến năm hân hỉ, người phải mua lại y như cái giá chuộc mình một số tiền cân xứng với số năm đó.
\v 52 Nếu chỉ có một vài năm thì đến năm hân hỉ, thế thì người phải mặc cả với kẻ mua mình nghĩ đến số năm còn lại trước năm hân hỉ, và người phải trả giá chuộc mình đúng theo với số năm.
\s5
\v 53 Người phải bị đối xử như một kẻ làm thuê hết năm nầy qua năm khác. Anh em phải biết chắc người không bị đối xử khắc nghiệt.
\v 54 Nếu người không được chuộc với các phương tiện nầy, khi ấy người phải phục vụ cho đến năm hân hỉ, người và con cái người với người.
\v 55 Đối với Ta, dân Y-sơ-ra-ên là hàng tôi tớ. Họ là tôi tớ của Ta mà Ta đã đem ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em'".
\s5
\c 26
\p
\v 1 "Các con chớ làm hình tượng nào, các con cũng đừng làm hình chạm hay trụ đá thiêng, và các con chớ đặt hình chạm nào bằng đá trong xứ các con để các con phải sấp mình xuống, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 2 Các con phải giữ những ngày Sa-bát của Ta và tôn kính nơi thánh Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Nếu các con bước theo luật lệ Ta và giữ theo các điều răn Ta và vâng theo chúng,
\v 4 khi ấy Ta sẽ ban cho các con mưa phải thì; đất sẽ sanh sản vật nó, và cây cối ngoài đồng sẽ kết quả nó.
\s5
\v 5 Sân đạp lúa của các con sẽ liên tục mùa hái nho, và mùa hái nho sẽ kéo dài đến mùa gieo cấy. Các con sẽ ăn bánh no nê và sống an ninh ở nơi các con làm nhà cửa ở trong xứ.
\v 6 Ta sẽ ban bình an ở trong xứ; các con sẽ nằm nghỉ mà chẳng có gì làm cho sợ hãi. Ta sẽ diệt loài thú dữ khỏi đất, và gươm sẽ không đưa qua xứ của các con.
\s5
\v 7 Các con sẽ đuổi theo các kẻ thù, và chúng sẽ bởi gươm sa ngã trước mặt các con.
\v 8 Năm người trong các con sẽ đuổi cả trăm người, và cả trăm người trong các con sẽ đuổi cả chục ngàn người; những kẻ thù của các con sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các con.
\s5
\v 9 Ta sẽ gia ơn cho các con và khiến cho các con được kết quả và thêm nhiều; Ta sẽ lập giao ước với các con.
\v 10 Các con sẽ ăn đồ ăn được chất chứa lâu dài. Các con sẽ đem đồ ăn được chứa ra trong khi các con sẽ cần chỗ cho hoa lợi mới.
\s5
\v 11 Ta sẽ đặt đền tạm của ta giữa vòng các con, và Ta sẽ không ghê gớm các con đâu.
\v 12 Ta sẽ bước đi giữa các con và làm Đức Chúa Trời của các con, còn các con sẽ làm dân Ta.
\v 13 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con, là Đấng đem các con ra khỏi xứ Ai-cập, để các con sẽ không làm nô lệ cho họ. Ta đã bẻ gãy ách của các con và khiến các con bước đi ngay thẳng.
\s5
\v 14 Nhưng nếu các con không chịu nghe theo Ta, và sẽ không vâng theo mọi điều răn nầy,
\v 15 và nếu các con chống lại mọi sự dạy dỗ của Ta và gớm ghiếc luật pháp Ta, hầu cho các con không vâng theo mọi mạng lịnh Ta, nhưng phá vỡ giao ước Ta —
\s5
\v 16 — nếu các con làm theo những điều nầy, thì Ta sẽ làm điều nầy cho các con: Ta sẽ giáng kinh khủng trên các con, các chứng và rét sẽ hủy diệt hai con mắt và đời sống các con sẽ cùng kiệt. Các con sẽ gieo các thứ giống mà chẳng được gì, vì kẻ thù của các con sẽ ăn sản vật đó.
\v 17 Ta sẽ nghịch cùng các con, và các con sẽ bị kẻ thù quản lý. Những kẻ ghét các con sẽ cai trị trên các con, và các con sẽ chạy trốn, thậm chí khi chẳng có ai đuổi theo.
\s5
\v 18 Nếu các con không nghe theo các mạng lịnh Ta, khi ấy Ta sẽ đuổi các con bảy lần thật nghiệt ngã vì cớ tội lỗi của các con.
\v 19 Ta sẽ phá vỡ sự kiêu ngạo nơi sức lực của các con. Ta sẽ làm cho bầu trời trên các con giống như sắt và đất của các con giống như đồng vậy.
\v 20 Sức lực của các con sẽ được sử dụng mà chẳng được gì, vì đất của các con sẽ chẳng sanh ra hoa lợi nó, và cây cối của các con trong xứ sẽ không kết quả được.
\s5
\v 21 Nếu các con ăn ở nghịch cùng Ta và sẽ chẳng chịu nghe theo Ta, Ta sẽ giáng thêm bảy lần nữa trên các con, với sự cân xứng theo tội lỗi của các con.
\v 22 Ta sẽ sai các loài thú nguy hiểm nghịch cùng các con, chúng sẽ cướp đi con cái của các con, hủy diệt gia súc của các con, và khiến cho các con còn ít người. Vì vậy, mọi con đường của các con sẽ ra hoang vắng.
\s5
\v 23 Nếu cứ như thế nầy mà các con vẫn không chấp nhận sự dạy dỗ của Ta mà cứ tiếp tục ăn ở nghịch cùng Ta,
\v 24 khi ấy Ta cũng sẽ nghịch cùng các con. Chính Ta sẽ giáng cho các con với bảy lần hơn vì cớ tội lỗi của các con.
\s5
\v 25 Ta sẽ khiến gươm giáo đến trên các con sẽ thực thi sự báo thù về việc phá vỡ giao ước Ta. Các con sẽ tụ tập lại bên trong các thành, và Ta sẽ sai một chứng giữa vòng các con ở đó, và khi ấy các con sẽ bị đánh bại bởi sức mạnh kẻ thù của các con.
\v 26 Khi Ta cắt đứt nguồn thực phẩm của các con, mười người đàn bà sẽ nướng bánh trên một cái lò, và họ sẽ phân phối bánh của các con theo sự đong đo cân đếm. Các con sẽ ăn mà không được no.
\s5
\v 27 Nếu các con không nghe theo Ta bất chấp mọi việc nầy, song cứ tiếp tục ăn ở nghịch cùng Ta,
\v 28 khi ấy Ta sẽ cư xử nghịch cùng các con trong giận dữ, và Ta sẽ sửa phạt các con thêm bảy lần hơn vì cớ tội lỗi của các con.
\s5
\v 29 Các con sẽ ăn thịt của con trai mình; các con sẽ ăn thịt của con gái mình.
\v 30 Ta sẽ hủy diệt đền miếu của các con, phá đổ các bàn thờ xông hương, và quăng thi thể các hình tượng của các con chồng trên các thây khác, và đích thân Ta sẽ ghê gớm các con.
\s5
\v 31 Ta sẽ biến thành của các con thành những đống đổ nát cùng hủy diệt những nơi thánh của các con. Ta sẽ không đẹp lòng với mùi hương các thứ của lễ của các con.
\v 32 Ta sẽ tàn phá xứ. Kẻ thù của các con, chúng sẽ đến sống ở đó và chúng sẽ sửng sốt khi nhìn thấy sự tàn phá.
\v 33 Ta sẽ tan rải các con giữa vòng các nước, và Ta sẽ rút gươm ra đuổi theo các con. Xứ các con sẽ bị bỏ, và các thành các con sẽ bị hư nát.
\s5
\v 34 Khi ấy xứ sẽ hưởng lấy những ngày Sa-bát của nó bao lâu nó bị bỏ hoang và các con sống trong đất của kẻ thù. Trong suốt thời gian ấy, đất sẽ yên nghỉ và hưởng những ngày Sa-bát của nó.
\v 35 Bao lâu xứ bị bỏ, nó sẽ được yên nghỉ, đấy sẽ là sự yên nghỉ mà nó không có với những ngày Sa-bát của các con, khi các con sống trong xứ.
\v 36 Giống như những kẻ trong các con bị bỏ lại trong đất của kẻ thù, Ta sẽ sai sợ hãi vào trong tấm lòng của các con hầu cho âm thanh của một cái lá bị thổi trong gió sẽ làm cho các con phải giật mình, và các con sẽ trốn chạy khác nào chạy trốn khỏi lưỡi gươm. Các con sẽ sa ngã, ngay cả khi chẳng có đuổi theo.
\s5
\v 37 Các con sẽ vấp ngã chồng trên nhau y như các con chạy tránh lưỡi gươm, mặc dù chẳng có ai đuổi theo. Các con sẽ chẳng có sức lực để đứng trước mặt kẻ thù của các con.
\v 38 Các con sẽ hư mất giữa vòng các dân, và xứ sở kẻ thù các con bản thân nó sẽ ăn nuốt các con.
\v 39 Người nào bị bỏ lại giữa vòng các con sẽ bị hao mòn trong tội lỗi của họ, ở đó trong đất của kẻ thù các con, và vì cớ tội lỗi của tổ phụ của họ, họ cũng sẽ hao mòn đi.
\s5
\v 40 Tuy nhiên, nếu họ xưng ra mọi tội lỗi của họ và tội lỗi của tổ phụ họ, và sự phản bội của họ bởi đó họ sống bất trung đối với Ta, và cách ăn ở của họ cũng nghịch cùng Ta —
\v 41 là những điều khiến Ta phải xây nghịch cùng họ rồi phó họ vào trong đất của kẻ thù họ — nếu tấm lòng chưa chịu cắt bì của họ biết hạ mình xuống, và nếu họ chấp nhận sự sửa phạt vì tội lỗi của họ,
\v 42 khi ấy Ta sẽ nhớ tới giao ước của Ta với Giacốp, giao ước của Ta với Y-sác, và giao ước của Ta với Ápraham; Ta cũng sẽ nhớ đến xứ.
\s5
\v 43 Xứ sẽ bị bỏ bởi họ, vậy xứ sẽ được thỏa với những ngày Sa-bát của nó trong khi nó bị bỏ mà không có họ. Họ sẽ phải trả giá án phạt vì tội lỗi của họ bởi vì bàn thân họ đã chối bỏ huấn thị và ghê gớm luật pháp của Ta.
\s5
\v 44 Tuy nhiên bất chấp mọi sự nầy, khi họ sống trong đất của kẻ thù, Ta sẽ không chối bỏ họ, Ta cũng sẽ không ghê gớm họ đến nỗi hủy diệt họ hoàn toàn và chẳng bội giao ước Ta đã lập với họ, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
\v 45 Nhưng vì cớ họ, Ta sẽ nhớ đến giao ước của Ta với các tổ phụ họ, là những kẻ Ta đem ra khỏi xứ Ai-cập ở trước mặt các dân, hầu cho Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ. Ta là Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 46 Đây là các điều răn, mạng lịnh, và luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã lập giữa chính mình Ngài và dân Y-sơ-ra-ên tại Núi Si-na-i qua Môi-se.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Khi một người đưa ra lời thề đặc biệt đòi người phải sử dụng một giá chuẩn về một người mà người ấy dâng cho Đức Giê-hô-va, hãy sử dụng các giá trị sau đây.
\s5
\v 3 Giá chuẩn của anh em dành cho một người nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi phải là năm mươi siếc-lơ bạc, theo siếc-lơ của nơi thánh.
\v 4 Vì một người nữ với cùng độ tuổi đó giá chuẩn của anh em phải là ba mươi siếc-lơ.
\s5
\v 5 Từ năm tuổi đến hai mươi tuổi, giá chuẩn của anh em cho một người nam phải là hai mươi siếc-lơ, và cho người nữ mười siếc-lơ.
\v 6 Từ một tháng tuổi cho đến năm tuổi giá chuẩn của anh em dành cho một người nam phải là năm siếc-lơ bạc, và cho một người nữ ba siếc-lơ bạc.
\s5
\v 7 Từ sáu mươi tuổi trở lên cho một người nam giá chuẩn của anh em phải là mười lăm siếc-lơ, và cho người nữ mười siếc-lơ.
\v 8 Nhưng nếu người ta đưa ra lời thề không thể nộp theo giá chuẩn, khi ấy người đó phải đến trình diện với thầy tế lễ, và thầy tế lễ sẽ tùy theo phương thế người mà định giá.
\s5
\v 9 Nếu ai đó muốn dâng một con thú cho Đức Giê-hô-va, và nếu Đức Giê-hô-va chấp nhận nó, khi ấy con thú đó sẽ được dâng cho Ngài.
\v 10 Người ấy không được đổi hay thế một con thú như vậy, một con thú tốt để lấy một con thú xấu hay con xấu để lấy con tốt. Nếu người thay hay thế con nầy để lấy con kia, khi ấy cả hai: con nầy hay con kia đều là thánh.
\s5
\v 11 Tuy nhiên, nếu con thú mà người đó thể dâng cho Đức Giê-hô-va kỳ thực là không sạch, vì thế Đức Giê-hô-va sẽ không chấp nhận nó, khi ấy người đó phải dâng con thú cho thầy tế lễ.
\v 12 Thầy tế lễ sẽ định giá nó, bằng giá chợ của con thú. Hễ giá nào mà thầy tế lễ định cho con thú, đó sẽ là giá của nó.
\v 13 Còn nếu người chủ muốn chuộc nó, khi ấy một phần năm giá của nó phải được định thêm vào với giá chuộc nó.
\s5
\v 14 Khi một người muốn dâng ngôi nhà của mình biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va, khi ấy thầy tế lễ sẽ định giá nó. Bất kỳ giá nào thầy tế lễ định, đấy sẽ là giá của nó.
\v 15 Nhưng nếu người chủ dâng ngôi nhà đó rồi sau đó muốn chuộc lại, khi ấy một phần năm giá của nó phải được thêm vào cùng với giá chuộc nó, và khi ấy ngôi nhà sẽ thuộc về người trở lại.
\s5
\v 16 Nếu một người muốn dâng cho Đức Giê-hô-va một số đất đai của mình, khi ấy phần định giá của nó sẽ được thực hiện trong việc tuân giữ với lượng hột giống cần để gieo ra trên đó. Một ô-me (=10 ê-pha) lúa sẽ được định với năm mươi siếc-lơ bạc.
\s5
\v 17 Nếu người dâng sở ruộng mình trong năm hân hỉ, giá định vẫn giữ nguyên.
\v 18 Nhưng nếu người dâng sở ruộng mình sau năm hân hỉ, khi ấy thầy tế lễ phải tính giá của sở ruộng đó bằng số năm còn lại cho đến năm hân hỉ kế tiếp, và giá định phải giảm lại.
\s5
\v 19 Nếu người nào dâng sở ruộng muốn chuộc nó lại, khi ấy người phải phụ thêm một phần năm giá định, và sở ruộng thuộc về người trở lại.
\v 20 Nếu người không chuộc lại sở ruộng đó, hay nếu người bán sở ruộng cho người khác, nó không thể được chuộc nữa.
\v 21 Thay vì thế, sở ruộng, khi nó được phóng thích vào năm hân hỉ, sẽ trở thành món quà thánh dâng cho Đức Giê-hô-va, giống như sở ruộng đã được dâng hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va. Sở ruộng ấy sẽ thuộc về thầy tế lễ.
\s5
\v 22 Nếu một người dâng cho Đức Giê-hô-va một sở ruộng mà người đã mua, nhưng sở ruộng đó không phải là phần đất của gia đình người,
\v 23 khi ấy thầy tế lễ sẽ tính giá định cho tới năm hân hỉ, và người ấy phải nộp giá của nó nhằm vào ngày là quà thánh dâng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Trong năm hân hỉ, sở ruộng phải trở lại với người đã đứng mua nó, với người chủ đất.
\v 25 Mọi giá định phải được đặt ra bởi giá của siếc-lơ ở nơi thánh. Hai mươi ghê-ra (tiền của người Hy-bá-lai) phải tương đương với một siếc-lơ.
\s5
\v 26 Nhưng con đầu lòng giữa vòng các loài thú thuộc về Đức Giê-hô-va rồi và chẳng có người nào dám dâng nó — dù là bò hay chiên — vì nó thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 27 Nếu nó là con thú ô uế, khi ấy người chủ có thể mua nó lại với giá đã định, và thêm một phần năm theo giá đó. Nếu con thú không được chuộc, khi ấy nó có thể được đem bán với giá đề ra.
\s5
\v 28 Tuy nhiên, không thứ chi một người dâng cho Đức Giê-hô-va từ điều chi người có, dù là con người hay con vật, hoặc đất của gia đình mình, có thể được đem bán hay chuộc lại. Mọi thứ đã dâng đều là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\v 29 Không một giá chuộc nào được nộp cho người nào bị biệt riêng ra để chịu hủy diệt. Người ấy phải bị tử hình.
\s5
\v 30 Mọi của dâng một phần mười trong xứ, dù là lúa mọc trong xứ hay hoa quả từ cây cối, đều thuộc về Đức Giê-hô-va. Của dâng ấy là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\v 31 Nếu một người chuộc lại bất kỳ phần mười nào của mình, người ấy phải cộng thêm một phần năm giá của nó.
\s5
\v 32 Cũng như mọi phần mười của bầy bò hay bầy chiên, con nào đi ngang dưới cây gậy của người chăn, là phần mười phải đem dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 33 Người chăn không được tìm con tốt hơn hay con thú xấu hơn, và người không được thế con nầy mà dâng con khác. Nếu người thay đổi nó, khi ấy cả hai, con đổi và con bị đổi sẽ là thánh. Nó không thể được chuộc lại'".
\s5
\v 34 Đây là mạng lịnh mà Đức Giê-hô-va đã ban ra tại Núi Si-na-i cho Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên.

2447
04-NUM.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2447 @@
\id NUM
\ide UTF-8
\h DÂN SỐ KÝ
\toc1 DÂN SỐ KÝ
\toc2 DÂN SỐ KÝ
\toc3 num
\mt DÂN SỐ KÝ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong lều hội họp ở hoang mạc Si-nai vào ngày đầu tiên của tháng thứ nhì trong năm thứ hai sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khỏi xứ Ai Cập. Đức Giê-hô-va phán,
\v 2 “Hãy thực hiện một cuộc điều tra dân số tất cả những người nam Y-sơ-ra-ên theo từng thị tộc, gia tộc của họ. Hãy thống kê theo tên. Thống kê từng người nam, mỗi người
\v 3 từ hai mươi tuổi trở lên. Hãy tính tất cả những ai có thể chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên. Ngươi và A-rôn hãy ghi lại số người nam theo từng đơn vị vũ trang.
\s5
\v 4 Mỗi chi phái có một người nam làm tộc trưởng, người phải phục vụ cùng ngươi với tư cách là trưởng chi phái. Mỗi trưởng chi phái sẽ lãnh đạo nhóm chiến đấu cho chi phái của mình.
\v 5 Đây là danh sách các trưởng chi phái sẽ chiến đấu cùng ngươi: Chi phái Ru-bên, Ê-lít-su con trai Sê-đêu;
\v 6 chi phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-ha-đai;
\s5
\v 7 chi phái Giu-đa, Na-ha-sôn con trai A-mi-na-đáp;
\v 8 chi phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên con trai Xu-a;
\v 9 chi phái Sa-bu-lôn, Ê-li-áp con trai Hê-lôn;
\s5
\v 10 chi phái Ép-ra-im, con cháu của Giô-sép, có Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút; chi phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên con trai Phê-đa-xu;
\v 11 chi phái Ben-gia-min, A-bi-đan con trai của Ghi-đê-ôn;
\s5
\v 12 chi phái Đan, A-hi-ê-xe con trai của A-mi-sa-đai;
\v 13 chi phái A-se, Pha-ghi-ên con trai của Ốc-ran;
\v 14 chi phái Gát, Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên;
\v 15 và chi phái Nép-ta-li, A-hi-ra con trai của Ê-nan.
\s5
\v 16 Những người nam này được chỉ định từ trong dân. Họ là người lãnh đạo các thị tộc của cha ông mình. Họ là các tộc trưởng trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 17 Môi-se và A-rôn tiếp nhận những người được nêu đích danh,
\v 18 và với những người này, họ tập hợp tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên vào ngày thứ nhất của tháng thứ nhì. Sau đó mỗi người nam từ hai mươi tuổi trở lên được nhập sổ theo dòng họ mình. Họ phải kể tên thị tộc và gia tộc từ thời tổ tiên mình.
\v 19 Vậy Môi-se thống kê dân số trong hoang mạc Si-nai, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 20 Con cháu Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 21 Chi phái Ru-bên có 46. 500 người nam.
\s5
\v 22 Con cháu Si-mê-ôn, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 23 Chi phái Si-mê-ôn có 59. 300 người nam.
\s5
\v 24 Con cháu Gát, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 25 Chi phái Gát có 45. 650 người nam.
\s5
\v 26 Con cháu Giu-đa, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 27 Chi phái có 74. 600 người nam.
\s5
\v 28 Con cháu Y-sa-ca, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 29 Chi phái Y-sa-ca có 54. 400 người nam.
\s5
\v 30 Con cháu Sa-bu-lôn, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 31 Chi phái Sa-bu-lôn có 57. 400 người nam.
\s5
\v 32 Con cháu Ép-ra-im, con Giô-sép, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 33 Chi phái Ép-ra-im có 40. 500 người nam.
\s5
\v 34 Con cháu Ma-na-se, con Giô-sép, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 35 Chi phái Ma-na-se có 32. 200 người nam.
\s5
\v 36 Con cháu Ben-gia-min, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 37 Chi phái Ben-gia-min có 35. 400 người nam.
\s5
\v 38 Con cháu Đan, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 39 Chi phái Đan có 62. 700 người nam.
\s5
\v 40 Con cháu A-se, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 41 Chi phái A-se có 41. 500 người nam.
\s5
\v 42 Con cháu Nép-ta-li, tất cả người nam từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo tên cùng với thị tộc và gia tộc mình.
\v 43 Chi phái Nép-ta-li có 53. 400 người nam.
\s5
\v 44 Môi-se và A-rôn cùng với mười hai trưởng chi phái của Y-sơ-ra-ên thống kê những người này.
\v 45 Vậy tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên có thể ra trận được thống kê theo gia tộc mình.
\v 46 Tổng cộng có 603. 550 người.
\s5
\v 47 Nhưng con cháu trong chi phái Lê-vi thì không được liệt kê,
\v 48 vì Đức Giê-hô-va có phán với Môi-se rằng,
\v 49 “Ngươi chớ thống kê chi phái Lê-vi hoặc liệt kê họ vào tổng số dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 50 Trái lại, hãy cử người Lê-vi lo việc chăm sóc đền tạm của giao ước, cùng mọi đồ đạc trong đền tạm và những thứ thuộc về nó. Họ phải coi sóc đền tạm và đóng trại xung quanh đó.
\s5
\v 51 Người Lê-vi phải tháo dỡ đền tạm khi cần di chuyển. Khi cần dựng đền tạm thì người Lê-vi phải dựng lên. Kẻ lạ mặt nào đến gần đền tạm sẽ bị xử tử.
\v 52 Khi dân Y-sơ-ra-ên dựng lều mình, không ai được đến quá gần ngọn cờ thuộc đơn vị vũ trang của mình.
\s5
\v 53 Tuy nhiên, người Lê-vi phải dựng lều quanh đền tạm giao ước để Ta không nổi giận trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải coi sóc đền tạm giao ước. ”
\v 54 Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều này y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn,
\v 2 “Mỗi con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ cắm trại quanh ngọn cờ của đơn vị quân đội mình, và quanh ngọn cờ nhỏ của chi phái. Trại sẽ hướng về phía lều hội họp.
\s5
\v 3 Trại quân Giu-đa sẽ cắm trại với đơn vị mình quanh ngọn cờ Giu-đa, về phía đông lều hội họp, theo hướng mặt trời mọc. Na-ha-sôn con trai A-mi-na-đáp sẽ là trưởng đội quân Giu-đa.
\v 4 Quân số của Giu-đa là 74. 600 người.
\s5
\v 5 Chi phái Y-sa-ca sẽ cắm trại kế Giu-đa. Na-tha-na-ên con trai Xu-a sẽ trưởng đội quân Y-sa-ca.
\v 6 Quân số của Na-tha-na-ên là 54. 400 người.
\s5
\v 7 Chi phái Sa-bu-lôn sẽ cắm trại kế Y-sa-ca. Ê-li-áp con trai Hê-lôn sẽ là trưởng đội quân Sê-bu-lôn.
\v 8 Quân số của Sê-bu-lôn là 57. 400 người.
\s5
\v 9 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Giu-đa là 186. 400 người. Họ sẽ tiên phong ra khỏi trại.
\s5
\v 10 Các đội quân ở phía nam sẽ cắm trại quanh ngọn cờ của Ru-bên. Ê-li-su con trai Sê-đêu sẽ là trưởng đội quân Ru-bên.
\v 11 Quân số của Ru-bên là 46. 500 người.
\s5
\v 12 Chi phái Si-mê-ôn sẽ cắm trại quanh Ru-bên. Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai sẽ là trưởng đội quân Si-mê-ôn.
\v 13 Quân số của Si-mê-ôn là 59. 300 người.
\s5
\v 14 Chi phái Gát cắm trại kế bên. Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên sẽ là trưởng đội quân Gát.
\v 15 Quân số của Gát là 45. 650 người.
\s5
\v 16 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Ru-bên là 151. 450 người. Họ sẽ là đơn vị thứ nhì ra khỏi trại.
\s5
\v 17 Kế tiếp, lều hội họp sẽ ra từ trại cùng với người Lê-vi đi giữa tất cả các trại. Họ sẽ ra khỏi trại theo đúng thứ tự như lúc vào trại. Mỗi người phải đứng đúng vị trí, theo ngọn cờ của đơn vị mình.
\s5
\v 18 Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm trại về phía tây lều hội họp. Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút sẽ là trưởng đội quân Ép-ra-im.
\v 19 Quân số của Ép-ra-im là 40. 500 người.
\s5
\v 20 Chi phái Ma-na-se sẽ cắm trại kế bên Ép-ra-im. Ga-ma-li-ên con trai Phê-đa-xu sẽ là trưởng đội quân Ma-na-se.
\v 21 Quân số của Ma-na-se là 32. 200 người.
\s5
\v 22 Chi phái Ben-gia-min cắm trại ở kế bên. A-bi-đan con trai Ghi-đê-ôn sẽ là trưởng đội quân Ben-gia-min.
\v 23 Quân số của Ben-gia-min là 35. 400 người.
\s5
\v 24 Quân số trong tất cả các đội quân cắm trại với Ép-ra-im là 108. 100 người. Họ sẽ là đơn vị thứ ba ra khỏi trại.
\s5
\v 25 Trại quân Đan sẽ cắm trại quanh ngọn cờ ở phía bắc đền tạm. A-hi-ê-xe con trai A-mi-sa-đai sẽ lãnh đạo con cháu Đan.
\v 26 Quân số của Đan là 62. 700 người.
\s5
\v 27 Chi phái A-se sẽ cắm trại kế bên Đan. Pha-ghi-ên con trai Ốc-ran sẽ lãnh đạo con cháu A-se.
\v 28 Quân số của A-se là 41. 500 người.
\s5
\v 29 Chi phái Nép-ta-li cắm trại kế bên. A-hi-ra con trai Ê-nan sẽ lãnh đạo con cháu Nép-ta-li.
\v 30 Quân số của Nép-ta-li là 53. 400 người.
\s5
\v 31 Quân số của tất cả các đội quân cắm trại với Đan là 157. 600 người. Họ sẽ là đơn vị cuối cùng ra khỏi trại cùng với ngọn cờ mình.”
\s5
\v 32 Môi-se và A-rôn thống kê có 603. 550 người trong các quân đội của Y-sơ-ra-ên theo thị tộc của tổ tiên họ.
\v 33 Nhưng Môi-se và A-rôn không thống kê người Lê-vi trong dân Y-sơ-ra-ên, y theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 34 Dân Y-sơ-ra-ên thực hiện mọi điều mà Đức Giê-hô-va đã phán với Môi-se. Họ cắm trại theo ngọn cờ mình, và ra đi theo thị tộc và gia tộc.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Đây là dòng dõi của A-rôn và Môi-se khi Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trên Núi Si-nai.
\v 2 Tên các con trai của A-rôn là Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và Y-tha-ma.
\s5
\v 3 Đây là tên các con trai của A-rôn, là những thầy tế lễ đã được chọn và được chỉ định làm chức tế lễ.
\v 4 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trước mặt Đức Giê-hô-va khi họ dâng lên Ngài một thứ lửa không được chấp nhận trong hoang mạc Si-nai. Na-đáp và A-bi-hu không có con, nên chỉ Ê-lê-a-xa và Y-tha-ma làm thầy tế lễ cùng với cha là A-rôn.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 6 “Hãy đem chi phái Lê-vi đến trình diện thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người.
\s5
\v 7 Họ phải thay mặt A-rôn và cả dân chúng thi hành nhiệm vụ trước lều hội họp. Họ phải hầu việc ở đền tạm.
\v 8 Họ phải coi sóc tất cả đồ đạc trong lều hội họp, và giúp đỡ các chi phái Y-sơ-ra-ên phục vụ đền tạm.
\s5
\v 9 Hãy giao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai người. Họ được giao hoàn toàn cho người để giúp người phục vụ dân Y-sơ-ra-ên.
\v 10 Ngươi hãy chỉ định A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ, nhưng bất kỳ người ngoại nào đến gần sẽ bị xử tử.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 12 “Này, Ta đã chọn người Lê-vi từ giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta.
\v 13 Tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta. Vào ngày Ta giết hại con đầu lòng ở Ai Cập, Ta đã biệt riêng tất cả con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả con người lẫn động vật. Chúng thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se trong hoang mạc Si-nai,
\v 15 “Hãy thống kê con cháu Lê-vi theo gia đình và gia tộc. Thống kê mọi người nam từ một tháng tuổi trở lên. ”
\v 16 Môi-se thống kê họ y theo sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va, như Ngài đã truyền.
\s5
\v 17 Tên các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
\v 18 Các thị tộc của các con trai Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i.
\v 19 Các thị tộc của con trai Kê-hát là Am-ram, Díp-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
\v 20 Các thị tộc của con trai Mê-rai-ri là Mách-li và Mu-si. Đây là các thị tộc của người Lê-vi, được liệt kê theo thị tộc.
\s5
\v 21 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i. Đây là những thị tộc của Ghẹt-sôn.
\v 22 Tổng số người nam từ một tháng tuổi trở lên là 7. 500 người.
\v 23 Các thị tộc của Ghẹt-sôn sẽ cắm trại về phía tây đền tạm.
\s5
\v 24 Ê-li-sa-phát con trai La-ên sẽ lãnh đạo các thị tộc của Ghẹt-sôn.
\v 25 Dòng họ Ghẹt-sôn phải coi sóc những tấm màn trong đền tạm dưới mái che lều hội họp. Họ sẽ coi sóc lều, tấm phủ lều, và tấm màn ở lối vào lều hội họp.
\v 26 Họ sẽ coi sóc các tấm màn nơi hành lang, màn ở cửa vào sân sân bao quanh nơi thánh và bàn thờ. Họ phải coi sóc các dây căng lều hội họp và mọi thứ trong đó.
\s5
\v 27 Thị tộc của dòng họ Kê-hát gồm: thị tộc Am-ram, thị tộc Ít-ha, thị tộc Hếp-rôn, và thị tộc U-xi-ên. Các thị tộc này thuộc dòng họ Kê-hát.
\v 28 Có 8. 600 người từ một tuổi trở lên được thống kê để coi sóc đồ dùng thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 29 Các gia đình dòng họ Kê-hát phải cắm trại về phía nam đền tạm.
\s5
\v 30 Ê-li-sa-phan con trai U-xi-ên sẽ lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Kê-hát.
\v 31 Họ phải coi sóc chiếc hòm, cái bàn, cây đèn, bàn thờ, những vật thánh được dùng để phục vụ, tấm màn, và mọi việc liên quan.
\v 32 Ê-lê-a-sa con trai thầy tế lễ A-rôn sẽ chỉ huy những lãnh đạo của chi phái Lê-vi. Người sẽ giám sát những người phụ trách nơi thánh.
\s5
\v 33 Hai thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri gồm: thị tộc Mách-li và thị tộc Mu-si. Đây là những thị tộc trong dòng họ Mê-ra-ri.
\v 34 Có 6. 200 người từ một tuổi trở lên được thống kê.
\v 35 Xu-ri-ên con trai A-bi-hai sẽ lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri. Họ sẽ cắm trại ở phía bắc đền tạm.
\s5
\v 36 Con cháu của Mê-ra-ri sẽ coi sóc các tấm ván của đền tạm, thanh ngang, trụ, đế trụ, các vật dụng, và mọi thứ liên quan, bao gồm
\v 37 trụ và cột trên sân, với đế, cọc, và dây thừng.
\s5
\v 38 Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại phía đông đền tạm, trước lều hội họp, về phía mặt trời mọc. Họ phải chịu trách nhiệm làm trọn công việc ở nơi thánh và công việc của dân Y-sơ-ra-ên. Người ngoài nào đến gần nơi thánh sẽ bị xử tử.
\v 39 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả người nam từ một tuổi trở lên trong các thị tộc của dòng họ Lê-vi theo như Đức Giê-hô-va đã truyền. Có tổng cộng 22. 000 người.
\s5
\v 40 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy thống kê tất cả con trưởng nam người Y-sơ-ra-ên từ một tuổi trở lên, lập danh sách.
\v 41 Ngươi hãy dành người Lê-vi cho ta thay cho tất cả con trưởng nam người Y-sơ-ra-ên. Ta là Đức Giê-hô-va. Và ngươi hãy lấy súc vật của người Lê-vi thay cho con đầu lòng của bầy gia súc trong dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 42 Môi-se đếm tất cả con trưởng của người Y-sơ-ra-ên như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\v 43 Ông thống kê tất cả con trưởng nam theo tên, từ một tuổi trở lên. Tổng cộng là 22. 273 người.
\s5
\v 44 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 45 “Hãy chọn người Lê-vi thay cho tất cả con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên. Và nhận lấy súc vật của người Lê-vi thay vì súc vật trong dân sự. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 46 Ngươi hãy lấy năm siếc-lơ để chuộc từng người trong số 273 con trưởng của người Y-sơ-ra-ên, nhiều hơn số người Lê-vi.
\v 47 Ngươi hãy dùng số siếc-lơ của nơi thánh làm đơn vị đo lường chuẩn. Một siếc-lơ tương đương với hai mươi ghê-ra.
\v 48 Ngươi phải giao tiền chuộc mà ngươi đã trả cho A-rôn và các con trai người. ”
\v 49 Vậy Môi-se thâu phần tiền chuộc của những người vượt hơn số người Lê-vi được chuộc.
\v 50 Môi-se gom số tiền từ con trưởng của người Y-sơ-ra-ên. Ông thâu được 1. 365 siếc-lơ, theo đơn vị siếc-lơ của nơi thánh.
\v 51 Môi-se giao số tiền chuộc cho A-rôn và các con trai người. Môi-se làm mọi điều y theo lời Đức Giê-hô-va, theo lệnh truyền của Ngài.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn,
\v 2 “Hãy thống kê số người nam là con cháu dòng họ Kê-hát trong vòng người Lê-vi, theo thị tộc và gia tộc.
\v 3 Hãy kiểm kê tất cả người nam từ 30 đến 50 tuổi. Họ phải tham gia đội ngũ phục vụ trong lều hội họp.
\v 4 Con cháu Kê-hát sẽ coi sóc những vật chí thánh trong lều hội họp.
\s5
\v 5 Trước khi nhổ trại, A-rôn và các con trai người phải vào lều, gỡ tấm màn ngăn nơi chí thánh và nơi thánh và phủ lên hòm giao ước.
\v 6 Họ sẽ lấy tấm da cá nược phủ lên. Sau đó trải một tấm vải xanh lên trên cùng. Xỏ đòn khiêng vào.
\s5
\v 7 Họ sẽ trải một tấm vải xanh lên bàn đặt bánh trần thiết. Trên đó để đĩa, muỗng, tô, và bình dùng dâng của lễ quán. Bánh phải luôn được đặt trên bàn.
\v 8 Họ sẽ dùng một tấm vải đỏ thắm và tấm da cá nược phủ lên chúng. Rồi xỏ đòn khiêng vào bàn.
\s5
\v 9 Họ phải lấy một tấm vải xanh phủ lên cây đèn, các ngọn đèn, kéo cắt tim đèn, khay đựng tàn, và các bình dầu thắp đèn.
\v 10 Họ phải để cây đèn và các đồ phụ tùng vào một cái bao làm bằng da cá nược, rồi đặt lên cáng khiêng.
\v 11 Họ phải trải tấm vải xanh lên bàn thờ bằng vàng, rồi lấy một tấm da cá nược phủ lên, sau đó xỏ đòn khiêng.
\s5
\v 12 Họ phải lấy tất cả thiết bị dùng trong nơi thánh và gói lại trong một tấm vải xanh, bọc bằng da cá nược rồi đặt lên cáng khiêng.
\v 13 Họ phải hốt tro trên bàn thờ và trải lên đó một tấm vải tím.
\v 14 Họ phải đặt tất cả đồ dùng cho bàn thờ lên cáng khiêng. Các đồ dùng này là lư hương, nĩa, xẻng, chén, và mọi đồ dùng khác của bàn thờ. Sau đó dùng tấm da cá nược phủ lên bàn thờ rồi xỏ đòn khiêng vào.
\s5
\v 15 Khi A-rôn và các con trai người đã làm xong việc che phủ nơi thánh và các đồ dùng, khi dời trại, con cháu Kê-hát phải đến khuân vác nơi thánh. Nếu ai chạm vào các đồ dùng thánh, ắt sẽ chết. Đây là phần việc của con cháu Kê-hát, họ phải khiêng đồ đạc trong lều hội họp.
\v 16 Ê-lê-a-xa, con trai thầy tế lễ A-rôn, sẽ trông coi dầu thắp đèn. Người phải giám sát việc coi sóc hương thơm, của lễ chay thường xuyên, dầu xức, toàn bộ đền tạm và mọi thứ bên trong, các đồ dùng và vật thánh.”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va lại phán với Môi-se và A-rôn,
\v 18 “Chớ để thị tộc dòng họ Kê-hát bị xóa khỏi người Lê-vi.
\v 19 Đây là điều phải làm để giữ họ sống chứ không chết. Khi họ đến nơi chí thánh,
\v 20 tuyệt đối không vào trong để nhìn nơi thánh dù chỉ trong chốc lát, nếu không họ sẽ chết. A-rôn và các con trai ông phải vào trong, sau đó người và các con trai phải giao việc hoặc công tác riêng cho từng người trong họ Kê-hát.”
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 22 “Ngươi cũng hãy thống kê con cháu Ghẹt-sôn, theo gia tộc và thị tộc.
\v 23 Hãy thống kê người nam từ 30 đến 50 tuổi. Đếm số người có thể tham gia nhóm phục vụ trong lều hội họp.
\s5
\v 24 Đây là việc của thị tộc Ghẹt-sôn khi phục vụ và khiêng đồ.
\v 25 Họ phải khiêng các tấm màn của đền tạm, lều hội họp, các tấm phủ, tấm phủ bằng da cá nược, và các tấm màn ở cửa lều hội họp.
\v 26 Họ phải mang các tấm màn của sân, màn treo ô cửa của cổng sân, gần đền tạm và bàn thờ, dây căng lều, và mọi dụng cụ phục vụ. Họ phải đảm nhận bất cứ việc gì liên quan đến những thứ này.
\s5
\v 27 A-rôn và các con trai người phải chỉ đạo việc phục vụ của con cháu người Ghẹt-sôn, liên quan đến việc vận chuyển và phục vụ. Ngươi phải giao trách nhiệm cho họ.
\v 28 Đây là công tác của thị tộc dòng họ Ghẹt-sôn nơi lều hội họp.
\s5
\v 29 Ngươi hãy kiểm tra số con cháu người Mê-ra-ri theo thị tộc và gia tộc,
\v 30 từ 30 đến 50 tuổi. Hãy kiểm kê số người sẽ phục vụ trong lều hội họp.
\s5
\v 31 Đây là trách nhiệm và công tác của họ khi phục vụ trong lều hội họp. Họ sẽ coi sóc khung đền tạm, các thanh ngang, trụ, và đế trụ,
\v 32 cùng với trụ sân, đế trụ, cọc, và dây căng lều, với tất cả các đồ đạc liên quan. Hãy kê khai các vật dụng cần mang.
\s5
\v 33 Đây là công việc của thị tộc con cháu Mê-ra-ri liên quan đến lều hội họp, dưới sự chỉ dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.”
\s5
\v 34 Môi-se, A-rôn và các trưởng dân chúng thống kê con cháu người Kê-hát theo thị tộc và gia tộc.
\v 35 Họ thống kê những người từ 30 đến 50 tuổi. Họ kiểm kê số người tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp.
\v 36 Có 2. 750 người tính theo thị tộc.
\s5
\v 37 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả số người trong thị tộc và gia tộc Kê-hát là những người sẽ phục vụ ở lều hội họp. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se.
\s5
\v 38 Con cháu Ghẹt-sôn được thống kê theo thị tộc và gia tộc,
\v 39 từ 30 đến 50 tuổi, tức là những người sẽ tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp.
\v 40 Có tất cả 2. 630 người được thống kê theo thị tộc và gia tộc.
\s5
\v 41 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả số người trong thị tộc và gia tộc Ghẹt-sôn, tức là những người sẽ phục vụ ở lều hội họp. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se.
\s5
\v 42 Con cháu Mê-ra-ri được thống kê theo thị tộc và gia tộc,
\v 43 từ 30 đến 50 tuổi, tức là những người sẽ tham gia vào việc phục vụ trong lều hội họp.
\v 44 Có tất cả 3. 200 người được thống kê theo thị tộc và gia tộc.
\s5
\v 45 Môi-se và A-rôn thống kê tất cả con cháu dòng họ Mê-ra-ri. Như vậy, họ vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se.
\s5
\v 46 Vậy Môi-se, A-rôn và các lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên thống kê tất cả con cháu người Lê-vi theo thị tộc và gia tộc
\v 47 từ 30 đến 50 tuổi. Họ thống kê số người sẽ tham gia phục vụ trong đền tạm, khuân vác và coi sóc các hạng mục trong lều hội họp.
\v 48 Tổng cộng có 8. 580 người.
\s5
\v 49 Theo lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, Môi-se thống kê từng người, theo loại hình công việc mà người đó được giao. Ông thống kê họ tùy theo trách nhiệm họ được giao. Như vậy, họ vâng theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Ngươi hãy ra lệnh dân Y-sơ-ra-ên trục xuất những người bị bệnh nhiễm trùng da, nhiễm trùng ra mủ, và người bị ô uế vì đụng vào xác chết ra khỏi trại.
\v 3 Dù là nam hay nữ, ngươi cũng phải trục xuất họ khỏi trại. Họ không được làm ô uế trại, vì đó là nơi Ta ngự. ”
\v 4 Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy. Họ trục xuất những người ấy khỏi trại, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. Dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 6 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Khi một người nam hoặc người nữ phạm bất kỳ tội gì mà người ta thường phạm, và bất trung với Ta, thì người đó có tội.
\v 7 Người phải xưng tội mình đã phạm. Người phải hoàn toàn bồi thường thiệt hại do lỗi mình gây ra và trả thêm một phần năm cho người bị hại.
\s5
\v 8 Nhưng nếu bên bị hại không có thân nhân để nhận bồi thường, thì khoản bồi thường ấy sẽ được nộp cho Ta thông qua thầy tế lễ, cùng với một con chiên đực để chuộc tội cho chính mình.
\v 9 Mọi lễ vật thánh đem đến cho thầy tế lễ, tức là những món dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta, sẽ thuộc về thầy tế lễ.
\v 10 Lễ vật thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về thầy tế lễ. Hễ món chi được đưa cho thầy tế lễ thì sẽ thuộc về người.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 12 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói rằng, Nếu người vợ nào bỏ chồng mình và phạm tội phản bội người đó.
\s5
\v 13 Nếu có một người nam khác ngủ với nàng. Trong trường hợp đó, nàng bị ô uế. Ngay cả nếu chồng nàng không thấy hoặc không biết, và thậm chí cũng cũng không ai bắt quả tang nàng phạm tội và không ai làm chứng chống lại nàng,
\v 14 người chồng vẫn có thể nổi ghen vì vợ mình bị ô uế. Tuy vậy, người chồng có thể nổi ghen sai lầm khi vợ mình không bị ô uế.
\s5
\v 15 Trong những trường hợp đó, chồng phải dẫn vợ mình đến gặp thầy tế lễ. Người phải đem theo một của lễ quán để chuộc tội cho nàng. Cũng phải đem một phần mười ê-pha bột lúa mạch. Người không được đổ dầu hay nhũ hương lên trên bởi đó là của lễ chay về sự ghen tuông, của lễ tượng trưng xác định tội lỗi.
\s5
\v 16 Thầy tế lễ sẽ đem nàng đến gần và để nàng đứng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 17 Thầy tế lễ sẽ lấy một cái bình nước thánh rồi lấy bụi trên nền đền tạm, sau đó bỏ bụi vào nước.
\s5
\v 18 Thầy tế lễ sẽ đặt người nữ đứng trước mặt Đức Giê-hô-va. Nàng phải cởi khăn trùm đầu và xõa tóc. Thầy tế lễ sẽ trao của lễ chay vào tay nàng như một dấu chỉ. Đây là của lễ chay về sự ghen tuông. Thầy tế lễ sẽ cầm nước đắng pha bụi có sự nguyền rủa.
\v 19 Thầy tế lễ sẽ bắt nàng thề. Sau đó nói với nàng, “Nếu không có người nam nào đã ngủ với bà, và nếu bà không mất nết và phạm tội bất khiết, thì bà chắc chắn sẽ không bị hại bởi nước đắng nguyền rủa này.
\s5
\v 20 Nhưng nếu bà, là một phụ nữ có chồng, đã ngoại tình, nếu bà bị ô uế, và nếu có người nam nào đã ngủ với bà…”
\v 21 Bấy giờ thầy tế lễ phải bắt nàng thề độc, và người phải nói tiếp cùng nàng, “…thì Đức Giê-hô-va sẽ khiến bà trở nên một sự rủa sả đến nỗi người người ta sẽ biết điều đó. Việc này sẽ xảy đến nếu Đức Giê-hô-va khiến bà ốm lòi hông và phình bụng.
\v 22 Nước đắng rủa sả này sẽ vào thấm vào bụng bà, làm bà phình bụng và ốm lòi hông. ” Người nữ phải trả lời, “Vâng, nguyện đúng như vậy nếu tôi có tội.”
\s5
\v 23 Thầy tế lễ phải viết những lời rủa sả này trên một cuộn giấy, sau đó rửa các lời nguyền ấy trong nước đắng.
\s5
\v 24 Thầy tế lễ sẽ bảo người nữ uống nước đắng mang lời rủa đó. Nước có lời rủa sả sẽ vào trong cơ thể nàng và gây đắng hơn.
\v 25 Thầy tế lễ sẽ lấy của lễ chay về sự ghen tuông hỏi tay nàng. Người sẽ giơ của lễ chay trước mặt Đức Giê-hô-va, và đem đến bàn thờ.
\v 26 Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm của lễ chay, tức là một phần trong đó, rồi thiêu trên bàn thờ. Sau đó người phải đưa nước đắng cho người nữ uống.
\s5
\v 27 Khi người đưa nước cho nàng uống, nếu nàng bị ô uế vì đã phạm tội bất chánh với chồng mình, thì nước rủa sả sẽ thấm trong người nàng và làm nàng cay đắng hơn. Bụng nàng sẽ phình bắp đùi cũng teo, nàng sẽ bị rủa sả giữa dân mình.
\v 28 Nhưng nếu nàng không bị ô uế và còn thanh sạch, thì nàng sẽ được tự do. Nàng sẽ có thể sinh con.
\s5
\v 29 Đây là luật về sự ghen tuông, áp dụng cho người nữ nào ngoại tình và bị ô uế.
\v 30 Đây là luật quy định cho người chồng nổi tính ghen khi người ghen vợ mình. Người sẽ đem người nữ đến trước mặt Đức Giê-hô-va, và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng tất cả mọi điều được mô tả trong luật ghen tuông này.
\s5
\v 31 Người sẽ vô can vì đã dẫn vợ mình đến gặp thầy tế lễ. Còn người nữ đó sẽ gánh lấy tội lỗi mình.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi một người nam hay một người nữ dâng mình cho Đức Giê-hô-va bằng lời khấn nguyện Na-xi-rê,
\v 3 thì người phải kiêng rượu và thức uống làm cho say. Người không được uống giấm làm bằng rượu hoặc đồ uống say. Người không được uống bất cứ nước nho, cũng không được ăn trái nho tươi hay nho khô nào.
\v 4 Trong suốt thời gian người biệt riêng cho Ta, người không được ăn sản phẩm nào làm từ quả nho, gồm những món làm từ hột hay vỏ nho.
\s5
\v 5 Trong suốt thời gian người giữ lời hứa nguyện biệt riêng, người sẽ không dùng dao cạo đầu cho đến mãn kỳ hạn dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Người phải dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Người phải để tóc mọc dài trên đầu.
\s5
\v 6 Trong suốt thời gian biệt riêng mình cho Đức Giê-hô-va, người không được đến gần xác chết.
\v 7 Người chớ để chính mình bị ô uế dù cha, mẹ, anh em, hoặc chị em người qua đời. Ấy là vì người biệt riêng mình cho Đức Chúa Trời, vì mọi người đều có thể thấy sự hứa nguyện đó qua mái tóc dài của người.
\v 8 Trong thời gian biệt riêng mình, người là người thánh được dành riêng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Nếu bỗng dưng có ai chết bên cạnh người và làm ô uế người, thì người phải cạo đầu trong ngày tẩy uế, tức vào ngày thứ bảy. Đó là lúc người phải cạo đầu mình.
\s5
\v 10 Qua ngày thứ tám, người phải đem một cặp bồ câu hay một cặp bồ câu con đến cho thầy tế lễ ở cửa lều hội họp.
\v 11 Thầy tế lễ sẽ dâng một con chim làm của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu. Hai của lễ này sẽ chuộc tội cho người do người đã phạm tội vì ở gần xác chết. Trong chính ngày đó, người phải tái dâng mình cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Người phải tái dâng mình cho Đức Giê-hô-va khi đến kỳ biệt riêng. Người phải đem một con chiên đực một tuổi đến làm của lễ chuộc tội. Thời gian trước kia người bị ô uế sẽ không được tính, vì người đã bị ô uế đang khi dâng mình cho Đức Chúa Trời.
\s5
\v 13 Đây là quy định danh cho người Na-xi-rê khi mãn hạn thời gian biệt riêng. Người phải được đưa đến cửa lều hội họp.
\v 14 Người sẽ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ dâng một con chiên đực một tuổi toàn vẹn làm của lễ thiêu. Người sẽ dâng một con chiên cái một tuổi toàn vẹn làm của lễ chuộc tội. Người sẽ dâng một con chiên đực toàn vẹn làm của lễ thù ân.
\v 15 Người cũng sẽ đem đến một giỏ bánh không men, gồm bánh làm bằng bột mịn trộn dầu, bánh xốp không men có phết dầu, cùng với của lễ chay và của lễ quán.
\s5
\v 16 Thầy tế lễ sẽ dâng trước mặt Đức Giê-hô-va. Người phải dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu.
\v 17 Với giỏ bánh không men, người sẽ dâng con chiên đực làm của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ cũng sẽ dâng của lễ chay và của lễ quán.
\s5
\v 18 Trước cửa lều hội họp, người Na-xi-rê phải cạo đầu sau khi đã dâng mình cho Đức Chúa Trời. Người phải lấy tóc đã cạo bỏ vào lửa dưới của lễ thù ân.
\s5
\v 19 Thầy tế lễ sẽ lấy cái vai con chiên đực đã luộc, một ổ bánh không men trong giỏ, và một bánh xốp không men. Người sẽ đặt chúng vào tay của người Na-xi-rê sau khi đã cạo đầu.
\v 20 Thầy tế lễ phải giơ cao các món đó như thể đưa lên trước mặt Đức Giê-hô-va và dâng cho Ngài. Đây là món thánh thuộc về thầy tế lễ, gồm cái ức và đùi được dâng. Sau đó, người Na-xi-rê có thể uống rượu.
\s5
\v 21 Đây là luật lệ về người Na-xi-rê nào thề nguyện hứa dâng cho Đức Giê-hô-va. Dù người dâng thứ gì, người cũng phải có nghĩa vụ với lời khấn nguyện của mình đặng giữ lời hứa nguyện qua luật dành cho người Na-xi-rê. ’”
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 23 “Hãy nói với A-rôn và các con trai người. Ngươi phải chúc phước dân Y-sơ-ra-ên như vầy. Ngươi phải nói rằng,
\v 24 “Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước và gìn giữ ngươi.
\s5
\v 25 Nguyện Đức Giê-hô-va tỏa sáng trên ngươi chăm nom ngươi, và tỏ lòng nhân từ với ngươi.
\v 26 Nguyện Đức Giê-hô-va đoái đến ngươi và ban sự bình an cho ngươi
\v 27 Họ phải nhân danh Ta mà chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên như vậy. Rồi Ta sẽ ban phước cho họ.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Vào ngày Môi-se hoàn tất việc dựng đền tạm, ông xức dầu cho đền tạm và dâng cho Đức Giê-hô-va, cùng với mọi vật dụng trong đền. Bàn thờ và mọi đồ dùng của bàn thờ cũng được ông xức dầu và dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 2 Hôm đó, các lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các trưởng gia tộc, đều dâng lễ vật. Họ là lãnh đạo của các chi phái. Họ đã tham gia phụ giúp việc thống kê dân số.
\v 3 Họ đem lễ vật của mình đến trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ đem sáu cỗ xe bò có mui và mười hai con bò đực. Cứ mỗi hai lãnh đạo thì đem một xe bò, và mỗi lãnh đạo đem một con bò đực. Họ dâng các lễ vật này ở trước đền tạm.
\s5
\v 4 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 5 “Hãy nhận các lễ vật của họ để dùng cho việc ở lều hội họp. Hãy đưa lễ vật cho người Lê-vi, trao cho mỗi người tùy theo nhu cầu công việc mình.”
\s5
\v 6 Môi-se nhận các cỗ xe bò và bò đực rồi trao cho người Lê-vi.
\v 7 Ông trao hai cỗ xe bò và bốn con bò đực cho con cháu Ghẹt-sôn tùy theo nhu cầu công việc của họ.
\v 8 Ông trao bốn cỗ xe bò và tám con bò đực cho con cháu Mê-ra-ri, dưới sự coi sóc của Y-tha-ma, con thầy tế lễ A-rôn, tùy theo nhu cầu công việc của họ.
\s5
\v 9 Nhưng ông không trao món nào cho con cháu Kê-hát, vì công việc của họ có liên quan đến những vật thuộc về Đức Giê-hô-va mà họ phải khiêng trên vai.
\s5
\v 10 Các lãnh đạo dâng lễ vật để cung hiến bàn thờ vào ngày Môi-se xức dầu cho bàn thờ. Các lãnh đạo dâng lễ vật mình ở phía trước bàn thờ.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, “Mỗi lãnh đạo phải dâng lễ vật vào đúng ngày của mình để dùng vào việc cung hiến bàn thờ.”
\s5
\v 12 Ngày thứ nhất, Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp thuộc chi phái Giu-đa đến dâng lễ vật.
\v 13 Lễ vật của ông là một đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 14 cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 15 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một con chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 16 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 17 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp.
\s5
\v 18 Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, trưởng chi tộc Y-sa-ca, đến dâng lễ vật.
\v 19 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\s5
\v 20 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\v 21 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 22 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 23 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Na-tha-na-ên, con trai Xu-a.
\s5
\v 24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, trưởng chi phái Sa-bu-lôn, đến dâng lễ vật.
\v 25 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 26 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 27 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 28 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 29 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn.
\s5
\v 30 Ngày thứ tư, Ê-li-xu, con trai Sê-đêu, trưởng chi phái Ru-bên, đến dâng lễ vật.
\v 31 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 32 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 33 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 34 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 35 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của Ê-li-xu, con trai Sê-đêu.
\s5
\v 36 Ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-sa-đai, trưởng chi phái Si-mê-ôn, đến dâng lễ vật.
\v 37 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 38 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 39 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 40 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 41 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-sa-đai.
\s5
\v 42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên, trưởng chi phát Gát, đến dâng lễ vật.
\v 43 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 44 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 45 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 46 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 47 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ê-li-a-sáp con trai Đê-u-ên.
\s5
\v 48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma, con trai Am-mi-hút, trưởng chi phái Ép-ra-im, đến dâng lễ vật.
\v 49 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 50 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 51 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 52 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 53 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của Ê-li-sa-ma, con trai Am-mi-hút.
\s5
\v 54 Ngày thứ tám, Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu, trưởng chi phái Ma-na-se, đến dâng lễ vật.
\v 55 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 56 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 57 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 58 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 59 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu.
\s5
\v 60 Ngày thứ chín, A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn, trưởng chi phái Ben-gia-min, đến dâng lễ vật.
\v 61 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 62 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 63 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 64 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 65 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn.
\s5
\v 66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai, trưởng chi phái Đan, đến dâng lễ vật.
\v 67 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 68 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 69 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 70 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 71 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai.
\s5
\v 72 Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran, trưởng chi phái A-se, đến dâng lễ vật.
\v 73 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 74 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 75 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 76 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 77 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran.
\s5
\v 78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con trai Ê-nan, trưởng chi phái Nép-ta-li, đến dâng lễ vật.
\v 79 Lễ vật của ông bao gồm một cái đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Cả hai lễ vật này chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay.
\v 80 Ông cũng dâng một cái đĩa vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương thơm.
\s5
\v 81 Ông dâng của lễ thiêu bao gồm một con bò con, một chiên đực, và một chiên con đực một tuổi.
\v 82 Ông dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 83 Ông dâng hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm chiên con đực một tuổi, làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan.
\s5
\v 84 Các lãnh đạo Y-sơ-ra-ên dâng tất cả những lễ vật này vào ngày Môi-se xức dầu cho bàn thờ. Họ dâng mười hai đĩa gỗ bằng bạc, mười hai cái bát bằng bạc, và mười hai cái đĩa bạc.
\v 85 Mỗi đĩa gỗ bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và mỗi cái bát nặng 70 siếc-lơ. Tất cả các vật dụng nặng 2. 400 siếc-lơ, theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh.
\v 86 Mỗi cái trong số mười hai đĩa bạc đựng đầy hương thơm nặng 10 siếc-lơ theo đơn vị đo trọng lượng chuẩn của nơi thánh. Tất cả đĩa vàng nặng 120 siếc-lơ.
\s5
\v 87 Họ dâng của lễ chay gồm mười hai con bò đực tơ, mười hai con chiên đực, và mười hai con chiên đực một tuổi. Họ dâng của lễ chay. Họ dâng mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\v 88 Từ trong bầy gia súc của họ, họ dâng hai mươi bốn con bò đực tơ, sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, và sáu mươi con chiên đực một tuổi làm của lễ thù ân. Đây là lễ vật được dâng trong buổi cung hiến bàn thờ khi bàn thờ được xức dầu.
\s5
\v 89 Khi Môi-se vào trong lều hội họp để nói chuyện với Đức Giê-hô-va, ông nghe có tiếng Ngài phán cùng ông. Đức Giê-hô-va phán với ông từ trên nắp thi ân đậy hòm giao ước, từ giữa hai chê-ru-bim. Ngài phán với ông.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se,
\v 2 “Hãy nói với A-rôn. Hãy nói rằng, Khi anh thắp sáng bảy ngọn đèn, chúng phải tỏa sáng phía trước cây đèn. ’”
\s5
\v 3 A-rôn làm y như vậy. Ông thắp sáng các ngọn đèn trên cây đèn để soi sáng ở phía trước, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 4 Cây đèn được làm như vầy: Đức Giê-hô-va đã cho Môi-se thấy kiểu mẫu của cây đèn: từ đế cho đến đầu cây đèn được làm bằng vàng dát mỏng, kèm theo hoa đèn làm bằng vàng dát mỏng.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 6 “Hãy chọn người Lê-vi từ trong dân Y-sơ-ra-ên và tẩy sạch họ.
\s5
\v 7 Hãy tẩy sạch họ như vầy: Rưới nước chuộc tội lên họ. Bảo họ cạo lông toàn thân, giặt sạch quần áo, để họ được tinh sạch.
\v 8 Sau đó, họ sẽ đem đến một con bò đực tơ và của lễ chay làm bằng bột mịn tẩm dầu. Bảo họ đem đến một con bò đực tơ khác làm của lễ chuộc tội.
\s5
\v 9 Dẫn người Lê-vi đến trước lều hội họp, trước mặt toàn thể dân chúng Y-sơ-ra-ên.
\v 10 Đem người Lê-vi đến trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay lên người Lê-vi.
\v 11 A-rôn phải thay mặt dân Y-sơ-ra-ên dâng người Lê-vi trước mặt Ta, trình dâng họ như thể dâng họ lên cao trước mặt mình. Người sẽ làm như vậy để người Lê-vi phục vụ Ta.
\s5
\v 12 Người Lê-vi phải đặt tay lên đầu các con bò đực tơ. Ngươi phải dâng một con bò đực tơ làm của lễ chuộc tội và một con bò đực tơ khác làm của lễ thiêu cho Ta, đặng chuộc tội cho người Lê-vi.
\v 13 Hãy dẫn người Lê-vi đến trước mặt A-rôn và các con trai người, và dâng họ như một của lễ dâng lên Ta.
\s5
\v 14 Như vậy, ngươi sẽ biệt riêng người Lê-vi từ trong dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta.
\v 15 Sau đó, người Lê-vi sẽ vào phục vụ trong lều hội họp. Ngươi phải tẩy sạch họ. Ngươi phải dâng họ lên Ta như một của lễ.
\s5
\v 16 Ngươi hãy làm như vậy, vì họ hoàn toàn thuộc về Ta từ giữa dân Y-sơ-ra-ên. Con đầu lòng của con cháu Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta. Ta đã chọn người Lê-vi cho chính Ta.
\v 17 Mọi con đầu lòng từ dân Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta, cả con đầu lòng của loài người và súc vật. Chính Ta đã biệt riêng họ trong ngày Ta đoạt mạng sống của các con đầu lòng trong xứ Ai Cập.
\s5
\v 18 Ta đã chọn người Lê-vi từ giữa dân Y-sơ-ra-ên thay cho tất cả con đầu lòng.
\v 19 Ta đã giao người Lê-vi như một món quà cho A-rôn và các con trai người. Ta đã chọn họ từ giữa dân Y-sơ-ra-ên đặng thực thi công việc của người Y-sơ-ra-ên trong lều hội họp. Ta đã ban cho họ người Lê-vi để chuộc tội dân Y-sơ-ra-ên hầu cho sẽ không có tai họa nào làm tổn hại dân chúng khi họ đến gần nơi thánh.”
\s5
\v 20 Môi-se, A-rôn, và cả dân chúng dân Y-sơ-ra-ên đều làm y như vậy cho người Lê-vi. Họ làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán truyền cho Môi-se về người Lê-vi. Dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy.
\v 21 Người Lê-vi tự làm sạch mình khỏi tội lỗi bằng cách giặt quần áo. A-rôn trình dâng họ như một của lễ lên Đức Giê-hô-va và chuộc tội cho họ, đặng làm họ tinh sạch.
\s5
\v 22 Sau đó, người Lê-vi bước vào trong lều hội họp để phục vụ trước mặt A-rôn và trước mặt các con trai của A-rôn. Đây là điều như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se về người Lê-vi. Họ đối xử với tất cả người Lê-vi y như vậy.
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 24 “Đây là lệnh cho người Lê-vi nào từ 25 tuổi trở lên. Họ phải tham gia phục vụ trong lều hội họp.
\s5
\v 25 Họ sẽ nghỉ ngơi khi được 50 tuổi. Khi đó, họ không còn phục vụ nữa.
\v 26 Họ có thể giúp anh em mình tiếp tục làm việc trong lều hội họp, nhưng họ không còn phải phục vụ nữa. Ngươi hãy hướng dẫn người Lê-vi về các vấn đề này.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong hoang mạc Si-nai, vào tháng giêng năm thứ nhì sau khi dân sự đã ra khỏi xứ Ai Cập. Ngài phán rằng,
\v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên giữ Lễ Vượt qua theo giờ đã định trong năm.
\v 3 Vào ngày mười bốn tháng này, lúc chạng vạng, các ngươi phải giữ Lễ Vượt qua theo thì giờ đã định. Các ngươi phải giữ Lễ Vượt qua, tuân thủ mọi quy định, và vâng giữ mọi luật lệ về lễ ấy.”
\s5
\v 4 Vậy, Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng họ phải giữ Lễ Vượt qua.
\v 5 Như vậy, họ giữ Lễ Vượt qua vào tháng giêng, nhằm ngày mười bốn, lúc chạng vạng, trong hoang mạc Si-nai. Dân Y-sơ-ra-ên vâng theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải làm Môi-se.
\s5
\v 6 Có mấy người bị ô uế do đụng đến xác chết. Họ không thể giữ Lễ Vượt qua vào ngày đó. Họ đến gặp Môi-se và A-rôn ngay hôm ấy.
\v 7 Họ thưa với Môi-se, “Chúng tôi bị ô uế vì đụng đến xác chết. Sao các ông không cho chúng tôi dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va theo giờ đã định với dân Y-sơ-ra-ên? ”
\v 8 Môi-se trả lời, “Hãy đợi tôi hỏi ý Đức Giê-hô-va về trường hợp của các ông.”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 10 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Nếu có ai giữa các ngươi hoặc con cháu các ngươi bị ô uế vì đụng đến xác chết, hoặc đang đi đường xa, thì người vẫn có thể giữ Lễ Vượt qua cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Họ phải giữ Lễ Vượt qua vào ngày mười bốn tháng hai lúc chạng vạng. Họ phải ăn với bánh không men và rau đắng.
\v 12 Không được chừa lại thứ gì đến sáng hôm sau cũng không được làm gãy xương của con vật. Họ phải giữ các luật lệ về Lễ Vượt qua.
\s5
\v 13 Nhưng ai tinh sạch và không bận đi xa, lại không giữ Lễ Vượt qua, người đó sẽ bị loại khỏi dân sự mình vì không dâng lễ vật theo yêu cầu của Đức Giê-hô-va vào đúng thời gian đã định. Người sẽ mang lấy tội lỗi mình.
\v 14 Nếu một khách lạ sống giữa các ngươi và giữ Lễ Vượt qua vì tôn kính Đức Giê-hô-va, người phải giữ Lễ và làm mọi điều Ngài truyền, tuân thủ các quy tắc của Lễ Vượt qua, và giữ luật lệ liên quan. Người ngoại quốc và tất cả những ai sinh ra trong xứ ngươi phải giữ luật lệ tương tự.”
\s5
\v 15 Trong ngày dựng đền tạm, mây bao phủ đền tạm, tức lều chứa các bảng giao ước. Vào buổi chiều, mây phủ như lửa trên đền tạm cho đến sáng.
\v 16 Quang cảnh đó cứ tiếp diễn như vậy. Mây phủ đền tạm và tựa như lửa vào ban đêm.
\v 17 Hễ khi nào mây được cất lên khỏi lều, dân Y-sơ-ra-ên sẽ lên đường. Hễ mây dừng lại ở nơi nào, dân sự sẽ hạ trại tại đó.
\s5
\v 18 Theo lệnh của Đức Giê-hô-va, dân Y-sơ-ra-ên di chuyển, và theo lệnh của Ngài, họ sẽ hạ trại. Họ sẽ ở lại trại mình trong lúc mây phủ trên đền tạm.
\v 19 Khi mây phủ trên đền tạm lâu ngày, dân Y-sơ-ra-ên cũng tuân theo sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va, không đi đâu cả.
\s5
\v 20 Đôi khi mây phủ trên đền tạm chỉ vài ngày. Khi đó, họ sẽ tuân lệnh của Đức Giê-hô-va họ nhổ trại và đi tiếp theo lệnh của Ngài.
\v 21 Có khi mây dừng trại từ chiều tối đến sáng. Sáng hôm sau, khi đám mây cất lên, họ lại nhổ trại lên đường. Bất kể mây dừng lại một hay hai ngày, họ cũng ở lại, và họ chỉ đi tiếp khi nào mây được cất lên.
\s5
\v 22 Nếu mây phủ trên đền tạm trong hai ngày, một tháng, hay một năm, hoặc lâu hơn, dân Y-sơ-ra-ên cũng sẽ ở trong trại mình và không đi đâu cả. Nhưng hễ khi nào đám mây được cất lên, họ sẽ lại lên đường.
\v 23 Họ hạ trại theo lệnh của Đức Giê-hô-va, và họ lên đường theo lệnh của Ngài. Họ vâng phục mệnh lệnh Đức Giê-hô-va phán qua Môi-se.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se rằng,
\v 2 “Hãy làm hai cái kèn bằng bạc dát mỏng. Ngươi hãy dùng kèn để triệu tập dân chúng và truyền cho họ dời trại mình.
\s5
\v 3 Các thầy tế lễ phải thổi kèn triệu tập cả dân chúng đến trước mặt ngươi ở cửa lều hội họp.
\v 4 Nếu thầy tế lễ chỉ thổi một cây kèn, thì các lãnh đạo, các trưởng chi phái trong dân Y-sơ-ra-ên, phải tập họp lại bên ngươi.
\v 5 Khi ngươi thổi một tiếng kèn lớn, các trại ở phía đông sẽ di chuyển.
\s5
\v 6 Khi ngươi thổi một tiếng kèn lớn lần thứ nhì, các trại ở phía nam sẽ di chuyển. Họ sẽ thổi một tiếng kèn lớn báo hiệu phải lên đường.
\v 7 Khi dân chúng nhóm lại, hãy thổi kèn, nhưng chớ thổi to.
\v 8 Các con trai của thầy tế lễ A-rôn phải thổi kèn. Đây sẽ luôn luôn là quy định đời đời dành cho ngươi con cháu ngươi.
\s5
\v 9 Khi các ngươi xuất trận trong xứ mình chống lại kẻ thù áp bức, các ngươi phải thổi kèn báo động. Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, sẽ nhớ đến các ngươi và giải cứu các ngươi khỏi kẻ thù.
\s5
\v 10 Ngoài ra, vào ngày vui mừng, trong các lễ hội trọng thể và vào đầu tháng, các ngươi phải thổi kèn khi dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Các của lễ này sẽ khiến các ngươi được Ta, Đức Chúa Trời của các ngươi, ghi nhớ.”
\s5
\v 11 Năm thứ hai, ngày hai mươi tháng hai, đám mây được cất lên khỏi đền tạm giao ước.
\v 12 Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục di chuyển từ hoang mạc Si-nai. Đám mây dừng lại ở hoang mạc Pha-ran.
\v 13 Họ lên đường lần đầu tiên theo lệnh của Đức Giê-hô-va truyền qua Môi-se.
\s5
\v 14 Ngọn cờ của trại Giu-đa đi trước, theo sau là các đơn vị quân đội. Nát-sôn, con trai A-mi-na-đáp, chỉ huy quân Giu-đa.
\v 15 Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, chỉ huy quân đội của chi phái Y-sa-ca.
\v 16 Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, chỉ huy quân đội của chi phái Sê-bu-lôn.
\s5
\v 17 Con cháu Ghẹt-sôn và Mê-ra-ri chuyên về công việc đền tạm, họ tháo dỡ đền tạm và tiếp tục di chuyển.
\v 18 Kế tiếp, đơn vị quân đội ở trại Ru-bên lên đường theo ngọn cờ mình. Ê-li-xu, con trai Sê-đêu, chỉ huy quân Ru-bên.
\v 19 Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai chỉ huy đoàn quân của chi phái Si-mê-ôn.
\v 20 Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên, chỉ huy quân đội của chi phái Gát.
\s5
\v 21 Người Kê-hát ra đi. Họ đem theo các vật thánh. Những người khác sẽ dựng đền tạm trước khi người Kê-hát đến trại tiếp theo.
\v 22 Kế đó là các đơn vị quân đội ra đi dưới ngọn cờ chi phái Ép-ra-im. Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút chỉ huy quân Ép-ra-im.
\v 23 Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đa-xu, chỉ huy quân đội của chi phái Ma-na-se.
\v 24 A-bi-đan, con trai Ghi-đê-ôn, chỉ huy quân đội của chi phái Ben-gia-min.
\s5
\v 25 Cuối cùng là các toán quân dưới ngọn cờ của chi phái Đan ra đi. A-hi-ê-xe con trai A-mi-sa-đai chỉ huy quân đội của chi phái Đan.
\v 26 Pha-ghi-ên, con trai Ốc-ran, chỉ huy quân đội của chi phái A-se.
\v 27 A-hi-ra, con trai Ê-nan, chỉ huy quân đội của chi phái Nép-ta-li.
\v 28 Đây là thứ tự mà các toán quân của người Y-sơ-ra-ên phải thực hiện khi khởi hành.
\s5
\v 29 Môi-se nói với Hô-báp con trai Rê-u-ên người Mi-đi-an. Rê-u-ên là cha vợ của Môi-se. Môi-se thưa với Hô-báp, “Chúng tôi đang đi đến nơi mà Đức Giê-hô-va đã mô tả. Đức Giê-hô-va phán, Ta sẽ ban xứ đó cho ngươi. Xin anh hãy đi với chúng tôi. Chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh. Đức Giê-hô-va đã hứa sẽ ban phước cho Y-sơ-ra-ên. ”
\v 30 Nhưng Hô-báp trả lời Môi-se, “Tôi sẽ không đi với các anh đâu. Tôi sẽ trở về xứ mình và sống với bà con mình.”
\s5
\v 31 Môi-se đáp, “Xin anh đừng rời khỏi chúng tôi. Anh biết chỗ nào có thể hạ trại trong hoang mạc này. Anh sẽ trông chừng cho chúng tôi.
\v 32 Nếu anh đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đối xử tốt với anh như Đức Giê-hô-va làm cho chúng tôi.”
\s5
\v 33 Họ đi từ núi của Đức Giê-hô-va trong ba ngày. Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đi trước họ trong ba ngày để tìm nơi cho họ nghỉ ngơi.
\v 34 Đám mây của Đức Giê-hô-va che phủ họ vào ban ngày khi họ dời trại.
\s5
\v 35 Hễ khi nào chiếc hòm lên đường, Môi-se sẽ nói, “Đức Giê-hô-va ơi, xin Ngài chỗi dậy. Xin Chúa đánh tan kẻ thù Ngài. Khiến những kẻ ghét Ngài chạy trốn khỏi Ngài. ”
\v 36 Hễ khi nào chiếc hòm dừng lại, Môi-se sẽ nói, “Đức Giê-hô-va ơi, xin Ngài trở lại cùng hàng ngàn dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những khó khăn của họ, và Đức Giê-hô-va đã nghe điều đó. Đức Giê-hô-va nghe tiếng phàn nàn của dân sự, Ngài giận. Lửa của Đức Giê-hô-va nổi bừng lên ở giữa họ và thiêu hủy các lều ở bìa trại.
\v 2 Dân sự kêu cầu Môi-se, Môi-se cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va, thì lửa ngưng cháy.
\v 3 Người ta gọi nơi đó là Ta-bê-ra, vì lửa của Đức Giê-hô-va đã cháy giữa họ.
\s5
\v 4 Một số dân ngoại quốc bắt đầu cắm trại với con cháu Y-sơ-ra-ên. Họ thèm muốn đồ ăn ngon hơn. Vậy dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu khóc lóc và than rằng, “Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt?
\v 5 Chúng tôi nhớ hồi còn ăn cá ở Ai Cập, dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, củ hành, và củ tỏi.
\v 6 Bây giờ chúng tôi yếu sức. Chẳng có gì ăn ngoại trừ ma-na.”
\s5
\v 7 Ma-na giống như hạt cây rau mùi, trông như nhựa cây.
\v 8 Dân sự đi ra lượm ma-na. Họ nghiền bằng cối xay, giã nát bằng cối, nấu trong nồi, và chế biến thành bánh. Bánh có vị như dầu ô-liu tươi.
\s5
\v 9 Khi sương giáng trên trại vào ban đêm, ma-na cũng rơi xuống.
\v 10 Môi-se nghe tiếng dân sự khóc lóc trong gia đình họ, và họ đứng nơi cửa lều. Đức Giê-hô-va rất giận, và dưới cái nhìn của Môi-se thì lời phàn nàn của họ là sai.
\s5
\v 11 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va, “Sao Chúa bạc đãi tôi tớ Ngài? Sao Ngài không hài lòng con? Ngài bắt con mang lấy gánh nặng của đoàn dân này.
\v 12 Có phải con mang thai dân này chăng? Có phải con sinh ra họ để rồi Ngài bảo con rằng, Hãy bồng ẵm họ trong lòng như cha bồng đứa trẻ? Lẽ nào con phải bồng ẵm họ vào xứ mà Ngài đã hứa với tổ tiên họ?
\s5
\v 13 Con kiếm đâu ra thịt cho dân này? Họ khóc lóc trước mặt con và nói rằng, Hãy cho chúng tôi ăn thịt.
\v 14 Một mình con không thể nào chịu đựng nổi dân này. Quá sức con rồi.
\v 15 Vì Ngài đối xử con như vầy, xin hãy giết con, nếu Ngài nhân từ, xin Ngài cất khỏi con nỗi khổ này.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy đem đến cho ta bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên. Hãy chắc chắn đó là các là trưởng lão và quan chức trong dân. Hãy đem họ đến lều hội họp đứng cùng ngươi.
\v 17 Ta sẽ ngự xuống và nói chuyện với ngươi tại đó. Ta sẽ lấy một phần Thần Ta đang ngự trên ngươi và đặt lên họ. Họ sẽ cùng gánh nặng của dân này với ngươi. Ngươi sẽ không phải gánh một mình nữa.
\s5
\v 18 Hãy nói với dân sự, hãy dọn mình ra thánh cho ngày mai. Anh em sẽ được ăn thịt, vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng than khóc của anh em. Anh em nói, “Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? Chúng tôi đã ăn thịt hồi còn ở Ai Cập. ” Vậy Đức Giê-hô-va sẽ cho anh em ăn thịt, anh emsẽ được ăn thịt.
\v 19 Anh em sẽ ăn thịt không chỉ trong một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày, hay hai mươi ngày,
\v 20 nhưng anh em sẽ ăn thịt trong cả tháng cho đến nỗi thịt tràn ra lỗ mũi. Nó sẽ khiến anh emchán ngấy vì anh em đã từ bỏ Đức Giê-hô-va, là Đấng ngự giữa anh em. Anh em đã khóc lóc trước mặt Ngài. Anh em than, “Tại sao chúng tôi rời khỏi Ai Cập? ””
\s5
\v 21 Vậy Môi-se trả lời, “Con đang ở với 600. 000 người, và Ngài lại bảo, Ta sẽ cho họ ăn thịt cả tháng.
\v 22 Liệu chúng con sẽ giết bầy gia súc để thỏa mãn họ chăng? Liệu chúng con sẽ bắt cá biển để thỏa mãn họ? ”
\v 23 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se, “Tay Ta ngắn vậy sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không.”
\s5
\v 24 Môi-se ra ngoài và thuật lại với dân sự về mọi lời của Đức Giê-hô-va. Ông tập hợp bảy mươi trưởng lão trong dân và đặt họ đứng xung quanh lều.
\v 25 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong đám mây và phán cùng Môi-se. Đức Giê-hô-va lấy một phần Thần đang ngự trên Môi-se và đặt lên bảy mươi trưởng lão. Khi Thần ngự trên họ, họ nói tiên tri, nhưng chỉ nói trong lần đó và chẳng nói lại nữa.
\s5
\v 26 Hai người ở lại trại là Ên-đát và Mê-đát. Thần cũng ngự trên họ. Họ có tên trong danh sách, nhưng họ không đến lều. Tuy nhiên, họ nói tiên tri trong trại.
\v 27 Một thanh niên trong trại chạy đến báo Môi-se, “Ên-đát và Mê-đát đang nói tiên tri trong trại.”
\s5
\v 28 Giô-suê con trai Nun, trợ lý của Môi-se, một trong những người được ông chọn, nói cùng Môi-se, “Thưa thầy Môi-se, xin hãy dừng họ lại. ”
\v 29 Môi-se trả lời, “Con đang ghen tỵ giùm ta à? Ước gì cả dân sự của Đức Giê-hô-va đều là tiên tri và ước gì Ngài đặt Thần của Ngài trên tất cả mọi người! ”
\v 30 Môi-se và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên trở về trại.
\s5
\v 31 Rồi Đức Giê-hô-va đem đến một cơn gió và chim cút thổi từ ngoài biển. Chúng rơi gần trại, phủ rộng cả hai bên ước một ngày đường. Chim cút rơi xuống quanh trại chất thành đống cao khoảng 2 cu-bít.
\v 32 Dân sự bận rộn lượm chim cút cả ngày và đêm và đến tận hôm sau. Ai cũng gom hơn mười ô-me chim cút. Họ phơi chim cút khắp cả trại.
\s5
\v 33 Đang khi thịt còn ở giữa răng họ, đang khi họ còn đang nhai, thì Đức Giê-hô-va nổi giận cùng họ. Ngài giáng trên họ một bệnh tật rất lớn.
\v 34 Nơi đó được đặt tên là Kíp-rốt Ha-tha-va, vì tại đó họ chôn những người thèm ăn thịt.
\v 35 Từ Kíp-rốt Ha-tha-va, dân sự lên đường đến Ha-xê-rốt, và dừng tại đó.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Sau đó Mi-ri-am và A-rôn nói nghịch lại Môi-se vì cớ người nữ Cút mà ông đã cưới làm vợ.
\v 2 Họ nói, “Chẳng phải Đức Giê-hô-va chỉ phán với một mình Môi-se sao? Chẳng phải Ngài cũng không phán với chúng ta ư? ” Bấy giờ Đức Giê-hô-va nghe lời họ nói.
\v 3 Môi-se là một người rất khiêm nhường, khiêm nhường hơn bất kỳ ai trên đất.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va liền phán cùng Môi-se, A-rôn, và Mi-ri-am, “Cả ba người các ngươi, hãy đến lều hội họp. ” Vậy cả ba người đều đến đó.
\v 5 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong một trụ mây. Ngài đứng ở cửa lều rồi gọi A-rôn và Mi-ri-am. Cả hai người cùng đến.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán, “Hãy nghe Lời Ta phán. Khi một tiên tri của Ta ở cùng các ngươi, Ta sẽ bày tỏ chính mình Ta cho người bằng khải tượng và nói chuyện với người qua giấc chiêm bao.
\v 7 Môi-se, tôi tớ Ta, không giống như vậy. Người trung thành trong cả nhà Ta.
\v 8 Ta nói chuyện trực tiếp với Môi-se, chứ không nói bằng sự hiện thấy hoặc điều bí ẩn. Người thấy hình dáng Ta. Vậy sao các ngươi không sợ mà nói nghịch cùng Môi-se, tôi tớ Ta?”
\s5
\v 9 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng họ, rồi Ngài bỏ đi.
\v 10 Đám mây cất lên khỏi lều, thì Mi-ri-am bỗng dưng bị phung da trở nên trắng như tuyết. Khi A-rôn quay sang nhìn Mi-ri-am, ông thấy bà bị bệnh phung.
\s5
\v 11 A-rôn nói cùng Môi-se, “Ôi, thầy ơi, xin tha lỗi này của chúng tôi. Chúng tôi đã nói điều dại dột, chúng tôi đã phạm tội.
\v 12 Xin đừng để nàng nhìn giống như một đứa bé sinh non chết yểu, da thịt bị rữa nát khi lọt lòng mẹ.”
\s5
\v 13 Vậy Môi-se kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va. Ông thưa rằng, “Lạy Chúa, xin chữa lành cho nàng. ”
\v 14 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se, “Nếu cha nàng đã nhổ vào mặt nàng, nàng sẽ phải bị nhục nhã trong bảy ngày. Hãy giữ nàng ngoài trại trong bảy ngày. Sau đó hãy cho nàng vào lại trại. ”
\v 15 Vậy Mi-ri-am bị giữ bên ngoài trại trong bảy ngày. Dân sự không lên đường cho đến chừng nào nàng trở vào trại.
\s5
\v 16 Sau đó, dân sự rời khỏi Ha-xê-rốt và cắm trại trong hoang mạc Pha-ran.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 2 “Hãy cử vài người đi thám thính xứ Ca-na-an, là xứ mà Ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Hãy cử mỗi chi phái một người. Người đó phải là lãnh đạo trong chi phái mình.”
\s5
\v 3 Môi-se sai họ đi vào hoang mạc Pha-ran, theo lệnh của Đức Giê-hô-va. Tất cả họ đều là những nhà lãnh đạo trong dân Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Đây là tên của họ: Chi phái Ru-bên có Sam-mua, con trai Xa-cua.
\s5
\v 5 Chi phái Si-mê-ôn có Sa-phát, con trai Hô-ri.
\v 6 Chi phái Giu-đa có Ca-lép, con trai Giê-phu-nê.
\v 7 Chi phái Y-sa-ca có Di-ganh, con trai Giô-sép.
\v 8 Chi phái Ép-ra-im có Hô-sê-a, con trai Nun.
\s5
\v 9 Chi phái Ben-gia-min có Phan-ti, con trai Ra-phu.
\v 10 Chi phái Sa-bu-lôn có Gát-đi-ên, con trai Sô-đi.
\v 11 Về phía con cháu Giô-sép, gồm chi phái Ma-na-se, trong đó có Gát-đi, con trai Su-si.
\v 12 Chi phái Đan có A-mi-ên, con trai Ghê-ma-li.
\s5
\v 13 Chi phái A-se có Sê-thu, con trai Mi-ca-ên.
\v 14 Chi phái Nép-ta-li có Na-bi, con trai Vấp-si.
\v 15 Chi phái Gát có Gu-ên, con trai Ma-ki.
\v 16 Đó là tên những người được Môi-se sai đi thám thính xứ. Môi-se gọi Hô-sê-a con trai Nun là Giô-suê.
\s5
\v 17 Môi-se sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Ông bảo họ, “Hãy đi từ Nê-ghép và lên miền đồi núi.
\v 18 Hãy do thám xem xứ đó thế nào. Hãy quan sát cư dân ở đó, xem họ yếu hay mạnh, đông hay ít.
\v 19 Xứ họ ra sao. Tốt hay xấu? Có thành phố nào ở đó? Các thành đó có giống như trại hay là đó là thành trì kiên cố?
\v 20 Đất đai thế nào, có phì nhiêu để trồng trọt không và có cây cối không. Hãy dũng cảm và đem về mẫu vật của xứ đó. ” Bấy giờ là đầu mùa nho.
\s5
\v 21 Vậy họ đi lên do thám xứ từ hoang mạc Sin đến Rê-hốp, gần Lê-bô Ha-mát.
\v 22 Từ Nê-ghép, họ đi lên và đến Hếp-rôn. Tại đó có A-hi-man, Sê-đai, và Tanh-mai, con cháu của A-nác, đang sinh sống. Bấy giờ thành Hếp-rôn đã được xây 7 năm trước thành Xô-an ở Ai Cập.
\s5
\v 23 Khi đến thung lũng Ếch-côn, vì họ cắt một chùm nho. Hai người khiêng bằng cái sào. Họ cũng hái quả lựu và trái vả.
\v 24 Nơi đó được gọi là thung lũng Ếch-côn, vì người Y-sơ-ra-ên đã hái một chùm nho.
\s5
\v 25 Sau bốn mươi ngày, họ trở về sau khi đã do thám xứ.
\v 26 Họ trở lại gặp Môi-se, A-rôn, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc Pha-ran, tại Ca-đe. Họ thuật lại mọi lời mình cho hai ông và toàn thể dân chúng, rồi trình những sản vật của xứ đó.
\s5
\v 27 Họ nói với Môi-se, “Chúng tôi đã đến xứ mà ông sai chúng tôi đi. Xứ đó thật là xứ tràn đầy sữa và mật. Đây là một số sản vật của xứ ấy.
\v 28 Tuy nhiên, cư dân ở đó rất khỏe. Thành trì thì vững chắc và rất lớn. Chúng tôi cũng thấy con cháu A-nác ở đó.
\v 29 Người A-ma-léc sống ở Nê-ghép. Dân Hê-tít, Giê-bu-sít, và A-mô-rít xây nhà trên vùng đồi núi. Dân Ca-na-an sống ở bờ biển và dọc theo Sông Giô-đanh.”
\s5
\v 30 Sau đó Ca-lép cố khuyến khích dân sự trước mặt Môi-se. Ông nói, “Chúng ta hãy tiến lên và chiếm xứ ấy, vì chúng ta có thể thắng họ. ”
\v 31 Nhưng những người cùng đi với ông nói rằng, “Chúng ta không thể tấn công vì họ mạnh hơn chúng ta.”
\s5
\v 32 Vì vậy, họ rỉ tai nhau lời bi quan làm nản lòng dân Y-sơ-ra-ên về xứ mà họ đã do thám. Họ nói, “Xứ mà chúng tôi do thám là xứ ăn nuốt dân của nó. Tất cả những người chúng tôi thấy đều là những người cao to lớn.
\v 33 Chúng tôi thấy người khổng lồ, tức con cháu của A-nác, thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình giống như cào cào khi so với họ, và họ cũng thấy chúng tôi như vậy.”
\s5
\c 14
\p
\v 1 Tối hôm đó, cả dân sự khóc than lớn tiếng.
\v 2 Toàn thể dân Y-sơ-ra-ên chỉ trích Môi-se và A-rôn. Cả hội chúng nói với họ, “Ước gì chúng tôi chết ở Ai Cập, hoặc chết trong hoang mạc này!
\v 3 Cớ sao Đức Giê-hô-va đem chúng tôi vào xứ này để chết dưới lưỡi gươm? Vợ và con cái chúng tôi sẽ trở thành nạn nhân. Chẳng phải quay về Ai Cập lại không tốt hơn cho chúng tôi sao?”
\s5
\v 4 Họ bàn với nhau, “Chúng ta hãy chọn một lãnh đạo khác, chúng ta hãy trở về Ai Cập. ”
\v 5 Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống đất trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Giô-suê, con trai Nun, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, là hai trong số những người được sai đi do thám xứ, xé quần áo mình.
\v 7 Họ nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng, “Xứ mà chúng tôi băng qua và do thám là một xứ rất tốt.
\v 8 Nếu chúng ta làm vui lòng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ đem chúng ta vào xứ này và ban nó cho chúng ta. Xứ ấy đượm sữa và mật.
\s5
\v 9 Chớ nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va, và chớ sợ dân trong xứ đó. Chúng ta sẽ nuốt chửng chúng dễ dàng như đồ ăn vậy. Chúng sẽ không được bảo hộ, vì Đức Giê-hô-va ở với chúng ta. Chớ sợ chúng. ”
\v 10 Nhưng cả hội chúng đe dọa tìm cách ném đá hai người đến chết. Bấy giờ vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra ở lều hội họp trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se, “Dân này còn khinh dể Ta đến bao giờ? Chúng còn không tin Ta đến bao giờ dù Ta đã dùng quyền năng Ta mà thực hiện các phép lạ giữa chúng?
\v 12 Ta sẽ đánh chúng bằng một bệnh dịch, tước quyền thừa kế của chúng, và làm cho thị tộc của ngươi thành một nước lớn hơn và mạnh hơn chúng nó.”
\s5
\v 13 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va, “Nếu Chúa làm vậy, dân Ai Cập sẽ nghe tin đó, vì Ngài đã dùng quyền năng Ngài cứu dân này khỏi họ.
\v 14 Họ sẽ thuật lại cho các cư dân khác trong xứ này. Họ có nghe rằng, Đức Giê-hô-va đang ở với dân này, vì Ngài được thấy tận mặt. Mây của Ngài ngự trên dân Ngài. Ngài đi trước họ bằng một trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm.
\s5
\v 15 Bây giờ, nếu Ngài giết dân này như giết một người, thì các nước đã nghe đến danh Ngài sẽ nói rằng,
\v 16 Vì Đức Giê-hô-va không thể đem dân này vào xứ mà Ngài đã thề sẽ ban cho chúng, nên Ngài đã giết chúng trong hoang mạc.
\s5
\v 17 Vậy, con cầu xin Ngài bày tỏ quyền năng lớn lao của Ngài. Vì Chúa có phán,
\v 18 Đức Giê-hô-va chậm nóng giận và đầy thành tín theo giao ước. Ngài tha thứ tội lỗi và sự vi phạm. Nhưng Ngài sẽ không quên xử phạt bằng cách giáng phạt tội của tổ tiên trên con cháu đến đời thứ ba và thứ tư.
\v 19 Con nài xin Chúa tha thứ tội lỗi dân này vì cớ sự thành tín lớn lao của Ngài, như Ngài đã luôn tha thứ dân này kể từ khi họ ở Ai Cập đến giờ.”
\s5
\v 20 Đức Giê-hô-va phán, “Ta đã tha thứ chúng như lời ngươi xin,
\v 21 nhưng thật như Ta hằng sống, và vì cả thế gian sẽ tràn ngập vinh quang Ta,
\v 22 tất cả những người đó đã thấy vinh quang Ta và những dấu kỳ về quyền năng Ta đã làm ở Ai Cập và trong đồng vắng chúng vẫn thử Ta mười lần và không lắng nghe Ta.
\s5
\v 23 Vậy Ta phán rằng chúng chắc chắn sẽ không thấy được xứ mà Ta đã thề cùng tổ tiên chúng. Không một ai trong số chúng là người khinh dể Ta sẽ thấy xứ đó,
\v 24 ngoại trừ tôi tớ Ta là Ca-lép, vì người có một tinh thần khác. Người đã theo Ta trọn vẹn; Ta sẽ đem người vào xứ mà người đã do thám. Con cháu người sẽ hưởng xứ ấy.
\v 25 (Bấy giờ dân A-ma-léc và dân Ca-na-an sống ở thung lũng). Ngày mai hãy quay trở lại và đi vào hoang mạc theo hướng Biển Đỏ.”
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn,
\v 27 “Ta còn phải chịu đựng dân gian ác này là dân hay chỉ trích Ta đến bao giờ? Ta đã nghe lời phàn nàn của dân Y-sơ-ra-ên đối cùng Ta.
\s5
\v 28 Hãy nói với chúng, Đức Giê-hô-va có phán, Thật như Ta hằng sống, Ta đã nghe lời nói của các ngươi, Ta sẽ làm việc này trên các ngươi:
\v 29 Thây các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này, tất cả các ngươi là những người đã phàn nàn nghịch lại Ta, những người có tên trong danh sách thống kê, hết thảy những ai từ hai mươi tuổi trở lên.
\v 30 Chắc chắn các ngươi sẽ không vào xứ mà Ta đã hứa ban cho các ngươi, ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun.
\s5
\v 31 Nhưng con cái các ngươi, là những đứa mà các ngươi nói là sẽ trở thành nạn nhân, Ta sẽ đem chúng vào trong xứ. Chúng sẽ trải nghiệm xứ mà các ngươi đã từ bỏ!
\v 32 Còn về phần các ngươi, thây các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này.
\v 33 Con cái các ngươi sẽ lang trong hoang mạc trong bốn mươi năm. Chúng phải gánh chịu hậu quả từ sự nổi loạn của các ngươi cho đến khi hoang mạc này đầy thây các ngươi.
\s5
\v 34 Như các ngươi đã do thám xứ đó trong bao nhiêu ngày tức bốn mươi ngày, các ngươi cũng sẽ gánh chịu hậu quả tội lỗi các ngươi trong bốn mươi năm một năm đền một ngày, và các ngươi sẽ biết cảm giác khi trở thành kẻ thù nghịch Ta.
\v 35 Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán. Chắc chắn Ta sẽ thực thi việc này trên hết thảy cộng đồng gian ác đã nhóm lại chống nghịch Ta. Chúng sẽ bị tiêu hao trong hoang mạc này. Chúng sẽ chết ở đây. ’”
\s5
\v 36 -
\v 37 Vậy những người được Môi-se sai đi do thám xứ đều chết bởi bệnh dịch trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây là những người đã trở về và báo cáo sai về xứ đó. Việc này khiến cả hội chúng oán trách Môi-se.
\v 38 Trong số những người đi do thám xứ, chỉ có Giô-suê, con trai Nun, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, là còn sống.
\s5
\v 39 Khi Môi-se thuật những lời này cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên, họ than khóc rất nhiều.
\v 40 Sáng hôm sau họ dậy sớm rồi đi lên đỉnh núi và nói rằng, “Hãy xem, chúng ta đang ở đây, chúng ta sẽ đến nơi mà Đức Giê-hô-va đã hứa, vì chúng ta đã phạm tội.”
\s5
\v 41 Nhưng Môi-se nói, “Sao anh em chống lại lệnh của Đức Giê-hô-va? Anh emsẽ không thắng đâu.
\v 42 Chớ đi, vì Đức Giê-hô-va không ở cùng anh emđặng giúp anh emđánh bại quân thù.
\v 43 Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an đang ở đó, anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm vì anh emđã từ bỏ Đức Giê-hô-va. Vì vậy Ngài sẽ không ở cùng anh em.”
\s5
\v 44 Nhưng họ ngoan cố đi lên vùng đồi núi; tuy nhiên, Môi-se và hòm giao ước của Đức Giê-hô-va vẫn ở trong trại.
\v 45 Dân A-ma-léc tràn xuống, và dân Ca-na-an cũng tràn xuống các ngọn núi đó. Họ tấn công dân Y-sơ-ra-ên và đánh bại họ cho đến tận Họt-ma.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi các ngươi vào xứ mà Đức Giê-hô-va sẽ ban cho các ngươi định cư -
\v 3 và khi các ngươi dùng lửa dâng của lễ cho Ngài dù là của lễ thiêu, hay của lễ trả sự hứa nguyện hoặc của lễ lạc ý, hoặc lễ vật trong những dịp đại lễ, lấy từ bầy gia súc dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va
\s5
\v 4 thì người đem dâng lễ vật phải dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ chay bằng một phần mười ê-pha bột lọc nhồi với một phần tư hin dầu.
\v 5 Cũng phải dâng một phần tư hin rượu khi dâng của lễ quán cùng của lễ thiêu hoặc lễ vật đem dâng là chiên con.
\s5
\v 6 Nếu các ngươi dâng một con chiên đực, hãy chuẩn bị một của lễ chay với hai phần mười ê-pha bột lọc nhào với một phần ba hin dầu.
\v 7 Đối với của lễ quán, các ngươi phải dâng một phần ba hin rượu. Lễ vật ấy sẽ tỏa ra mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 8 Khi các ngươi chuẩn bị một con bò đực tơ để làm của lễ thiêu hoặc lễ vật trả sự hứa nguyện, hoặc của lễ thù ân dâng cho Đức Giê-hô-va,
\v 9 hãy dâng với con bò đực tơ một của lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột lọc nhồi với nửa hin dầu.
\v 10 Hãy dâng của lễ quán gồm nửa hin rượu, dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Mỗi con bò đực tơ, con chiên đực, và chiên con đực hoặc dê con phải được dâng theo cách đó.
\v 12 Mỗi lễ vật các ngươi chuẩn bị và đem dâng phải được làm như đã mô tả.
\v 13 Mọi người bản xứ Y-sơ-ra-ên phải thi hành những điều này, khi dâng của lễ bằng lửa, có mùi thơm làm đẹp lòng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 14 Nếu một người ngoại quốc ở với các ngươi, hoặc bất cứ ai sống giữa các ngươi từ đời này qua đời kia, họ phải dâng của lễ bằng lửa, có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Họ phải làm y như các ngươi.
\v 15 Phải có một luật lệ áp dụng cho cả hội chúng và người ngoại quốc ở cùng các ngươi, tức một luật lệ đời đời qua các thế hệ. Các ngươi và ngoại kiều ở với các ngươi cũng phải làm như nhau. Họ phải làm y như các ngươi làm trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 16 Luật lệ và sắc lệnh như nhau áp dụng cho các ngươi và người ngoại quốc ở với các ngươi. ’”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 18 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi các ngươi vào xứ mà Ta sẽ đem các ngươi đến,
\v 19 khi các ngươi ăn sản vật trong xứ, hãy dâng một của lễ cho Ta.
\s5
\v 20 Khi làm ra một cái bánh đầu tiên bằng bột nhào, các ngươi hãy dâng y như dâng của lễ ở sân đạp lúa. Các ngươi phải làm như vậy.
\v 21 Suốt các thế hệ ngươi cũng vậy, phải dâng cho Ta ổ bánh đầu tiên làm bằng bột nhào.
\s5
\v 22 Có khi các ngươi sẽ vô tình phạm tội, không vâng giữ tất cả các mệnh lệnh mà Ta đã phán qua Môi-se
\v 23 tức mọi điều mà Ta đã truyền qua Môi-se từ ngày Ta bắt đầu ban cho các ngươi điều răn và đến đời con cháu các ngươi.
\v 24 Trong trường hợp sơ ý phạm tội mà hội chúng không hay biết, cả hội chúng phải dâng cho Ta một con bò đực tơ làm của lễ thiêu tỏa ra mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Kèm theo là một của lễ chay và của lễ quán, như đã ấn định, và một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
\s5
\v 25 Thầy tế lễ phải cử hành lễ chuộc tội cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ được tha thứ vì đó là loại tội vô ý. Họ đã đem lễ vật, dâng của lễ bằng lửa cho Ta. Họ đã dâng cho Ta của lễ chuộc tội vì cớ lỗi lầm của họ.
\v 26 Sau đó, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ được tha thứ, kể cả những người ngoại quốc ở với các ngươi cũng vậy, vì cả dân sự đã không cố ý phạm tội.
\s5
\v 27 Nếu ai sơ ý phạm tội, người đó phải dâng một con dê cái một tuổi làm của lễ chuộc tội.
\v 28 Thầy tế lễ sẽ cử hành lễ chuộc tội trước mặt Đức Giê-hô-va cho người sơ ý phạm tội. Người sẽ được tha thứ khi lễ chuộc tội được cử hành.
\v 29 Luật này áp dụng cho người vô tình phạm tội, kể cả người bản xứ Y-sơ-ra-ên và người ngoại quốc ở giữa các ngươi.
\s5
\v 30 Nhưng ai bất chấp phạm tội, dù đó là người bản xứ hay là người ngoại quốc, thì kẻ đó xúc phạm Ta. Kẻ ấy phải bị loại khỏi dân sự mình.
\v 31 Vì nó đã khinh dể Lời Ta và vi phạm điều răn Ta, nó phải bị loại ngay lập tức. Nó sẽ gánh lấy tội lỗi mình. ’”
\s5
\v 32 Khi dân Y-sơ-ra-ên đang ở trong hoang mạc, họ bắt gặp một người đang lượm củi vào ngày Sa-bát.
\v 33 Họ đem người đến trước mặt Môi-se, A-rôn, và cả hội chúng.
\v 34 Họ giam giữ người vì không biết phải giải quyết trường hợp đó ra sao.
\s5
\v 35 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Người đó phải bị xử tử. Hội chúng phải ném đá người ở bên ngoài trại. ”
\v 36 Vậy cả hội chúng đem người ra ngoài trại và ném đá cho đến chết như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 37 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 38 “Hãy nói cùng con cháu Y-sơ-ra-ên và truyền cho chúng phải làm các tua áo ở các góc áo, đính trên mép áo bằng một sợi dây màu xanh dương. Các thế hệ con cháu phải làm như vậy.
\v 39 Khi các ngươi nhìn thấy nó, thì nó sẽ là một dấu nhắc đặc biệt đối với các ngươi về mọi điều răn của Ta, các ngươi sẽ mặc áo có tua để không chiều theo lòng mình và mắt mình, hầu cho các ngươi không sao vào sự thông dâm.
\s5
\v 40 Hãy giữ điều này để các ngươi ghi nhớ và vâng giữ mọi điều răn Ta, trở nên thánh, được biệt riêng cho Ta, là Đức Chúa Trời của các ngươi.
\v 41 Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập để làm Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Bấy giờ, Cô-ra con trai Dít-sê-ha, cháu của Kê-hát, chít của Lê-vi, cùng với Đa-than và A-bi-ram, con trai của Ê-li-áp, và Ôn, con trai của Phê-lết, hậu duệ của Ru-bên, lôi kéo một số người.
\v 2 Họ, cùng với những người khác từ trong dân Y-sơ-ra-ên, gồm 250 lãnh đạo của hội chúng là những thành viên có tiếng trong cộng đồng, nổi loạn chống lại Môi-se.
\v 3 Họ tụ tập lại để chất vấn Môi-se và A-rôn. Họ nói với hai ông, “Các ông thật quá đáng. Cả hội chúng đều là dân thánh, mỗi người trong họ, được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va ở giữa họ. Tại sao các ông tự tôn mình lên cao hơn những người khác trong hội chúng của Đức Giê-hô-va?”
\s5
\v 4 Khi Môi-se nghe lời ấy, ông sấp mặt xuống đất.
\v 5 Ông nói với Cô-rê và phe của ông ấy; ông nói rằng, “Sáng mai Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài, và ai được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va. Ngài sẽ đem đến người mà Ngài chọn. Đức Giê-hô-va sẽ khiến người đó đến với Ngài.
\s5
\v 6 Hỡi Cô-rê và phe của ông, hãy làm như vầy.
\v 7 Ngày mai các ông hãy lấy lư hương rồi để lửa và hương vào trong đó trước mặt Đức Giê-hô-va. Người nào được Đức Giê-hô-va chọn thì người đó sẽ được biệt riêng cho Ngài. Các ông là con cháu của Lê-vi, các ông đã đi quá xa.”
\s5
\v 8 Môi-se lại nói cùng Cô-rê, “Hãy nghe đây, hỡi con cháu Lê-vi;
\v 9 phải chăng việc Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ông khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, đặng đem các ông đến gần Ngài, phục vụ ở đền tạm của Đức Giê-hô-va, và đứng trước mặt hội chúng để phục vụ họ, là điều nhỏ nhặt sao?
\v 10 Ngài đã đem các ông đến gần, kể cả họ hàng các ông, con cháu Lê-vi của các ông, nhưng các ông lại đang tìm kiếm chức tế lễ!
\v 11 Đó là lý do ông và phe của ông đã cấu kết chống nghịch Đức Giê-hô-va. Vậy tại sao các ông oán trách A-rôn, là người vâng phục Đức Giê-hô-va?”
\s5
\v 12 Rồi Môi-se gọi Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp, nhưng họ trả lời, “Chúng tôi không đến đâu.
\v 13 Phải chăng việc ông đã đem chúng tôi ra khỏi xứ đượm sữa và mật, đặng giết chúng tôi trong hoang mạc, là chưa đủ sao? Hai ông muốn cai trị trên chúng tôi mà!
\v 14 Hơn nữa, các ông không đem chúng tôi vào xứ đượm sữa và mật, hoặc cho chúng tôi thừa hưởng những đồng ruộng và vườn nho. Bây giờ các ông muốn làm mù mắt chúng tôi bằng lời hứa sáo rỗng sao? Chúng tôi không đến gặp các ông đâu.”
\s5
\v 15 Môi-se rất giận và thưa cùng Đức Giê-hô-va, “Xin Chúa đừng nhậm lấy của lễ họ dâng. Con không lấy con lừa nào của họ, và con cũng không làm hại ai trong bọn họ. ”
\v 16 Môi-se nói với Cô-rê, “Ngày mai ông và phe của ông phải ra mắt Đức Giê-hô-va, ông, họ, và cả A-rôn.
\v 17 Mỗi người phải đem lư hương rồi bỏ hương vào. Sau đó, mỗi người phải đem lư hương đến dâng trước mặt Đức Giê-hô-va, tổng cộng là 250 lư hương. Ông và A-rôn cũng phải đem theo lư hương mình.”
\s5
\v 18 Vậy mỗi người đem theo lư hương, để lửa vào, rồi cho hương vào, sau đó đứng ở cửa lều hội họp với Môi-se và A-rôn.
\v 19 Cô-rê nhóm cả hội chúng nghịch lại Môi-se và A-rôn ở cửa lều hội họp, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trước cả hội chúng.
\s5
\v 20 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se và A-rôn:
\v 21 “Hãy tránh xa khỏi dân này, Ta sẽ thiêu hủy chúng ngay tức khắc. ”
\v 22 Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống đất và thưa, “Lạy Đức Chúa Trời, Đấng cai trị thần linh của tất cả mọi người, nếu một người phạm tội, thì Ngài nổi giận với cả cộng đồng ư?”
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va trả lời Môi-se,
\v 24 “Hãy nói với hội chúng, rằng, Hãy tránh xa lều của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. ’”
\s5
\v 25 Vậy Môi-se đứng dậy và đến gặp Đa-than và A-bi-ram; các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đi theo ông.
\v 26 Ông nói với hội chúng, “Bây giờ, hãy rời khỏi lều của những người gian ác này và chớ đụng vào thứ gì của họ, nếu không anh emsẽ bị thiêu đốt vì tội lỗi họ. ”
\v 27 Vậy hội chúng tránh xa lều của Cô-ra, Đa-than và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram ra đứng ở cửa lều, với vợ con và cháu của họ.
\s5
\v 28 Môi-se nói, “Bởi điều này, anh emsẽ biết rằng Đức Giê-hô-va đã sai tôi làm những việc này, vì tôi không làm việc gì theo ý mình.
\v 29 Nếu những người này chết cách tự nhiên như bình thường thì Đức Giê-hô-va đã chẳng sai tôi.
\v 30 Nhưng nếu Đức Giê-hô-va khiến đất nứt đến nỗi nuốt họ cùng với gia đình họ, và họ đi xuống âm phủ, thì anh emphải hiểu rằng những người này đã khinh dể Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 31 Ngay khi Môi-se vừa nói xong những lời ấy, đất nứt ra dưới chân họ.
\v 32 Đất há miệng và nuốt chửng họ, gia đình họ, và tất cả những ai theo phe Cô-rê, cùng với tài sản họ.
\s5
\v 33 Họ cùng mọi người trong gia đình mình đều rơi xuống âm phủ. Đất khép miệng lại, và như vậy họ bị diệt khỏi giữa hội chúng.
\v 34 Dân Y-sơ-ra-ên đứng xung quanh đều chạy trốn và khóc lóc. Họ la lên, “Đất cũng sẽ nuốt chúng ta mất thôi! ”
\v 35 Rồi lửa từ Đức Giê-hô-va lóe lên và thiêu hủy 250 người đã dâng hương.
\s5
\v 36 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se,
\v 37 nói với Ê-lê-a-xa con trai thầy tế lễ A-rôn, và bảo người lấy lư hương ra khỏi đống lửa cháy, vì lư hương đó là thánh. Sau đó họ phải đổ đám tro tàn.
\v 38 Hãy lấy lư hương của những kẻ đã chết vì tội lỗi mình. Làm những miếng dát mỏng để bọc bàn thờ. Những kẻ đó đã dâng cho Ta, vậy chúng thuộc về Ta. Chúng sẽ là dấu hiệu về sự hiện diện của Ta với dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 39 -
\v 40 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa lấy những lư hương đồng của mấy người kia đã bị thiêu cháy. Ông dát mỏng thành miếng phủ bàn thờ, như Đức Giê-hô-va đã phán với ông qua Môi-se. Chúng sẽ là một dấu nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên, không ai ngoài dòng dõi A-rôn được bước đến đốt hương trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 41 Như vậy, ai bất tuân sẽ giống như Cô-ra và người của ông.
\v 42 Nhưng sáng hôm sau, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên nổi nghịch chống lại Môi-se và A-rôn, đến nỗi họ tìm đến lều hội họp, và này, mây đang phủ lều. Sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra,
\v 43 Môi-se và A-rôn đến trước lều hội họp.
\s5
\v 44 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 45 “Hãy tránh xa khỏi dân này, Ta sẽ thiêu hủy chúng ngay lập tức. ” Nhưng Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống.
\v 46 Môi-se nói với A-rôn, “Hãy lấy lư hương, bỏ lửa từ bàn thờ vào đó, rồi bỏ hương vào, sau đó nhanh chóng đem đến hội chúng, và làm lễ chuộc tội cho họ, vì cơn giận của Đức Giê-hô-va giáng trên họ. Bệnh dịch đã phát khởi.”
\s5
\v 47 Vậy A-rôn làm theo điều Môi-se bảo. Ông chạy vào giữa hội chúng. Bệnh dịch đã nhanh chóng phát tán, ông bỏ hương vào lư hương và làm lễ chuộc tội cho dân sự.
\v 48 A-rôn đứng giữa người chết và người sống; bởi đó bệnh dịch ngưng lại.
\s5
\v 49 Có 14. 700 người chết vì bệnh dịch, chưa kể những người đã chết đã nổi loạn cùng Cô-rê.
\v 50 A-rôn trở về gặp Môi-se ở cửa lều hội họp, và bệnh dịch chấm dứt.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 2 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên. Hãy lấy cây gậy của họ, mỗi chi phái một cây gậy. Hãy lấy mười hai cây gậy, mỗi trưởng chi phái đem một cây. Ghi tên từng người lên từng cây gậy.
\s5
\v 3 Ngươi phải ghi tên A-rôn lên cây gậy của Lê-vi. Mỗi trưởng chi phái sẽ có một cây gậy.
\v 4 Để các cây gậy trong lều hội họp trước các bảng giao ước, là nơi Ta gặp ngươi.
\v 5 Cây gậy của người nào được Ta chọn sẽ trổ bông. Ta sẽ làm câm nín lời oán trách của dân Y-sơ-ra-ên, tức là nói những lời nghịch lại ngươi."
\s5
\v 6 Vậy Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên. Tất cả các trưởng chi phái đưa gậy cho ông, mỗi trưởng chi phái được chọn đem đến một cây gậy, tổng cộng là mười hai cây. Trong số đó có cây gậy của A-rôn.
\v 7 Sau đó, Môi-se để các cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va trong lều giao ước.
\s5
\v 8 Hôm sau, Môi-se bước vào trong lều giao ước, và kìa, cây gậy của A-rôn thuộc chi phái Lê-vi đã trổ bông. Nó bung nụ, trổ bông và ra trái hạnh nhân chín!
\v 9 Môi-se đem tất cả các cây gậy đến trước mặt Đức Giê-hô-va và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi người thấy cây gậy của mình và lấy lại.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy đặt cây gậy của A-rôn trước hòm giao ước. Giữ nó làm dấu nhắc nhở về tội nổi loạn của dân sự, ngươi phải làm nín đi lời chúng phàn nàn Ta, nếu không chúng sẽ chết. ”
\v 11 Môi-se làm theo lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 12 Dân Y-sơ-ra-ên nói với Môi-se rằng, “Chúng tôi sẽ chết ở đây mất. Chúng tôi sẽ bị diệt mất!
\v 13 Ai đến gần đền tạm của Đức Giê-hô-va sẽ chết. Chẳng lẽ chúng tôi phải bỏ mạng hết sao?”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Ngươi, các con trai và thị tộc ngươi phải chịu trách nhiệm về những tội vi phạm đến nơi thánh. Riêng ngươi và các con trai ngươi sẽ chịu trách nhiệm về tội vi phạm đến chức tế lễ.
\v 2 Với những người trong chi phái Lê-vi thuộc tông tộc ngươi, hãy đem họ đến cùng ngươi để họ tham gia và giúp đỡ ngươi khi ngươi và các con trai ngươi phục vụ trước lều giao ước.
\s5
\v 3 Họ phải phục vụ ngươi và cả khu lều. Tuy nhiên, họ không được đến gần bất cứ vật gì trong nơi thánh hoặc có liên quan đến bàn thờ, nếu không cả họ và ngươi sẽ chết.
\v 4 Họ phải cùng ngươi coi sóc lều hội họp và tất cả việc liên quan đến lều. Người ngoại quốc không được đến gần các ngươi.
\v 5 Các ngươi phải chịu trách nhiệm về nơi thánh và bàn thờ để Ta không nổi cơn thịnh nộ trên dân Y-sơ-ra-ên nữa.
\s5
\v 6 Này, chính Ta đã chọn con cháu người Lê-vi của ngươi từ trong dân Y-sơ-ra-ên. Họ là quà dành cho ngươi, họ được dâng lên Ta đặng lo công việc trong lều hội họp.
\v 7 Nhưng chỉ có ngươi và các con trai ngươi thực thi chức tế lễ về mọi việc liên quan đến bàn thờ và mọi thứ bên trong bức màn. Chính các ngươi phải làm trọn trách nhiệm mình. Ta ban cho các ngươi chức vụ tế lễ như một đặc ân. Người ngoại quốc nào đến gần cũng sẽ bị xử tử.”
\s5
\v 8 Sau đó Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Này, Ta đã trao cho ngươi trách nhiệm quản lý các của lễ dâng lên Ta, và tất cả những lễ vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta. Ta đã ban những của lễ này cho ngươi và các con trai ngươi xem như là phần vĩnh viễn.
\v 9 Những thứ thuộc của lễ được dâng hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va, nhưng những thứ không bị thiêu sẽ là của các ngươi. Những lễ vật dân sự đem đến, gồm của lễ chay, của lễ chuộc tội, và của lễ tạ lỗi tất cả những của lễ thánh này được dâng cho Ta sẽ thuộc về ngươi và các con trai ngươi.
\s5
\v 10 Của lễ ấy được dâng hoàn toàn cho Ta, các ngươi phải ăn những của lễ đó. Mọi người nam phải ăn các của lễ này. Ngươi phải xem đó là những của lễ được dâng cho Ta.
\v 11 Đây là phần thuộc về các ngươi: những phần được dành riêng từ tất cả các của lễ do dân Y-sơ-ra-ên đem dâng, tức những của lễ được giơ cao trước mặt Ta và dâng lên Ta. Ta ban cho ngươi, con trai, con gái ngươi, như là phần vĩnh viễn. Trong gia đình ngươi, người nào tinh sạch về mặt nghi lễ có thể ăn bất kỳ phần nào trong số đó.
\s5
\v 12 Dầu tốt nhất, rượu và ngũ cốc tốt nhất, trái cây tốt nhất mà dân sự dâng cho Ta Ta tất cả ban cho các ngươi.
\v 13 Hoa quả đầu mùa trên đất của họ mà họ dâng cho Ta, sẽ thuộc về ngươi. Hễ ai trong nhà ngươi tinh sạch thì được phép ăn.
\s5
\v 14 Mọi thứ mà dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến sẽ thuộc về ngươi.
\v 15 Mọi con đầu lòng của người và súc vật được cho Đức Giê-hô-va, chúng sẽ thuộc về các ngươi. Tuy nhiên, chắc chắn dân sự sẽ chuộc lại con trai đầu lòng, và họ phải chuộc con đực đầu lòng của các con vật không sạch.
\v 16 Tất cả con đầu lòng mà dân sự mua chuộc phải được chuộc lại sau khi được một tháng tuổi. Sau đó dân sự có thể chuộc lại chúng, với giá là 5 siếc-lơ, tính theo cân lượng của siếc-lơ trong nơi thánh, tương đương với 20 ghê-ra.
\s5
\v 17 Nhưng ngươi không được chuộc lại con bò đầu lòng, con chiên đầu lòng, hoặc con dê đầu lòng; chúng thuộc về Ta. Ngươi phải rảy huyết chúng trên bàn thờ và lấy lửa thiêu phần mỡ làm thành lễ vật tỏa ra một mùi thơm cho Ta.
\v 18 Thịt của chúng huộc về ngươi. Chẳng hạn như cái ức và đùi phải đã được giơ cao, phần thịt của chúng sẽ thuộc về các ngươi.
\s5
\v 19 Tất cả các của lễ thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Ta - Ta ban cho ngươi, con trai và con gái ngươi, như một điều bất di bất dịch. Chúng tượng trưng cho giao ước bằng muối, một giao ước vĩnh viễn trước mặt Ta với ngươi và con cháu ngươi. ”
\v 20 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn, “Các ngươi không được hưởng gì trong xứ của dân sự, các ngươi cũng không được hưởng bất cứ cơ nghiệp nào giữa dân sự. Ta là phần và là sản nghiệp của các ngươi giữa dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 21 Này, với con cháu người Lê-vi, Ta cho họ các khoản phần mười trong dân Y-sơ-ra-ên để họ làm gia tài để trả công cho họ vì đã phục vụ trong lều hội họp.
\v 22 Kể từ bây giờ, dân Y-sơ-ra-ên không được đến gần lều hội họp, kẻo họ sẽ mắc tội và chết.
\s5
\v 23 Người Lê-vi phải làm việc liên quan đến lều hội họp. Họ phải chịu trách nhiệm về bất cứ tội lỗi nào liên quan. Luật này được áp dụng đời đời trong suốt các thế hệ tiếp theo của ngươi. Và họ sẽ không được hưởng cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên.
\v 24 Vì các khoản phần mười của dân Y-sơ-ra-ên, tức những khoản mà họ đã dâng cho Ta - Ta đã ban cho người Lê-vi làm gia tài. Đó là lý do Ta nói rằng, Họ sẽ không được hưởng cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên. ’”
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 26 “Ngươi hãy nói với người Lê-vi rằng, Khi anh em nhận phần mười từ dân Y-sơ-ra-ên mà Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em làm gia tài, hãy dâng một phần trong khoản phần mười đó cho Ngài.
\v 27 Của lễ của anh em sẽ được xem như là một phần mười của lúa thóc từ sân đạp lúa hoặc sản phẩm của bồn ép nho.
\s5
\v 28 Vậy anh em cũng phải dâng một của lễ cho Đức Giê-hô-va từ các khoản phần mười mà anh em nhận từ dân Y-sơ-ra-ên.
\v 29 Trong tất cả các lễ vật được trao cho quý vị, hãy trích dâng cho một phần cho Đức Giê-hô-va. Hãy áp dụng đối với các lễ vật tốt nhất và thánh nhất mà anh em được trao.
\s5
\v 30 Vậy ngươi phải nói với họ rằng, Khi anh em dâng lễ vật tốt nhất từ phần mình đã nhận lãnh, thì người Lê-vi phải xem đó như là huê lợi của sân đạp lúa và bồn ép nho.
\v 31 Anh em và gia đình mình có thể ăn những đồ còn lại ở bất cứ nơi đâu, vì đó là thù lao cho việc anh em làm trong lều hội họp.
\v 32 Anh em sẽ không mắc tội khi ăn và uống của lễ đó, nếu như anh emđã dâng cho Đức Giê-hô-va phần tốt nhất của vật mà anh em đã nhận lấy. Nhưng anh em không được xúc phạm những lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên, nếu không anh em sẽ chết. ’”
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn,
\v 2 “Đây là một luật thánh, quy luật mà Ta truyền cho ngươi: Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đem đến cho ngươi một con bò cái tơ màu đỏ không tật nguyền hoặc vết nhơ, và chưa từng mang ách.
\s5
\v 3 Đưa con bò cái tơ cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và người ta sẽ giết nó trước mặt người.
\v 4 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phải dùng ngón tay nhúng vào huyết con bò và rảy bảy lần về phía trước lều hội họp.
\v 5 Một thầy tế lễ khác phải thiêu con bò cái tơ trước mặt người, bao gồm da, thịt, và huyết và phân con bò.
\v 6 Thầy tế lễ phải lấy củi bá hương, cây bài hương, và chỉ len đỏ đậm, rồi quăng vào giữa con bò cái tơ đang cháy.
\s5
\v 7 Người phải giặt quần áo và tắm trong nước, rồi người mới có thể vào trại, nhưng người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 8 Người thiêu con bò cái tơ phải giặt quần áo và tắm trong nước. Người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối.
\s5
\v 9 Người tinh sạch phải hốt tro con bò và để ở một chỗ sạch bên ngoài trại. Tro sẽ được giữ cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ trộn tro trong nước để tẩy sạch tội, vì tro ấy được lấy từ của lễ chuộc tội.
\v 10 Người gom tro con bò cái tơ phải giặt quần áo mình. Người sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối. Đây là quy luật đời đời dành cho dân Y-sơ-ra-ên và người ngoại quốc ở với họ.
\s5
\v 11 Ai đụng vào xác người chết sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
\v 12 Người đó phải làm sạch mình vào ngày thứ ba và thứ bảy. Sau đó người sẽ được sạch.
\v 13 Ai đụng vào người chết, xác chết, mà không làm tinh sạch mình người đó làm ô uế đền tạm của Đức Giê-hô-va. Người phải bị loại khỏi Y-sơ-ra-ên vì nước tẩy uế không được rảy lên người. Người sẽ vẫn bị ô uế; sự ô uế vẫn ở trên người đó.
\s5
\v 14 Đây là luật phải áp dụng khi có người chết trong lều. Ai vào trong lều và ai đang ở trong lều sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
\v 15 Đồ chứa nào không đậy nắp sẽ bị ô uế.
\v 16 Tương tự, hễ ai ở ngoài lều đụng vào người bị giết bằng gươm, hoặc bất kỳ xác chết nào, xương người, hay mồ mả - người đó sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
\s5
\v 17 Hãy làm như vầy đối với người bị ô uế: Lấy một ít tro từ của lễ chuộc tội và pha với nước sạch trong một cái bình.
\v 18 Người tinh sạch phải lấy cây bài hương, nhúng trong nước, rồi rảy lên lều, các đồ chứa trong lều, những người trong lều, và người đã đụng vào xương, người bị giết, người chết, hoặc mồ mả.
\v 19 Vào ngày thứ ba và thứ bảy, người tinh sạch phải rảy lên người ô uế. Vào ngày thứ bảy, người bị ô uế phải làm tinh sạch mình. Người phải giặt quần áo và tắm trong nước. Người sẽ được tinh sạch vào buổi chiều tối.
\s5
\v 20 Nhưng hễ ai còn bị ô uế, không chịu tẩy sạch mình người đó sẽ bị loại khỏi cộng đồng, vì người đã làm ô uế nơi thánh của Đức Giê-hô-va. Nước tẩy sạch chưa được rảy lên người; người vẫn còn bị ô uế.
\v 21 Đây là quy luật đời đời áp dụng cho các trường hợp này. Người nào rảy nước tẩy sạch phải giặt quần áo mình. Người nào đụng vào nước tẩy sạch sẽ bị ô uế đến chiều tối.
\v 22 Bất cứ thứ gì người bị ô uế đụng vào sẽ trở nên ô uế. Người nào đụng vào thứ đó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.”
\s5
\c 20
\p
\v 1 Vậy cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi vào hoang mạc Sin vào tháng đầu tiên; họ ở lại Ca-đe. Mi-ri-am qua đời và được chôn tại đó.
\s5
\v 2 Ở đó không có nước cho hội chúng, vì vậy họ tụ tập chống đối Môi-se và A-rôn.
\v 3 Dân sự oán trách Môi-se rằng, “Phải chi chúng tôi cùng chết với mấy người anh em Y-sơ-ra-ên khi họ chết trước mặt Đức Giê-hô-va thì tốt biết mấy!
\s5
\v 4 Sao các ông đem hội chúng của Đức Giê-hô-va vào trong hoang mạc này để chúng tôi và bầy gia súc chết ở đây?
\v 5 Và tại sao các ông khiến chúng tôi ra khỏi Ai Cập rồi đem chúng tôi vào nơi kinh khủng này? Ở đây chẳng có hạt giống, cây vả, nho, hoặc cây lựu nào, và cũng không có nước uống.”
\s5
\v 6 Vậy Môi-se và A-rôn lui ra khỏi trước mặt hội chúng. Họ đến cửa lều hội họp và sấp mặt xuống đất. Tại đó, vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra với họ.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 8 “Ngươi, và A-rôn, anh ngươi, hãy lấy cây gậy của ngươi và triệu tập hội chúng. Hãy bảo vầng đá trước mắt họ, và ra lệnh nó cho ra nước. Ngươi sẽ khiến nước chảy ra từ vầng đá ấy cho họ, và ngươi phải cho hội chúng và gia súc uống nước. ”
\v 9 Môi-se lấy cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va theo lời Ngài đã truyền cho ông.
\s5
\v 10 Vậy Môi-se và A-rôn nhóm hội chúng lại trước vầng đá. Môi-se nói với họ, “Hãy nghe đây, hỡi những người phản loạn. Chúng tôi phải khiến nước chảy ra từ vầng đá này cho anh em sao? ”
\v 11 Vậy Môi-se giơ tay lên và dùng gậy đập hai lần vào vầng đá, nước liền chảy xối xả. Hội chúng uống nước, và gia súc của họ cũng được uống nước.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn, “Vì các ngươi không tin Ta và không tôn Ta nên thánh trước mắt dân Y-sơ-ra-ên, nên các ngươi sẽ không dẫn hội chúng này vào trong xứ mà Ta đã hứa cho họ. ”
\v 13 Nơi này được gọi là nước Mê-ri-ba vì dân Y-sơ-ra-ên đã oán trách Đức Giê-hô-va tại đó, và Ngài đã tỏ cho họ thấy rằng Ngài là Đấng thánh.
\s5
\v 14 Môi-se sai các sứ giả từ Ca-đe đến gặp vua Ê-đôm: Em của vua là Y-sơ-ra-ên có nói như vầy: “Vua biết tất cả các khó khăn mà chúng tôi đã gặp.
\v 15 Vua biết tổ tiên chúng tôi đã xuống Ai Cập và sống ở đó trong một thời gian dài. Người Ai Cập đối xử tệ bạc với chúng tôi và tổ tiên chúng tôi.
\v 16 Khi chúng tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va, Ngài nghe tiếng chúng tôi và sai một thiên sứ đến đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập. Này, chúng tôi đang ở Ca-đe, một thành phố nằm ở biên giới xứ của vua.
\s5
\v 17 Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua. Chúng tôi sẽ không băng qua đồng ruộng hay vườn nho, chúng tôi cũng không uống nước giếng của vua. Chúng tôi sẽ đi theo con đường hoàng gia. Chúng tôi sẽ không xây qua bên trái hay bên phải cho đến khi chúng tôi đã ra khỏi biên giới của vua.”
\s5
\v 18 Nhưng vua Ê-đôm trả lời, “Các ngươi không được phép băng qua lãnh thổ của ta. Nếu vi phạm, ta sẽ lấy gươm đánh các ngươi. ”
\v 19 Vậy dân Y-sơ-ra-ên trả lời vua, “Chúng tôi sẽ đi dọc theo đường cái. Nếu chúng tôi hay bầy gia súc mình uống nước của vua, chúng tôi sẽ trả tiền. Xin vua cho chúng tôi đi bộ ngang qua, chứ không làm việc gì khác.
\s5
\v 20 Nhưng vua Ê-đôm trả lời, “Các ngươi không được băng qua đây. ” Vậy vua Ê-đôm kéo binh lính hùng mạnh ra nghênh chiến Y-sơ-ra-ên.
\v 21 Vua Ê-đôm không cho phép Y-sơ-ra-ên băng qua lãnh thổ của mình. Do đó, người Y-sơ-ra-ên rời khỏi xứ Ê-đôm.
\s5
\v 22 Như vậy dân sự đi từ Ca-đe. Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi đến Núi Hô-rơ.
\v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trên Núi Hô-rơ, giáp biên giới xứ Ê-đôm. Ngài phán rằng,
\v 24 “A-rôn sẽ về với tổ tiên mình, vì người sẽ không vào xứ mà Ta hứa ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Ấy là bởi vì hai ngươi đã chống lời Ta tại chỗ nước Mê-ri-ba.
\s5
\v 25 Hãy dẫn A-rôn và Ê-lê-a-sa, con trai người lên Núi Hô-rơ.
\v 26 Hãy cởi bộ y phục tế lễ của A-rôn và mặc cho con trai người là Ê-lê-a-sa. A-rôn sẽ chết và trở về với tổ tiên người.”
\s5
\v 27 Môi-se làm y như lời Đức Giê-hô-va phán. Họ lên Núi Hô-rơ trước sự chứng kiến toàn thể hội chúng.
\v 28 Môi-se cởi bộ y phục tế lễ của A-rôn và mặc cho Ê-lê-a-sa, con trai người. A-rôn qua đời trên đỉnh núi. Sau đó Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống núi.
\v 29 Khi cả hội chúng hay rằng A-rôn đã chết, họ khóc thương A-rôn trong ba mươi ngày.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Khi A-rát, vua dân Ca-na-an, sống tại Nê-ghép, hay tin rằng dân Y-sơ-ra-ên đang trên đường đến A-tha-rim, đã đánh lại Y-sơ-ra-ên và bắt một số người làm tù binh.
\v 2 Y-sơ-ra-ên thề với Đức Giê-hô-va và nói rằng, “Nếu Chúa cho chúng con thắng dân này, chúng con sẽ hủy diệt toàn bộ thành trì của chúng. ”
\v 3 Đức Giê-hô-va lắng nghe lời cầu xin của Y-sơ-ra-ên và Ngài cho họ thắng dân Ca-na-an. Họ hủy diệt hoàn toàn dân đó và thành trì của chúng. Nơi đó được gọi là Họt-ma.
\s5
\v 4 Họ đi từ Núi Hô-rơ theo đường cái đến Biển Đỏ để đi vòng qua xứ Ê-đôm. Trên đường, dân sự trở nên rất chán nản.
\v 5 Họ nói nghịch Đức Chúa Trời và Môi-se: “Sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập đặng chết trong hoang mạc này? Chẳng có bánh, chẳng có nước, và chúng tôi ngán cái thứ thức ăn nghèo nàn này lắm rồi.”
\s5
\v 6 Sau đó, Đức Giê-hô-va sai các con rắn độc đến trong dân sự. Rắn cắn họ; nhiều người chết.
\v 7 Dân sự đến gặp Môi-se và nói, “Chúng tôi đã phạm tội vì chúng tôi đã nói nghịch Đức Giê-hô-va và ông. Ông hãy cầu nguyện xin Đức Giê-hô-va cất những con rắn khỏi chúng tôi. ” Vậy Môi-se cầu thay cho dân sự.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy làm một con rắn và treo trên một cái cọc. Ai bị rắn cắn nếu nhìn con rắn ấy sẽ sống. ”
\v 9 Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng và treo trên cây cọc. Khi con rắn cắn ai đó, nếu họ nhìn lên con rắn bằng đồng, họ sẽ sống.
\s5
\v 10 Dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục lên đường và hạ trại ở Ô-bốt.
\v 11 Họ đi từ Ô-bốt và cắm trại ở Y-giê A-ba-rim trong hoang mạc đối diện Mô-áp về phía đông.
\s5
\v 12 Từ đó, họ tiếp tục lên đường và cắm trại ở thung lũng Giê-rết.
\v 13 Sau đó, họ lại đi tiếp và cắm trại ở phía bên kia sông Ạc-nôn, chảy trong hoang mạc từ biên giới của dân A-mô-rít. Sông Ạc-nôn tạo nên biên giới của Mô-áp, phân chia ranh giới giữa Mô-áp và A-mô-rít.
\s5
\v 14 Đó là lý do vì sao trong cuộn giấy Chiến sử của Đức Giê-hô-va có chép, “Qua-hép ở Su-pha, và các thung lũng ở Ạc-nôn,
\v 15 dốc những thung lũng dẫn đến thành phố Ạc và xuống tận biên giới Mô-áp.”
\s5
\v 16 Từ đó họ đi tiếp đến Bê-e, tại đó có cái giếng mà Đức Giê-hô-va bảo Môi-se, “Hãy nhóm dân sự lại cho Ta đặng cho họ uống nước.”
\s5
\v 17 Vậy dân Y-sơ-ra-ên ca bài ca này: “Hỡi giếng nước, hãy tuôn chảy. Hãy hát về giếng ấy.
\v 18 Giếng mà các lãnh đạo chúng ta đã đào, giếng mà nhà quý tộc đã xây nó bằng quyền trượng và cây gậy. ” Rồi từ hoang mạc, họ đi đến Mát-ta-na.
\s5
\v 19 Từ Mát-ta-na họ đi đến Na-ha-li-ên, và từ Na-ha-li-ên đi đến Ba-mốt,
\v 20 và từ Ba-mốt đi đến thung lũng trong xứ Mô-áp. Đó là nơi mà đỉnh Núi Phích-ga có tầm nhìn hướng xuống hoang mạc.
\s5
\v 21 Sau đó, Y-sơ-ra-ên sai các sứ giả đi gặp Si-hôn, vua dân A-mô-rít, tâu rằng,
\v 22 “Xin vua cho chúng tôi băng qua xứ vua. Chúng tôi sẽ không đi vào ruộng hay vườn nho nào cả. Chúng tôi sẽ không uống nước giếng của vua. Chúng tôi sẽ đi theo đại lộ vua cho đến khi chúng tôi đã băng qua biên giới của vua. ”
\v 23 Nhưng Vua Si-hôn không cho dân Y-sơ-ra-ên băng qua biên giới mình. Trái lại, Si-hôn tập họp binh lính đánh lại Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 24 Y-sơ-ra-ên tấn công quân Si-hôn bằng lưỡi gươm và chiếm xứ của dân đó từ Ạc-nôn đến sông Gia-bốc, đến tận xứ của dân Am-môn. Bấy giờ biên giới của dân Am-môn được gia cố chắc chắn.
\v 25 Dân Y-sơ-ra-ên chiếm tất cả các thành của dân A-mô-rít và sống trong các thành đó, gồm có thành Hẹt-bôn và tất cả các làng mạc của thành ấy.
\v 26 Hẹt-bôn là thành phố của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, tức là vua đã đánh lại vua trước của Mô-áp. Si-hôn đã chiếm cả xứ của vua ấy từ lãnh thổ của hắn đến Sông Ạc-nôn.
\s5
\v 27 Đó là lý do tại sao có lời châm ngôn như vầy, “Hãy đến Hẹt-bôn. Hãy xây lại thành Si-hôn và lập lại thành đó.
\v 28 Một ngọn lửa nổi lên từ Hẹc-bôn, một ngọn lửa từ thành Si-hôn thiêu đốt thành Ạc của Mô-áp, và những kẻ thống trị các ngọn đồi của Ạc-nôn.
\s5
\v 29 Khốn cho mày, hỡi Mô-áp! Hỡi dân Kê-mốt, bay đã hư mất. Con trai nó trở thành kẻ lánh nạn và con gái nó trở thành tù nhân của Si-hôn, vua dân A-mô-rít.
\v 30 Nhưng chúng ta đã chinh phục Si-hôn. Hẹc-bôn bị tàn phá trên đường đến Đi-bôn. Chúng tôi đã đánh bại chúng trên đường đến Nốp-pha, đến tận Mê-đê-ba.”
\s5
\v 31 Vậy dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu sống trong xứ của dân A-mô-rít.
\v 32 Sau đó Môi-se sai người đi do thám Gia-xe. Họ chiếm các thị trấn các làng mạc và đuổi dân A-mô-rít.
\s5
\v 33 Vậy họ quay lại và đi lên theo đường Ba-san. Óc, vua Ba-san, kéo quân ra nghênh chiến họ tại Ết-rê-i.
\v 34 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Chớ sợ vua ấy, vì Ta đã cho các ngươi thắng nó và cả quân đội nó và xứ nó. Hãy đánh nó như ngươi đã đánh vua Si-hôn của dân A-mô-rít tại Hẹc-bôn. ”
\v 35 Vậy họ giết vua Óc, các con trai và cả quân đội của vua ấy cho đến khi không còn sót lại người nào. Rồi họ chiếm xứ của vua ấy.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Dân Y-sơ-ra-ên ra đi tới khi họ đóng trại tại đồng bằng Mô-áp gần Giê-ri-cô, phía bên kia Sông Giô-đanh tính từ thành đó.
\s5
\v 2 Ba-lác, con trai Xíp-bô, thấy tất cả mọi việc dân Y-sơ-ra-ên đã làm đối với dân A-mô-rít.
\v 3 Mô-áp rất sợ dân sự vì họ đông, và Mô-áp đang kinh hãi dân Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Vua Mô-áp nói với các trưởng lão xứ Mi-đi-an, “Đoàn dân đông này sẽ ăn hết mọi thứ xung quanh chúng ta như bò đực ăn hết cỏ ngoài đồng. ” Bấy giờ Ba-lác, con trai Xíp-bô, là vua của Mô-áp khi đó.
\s5
\v 5 Ông sai các sứ giả đến gặp Ba-la-am, con trai Bê-ô, tại Bê-thơ bên Sông Ơ-phơ-rát, trong xứ của nước ông và dân của ông. Ông gọi Ba-la-am và nói, “Này, một dân đã đến đây từ Ai Cập. Chúng đầy dẫy trên đất và ngay bây giờ đang ở cạnh ta.
\v 6 Vậy ngươi hãy mau đến và rủa sả dân này cho ta, vì chúng quá mạnh so với ta. Sau đó có lẽ ta có thể dàn xếp tấn công chúng và đuổi chúng ra khỏi xứ. Ta biết hễ ai mà ngươi chúc phước thì sẽ được phước, và hễ ai mà ngươi rủa sả thì sẽ bị rủa.”
\s5
\v 7 Vậy, các trưởng lão Mô-áp và trưởng lão của Mi-đi-an lên đường, đem theo tiền bói toán. Họ đến gặp Ba-la-am và thuật lại những lời của Ba-lác.
\v 8 Ba-la-am trả lời họ, “Hãy ở lại đêm nay. Tôi sẽ cho các ông biết Đức Giê-hô-va phán với tôi điều gì. ” Vậy các lãnh đạo Mô-áp ở lại với Ba-la-am tối hôm đó.
\s5
\v 9 Đức Chúa Trời đến gặp Ba-la-am và phán, “Những kẻ đến gặp ngươi là ai? ”
\v 10 Ba-la-am trả lời Đức Chúa Trời, “Ba-lác, con trai Xíp-bô, vua Mô-áp, đã sai họ đến gặp con. Ông ấy nói,
\v 11 Kìa, dân đến từ Ai Cập đang ngập tràn trong xứ tôi. Hãy đến và rủa sả họ cho tôi. Có thể tôi sẽ dàn xếp đánh họ và đuổi họ đi. ’”
\s5
\v 12 Đức Chúa Trời trả lời Ba-la-am, “Ngươi chớ đi với những kẻ đó. Ngươi chớ rủa dân Y-sơ-ra-ên vì chúng đã được phước. ”
\v 13 Ba-la-am thức dậy vào sáng hôm sau và thuật lại cho các lãnh đạo của Ba-lác, “Hãy trở về xứ các ông vì Đức Giê-hô-va không cho phép tôi đi với các ông. ”
\v 14 Vậy các lãnh đạo Mô-áp ra đi và quay về gặp Ba-lác. Họ tâu, “Ba-la-am không chịu đi cùng chúng tôi.”
\s5
\v 15 Ba-lác lại sai thêm các nhà lãnh đạo là những người được tôn trọng hơn những người trong nhóm đầu tiên.
\v 16 Họ đến gặp Ba-la-am và nói như vầy, “Ba-lác, con trai Xíp-bô, nói rằng, Xin ngươi đừng để điều gì cản trở ngươi đến gặp ta,
\v 17 vì ta sẽ trả công hậu hĩnh cho ngươi và cho ngươi được tôn trọng, ta sẽ làm bất cứ điều gì ngươi bảo ta làm. Vậy hãy đến và rủa sả dân này cho ta.”
\s5
\v 18 Ba-la-am trả lời và nói cùng người của Ba-lác, “Ngay cả nếu Ba-lác cho ta cả cái cung điện đầy bạc và vàng của ông ta, tôi không thể bất tuân lời của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời tôi, và làm ít hơn hay nhiều hơn điều Ngài phán cùng tôi.
\v 19 Vậy bây giờ, xin anh em hãy đợi ở đây trong đêm nay, để tôi xem Đức Giê-hô-va sẽ phán gì với tôi. ”
\v 20 Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am vào ban đêm và phán rằng, “Vì những kẻ này đã đến đặng mời gọi ngươi, hãy đứng dậy và đi cùng chúng. Nhưng chỉ được làm điều Ta dặn ngươi.”
\s5
\v 21 hôm sau, Ba-la-am thức dậy, thắng yên lừa, và đi với các lãnh đạo Mô-áp.
\v 22 Nhưng vì ông lên đường, nên Đức Chúa Trời nổi giận. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường như một người thù nghịch với Ba-la-am, là người đang cưỡi con lừa. Hai tôi tớ của Ba-la-am cũng đang đi với ông.
\v 23 Con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng trên đường với tay người cầm một thanh gươm. Con lừa rẽ khỏi đường và đi vào ruộng. Ba-la-am đánh con lừa để khiến nó quay lại con đường.
\s5
\v 24 Khi đó thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng ở chỗ hẹp của con đường giữa vườn nho và lối đi ở bên phải và lối đi ở bên trái.
\v 25 Con lừa lại thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Nó đi sát vách làm cho chân Ba-la-am kẹt vào vách. Ba-la-am lại đánh nó.
\s5
\v 26 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng xa hơn và đứng ở một chỗ hẹp hơn, là chỗ không có lối rẽ qua bên kia.
\v 27 Con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va, nó quỳ xuống bên dưới Ba-la-am. Ba-la-am liền nổi giận, ông lấy gậy đánh con lừa.
\s5
\v 28 Đức Giê-hô-va mở miệng con lừa khiến nó nói. Nó nói cùng Ba-la-am rằng, “Tôi đã làm gì cho ông mà khiến ông đánh tôi ba lần? ”
\v 29 Ba-la-am trả lời con lừa, “Đó là vì ngươi hành động quá ngu ngốc với ta. Ta ước gì tay ta cầm thanh gươm. Nếu có thật, ta đã giết ngươi rồi. ”
\v 30 Con lừa nói cùng Ba-la-am, “Chẳng phải tôi là con lừa mà ông đã cưỡi suốt từ đó đến giờ? Tôi có thói quen làm những điều như vậy cho ông trước giờ chưa? ” Ba-la-am nói, “Không.”
\s5
\v 31 Rồi Đức Giê-hô-va mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường và tay cầm thanh gươm. Ba-la-am cúi đầu và sấp mặt xuống đất.
\v 32 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán với ông, “Sao ngươi đánh con lừa của ngươi ba lần? Này, ta đến với tư cách là kẻ thù của ngươi vì hành động của ngươi trước mặt ta thật gian ác.
\v 33 Con lừa thấy ta và quay đầu khỏi ta ba lần. Nếu nó không xây khỏi ta, hẳn ta đã giết ngươi rồi để nó sống.”
\s5
\v 34 Ba-la-am trả lời thiên sứ của Đức Giê-hô-va, “Con đã phạm tội. Con không biết là Ngài đang đứng trên đường cản lối con. Bây giờ, nếu chuyến đi này làm Ngài không hài lòng, con sẽ quay về. ”
\v 35 Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói với Ba-la-am, “Hãy đi tiếp với họ. Nhưng ngươi chỉ được nói những lời ta bảo ngươi. ” Vậy Ba-la-am đi cùng các lãnh đạo của Ba-lác.
\s5
\v 36 Khi Ba-lác hay rằng Ba-la-am đã đến, vua ra đón ông ở thành Mô-áp trong xứ Ạc-nôn, ở vùng biên giới.
\v 37 Ba-lác nói với Ba-la-am, “Ta đã không sai người đến triệu tập ngươi sao? Sao ngươi không đến gặp ta? Ta không thể làm cho ngươi được tôn trọng sao?”
\s5
\v 38 Ba-la-am tâu với Ba-lác, “Kìa, tôi đã đến gặp vua. Bây giờ tôi có quyền nói gì chăng? Tôi chỉ có thể nói những lời mà Đức Chúa Trời đặt vào miệng tôi. ”
\v 39 Ba-la-am đi với Ba-lác, và họ tới Ki-ri-át Hu-xốt.
\v 40 Sau đó Ba-lác giết con bò và chiên để cúng và chia thịt cho Ba-la-am và các lãnh đạo đi với ông.
\s5
\v 41 Sáng hôm sau, Ba-lác dẫn Ba-la-am lên miếu thờ Ba-anh. Từ đó, Ba-la-am có thể thấy chỉ một phần trại của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Ba-la-am tâu cùng Ba-lác, “Xin vua dựng cho tôi bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị bảy con bò đực, bảy con chiên đực. ”
\v 2 Vậy Ba-lác làm theo yêu cầu của Ba-la-am. Sau đó, Ba-lác và Ba-la-am dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ.
\v 3 Ba-la-am bảo Ba-lác, “Hãy đứng đó với của lễ thiêu của vua, còn tôi sẽ đi. Có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ đến gặp tôi. Tôi sẽ tâu lại cho vua bất cứ điều gì Ngài tỏ ra cho tôi. ” Vậy ông đi lên đỉnh núi trọc.
\s5
\v 4 Đức Chúa Trời gặp ông, và Ba-la-am thưa cùng Ngài, “Con đã lập bảy bàn thờ, và con đã dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ. ”
\v 5 Đức Giê-hô-va đặt một sứ điệp vào miệng Ba-la-am và phán, “Hãy trở lại gặp Ba-lác và nói với nó. ”
\v 6 Vậy Ba-la-am trở lại gặp Ba-lác khi vua đang đứng bên cạnh của lễ thiêu của mình, và tất cả các lãnh đạo Mô-áp đang đứng đó với vua.
\s5
\v 7 Vậy Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri rằng, “Ba-lác đã đem tôi đến từ A-ram. Vua Mô-áp từ các ngọn núi phương đông. Ông ấy bảo, Hãy đến, rủa sả Gia-cốp cho ta. Hãy đến, thách thức Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Làm sao tôi có thể rủa sả dân mà Đức Chúa Trời không rủa sả? Làm sao tôi có thể chống lại dân mà Đức Giê-hô-va không chống?
\s5
\v 9 Vì từ đỉnh các vầng đá, tôi thấy Ngài; tôi thấy Ngài từ các ngọn đồi. Kìa, có một dân sống một mình và không xem mình là một nước bình thường.
\s5
\v 10 Ai có thể đếm bụi của Gia-cốp hoặc thậm chí đếm một phần tư Y-sơ-ra-ên? Người công bình chết thế nào thì tôi nguyện chết thể ấy!”
\s5
\v 11 Ba-lác bảo Ba-la-am, “Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Ta đã đem ngươi đến để rủa sả kẻ thù của ta, nhưng kìa, ngươi đã chúc phước chúng. ”
\v 12 Ba-la-am trả lời và rằng, “Chẳng lẽ tôi không được cẩn thận nói những lời Đức Giê-hô-va đặt trong miệng mình sao?”
\s5
\v 13 Ba-lác nói với ông, “Hãy đi với ta đến một nơi khác, tại đó ngươi có thể thấy chúng. Ngươi sẽ chỉ thấy chỗ gần nhất của chúng, chứ không phải thấy tất cả. Tại đó ngươi sẽ rủa sả chúng cho ta. ”
\v 14 Vậy ông dẫn Ba-la-am vào cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh Núi Phích-ga, và dựng thêm bảy bàn thờ. Ông dâng lên một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ.
\v 15 Vậy Ba-la-am nói cùng Ba-lác, “Vua hãy đứng đây với của lễ thiêu của vua, trong khi tôi đến gặp Đức Giê-hô-va tại đó.”
\s5
\v 16 Vậy Đức Giê-hô-va gặp Ba-la-am và đặt một sứ điệp vào miệng ông. Ngài phán, “Hãy trở về gặp Ba-lác và nói cho nó biết sứ điệp của Ta. ”
\v 17 Ba-la-am trở lại gặp vua, và kìa, vua đang đứng bên cạnh của lễ thiêu của mình, và các lãnh đạo của Mô-áp đang đứng với vua. Sau đó Ba-lác nói với Ba-la-am, “Đức Giê-hô-va đã phán gì? ”
\v 18 Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri. Ông nói, “Hỡi Ba-lác, hãy đứng dậy và nghe. Hỡi con của Xíp-bô, hãy nghe tôi.
\s5
\v 19 Đức Chúa Trời không phải là người đến nỗi phải nói dối, hoặc là người mà phải đổi ý. Ngài đã hứa điều gì mà không làm sao? Ngài đã nói sẽ thực hiện việc gì mà không làm sao?
\v 20 Kìa, tôi đã được truyền lệnh là phải chúc phước. Đức Chúa Trời đã ban một ơn phước, và tôi không thể đảo ngược.
\s5
\v 21 Ngài không thấy sự gian khổ trong Gia-cốp hoặc khó khăn trong Y-sơ-ra-ên. Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ ở cùng họ, và tiếng reo mừng vua ở giữa họ.
\v 22 Đức Chúa Trời đã đem họ ra khỏi Ai Cập bằng sức mạnh như con bò đực hoang.
\s5
\v 23 Không có yêu thuật nào chống lại Gia-cốp, và không có bói toán nào làm hại Y-sơ-ra-ên. Trái lại, phải nói về Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên rằng, Hãy xem điều Chúa đã làm!
\s5
\v 24 Kìa, một dân nổi lên như sư tử cái, như một con sư tử nổi lên và tấn công. Nó không nằm xuống cho đến khi ăn thịt con mồi và uống huyết con vật nó đã giết.”
\s5
\v 25 Ba-lác bảo Ba-la-am, “Đừng rủa sả hay chúc phước chúng. ”
\v 26 Nhưng Ba-la-am trả lời Ba-lác, “Chẳng phải tôi đã không nói với vua rằng tôi phải nói mọi lời Đức Giê-hô-va bảo tôi nói sao? ”
\v 27 Vậy Ba-lác trả lời Ba-la-am, “Hãy đến đây, ta sẽ dẫn ngươi đến một nơi khác. Có lẽ nơi đó sẽ làm hài lòng Đức Chúa Trời cho phép ngươi rủa sả họ cho ta.
\s5
\v 28 Vậy Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh Núi Phê-ô nhìn xuống hoang mạc.
\v 29 Ba-la-am nói với Ba-lác, “Hãy dựng cho tôi bảy bàn thờ ở đây và chuẩn bị bảy con bò đực, bảy con chiên đực. ”
\v 30 Vậy Ba-lác làm y như Ba-la-am đã nói; ông dâng một con bò đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Khi Ba-la-am thấy rằng Đức Giê-hô-va hài lòng khi ông chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, ông không đi cậy đến bùa chú như những lần khác. Trái lại, ông nhìn về phía hoang mạc.
\s5
\v 2 Ông căng mắt ra và thấy trại của dân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái đều có một khu trại, và Thần của Đức Chúa Trời ngự trên ông.
\v 3 Ông nhận lấy lời tiên tri này và nói, “Ba-la-am, con trai của Bê-ô, sẽ nói, người có mắt mở ra.
\s5
\v 4 Người nói và nghe lời của Chúa. Người thấy một sự hiện thấy từ Đấng Toàn năng, người quỳ xuống và mắt mở ra trước mặt Đấng ấy.
\v 5 Hỡi Gia-cốp, lều của các ngươi đẹp thay, là nơi ngươi sống, hỡi Y-sơ-ra-ên!
\s5
\v 6 Như những thung lũng trải dài, như những khu vườn bên bờ sông, như cây lô hội được Đức Giê-hô-va trồng, như cây tuyết tùng bên dòng nước.
\s5
\v 7 Nước chảy từ gầu, và hạt giống được tưới tiêu. Vua của họ cao hơn vua A-gát, và nước của họ sẽ được tôn trọng.
\s5
\v 8 Đức Chúa Trời đem người ra khỏi Ai Cập. Người có sức mạnh như con bò đực. Người sẽ ăn hết các nước chống lại người. Người sẽ bẻ gãy xương chúng thành từng miếng. Người sẽ lấy tên bắn chúng.
\s5
\v 9 Người thu mình như con sư tử, như một sư tử cái. Ai dám quấy rầy người? Nguyện người nào chúc phước người sẽ được phước; nguyện người nào rủa sả người sẽ bị rủa sả.”
\s5
\v 10 Ba-lác nổi giận bừng bừng với Ba-la-am và ông giận dữ đập tay mình. Ba-lác nói với Ba-la-am, “Ta đã gọi ngươi đến để rủa sả kẻ thù ta, nhưng kìa, ngươi đã chúc phước cho chúng ba lần.
\v 11 Bây giờ hãy lui đi và trở về nhà. Ta đã nói là ta sẽ thưởng lớn cho ngươi, nhưng Đức Giê-hô-va đã ngăn không cho ngươi được thưởng.”
\s5
\v 12 Ba-la-am trả lời Ba-lác, “Tôi đã nói với các sứ giả mà vua đã sai đến gặp tôi,
\v 13 Ngay cả nếu Ba-lác ban cho ta cả cung điện bằng bạc và vàng, tôi cũng không thể vượt ra khỏi lời của Đức Giê-hô-va và bất cứ điều xấu hay điều tốt nào, và bất cứ điều gì mà tôi không muốn làm. Tôi chỉ có thể nói điều Đức Giê-hô-va phán với tôi. Chẳng phải tôi đã nói với họ sao?
\v 14 Vậy bây giờ, tôi sẽ trở về dân tôi. Nhưng trước hết, tôi cảnh báo vua về điều dân này sẽ gây ra trên dân của vua trong những ngày tới.”
\s5
\v 15 Ba-la-am bắt đầu nói tiên tri. Ông nói rằng, “Ba-la-am con trai Bê-ô nói, người mà có mắt mở ra.
\v 16 Đây là lời tiên tri của người nghe lời từ Đức Chúa Trời, có kiến thức từ Đấng Chí Cao, và có khải tượng từ Đấng Toàn năng, là Đấng mà người quỳ xuống mở mắt ra trước mặt.
\s5
\v 17 Tôi thấy Ngài. Nhưng Ngài không ở đây. Tôi nhìn Ngài, nhưng Ngài không ở gần. Một ngôi sao sẽ ra từ Gia-cốp, và một ngôi vua sẽ nổi lên từ Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ làm tan lạc các lãnh đạo của Mô-áp và hủy diệt tất cả con cháu của Sết.
\s5
\v 18 Vậy Ê-đôm sẽ trở thành tài sản của Y-sơ-ra-ên, và Si-ơ cũng sẽ trở thành tài sản của kẻ thù của Y-sơ-ra-ên, là kẻ mà Y-sơ-ra-ên sẽ chinh phục bằng vũ lực.
\v 19 Từ Gia-cốp sẽ ra một vua thống trị, và Ngài sẽ hủy diệt những cư dân còn sót lại trong thành.”
\s5
\v 20 Rồi Ba-la-am nhìn A-ma-léc và bắt đầu nói lời tiên tri của mình. Ông nói, “A-ma-léc từng là quốc gia hùng mạnh nhất, nhưng ngày cuối cùng của nó sẽ là ngày hủy diệt.”
\s5
\v 21 Vậy Ba-la-am nhìn về phía dân Kê-ni-át và bắt đầu nói tiên tri. Ông nói, “Nơi ngươi đang sống là chỗ mạnh mẽ, và tổ của ngươi ở trên vầng đá.
\v 22 Tuy nhiên, Ca-in sẽ bị phá hủy khi người A-sy-ri bắt ngươi làm phu tù.”
\s5
\v 23 Vậy Ba-la-am bắt đầu nói lời tiên tri cuối. Ông nói: Khốn thay! Ai sẽ sống sót khi Đức Chúa Trời làm như vầy?
\v 24 Tàu thuyền sẽ rời khỏi cảnh Kit-tim; chúng sẽ tấn công A-sy-ri-a và chinh phục được Ê-be, nhưng họ sẽ kết thúc bằng sự hủy diệt. ”
\v 25 Sau đó Ba-la-am thức dậy sớm và rời đi. Ông trở về nhà mình và Ba-lác cũng bỏ đi.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Dân Y-sơ-ra-ên ở tại Si-tim, và đàn ông bắt đầu ngủ chung với phụ nữ Mô-áp,
\v 2 vì dân Mô-áp mời gọi dân sự dự những của cúng các thần của họ. Vậy dân sự ăn uống và quỳ lạy các thần của dân Mô-áp.
\v 3 Đàn ông Y-sơ-ra-ên tham gia thờ cúng Ba-anh Phê-ô, vì vậy cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi bừng trên dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy giết tất cả các lãnh đạo trong dân và treo lên trước mặt Ta vào ban ngày hầu cho cơn giận dữ của Ta xây khỏi Y-sơ-ra-ên. ”
\v 5 Vậy Môi-se bảo các lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, “Ai trong chi tộc mình đã thờ cúng Ba-anh Phê-ô thì phải bị xử tử.”
\s5
\v 6 Bấy giờ, một người trong số những người đàn ông Y-sơ-ra-ên bước đến và dẫn theo một người nữ Mi-đi-an trong vòng bà con mình đến trước mặt Môi-se và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ khóc lóc ở lối vào lều hội họp.
\v 7 Khi Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu thầy tế lễ A-rôn, thấy điều đó, liền đứng dậy từ giữa hội chúng, trong tay ông cầm một cây giáo.
\s5
\v 8 Ông theo người nam Y-sơ-ra-ên vào trong lều và dùng giáo đâm xuyên qua người nam Y-sơ-ra-ên và người nữ đó. Vậy, tai họa mà Đức Chúa Trời đã giáng trên dân bèn Y-sơ-ra-ên dừng lại.
\v 9 Số người chết bởi tai họa đó là 24. 000 người.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 11 “Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu thầy tế lễ A-rôn, đã làm Ta nguôi giận dân Y-sơ-ra-ên vì người nhiệt tình vì Ta giữa vòng dân sự. Vậy Ta không tiêu diệt dân Y-sơ-ra-ên nữa.
\s5
\v 12 Ngươi hãy nói rằng, Đức Giê-hô-va có phán, “Kìa, Ta sẽ ban cho Phi-nê-a giao ước bình an của Ta.
\v 13 Ấy sẽ là một giao ước tế lễ đời đời dành cho người và con cháu người, vì người đã thể hiện lòng sốt sắng vì Ta, là Đức Chúa Trời của người. Người đã chuộc tội thay cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 14 Khi đó, người nam Y-sơ-ra-ên bị giết cùng người nữ Mi-đi-an tên là Xim-ri, con trai Sa-lu, lãnh đạo của một gia tộc trong chi phái Si-mê-ôn.
\v 15 Người nữ Mi-đi-an bị giết tên là Cốt-bi, con gái của Xu-rơ, trưởng một chi phái và gia tộc ở Mi-đi-an.
\s5
\v 16 Vậy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 17 “Hãy coi dân Mi-đi-an như là kẻ thù và tấn công chúng,
\v 18 vì chúng đã xem các ngươi giống như kẻ thù và lừa dối các ngươi. Chúng đã dẫn dụ các ngươi vào con đường xấu xa trong vụ của Phê-ô và chị của chúng là Cốt-bi, con gái của một trưởng tộc ở Mi-đi-an, là kẻ đã bị giết trong ngày xảy ra tai vạ vì Phê-ô.”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Sau khi tai vạ đã qua đi, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn. Ngài nói rằng,
\v 2 thống kê tất cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, từ hai mươi tuổi trở lên, theo gia tộc, tức những người có thể ra trận chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 3 Vậy Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thuật lại với họ ở đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô rằng,
\v 4 “Hãy thống kê số người từ hai mươi tuổi trở lên, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên, mà đã ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 5 Ru-bên là con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên. Hê-nóc, con trai ông, sinh ra dòng họ Hê-nóc. Pha-lu sinh ra dòng họ Pha-lu.
\v 6 Hẹt-rôn sinh ra dòng họ Hẹt-rôn. Cạt-mi sinh ra dòng họ Cạt-mi.
\v 7 Đây là những dòng họ của con cháu Ru-bên, số là 43. 730 người.
\s5
\v 8 Ê-li-áp là con trai của Pha-lu.
\v 9 Con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram là hai người đã theo Cô-ra thách thức Môi-se và A-rôn đồng thời nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê khiến tất cả những người theo ông đều chết. Khi đó, lửa thiêu đốt 250 người để cảnh cáo.
\v 11 Nhưng dòng họ của Cô-rê không chết hết.
\s5
\v 12 Dòng họ của con cháu Si-mê-ôn gồm: Nê-mu-ên sinh ra dòng họ Nê-mu-ên, Gia-min sinh ra dòng họ Gia-min, Gia-kin sinh ra dòng họ Gia-kin,
\v 13 Xê-rách sinh ra dòng họ Xê-rách, Sau-lơ sinh ra dòng họ Sau-lơ.
\v 14 Đây là những dòng họ của con cháu Si-mê-ôn, số là 22. 200 người.
\s5
\v 15 Các dòng họ của con cháu Gát bao gồm: Xê-phôn sinh ra dòng họ Xê-phôn, Ha-ghi sinh ra dòng họ Ha-ghi, Su-ni sinh ra dòng họ Su-ni,
\v 16 Ô-ni sinh ra dòng họ Ô-ni, Ê-ri sinh ra dòng họ Ê-ri,
\v 17 A-rốt sinh ra dòng họ A-rốt, A-rê-li sinh ra dòng họ A-rê-li.
\v 18 Đây là các dòng họ của con cháu Gát, số là 40. 500 người.
\s5
\v 19 Ê-rơ và Ô-nan là con trai của Giu-đa, nhưng họ đã chết trong xứ Ca-na-an.
\v 20 Các dòng họ từ những con cháu khác của Giu-đa gồm: Sê-la sinh ra dòng họ Sê-la, Phê-rê sinh ra dòng họ Phê-rê, và Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra.
\v 21 Con cháu của Phê-rê gồm: Hẹt-rôn sinh ra dòng họ Hẹt-rôn, Ha-mun sinh ra dòng họ Ha-mun.
\v 22 Đây là các dòng họ của con cháu Giu-đa, số là 76. 500 người.
\s5
\v 23 Các dòng họ của con cháu Y-sa-ca gồm: Tô-la sinh ra dòng họ Tô-la, Phu-va sinh ra dòng họ Phu-va,
\v 24 Gia-súp sinh ra dòng họ Gia-súp, Sim-rôn sinh ra dòng họ Sim-rôn.
\v 25 Đây là các dòng họ của Y-sa-ca, số là 64. 300 người.
\s5
\v 26 Các dòng họ của con cháu Sa-bu-lôn gồm: Sê-rết sinh ra dòng họ Sê-rết, Ê-lôn sinh ra dòng họ Ê-lôn, Gia-lê-ên sinh ra dòng họ Gia-lê-ên.
\v 27 Đây là các dòng họ của người Sa-bu-lôn, số là 60. 500 người.
\s5
\v 28 Các dòng họ của con cháu Giô-sép là Ma-na-se và Ép-ra-im.
\v 29 Con cháu của Ma-na-se gồm: Ma-ki sinh ra dòng họ Ma-ki (Ma-ki là cha của Ghi-lê-át), Ghi-lê-át sinh ra dòng họ Ghi-lê-át.
\s5
\v 30 Con cháu của Ghi-lê-át gồm: Y-ê-xê sinh ra dòng họ Y-ê-xê, Hê-léc sinh ra dòng họ Hê-léc,
\v 31 A-ri-ên sinh ra dòng họ A-ri-ên, Si-chem sinh ra dòng họ Si-chem,
\v 32 Sê-mi-đa sinh ra dòng họ Sê-mi-đa, Hê-phe sinh ra dòng họ Hê-phe.
\s5
\v 33 Xê-lô-phát con trai Hê-phe không có con trai, nhưng chỉ có con gái. Các con gái của ông tên là Ma-la, Nô-ê, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa.
\v 34 Đây là các dòng họ của Ma-na-se, số là 52. 700 người.
\s5
\v 35 Các dòng họ của con cháu Ép-ra-im gồm: Su-thê-la sinh ra dòng họ Su-thê-la, Bê-che sinh ra dòng họ Bê-che, Ta-han sinh ra dòng họ Ta-han.
\v 36 Con cháu của Su-thê-la gồm Ê-ran sinh ra dòng họ Ê-ran.
\v 37 Đây là các dòng họ của con cháu Ép-ra-im, số là 32. 500 người. Họ là con cháu của Giô-sép, thống kê theo từng dòng họ.
\s5
\v 38 Dòng họ của con cháu Ben-gia-min gồm: Bê-la sinh ra dòng họ Bê-la, Ách-bên sinh ra dòng họ Ách-bên, A-hi-ram sinh ra dòng họ A-hi-ram,
\v 39 Sê-phu-pham sinh ra dòng họ Sê-phu-pham, Hu-pham sinh ra dòng họ Hu-pham.
\v 40 Con trai của Bê-la là A-rết và Na-a-man. A-rết sinh ra dòng họ A-rết, và Na-a-man sinh ra dòng họ Na-a-man.
\v 41 Đây là các dòng họ của con cháu Bên-gia-min. Có 45. 600 người.
\s5
\v 42 Các dòng họ của con cháu Đan gồm: Su-ham sinh ra dòng họ Su-ham. Đây là các dòng họ của con cháu Đan.
\v 43 Có 64. 400 người trong số tất cả các dòng họ của Su-ham.
\s5
\v 44 Các dòng họ của con cháu A-se gồm: Im-na sinh ra dòng họ Im-na, Ích-vi sinh ra dòng họ Ích-vi, Bê-ri-a sinh ra dòng họ Bê-ri-a.
\v 45 Con cháu của Bê-ri-a gồm: Hê-be sinh ra dòng họ Hê-be, Manh-ki-ên sinh ra dòng họ Manh-ki-ên.
\v 46 Con gái của A-se là Sê-ra.
\v 47 Đây là các dòng họ của con cháu A-se, số là 53. 400 người.
\s5
\v 48 Các dòng họ của con cháu Nép-ta-li gồm: Gia-xê-ên sinh ra dòng họ Gia-xê-ên, Gu-ni sinh ra dòng họ Gu-ni,
\v 49 Giê-xơ sinh ra dòng họ Giê-xơ, Si-lem sinh ra dòng họ Si-lem.
\v 50 Đây là các dòng họ của con cháu Nép-ta-li, số là 45. 400 người.
\s5
\v 51 Tổng cộng chính thức có 601. 730 người được thống kê trong dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 52 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 53 “Xứ phải được chia cho những người này làm sản nghiệp theo số và tên của họ.
\s5
\v 54 Dòng họ nào đông hơn sẽ nhận được nhiều sản nghiệp hơn, và dòng họ nào ít hơn sẽ nhận được ít sản nghiệp hơn. Với mỗi gia đình, ngươi phải ban sản nghiệp tùy theo số người được thống kê.
\v 55 Tuy nhiên, xứ sẽ phải được phân chia bằng cách bốc thăm. Họ phải thừa hưởng xứ đó theo chi phái của mình.
\v 56 Sản nghiệp của họ phải được chia giữa dòng họ đông hơn và dòng họ ít hơn, theo kết quả bốc thăm.”
\s5
\v 57 Dòng họ Lê-vi, được tính theo từng dòng họ, bao gồm: Ghẹt-sôn sinh ra họ Ghẹt-sôn, Kê-hát sinh ra họ Kê-hát, Mê-ra-ri sinh ra họ Mê-ra-ri. Kê-hát là tổ tiên của Am-ram.
\v 58 Dòng họ của Lê-vi gồm: dòng họ Líp-ni, dòng họ Hép-rôn, dòng họ Mách-li, dòng họ Mu-si, dòng họ Cô-rê. Kê-hát là tổ phụ của Am-ram.
\v 59 Giô-kê-bết là vợ của Am-ram, con cháu của Lê-vi, được sinh ra trong xứ Ai Cập. Nàng sinh cho Am-ram các con là A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am là chị của hai ông.
\s5
\v 60 A-rôn sinh ra Na-đáp và A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
\v 61 Na-đáp và A-bi-hu chết khi họ dâng trước mặt Đức Giê-hô-va một thứ lửa lạ.
\v 62 Số người nam từ một tháng tuổi trở lên được thống kê trong vòng con cháu Y-sơ-ra-ên là 23. 000 người. Nhưng họ không được thống kê giữa con cháu Y-sơ-ra-ên vì họ không được hưởng sản nghiệp nào cả.
\s5
\v 63 Đây là những người mà Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thống kê. Họ thống kê dân Y-sơ-ra-ên trong đồng bằng Mô-áp, bên cạnh Giô-đanh ở Giê-ri-chô.
\v 64 Nhưng trong số này không có ai được Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thống kê khi con cháu Y-sơ-ra-ên được thống kê trong hoang mạc Si-nai.
\s5
\v 65 Vì Đức Giê-hô-va đã phán rằng tất cả những người đó chắc chắn sẽ chết trong hoang mạc. Không còn người nào trong số họ còn sống sót, ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê và Giô-suê con trai Nun.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Bấy giờ các con gái của Xê-lô-phê-hát, con trai Hê-phe, cháu Ghi-lê-át, chắt của Ma-ki, chít của Ma-na-se, thuộc dòng họ Ma-na-se, con trai Giô-sép, đến gặp Môi-se. Đây là tên các con gái của ông: Ma-la, Nô-ê, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa.
\s5
\v 2 Họ đứng trước mặt Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các lãnh đạo, và toàn thể hội chúng ở lối vào lều hội họp. Họ nói,
\v 3 “Cha chúng tôi đã chết trong hoang mạc. Ông ấy không hùa theo mấy kẻ nổi loạn thuộc phe Cô-ra chống đối Đức Giê-hô-va. Ông chết vì tội của mình; chính vì tội lỗi của ông mà ông đã chết.
\s5
\v 4 Tại sao tên của cha chúng tôi bị loại khỏi danh sách dòng họ ông ấy chỉ vì ông không có con trai? Hãy chia xứ cho chúng tôi giữa họ hàng của cha chúng tôi. ”
\v 5 Vậy Môi-se đem thưa với Đức Giê-hô-va về tình cảnh của họ.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 7 “Các con gái của Xê-lô-phê-hát nói đúng đó. Chắc chắn ngươi phải chia xứ cho họ làm sản nghiệp giữa bà con của cha họ, và ngươi phải đảm bảo rằng họ được nhận sản nghiệp của cha họ.
\v 8 Ngươi phải nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Nếu người nam nào không có con trai, anh em phải trao sản nghiệp của người cho con gái người.
\s5
\v 9 Nếu người không có con gái, anh em phải trao sản nghiệp của người cho các anh em người.
\v 10 Nếu người không có anh em, anh em phải trao sản nghiệp cho các chú bác người.
\v 11 Nếu cha người không có anh em, anh em phải trao sản nghiệp của người cho người bà con gần nhất trong dòng họ của người, và người đó phải nhận sản nghiệp được chia. Đây là luật áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho tôi. ’”
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy lên núi A-ba-rim rồi nhìn xứ mà Ta đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên.
\v 13 Sau khi xem xứ ấy, ngươi cũng sẽ trở về với tổ phụ, như A-rôn là anh ngươi.
\v 14 Việc này sẽ xảy ra vì ngươi đã cãi lệnh Ta truyền trong hoang mạc Sin. Tại đó, ngươi đã giận dữ mà không tôn kính Ta nên thánh trước mặt cả hội chúng, khi nước chảy ra từ vầng đá. ” Đó là nước ở Mê-ri-ba tại Ca-đe trong hoang mạc Sin.
\s5
\v 15 Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va,
\v 16 “Lạy Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của thần linh trên mọi loài xác thịt, xin Chúa lập một người cai quản hội chúng,
\v 17 là người có thể ra vào trước mặt họ, dẫn họ ra, đưa họ vào, đặng hội chúng của Ngài sẽ không như chiên thiếu người chăn.”
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, “Hãy chọn Giô-suê, con trai của Nun, là người được Thần Ta ngự, và đặt tay ngươi trên người.
\v 19 Hãy dẫn người đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và trước mặt hội chúng, rồi truyền lệnh cho người trước mặt họ.
\s5
\v 20 Ngươi phải trao một phần thẩm quyền của ngươi trên người, đặng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên vâng phục người.
\v 21 Người sẽ đi trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa đặng tìm kiếm ý muốn Ta bày tỏ với người qua những quyết định của U-rim. Người sẽ ra lệnh dân sự đi ra và đi vào. tất cả dân Y-sơ-ra-ên ở bên cạnh người, cả hội chúng.”
\s5
\v 22 Vậy Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. Ông dẫn Giô-suê đến ra mắt trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả hội chúng.
\v 23 Ông đặt tay trên người và truyền cho người lãnh đạo, như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng, Các ngươi phải dâng lễ vật cho Ta theo kỳ đã định, tức thực phẩm của các của dâng bằng lửa có mùi thơm cho Ta.
\s5
\v 3 Ngươi cũng hãy bảo họ rằng, Đây là của lễ các ngươi phải dâng bằng lửa cho Đức Giê-hô-va mỗi ngày dâng hai chiên con đực một tuổi lành lặn làm của lễ thiêu hàng ngày.
\v 4 Các ngươi phải dâng một chiên con vào buổi sáng, và một chiên con vào buổi chiều.
\v 5 Hãy dâng một phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay, trộn với một phần tư hin dầu ép.
\s5
\v 6 Đây là của lễ thiêu hàng ngày đã được truyền tại Núi Si-nai, tức của lễ thiêu có mùi thơm dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va.
\v 7 Của lễ quán kèm theo sẽ bằng một phần tư hin rượu cho mỗi chiên con. Của lễ quán bằng rượu mạnh sẽ được đổ ra trong nơi thánh cho Đức Giê-hô-va.
\v 8 Dâng chiên con còn lại vào buổi chiều cùng với một của lễ chay khác giống như của lễ được dâng vào buổi sáng. Cũng hãy dâng một của lễ quán khác kèm theo, tức của lễ dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Vào ngày Sa-bát, các ngươi phải dâng hai chiên con đực một tuổi lành lặn, và hai phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay, trộn với dầu, và của lễ quán kèm theo.
\v 10 Đây sẽ là của lễ thiêu vào mỗi ngày Sa-bát, bên cạnh của lễ thiêu hàng ngày và của lễ quán kèm theo.
\s5
\v 11 Đầu mỗi tháng, các ngươi phải dâng một của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va gồm hai con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi lành lặn.
\v 12 Cũng hãy dâng ba phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay trộn với dầu cho mỗi con bò đực, và hai phần mười bột lọc làm của lễ chay trộn với dầu cho mỗi con chiên đực.
\v 13 Cũng phải dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn với dầu làm của lễ chay cho từng chiên con. Đây là của lễ thiêu có mùi thơm dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 14 Của lễ quán của dân sự phải bằng nửa hin rượu cho mỗi con bò đực, một phần ba hin cho mỗi con chiên đực, và một phần tư hin cho mỗi chiên con. Đây là của lễ thiêu hàng tháng trong năm.
\v 15 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ quán kèm theo.
\s5
\v 16 Ngày mười bốn tháng giêng sẽ là Lễ Vượt qua.
\v 17 Ngày mười lăm tháng giêng sẽ là ngày lễ. Các ngươi phải ăn bánh không men trong bảy ngày.
\v 18 Ngày thứ nhất, các ngươi sẽ có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Trong ngày đó các ngươi chớ làm việc thường nhật nào.
\s5
\v 19 Tuy nhiên, các ngươi phải dâng một lễ vật bằng lửa, tức là của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. Các ngươi phải dâng hai con bò đực con, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi, mỗi con đều lành lặn.
\v 20 Kèm theo con bò đực, các ngươi phải dâng một của lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu, và hai phần mười cho con chiên đực.
\v 21 Dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi con trong số bảy chiên con,
\v 22 và một con dê đực làm của lễ chuộc tội để chuộc tội cho các ngươi.
\s5
\v 23 Các ngươi phải dâng các của lễ này ngoài của lễ thiêu thường lệ vào mỗi buổi sáng.
\v 24 Như đã mô tả, các ngươi phải dâng những của lễ này trong suốt bảy ngày vào dịp Lễ Vượt qua, tức là thực phẩm dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Của lễ đó phải được dâng ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ quán kèm theo.
\v 25 Ngày thứ bảy, các ngươi phải có buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va, các ngươi chớ làm việc thường nhật nào trong bữa đó.
\s5
\v 26 Ngoài ra, trong ngày thu hoạch đầu tiên, khi các ngươi dâng của lễ chay mới cho Đức Giê-hô-va nhân dịp Lễ các Tuần, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va, và chớ làm việc gì thường nhật gì trong ngày đó.
\v 27 Các ngươi phải dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm hai con bò đực con, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi.
\v 28 Cũng hãy dâng của lễ chay kèm theo: bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi con bò đực và hai phần mười cho mỗi con chiên đực.
\s5
\v 29 Hãy dâng một phần mười ê-pha bột lọc trộn dầu cho mỗi chiên con,
\v 30 và một con dê đực để chuộc tội cho mình.
\v 31 các ngươi dâng những con vật lành lặn đó, kèm theo của lễ quán của chúng, thì đây là những của lễ phải dâng ngoài của lễ thiêu thường lệ và của lễ chay kèm theo. ’”
\s5
\c 29
\p
\v 1 “Ngày một tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Chớ làm công việc thường nhật trong ngày này. Đó sẽ là ngày các ngươi thổi kèn.
\s5
\v 2 Hãy dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi lành lặn.
\s5
\v 3 Kèm theo là của lễ chay, bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho con chiên đực,
\v 4 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số bảy chiên con đực.
\v 5 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội cho mình.
\s5
\v 6 Hãy dâng các của lễ này vào tháng bảy ngoài các của lễ được dâng vào ngày một hàng tháng: của lễ thiêu đặc biệt và của lễ chay kèm theo. Đây sẽ là những của lễ ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán. Các của lễ phải được dâng bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va theo quy định.
\s5
\v 7 Vào ngày mười tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Các ngươi phải hạ mình và chớ làm việc gì.
\v 8 Hãy dâng một của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va gồm một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi. Mỗi con phải lành lặn.
\s5
\v 9 Hãy dâng kèm theo một của lễ chay, bột lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho một con chiên đực,
\v 10 và một phần mười ê-pha cho mỗi trong số bảy chiên con đực.
\v 11 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội. Đây là của lễ ngoài của lễ chuộc tội, của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 12 Vào ngày mười lăm tháng bảy, các ngươi phải có một buổi nhóm họp thánh cho Đức Giê-hô-va. Chớ làm công việc thường nhật gì trong ngày này, các ngươi phải giữ lễ cho Ngài trong bảy ngày.
\v 13 Hãy dâng một của lễ thiêu bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Dâng mười ba con bò đực con, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi. Mỗi con phải lành lặn.
\s5
\v 14 Kèm theo là một của lễ chay, bộc lọc trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho mỗi con trong số mười ba con bò đực, hai phần mười ê-pha cho mỗi con trong số hai con chiên đực,
\v 15 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số mười bốn chiên con.
\v 16 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán kèm theo.
\s5
\v 17 Vào ngày nhóm họp thứ nhì, các ngươi hãy dâng mười hai con bò đực con, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi lành lặn.
\v 18 Kèm theo là một của lễ chay và của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 19 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 20 Vào ngày nhóm họp thứ ba, các ngươi phải dâng mười một con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\v 21 Các ngươi phải dâng kèm theo một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, như đã truyền.
\v 22 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 23 Vào ngày nhóm họp thứ tư, hãy dâng mười con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\v 24 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 25 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 26 Vào ngày nhóm họp thứ năm, các ngươi phải dâng chín con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\v 27 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 28 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 29 Vào ngày nhóm họp thứ sáu, các ngươi phải dâng tám con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\v 30 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 31 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 32 Vào ngày nhóm họp thứ bảy, các ngươi phải dâng bảy con bò đực, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\v 33 Các ngươi phải dâng kèm theo chúng một của lễ chay và các của lễ quán cho các con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 34 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội ngoài của lễ thiêu thường lệ, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 35 Vào ngày thứ tám, các ngươi phải có một buổi nhóm họp khác. Các ngươi chớ làm việc gì trong ngày đó.
\v 36 Hãy dâng một của lễ thiêu bằng lửa có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Hãy dâng một con bò đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực một tuổi, mỗi con phải lành lặn.
\s5
\v 37 Các ngươi phải dâng của lễ chay và các của lễ quán cho con bò đực, chiên đực, và chiên con, theo như đã truyền.
\v 38 Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội bên cạnh của lễ thiêu thường niên, của lễ chay, và của lễ quán.
\s5
\v 39 Đây là những của lễ các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va vào các kỳ lễ đã định. Đó phải là những của lễ ngoài những lời thề nguyện và của lễ lạc ý của các ngươi. Các ngươi phải dâng như của lễ thiêu, của lễ chay, của lễ quán, và của lễ thù ân. ”
\v 40 Môi-se thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên mọi điều Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Môi-se nói với các trưởng chi phái của dân Y-sơ-ra-ên rằng, “Đây là lời Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 2 Khi một ai hứa nguyện với Đức Giê-hô-va, hoặc lấy lời thề ràng buộc mình với lời hứa, thì không được nuốt lời mình. Người phải giữ lời hứa và làm theo mọi điều đã ra khỏi miệng mình.
\s5
\v 3 Khi một thiếu nữ sống trong nhà cha nàng có hứa nguyện với Đức Giê-hô-va và lấy lời thề ràng buộc mình với lời hứa đó,
\v 4 nếu cha nàng nghe lời thề và lời hứa mà nàng đã buộc mình, và nếu cha nàng không phản đối, thì tất cả lời hứa nguyện của nàng sẽ vẫn có hiệu lực. Mỗi lời hứa mà nàng buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực.
\s5
\v 5 Nhưng nếu cha nàng nghe lời thề và lời hứa của nàng, và nếu ông không nói gì, thì mọi lời thề và lời hứa mà nàng đã buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực.
\s5
\v 6 Tuy nhiên, nếu cha nàng nghe mọi lời thề và lời hứa long trọng của nàng mà nàng đã buộc mình, và nếu cha nàng cấm nàng trong ngày hôm đó, thì những lời ấy sẽ không còn hiệu lực. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội cho nàng vì cha nàng cấm nàng.
\v 7 Nếu nàng cưới chồng đang khi nàng còn bị ràng buộc với những lời thề đó, hoặc nếu nàng lỡ lời mà hứa bằng điều nàng ép buộc mình, thì nàng vẫn sẽ có trách nhiệm phải thực hiện.
\s5
\v 8 Nhưng nếu chồng nàng không tán thành khi nghe lời đó, hủy lời thề mà nàng đã nói, tức lời mà nàng đã hấp tấp nói ra khiến mình bị buộc. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội nàng.
\s5
\v 9 Nhưng đối với góa phụ hoặc phụ nữ đã ly dị, mọi lời nàng đã buộc mình sẽ vẫn còn hiệu lực.
\v 10 Và nếu một người nữ thề trong khi có chồng - nếu nàng buộc mình bằng lời hứa với lời thề,
\v 11 và chồng nàng nghe có nghe nhưng không nói gì nếu chồng không hủy lời thề của nàng, thì mọi lời thề của nàng sẽ còn hiệu lực. Mọi lời hứa mà nàng đã buộc mình vẫn còn hiệu lực.
\s5
\v 12 Nhưng nếu chồng nàng hủy những lời ấy ngay khi nghe được, thì bất cứ điều gì mà môi nàng đã khấn hứa hoặc thề sẽ không còn hiệu lực. Chồng nàng đã hủy chúng. Đức Giê-hô-va sẽ tha tội nàng.
\s5
\v 13 Mọi lời thề hay lời hứa mà nàng đã buộc phải tự từ bỏ điều gì đó có thể được chồng nàng tán thành hoặc hủy.
\v 14 Nhưng nếu hôm sau chàng không nói gì với nàng, thì chàng tán thành mọi lời thề và lời hứa mang tính ràng buộc mà nàng đã nói. Chàng đã tán thành vì chàng không có ý kiến gì với nàng khi nghe những lời đó.
\s5
\v 15 Và nếu về sau chồng nàng cố hủy lời thề của vợ mình sau khi đã nghe, thì chàng sẽ chịu trách nhiệm về tội của nàng. ”
\v 16 Đây là những giới luật mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se thông báo là những giới luật về những vấn đề giữa người nam và vợ mình và giữa người cha và con gái mình khi nàng còn thơ ấu sống ở trong nhà cha nàng.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 2 “Hãy trả thù dân Mi-đi-an cho Y-sơ-ra-ên, rồi ngươi sẽ chết và trở về cùng tổ phụ.”
\s5
\v 3 Vậy Môi-se thuật lại với dân sự. Ông nói rằng, “Anh em hãy trang bị vũ khí để ra trận đánh dân Ma-đi-an đặng báo thù dân đó cho Đức Giê-hô-va.
\v 4 Mỗi chi phái trong Y-sơ-ra-ên phải gửi một ngàn lính ra trận. ”
\v 5 Vậy dân Y-sơ-ra-ên tuyển một hàng ngàn lính, mỗi chi phái gửi một ngàn lính ra trận, tổng cộng có mười hai ngàn lính.
\s5
\v 6 Sau đó, Môi-se sai họ ra trận, mỗi chi phái một ngàn người, ra trận cùng với Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, họ đem theo một số đồ dùng của nơi thánh và kèn có tiếng vang.
\v 7 Họ tấn công dân Mi-đi-an, theo lệnh Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se. Họ giết quân thù.
\v 8 Họ giết các vua Mi-đi-an cùng với những người khác: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba, là năm vua Mi-đi-an. Họ cũng dùng gươm giết Ba-la-am, con trai Bê-ô.
\s5
\v 9 Quân Y-sơ-ra-ên bắt phụ nữ Mi-đi-an, trẻ em làm tù binh, họ cướp đoạt hết thảy gia súc, bầy chiên, đàn bò và của cải.
\v 10 Họ phóng hỏa tất cả thành trì và trại của quân thù.
\s5
\v 11 Họ cướp chiến lợi phẩm và tù nhân, cả người và động vật.
\v 12 Họ đem tù nhân, của cải và những thứ thu được cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ đem đến trại ở đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.
\s5
\v 13 Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và tất cả các lãnh đạo của hội chúng ra đón họ ở bên ngoài trại.
\v 14 Nhưng Môi-se giận các sĩ quan quân đội, các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn lính và sĩ quan chỉ huy hàng trăm quân, tức là những người đã ra trận.
\v 15 Môi-se bảo họ, “Các ông tha mạng cho tất cả người nữ đó sao?
\s5
\v 16 Kìa, những người nữ này đã theo lời khuyên của Ba-la-am, khiến dân Y-sơ-ra-ên phạm tội phản bội Đức Giê-hô-va trong vụ Phê-ô, xui cho tai vạ lan khắp hội chúng của Đức Giê-hô-va.
\v 17 Vậy bây giờ, hãy giết các con trai trong số bọn con trẻ, và giết người nữ nào đã từng ngủ với người nam.
\s5
\v 18 Nhưng hãy chừa lại những thiếu nữ chưa ngủvới người nam nào.
\v 19 Anh em phải cắm trại bên ngoài trại của Y-sơ-ra-ên trong bảy ngày. Tất cả anh em, anh em và các tù nhân, ai có giết người hoặc đụng vào xác chết phải tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy.
\v 20 Cũng hãy làm sạch quần áo mình, những thứ làm bằng da thuộc và lông dê, và những thứ bằng gỗ.”
\s5
\v 21 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ, “Đây là luật Đức Giê-hô-va ban cho Môi-se:
\v 22 Vàng, bạc, đồng, sắc, thiếc, và chì,
\v 23 và những thứ chịu lửa, phải được thử qua lửa, rồi chúng sẽ tinh sạch. Sau đó anh em phải thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Bất cứ vật gì không thể được đưa qua lửa phải được rửa bằng nước đó.
\v 24 Anh em phải giặt quần áo mình vào ngày thứ bảy để tinh sạch và sau đó có thể vào trại Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se,
\v 26 “Hãy thống kê tất cả các chiến lợi phẩm, cả người và động vật. Ngươi, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các trưởng chi tộc trong hội chúng
\v 27 phải chia chiến lợi phẩm thành hai phần. Một phần thuộc về binh lính đã chiến đấu và phần còn lại được chi cho hội chúng.
\s5
\v 28 Sau đó, thu thuế của binh lính đã ra trận theo tỷ lệ là một phần năm trăm, dù là người, súc vật, lừa, chiên, hay dê.
\v 29 Trích phân nửa thuế này đưa cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa để dâng cho Ta.
\s5
\v 30 Cũng vậy, hãy trích từ phân nửa thuế của dân Y-sơ-ra-ên, dù là người, gia súc, lừa, chiên, và dê. Hãy đưa cho người Lê-vi là người phụ trách đền tạm. ”
\v 31 Vậy Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm y như lời Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\v 32 Bấy giờ chiến lợi phẩm còn lại mà binh lính đã đem về là 675. 000 con chiên,
\v 33 72. 000 con bò,
\v 34 61. 000 con lừa,
\v 35 và 32. 000 người nữ chưa từng ngủ với người nam nào.
\s5
\v 36 Một nửa còn lại được dành cho binh lính là 337. 000 con chiên.
\v 37 Số chiên dâng cho Đức Giê-hô-va là 675 con.
\v 38 Số bò là 36. 000, thuế dâng cho Đức Giê-hô-va là 72 con.
\s5
\v 39 Lừa là 30. 500 con, thuế dâng cho Đức Giê-hô-va là 61 con.
\v 40 Có 16. 000 người nữ, trong đó có 32 người được dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 41 Môi-se nhận phần thuế được dâng cho Đức Giê-hô-va. Ông trao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, như lệnh Đức Giê-hô-va đã truyền.
\s5
\v 42 Một nửa dành cho dân Y-sơ-ra-ên mà Môi-se đã nhận từ binh lính ra trận,
\v 43 một nửa của hội chúng gồm 337. 500 con chiên,
\v 44 36. 000 con bò,
\v 45 30. 500 con lừa,
\v 46 và 16. 000 người nữ.
\s5
\v 47 Môi-se trích một phần năm mươi từ phân nửa của Y-sơ-ra-ên, gồm người và động vật. Ông giao cho người Lê-vi là những người phụ trách đền tạm của Đức Giê-hô-va, theo lời Ngài phán.
\s5
\v 48 Sau đó các tướng lĩnh quân đội, các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân, đến gặp Môi-se.
\v 49 Họ nói với ông, “Tôi tớ của ông đã thống kê binh lính dưới quyền của chúng tôi thì thấy không thiếu một ai cả.
\s5
\v 50 Chúng tôi đã dâng cho Đức Giê-hô-va những thứ mà chúng tôi tìm thấy, các đồ dùng bằng vàng, vòng cổ tay, xuyến, nhẫn, bông tai, và vòng đeo cổ, đặng chuộc tội cho chúng tôi trước mặt Đức Giê-hô-va. ”
\v 51 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận vàng và mọi đồ thủ công từ tay họ.
\s5
\v 52 Tổng số lễ vật bằng vàng mà họ dâng cho Đức Giê-hô-va gồm các lễ vật từ các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân nặng 16. 750 siếc-lơ.
\v 53 Mỗi binh lính đã cướp chiến lợi phẩm cho chính mình.
\v 54 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận vàng từ các sĩ quan chỉ huy ngàn quân và sĩ quan chỉ huy trăm quân. Họ đem vào lều hội họp để làm vật nhắc dân Y-sơ-ra-ên nhớ đến Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Bấy giờ con cháu Ru-bên và con cháu Gát có nhiều đàn gia súc. Họ thấy xứ Gia-xe và Ghi-lê-át, là nơi xứ tuyệt vời cho bầy gia súc.
\v 2 Vậy con cháu Gát và Ru-bên đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các lãnh đạo của hội chúng. Họ thưa rằng,
\v 3 “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-xe, Nim-ra, Hẹt-bôn, Ê-lê-a-lê, Sê-bam, Nê-bô, và Bê-ôn,
\s5
\v 4 tức những xứ mà Đức Giê-hô-va đã đánh trước mặt hội chúng Y-sơ-ra-ên, đều là những nơi tốt tươi cho bầy gia súc. Chúng tôi, tôi tớ của các ông, có nhiều bầy gia súc. ”
\v 5 Họ nói, “Nếu chúng tôi được ơn trước mặt các ông, xin ban xứ này cho chúng tôi, là tôi tớ của các ông, để làm sản nghiệp. Đừng biểu chúng tôi qua bên kia sông Giô-đanh.”
\s5
\v 6 Môi-se trả lời các con cháu Gát và Ru-bên, “Anh em anh em sẽ phải ra trận trong khi anh em ở lại đây sao?
\v 7 Tại sao anh em gây cho dân Y-sơ-ra-ên nản lòng không muốn vào xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho họ?
\s5
\v 8 Cha ông anh em đã phạm điều tương tự khi tôi sai họ từ Ca-đe Ba-nê-a đi do thám xứ.
\v 9 Họ đến thung lũng Ếch-côn. Họ nhìn thấy xứ ấy rồi làm nản chí dân Y-sơ-ra-ên đặng dân chúng không muốn vào xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho họ.
\s5
\v 10 Hôm đó Đức Giê-hô-va nổi cơn thịnh nộ. Ngài thề và phán rằng,
\v 11 Chắc chắn không một ai trong số những người đã ra khỏi Ai Cập, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ thấy xứ mà Ta đã thề cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, vì chúng hoàn toàn không theo Ta, ngoại trừ
\v 12 Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai của Nun. Chỉ có Ca-lép và Giô-suê là hoàn toàn theo Ta.
\s5
\v 13 Vậy cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài khiến họ đi lang thang trong hoang mạc suốt bốn mươi năm cho đến khi toàn bộ thế hệ làm điều ác trước mặt Ngài bị tiêu diệt.
\v 14 Kìa, anh em đã nổi lên thay cha ông mình, y như những con người đầy tội lỗi hơn, gia thêm cơn giận đang cháy bừng của Đức Giê-hô-va trên Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Nếu anh em từ bỏ Ngài, Ngài lại sẽ rời bỏ Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc, và như thế anh em sẽ hủy phá cả dân này.”
\s5
\v 16 Vậy họ đến gần Môi-se và nói, “Xin cho phép chúng tôi xây hàng rào ở đây cho bầy gia súc chúng tôi và xây thành phố cho gia đình chúng tôi.
\v 17 Tuy nhiên, chính chúng tôi sẵn sàng và ra trận với quân đội Y-sơ-ra-ên cho đến khi chúng tôi đem họ vào trong xứ. Nhưng gia đình chúng tôi sẽ sống trong những thành trì kiên cố vì cớ những dân bản xứ vẫn còn đó.
\s5
\v 18 Chúng tôi sẽ không trở về nhà mình cho đến khi toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên nhận được sản nghiệp của mình.
\v 19 Chúng tôi sẽ không thừa hưởng xứ đó với họ bên kia sông Giô-đanh, vì sản nghiệp của chúng tôi ở bên này, là phía đông sông Giô-đanh.”
\s5
\v 20 Vậy Môi-se trả lời họ, “Nếu anh em làm điều mình nói, nếu anh em cầm binh khí ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va,
\v 21 thì tất cả anh em phải cầm binh khí vượt sông trước mặt Đức Giê-hô-va, cho đến chừng nào Ngài đã đuổi hết quân thù của Ngài khuất mắt Ngài
\v 22 và xứ đó bị khuất phục trước mặt Ngài. Sau đó, anh em có thể trở về. Anh em sẽ vô tội đối với Đức Giê-hô-va và Y-sơ-ra-ên. Xứ này sẽ là sản nghiệp của anh em trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 23 Nhưng nếu anh em không làm theo, thì khi đó anh em sẽ mắc tội đối với Đức Giê-hô-va. Chắc chắn tội lỗi anh em sẽ đổ lại trên quý vị.
\v 24 Hãy xây thành cho gia đình anh em và các ràn cho bầy chiên của quý vị; rồi hãy làm điều anh em đã nói. ”
\v 25 Con cháu Gát và Ru-bên thưa với Môi-se rằng, “Tôi tớ ông sẽ tuân theo lệnh ông, là chủ của chúng tôi.
\s5
\v 26 Con cái chúng tôi, vợ chúng tôi, gia súc của chúng tôi, và tất cả bầy gia súc sẽ ở trong các thành của xứ Ghi-lê-át.
\v 27 Tuy nhiên, chúng tôi, tôi tớ của ông, sẽ băng qua bên kia sông trước mặt Đức Giê-hô-va đặng đánh trận, mỗi người sẽ cầm binh khí ra trận, theo như lời ông, là chủ của chúng tôi, đã nói.”
\s5
\v 28 Vậy Môi-se hướng dẫn cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun, và các trưởng tộc trong các chi phái của Y-sơ-ra-ên về những người đó.
\v 29 Môi-se nói cùng họ, “Nếu con cháu Gát và Ru-bên băng qua sông Giô-đanh cùng quý vị, là những người cầm binh khí ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va, và nếu xứ đó khuất phục trước mặt quý vị, thì anh emhãy ban xứ Ghi-lê-át cho họ làm sản nghiệp.
\v 30 Nhưng nếu họ không cầm binh khí vượt sông Giô-đanh cùng quý vị, họ sẽ nhận sản nghiệp với anh emtrong xứ Ca-na-an.”
\s5
\v 31 Vậy con cháu Gát và Ru-bên trả lời rằng, “Như lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng chúng tôi, là tôi tớ của ông, đây là điều chúng tôi sẽ thực hiện.
\v 32 Chúng tôi sẽ cầm binh khí băng qua sông Giô-đanh trước mặt Đức Giê-hô-va vào trong xứ Ca-na-an, nhưng sản nghiệp của chúng tôi sẽ vẫn thuộc về chúng tôi ở bên này sông Giô-đanh.”
\s5
\v 33 Vậy Môi-se ban vương quốc của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và nước của Óc, vua Ba-san, cho con cháu Gát và Ru-bên, cùng một nửa chi phái Ma-na-se, con trai Giô-sép. Ông ban cho họ xứ ấy, và phân chia cho họ tất cả các thành trong xứ cùng các vùng biên giới, các thành phố của xứ xung quanh họ.
\s5
\v 34 Con cháu Gát xây dựng lại Đi-bôn, A-ta-rốt, A-rô-e,
\v 35 A-trốt Sô-phan, Gia-xe, Gióp-bê-ha,
\v 36 Bết Nim-ra, và Bết Ha-ran thành những thành trì vững chắc có đồn điền cho bầy chiên mình.
\s5
\v 37 Con cháu Ru-bên xây dựng lại Hẹt-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-át-ha-im,
\v 38 Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn tên của các thành này về sau đã được đổi, và Síp-ma. Họ đặt lại tên cho các thành phố mà họ đã xây dựng lại.
\v 39 Con cháu Ma-kia, con trai Ma-na-se, đến Ghi-lê-át và chiếm thành đó từ tay dân A-mô-rít.
\s5
\v 40 Vậy Môi-se ban xứ Ghi-lê-át cho Ma-kia, con trai Ma-na-se, và con cháu ông ở lại đó.
\v 41 con trai Ma-na-se, ra đi và đánh chiếm các thành trong xứ đó và đặt tên là Ha-vốt Giai-rơ.
\v 42 Nốp-ba ra đi và chiếm thành Kê-nát và các làng mạc của nó, ông lấy tên mình là Nốp-ba đặt cho thành đó.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Đây là các cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên sau khi rời khỏi xứ Ai Cập theo các nhóm vũ trang dưới sự lãnh đạo của Môi-se và A-rôn.
\v 2 Bởi lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, Môi-se ghi lại những nơi mà họ đã khởi hành và hạ trại. Đây là những chặng đường của họ, theo từng điểm khởi hành.
\s5
\v 3 Ngày mười lăm tháng giêng, họ khởi hành từ Ram-se. Vào buổi sáng sau Lễ Vượt qua, dân Y-sơ-ra-ên rời đi cách công khai trước mặt dân Ai Câp.
\v 4 Dân sự ra đi đang khi người Ai Cập chôn cất con đầu lòng của họ mà Đức Giê-hô-va giết chết, Ngài cũng đoán phạt các thần của họ.
\s5
\v 5 Dân Y-sơ-ra-ên khởi hành từ Ram-se và cắm trại tại Su-cốt.
\v 6 Họ nhổ trại rời Su-cốt và cắm trại tại Ê-tham, giáp ranh hoang mạc.
\v 7 Họ nhổ trại rời Ê-tham và trở lại Phi Ha-ri-ốt, đối ngang Ba-anh Xê-phôn, là nơi họ cắm trại đối diện Mích-đôn.
\s5
\v 8 nhổ trại rời Phi Ha-hi-rốt và băng qua biển đi vào hoang mạc. Họ đi suốt ba ngày trong hoang mạc Ê-tham và cắm trại tại Ma-ra.
\v 9 nhổ trại rời Ma-ra và đến Ê-lim. Tại Ê-lim có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Họ cắm trại tại đó.
\v 10 Họ nhổ trại rời Ê-lim và cắm trại ở biển Sậy.
\s5
\v 11 Họ nhổ trại rời biển Sậy và cắm trại ở hoang mạc Sin.
\v 12 Họ nhổ trại rời hoang mạc Sin và cắm trại tại Đô-pha-ca.
\v 13 Họ nhổ trại rời Đô-pha-ca và cắm trại tại A-lút.
\v 14 Họ nhổ trại rời A_lút và cắm trại tại Rê-phi-đim, là nơi dân sự không tìm thấy nước uống.
\s5
\v 15 Họ nhổ trại rời Rê-phi-đim và cắm trại trong hoang mạc Si-nai.
\v 16 Họ nhổ trại rời hoang mạc Si-nai và cắm trại tại Kíp-rốt Hát-ta-a-va.
\v 17 Họ nhổ trại rời Kíp-rốt Hát-ta-a-va và cắm trại tại Ha-xê-rốt.
\v 18 Họ nhổ trại rời Ha-xê-rốt và cắm trại tại Rít-ma.
\s5
\v 19 Họ nhổ trại rời Rít-ma và cắm trại tại Rim-môn Phê-rê.
\v 20 Họ nhổ trại rời Rim-môn Phê-rê và cắm trại tại Líp-na.
\v 21 Họ nhổ trại rời Líp-na và cắm trại tại Ri-sa.
\v 22 Họ nhổ trại rời Ri-sa và cắm trại tại Kê-hê-la-tha.
\s5
\v 23 Họ nhổ trại rời Kê-hê-la-tha và cắm trại tại Núi Sê-phe.
\v 24 Họ nhổ trại rời Núi Sê-phe và cắm trại tại Ha-ra-đa.
\v 25 Họ nhổ trại rời Ha-ra-đa và cắm trại tại Ma-kê-lốt.
\v 26 Họ nhổ trại rời Ma-kê-lốt và cắm trại tại Ta-hát.
\s5
\v 27 Họ nhổ trại rời Ta-hát và cắm trại tại Tê-ra.
\v 28 Họ nhổ trại rời Tê-ra và cắm trại tại Mích-ca.
\v 29 Họ nhổ trại rời Mích-ca và cắm trại tại Hách-mô-na.
\v 30 Họ nhổ trại rời Hách-mô-na và cắm trại tại Mô-sê-rốt.
\s5
\v 31 Họ nhổ trại rời Mô-sê-rốt và cắm trại tại Bê-ne Gia-a-can.
\v 32 Họ nhổ trại rời Bê-ne Gia-a-can và cắm trại tại Hô-rơ Ha-ghi-đát.
\v 33 Họ nhổ trại rời Hô-rơ Ha-ghi-đát và cắm trại tại Giọt-ba-tha.
\v 34 Họ nhổ trại rời Giọt-ba-tha và cắm trại tại Áp-rô-na.
\s5
\v 35 Họ nhổ trại rời Áp-rô-na và cắm trại tại Ê-xi-ôn Ghê-be.
\v 36 Họ nhổ trại rời Ê-xi-ôn Ghê-be và cắm trại trong hoang mạc Sin ở Ca-đe.
\v 37 Họ nhổ trại rời Ca-đe và cắm trại tại Núi Hô-rơ, ở rìa xứ Ê-đôm.
\s5
\v 38 Thầy tế lễ A-rôn lên Núi Hô-rơ theo lệnh của Đức Giê-hô-va và qua đời trên đó vào ngày một tháng năm, năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã ra khởi xứ Ai Cập.
\v 39 A-rôn thọ 123 tuổi khi ông qua đời trên Núi Hô-rơ.
\s5
\v 40 Người Ca-na-an, vua của A-rát, ở phía nam hoang mạc trong xứ Ca-na-an, có nghe về việc dân Y-sơ-ra-ên sắp đến.
\s5
\v 41 Họ nhổ trại rời Núi Hô-rơ và cắm trại tại Xanh-mô-na.
\v 42 Họ nhổ trại rời Xanh-mô-na và cắm trại tại Phu-nôn.
\v 43 Họ nhổ trại rời Phu-nôn và cắm trại tại Ô-bốt.
\s5
\v 44 Họ nhổ trại rời Ô-bốt và cắm trại tại Y-giê A-ba-rim, ở biên giới Mô-áp.
\v 45 Họ nhổ trại rời Y-giê A-ba-rim và cắm trại tại Đi-bôn Gát.
\v 46 Họ nhổ trại rời Đi-bôn Gát và cắm trại tại Anh-môn Đíp-la-tha-im.
\s5
\v 47 Họ nhổ trại rời Anh-môn Đíp-la-tha-im và cắm trại ở vùng núi A-ba-rim, đối ngang Nê-bô.
\v 48 Họ nhổ trại rời vùng núi A-ba-rim và cắm trại ở đồng bằng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
\v 49 Họ cắm trại gần sông Giô-đanh, từ Bết Giê-si-mốt đến A-bên Si-tim trong đồng bằng Mô-áp.
\s5
\v 50 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô rằng,
\v 51 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi các ngươi qua sông Giô-đanh tiến vào đất Ca-na-an,
\v 52 các ngươi phải đuổi hết cư dân trong xứ khuất mắt ngươi. Các ngươi phải phá hủy tất cả các hình tượng chạm của chúng. Hãy phá hủy tất cả các tượng đúc và tiêu hủy các miễu thờ của chúng.
\s5
\v 53 Các ngươi phải chiếm xứ và ở tại đó, vì Ta đã ban cho các ngươi xứ này.
\v 54 Các ngươi sẽ hưởng xứ ấy bằng cách bốc thăm theo từng thị tộc. Thị tộc nào đông dân hơn thì các ngươi phải cho xứ rộng hơn, và thị tộc nào ít dân hơn thì các ngươi phải cho xứ nhỏ hơn. Thị tộc nào bốc được lá thăm ở nơi nào thì nơi đó sẽ thuộc về họ. Các ngươi sẽ hưởng xứ ấy theo chi phái của tổ phụ mình.
\s5
\v 55 Nhưng nếu các ngươi không đuổi hết cư dân trong xứ khuất mắt mình, thì dân mà các ngươi để cho sống sẽ trở thành dân lố lăng trong mắt các ngươi và gai bên hông các ngươi. Chúng sẽ gây phiền toái cho các ngươi khi sống trong xứ đó.
\v 56 Khi đó, Ta cũng sẽ đối xử với các ngươi như Ta sắp đối xử với chúng. ’”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy, Khi các ngươi vào xứ Ca-na-an, là xứ sẽ thuộc về các ngươi, tức xứ Ca-na-an và biên giới của xứ,
\v 3 thì biên giới phía nam của các ngươi sẽ kéo dài từ hoang mạc Sin theo biên giới Ê-đôm. Về phía đông, biên giới phía nam sẽ trải dài đến tận cuối phía nam của Biển Muối.
\s5
\v 4 Biên giới của các ngươi sẽ vòng xuống phía nam từ núi Ạc-ráp-bim và băng ngang qua hoang mạc Sin. Từ đó, nó sẽ kéo dài xuống phía nam Ca-đe Ba-nê-a và dài đến tận Ha-xa A-đa và ngang qua A-xơ-môn.
\v 5 Từ A-xơ-môn, biên giới sẽ kéo dài đến suối Ai Cập và chạy dọc theo suối ra biển.
\s5
\v 6 Biên giới phía tây sẽ là vùng duyên hải Biển Lớn. Đây sẽ là biên giới phía tây của các ngươi.
\s5
\v 7 giới phía nam sẽ trải dài theo đường mà các ngươi phải vạch từ Biển Lớn đến Núi Hô-rơ,
\v 8 sau đó từ Núi Hô-rơ chạy đến Lê-bô Ha-mát, và đến Xê-đa.
\v 9 Biên giới sẽ tiếp tục chạy dài đến Xíp-rôn và kết thúc tại Ha-xa Ê-nan. Đây sẽ là biên giới phía bắc của các ngươi.
\s5
\v 10 Các ngươi phải đánh dấu biên giới phía đông của các ngươi từ Ha-xa Ê-nan về phía nam ở Sê-pham.
\v 11 Biên giới phía đông sẽ kéo dài từ Sê-pham đến Ríp-la, về phía đông A-in. Biên giới sẽ tiếp tục chạy dài giáp phía đông biển Kin-nê-rết.
\v 12 Rồi nó tiếp tục chạy dài về phía nam dọc theo sông Giô-đanh đến Biển Muối và tiếp tục kéo xuống biên giới phía nam Biển Muối. Đây sẽ là xứ của các ngươi, tính theo các đường biên giới xung quanh. ’”
\s5
\v 13 Vậy Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng, “Đây là xứ mà anh emsẽ nhận bằng cách bốc thăm, theo như lệnh của Đức Giê-hô-va đã truyền ban cho chín chi phái rưỡi.
\v 14 Chi phái Ru-bên, tùy theo phần gia nghiệp của họ, và chi phái Gát, tùy theo phần gia nghiệp của họ, và một nửa chi phái Ma-na-se đều đã nhận xứ của họ.
\v 15 Hai chi phái đó và nửa chi phái này đã lãnh xứ được cho bên kia sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô về phía đông, tức hướng mặt trời mọc.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 17 “Đây là tên những người sẽ chia xứ cho các ngươi làm sản nghiệp: thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và Giô-suê, con trai của Nun.
\v 18 Các ngươi phải chọn mỗi chi phái một lãnh đạo để chia xứ theo thị tộc.
\s5
\v 19 Đây là tên những người đó: Về chi phái Giu-đa có Ca-lép, con trai Giê-phu-nê.
\v 20 Về chi phái Si-mê-ôn, có Sê-mu-ên, con trai A-mi-hút.
\s5
\v 21 Về chi phái Ben-gia-min, có Ê-li-đát, con trai Kích-lôn.
\v 22 Về chi phái Đan, có lãnh đạo Búc-ki, con trai Gióp-li.
\v 23 Về con cháu Giô-sép, tức chi phái Ma-na-se, có lãnh đạo Ha-ni-ên, con trai Ê-phốt.
\s5
\v 24 Về phía con cháu Ép-ra-im, có Kê-mu-ên, con trai Síp-tan,
\v 25 Về chi phái Sa-bu-lôn, có lãnh đạo Ê-li-xa-phan, con trai Pha-nách.
\v 26 Về chi phái Y-sa-ca, có lãnh đạo Pha-ti-ên, con trai A-xan.
\s5
\v 27 Về chi phái A-se, có lãnh đạo A-hi-hút, con trai Sê-lô-mi.
\v 28 Về chi phái Nép-ta-li, có lãnh đạo Phê-đa-ên, con trai A-mi-hút. ”
\v 29 Đức Giê-hô-va truyền những người này chia xứ Ca-na-an cho từng chi phái trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se ở đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô,
\v 2 “Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên ban một phần sản nghiệp mình trong xứ cho người Lê-vi. Họ phải cho người Lê-vi các thành phố để ở và đồng cỏ xung quanh các thành đó.
\s5
\v 3 Người Lê-vi sẽ ở trong các thành này. Đồng cỏ sẽ được dành cho thú nuôi, gia súc, và tất cả các con vật của họ.
\v 4 Đồng cỏ xung quanh các thành mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ có chu vi là một ngàn cu-bít tính từ các bức tường thành.
\s5
\v 5 Về phía đông là hai ngàn cu-bít tính từ bên ngoài thành, và hai ngàn cu-bít về phía nam, hai ngàn cu-bít về phía tây, và hai ngàn cu-bít về phía bắc. Đây sẽ là các đồng cỏ dành cho thành phố của họ. Các thành phố ấy sẽ nằm ở trung tâm.
\s5
\v 6 Sáu thành mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ được dùng làm thành ẩn náu, tức là nơi kẻ sát nhân có thể lẩn tránh. Cũng hãy cho thêm bốn mươi hai thành nữa.
\v 7 Tổng cộng các ngươi sẽ cho người Lê-vi bốn mươi tám thành phố. Phải cho họ các đồng cỏ xung quanh những thành đó.
\s5
\v 8 Những chi phái đông dân trong Y-sơ-ra-ên, tức những chi phái nào có nhiều đất hơn, phải cho nhiều thành hơn. Chi phái nào ít dân hơn sẽ cho ít thành hơn. Mỗi chi phái phải cho người Lê-vi tùy theo phần đất mình đã nhận.”
\s5
\v 9 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng,
\v 10 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng, Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh tiến vào xứ Ca-na-an,
\v 11 các ngươi phải chọn các thành phố làm thành ẩn náu cho mình, để nếu ai vô tình phạm tội sát nhân thì có thể lẩn tránh ở đó.
\s5
\v 12 Các thành này phải là nơi lẩn tránh khỏi kẻ báo thù, để tội nhân sẽ không bị giết trước khi bị xét xử trước hội chúng.
\v 13 Hãy chọn sáu thành phố làm thành ẩn náu.
\s5
\v 14 Các ngươi phải cho ba thành phố bên kia sông Giô-đanh và ba thành phố trong xứ Ca-na-an. Đó sẽ là những thành ẩn náu.
\v 15 Đối với dân Y-sơ-ra-ên, người ngoại quốc, và bất kỳ ai sống giữ các ngươi, sáu thành này sẽ là thành ẩn náu cho bất kỳ ai vô tình giết người có thể lẩn tránh.
\s5
\v 16 Nhưng nếu ai dùng một vật bằng sắt đánh nạn nhân, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thực sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử.
\v 17 Nếu ai cầm cục đá đánh nạn nhân đến nỗi đoạt mạng, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thật sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử.
\v 18 ai dùng một vũ khí bằng gỗ đánh nạn nhân đến nỗi đoạt mạng người đó, và nếu nạn nhân tử vong, thì kẻ đó thật sự là kẻ sát nhân. Nó phải bị xử tử.
\s5
\v 19 Chính người đòi nợ máu có thể giết kẻ sát nhân. Người có thể giết chết nó nếu gặp.
\v 20 Nhưng nếu ai vì lòng ghen ghét mà cư xử thô bạo với người khác hoặc ném vật gì vào người đó khi phục kích, khiến nạn nhân tử vong,
\v 21 hoặc nếu vì lòng ghen ghét mà vung tay đánh đến nỗi nạn nhân chết, thì nó phải bị xử tử. Đó là kẻ sát nhân. Người báo thù huyết có thể giết chết kẻ sát nhân nếu gặp.
\s5
\v 22 Nhưng nếu ai bỗng dưng đánh trúng nạn nhân mà không có chủ tâm ghét hoặc ném vật gì vào nạn nhân
\v 23 hoặc nếu ném một cục đá làm nạn nhân chết mà trước đó không nhìn thấy nạn nhân, thì người đó không phải là kẻ thù của nạn nhân; người không cố ý hại nạn nhân. Nhưng nếu dù thế nào đi nữa mà nạn nhân tử vong,
\s5
\v 24 thì trong trường hợp đó, hội chúng phải phân xử giữa bị cáo và người báo thù huyết chiếu theo các luật này.
\v 25 Hội chúng phải cứu bị cáo khỏi tay của người báo thù huyết. Họ phải đưa bị cáo đến thành ẩn náu mà trước đó người đã đến lẩn tránh. Kẻ ấy phải sống ở đó cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm hiện tại qua đời, tức là người được xức bằng dầu thánh.
\s5
\v 26 Nhưng nếu bất cứ lúc nào bị cáo ra khỏi ranh giới của thành ẩn náu mà mình đang ở,
\v 27 và nếu người báo thù huyết bắt gặp nó ở bên ngoài ranh giới thành ẩn náu, và giết bị cáo, thì người báo thù huyết sẽ không mắc tội sát nhân.
\v 28 Ấy là lẽ ra bị cáo phải ở lại trong thành ẩn náu của mình cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời. Sau khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời, bị cáo có thể trở về xứ có sản nghiệp của mình.
\s5
\v 29 Đây là những luật thánh cho các ngươi và con cháu các ngươi khi sống trong xứ.
\v 30 Ai giết người, thì kẻ sát nhân đó phải bị xử tử, dựa theo lời chứng của các nhân chứng. Tuy nhiên chỉ có một nhân chứng làm chứng thì không đủ bằng chứng để xử tử người đó.
\s5
\v 31 Ngoài ra, các ngươi không được phép nhận tiền chuộc mạng của kẻ phạm tội giết người. Nó phải bị xử tử.
\v 32 Các ngươi chớ nhận tiền chuộc mạng của kẻ lẩn tránh ở thành ẩn náu. Chớ cho phép nó cư trú trong xứ sản nghiệp của nó cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời.
\s5
\v 33 Chớ làm ô uế xứ của các ngươi, vì huyết của kẻ sát nhân làm ô uế xứ. Không gì có thể tẩy sạch xứ một khi đã đổ huyết, ngoại trừ huyết của kẻ sát nhân.
\v 34 Vậy các ngươi chớ làm ô uế xứ mình vì Ta ngự ở đó. Ta, Đức Giê-hô-va, là Đấng ở cùng dân Y-sơ-ra-ên. ’”
\s5
\c 36
\p
\v 1 Bấy giờ, các trưởng tộc thuộc thị tộc của Ghi-lê-át, con trai Ma-kia, cháu Ma-na-se tức là các trưởng thị tộc của con cháu Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se và các lãnh đạo là những trưởng tộc trong dân Y-sơ-ra-ên.
\v 2 nói rằng, “Thưa chủ, Đức Giê-hô-va đã bảo ông chia đất cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp bằng cách bốc thăm. Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông phải chia phần của anh em chúng tôi là Xê-lô-phát cho các con gái của người.
\s5
\v 3 Nhưng nếu các nàng ấy cưới chồng ở những chi phái khác trong dân Y-sơ-ra-ên, thì phần sản nghiệp của họ sẽ bị loại khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi. Phần đó sẽ được nhập vào phần sản nghiệp của các chi phái mà họ làm vợ. Trong trường hợp đó, sản nghiệp ấy sẽ bị lấy khỏi sản nghiệp của chúng tôi.
\v 4 Như vậy, đến năm hân hỉ của dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của họ sẽ được thêm vào sản nghiệp của chi phái mà họ làm vợ. Do đó, sản nghiệp của họ sẽ bị lấy ra khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi.”
\s5
\v 5 Vậy Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lời của Đức Giê-hô-va. Ông nói rằng, “Điều mà con cháu của Giô-sép nói là đúng.
\v 6 Đây là lời Đức Giê-hô-va truyền về các con gái của Xê-lô-phát. Ngài phán, Hãy để họ cưới người nào mà họ ưng ý nhất, nhưng chỉ được cưới người trong chi phái của cha mình.
\s5
\v 7 Sẽ không có sản nghiệp nào của dân Y-sơ-ra-ên bị chuyển từ chi phái này sang chi phái kia. Mỗi người Y-sơ-ra-ên phải luôn giữ sản nghiệp của chi phái tổ phụ mình.
\s5
\v 8 Người nữ trong Y-sơ-ra-ên có phần sản nghiệp trong chi phái mình phải cưới chồng thuộc các thị tộc trong chi phái của tổ phụ mình. Các ngươi phải làm như vậy để mỗi người dân Y-sơ-ra-ên được giữ sản nghiệp của tổ phụ mình.
\v 9 Sẽ không có sản nghiệp nào bị chuyển từ chi phái này sang chi phái khác. Các chi phái trong Y-sơ-ra-ên phải giữ sản nghiệp mình.”
\s5
\v 10 Vậy các con gái của Xê-lô-phát làm theo lời Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se.
\v 11 Mác-la, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca, và Nô-a, tức các con gái của Xê-lô-phát, cưới con cháu của Ma-na-se.
\v 12 Họ cưới chồng thuộc các thị tộc của con cháu Ma-na-se, con trai Giô-sép. Như vậy, sản nghiệp của họ vẫn thuộc về chi phái của tổ phụ mình.
\s5
\v 13 Đây là những mệnh lệnh và luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên trong đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.

1994
05-DEU.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1994 @@
\id DEU
\ide UTF-8
\h PHỤC TRUYỀN
\toc1 PHỤC TRUYỀN
\toc2 PHỤC TRUYỀN
\toc3 deu
\mt PHỤC TRUYỀN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời Môi-se nói với toàn thể Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc bên kia sông Giô-đanh, tức trong vùng đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh đối ngang Su-phơ, giữa Pha-đan, Tô-phên, La-ban, Ha-sê-rốt và Đi Xa-háp.
\v 2 Chỗ đó cách Hô-rếp mười một ngày đường, theo đường núi Sê-ri-rơ đến Ca-đe Ba-nê-a.
\s5
\v 3 Vào năm thứ bốn mươi, ngày một tháng mười một, Môi-se nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên, cho họ biết mọi điều mà Giê-hô-va đã dạy bảo ông liên quan đến họ.
\v 4 Việc diễn ra sau khi Giê-hô-va đã đánh bại Si-hôn, vua dân A-mô-rít sống ở Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san sống ở Ách-ta-rốt tại Ết-rê-i.
\s5
\v 5 Bên kia sông Giô-đanh, trong xứ Mô-áp, Môi-se khởi rao báo các giáo huấn này, rằng:
\v 6 “Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta phán với chúng ta tại Hô-rếp, rằng: Các ngươi sống trong vùng đồi núi này đã đủ lâu rồi.
\s5
\v 7 Hãy nhổ trại và lên đường đi đến vùng đồi núi của dân A-mô-rít cùng tất cả các vùng phụ cận trong đồng bằng sông Giô-đanh, trong vùng đồi núi, trong vùng trũng, trong vùng Nê-ghép, và cạnh mé biển tức vùng đất của dân Ca-na-an, và trong xứ Li-ban, tận cho đến sông lớn, tức sông Ở-phơ-rát.
\v 8 Đó, Ta đã đặt xứ này trước mặt các ngươi; hãy đi vào và chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va đã thề với tổ phụ các ngươi tức với Áp-ra-ham, với Y-sác và với Gia-cốp để ban xứ ấy cho họ và cho dòng dõi họ về sau.
\s5
\v 9 Tôi đã nói với anh em vào lúc đó, rằng: Tôi không thể nào một mình mang nổi anh em.
\v 10 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã khiến anh em nên đông đúc, và xem đó, ngày nay anh em nhiều như sao trời.
\v 11 Nguyện Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em khiến anh em đông thêm cả ngàn lần nữa, và ban phước cho anh em, như Ngài đã hứa với anh em.
\s5
\v 12 Nhưng làm thế nào một mình tôi có thể gánh được các trách nhiệm, bổn phận cũng như những tranh chấp giữa anh em?
\v 13 Anh em hãy chọn ra những người khôn ngoan, những người hiểu biết, những người có tiếng tốt, theo từng bộ tộc, rồi tôi sẽ cử họ lãnh đạo anh em.
\v 14 Anh em đã đáp lại rằng: Điều ông vừa nói đó chúng tôi thấy đúng lắm.
\s5
\v 15 Vậy là tôi chọn lãnh đạo của các bộ tộc, những người khôn ngoan, những người có danh tiếng tốt, và lập họ lãnh đạo anh em, đứng đầu ngàn người, đứng đầu trăm người, đứng đầu năm mươi người, đứng đầu mười người, cùng các viên chức, theo từng bộ tộc.
\v 16 Tôi đã dặn bảo các quan xét của anh em lúc đó, rằng: Hãy nghe biết các tranh chấp của những người anh em các ông và phân xử thật công bằng giữa họ với một người anh em khác hay với người ngoại quốc ở với họ.
\s5
\v 17 Các ông không được tỏ ra thiên vị với bất kỳ ai trong cuộc tranh chấp; các ông phải lắng nghe người thấp bé cũng như người cao trọng. Các ông không được e sợ người ta, vì phân xử là việc của Đức Chúa Trời. Cuộc tranh chấp nào mà các ông thấy quá khó phân xử thì hãy đem đến cho tôi, và tôi sẽ nghe trình bày.
\v 18 Lúc đó tôi đã truyền bảo cho anh em mọi việc anh em phải làm.
\s5
\v 19 Chúng ta bỏ Hô-rếp và, trên đường đến vùng núi đồi của dân A-mô-rít, chúng ta đi băng qua cả vùng hoang mạc rộng lớn và kinh khiếp kia mà anh em đã thấy, theo như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã phán dạy chúng ta; rồi chúng ta đến Ca-đe Ba-nê-a.
\s5
\v 20 Tôi có nói với anh em: Anh em đã đến vùng đồi núi của dân A-mô-rít, đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban cho chúng ta.
\v 21 Đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã đặt đất đó trước mặt anh em; hãy đi lên chiếm hữu đất ấy, như Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã phán bảo anh em; đừng sợ hãi, cũng đừng ngã lòng.
\s5
\v 22 cả anh em đến gặp tôi, và nói: Chúng ta hãy sai người đi trước, để họ dọ thám xứ và chỉ dẫn cho chúng ta biết đường phải theo khi tiến đánh cũng như cung cấp thông tin về các thành mà chúng ta sẽ đánh.
\v 23 Đề nghị đó tôi thấy rất phải, nên tôi đã chọn mười hai người trong anh em, mỗi bộ tộc một người.
\v 24 Họ lên đường đi đến vùng đồi núi, tới thung lũng Ếch-côn, rồi dọ thám.
\s5
\v 25 Họ hái một số sản vật của xứ trên tay và đem về cho chúng ta. Họ cũng thuật lại cho chúng ta, rằng: Xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sắp ban cho chúng ta đúng là vùng đất tốt đẹp.
\s5
\v 26 Thế nhưng anh em không chịu tiến đánh, mà lại nổi lên chống lại giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 27 Trong lều mình, anh em phàn nàn rằng: “Vì Giê-hô-va ghét chúng ta nên Ngài mới đem chúng ta ra khỏi Ai Cập, để dùng tay dân A-mô-rít mà đánh bại chúng ta, và tiêu diệt chúng ta đi.
\v 28 Chúng ta phải đi đâu đây? Anh em chúng ta đã nói ra lời khiến lòng chúng ta tan chảy, rằng: Dân xứ đó cao lớn hơn chúng ta; thành chúng nó cũng lớn và vách thì cao đến tận trời; hơn nữa, chúng tôi cũng thấy con cháu dân A-na-kim ở đó. ’”
\s5
\v 29 Rồi tôi mới nói với anh em: Đừng kinh hãi, cũng đừng sợ chúng nó.
\v 30 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đi trước anh em, Ngài sẽ chiến đấu cho anh em, giống như mọi việc Ngài đã làm cho anh em trước mắt anh em trong xứ Ai Cập,
\v 31 cũng như trong hoang mạc, khi anh em chứng kiến thể nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã bồng ẵm anh em, như người ta bồng ẵm con trai mình, ở mọi nơi mà anh em đi, cho đến khi anh em đến nơi đây.
\s5
\v 32 Nhưng trong việc này anh em không tin lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình
\v 33 Đấng trên đường đã đi trước anh em để tìm chỗ cho anh em dựng lều, để chỉ cho anh em đường phải theo, ban đêm thì trong đám lửa, còn ban ngày thì trong đám mây.
\s5
\v 34 Giê-hô-va nghe tiếng lời nói của anh em và nổi giận; Ngài thề rằng:
\v 35 Hẳn sẽ chẳng ai trong số những kẻ thuộc thế hệ gian ác này thấy được miền đất tốt đẹp mà Ta đã thề ban cho tổ phụ các ngươi,
\v 36 ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê; người sẽ thấy xứ đó. Chỗ đất nào mà người đạp lên thì Ta sẽ ban cho người và con cháu người, vì người đã hết lòng theo Giê-hô-va.
\s5
\v 37 Ngoài ra, vì anh em mà Giê-hô-va cũng nổi giận với tôi; Ngài phán: Cả con cũng sẽ không vào đó;
\v 38 nhưng Giô-suê, con trai Nun, người phụ tá đứng chầu trước mặt con, anh ta sẽ được vào. Hãy khích lệ anh ta, vì anh ta sẽ lãnh đạo Y-sơ-ra-ên vào thừa hưởng đất.
\s5
\v 39 Ngoài ra, con nhỏ các ngươi mà các ngươi cho là sẽ làm mồi cho kẻ thù, tức các cháu mà ngày nay chưa phân biệt đúng sai chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban xứ ấy cho chúng, và chúng sẽ sở hữu đất.
\v 40 Còn các ngươi, bây giờ hãy quay lại và khởi hành đi đến hoang mạc theo con đường dẫn ra Biển Sậy.
\s5
\v 41 Lúc đó, anh em đáp lại tôi, rằng: Chúng tôi đã phạm tội với Giê-hô-va; chúng tôi sẽ đi lên lâm chiến, và chúng tôi sẽ nghe theo mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi đã truyền bảo chúng tôi làm. Tất cả anh em đều mang khí giới vào và sẵn sàng tiến đánh vùng đồi núi.
\v 42 Nhưng Giê-hô-va phán với tôi: Hãy bảo chúng nó rằng: “Chớ tiến công, cũng đừng chiến đấu, vì Ta sẽ không ở cùng các ngươi đâu, và các người sẽ bị quân thù đánh bại.
\s5
\v 43 Tôi nói lại với anh em như vậy, nhưng anh em không chịu nghe. Anh em cứ chống lại giới luật của Giê-hô-va; anh em kiêu căng và đã tiến đánh vùng đồi núi.
\v 44 Nhưng dân A-mô-rít sống trong vùng đồi núi đó ra đón đánh anh em, đuổi theo anh em như đàn ong, và đánh bại anh em tại Sê-i-rơ, cho đến Họt-ma.
\s5
\v 45 Anh em trở về khóc lóc trước mặt Giê-hô-va, nhưng Ngài không nghe tiếng anh em, cũng chẳng lưu ý đến anh em.
\v 46 Vậy là anh em ở lại Ca-đe trong nhiều ngày, trọn những ngày anh em ở tại đó.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Rồi chúng ta lại quay đầu lên đường hướng về hoang mạc theo con đường đến Biển Sậy, như Giê-hô-va đã truyền bảo tôi; chúng ta đi vòng núi Sê-i-rơ trong nhiều ngày.
\v 2 Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 3 Các người đã đi vòng quanh núi này đủ lâu rồi; giờ hãy hướng lên phía bắc.
\s5
\v 4 Hãy ra lệnh cho dân chúng, rằng: “Các người sẽ đi qua địa giới của anh em mình, tức con cháu Ê-sau, sống trong vùng Sê-i-rơ; họ sẽ phát sợ các ngươi. Vậy nên hãy cẩn thận
\v 5 đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không ban cho các người phần đất nào của họ đâu, cho dù chỉ một thẻo đất vừa đủ cho bản chân các người dẫm lên, vì Ta đã ban núi Sê-i-rơ cho Ê-sau làm sản nghiệp.
\s5
\v 6 Các người sẽ dùng tiền bạc để mua thức ăn cho mình, cũng dùng tiền bạc để mua nước mình uống.
\v 7 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã ban phước cho các ngươi trong mọi việc tay các ngươi làm; Ngài biết hành trình của các ngươi qua hoang mạc rộng lớn này. Suốt bốn mươi năm nay, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã ở cùng các ngươi, và các ngươi chẳng thiếu gì cả. ’”
\s5
\v 8 Vậy là chúng ta đi qua địa phận của anh em mình, tức con cháu Ê-sau sống tại Sê-i-rơ, tách khỏi con đường A-ra-ba, vốn xuất phát từ Ê-lát và Ê-xi-ôn Ghê-be. Rồi chúng ta chuyển hướng và đi theo con đường hoang mạc của xứ Mô-áp.
\s5
\v 9 Giê-hô-va nói với tôi: Đừng quấy rối Mô-áp, cũng đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không ban đất họ cho các ngươi làm cơ nghiệp đâu, bởi Ta đã ban vùng A-rơ cho con cháu Lót làm cơ nghiệp. ’”
\s5
\v 10 (Khi trước có dân Ê-mim sống ở đó; giống dân này cao lớn và đông như dân A-na-kim;
\v 11 giống như người A-na-kim, dân này cũng được xem là dân Rê-pha-im, nhưng dân Mô-áp gọi họ là Ê-mim.
\s5
\v 12 Dân Hô-rít trước đó cũng sống tại Sê-i-rơ, nhưng rồi con cháu Ê-sau đến chiếm lấy xứ. Họ tiêu diệt dân đó rồi sống tại xứ ấy, cũng giống như điều Y-sơ-ra-ên làm trong xứ mà Giê-hô-va ban cho họ làm sản nghiệp.)
\s5
\v 13 “Bây giờ, hãy đứng dậy và băng qua rạch Xê-rết. Vậy là chúng ta băng qua rạch Xê-rết.
\v 14 Số ngày từ khi chúng ta khởi đi từ Ca-đe Ba-nê-a cho đến khi băng qua rạch Xê-rết là ba mươi tám năm. Đến lúc ấy thì toàn bộ thế hệ những người có khả năng chiến đấu mới bị diệt hết khỏi giữa dân chúng, như Giê-hô-va đã thề.
\v 15 Tay của Giê-hô-va nghịch với thế hệ đó và Ngài diệt họ khỏi giữa dân chúng, cho đến khi họ chết sạch.
\s5
\v 16 Khi tất cả những người có khả năng chiến đấu đã chết và không còn giữa vòng dân chúng,
\v 17 Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 18 Hôm nay các ngươi phải đi qua A-rơ, địa giới của Mô-áp.
\v 19 Khi các ngươi đến gần xứ của dân Am-môn, đừng quấy rối, cũng đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không cho các người phần đất nào của dân Am-môn để làm cơ nghiệp; Ta đã ban nó cho con cháu của Lót làm cơ nghiệp. ’”
\s5
\v 20 (Vùng đất ấy cũng được xem là đất của dân Rê-pha-im. Lúc trước, người Rê-pha-im sống tại đó nhưng dân Am-môn gọi họ là Xam-xu-mim;
\v 21 họ là giống dân cao lớn và đông như dân A-na-kim. Nhưng Giê-hô-va đã tiêu diệt họ trước dân Am-môn, và dân này tiếp nối họ sống tại nơi ấy.
\v 22 Đó cũng giống như Đức Chúa Trời đã làm cho dòng dõi Ê-sau sống tại vùng Sê-i-rơ, khi Ngài diệt hết dân Hô-rít trước mặt họ, rồi con cháu Ê-sau tiếp nối họ sống tại nơi ấy cho đến ngày nay.
\s5
\v 23 Con dân A-vim sống trong các ngôi làng ở tận vùng Ga-xa dân Cáp-tô-rim từ vùng Cáp-tô đã tiêu diệt họ và đến sống tại xứ của họ.)
\s5
\v 24 “Nào, hãy đứng dậy lên đường vượt qua thung lung lũng Ạt-nôn; kìa, Ta đã phó vào tay các ngươi Si-hôn, người A-mô-rít, vua Hết-bôn, và xứ của ông ta. Hãy bắt đầu chiếm hữu xứ và giao chiến với vua ấy.
\v 25 Bữa nay Ta sẽ khởi giáng xuống các dân dưới trời lòng sợ hãi và kinh khiếp đối với các ngươi; họ sẽ nghe tin về các ngươi và sẽ run rẩy, phiền não vì cớ các ngươi.
\s5
\v 26 Từ hoang mạc Kê-đê-mốt, tôi sai người đem tin đến Si-hôn, vua Hết-bôn, với lời lẽ hòa hảo, rằng:
\v 27 Xin cho tôi đi ngang qua xứ vua; tôi sẽ đi theo con đường chính; tôi sẽ không quay qua bên phải hay bên trái.
\s5
\v 28 Xin vua bán thức ăn cho tôi; xin vua bán nước uống cho tôi; chỉ xin phép vua cho tôi đi băng ngang qua thôi;
\v 29 như con cháu của Ê-sau sống tại Sê-i-rơ và như dân Mô-áp sống tại A-rơ đã làm cho tôi; cho đến khi chúng tôi qua sông Giô-đanh để vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ban cho chúng tôi.
\s5
\v 30 Nhưng Si-hôn, vua Hết-bôn, không để chúng ta đi qua, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã khiến tâm trí vua ấy cứng cõi, tấm lòng ông ta ương ngạnh, để Ngài có thể dùng sức mạnh các ngươi đánh bại ông ta, là điều ngày nay Ngài đã làm.
\v 31 Giê-hô-va phán với tôi: ‘Đó, Ta đã khởi sự phó cho các ngươi Si-hôn và xứ ông ta; hãy chiếm hữu nó, để các ngươi được hưởng lấy xứ ấy.
\s5
\v 32 Rồi Si-hôn cùng toàn thể chiến binh mình kéo ra giao chiến với chúng ta tại Gia-hát.
\v 33 Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta phó vua ấy vào tay chúng ta, và chúng ta đánh bại ông ta; chúng ta giết chết vua ấy, cùng các con trai và toàn bộ đạo binh của ông ta.
\s5
\v 34 Chúng ta chiếm hết các thành của vua ấy vào thời đó và diệt sạch tất cả các thành có người ở, kể cả phụ nữ và trẻ con, chẳng chừa lại một ai.
\v 35 Chỉ có gia súc là chúng ta đoạt lấy làm chiến lợi phẩm cho mình, cùng với chiến lợi phẩm từ các thành mà chúng ta đã chiếm.
\s5
\v 36 Từ A-rô-e ở mé thung lũng Ạt-nôn và từ thành trong trũng, cho đến Ga-la-át chẳng có thành nào cao quá sức chúng ta. Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta giúp chúng ta đánh thắng mọi quân thù trước mặt chúng ta.
\v 37 Chỉ còn lại xứ của con cháu Am-môn là anh em không đụng đến, cũng như toàn thể mé sông Gia-bốc, cùng các thành phố ở vùng đồi núi tức mọi nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta cấm chúng ta đụng đến.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Rồi chúng ta rẽ sang con đường đi lên Ba-san. Óc, vua Ba-san cùng toàn thể chiến binh mình kéo đến giao chiến với chúng ta tại Ếch-rê.
\v 2 Giê-hô-va phán với tôi: Đừng sợ vua ấy, vì Ta đã cho các ngươi thắng hơn ông ta và khiến toàn đạo binh cùng xứ sở ông ta phải phục các ngươi. Các ngươi sẽ xử vua ấy như các ngươi đã xử Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống tại Hết-bôn.
\s5
\v 3 Vậy là Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta cho chúng ta thắng hơn Óc vua Ba-san cùng toàn đạo binh ông ta bị chúng ta đánh bại. Chúng ta giết chết vua ấy, và chẳng có người nào của ông ta còn sống.
\v 4 Chúng ta chiếm hết các thành của ông ta lúc đó; chẳng có thành nào chúng ta không chiếm được tức toàn thể vùng Ạt-gốp, vương quốc của Óc tại Ba-san.
\s5
\v 5 Đó đều là các thành kiên cố có tường cao, với cổng và then cài; ngoài ra còn có rất nhiều làng mạc không có tường thành.
\v 6 Chúng ta tiêu diệt họ hoàn toàn, như chúng ta đã làm với Si-hôn, vua Hết-bôn, tức tiêu diệt hết mọi thành có người ở, kể các phụ nữ và trẻ nhỏ.
\v 7 Nhưng chúng ta đoạt lấy toàn thể gia súc và của cải của các thành này làm chiến lợi phẩm.
\s5
\v 8 Khi ấy, chúng ta chiếm lấy xứ của hai vua A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh, từ thung lũng Ạt-nôn đến núi Hẹt-môn
\v 9 (dân Si-đôn gọi núi Hẹt-môn là Si-ri-ôn, còn dân A-mô-rít gọi là Sê-ni-rơ);
\v 10 và tất cả các thành ở vùng đồng bằng, toàn vùng Ga-la-át, cùng toàn vùng Ba-san, cho đến tận Sanh-ca và Ết-rê-I, tức các thành thuộc vương quốc của Óc, vua Ba-san.
\s5
\v 11 (Vì trong dân sót lại của người Rê-pha-im chỉ còn Óc, vua Ba-san; gường của vua này là gường sắt; chẳng phải nó vẫn còn tại Ráp-ba, nơi con cháu Am-môn đang sinh sống đó sao? Gường đó dài chín cu-đê và rộng bốn cu-đê, theo cách người ta tính.)
\s5
\v 12 Xứ mà chúng ta chiếm hữu này từ A-rô-e, cạnh bên trũng Ạt-nôn, và phân nửa vùng đồi núi Ga-la-át, cùng các thành nó lúc ấy tôi chia cho bộ tộc Ru-bên và bộ tộc Gát.
\v 13 Phần còn lại của Ga-la-át cùng toàn thể xứ Ba-san, vương quốc của Óc, thì tôi chia cho phân nửa chỉ tộc Ma-na-se: toàn bộ vùng Ạt-gốp, và cả xứ Ba-san. (Vùng đất này được gọi là xứ của người Rê-pha-im.
\s5
\v 14 Giai-rơ, hậu tự của Ma-na-se, chiếm lấy toàn vùng Ạt-gốp cho đến ranh giới của người Ghê-su-rít và Ma-ca-thít. Ông gọi vùng đất này, tức Ba-san, bằng chính tên mình, là Ha-vốt Giai-rơ, cho đến ngày nay.)
\s5
\v 15 Tôi chia Ga-la-át cho Ma-ki.
\v 16 Với bộ tộc Ru-bên và bộ tộc Gát, tôi chia cho họ phần đất từ Ga-la-át cho đến thung lũng Ạt-nôn với ranh giới ở chính giữa thung lũng và đến sông Gia-bốc, tức là phần giáp ranh với con cháu Am-môn.
\s5
\v 17 Một đoạn ranh giới khác cũng là đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh, từ Ki-nê-rết đến biển A-ra-ba (tức Biển Chết), đến sườn núi Phích-ga về phía đông.
\s5
\v 18 Lúc đó, tôi ban lệnh cho anh em, rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho anh em đất này để làm cơ nghiệp; tất cả anh em nào là chiến binh sẽ cầm khí giới đi qua trước anh em mình, tức dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 19 Nhưng vợ và con cái anh em, cùng gia súc (tôi biết anh em có nhiều gia súc), sẽ ở lại trong các thành mà tôi đã chia cho anh em,
\v 20 cho đến khi Giê-hô-va ban sự yên nghỉ cho anh em của anh em, tương tự như Ngài đã làm với anh em, cho đến khi họ cũng chiếm hữu được xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban cho họ bên kia sông Giô-đanh; lúc đó, anh em, tức mọi người trong vòng anh em, sẽ trở về cơ ngơi mình mà tôi đã phân chia cho.
\s5
\v 21 Lúc đó tôi ban lệnh cho Giô-suê, rằng: Mắt anh đã chứng kiến mọi việc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình đã làm cho hai vua kia; Giê-hô-va sẽ làm tương tự với tất cả các vương quốc mà anh em đi qua.
\v 22 Anh đừng sợ họ, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chiến đấu cho anh em.
\s5
\v 23 Lúc đó, tôi cầu khẩn Giê-hô-va, rằng
\v 24 Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va, Ngài đã khởi tỏ cho tôi tớ Ngài thấy sự vĩ đại và tay mạnh mẽ của Ngài; vì có thần nào trên trời hay dưới đất làm được những việc như Ngài làm, và hành động đầy quyền năng giống như Ngài?
\v 25 Con xin Ngài cho con được qua sông để nhìn thấy xứ tốt đẹp bên kia sông, cái xứ sở đồi núi tốt đẹp ấy cùng với Li-ban.
\s5
\v 26 Nhưng, vì anh em, Giê-hô-va nổi giận với tôi; Ngài không nhậm lời tôi. Giê-hô-va nói với tôi: Thế này cũng đủ cho con đừng bao giờ nói đến chuyện này nữa:
\v 27 hãy đi lên đỉnh núi Phích-ga và nhướng mắt nhìn về hướng tây, hướng bắc, hướng nam và hướng đông; hãy nhìn để thấy, vì con sẽ không được qua sông Giô-đanh đâu.
\s5
\v 28 Thay vào đó, hãy chỉ dẫn cho Giô-suê, khích lệ và khiến anh ta vững chí, vì anh ta sẽ qua sông Giô-đanh trước mặt dân này, và anh ta sẽ cho họ kế thừa xứ mà con sẽ thấy.
\v 29 Như vậy, chúng ta cứ ở trong thung lũng đối ngang Bết Phê-ô.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Giờ đây, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe các luật lệ và quy định tôi sẽ chỉ dạy anh em mà làm theo, để anh em được sống và bước vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh, ban cho anh em.
\v 2 Anh em không được thêm thắt gì vào lời tôi truyền dạy, cũng đừng cắt xén bớt đi, nhưng phải tuân giữ trọn các giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi sắp truyền dạy anh em.
\s5
\v 3 Chính mắt anh em đã thấy việc Giê-hô-va làm trong vụ Ba-anh Phê-ô; những kẻ theo Ba-anh Phê-ô đều bị Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em diệt hết khỏi giữa anh em.
\v 4 Nhưng mọi kẻ trung tín với Giê-hô-va Đức Chúa Trời giữa vòng anh em đến nay vẫn sống.
\s5
\v 5 Ấy, tôi đã dạy cho anh em các luật lệ và quy định, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi đã truyền bảo tôi, để anh em thực hiện trong xứ mà anh em sẽ đi vào nhận lãnh làm cơ nghiệp.
\v 6 Vậy nên anh em phải gìn giữ và vâng theo các luật lệ ấy; vì đó chính là sự khôn ngoan, sự hiểu biết của anh em trước mặt các dân sẽ nghe về mọi luật lệ này và nói: Quả hẳn dân tộc vĩ đại này thật khôn ngoan và hiểu biết.
\s5
\v 7 Vì có dân tộc nào khác có một vị thần ở rất gần mình như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta bất cứ lúc nào chúng ta kêu cầu Ngài?
\v 8 Có nước lớn nào có được những luật lệ và quy định thật công chính như cả luật pháp mà tôi đang đặt để trước mặt anh em ngày nay?
\s5
\v 9 Anh em chỉ cần chú ý giữ lấy mình, để khỏi quên những điều mắt anh em đã thấy, sao cho trọn những ngày của cuộc đời mình các điều đó sẽ không lìa khỏi lòng anh em. Thay vào đó, anh em phải thuật lại cho con, cháu mình
\v 10 ngày mà anh em đứng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại Hô-rếp, khi Giê-hô-va bảo tôi: Hãy tập họp dân chúng lại, rồi Ta sẽ cho họ nghe được lời Ta phán, để họ học tập kính sợ Ta trọn những ngày họ sống trên đất, cũng như để họ dạy lại cho con cái mình.
\s5
\v 11 Anh em đến gần và đứng ở chân núi. Hòn núi bùng cháy với ngọn lửa bốc lên đến giữa trời, có sự tối tăm, mây đen dày đặc.
\v 12 Giê-hô-va từ giữa đám lửa phán với anh em; anh em nghe được tiếng nói chẳng thấy hình dạng nào, mà chỉ nghe tiếng.
\s5
\v 13 Ngài tuyên đọc cho anh em giao ước Ngài, tức mười điều răn, mà Ngài truyền cho anh em phải thực hiện. Ngài viết các điều răn trên hai bảng đá.
\v 14 Vào lúc đó, Giê-hô-va truyền bảo tôi dạy cho anh em các luật lệ và quy định, để anh em làm theo trong xứ anh em sẽ vào chiếm hữu.
\s5
\v 15 Vậy nên chính anh em phải rất cẩn thận, vì anh em chẳng thấy bất kỳ hình dạng nào vào ngày mà Giê-hô-va từ trong đám lửa phán dạy anh em tại Hô-rếp.
\v 16 Hãy cẩn thận kẻo anh em khiến mình đồi bại mà đi chạm khắc một pho tượng giống sinh vật nào đó, có hình dạng của đàn ông hay phụ nữ,
\v 17 hoặc hình dạng loài thú nào trên mặt đất, hoặc hình dạng loài chim nào bay trên trời,
\v 18 hoặc hình dạng loài bò sát nào dưới đất, hay hình dạng loài cá nào trong nước dưới đất.
\s5
\v 19 Hãy cẩn thận khi anh em ngước mắt lên trời và ngắm nhìn mặt trời, mặt trăng hoặc các ngôi sao tức toàn bộ các thiên thể hãy cẩn thận kẻo anh em sẽ bị dẫn dụ tôn thờ và sùng bái chúng, vốn chỉ là những vật thể mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã cắt đặt ở đó cho toàn thể loài người dưới trời.
\v 20 Giê-hô-va đã chọn và đem anh em ra khỏi lò lửa sắt, tức xứ Ai Cập, để anh em làm một dân trước mặt Ngài, làm cơ nghiệp thuộc riêng về Ngài, như ngày nay.
\s5
\v 21 Hơn nữa, Giê-hô-va đã nổi giận với tôi vì cớ anh em; Ngài đã thề rằng tôi sẽ không được qua sông Giô-đanh, không được vào vùng đất tốt đẹp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban cho anh em làm cơ nghiệp.
\v 22 Thay vì vậy, tôi phải chết tại xứ này; tôi không được qua sông Giô-đanh, nhưng anh em sẽ qua và chiếm hữu xứ tốt đẹp đó.
\s5
\v 23 Hãy canh giữ mình để anh em khỏi quên giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, là giao ước Ngài lập với anh em, để rồi chạm khắc cho mình một hình tượng có hình dạng như bất kỳ vật gì mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cấm.
\v 24 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là đám lửa thiêu đốt, là Đức Chúa Trời ghen tương.
\s5
\v 25 Khi anh em đã sinh con đẻ cháu, và khi anh em đã vào ở trong xứ ấy lâu ngày, nếu anh em khiến mình đồi bại và đi làm một tượng chạm có hình dạng của vật gì bất kỳ, tức làm ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, để chọc giận Ngài
\v 26 thì ngày nay tôi kêu gọi trời và đất làm chứng chống lại anh em, rằng anh em sẽ sớm bị diệt vong khỏi xứ mà anh em sắp đi qua sông Giô-đanh để chiếm hữu; anh em sẽ không ở dài lâu trong xứ đó, nhưng sẽ bị tận diệt.
\s5
\v 27 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị tan tác giữa các dân, và anh em sẽ chỉ còn lại số ít trong các nước mà Giê-hô-va dẫn anh em đến.
\v 28 Ở đó, anh em sẽ phục vụ các thần khác, vốn là sản phẩm bằng gỗ, bằng đá bởi tay người ta, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng ăn, cũng chẳng ngửi.
\s5
\v 29 Rồi ở đó, anh em sẽ tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em sẽ gặp được Ngài, khi anh em tìm kiếm Ngài hết lòng, hết linh hồn.
\s5
\v 30 Giữa cảnh khốn cùng, khi mọi điều đó đã xảy đến cho anh em trong những ngày về sau này, anh em sẽ trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và chịu nghe tiếng Ngài.
\v 31 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là Đức Chúa Trời hay thương xót; Ngài không bỏ anh em hoặc diệt mất anh em, cũng không quên giáo ước mà Ngài đã thề với tổ phụ anh em.
\s5
\v 32 Vì, anh em cứ hỏi về những ngày đã qua, tức những ngày trước đây, kể từ thời Đức Chúa Trời tạo dựng con người trên đất, từ góc trời này đến góc trời kia anh em cứ hỏi xem đã từng có bất kỳ việc nào giống như việc lớn lao này, hoặc có ai từng nghe việc gì tương tự hay không?
\v 33 Đã từng có dân tộc nào nghe tiếng Đức Chúa Trời phán từ giữa đám lửa như anh em đã nghe mà vẫn còn sống chăng?
\s5
\v 34 Hoặc Đức Chúa Trời có bao giờ dùng thử nghiệm, dùng dấu hiệu, dùng phép lạ, dùng chiến tranh, dùng tay quyền năng, dùng sự bày tỏ quyền phép lớn lao, dùng sự kinh hãi ra đi và cứu về cho mình một dân từ giữa một dân khác, như mọi điều mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã làm cho anh em trước mặt anh em tại Ai Cập chăng?
\s5
\v 35 Những việc đó đã được tỏ ra cho anh em, để anh em biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, ngoài Ngài chẳng có ai khác.
\v 36 Từ trên trời Ngài khiến anh em nghe tiếng Ngài, để Ngài chỉ dạy anh em; dưới đất, Ngài khiến anh em thấy đám lửa lớn; anh em nghe lời Ngài phán ra từ giữa đám lửa.
\s5
\v 37 Vì Ngài yêu mến các tổ phụ anh em, nên Ngài đã chọn hậu tự của họ, và đem anh em ra khỏi Ai Cập bằng sự hiện diện, bằng quyền năng vĩ đại,
\v 38 để đuổi khỏi trước mặt anh em các nước lớn hơn, mạnh hơn anh em, để đem anh em vào và ban đất của họ cho anh em làm cơ nghiệp.
\s5
\v 39 Vì vậy, ngày nay anh em phải biết và phải tạc ghi vào lòng, rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời trên trời cao lẫn dưới đất này; chẳng có ai khác.
\v 40 Anh em phải giữ lấy các luật lệ và giới luật Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, để anh em và con cháu anh em sau này được phước, và để anh em được sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban cho anh em mãi mãi.”
\s5
\v 41 Rồi Môi-se chọn ba thành phố trên bờ phía đông sông Giô-đanh,
\v 42 để người nào cũng có thể chạy vào ẩn náu nếu lỡ tay giết chết ai đó không phải do có tư thù từ trước. Khi chạy đến một trong các thành này thì người đó có thể được sống.
\v 43 Đó là thành Bê-xe trong hoang mạc, là vùng đồng bằng, cho người thuộc bộ tộc Ru-bên; thành Ra-mốt tại Ga-la-át cho người thuộc bộ tộc Gát; và thành Gô-lan ở Ba-san cho người thuộc bộ tộc Ma-na-se.
\s5
\v 44 Đây là luật pháp mà Môi-se đặt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên;
\v 45 đây là các quy định giao ước, luật lệ và các quy định khác mà ông truyền cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập,
\v 46 khi họ ở phía đông sông Giô-đanh, trong thung lũng đối ngang Bết Phê-ô, trong xứ của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống tại Hết-bôn, vốn bị Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đánh bại khi ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 47 Họ chiếm hữu xứ của vua này, cùng xứ của Óc, vua Ba-san tức hai vua A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh về phía đông.
\v 48 đất này bắt đầu từ A-rô-e, cạnh thung lũng Ạt-nôn, trải dài đến núi Si-ôn (hay núi Hẹt-môn),
\v 49 gồm toàn thể đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh, về phía đông bên kia sông Giô-đanh, cho đến biển A-ra-ba, dưới các sườn núi Phích-ga.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Môi-se triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên, rồi nói với họ: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe các luật lệ và quy định mà tôi sẽ nói cho anh em ngày nay, để anh em học biết và gìn giữ những điều ấy.
\v 2 Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã lập một giao ước với chúng ta tại Hô-rếp.
\v 3 Giê-hô-va không lập giao ước đó với tổ phụ chúng ta, mà là với chúng ta, toàn thể những người còn sống tại đây hôm nay.
\s5
\v 4 Từ trong đám lửa trên núi, Giê-hô-va đã phán với anh em mặt đối mặt.
\v 5 (Khi đó, tôi ở giữa Giê-hô-va và anh em để tỏ lại cho anh em lời của Ngài; vì anh em sợ hãi đám lửa và không dám đi lên núi). Giê-hô-va phán:
\v 6 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 7 Trước mặt Ta người không được thờ thần nào khác.
\v 8 Ngươi không được làm cho mình tượng chạm hoặc bất kỳ ảnh tượng nào của bất kỳ vật gì trên trời kia, hoặc dưới dất này, hoặc trong nước dưới đất.
\s5
\v 9 Ngươi không được sấp mình xuống trước chúng nó hoặc phục vụ chúng nó, vì Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, là Đức Chúa Trời hay ghen tuông. Ta hình phạt sự gian ác của tổ phụ bằng cách giáng hình phạt lên con cháu những kẻ ghét ta đến đời thứ ba, thứ tư,
\v 10 nhưng tỏ lòng thành tín đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta.
\s5
\v 11 Ngươi không được dùng danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình một cách bất kính, vì Giê-hô-va sẽ chẳng kể là vô tội kẻ dùng danh Ngài cách bất kính.
\s5
\v 12 Hãy tôn trọng ngày Sa-bát và giữ cho ngày ấy được thánh, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền dạy ngươi.
\v 13 Ngươi sẽ ra sức làm mọi công việc mình trong sáu ngày;
\v 14 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Trong ngày đó ngươi không được làm bất kỳ việc gì ngươi, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất kỳ súc vật gì của ngươi, hoặc bất kỳ người ngoại quốc nào trong nhà ngươi. Làm vậy là để tôi trai, tớ gái của ngươi cũng được nghỉ ngơi giống như ngươi.
\s5
\v 15 Ngươi phải nhớ rằng mình đã từng làm đầy tớ trong xứ Ai Cập, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã đem ngươi ra khỏi đó bằng bàn tay mạnh sức và sự thể hiện quyền năng. Vậy nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền bảo ngươi phải giữ ngày Sa-bát.
\s5
\v 16 Hãy tôn kính cha mẹ mình, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền dạy ngươi, để ngươi có thể sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho, và để ngươi được phước.
\s5
\v 17 Ngươi không được giết người.
\v 18 Ngươi không được phạm tội gian dâm.
\v 19 Ngươi không được trộm cắp.
\v 20 Ngươi không được làm chứng dối hại người.
\s5
\v 21 Ngươi không được tham vợ người khác; ngươi không được tham nhà cửa, ruộng đồng, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất kỳ vật gì của họ.
\s5
\v 22 Đó là những điều mà Giê-hô-va đã dùng tiếng lớn phán với cả hội anh em trên núi từ giữa đám lửa, đám mây và bóng tối đen kịt; Ngài chẳng thêm điều gì khác. Ngài viết các điều ấy ra trên hai bảng đá và trao cho tôi.
\s5
\v 23 Khi anh em nghe tiếng từ trong bóng tối phát ra, trong lúc ngọn núi đang bùng cháy, thì anh em đến gần tôi toàn thể các trưởng lão và lãnh đạo các bộ tộc anh em.
\v 24 Anh em bảo: “Kìa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi đã tỏ cho chúng tôi thấy vinh quang cùng sự vĩ đại của Ngài, và chúng tôi đã nghe tiếng Ngài phán từ giữa đám lửa; ngày nay chúng tôi thấy được rằng người ta vẫn có thể còn sống cho dù nghe tiếng Đức Chúa Trời phán với mình.
\s5
\v 25 Nhưng vì sao chúng tôi phải chết? Vì đám lửa lớn này sẽ thiêu hủy chúng tôi mất; nếu chúng tôi cứ nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi thêm nữa, thì chúng tôi sẽ chết.
\v 26 Vì giữa mọi loài xác thịt, ngoài chúng tôi ra, có ai từng nghe tiếng của Đức Chúa Trời hằng sống phán ra từ giữa đám lửa mà vẫn sống, như chúng tôi đây?
\v 27 Về phần ông, ông hãy đi nghe mọi lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán, rồi nói lại cho chúng tôi mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán với ông; chúng tôi sẽ nghe theo và vâng giữ.
\s5
\v 28 Giê-hô-va nghe lời của anh em khi anh em nói với tôi. Ngài bảo tôi: Ta đã nghe lời của dân này, những gì họ nói với con. Điều họ nói đó cũng đúng.
\v 29 Phải chi họ có tấm lòng như vậy, để họ biết tôn kính Ta và luôn vâng giữ mọi điều răn Ta, nhờ đó họ và con cháu họ được phước mãi mãi!
\v 30 Con hãy đi nói với họ: “Hãy quay trở về lều mình.”
\s5
\v 31 Riêng phần con, con hãy cứ đứng đây với Ta, rồi Ta sẽ cho con biết mọi điều răn, luật lệ và quy định mà con sẽ dạy lại cho họ, để họ giữ lấy các điều ấy trong xứ mà Ta sẽ ban cho họ sở hữu.
\s5
\v 32 Vậy nên anh em phải vâng giữ mọi điều mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã phán bảo anh em; anh em không được quay sang phải hoặc sang trái.
\v 33 Anh em phải bước đi trong mọi đường lối mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy, để anh em được sống, để anh em được phước, và để anh em được ở lâu dài trong xứ mà anh em sẽ nhận được.
\s5
\c 6
\p
\v 1 là các điều răn, luật lệ và quy định mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền bảo tôi dạy cho anh em, để anh em vâng giữ trong xứ mà anh em sẽ vượt qua sông Giô-đanh chiếm hữu;
\v 2 để anh em cùng con cháu biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vâng giữ mọi luật lệ và điều răn mà tôi truyền dạy anh em, trọn những ngày của đời sống anh em, nhờ đó anh em được sống lâu.
\s5
\v 3 Vậy nên, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe những điều này và giữ lấy, để anh em được phước, để anh em được đông thêm lên trong xứ đượm sữa và mật, như điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em đã hứa với anh em.
\s5
\v 4 Này, Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là duy nhất.
\v 5 Anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình với cả tấm lòng, cả linh hồn, cả sức lực mình.
\s5
\v 6 Những điều mà tôi truyền dạy cho anh em ngày nay phải ở trong lòng anh em;
\v 7 anh em phải ân cần dạy những điều ấy cho con cháu mình; anh em phải nói đến những điều ấy khi ngồi trong nhà, khi đi ngoài đường, khi nằm xuống ngủ, và khi thức dậy.
\s5
\v 8 Anh em phải đeo chúng như một dấu trên tay mình, và chúng phải được dùng như một vật nhắc nhớ đeo giữa hai mắt anh em.
\v 9 Anh em phải viết chúng trên cột cửa và cổng nhà mình.
\s5
\v 10 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đem anh em vào xứ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em, tức với Áp-ra-ham, với Y-sác, với Gia-cốp, rằng Ngài sẽ ban cho anh em, là nơi có những thành to lớn, tốt đẹp không do anh em xây nên,
\v 11 những ngôi nhà với đủ thứ vật tốt không do anh em tạo ra, những bể chứa nước không do anh em đào, những vườn nho và cây ô liu không do anh em trồng, khi anh em ăn uống và no nê—
\v 12 lúc đó anh em phải cẩn thận để khỏi quên Giê-hô-va, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 13 Anh em phải tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, phải thờ phượng Ngài và phải chỉ danh Ngài mà thề hứa.
\v 14 Anh em không được đi theo các thần khác, tức thần của các dân tộc chung quanh
\v 15 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Đấng ở giữa anh em, là Đức Chúa Trời ghen tương e Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ nổi giận với anh em và diệt mất anh em khỏi mặt đất chăng.
\s5
\v 16 Anh em không được thử Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như đã thử Ngài tại Ma-sa.
\v 17 Anh em phải sốt sắng vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cùng các giới mạng và luật lệ mà Ngài đã truyền dạy anh em.
\s5
\v 18 Anh em phải làm những việc phải lẽ, thiện lành trước mặt Giê-hô-va, để anh em được phước, và anh em được đi vào chiếm hữu xứ tốt đẹp mà Giê-hô-va đã thề hứa với tổ phụ anh em,
\v 19 và đuổi hết mọi kẻ thù khỏi trước mặt mình, như Giê-hô-va đã phán.
\s5
\v 20 Khi con cái anh em sau này hỏi anh em, rằng: Những thứ này là thế nào tức các quy định giao ước, các luật lệ cùng các quy định khác mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã truyền dạy cha đó?
\v 21 thì anh em phải trả lời cho con mình, rằng: Chúng ta trước đây làm nô lệ cho Pha-ra-ôn tại Ai Cập, nhưng Giê-hô-va đã dùng tay quyền năng đem chúng ta khỏi Ai Cập;
\v 22 trước mặt chúng ta, Ngài đã thực hiện các dấu hiệu, phép lạ lớn lao và kinh khiếp để hình phạt Ai Cập, Pha-ra-ôn và cả nhà ông ta;
\v 23 rồi Ngài đem chúng ta ra khỏi đó, để đưa chúng ta vào xứ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ chúng ta.
\s5
\v 24 Ghê-hô-va truyền dạy chúng ta phải luôn vâng giữ mọi luật lệ này, và kính sợ Đức Chúa Trời mình để được phước, và được Ngài cho sống còn như ngày nay.
\v 25 Nếu chúng ta vâng giữ mọi giới luật này trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như Ngài đã truyền dạy, thì đó sẽ là sự công chính của chúng ta.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đem anh em vào xứ mà anh em đi chiếm hữu, và trục xuất nhiều dân tộc trước mặt anh em, tức các dân Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, bảy dân tộc lớn mạnh hơn anh em;
\s5
\v 2 và khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em giúp anh em thắng hơn họ lúc giao chiến, thì anh em phải đánh rồi diệt sạch họ đi. Anh em không được lập giao ước với họ, cũng đừng thương xót họ.
\v 3 Anh em không được kết sui gia cùng họ; anh em không được gả con gái mình cho con trai họ, cũng không được cưới con gái họ cho con trai mình.
\s5
\v 4 Vì họ sẽ khiến con trai anh em xây bỏ Giê-hô-va để thờ lạy các thần khác. Khi đó, Giê-hô-va sẽ nổi giận với anh em, và Ngài sẽ nhanh chóng tiêu diệt anh em.
\v 5 Anh em phải đãi họ thế này: anh em phải phá đổ bàn thờ, đập nát các tượng đá, đánh hạ các thần tượng A-sê-ra, và thiêu đốt các tượng đúc của họ.
\s5
\v 6 Vì anh em là dân được biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Ngài đã chọn anh em làm một dân thuộc riêng về Ngài giữa vòng mọi dân tộc khác trên mặt đất.
\s5
\v 7 Giê-hô-va đem lòng yêu mến anh em hay chọn lựa anh em không phải do anh em đông hơn các dân tộc khác vì anh em có số dân ít ỏi nhất trong mọi dân
\v 8 nhưng chỉ vì Ngài yêu thương anh em và Ngài muốn giữ lời Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em. Đó là lý do vì sao Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ đem anh em ra và giải cứu anh em khỏi nhà nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ôn, vua Ai Cập.
\s5
\v 9 Vì vậy, hãy biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình chính là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời chung thủy, Đấng giữ giao ước và lòng thành tín đến cả ngàn đời với kẻ yêu mến Ngài và vâng giữ điều răn Ngài,
\v 10 nhưng ra mặt báo trả những kẻ ghét Ngài, để diệt họ đi; Ngài sẽ không nương tay với bất kỳ người nào ghét Ngài; Ngài sẽ báo trả họ ra mặt.
\v 11 Vậy nên anh em phải giữ các điều răn, luật lệ và quy định mà tôi đã truyền dạy anh em ngày nay, mà thực hiện.
\s5
\v 12 Nếu anh em nghe theo các quy định này, giữ lấy và thực hiện, thì đối cùng anh em, Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ giữ giao ước và lòng thành tín mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em.
\v 13 Ngài sẽ yêu thương anh em, ban phước cho anh em, và khiến anh em đông thêm lên; Ngài cũng sẽ ban phước cho con cháu anh em, cho thổ sản, ngũ cốc, rượu mới, và dầu của anh em, đồng thời khiến cho gia súc và con của đàn chiên anh em thêm đông đúc trong xứ mà Ngài thề hứa với các tổ phụ là sẽ ban cho anh em.
\s5
\v 14 Anh em sẽ được phước hơn mọi dân tộc khác; giữa vòng anh em sẽ chẳng có ai không con, dù là nam hay nữ, mà đàn gia súc anh em cũng vậy.
\v 15 Giê-hô-va sẽ cất đi mọi tật bệnh khỏi anh em; anh em sẽ chẳng phải chịu chứng bệnh quái ác nào tại Ai Cập mà anh em đã biết, nhưng Ngài sẽ giáng các bệnh đó trên mọi kẻ thù ghét anh em.
\s5
\v 16 Anh em phải diệt hết các dân mà Đức Chúa Trời giúp cho anh em thắng hơn, và mắt anh em không được thương xót họ. Anh em không được thờ lạy thần tượng của họ, vì đó sẽ là cái bẫy cho anh em.
\s5
\v 17 Anh em có thể nói trong lòng: Các dân này đông hơn mình; làm sao mình đánh đuổi họ được?
\v 18 nhưng đừng sợ họ; anh em phải nhớ lại những điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm cho Pha-ra-ôn và cho Ai Cập;
\v 19 các tai vạ mà mắt anh em đã chứng kiến, các dấu hiệu, các phép lạ, tay mạnh mẽ và sự thể hiện quyền năng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em thi thố để giải cứu anh em. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ làm tương tự đối với mọi dân tộc mà anh em sợ đó.
\s5
\v 20 Hơn nữa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ sai ong bắp cày đến giữa họ, cho đến khi những kẻ sót lại đang ẩn mình cũng sẽ bị diệt hết trước mặt anh em.
\v 21 Anh em không được kinh sợ họ, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở giữa anh em là Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng sợ.
\v 22 Giê-hô va Đức Chúa Trời sẽ dần dần đuổi các dân đó khỏi trước mặt anh em. anh em sẽ không cùng lúc đánh bại họ, vì như vậy thú hoang sẽ thêm nhiều lên mà làm hại anh em.
\s5
\v 23 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho anh em được thắng khi anh em giao chiến với họ; Ngài sẽ khiến họ vỡ trận cho đến khi họ bị tiêu diệt.
\v 24 Ngài sẽ phó các vua họ vào tay anh em, và anh em sẽ khiến danh họ bị diệt mất dưới trời. Sẽ chẳng có ai đứng nổi được trước mặt anh em, cho đến khi anh em đã tiêu diệt họ.
\s5
\v 25 Anh em sẽ thiêu đốt các tượng chạm thần của họ; đừng tham muốn bạc hay vàng bọc dát chúng và tìm cách chiếm đoạt cho mình, để rồi vì đó mà sa vào bẫy, vì vật đó thật kinh tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\v 26 Anh em không được đem bất kỳ vật kinh tởm nào vào nhà mình và thờ lạy nó. Anh em phải gớm ghê và khinh ghét nó, vì nó chỉ đáng bị diệt.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Anh em phải vâng giữ tất cả giới luật mà tôi truyền cho anh em ngày nay, để anh em được sống và trở nên đông đúc, cũng như được vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với tổ phụ anh em.
\v 2 Anh em phải nhớ lại mọi nẻo đường mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã dẫn dắt anh em đi qua suốt bốn mươi năm nay trong hoang mạc, để Ngài hạ anh em xuống và thử anh em, để biết lòng anh em như thế nào liệu anh em có vâng giữ các điều răn Ngài hay không.
\s5
\v 3 Ngài hạ anh em xuống, khiến anh em phải đói, để rồi nuôi sống anh em bằng ma-na, là thứ anh em trước đó chưa biết, mà cả cha ông anh em cũng chưa từng biết. Ngài làm vậy để khiến anh em hiểu rằng người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh thôi đâu; đúng hơn, ấy là nhờ mọi lời ra từ miệng Giê-hô-va mà người ta được sống.
\s5
\v 4 Trong bốn mươi năm ấy, áo quần trên người anh em không cũ mòn, chân anh em không phù sưng lên.
\v 5 Anh em phải hiểu trong lòng rằng người cha sửa phạt con mình thể nào thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em cũng sửa phạt anh em thể ấy.
\v 6 Anh em phải vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, để bước đi trong các đường lối Ngài và tôn kính Ngài.
\s5
\v 7 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sắp đem anh em vào một xứ tốt đẹp, một xứ có nhiều khe, suối, mạch nước, tuôn tràn trong các thung lũng và vùng núi đồi,
\v 8 xứ sở của lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu; một xứ đượm dầu ô liu và mật ong.
\s5
\v 9 Đó là xứ nơi anh em được ăn bánh no nê, được sống sung túc; là xứ mà sắt thì nhiều như đá và anh em có thể đào được đồng từ các đồi, núi.
\v 10 Anh em sẽ ăn và được no nê, rồi anh em sẽ chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình về xứ tốt đẹp mà Ngài ban cho anh em.
\s5
\v 11 Phải cẩn thận để anh em đừng quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình hoặc xao lãng các điều răn, quy định và luật lệ của Ngài mà tôi truyền cho anh em ngày nay.
\v 12 Để khi anh em ăn và được no nê, khi anh em xây nhà đẹp và được sống trong đó,
\s5
\v 13 khi đàn bò, đàn chiên của anh em sinh sôi, khi bạc, vàng của anh em và mọi thứ anh em có thêm nhiều lên
\v 14 thì lòng anh em khỏi tự cao và quên mất Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 15 Có thể lắm anh em sẽ quên Đấng đã dẫn dắt mình băng qua hoang mạc rộng lớn, kinh khiếp, nơi có rắn lửa và bọ cạp, qua vùng đất khô hạn chẳng có chút nước; lúc đó Giê-hô-va đã khiến nước từ hòn đá lửa tuôn ra cho anh em.
\v 16 Giê-hô-va đã nuôi sống anh em trong hoang mạc bằng ma-na, là thứ mà tổ phụ anh em chưa từng biết, để hạ anh em xuống và để thử nghiệm anh em, để rồi cuối cùng ban phước cho anh em;
\v 17 nếu không, anh em có thể tự nhủ trong lòng rằng: Chính năng lực và sức mạnh của bàn tay ta đã làm nên cơ nghiệp này.
\s5
\v 18 Nhưng anh em phải nhớ đến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vì chính Ngài ban cho anh em năng lực để tạo ra những của cải ấy, để Ngài làm thành giao ước mà Ngài đã thề với các tổ phụ anh em, như anh em thấy ngày nay.
\v 19 Nếu anh em quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và đi theo các thần khác, thờ lạy chúng nó, tôn kính chúng nó, thì ngày nay tôi cảnh cáo anh em, rằng anh em hẳn sẽ bị diệt mất.
\v 20 Các dân tộc kia bị Giê-hô-va diệt mất trước mặt anh em thể nào, thì anh em cũng sẽ bị diệt mất y như vậy, vì anh em không chịu nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây; ngày nay anh em sắp đi qua sông Giô-danh, để vào đánh đuổi các dân tộc lớn, mạnh hơn mình, chiếm lấy những thành lớn, vách cao đến tận trời,
\v 2 một giống dân cao lớn, tức các con cháu A-na-kim mà anh em đã biết; về giống dân ấy anh em đã nghe người ta nói: Ai có thể địch lại con cháu A-nác?
\s5
\v 3 Vậy nên hãy biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là Đấng đi trước anh em như đám lửa thiêu nuốt; Ngài sẽ hủy diệt họ, và hạ họ xuống trước mặt anh em; nhờ đó anh em sẽ đánh đuổi được họ và tiêu diệt họ nhanh chóng.
\s5
\v 4 Khi Giê-hô-va đã trục xuất họ khỏi trước mặt anh em, thì anh em đừng tự nhủ trong lòng, rằng: Nhờ mình công chính mà Giê-hô-va đã đem mình vào chiếm hữu xứ này, vì ấy là do sự gian ác của các dân tộc kia mà Giê-hô-va đánh đuổi họ trước mặt anh em.
\s5
\v 5 Chẳng phải nhờ sự công bình của anh em hoặc nhờ lòng chính trực mà anh em sẽ được vào chiếm hữu xứ của họ; nhưng là do sự gian ác của các dân tộc đó mà Đức Chúa Trời anh em đánh đuổi họ trước mặt anh em, để Ngài làm thành lời Ngài đã thề hứa với các tổ phụ anh em, tức với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.
\s5
\v 6 Vì vậy, phải biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em không ban cho anh em xứ tốt đẹp này vì sự công chính của anh em; anh em vốn là một dân ương ngạnh.
\s5
\v 7 Phải nhớ, và không được quên, rằng anh em đã từng chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình trong hoang mạc; từ ngày anh em ra khỏi Ai Cập cho đến khi anh em vào nơi này, anh em vẫn thường phản nghịch Giê-hô-va.
\v 8 Ngoài ra, tại Hô-rếp, anh em cũng chọc giận Giê-hô-va, khiến Giê-hô-va nổi thạnh nộ muốn diệt mất anh em.
\s5
\v 9 Khi tôi lên núi để nhận các bảng đá, tức các bảng ghi chép giao ước mà Giê-hô-va lập với anh em, tôi đã ở lại trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm; tôi chẳng ăn, cũng chẳng uống.
\v 10 Giê-hô-va trao cho tôi hai bảng đá do chính ngón tay Ngài viết ra; trên đó ghi lại một thứ, y như các lời mà Giê-hô-va đã rao báo cho anh em từ trong đám lửa vào ngày anh em nhóm hiệp.
\s5
\v 11 cuối bốn mươi ngày bốn mươi đêm đó thì Giê-hô-va trao cho tôi hai bảng đá, là các bảng đá giao ước.
\v 12 Giê-hô-va nói với tôi: Hãy đứng dậy và mau đi xuống núi, vì dân mà con đem ra khỏi Ai Cập đã bị băng hoại. Họ đã nhanh chóng tẻ tách khỏi con đường mà Ta đã truyền dạy. Họ đã đúc tượng cho mình.
\s5
\v 13 Ngoài ra, Giê-hô-va cũng nói với tôi: Ta đã thấy dân này rồi; chúng là một dân ương ngạnh.
\v 14 Con hãy để mặc Ta, để Ta tiêu diệt chúng và xóa sạch tên tuổi chúng khỏi dưới trời, rồi Ta sẽ khiến con trở nên một dân mạnh hơn, lớn hơn chúng.
\s5
\v 15 Vậy là tôi quay lại và đi xuống núi, trong lúc ngọn núi đang cháy.
\v 16 Tôi nhìn thì thấy anh em đã phạm tội với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Anh em đã tự đúc cho mình một bò con. Anh em đã từ bỏ con đường mà Giê-hô-va đã truyền dạy anh em.
\s5
\v 17 Tôi cầm hai bảng đá và ném khỏi tay mình, khiến chúng vỡ ra trước mặt anh em.
\v 18 Tôi lại sấp mình xuống trước Giê-hô-va trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm; tôi chẳng ăn, cũng chẳng uống, vì mọi tội mà anh em đã phạm, khi anh em làm điều ác trước mặt Giê-hô-va, để chọc giận Ngài.
\s5
\v 19 Vì tôi sợ Giê-hô-va nổi thạnh nộ và tức giận với anh em, khiến Ngài tiêu diệt anh em. Nhưng lần này Giê-hô-va cũng chịu nghe tôi.
\v 20 Giê-hô-va nổi giận với A-rôn, muốn tiêu diệt anh ấy; lúc đó tôi cũng cầu thay cho A-rôn.
\s5
\v 21 Còn vật tội lỗi của anh em, tức tượng bò con mà anh em đã làm ra, thì tôi lấy đem đi đốt, đập và nghiền ra, cho đến khi nó mịn như bụi. Tôi đổ bụi đó xuống suối nước từ trên núi chảy xuống.
\s5
\v 22 Tại Tha-bê-ra, tại Ma-sa, và tại Kíp-rốt Ha-tha-va, anh em cũng chọc giận Giê-hô-va.
\v 23 Khi Giê-hô-va sai anh em từ Ca-đe Ba-nê-a ra đi và dặn rằng: Hãy đi lên chiếm hữu xứ mà Ta đã ban cho các ngươi, thì anh em đã nổi lên chống lại giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em không chịu tin, cũng không chịu nghe tiếng Ngài.
\v 24 Anh em cứ luôn phản nghịch Giê-hô-va từ ngày tôi biết anh em.
\s5
\v 25 Vậy nên tôi nằm sấp mình xuống trước Giê-hô-va trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm, vì Ngài nói sẽ tiêu diệt anh em.
\v 26 Tôi cầu nguyện với Giê-hô-va, rằng: Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va, xin Ngài đừng hủy diệt dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã dùng ơn lớn giải cứu, đã dùng tay mạnh sức mà đem ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 27 Xin hãy nhớ lại các đầy tớ Ngài là Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp; xin đừng chấp sự ngang bướng của dân này, cũng như sự gian ác và tội lỗi họ,
\v 28 e rằng xứ mà Ngài đã đem chúng tôi ra khỏi, sẽ nói: “Vì Giê-hô-va không thể đem chúng vào đất mà Ngài đã hứa cho chúng, và vì Ngài ghét bỏ chúng, nên Ngài đã đưa chúng vào hoang mạc rồi giết đi. ”
\v 29 Nhưng họ là dân Chúa và cơ nghiệp của Ngài, đã được Ngài giải cứu bằng sức mạnh lớn và bằng sự thể hiện quyền năng Ngài.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Lúc đó, Giê-hô-va nói với tôi: Con hãy đục hai bảng đá giống lúc đầu, rồi đi lên trên núi đây với Ta. Cũng hãy đóng một cái rương bằng cây.
\v 2 Ta sẽ viết lên các bảng đá ấy những lời trên hai bảng mà con đã làm vỡ kia, rồi con sẽ đặt chúng vào trong rương.
\s5
\v 3 Vậy là tôi làm một chiếc rương bằng cây keo và đục ra hai bảng đá giống lúc ban đầu, rồi tôi lên núi, tay cầm hai bảng đá ấy.
\v 4 Ngài viết lên các bảng đó lời Ngài đã viết lúc trước, tức mười điều răn mà Giê-hô-va đã tuyên phán với anh em từ trong đám lửa trên ngọn núi, vào ngày anh em nhóm hiệp; rồi Giê-hô-va trao lại cho tôi.
\s5
\v 5 Tôi quay trở xuống núi và để hai bảng đá ấy vào chiếc rương mình đã làm; hiện nó vẫn ở trong đó, như Giê-hô-va đã dặn bảo tôi.”
\s5
\v 6 (Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Bê-rốt Bê-nê Gia-can đến Mô-sê-ra. A-rôn qua đời tại đó và cũng được chôn cất tại đó; con trai ông là Ê-lê-a-sa thay ông đảm nhận chức tế lễ.
\v 7 Từ đó, họ đi đến Gút-gô-đa, rồi từ Gút-gô-đa đến Dốt-ba-tha, là vùng có nhiều sông, suối.
\s5
\v 8 Lúc đó, Giê-hô-va chọn bộ tộc Lê-vi khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va, để đứng chầu trước Giê-hô-va, phục vụ Ngài, và nhân danh Ngài chúc phước cho dân chúng, như ngày nay.
\v 9 Vì vậy bộ tộc Lê-vi không được chia sản nghiệp cùng anh em mình. Giê-hô-va là sản nghiệp của họ, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã phán dạy họ.)
\s5
\v 10 “Tôi lưu lại trên núi như lần đầu, trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm. Lần này Giê-hô-va cũng chịu nghe tôi; Giê-hô-va không còn muốn tiêu diệt anh em.
\v 11 Giê-hô-va nói với tôi: Hãy đứng dậy đi trước dân chúng và lãnh đạo họ lên đường; họ sẽ tiến vào chiếm hữu xứ mà Ta đã thề hứa với các tổ phụ là sẽ ban cho họ.
\s5
\v 12 Giờ đây, hỡi Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em có đòi hỏi anh em điều gì khác chăng, ngoài việc kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường lối Ngài, yêu mến Ngài, và hết lòng, hết linh hồn tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình,
\v 13 vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va cùng các luật lệ Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay để anh em được phước?
\s5
\v 14 Kìa, trời và trời của các tầng trời, đất với muôn vật trong đó, tất cả đều thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\v 15 Chỉ vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời vui thích về các tổ phụ anh em và yêu mến họ, nên Ngài chọn anh em, tức con cháu họ, thay vì bất kỳ dân tộc nào khác, như Ngài làm ngày nay.
\s5
\v 16 Vậy nên hãy cắt bì tấm lòng anh em, và đừng ương ngạnh nữa.
\v 17 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là Thần của các thần, Chúa của các chúa, là Đức Chúa Trời vĩ đại, là Đấng quyền năng và đáng sợ; Ngài không thiên vị ai, cũng chẳng nhận của hối lộ.
\s5
\v 18 Ngài thi hành công lý cho các cô nhi, quả phụ, và Ngài thể hiện tình thương đối với khách ngoại kiều, cho họ bánh ăn, áo mặc.
\v 19 Vậy nên anh em phải yêu thương khách ngoại kiều, vì anh em cũng từng là khách ngoại kiều tại xứ Ai Cập.
\s5
\v 20 Anh em phải kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; anh em phải thờ phượng Ngài. Anh em phải gắn bó với Ngài, và anh em phải chỉ danh Ngài mà thề hứa.
\v 21 Ngài là Đấng anh em chúc tụng; Ngài là Đức Chúa Trời của anh em, Đấng đã thực hiện những việc vĩ đại, đáng sợ cho anh em mà chính mắt anh em đã chứng kiến.
\s5
\v 22 Các tổ phụ anh em khi xuống Ai Cập chỉ có bảy mươi người; giờ đây Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã khiến anh em đông như sao trời.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Vì vậy, anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và phải luôn vâng giữ lời chỉ dạy, các luật lệ, các quy định, và các điều răn Ngài.
\s5
\v 2 Hãy lưu ý là không phải tôi đang nói với con cái anh em, vốn chưa từng biết hay chứng kiến hình phạt của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, sự vĩ đại, tay quyền phép, sự thể hiện quyền năng Ngài,
\v 3 tức các dấu hiệu và công việc Ngài làm tại Ai Cập cho Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và cho toàn xứ của vua ấy.
\s5
\v 4 Chúng cũng không thấy việc Ngài làm cho quân đội Ai Cập, cho ngựa và xe của họ; thể nào Ngài đã khiến cho nước biển Sậy nhấn chìm họ khi họ đuổi theo anh em, và thể nào Giê-hô-va đã hủy diệt họ cho đến ngày nay;
\v 5 hay những việc Ngài làm cho anh em trong hoang mạc cho đến khi anh em đến nơi này.
\s5
\v 6 Chúng cũng không chứng kiến việc Giê-hô-va làm cho Đa-than và A-bi-ram, các con trai của Ê-li-áp, con trai Ru-bên; thể nào đất đã há miệng nuốt chửng họ, cả nhà họ, lều trại họ, cùng mọi sinh vật theo họ, ngay giữa Y-sơ-ra-ên.
\v 7 mắt anh em đã chứng kiến mọi công việc vĩ đại mà Giê-hô-va đã làm.
\s5
\v 8 Vậy nên anh em phải vâng giữ mọi điều răn mà tôi truyền bảo cho anh em ngày nay, để anh em được nên mạnh mẽ đi vào nhận lấy xứ mà anh em sẽ vào để chiếm hữu;
\v 9 và để anh em được sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho họ và cho con cháu họ, là xứ đượm sữa và mật.
\s5
\v 10 Vì đất mà anh em sẽ vào chiếm hữu đó không giống như xứ Ai Cập mà anh em từ đó ra đi, nơi anh em gieo giống và dùng chân mình mà tưới, giống như vườn rau cỏ;
\v 11 nhưng xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu là xứ nhiều đồi núi và thung lũng, được nhuần tưới nhờ nước mưa từ trời,
\v 12 là xứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em chăm sóc, nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em luôn để mắt đến, từ đầu năm đến cuối năm.
\s5
\v 13 Nếu các ngươi chăm chỉ nghe theo các điều răn mà Ta truyền cho các ngươi ngày nay, yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và phục vụ Ngài hết lòng, hết linh hồn,
\v 14 thì Ta sẽ ban mưa đúng mùa cho xứ các ngươi, cả mưa sớm lẫn mưa trễ, để các ngươi thu hoạch ngũ cốc, rượu mới và dầu mình.
\v 15 Ta sẽ ban cỏ trong đồng ruộng để nuôi gia súc các ngươi; các ngươi sẽ ăn và được no nê.
\s5
\v 16 Anh em phải cẩn thận, e lòng mình bị dụ dỗ xây bỏ Chúa mà phụng thờ các thần khác và quỳ lạy chúng,
\v 17 khiến Giê-hô-va nổi thạnh nộ với anh em mà đóng các tầng trời lại, không cho mưa xuống và đất không sinh sản hoa màu, và anh em sẽ nhanh chóng bị diệt mất khỏi xứ tốt đẹp mà Giê-hô-va ban cho mình chăng.
\s5
\v 18 Vì vậy, anh em hãy ghi tạc vào lòng và trí mình những lời mà tôi truyền cho anh em đây; hãy buộc chúng như một dấu trên tay, và đeo nó giữa hai mắt mình như một vật nhắc nhớ.
\v 19 Anh em phải dạy nó cho con cái mình và nói về nó khi ngồi trong nhà, khi đi ngoài đường, khi nằm xuống ngủ và khi thức dậy.
\s5
\v 20 Anh em phải viết nó lên các cột cửa trong nhà và lên cổng thành,
\v 21 để ngày của anh em cũng như của con cháu anh em, được thêm lên nhiều trong xứ mà Giê-hô-va đã thề với các tổ phụ rằng sẽ ban cho họ, nhiều giống như trời cao hơn đất vậy.
\s5
\v 22 Vì nếu anh em chăm chỉ giữ lấy mọi điều răn mà tôi truyền cho anh em, để làm theo, yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường Ngài, và gắn bó với Ngài,
\v 23 thì Giê-hô-va sẽ đuổi hết các dân tộc kia khỏi trước mặt anh em, và anh em sẽ trục xuất các dân lớn mạnh hơn mình.
\s5
\v 24 Mọi nơi nào bàn chân anh em dẫm lên sẽ thuộc về anh em; từ vùng hoang mạc cho đến Li-ban, từ sông, tức sông Ơ-phơ-rát, cho đến biển phía tây sẽ là ranh giới của anh em.
\v 25 Sẽ chẳng có ai đứng nổi trước anh em; Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ giáng sự sợ hãi lên toàn xứ mà anh em sẽ đặt chân lên, y như Ngài đã phán với anh em.
\s5
\v 26 Kìa, ngày nay tôi đặt trước anh em lời chúc phước và lời nguyền rủa;
\v 27 lời chúc phước, nếu anh em nghe theo các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi truyền dạy anh em ngày nay;
\v 28 còn lời rủa sả, nếu anh em không nghe theo các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, mà xây bỏ con đường tôi đã truyền dạy anh em ngày nay, đi theo các thần khác mà anh em chưa biết.
\s5
\v 29 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem anh em vào trong xứ mà anh em sẽ đi chiếm hữu thì anh em phải rao ra lời chúc lành trên núi Ga-ri-xim và lời nguyền rủa trên núi Ê-banh.
\v 30 Chẳng phải hai núi ấy ở bên kia sông Giô-đanh, về phía tây của con đường đi về hướng tây, trong xứ của những người Ca-na-an sống trong vùng A-ra-ba, đối ngang Ghinh-ganh, cạnh các cây sồi của Mô-rê, đó sao?
\s5
\v 31 Vì anh em phải vượt qua sông Giô-đanh để đi vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em ban cho anh em; anh em sẽ sở hữu xứ đó và sống tại đó.
\v 32 Anh em phải vâng giữ mọi luật lệ và quy định mà tôi đặt trước anh em ngày nay.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là các luật lệ và quy định mà anh em phải giữ trong xứ mà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã cho anh em sở hữu, trọn những ngày anh em sống trên đất.
\v 2 Anh em phải phá bỏ hết mọi nơi phụng thờ của các dân tộc mà anh em sẽ đánh đuổi, trên các núi cao, trên các ngọn đồi, dưới mọi cây xanh,
\s5
\v 3 và anh em phải phá đổ hết bàn thờ, đập nát các trụ đá thiêng, và thiêu hủy các tượng thần A-sê-ra của họ; anh em phải đốn hạ tượng chạm các thần của họ và phải xóa tên chúng khỏi nơi đó.
\v 4 Anh em không được thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình giống như họ.
\s5
\v 5 Nhưng nơi nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn từ giữa mọi bộ tộc anh em để đặt danh Ngài, thì đó sẽ là nơi Ngài ngự và là nơi anh em sẽ đến.
\v 6 Đó mới là nơi anh em đem đến của lễ thiêu, các sinh tế, của dâng phần mười, của lễ anh em dùng tay dâng lên, của lễ hứa nguyện, của lễ lạc ý, và con đầu lòng của bầy bò, bầy chiên.
\s5
\v 7 Đó mới là nơi anh em ăn uống trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời và vui vẻ cùng cả nhà mình về mọi việc tay mình làm và được Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em.
\s5
\v 8 Anh em không được làm những việc mà anh em làm ở đây ngày nay, khi mà ai cũng làm điều tự mình cho là phải;
\v 9 vì anh em vẫn chưa được hưởng sự yên nghỉ, tức cơ nghiệp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\s5
\v 10 Nhưng khi anh em đã qua sông Giô-đanh và sống trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em cho anh em được hưởng, và khi Ngài đã cho anh em được yên nghỉ đối với mọi kẻ thù chung quanh mình, và anh em được sống bình yên,
\v 11 thì địa điểm Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn làm nơi đặt danh Ngài mới là nơi anh em đem đến mọi thứ mà tôi đã truyền bảo anh em: của lễ thiêu, các sinh tế, của dâng phần mười, của lễ dùng tay dâng lên, cùng mọi lễ vật tốt nhất anh em dâng cho Giê-hô-va khi khấn hứa với Ngài.
\s5
\v 12 Anh em sẽ hoan hỉ trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình anh em, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, cùng những người Lê-vi trong thành của anh em, vì họ không được chia phần sản nghiệp giữa vòng anh em.
\s5
\v 13 Phải coi chừng, chớ đi dâng của lễ thiêu tại mọi nơi mình nhìn thấy;
\v 14 mà anh em phải dâng của lễ thiêu tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn từ giữa một trong các bộ tộc của anh em; đó mới là nơi anh em sẽ làm mọi việc tôi truyền bảo.
\s5
\v 15 Tuy nhiên, anh em có thể tùy ý giết thịt và ăn các loài thú trong mọi thành mình, hưởng lấy phước lành của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình về mọi điều Ngài đã ban cho anh em; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều được ăn thịt của những loài như hoàng dương và nai.
\v 16 Nhưng anh em không được ăn máu, mà phải đổ máu đó ra đất như đổ nước vậy.
\s5
\v 17 Riêng phần mười ngũ cốc, rượu mới, dầu, hay con đầu lòng của đàn bò, đàn chiên, thì anh em không được ăn trong các thành mình; anh em cũng không được ăn thịt mà anh em dâng lên khi hứa nguyện, mà của lễ lạc ý hoặc lễ vật dùng tay dâng lên cũng vậy.
\s5
\v 18 Thay vào đó, anh em phải ăn nó trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn anh em, cùng con trai, con gái, tôi trai, tớ gái và người Lê-vi trong thành mình; anh em sẽ vui vẻ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời về mọi việc mình làm.
\v 19 Phải lưu ý, đừng quên người Lê-vi trong lúc anh em còn sống trên đất.
\s5
\v 20 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em mở rộng lãnh thổ của anh em như Ngài đã hứa, và anh em bảo: Mình sẽ ăn thịt, vì anh em thèm thịt, thì anh em có thể ăn theo như linh hồn mình muốn.
\s5
\v 21 Nếu địa điểm mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em chọn làm nơi đặt danh Ngài xa quá, thì anh em sẽ giết bò hoặc chiên trong đàn mà Giê-hô-va đã ban cho anh em, theo như tôi đã truyền bảo; anh em có thể ăn trong các thành mình, như linh hồn anh em ước muốn.
\v 22 Anh em sẽ ăn thịt ấy giống như ăn thịt con hoàng dương hoặc con nai; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều có thể ăn.
\s5
\v 23 Nhưng nhất định anh em không được ăn máu, vì máu là sự sống; anh em không được ăn thịt cùng với sự sống.
\v 24 Anh em không được ăn máu, mà phải đổ nó ra đất như đổ nước vậy.
\v 25 Anh em đừng ăn máu, để anh em và con cháu anh em được phước khi anh em làm điều phải trước mặt Giê-hô-va.
\s5
\v 26 Nhưng những thứ mà anh em hứa dâng cho Giê-hô-va và các lễ vật anh em dâng khi khấn nguyện thì anh em đem đến nơi mà Giê-hô-va đã chọn.
\v 27 Ở đó anh em sẽ dâng của lễ thiêu, cả thịt và máu, trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; máu của sinh tế phải được đổ ra trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, còn thịt thì anh em sẽ ăn.
\s5
\v 28 Hãy giữ và nghe theo mọi lời này mà tôi truyền cho anh em, để anh em và con cái anh em được phước mãi mãi, nhờ anh em làm điều phải và thiện lành trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 29 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em diệt hết các dân đó khỏi trước mặt anh em, khi anh em vào để tống xuất họ, rồi thế chỗ họ mà sống trong xứ họ,
\v 30 thì anh em phải lưu ý để khỏi bị dẫn dụ mà bắt chước họ, sau khi họ đã bị diệt mất khỏi trước mặt anh em tức bị dụ đi tìm hiểu các thần chúng nó, rằng: Các dân ấy phụng thờ thần của họ thế nào? Tôi muốn làm giống như vậy.
\s5
\v 31 'Anh em không được làm vậy với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình, vì mọi việc họ làm cho thần của họ thật kinh tởm đối với Ngài, và Ngài rất ghét họ thậm chí thiêu sống con trai, con gái mình để tế thần.
\v 32 Mọi điều mà tôi truyền bảo anh em thì anh em phải thực hiện, không được thêm thắt hoặc cắt xén bất kỳ điều gì.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Nếu giữa vòng anh em xuất hiện một tiên tri hay kẻ nằm mộng, nếu nó cho anh em một dấu hiệu hoặc phép lạ,
\v 2 và nếu dấu hiệu hay phép lạ ấy xảy ra, rồi hắn nói với anh em: Chúng ta hãy theo các thần khác mà anh em chưa biết, và hãy phụng thờ các thần ấy,
\v 3 thì anh em đừng nghe theo lời của tiên tri hay kẻ nằm mộng ấy; vì đó là Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đang thử anh em, để biết anh em có hết lòng, hết linh hồn yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình hay không.
\s5
\v 4 Anh em phải theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tôn kính Ngài, giữ các điều răn Ngài, vâng theo tiếng Ngài; anh em cũng phải thờ phượng Ngài và gắn bó với Ngài.
\v 5 Nhà tiên tri hay kẻ nằm mộng đó phải bị xử tử, vì hắn đã xúi giục anh em phản nghịch Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập và cứu anh em ra khỏi nhà nô lệ. Nhà tiên tri đó muốn lôi kéo anh em ra khỏi con đường mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy anh em bước đi trong đó. Cho nên hãy trừ bỏ điều ác khỏi giữa anh em.
\s5
\v 6 Giả dụ anh hay em ruột của anh em, hoặc con trai, con gái, hay người vợ yêu quý của anh em, hoặc bạn chí thiết của anh em âm thầm dụ dỗ anh em đi phụng thờ các thần khác mà anh em lẫn các tổ phụ mình đều không biết
\v 7 dầu các thần đó là của các dân tộc chung quanh hoặc gần với anh em, hay của các dân tộc ở xa anh em, thậm chí ở tận góc bể chân trời.
\s5
\v 8 Đừng thuận theo hay nghe lời họ. Mắt anh em chớ thương xót họ, mà anh em cũng đừng bỏ qua hay che giấu họ.
\v 9 Trái lại, anh em nhất định phải giết chết kẻ đó; anh em phải ra tay trước tiên, và sau đó mọi người khác sẽ tiếp tay xử tử nó.
\s5
\v 10 Anh em phải ném đá kẻ đó cho đến chết, vì nó đã tìm cách lôi kéo anh em từ bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\v 11 Cả Y-sơ-ra-ên sẽ nghe và sợ, và sẽ không dám tiếp tục phạm tội ác như vậy giữa vòng anh em.
\s5
\v 12 Nếu anh em nghe bất kỳ ai nói về một trong các thành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em để sống tại đó, đại ý:
\v 13 Có những kẻ ác ra từ giữa anh em đã quyến dụ cư dân trong thành, rằng: Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác mà anh em chưa biết,
\v 14 thì anh em phải xem xét chứng cớ, truy cứu, điều tra cặn kẽ. Nếu lời đó đúng và chắc chắn có việc đáng kinh tởm như vậy giữa vòng anh em,
\s5
\v 15 thì anh em nhất định phải dùng lưỡi gươm mà tiến đánh dân thành ấy, tận diệt nó cùng với mọi người trong đó, và gia súc nó, cũng bằng lưỡi gươm.
\v 16 Anh em phải gom toàn bộ tài sản trong thành lại nơi chính giữa đường phố nó, rồi thiêu hủy thành đó cùng với mọi tài sản nó vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em. Thành đó mãi mãi phải là một phế tích và không bao giờ được xây lại.
\s5
\v 17 Đừng để một vật nào trong những thứ cần phải hủy diệt đó dính vào tay anh em. Anh em phải làm vậy để Giê-hô-va sẽ xây khỏi cơn giận phừng phừng của Ngài mà đoái đến anh em, thương xót anh em, và khiến số anh em được thêm lên nhiều, như Ngài đã hứa với các tổ phụ anh em.
\v 18 Ngài sẽ làm vậy khi anh em nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn Ngài mà tôi truyền cho anh em ngày nay, làm điều phải trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Anh em là dân của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Đừng vì người chết mà tự cắt mình hoặc cạo bất kỳ phần nào trên mặt mình.
\v 2 Vì anh em là dân biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và Giê-hô-va đã lựa chọn anh em như một dân làm cơ nghiệp cho Ngài, đặc biệt hơn mọi dân tộc trên mặt đất.
\s5
\v 3 Anh em không được ăn bất kỳ thứ gì ghê tởm.
\v 4 Những loài thú mà anh em có thể ăn là bò, chiên, dê,
\v 5 nai, hoàng dương, hươu, dê rừng, sơn dương, bò rừng và linh dương,
\s5
\v 6 Anh em được ăn bất kỳ động vật nào có móng rẽ ra, tức móng nó chia hai, và nhai lại.
\v 7 Tuy nhiên, có một số động vật nhai lại hoặc có móng rẽ mà anh em không được ăn, đó là lạc đà, thỏ, và chồn núi, vì các con này nhai lại nhưng không có móng rẽ, nên chúng không thanh sạch cho anh em.
\s5
\v 8 Con heo cũng không thanh sạch cho anh em vì nó có móng rẽ, nhưng không nhai lại; nó không thanh sạch đối với anh em. Đừng ăn thịt heo, và cũng đừng đụng đến xác chúng.
\s5
\v 9 Trong những loài sống dưới nước, anh em được phép ăn bất kỳ con gì có vây và có vảy,
\v 10 nhưng con gì không có vây và vảy thì anh em không được ăn; các loài này không thanh sạch cho anh em.
\s5
\v 11 Tất cả các loài chim sạch anh em đều ăn được.
\v 12 Nhưng đây là những loài chim anh em không được ăn: đại bàng, kên kên, ưng biển,
\v 13 diều đỏ, diều đen, các loài chim ưng,
\s5
\v 14 các loài chim quạ
\v 15 đà điểu, ó đêm, hải âu, các loài diều hâu,
\v 16 cú vọ, cú mèo, chim lợn,
\v 17 bồ nông, còng cộc, chim cốc,
\s5
\v 18 cò, các loài diệc, chim đầu rìu, và dơi.
\v 19 Mọi loài côn trùng có cánh di chuyển thành đàn đều không thanh sạch cho anh em; anh em không được ăn các loài đó.
\v 20 Anh em có thể ăn mọi loài chim thanh sạch.
\s5
\v 21 Anh em không được ăn bất kỳ con gì chết tự nhiên; nhưng anh em có thể đem cho người ngoại quốc sống trong thành mình ăn; anh em cũng có thể bán cho người ngoại quốc. Vì anh em là dân được biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Anh em không được nấu dê con bằng sữa của mẹ nó.
\s5
\v 22 Anh em nhất định phải nộp một phần mười mọi huê lợi từ hạt giống, do đồng ruộng sinh ra hằng năm.
\v 23 Anh em phải ăn uống phần mười ngũ cốc, rượu mới, dầu, con đầu lòng của đàn bò, đàn chiên trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời tại nơi mà Ngài sẽ chọn làm nơi thánh Ngài, để anh em học biết phải luôn tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 24 Nếu phải đi đường xa vì nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài ở quá xa anh em, khiến anh em không thể đem lễ vật theo, thì, khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em,
\v 25 anh em phải quy lễ vật ấy ra tiền, để riêng tiền đó trong tay anh em, và đi đến nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn.
\s5
\v 26 Ở đó anh em sẽ dùng tiền ấy mua bất kỳ thức gì mình ước ao: bò, chiên, rượu vang hay một loại rượu nào đó, tức bất cứ món nào anh em muốn. Anh em sẽ ăn uống và vui vẻ tại đó trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời, cùng với cả nhà mình.
\v 27 Đừng bỏ bê người Lê-vi trong thành của anh em, vì họ không có phần hoặc cơ nghiệp gì cùng với anh em.
\s5
\v 28 Cứ mỗi ba năm, anh em phải bày ra tất cả phần mười của mọi sản vật mình trong năm đó và trữ ở một nơi trong thành;
\v 29 rồi người Lê-vi, vốn chẳng có phần hoặc cơ nghiệp gì cùng anh em, khách ngoại kiều, và các cô nhi quả phụ trong thành anh em sẽ đến ăn uống thỏa thích. Hãy làm như vậy để Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Cứ đến năm thứ bảy thì anh em phải xóa nợ.
\v 2 Đây là cách anh em thực hiện việc tha nợ: mọi chủ nợ phải xóa món nợi mà mình đã cho người khác vay; người ấy không được đòi người vay hoặc anh em mình trả lại món nợ đó, vì lệnh xóa nợ của Giê-hô-va đã được công bố.
\v 3 Anh em có thể đòi nợ người ngoại quốc; nhưng bất kỳ thứ gì người anh em khác mượn mình thì tay anh em phải buông ra.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, không được có người nghèo giữa vòng anh em (vì Giê-hô-va nhất định sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà Ngài ban cho anh em sở hữu làm cơ nghiệp),
\v 5 nếu anh em chăm chỉ nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi điều răn tôi truyền cho anh em ngày nay.
\v 6 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em như Ngài đã hứa; anh em sẽ cho nhiều dân khác vay mượn, nhưng anh em sẽ không đi vay mượn; anh em sẽ cai trị nhiều dân, nhưng họ sẽ không cai trị anh em.
\s5
\v 7 Nếu có người nghèo giữa vòng anh em, tức một người trong số anh em, tại trong thành của xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, thì đừng rắn lòng và nắm chặt tay lại trước người anh em nghèo khó của mình;
\v 8 mà anh em nhất định phải sè tay mình ra cho người đó và phải cho họ mượn những gì họ cần.
\s5
\v 9 Anh em phải cẩn thận để lòng mình khỏi mang ác tưởng: Năm thứ bảy, là năm tha nợ, đã gần, để rồi trở nên keo kiệt trước người anh em nghèo thiếu đó và từ chối giúp đỡ; biết đâu người ấy sẽ kêu thấu đến Giê-hô-va về anh em, và anh em bị mắc tội.
\v 10 Anh em nhất định phải cho họ, và lòng anh em không được tiếc của khi cho họ như vậy vì, để báo lại, Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong mọi công việc của anh em và mọi điều tay anh em làm.
\s5
\v 11 Vì sẽ luôn có kẻ nghèo trong xứ, cho nên tôi mới truyền bảo anh em rằng: Anh em nhất định phải sè tay ra cho anh em mình, cho những người thiếu thốn và nghèo khó trong xứ.
\s5
\v 12 Nếu một anh em hay chị em Hê-bơ-rơ của anh em bị bán cho anh em và phục vụ anh em được sáu năm, thì sang năm thứ bảy anh em phải phóng thích họ.
\v 13 Khi trả tự do cho họ thì anh em không được để họ ra đi tay không.
\v 14 Anh em phải lấy từ trong bầy chiên, từ sân đạp lúa và từ bàn ép rượu mình mà cung ứng cho họ cách rộng rãi. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em thể nào thì anh em cũng phải ban phát lại cho họ thể ấy.
\s5
\v 15 Anh em phải nhớ rằng mình đã từng làm nô lệ trong xứ Ai Cập, và nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời giải cứu mình; vậy nên ngày nay tôi truyền bảo anh em phải làm như vậy.
\v 16 Nếu người đó nói với anh em, rằng: Tôi không muốn rời xa chủ, vì họ yêu mến anh em và gia đình anh em, và vì họ thấy hạnh phúc khi sống với anh em,
\v 17 thì anh em phải kê tai người đó vào cửa và lấy một cây dùi xỏ qua tai họ, rồi người đó sẽ là tôi tớ của anh em mãi mãi. Đối với một đầy tớ nữ thì anh em cũng làm như vậy.
\s5
\v 18 Anh em không được miễn cưỡng khi trả tự do cho họ, vì họ đã phục vụ anh em sáu năm và làm gấp đôi công việc của người làm thuê. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong mọi việc anh em làm.
\s5
\v 19 Mọi con đực đầu lòng trong đàn bò, đàn chiên của anh em phải biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời; anh em không được bắt con bò đực đầu lòng làm việc, cũng đừng hớt lông con chiên đực đầu lòng.
\v 20 Anh em, cùng cả nhà mình, phải ăn con vật đầu lòng đó trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn.
\v 21 nó có khuyết tật nào, chẳng hạn, nếu nọ bị què hay mù, hoặc có bất kỳ tì vít gì thì anh em không được dâng nó cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 22 Anh em phải ăn nó trong thành mình; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều phải ăn, giống như anh em ăn con hoàng dương hay con nai.
\v 23 Chỉ có điều anh em không được ăn máu nó, mà phải đổ máu đó ra đất giống như đổ nước vậy.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Anh em phải giữ tháng A-bíp, và cũng giữ lễ Vượt Qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vì trong tháng A-bíp Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đem anh em ra khỏi Ai Cập vào ban đêm.
\v 2 Anh em phải dâng sinh tế lễ Vượt Qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình bằng chiên và bò từ trong đàn, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\s5
\v 3 Anh em không được ăn bánh có men với sinh tế; trong bảy ngày, anh em phải ăn bánh không men, là bánh hoạn nạn; vì anh em đã ra khỏi Ai Cập một cách vội vàng. Hãy giữ lễ như vậy trọn cuộc đời anh em trên đất để anh em nhớ lại ngày mình ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 4 Suốt bảy ngày đó, trong khắp cả xứ phải trừ bỏ hết men đi; thịt sinh tế anh em dâng vào lúc chiều tối cũng không được để qua sáng hôm sau.
\s5
\v 5 Anh em không được dâng sinh tế lễ Vượt Qua trong bất kỳ thành nào mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 6 Thay vì vậy, anh em phải dâng lễ tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài. Tại đó, anh em sẽ thực hiện việc dâng sinh tế lễ Vượt Qua vào buổi chiều lúc mặt trời lặn, theo ngày tháng mà anh em ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 7 Anh em phải nướng thịt đó và ăn tại nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn; đến sáng, anh em sẽ trở về lều của mình.
\v 8 Trong sáu ngày anh em phải ăn bánh không men; và ngày thứ bảy sẽ có buổi hội hiệp trọng thể cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em: vào ngày đó, anh em không được làm việc.
\s5
\v 9 Anh em phải tính bảy tuần cho mình; từ lúc anh em đưa lưỡi hái bắt đầu vụ gặt thì anh em phải tính bảy tuần lễ.
\v 10 Anh em phải giữ lễ Các Tuần Lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời bằng cách tự tay mình dâng một của lễ tự nguyện mà anh em muốn dâng, theo như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em.
\s5
\v 11 Anh em sẽ ăn mừng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình cùng với con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, người Lê-vi trong thành anh em, khách ngoại kiều, cô nhi, quả phụ giữa vòng anh em tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\v 12 Anh em hãy nhớ lại mình đã từng làm nô lệ tại Ai Cập; anh em phải giữ và thực hiện các luật lệ này.
\s5
\v 13 Anh em phải giữ lễ Lều Trại trong bảy ngày sau khi anh em đã thu hoạch xong lúa trên sân và rượu trong bàn ép.
\v 14 Anh em sẽ vui vẻ trong suốt kỳ lễ - cùng với con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, người Lê-vi, khách ngoại kiều, cô nhỉ, quả phụ ở trong thành anh em.
\s5
\v 15 Trong bảy ngày, anh em phải giữ lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong suốt vụ thu hoạch cũng như trong mọi việc anh em làm, nên anh em phải thật vui mừng.
\s5
\v 16 Mỗi năm ba lần, toàn bộ nam giới trong anh em phải ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi Ngài sẽ chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần Lễ, và lễ Lều Trại; và anh em không được đi tay không khi ra mắt Giê-hô-va;
\v 17 trái lại, mỗi người sẽ dâng lễ theo khả năng mình có, để anh em hiểu được phước lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho mình.
\s5
\v 18 Anh em phải lập các quan xử kiện và viên chức trong mọi thành mình mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em; họ sẽ được cử ra từ mỗi bộ tộc và họ phải xét xử dân chúng một cách công minh.
\v 19 Anh em không được bẻ cong công lý; anh em không được thiên vị hay nhận của hối lộ, vì của hối lộ làm mờ mắt kẻ khôn sáng và làm thiên lệch lời nói của người công chính.
\v 20 Anh em phải theo đuổi công lý, và chỉ công lý thôi, để anh em được sống và thừa hưởng xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\s5
\v 21 Anh em không được dựng cho mình tượng thần A-sê-ra, bất kỳ loại trụ tượng nào, ngoài bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà anh em sẽ làm cho mình.
\v 22 Anh em cũng không được dựng cho mình bất kỳ trụ đá thiêng nào, là thứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ghét.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Anh em không được dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời con bò hay con chiên bị tì vết hay bất kỳ khuyết tật nào, vì đó là điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời ghê tởm.
\s5
\v 2 Nếu giữa vòng anh em, bên trong thành nào của anh em mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, có bất kỳ người nào, dầu là nam hay nữ, làm điều tà ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời và vi phạm giao ước Ngài
\v 3 bất kỳ ai đi thờ phụng các thần khác, sấp mình trước chúng nó, dầu là mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ thiên thể nào là việc tôi chẳng truyền dạy,
\v 4 và nếu anh em được ai mách bảo hoặc nghe biết chuyện như vậy thì anh em phải thẩm tra cho kỹ. Nếu đúng và chắc chắn đã có chuyện ấy xảy ra tại Y-sơ-ra-ên
\s5
\v 5 thì anh em phải đem người đàn ông hay phụ nữ đã làm việc tà ác đó ra cổng thành, rồi anh em phải ném đá nó cho chết đi.
\v 6 Dựa vào lời của hai hay ba nhân chứng thì người phải chết đó sẽ bị xử tử; nhưng nếu chỉ có lời của một nhân chứng thì không được xử tử.
\v 7 Các nhân chứng phải là người đầu tiên xử tử người ấy, sau đó mọi người sẽ tham gia; anh em phải trừ diệt việc tà ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 8 Nếu xuất hiện một vấn đề quá khó cho anh em phân xử - có thể là một trường hợp sát nhân hay ngộ sát, hoặc người này đúng hay người kia đúng, hoặc về một thiệt hại nào đó xảy ra, hay một vấn đề nào khác tức các vấn đề gây tranh cãi trong thành anh em, thì anh em phải đi lên địa điểm mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\v 9 Anh em phải đến gặp các thầy tế lễ con cháu dòng Lê-vi, và gặp quan xử kiện đương chức vào thời điểm đó; anh em phải vấn ý họ, và họ sẽ cho anh em biết bản án.
\s5
\v 10 Anh em phải làm theo luật pháp họ tỏ cho mình, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn làm nơi thánh Ngài. Anh em phải cẩn thận thực hiện mọi việc họ chỉ thị cho anh em.
\v 11 Hãy tuân theo luật pháp họ dạy cho, và làm theo quyết định mà họ đưa ra cho anh em. Đừng bỏ qua điều họ tỏ ra cho anh em mà đi chệch sang bên phải hay bên trái.
\s5
\v 12 Kẻ nào kiêu ngạo không nghe theo thầy tế lễ đứng phục vụ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, hoặc không chịu nghe quan xử kiện thì kẻ đó phải chết; anh em phải trừ diệt điều ác khỏi Y-sơ-ra-ên.
\v 13 Mọi người sẽ nghe và sợ, và sẽ không dám kiêu ngạo nữa.
\s5
\v 14 Khi anh em đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình, khi anh em đã chiếm hữu xứ ấy và bắt đầu sống tại đó, và rồi anh em nói: Mình sẽ lập một vua để cai trị mình, giống như mọi dân tộc chung quanh,
\v 15 thì anh em nhất định phải lập người mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn lên làm vua cai trị mình. Anh em phải lập vua cho mình từ trong số những người anh em mình. Anh em không được lập một người ngoại quốc, vốn không phải là anh em mình, lên cai trị mình.
\s5
\v 16 Nhưng vua đó không được lo gia tăng số ngựa cho mình, cũng không được vì muốn có nhiều ngựa mà khiến dân chúng quay trở về Ai Cập, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời có phán với anh em: Từ rày trở đi, các ngươi không bao giờ được trở lại con đường đó nữa.
\v 17 Vua ấy không được cưới nhiều vợ, để khỏi trở lòng bỏ Giê-hô-va; vua cũng không được lo chất chứa bạc, vàng cho mình.
\s5
\v 18 Khi vua ngồi trên ngai cai trị vương quốc mình, vua phải sao chép ra sách cho mình một bản luật pháp này, chiếu theo bản luật pháp trước mặt các thầy tế lễ người Lê-vi.
\v 19 Cuốn sách luật pháp đó phải ở bên vua, và vua phải đọc trong đó trọn những ngày vua sống trên đất, để học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi lời trong luật pháp cùng các luật lệ ấy, mà thực hiện.
\s5
\v 20 Vua phải làm vậy để lòng vua khỏi tự nhấc mình lên trên anh em mình, và để vua khỏi quay qua bên phải hay bên trái mà lìa bỏ các điều răn, nhờ đó vua cùng con cháu được tại vị lâu dài giữa vòng Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Các thầy tế lễ người Lê-vi, cùng toàn thể bộ tộc Lê-vi, sẽ không có phần hay sản nghiệp gì với Y-sơ-ra-ên; họ phải ăn các của lễ dùng lửa dâng lên cho Giê-hô-va như là phần của mình.
\v 2 Họ không được hưởng sản nghiệp gì giữa vòng anh em mình; Giê-hô-va chính là cơ nghiệp của họ, như Ngài đã phán với họ.
\s5
\v 3 Đây là phần các thầy tế được hưởng từ những người dâng sinh tế, dầu là bò hay chiên: họ phải nộp cho thầy tế lễ cái vai, hai má, và bộ lòng.
\v 4 Sản phẩm đầu mùa là ngũ cốc, rượu mới, và dầu, cũng như mẻ lông cừu đầu tiên, anh em phải nộp cho thầy tế lễ.
\v 5 Vì từ trong mọi bộ tộc anh em Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã chọn họ, để họ cùng các con trai họ luôn ứng trực và phục vụ, nhân danh Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Nếu một người Lê-vi từ bất kỳ thành nào trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên, tức từ nơi người ấy đang sinh sống, hết lòng muốn đến nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn,
\v 7 thì người ấy phải nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà phục như mọi anh em khác thuộc dòng Lê-vi của mình, ứng trực tại đó trước Giê-hô-va.
\v 8 Họ phải được ăn một phần tương tự như những người kia, không kể tiền bán gia sản của họ.
\s5
\v 9 Khi anh em đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình thì anh em không được học theo các việc làm kinh tởm của các dân ở đó.
\v 10 Giữa vòng anh em không ai được phép đưa con trai hay con gái mình qua lửa, không ai được xem quẻ, bói toán, thôi miên, làm ma thuật,
\v 11 ếm chú, đồng bóng, hay thông linh.
\s5
\v 12 Vì người nào làm các việc đó đều bị Giê-hô-va ghê tởm; chính vì các việc ghê tởm ấy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đuổi các dân tộc kia khỏi trước mặt anh em.
\v 13 Anh em phải trọn lành trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 14 Vì các dân tộc mà anh em sẽ tống xuất đó đã nghe theo giới thuật sĩ và bói toán; nhưng phần anh em, Giê-hô-va Đức Chúa Trời không cho phép anh em làm vậy.
\s5
\v 15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ lập một người trong anh em, từ giữa vòng anh em, một nhà tiên tri giống như tôi. Anh em phải nghe theo người.
\v 16 Đây là điều anh em đã cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại Hô-rếp vào ngày hội hiệp, rằng: Xin đừng bắt chúng tôi lại phải nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và nhìn thấy đám lửa lớn này nữa, e chúng tôi phải chết.
\s5
\v 17 Giê-hô-va đã phán với tôi: Họ nói đúng đó.
\v 18 Ta sẽ lập lên một nhà tiên tri cho họ từ giữa vòng anh em họ, giống như con vậy. Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người ấy, và người ấy sẽ nói lại cho họ mọi điều Ta truyền bảo.
\v 19 Nếu kẻ nào không nghe theo lời Ta mà người ấy nhân danh Ta nói ra, thì Ta sẽ buộc kẻ đó phải nghe.
\s5
\v 20 Nhưng nhà tiên tri ngạo mạn tự ý nhân danh Ta phát biểu, không phải là lời Ta truyền bảo họ nói ra, hoặc nhân danh các thần khác mà phát biểu, thì chính tiên tri đó phải chết.
\v 21 Anh em có thể thắc mắc trong lòng, rằng: Làm sao chúng tôi nhận biết sứ điệp không phải do Giê-hô-va phán ra?
\s5
\v 22 khi nhà tiên nhân danh Giê-hô-va phát biểu, nếu việc không xảy ra, thì đó không phải là lời Giê-hô-va phán; tiên tri ấy đã kiêu ngạo nói ra lời đó, và anh em không được sợ nó.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã diệt hết các dân đang sống trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, và khi anh em kế thừa họ sống trong các thành cũng như nhà cửa của họ,
\v 2 thì anh em phải chọn ra ba thành cho mình ở chính giữa xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu.
\v 3 Anh em phải đắp một con đường và chia địa phận xứ mình thành ba phần, tức xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em thừa hưởng, để mọi kẻ sát nhân có thể chạy đến ẩn náu tại đó.
\s5
\v 4 Luật dành cho kẻ giết người chạy đến đó để được sống là thế này: bất kỳ ai vô tình giết chết người khác không phải do tư thù sẵn có
\v 5 chẳng hạn như ai đó đi vào rừng đốn cây cùng một người khác, nhưng khi vung rìu lên chặt cây thì đầu rìu vụt khỏi cán văng trúng người kia, gây tử vong lúc đó người này phải chạy đến một trong các thành này để được sống.
\s5
\v 6 Nếu không, kẻ đòi nợ máu có thể đuổi theo kẻ sát nhân, và trong cơn giận sôi sục đuổi kịp anh ta vì đường xa, rồi đánh giết đi, dầu anh này không đáng chết vì trước khi vụ việc xảy ra anh ta không có tư thù gì với người bị giết.
\v 7 Vậy nên tôi truyền bảo anh em chọn ra ba thành cho mình.
\s5
\v 8 Nếu Giê-hô-va Đức Chúa Trời mở rộng bờ cõi của anh em, như Ngài đã thề hứa với các tổ phụ anh em, và ban cho anh em toàn bộ xứ mà Ngài đã thề hứa ban cho các tổ phụ anh em;
\v 9 nếu anh em giữ và làm theo mọi điều răn này mà tôi truyền bảo cho anh em ngày nay như phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời và luôn bước đi trong các đường lối Ngài, thì anh em phải chọn thêm ba thành nữa cho mình, ngoài ba thành kia.
\v 10 Phải làm như vậy để máu vô tội không bị đổ ra trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm cơ nghiệp và anh em khỏi mắc tội làm đổ máu.
\s5
\v 11 Nhưng nếu có ai thù ghét một người khác, rình rập rồi xông vào đánh người đó, gây thương tích trầm trọng khiến anh ta tử vong, sau đó chạy đến ẩn nấp tại một trong các thành này,
\v 12 thì các trưởng lão trong thành kẻ sát nhân phải cho người đến giải hắn về, rồi giao hắn cho người đòi nợ máu, để giết chết hắn đi.
\v 13 Mắt anh em không được thương xót hắn, mà phải trừ diệt kẻ phạm tội đổ máu khỏi Y-sơ-ra-ên, để anh em được phước.
\s5
\v 14 Anh em không được di dời mốc địa giới của người lân cận mà họ đã đặt tại chỗ nó từ lâu về trước, trên phần đất anh em được thừa hưởng, trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu.
\s5
\v 15 Một nhân chứng duy nhất không đủ để quy kết một ai đó về bất kỳ vi phạm hoặc tội lỗi nào trong bất kỳ trường hợp nào; bất cứ vụ việc nào cũng cần phải có hai nhân chứng hoặc ba nhân chứng mới xác định được.
\v 16 Già sử có một nhân chứng gian đứng lên làm chứng rằng người nào đó đã làm điều sai trái để cáo tội người này.
\s5
\v 17 Lúc ấy, cả hai bên liên quan đến cuộc tranh tụng phải ra hầu Giê-hô-va trước mặt các thầy tế lễ và quan xử kiện đương chức tại thời điểm đó.
\v 18 Quan xử kiện sẽ xét hỏi kỹ càng; nếu nhân chứng đó cáo gian và đã làm chứng dối về người anh em kia,
\v 19 thì anh em phải xử kẻ đó theo như cách hắn muốn xử anh em mình; và anh em sẽ trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng anh em.
\s5
\v 20 Như vậy, những ai nghe sẽ sợ và từ đó sẽ không dám phạm điều ác như vậy giữa vòng anh em nữa.
\v 21 Mắt anh em không được thương xót; mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Khi anh em xung trận để giao chiến với quân thù, nhưng lại thấy họ có nhiều ngựa, xe, và người đông hơn mình, thì anh em cũng đừng sợ; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đem anh em ra khỏi Ai Cập, vẫn ở cùng anh em.
\s5
\v 2 Khi gần đến lúc giao chiến thì thầy tế lễ phải sẽ bước tới phát biểu trước mọi người,
\v 3 rằng: Này, Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây. Hôm nay anh em sắp giao chiến với quân thù; anh em không được nao núng tinh thần; đừng hoang mang, đừng run rẩy, cũng đừng kinh sợ chúng;
\v 4 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi cùng anh em để chiến đấu với quân thù thay cho anh em, và giải cứu anh em.
\s5
\v 5 Các quan tướng sẽ phải nói với mọi người, rằng: ‘Ở đây có ai mới cất nhà mà chưa vào ở không? Người đó hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận và một người khác sẽ được ở nhà đó.
\s5
\v 6 Có ai trồng vườn nho mà chưa được ăn trái nó không? Người đó hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận và người khác được ăn trái.
\v 7 Có ai đã hứa hôn với một phụ nữ mà chưa kịp làm lễ cưới không? Người ấy hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận, và một người khác sẽ cưới vợ hứa của mình.
\s5
\v 8 Các quan tướng phải nói thêm với mọi người, rằng: Có ai sợ hãi hoặc sờn lòng không? Người đó hãy trở về nhà để khỏi khiến lòng anh em bị nao sờn giống như mình.
\v 9 'Khi các quan tướng đã phát biểu với mọi người như vậy rồi thì họ phải chỉ định các viên chỉ huy binh lính
\s5
\v 10 Khi anh em tiến đánh một thành nào thì trước tiên hãy nghị hòa với thành đó.
\v 11 Nếu họ chấp nhận đề nghị của anh em và mở cửa thành đón tiếp anh em, thì toàn thể cư dân trong thành phải chịu lao động cưỡng bách phục dịch anh em.
\s5
\v 12 Nhưng nếu họ không chịu nghị hòa với anh em, mà lại khai chiến với anh em, thì anh em phải công thành;
\v 13 một khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cho anh em được thắng và khiến họ phải khuất phục anh em, thì anh em phải giết hết đàn ông trong thành.
\s5
\v 14 Nhưng phụ nữ, trẻ con, gia súc cùng mọi thứ trong thành, tức toàn bộ tài sản nó, thì anh em sẽ đoạt lấy làm chiến lợi phẩm cho mình. Anh em sẽ hưởng chiến lợi phẩm từ quân thù mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 15 Anh em phải xử như vậy với tất cả các thành cách xa mình, tức các thành không thuộc trong số thành của các dân tộc dưới đây.
\s5
\v 16 Tại các thành của những dân tộc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm sản nghiệp thì anh em không được chừa lại bất kỳ thứ gì có hơi thở.
\v 17 Trái lại, anh em phải diệt sạch hết bọn họ: dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền bảo anh em.
\v 18 Hãy làm vậy để họ đừng dạy anh em hành xử theo những lề thói đáng kinh tởm như họ làm cho các thần của mình.
\s5
\v 19 Khi anh em vây thành nào lâu ngày, hãm đánh để chiếm lấy nó, anh em không được dùng rìu để hủy hoại cây cối nó. Vì anh em có thể hưởng hoa quả từ cây, nên anh em không được đốn hạ nó. Vì phải chăng cây ngoài đồng là quân thù nên anh em phải công hãm?
\v 20 Chỉ những cây nào anh em biết là không phải cây ăn quả thì anh em mới được đốn hạ để dựng công sự tiến đánh thành đang lâm chiến với mình, cho đến khi nó thất thủ.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Nếu trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu người ta phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng mà không biết bị ai giết chết,
\v 2 thì các trưởng lão và quan xử kiện của anh em phải ra đồng và họ phải đo khoảng cách từ xác người chết đến các thành chung quanh.
\s5
\v 3 Thành nào gần xác chết nhất thì các trưởng lão thành đó phải lấy từ trong đàn ra một con bò cái tơ chưa bị bắt cày kéo, tức chưa từng mang ách.
\v 4 Các trưởng lão của thành phải đem con bò cái tơ đó xuống một thung lũng có dòng nước chảy, chỗ chưa có ai gieo trồng gì, rồi đánh gãy cổ con bò tại chỗ đó.
\s5
\v 5 Các thầy tế lễ là con cháu Lê-vi phải đến, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã chọn họ để phục vụ Ngài và nhân danh Giê-hô-va chúc phước cho dân chúng; hãy nghe theo lời chỉ bảo của họ, vì lời họ sẽ là phán quyết trong mọi cuộc tranh tụng và mọi trường hợp đả thương.
\s5
\v 6 Tất cả các trưởng lão của thành gần chỗ xác chết nhất phải rửa tay mình trên con bò cái tơ đã bị đánh gãy cổ trong thung lũng;
\v 7 họ phải lên tiếng về vụ việc ấy, rằng: Tay chúng tôi không làm đổ máu này, chúng tôi cũng không chứng kiến vụ việc.
\s5
\v 8 Lạy Giê-hô-va, xin hãy tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, là dân Ngài đã chuộc, và xin đừng kể tội làm đổ máu vô tội này cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Lúc đó, họ sẽ được tha tội làm đổ máu.
\v 9 Như vậy, khi anh em làm điều phải trước mặt Giê-hô-va, thì anh em sẽ giũ sạch máu vô tội khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 10 Khi anh em ra đi giao chiến với quân thù và Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho anh em đánh thắng, bắt chúng phải khuất phục anh em, thì anh em phải bắt chúng làm tù binh.
\v 11 Nếu anh em thấy trong số tù binh có một phụ nữ xinh đẹp mà anh em ưa thích và muốn lấy làm vợ mình,
\v 12 thì anh em phải đưa cô ta về nhà mình, và cô ta phải cạo đầu cũng như cắt hết móng tay, móng chân đi.
\s5
\v 13 Cô ta phải lột bỏ y phục mặc trên người khi bị bắt làm tù binh, và sẽ ở luôn trong nhà anh em đúng một tháng, khóc thương cha mẹ mình. Sau đó, anh em có thể ăn ở với cô ta như chồng, và cô ta sẽ là vợ anh em.
\v 14 Nhưng nếu anh em không còn ưa thích cô ta nữa, thì anh em phải để cô ta ra đi tự do. Anh em dứt khoát không được đem bán, cũng không được cư xử với cô ta như nô lệ, vì anh em đã khiến cô ta bẽ mặt rồi.
\s5
\v 15 Nếu người nào có hai vợ, nhưng lại yêu thương người này và ghét bỏ người kia, trong khi cả hai người vợ được yêu thương lẫn người vợ bị ghét bỏ đều sinh con cho mình, và nếu con trai trưởng là con của người vợ bị ghét,
\v 16 thì vào ngày người đó chia sản nghiệp mình lại cho các con trai thừa hưởng, người đó không được đưa con trai của người vợ được thương lên làm con trai trưởng thay cho con trai của người vợ bị ghét, là con trai trưởng đích thực.
\v 17 Trái lại, người đó phải nhận con trai của người vợ bị ghét là trưởng nam bằng cách chia cho con trai ấy phần gấp đôi trong mọi thứ mình sở hữu; vì nó là bông trái đầu tiên của sức lực người đó, nên quyền trưởng nam phải thuộc về nó.
\s5
\v 18 Nếu người nào có đứa con ngang bướng, ngỗ nghịch, không nghe lời cha mẹ mình, và cho dù họ đã sửa phạt nhưng nó vẫn không chịu vâng lời;
\v 19 khi đó, người cha và người mẹ phải bắt nó dẫn đến các trưởng lão của thành mình, tại nơi cổng thành.
\s5
\v 20 Họ phải trình với các trưởng lão của thành mình, rằng: Thằng con này của chúng tôi thật ngang bướng và ngỗ nghịch; nó không chịu vâng lời chúng tôi; nó tham ăn, mê uống.
\v 21 Rồi mọi người trong thành phải ném đá nó cho chết đi; và anh em sẽ loại bỏ điều ác khỏi giữa vòng anh em.
\s5
\v 22 Nếu người nào phạm một tội đáng chết và phải bị xử tử bằng cách treo lên trụ hình,
\v 23 thì thây của nó không được để treo qua đêm. Thay vào đó, anh em nhất định phải chôn cất nó trong ngày; vì bất kỳ ai bị treo lên như vậy thì bị Đức Chúa Trời rủa sả. Hãy tuân theo giới mạng này để anh em không làm ô uế xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm sản nghiệp.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Khi thấy bò hay chiên của anh em người Y-sơ-ra-ên mình đi lạc thì anh em không được làm ngơ; anh em nhất định phải dắt nó trở về với chủ.
\v 2 Nếu người anh em Y-sơ-ra-ên đó không ở gần anh em, hoặc nếu anh em không biết người đó, thì anh em phải đem con vật về nhà mình, và phải giữ nó cho đến khi người kia đến tìm, rồi anh em sẽ giao lại cho anh ta.
\s5
\v 3 Anh em phải làm tương tự với lừa của họ; anh em phải làm tương tự với áo quần của họ; anh em phải làm tương tự với mọi vật mà anh em người Y-sơ-ra-ên làm thất lạc, tức mọi thứ họ bị mất mà anh em tìm gặp; anh em không được làm ngơ.
\v 4 Khi thấy lừa hay bò của anh em người Y-sơ-ra-ên mình ngã quỵ dọc đường, thì anh em không được làm ngơ, mà anh em phải giúp họ đỡ nó dậy.
\s5
\v 5 Phụ nữ không được mặc áo quần của nam giới, mà nam giới cũng không được mặc đồ phụ nữ, vì bất kỳ ai làm vậy thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đều ghê tởm.
\s5
\v 6 Nếu anh em tình cờ bắt gặp một tổ chim trên đường đi, trên cây, hay dưới đất, trong tổ có chim con hay trứng, và chim mẹ đang ấp, thì anh em không được bắt cả mẹ lẫn con.
\v 7 Anh em có thể bắt chim con cho mình, nhưng nhất định phải thả chim mẹ đi. Hãy vâng theo giới luật này đề anh em được phước và để anh em được sống lâu.
\s5
\v 8 Khi làm nhà mới, thì anh em phải làm thanh chắn trên mái, để anh em không khiến máu vô tội đổ trên nhà mình khi có ai đó trên mái té xuống.
\s5
\v 9 Anh em không được trồng vườn nho mình bằng hai loại hạt giống, vì làm vậy thì toàn bộ vụ thu hoạch đều bị sung vào nơi thánh, cả hạt giống mà anh em gieo lẫn hoa lợi của vườn nho.
\v 10 Anh em không được cho con bò cày chung với con lừa
\v 11 Anh em không được mặc áo quần dệt bằng lông chiên chung với sợi lanh.
\s5
\v 12 Anh em phải kết tua cho bốn góc áo choàng mình mặc.
\s5
\v 13 Giả sử một người đàn ông cưới vợ, ăn ở với vợ, nhưng rồi lại ghét bỏ vợ,
\v 14 và đi phao vu cô ấy đã làm những chuyện xấu hổ, khiến cô ấy bị tai tiếng, rằng: Tôi đã lấy người phụ nữ này, nhưng khi đến gần tôi chẳng thấy có gì chứng tỏ cô ta còn trinh trắng.
\s5
\v 15 Khi đó, cha mẹ của người thiếu nữ phải trưng ra bằng cớ về sự trinh trắng của con mình cho các trưởng lão tại cổng thành.
\s5
\v 16 Cha của người thiếu nữ phải nói với các trưởng lão, rằng: Tôi đã gả con gái cho cậu này làm vợ, nhưng cậu ta lại ghét bỏ nó.
\v 17 Đó, cậu ta đã phao vu cho nó, rằng: “Tôi thấy con gái ông bà không còn trinh trắng nữa” nhưng đây là chứng cớ về sự trinh tiết của con gái tôi. Và rồi họ sẽ trải áo choàng của cô gái ra trước mặt các trưởng lão của thành đó.
\s5
\v 18 Các trưởng lão trong thành phải bắt người chồng để trừng phạt;
\v 19 họ phải buộc anh ta nộp phạt một trăm miếng bạc vì đã gây tai tiếng cho một trinh nữ Y-sơ-ra-ên, và trao số bạc đó cho cha cô gái. Người chồng phải nhận thiếu nữ này làm vợ; trọn đời mình anh ta không được ruồng bỏ.
\s5
\v 20 Nhưng nếu lời người chồng nói là đúng, tức cô gái không chứng minh được sự trinh trắng của mình,
\v 21 thì người ta phải đem cô gái đến cửa nhà cha cô ta, và người trong thành đó phải ném đá cô ta cho chết đi, vì cô ta đã phạm một việc nhơ nhuốc trong Y-sơ-ra-ên, khi làm điếm ngay trong nhà cha mình. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 22 Nếu người ta bắt gặp một người đàn ông ngủ với một phụ nữ đã có chồng, thì cả hai tức người đàn ông ngủ với người phụ nữ và chính người phụ nữ - đều phải chết. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 23 Nếu một cô gái vốn là trinh nữ đã hứa hôn với một người đàn ông, nhưng một người đàn ông khác gặp cô gái trong thành rồi ăn nằm với cô ta,
\v 24 thì phải đem cả hai người ra cổng thành và ném đá họ cho chết đi. Anh em phải ném đá cô gái, vì ở trong thành mà cô ta không kêu cứu. Anh em phải ném đá người đàn ông vì hắn đã hãm hiếp vợ của người khác. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 25 Nhưng nếu người đàn ông thấy cô gái đã hứa hôn kia ngoài đồng, và nếu người đó bắt ép cô gái và ăn nằm với cô gái, thì chỉ người đàn ông đã ăn nằm với cô gái đó phải chết.
\v 26 Còn với cô gái thì anh em đừng hình phạt gì cả; cô ta chẳng phạm tội gì đáng chết. Trường hợp này cũng giống như khi một người tấn công người đồng loại rồi giết chết người đó.
\v 27 Vì kẻ đó gặp cô gái ngoài đồng; cô gái đã hứa hôn có kêu cứu, nhưng chẳng có ai cứu giúp.
\s5
\v 28 Nếu một người đàn ông gặp một cô gái là trinh nữ chưa đính hôn, và nếu người này bắt ép rồi ăn nằm với cô gái, và họ bị phát hiện,
\v 29 thì người đàn ông đã ăn nằm với cô gái phải trả cho cha cô gái năm mươi miếng bạc, và phải lấy cô gái làm vợ, vì người đó đã làm nhục cô ta. Trọn đời mình người đó không được ruồng bỏ vợ.
\s5
\v 30 Không ai được lấy vợ của cha mình làm vợ, người đó không được tước mất quyền làm chồng của cha.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Bất kỳ người nam nào có tinh hoàn bị giập hay bị cắt bỏ đều không được vào hội của Giê-hô-va.
\v 2 Người nào vốn là con hoang không được vào hội của Giê-hô-va; con cháu của người đó dầu đến đời thứ mười cũng không được vào đó.
\s5
\v 3 Người Am-môn và người Mô-áp không thể vào hội của Giê-hô-va; con cháu họ dù cho đến đời thứ mười cũng không được vào.
\v 4 Sở dĩ như vậy là vì họ đã không đem bánh, nước tiếp đón anh em lúc đi đường, sau khi anh em ra khỏi Ai Cập, và vì họ đã mướn Ba-la-am, con trai Bê-ô người Phê-thô-rơ ở A-ram Na-ha-ra-im, rủa sả anh em.
\s5
\v 5 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em không nghe theo Ba-la-am; thay vào đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đổi lời rủa sả thành lời chúc phước cho anh em, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời yêu thương anh em.
\v 6 Trọn đời sống anh em không được mưu cầu sự bình an hay thịnh vượng gì cho họ.
\s5
\v 7 Anh em không được khinh ghét người Ê-đôm, vì họ cũng là anh em mình; anh em không được khinh ghét người Ai Cập, vì anh em từng làm khách ngoại kiều trong xứ sở họ.
\v 8 Con cháu đời thứ ba của họ có thể vào hội của Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Khi anh em xung trận tiến đánh quân thù, thì anh em phải giữ mình khỏi mọi điều ác.
\v 10 Nếu giữa vòng anh em có ai không thanh sạch vì việc đã xảy ra cho mình lúc ban đêm thì người đó phải ra ngoài trại, không được trở vào.
\v 11 Đến chiều tối, người đó phải tắm mình trong nước; khi mặt trời lặn, thì người đó sẽ được trở vào bên trong trại.
\s5
\v 12 Anh em cũng phải dành một nơi bên ngoài trại để ra mà đi ngoài;
\v 13 và anh em phải có một vật dụng để đào; khi anh em đi ngoài thì anh em sẽ dùng vật đó để đào lỗ, xong sẽ đùa đất lấp phân lại.
\v 14 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi lại giữa doanh trại anh em để cho anh em chiến thắng và giao quân thù vào tay anh em, cho nên doanh trại anh em phải thánh để Ngài chẳng thấy điều gì không thanh sạch giữa vòng anh em khiến Ngài từ bỏ anh em.
\s5
\v 15 Anh em không được giao trả kẻ nô lệ đã bỏ trốn lại cho người chủ.
\v 16 Hãy để anh ta sống với anh em, tại bất kỳ thành nào anh ta chọn. Đừng áp bức anh ta.
\s5
\v 17 Giữa vòng các con gái Y-sơ-ra-ên không ai được hành nghề mãi dâm trong các đền miếu; mà giữa vòng các con trai Y-sơ-ra-ên cũng vậy.
\v 18 Đừng đem vào nhà Giê-hô-va Đức Chúa Trời tiền công của một gái điếm hay tiền công của một trai điếm để làm vật khấn hứa, vì cả hai thứ tiền này đều ghê tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 19 Anh em không được cho người anh em Y-sơ-ra-ên mình vay lấy lãi dầu là tiền bạc, thức ăn, hay bất kỳ vật gì người ta cho vay lấy lãi.
\v 20 Đối với khách ngoại kiều thì anh em có thể cho vay lấy lãi, nhưng với anh em người Y-sơ-ra-ên của mình thì anh em không được cho vay lấy lãi, để Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm trong xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu.
\s5
\v 21 Khi anh em hứa nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình thì anh em không được chậm thực hiện, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời hẳn sẽ đòi anh em phải hoàn nguyện; anh em sẽ phạm tội nếu không hoàn nguyện.
\v 22 Nhưng nếu anh em không khấn hứa thì anh em không mắc tội.
\v 23 Lời nào anh em nói ra thì anh em phải tuân giữ và thực hiện, theo như anh em đã hứa nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bất kỳ điều gì mà anh em đã tự nguyện thề hứa bằng miệng mình.
\s5
\v 24 Khi anh em vào vườn nho của kẻ khác, anh em được ăn tùy thích, nhưng không được bỏ vào giỏ đem về.
\v 25 Khi anh em vào đồng lúa chín của người khác, anh em được phép dùng tay bứt bông lúa, nhưng không được dùng lưỡi hái cắt lúa chín của người ta.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Khi người nào lấy vợ và đã cưới rồi, nếu chị ta không được lòng người chồng vì người này thấy chị có điều gì đó không tương xứng, thì người đó phải viết cho chị một giấy chứng nhận ly hôn, rồi bảo chị ra khỏi nhà.
\v 2 Khi đã ra khỏi nhà người này thì chị có thể về làm vợ một người đàn ông khác.
\s5
\v 3 Nếu người chồng sau này lại ghét bỏ chị và viết chứng nhận ly hôn trao cho chị, rồi đuổi chị ra khỏi nhà; hay nếu người chồng sau qua đời, thì người đàn ông lúc đầu đã lấy chị làm vợ
\v 4 tức người chồng trước đó đã đuổi chị đi người này không được lấy chị làm vợ lại, vì chị đã bị ô uế. Đó là điều kinh tởm đối với Giê-hô-va. Anh em không được làm cho ô uế xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình làm sản nghiệp.
\s5
\v 5 Khi một người mới cưới vợ thì người đó khỏi phải ra trận, và cũng không bị buộc thi hành bổn phận nào có tính cưỡng bách; người đó được thong thả ở nhà một năm để đem lại niềm vui cho người vợ mình đã cưới.
\s5
\v 6 Không ai được giữ cối xay hay thớt cối trên như vật thế chấp, vì đó chẳng khác nào nhận cầm mạng sống của người khác.
\s5
\v 7 Nếu kẻ nào bắt cóc một người anh em mình từ giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, và đối xử với người đó như nô lệ rồi đem bán, thì kẻ bắt người đó phải chết. Anh em phải diệt trừ việc ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 8 Hãy coi chừng về nạn dịch phung hủi, để cẩn thận tuân thủ và làm theo mọi hướng dẫn mà các thầy tế lễ dòng Lê-vi đã chỉ dạy cho anh em; anh em phải thực hiện đúng như tôi đã dặn bảo họ.
\v 9 Hãy nhớ lại điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã làm cho Mi-ri-am, khi anh em ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 10 Khi anh em cho người khác vay mượn thứ gì thì cũng đừng vào nhà họ mà lấy vật thế chấp.
\v 11 Anh em cứ đứng bên ngoài và người đi vay mượn anh em đó sẽ đem vật thế chấp ra cho anh em.
\s5
\v 12 Nếu đó là người nghèo thì anh em không được đi ngủ khi vẫn còn giữ vật thế chấp đó.
\v 13 Đến lúc mặt trời lặn thì anh em nhất định phải trả lại món đồ thế chấp cho họ, để họ có áo mà đắp khi ngủ và chúc phước cho anh em; đó sẽ là sự công chính của anh em trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 14 Anh em không được áp bức người làm thuê nghèo khổ, thiếu thốn, dầu đó là người anh em Y-sơ-ra-ên của mình hay là khách ngoại kiều đang ở trong xứ anh em, bên trong các thành của anh em.
\v 15 Mỗi ngày anh em phải trả công cho họ ngay; không được để vấn đề này tồn đọng sau khi mặt trời lặn, vì họ nghèo thiếu và phải cậy vào đó để sống.
\s5
\v 16 Không được xử tử cha mẹ vì tội của con cái, cũng không được xử tử con cái vì tội của cha mẹ. Trái lại, ai phạm tội thì chính người đó phải bị xử tử.
\s5
\v 17 Anh em không được xử bất công đối với khách ngoại kiều hay kẻ mồ côi, cũng đừng nhận áo của góa phụ làm vật thế chấp.
\v 18 Anh em phải nhớ lại mình đã từng làm nô lệ tại Ai Cập, và nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời giải cứu mình khỏi đó. Vậy nên tôi chỉ thị cho anh em phải vâng theo giới luật này.
\s5
\v 19 Khi anh em gặt lúa ngoài đồng, và nếu anh em lỡ bỏ quên bó lúa nào ngoài đó, thì anh em không được quay trở lại lấy. Anh em phải để cho khách ngoại kiều, cho kẻ mồ côi, hoặc cho người góa bụa, để Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm.
\v 20 Khi anh em rung lắc cây ô-liu mình, thì anh em không được mót lại những trái còn sót trên nhánh; đó sẽ là phần của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi, hoặc người góa bụa.
\s5
\v 21 Khi anh em thu hoạch trái của vườn nho mình, anh em không được quay lại mót; đó sẽ là phần của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi, hay người góa bụa.
\v 22 Anh em phải nhớ lại rằng mình từng là nô lệ trong xứ Ai Cập; vì vậy tôi chỉ thị anh em phải tuân giữ giới luật này.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Khi có tranh chấp và hai bên đưa nhau ra tòa để quan tòa xét xử, thì quan tòa sẽ tha bổng cho người công bình và tuyên phạt kẻ ác.
\v 2 Nếu kẻ có tội đáng bị đánh đòn, thì quan tòa sẽ bảo họ nằm xuống trước mặt mình và chịu đánh số gậy đòn tương xứng với tội đã gây ra.
\s5
\v 3 Quan tòa có thể phạt kẻ ấy bốn mươi đòn, nhưng không được vượt quá số đó, vì nếu quan tòa xử quá số đó để rồi đánh họ nhiều thêm thì người anh em Y-sơ-ra-ên kia sẽ bị nhục trước mặt anh em,
\s5
\v 4 Anh em không được khớp mõm con bò đang đạp lúa.
\s5
\v 5 Trong trường hợp các anh em ở chung nhà mà một người chết đi không con, thì người vợ của kẻ chết đó không được đi lấy người khác bên ngoài gia đình. Thay vì vậy, anh hay em trai của người đã chết phải ăn ở với người vợ góa như là vợ mình và làm bổn phận của người anh em chồng đối với chị.
\v 6 Làm vậy là để người con trưởng mà chị sinh ra sẽ nối danh cho người anh em đã chết của mình và danh đó không bị mất đi trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 7 Nhưng nếu người đó không muốn lấy chị hay em dâu mình làm vợ, thì người vợ góa đó phải đến gặp các trưởng lão tại cổng thành trình báo, rằng: Người anh/em chồng của tôi không chịu lưu danh cho em/anh mình trong Y-sơ-ra-ên, và từ chối thi hành bổ phận của anh/em chồng đối với tôi.
\v 8 Khi đó, các trưởng lão trong thành phải gọi anh này đến để nói chuyện. Nhưng giả sử anh ta khăng khăng từ chối, rằng: Tôi không muốn lấy người này.
\s5
\v 9 Lúc ấy, người em dâu hay chị dâu kia phải đến gần anh này trước sự hiện diện của các trưởng lão, lột dép ở chân anh ta ra, rồi nhổ vào mặt anh ta. Chị phải đáp lại anh ta, rằng: Người không chịu gây dựng gia đình cho em/anh mình thì phải xử thế này.
\v 10 Trong Y-sơ-ra-ên, anh này sẽ bị mang danh là Nhà của kẻ bị lột dép.
\s5
\v 11 Nếu có hai người đàn ông đánh nhau, và vợ của một người đến để tiếp cứu chồng, nhưng lại dùng tay nắm vào chỗ kín của người kia,
\v 12 thì anh em phải chặt tay của chị ta đi; mắt anh em không được thương xót.
\s5
\v 13 Trong túi anh em không được có hai loại trái cân, một già và một non.
\v 14 Trong nhà anh em không được có hai loại lường, một lớn và một nhỏ.
\s5
\v 15 Anh em phải dùng trái cân đúng, chính xác; anh em phải dùng thứ lường đúng và đủ, để anh em được sống lâu trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 16 Vì mọi kẻ làm những việc kia, tức mọi kẻ hành động không công chính, đều đáng ghê tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 17 Hãy nhớ lại việc mà dân A-ma-léc đã làm cho anh em trong lúc đi đường, sau khi anh em ra khỏi Ai Cập
\v 18 họ không tôn kính Đức Chúa Trời, nên đã đón đường anh em và đánh tập hậu vào những kẻ yếu sức đi sau cùng, khi anh em yếu mỏn, mỏi mệt.
\v 19 Vậy nên khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cho anh em được thảnh thơi trước mọi kẻ thù chung quanh mình, trong xứ mà Ngài ban cho anh em sở hữu làm cơ nghiệp, thì anh em không được quên rằng mình phải xóa sạch ký ức về A-ma-léc dưới trời.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Khi anh em đã vào trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình làm sản nghiệp, khi anh em được sở hữu xứ ấy và sống ở đó rồi,
\v 2 thì anh em phải lấy một phần hoa màu đầu mùa thu hoạch được từ mảnh đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình bỏ vào một chiếc giỏ rồi đem đến nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\s5
\v 3 Anh em phải đến gặp thầy tế lễ đương chức tại thời điểm đó và nói với ông: Hôm nay đây, tôi xin xác nhận với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông là tôi đã vào trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho chúng ta.
\v 4 Thầy tế lễ sẽ nhận chiếc giỏ từ tay anh em và đặt nó xuống trước bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\s5
\v 5 Anh em phải nói trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, rằng: Tổ phụ con vốn là người A-ram sống phiêu bạt. Người xuống Ai Cập rồi ở lại đó, với một số ít người trong gia đình. Tại đó, người trở nên một dân lớn, hùng mạnh, đông đúc.
\s5
\v 6 Người Ai Cập ngược đãi chúng con, khiến chúng con khốn khổ. Họ buộc chúng con làm việc như nô lệ.
\v 7 Chúng con kêu van Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tổ phụ chúng con, và Ngài nghe tiếng chúng con, nhìn thấy nỗi khốn cùng, nhọc nhằn, áp bức mà chúng con phải chịu.
\s5
\v 8 Giê-hô-va đã dùng bàn tay mạnh mẽ, bày tỏ quyền năng lớn lao, giáng sự kinh khiếp, dùng dấu kỳ, phép lạ để đem chúng con ra khỏi Ai Cập;
\v 9 rồi đưa chúng con đến đây, và ban xứ này cho chúng con, một xứ đượm sữa và mật.
\s5
\v 10 Đây, con có mang theo các sản vật đầu tiên của xứ mà Ngài, tức Giê-hô-va, đã ban cho chúng con. Anh em phải đặt nó xuống trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và thờ phượng trước mặt Ngài;
\v 11 anh em phải vui mừng về mọi việc tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm cho mình, cho nhà mình anh em, người Lê-vi, và khách ngoại kiều giữa vòng anh em.
\s5
\v 12 Khi anh em đã nộp xong tất cả phần mười từ vụ thu hoạch của mình vào năm thứ ba, tức năm nộp thuế phần mười, thì anh em phải phân phát cho người Lê-vi, cho khách ngoại kiều, cho kẻ mồ côi và người góa bụa trong thành, để họ có mà ăn và được no đủ.
\v 13 Anh em phải nói trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, rằng: Con đã lấy mọi thứ thuộc về Giê-hô-va trong nhà mình phân phân phát cho người Lê-vi, khách ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa, theo như mọi giới luật mà Ngài đã truyền bảo con. Con không vi phạm hoặc bỏ quên giới luật nào.
\s5
\v 14 Con không ăn của đó lúc tang chế, con không dời nó đi khi con ô uế, cũng không dùng nó để cúng kiếng người chết. Con đã nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; con đã vâng giữ mọi điều Ngài truyền bảo con làm.
\v 15 Từ nơi thánh Chúa đang ngự, tức từ trên trời, xin Ngài đoái đến và ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, cùng với xứ mà Ngài đã ban cho chúng con, một xứ đượm sữa và mật, như Ngài đã thề hứa với các tổ phụ chúng con.
\s5
\v 16 Hôm nay đây, Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em truyền bảo anh em tuân giữ các luật lệ và quy định này; vì vậy anh em phải hết lòng, hết linh hồn mình giữ lấy và thực hiện.
\v 17 Hôm nay, anh em đã nhận Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của mình, đồng ý bước đi trong các đường lối Ngài, vâng giữ các luật lệ, giới mạng, cùng các quy định Ngài ban, và nghe theo tiếng Ngài.
\s5
\v 18 Hôm nay, Giê-hô-va đã nhận anh em là dân thuộc riêng về Ngài, như Ngài đã hứa làm cho anh em, và anh em phải giữ hết các giới luật của Ngài.
\v 19 Hôm nay Giê-hô-va đã nhận rằng Ngài sẽ khiến anh em được ca ngợi, danh tiếng và sự tôn trọng trổi hơn mọi dân tộc khác mà Ngài đã tạo dựng. Anh em sẽ là một dân biệt riêng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, theo như Ngài đã phán.”
\s5
\c 27
\p
\v 1 Môi-se và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên truyền bảo dân chúng rằng: “Hãy giữ tất cả các giới luật mà tôi truyền dạy anh em hôm nay.
\v 2 Trong ngày anh em qua sông Giô-danh để vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, thì anh em phải dựng mấy tảng đá lớn rồi lấy hồ tô lên.
\v 3 Anh em phải viết lên đó mọi lời của luật pháp này khi anh em đã qua sông và vào trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, là xứ đượm sữa và mật, theo như Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tổ phụ anh em đã thề hứa với anh em.
\s5
\v 4 Khi anh em đã qua sông Giô-đanh, hãy dựng lên các tảng đá ấy theo như tôi truyền bảo cho anh em hôm nay, trên núi Ê-banh, và dùng hồ mà tô lên.
\v 5 Tại đó anh em phải lập bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, là bàn thờ bằng đá; nhưng anh em không được dùng dụng cụ bằng sắt mà đục đẽo đá.
\s5
\v 6 Anh em phải xây bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình bằng đá nguyên khối; trên đó anh em phải dâng của lễ thiêu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình,
\v 7 và anh em cũng sẽ dâng của lễ thù ân và ăn uống tại đó; anh em sẽ vui mừng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 8 Anh em phải viết lên mấy tảng đá đó một cách rõ ràng mọi lời của luật pháp này.”
\s5
\v 9 Môi-se và các thầy tế lễ dòng Lê-vi nói với toàn thể Y-sơ-ra-ên rằng: “Nào, Y-sơ-ra-ên, hãy yên lặng và nghe đây. Hôm nay, anh em đã trở thành dân của Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\v 10 Vậy nên anh em phải vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cũng như vâng giữ các giới mạng cùng luật lệ mà tôi truyền cho anh em bữa nay.”
\s5
\v 11 Môi-se truyền bảo dân chúng trong cùng ngày đó, rằng:
\v 12 “Sau khi anh em đã qua sông Giô-đanh thì các bộ tộc sau đây phải đứng trên núi Ga-ri-xim để chúc phước cho dân chúng: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Giô-sép và Bên-gia-min.
\s5
\v 13 Còn các bộ tộc sau đây phải đứng trên núi Ê-banh công bố lời rủa sả: Ru-bên, Gát, A-se, Sa-bu-lôn, Đan và Nép-ta-li.
\v 14 Những người Lê-vi phải lớn tiếng tuyên bố với mọi người Y-sơ-ra-ên, rằng:
\s5
\v 15 Kẻ nào chạm hay đúc tượng, là vật Giê-hô-va ghê tởm, do tay người thợ làm ra, rồi lén lút dựng nó lên, phải bị nguyền rủa. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 16 Kẻ nào sỉ nhục cha mẹ mình phải bị nguyền rủa. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 17 Kẻ nào di dời mốc địa giới của người láng giềng phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 18 Kẻ nào khiến người mù đi lạc đường phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 19 Kẻ nào tước đoạt đi lẽ công bằng của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi hoặc người góa bụa, phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 20 Kẻ nào ăn nằm với vợ của cha mình phải bị rủa sả, vì hắn đã tước đoạt quyền của người cha. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 21 'Kẻ nào ngủ với bất kỳ con thú nào phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 22 Kẻ nào ăn nằm với chị hay em gái mình, dầu là cùng mẹ khác cha, hay cùng cha khác mẹ, phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 23 Kẻ nào ngủ với bà gia mình phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 24 Kẻ nào bí mật ám hại người khác phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 25 Kẻ nào nhận của hối lộ để giết hại người vô tội phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 26 Kẻ nào không thừa nhận các lời của luật pháp này để vâng giữ thì phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Nếu anh em cẩn thận nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi giới luật của Ngài mà tôi đang truyền dạy anh em hôm nay, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ đặt anh em cao hơn tất cả các dân khác trên đất.
\v 2 Mọi phước lành này sẽ giáng trên anh em và theo đuổi anh em, nếu anh em nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 3 Anh em sẽ được phước trong thành, mà anh em cũng sẽ được phước ngoài đồng.
\v 4 Con cháu của anh em, hoa màu từ đất ruộng anh em, sản vật từ thú nuôi của anh em, lứa đẻ của đàn bò, đàn chiên anh em đều sẽ được phước.
\s5
\v 5 Cái giỏ và máng nhồi bột của anh em sẽ được phước.
\v 6 Đi vào nhà anh em được phước, mà đi ra đường anh em cũng được phước.
\s5
\v 7 Giê-hô-va sẽ khiến các kẻ thù nào nổi lên chống lại anh em bị đánh hạ trước mặt anh em; họ sẽ từ một hướng đi ra chặn đánh anh em, nhưng sẽ theo bảy hướng mà chạy trốn trước anh em.
\v 8 Giê-hô-va sẽ sai phước lành giáng trên anh em trong vựa lúa và trong mọi việc tay anh em làm; Ngài sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà Ngài ban cho anh em.
\s5
\v 9 Giê-hô-va sẽ lập anh em làm một dân biệt riêng cho Ngài, như Ngài đã thề hứa với anh em, nếu anh em vâng giữ các giới mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và bước đi trong mọi đường lối Ngài.
\v 10 Tất cả các dân trên đất sẽ thấy rằng anh em được gọi bằng danh của Giê-hô-va, và họ sẽ sợ anh em.
\s5
\v 11 Giê-hô-va sẽ khiến anh em được thịnh vượng trong xứ mà Ngài thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho anh em: con cháu đông đúc, súc vật đầy đàn, hoa màu dư dật.
\v 12 Giê-hô-va sẽ mở vựa lẫm của Ngài trên trời cho anh em, ban mưa đúng mùa xuống đất đai anh em, ban phước cho mọi công việc của tay anh em; anh em sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn anh em thì chẳng vay mượn ai.
\s5
\v 13 Giê-hô-va sẽ khiến anh em đứng đầu chứ không phải đứng cuối; anh em sẽ chỉ ở trên chứ chẳng bao giờ ở dưới, nếu anh em nghe theo các giới mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, để tuân giữ và thực hiện,
\v 14 và nếu anh em không xây qua bên phải hoặc bên trái rồi lìa bỏ những lời tôi đang truyền dạy hôm nay đây để đi theo phụng thờ các thần khác.
\s5
\v 15 Nhưng nếu anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình để rồi tuân giữ hết các giới mạng và luật lệ Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, thì mọi tai vạ này sẽ giáng trên anh em và sẽ bắt kịp anh em.
\s5
\v 16 Anh em sẽ bị rủa sả trong thành, và anh em cũng sẽ bị rủa sả ngoài đồng.
\v 17 Cái giỏ và máng nhồi bột của anh em sẽ bị rủa sả.
\s5
\v 18 Con cháu của anh em, thổ sản của anh em, lứa đẻ của đàn bò, đàn chiên anh em đều sẽ bị rủa sả.
\v 19 Bước vào nhà anh em sẽ bị rủa sả, mà đi ra đường anh em cũng bị rủa sả.
\s5
\v 20 Giê-hô-va sẽ giáng họa trên anh em trong mọi việc tay anh em làm, cho đến lúc anh em bị diệt hết, cho đến khi anh em nhanh chóng bị tiêu vong vì những việc ác mình làm khi lìa bỏ Ngài.
\v 21 Giê-hô-va sẽ khiến dịch bệnh đeo bám anh em cho đến khi Ngài diệt sạch anh em khỏi xứ mà Ngài sẽ ban cho anh em sở hữu.
\s5
\v 22 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em bằng các bệnh lây nhiễm, bằng chứng viêm sốt, bằng cơn hạn hán và cái nóng cháy da, bằng gió thiêu đốt, và nấm mốc.
\s5
\v 23 Bầu trời trên đầu anh em sẽ như đồng, còn đất dưới chân anh em sẽ như sắt.
\v 24 Thay vì ban mưa trong xứ, Đức Chúa Trời sẽ khiến cát bụi từ trên trời đổ xuống trên anh em cho đến khi anh em bị diệt vong.
\s5
\v 25 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị đánh hạ trước quân thù mình; anh em sẽ từ một hướng đi ra chặn đánh họ, nhưng sẽ theo bảy hướng mà tháo chạy trước mặt họ. Anh em sẽ bị đùa đẩy đi đây đó giữa vòng các nước trên đất.
\v 26 Thây của anh em sẽ làm thức ăn cho mọi chim trời và các loài thú dưới đất; sẽ chẳng có ai xua đuổi chúng.
\s5
\v 27 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em bằng ung nhọt xứ Ai Cập, bằng u bướu, hoại huyết, ghẻ ngứa không sao chữa khỏi.
\v 28 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị điên loạn, đui mù và lãng trí.
\v 29 Giữa ban trưa mà anh em sẽ đi mò mẫm như người mù mò mẫm trong bóng tối, và anh em sẽ không được thịnh vượng trong các đường lối mình. Anh em sẽ thường xuyên bị áp bức, cướp bóc mà chẳng có ai giải cứu.
\s5
\v 30 Anh em sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng kẻ khác sẽ bắt cô ta rồi ăn ở với cô ta. Anh em sẽ xây nhà, nhưng không được sống trong đó; anh em sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái nó.
\v 31 Bò của anh em sẽ bị giết trước mặt anh em, nhưng anh em không được ăn thịt nó; lừa anh em sẽ bị cướp mất ngay trước mắt anh em, và chẳng bao giờ được trả lại. Chiên anh em sẽ bị nộp cho quân thù, nhưng chẳng ai tiếp cứu anh em.
\s5
\v 32 Con trai, con gái anh em sẽ bị nộp cho các dân; ngày đêm anh em sẽ dõi mắt trông ngóng con, và mắt sẽ mờ yếu vì trông ngóng chúng. Tay anh em chẳng còn sức lực.
\s5
\v 33 Thổ sản bởi công khó anh em làm ra thì một dân anh em chưa từng biết sẽ ăn hết; anh em sẽ luôn bì áp chế, chèn ép,
\v 34 đến nỗi anh em thành ra điên cuồng vì những chuyện mình nhìn thấy.
\v 35 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em, khiến đầu gối và chân cẳng anh em bị ung độc không sao chữa khỏi, từ dưới bàn chân cho đến đỉnh đầu.
\s5
\v 36 Giê-hô-va sẽ đày anh em cùng với vị vua mà anh em đã tôn lên cai trị mình đến một nước mà anh em và các tổ phụ chưa từng biết; tại đó, anh em sẽ phụng thờ các tượng thần bằng gỗ, bằng đá.
\v 37 Anh em sẽ trở nên nỗi kinh hoàng, câu tục ngữ và trò cười giữa mọi dân mà Giê-hô-va sẽ đưa anh em đến.
\s5
\v 38 Hạt giống anh em mang ra đồng thì nhiều, nhưng anh em sẽ thu lại ít, vì sẽ bị châu chấu ăn sạch.
\v 39 Anh em sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng sẽ không uống được rượu nho, thậm chí cũng không thu được trái, vì sâu bọ sẽ ăn hết.
\s5
\v 40 Anh em sẽ có cây ô liu trên khắp cả xứ, nhưng anh em lại chẳng có dầu để xoa bóp mình, vì trái cây ô liu sẽ rơi rụng.
\v 41 Anh em sẽ sinh con trai, con gái, nhưng chúng sẽ không còn là của anh em, vì chúng sẽ bị bắt đi.
\s5
\v 42 Toàn bộ cây cối và thổ sản anh em sẽ bị châu chấu phá sạch.
\v 43 Khách ngoại kiều giữa vòng anh em sẽ ngày càng trổi vượt hơn anh em, còn anh em thì ngày càng đi xuống.
\v 44 Họ sẽ cho anh em vay mượn, còn anh em thì chẳng có gì cho họ vay mượn; họ sẽ ở đàng đầu, còn anh em thì ở đàng cuối.
\s5
\v 45 Mọi tai họa này sẽ giáng xuống anh em, sẽ đuổi theo và bắt kịp anh em cho đến khi anh em bị diệt hết. Sở dĩ như vậy là vì anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và vâng giữ các giới mạng cùng luật lệ Ngài mà Ngài truyền cho anh em.
\v 46 Những tai họa này sẽ giáng trên anh em và trên dòng dõi anh em như những dấu hiệu, phép lạ.
\s5
\v 47 Vì anh em không phụng thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình với lòng vui sướng khi được thịnh vượng,
\v 48 nên anh em sẽ phục vụ những kẻ thù mà Giê-hô-va sai đến đánh anh em trong tình trạng đói khát, trần truồng và nghèo thiếu. Ngài sẽ đặt lên cổ anh em cái ách bằng sắt cho đến khi Ngài diệt sạch anh em.
\s5
\v 49 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ sai một dân từ phương xa, từ tận cùng trái đất, đến địch cùng anh em, như chim đại bàng lao vào con mồi, một dân nói thứ tiếng hoàn toàn xa lạ với anh em,
\v 50 là dân có vẻ mặt hung tợn, chẳng biết nể nang người già, cũng chẳng có thiện cảm với người trẻ.
\v 51 Chúng sẽ ăn sạch con nhỏ trong đàn gia súc anh em, cùng thổ sản của anh em, cho đến khi anh em bị diệt hết. Họ sẽ không chừa lại gì cho anh em, từ ngũ cốc, rượu mới, dầu, cho đến bò con, chiên con trong đàn của anh em, cho đến khi khiến anh em tiêu vong.
\s5
\v 52 Họ sẽ vây hãm anh em trong tất cả các thành của anh em khắp nơi trong xứ, cho đến khi các tường thành sừng sững kiên cố mà anh em vẫn trông cậy vào đổ sập xuống. Họ sẽ vây hãm anh em như vậy trong tất cả các thành trên toàn xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 53 Trong khi bị vây hãm và lâm vào cảnh khốn cùng do quân thù gây ra, anh em sẽ ăn bông trái của chính thân thể mình, tức ăn thịt con trai, con gái mình mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho anh em.
\s5
\v 54 Những người đàn ông hiền hòa, tế nhị giữa vòng anh em thậm chí họ cũng đố kỵ với anh em mình, với chính người vợ yêu dấu của mình, và với con cái còn lại của mình.
\v 55 Trong lúc bị vây hãm và gặp cảnh cùng khốn, họ sẽ không nhường bớt cho ai thịt của chính con mình mà họ sắp ăn, vì họ chẳng còn lại gì để ăn.
\s5
\v 56 Những phụ nữ dịu hiền, nhạy cảm giữa vòng anh em, dịu hiền, nhạy cảm đến độ không dám đặt bàn chân mình xuống đất họ sẽ thèm thuồng người chồng yêu dấu, thèm thuồng con trai, con gái mình,
\v 57 thèm thuồng đứa con sơ sinh ra từ bụng dạ mình, thèm thuồng cả thai nhi mà mình sẽ sinh ra. Họ sẽ lén lút ăn thịt hết đang lúc bị vây hãm và giữa cơn khốn khó do kẻ thù gây ra trong thành anh em, vì chẳng còn gì khác.
\s5
\v 58 Nếu anh em không giữ gìn mọi lời của luật pháp được chép trong sách này, để tôn kính danh vinh hiển và đáng kinh sợ là Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em,
\v 59 thì Giê-hô-va sẽ khiến giáng trên anh em cũng như trên con cháu anh em những tai vạ kinh khiếp; đó sẽ là những tai vạ lớn, kéo dài, cùng các chứng bệnh trầm trọng, dai dẳng.
\s5
\v 60 Ngài sẽ lại giáng trên anh em mọi chứng bệnh của xứ Ai Cập mà anh em vẫn sợ; các chứng bệnh ấy sẽ đeo bám anh em.
\v 61 nữa, mọi chứng bệnh và tai vạ không được chép trong sách luật pháp này Giê-hô-va cũng sẽ giáng trên anh em cho đến khi anh em bị hủy diệt.
\v 62 Vì anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nên số anh em sẽ chỉ còn lại ít, mặc dầu trước đó anh em đông như sao trời.
\s5
\v 63 Giê-hô-va đã vui mừng ban phước lành cho anh em và khiến anh em nên đông đúc thể nào, thì Ngài cũng sẽ lấy làm vui khiến anh em tiêu vong và hủy diệt anh em thể ấy. Anh em sẽ bị bứng khỏi xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu.
\v 64 Giê-hô-va sẽ rải anh em ra giữa mọi dân tộc, từ đầu này của đất cho đến đầu kia; ở những nơi đó, anh em sẽ phụng thờ các thần khác mà anh em lẫn các tổ phụ anh em đều chưa từng biết, các thần bằng gỗ, bằng đá.
\s5
\v 65 Sống giữa các nước đó, anh em sẽ không được thảnh thơi, bàn chân anh em cũng chẳng được nghỉ ngơi; trái lại, Giê-hô-va sẽ khiến lòng anh em run sợ, mắt anh em lờ mờ, linh hồn anh em sầu thảm.
\v 66 Mạng sống anh em sẽ bấp bênh trước mặt anh em; anh em sẽ sợ hãi cả ngày lẫn đêm, và chẳng có gì chắc chắn về sự sống của anh em.
\s5
\v 67 Do nỗi sợ hãi trong lòng và những việc mắt anh em phải chứng kiến, buổi sáng, anh em sẽ nói: Ước gì bây giờ là chiều tối! nhưng chiều tối đến, anh em lại bảo: Ước gì bây giờ là buổi mai! .
\v 68 Giê-hô-va sẽ đưa anh em trở lại Ai Cập bằng tàu thuyền, theo con đường mà khi nói về nó, tôi đã bảo: Anh em sẽ không thấy lại Ai Cập nữa. Ở đó anh em sẽ bán mình cho quân thù như những nam, nữ nô lệ, nhưng sẽ chẳng có ai mua.”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Đây là những lời mà Giê-hô-va truyền bảo Môi-se phải nói lại cho dân chúng tại xứ Mô-áp, những lời được thêm vào giao ước mà Ngài đã lập với họ tại Hô-rếp.
\s5
\v 2 Môi-se gọi toàn thể Y-sơ-ra-ên và nói với họ: “Mắt anh em đã chứng kiến mọi việc mà Giê-hô-va làm tại Ai Cập cho Pha-ra-ôn, cho toàn thể quần thần, và cho cả xứ ông ta
\v 3 những tai vạ kinh khiếp mà mắt anh em nhìn thấy, là các dấu hiệu, và các phép lạ lớn ấy.
\v 4 Nhưng cho đến hôm nay, Giê-hô-va chưa ban cho anh em tấm lòng hiểu biết, cặp mắt nhìn rõ, đôi tai nghe thấy.
\s5
\v 5 Tôi đã dẫn dắt anh em suốt bốn mươi năm trong hoang mạc; áo quần anh em mặc không sờn rách, giày dép anh em mang chẳng cũ mòn.
\v 6 Anh em không ăn bánh, không uống rượu nho hay bất kỳ thức gì có cồn, để anh em biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 7 Khi anh em đến nơi này, Si-hôn, vua Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, xông ra đón đánh chúng ta, nhưng chúng ta đã đánh bại họ.
\v 8 Chúng ta chiếm xứ họ và chia cho bộ tộc Ru-bên, bộ tộc Gát, cùng phân nửa bộ tộc Ma-na-se làm sản nghiệp.
\v 9 Vậy nên hãy gìn giữ các lời của giao ước này và thực hành, để anh em được thịnh vượng trong mọi việc mình làm.
\s5
\v 10 Hôm này, toàn thể anh em đang đứng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình nào tộc trưởng các bộ tộc, giới trưởng lão, các viên chức tức toàn thể nam giới trong Y-sơ-ra-ên,
\v 11 cùng vợ con anh em, khách ngoại kiều sống giữa anh em trong trại anh em, từ người đốn củi đến người kéo nước cho anh em.
\s5
\v 12 Anh em có mặt tại đây để tham gia vào giao ước với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và vào lời thề mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập với anh em hôm nay,
\v 13 để hôm nay Ngài khiến anh em trở nên một dân cho Ngài, còn Ngài sẽ làm Đức Chúa Trời của anh em, như Ngài đã phán với anh em và thề hứa với các tổ phụ anh em là Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.
\s5
\v 14 Không phải chỉ riêng với anh em mà tôi lập giao ước và lời thề này
\v 15 tức mọi người đang đứng trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chung với chúng ta đây, mà còn với những người không có mặt cùng chúng ta hôm nay nữa.
\v 16 Anh em biết chúng ta đã sống tại Ai Cập như thế nào, và chúng ta đã vượt qua các quốc gia mà anh em đã đi qua ra làm sao.
\s5
\v 17 Anh em đã thấy những vật đáng kinh tởm của họ: các tượng bằng gỗ, bằng đá, bằng bạc, bằng vàng ở giữa họ,
\v 18 cho nên trong anh em không được có bất kỳ đàn ông, phụ nữ, gia đình hay bộ tộc nào trở lòng lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà đi phụng thờ các thần của các dân tộc đó để giữa anh em không có thứ rễ nào sinh ra mật đắng, ngải cứu,
\v 19 để khi người nào nghe các lời rủa sả này, thì họ không nhủ thầm trong lòng, rằng: Mình vẫn sẽ được an bình, cho dù có sống với tấm lòng chai đá. Sống như thế sẽ rước họa cho đất ướt cùng đất khô.
\s5
\v 20 Giê-hô-va sẽ không tha tội cho họ, trái lại, cơn giận của Giê-hô-va và lòng ghen tức Ngài sẽ dồn chứa đối với họ; mọi tai vạ chép trong sách này sẽ giáng trên họ và Giê-hô-va sẽ xóa sạch tên tuổi họ ở dưới trời.
\v 21 Giê-hô-va sẽ tách riêng họ ra khỏi mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên để giáng họa, y theo mọi tai vạ trong giao ước được chép trong sách luật pháp này.
\s5
\v 22 Thế hệ tương lai, tức các con cái anh em lớn lên sau này, và người ngoại quốc từ phương xa đến, sẽ lên tiếng khi nhìn thấy các tai vạ trong xứ này cùng những chứng bệnh mà Giê-hô-va đã khiến nó mắc phải
\v 23 và khi họ thấy khắp cả xứ chỉ toàn là lưu huỳnh với muối cháy, không ai gieo trồng, chẳng chi sinh trái, cây cỏ cũng chẳng mọc, giống cảnh điêu tàn của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im mà Giê-hô-va đã phá hủy trong cơn thạnh nộ và cơn giận Ngài
\v 24 thì họ cùng với mọi dân khác sẽ thắc mắc: Vì sao Giê-hô-va đã đãi xứ này như thế? Do đâu mà có cơn giận phừng phừng như vậy?
\s5
\v 25 Rồi có người sẽ đáp lại: ‘Đó là vì họ đã bỏ giao ước của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, là giao ước Ngài lập với họ khi đem họ ra khỏi xứ Ai Cập,
\v 26 và vì họ đi phụng thờ các thần khác và quỳ lạy chúng nó, là các thần họ chưa từng biết và Ngài cũng không cho phép họ thờ lạy.
\s5
\v 27 Vì vậy, Giê-hô-va đã nổi giận với xứ ấy, và Ngài giáng xuống đủ thứ tai vạ được chép trong sách này.
\v 28 Trong lúc thạnh nộ và giận dữ, Giê-hô-va đã bứng họ ra khỏi xứ và ném họ vào xứ khác, như ngày nay.
\s5
\v 29 Những việc kín nhiệm hoàn toàn thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, nhưng những điều được mặc khải mãi mãi thuộc về chúng ta và con cháu chúng ta, để chúng ta thực hành mọi lời trong luật pháp này.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Khi mọi điều này đã xảy đến cho anh em, tức các phước lành và tai họa mà tôi đã đặt trước mặt anh em, và tại tất cả các nước mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đuổi anh em đến, anh em hồi tưởng lại các việc ấy,
\v 2 trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, hết lòng, hết linh hồn vâng phục tiếng Ngài, làm theo mọi điều mà tôi truyền dạy anh em ngày nay tức anh em và con cháu anh em
\v 3 lúc đó Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ cứu anh em khỏi cảnh lưu đày và thương xót anh em; Ngài sẽ cho anh em trở về, nhóm anh em lại từ mọi giữa mọi dân tộc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã rải anh em ra.
\s5
\v 4 Nếu có ai đó trong anh em bị đày đến tận cuối trời thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng sẽ nhóm anh em lại và đem anh em về từ nơi đó.
\v 5 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ đem anh em vào trong xứ mà cha ông anh em đã sở hữu, và anh em sẽ được sở hữu lại xứ ấy; Ngài sẽ ban phước cho anh em và sẽ khiến anh em nên đông đúc còn hơn cả khi Ngài làm cho các tổ phụ anh em.
\s5
\v 6 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ cắt bì lòng anh em và lòng con cháu anh em, để anh em hết lòng, hết linh hồn yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em được sống.
\v 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ giáng mọi tai họa này trên kẻ thù của anh em và trên những kẻ căm ghét anh em, bức hại anh em.
\v 8 Anh em sẽ trở lại vâng phục tiếng của Giê-hô-va, và anh em sẽ làm theo mọi giới mạng của Ngài mà tôi truyền dạy cho anh em ngày nay.
\s5
\v 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ khiến anh em được thới thạnh trong mọi việc tay anh em làm; con cái anh em, đàn gia súc anh em, thổ sản của anh em sẽ nên đông đúc, dồi dào; vì Giê-hô-va sẽ lại hoan hỉ ban phước cho anh em, như Ngài đã hoan hỉ về cha ông của anh em.
\v 10 Ngài sẽ làm như vậy nếu anh em vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà gìn giữ các giới mạng cùng luật lệ được chép trong sách luật pháp này, nếu anh em hết lòng, hết linh hồn hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 11 Vì giới luật mà tôi truyền cho anh em ngày nay không quá khó cho anh em, cũng chẳng quá cao đến nỗi anh em không với tới.
\v 12 Nó không ở trên trời để rồi anh em phải hỏi: Ai sẽ lên trời đem nó xuống cho chúng tôi, để chúng tôi nghe được và làm theo?
\s5
\v 13 Nó cũng không ở bên kia đại dương để rồi anh em thắc mắc: Ai sẽ vượt biển mà đem nó về, để chúng tôi có thể nghe và làm theo?
\v 14 Nhưng lời này rất gần anh em, ở ngay trong miệng và trong lòng anh em, để anh em có thể thực hiện.
\s5
\v 15 Đó, bữa nay tôi đã đặt trước mặt anh em sự sống và phước lành, sự chết và tai họa.
\v 16 Nếu anh em vâng giữ các giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, theo đó tôi truyền cho anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường lối Ngài, gìn giữ các điều răn, luật lệ và quy định của Ngài, thì anh em sẽ được sống và thêm đông đúc, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà anh em sắp đi vào để chiếm hữu.
\s5
\v 17 Nhưng nếu anh em trở lòng không chịu nghe, bị quyến dụ quỳ lạy và phụng thờ các thần khác,
\v 18 thì ngày nay tôi công bố cho anh em rằng anh em chắc chắc sẽ bị diệt vong; anh em sẽ không được sống lâu dài trong xứ mà mình sắp qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu.
\s5
\v 19 Tôi kêu gọi trời và đất làm chứng cho anh em, rằng hôm nay tôi đã đặt trước anh em sự sống và sự chết, phước lành và tai họa; vì vậy, anh em hãy chọn sự sống để anh em và con cháu anh em được sống.
\v 20 Hãy làm vậy để tỏ lòng yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vâng theo tiếng Ngài, và gắn bó với Ngài. Vì Ngài chính là sự sống và sự trường thọ của anh em; hãy làm vậy để anh em được sống trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ anh em, với Áp-ra-ham, với Y-sác và với Gia-cốp, là sẽ ban cho họ.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 Môi-se ra và công bố những lời sau đây với toàn dân Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ông nói với họ: “Nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi; tôi không còn sức đi ra đi vào được nữa. Giê-hô-va đã phán với tôi: Con sẽ không được qua sông Giô-đanh này đâu.
\v 3 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài sẽ qua trước anh em; Ngài sẽ diệt hết các dân tộc đó khỏi trước mặt anh em, và sẽ tống xuất họ đi. Và Giô-suê, anh ta cũng sẽ qua trước anh em, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã phán dặn.
\s5
\v 4 Giê-hô-va sẽ xử họ như Ngài đã xử Si-hôn và Óc, các vua A-mô-rít, cùng xứ của họ, vốn đều bị Ngài diệt hết.
\v 5 Giê-hô-va sẽ cho anh em thắng hơn họ khi anh em giao chiến với họ, rồi anh em sẽ xử họ theo như tôi đã truyền bảo.
\v 6 Phải mạnh mẽ và can đảm lên, đừng sợ, cũng đừng kinh hãi họ; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, chính Ngài đi cùng anh em; Ngài sẽ không khiến anh em thất vọng, cũng sẽ không lìa bỏ anh em.”
\s5
\v 7 Môi-se gọi Giô-suê và nói với ông trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên: Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, vì anh sẽ cùng dân chúng đi vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã thề hứa với các tổ phụ rằng Ngài sẽ ban cho họ; anh sẽ cho họ thừa hưởng xứ ấy.
\v 8 Giê-hô-va, chính Ngài đi trước anh; Ngài sẽ ở cùng anh; Ngài sẽ không khiến anh thất vọng hoặc lìa bỏ anh; đừng kinh hãi, cũng đừng ngã lòng.”
\s5
\v 9 Môi-se viết lại luật pháp này và phân phát cho các thầy tế lễ, tức các con trai dòng Lê-vi, những người khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va; ông cũng trao một bản cho tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 10 Môi-se truyền bảo họ rằng: “Cứ sau bảy năm, tức thời điểm quy định cho việc xóa nợ, trong kỳ lễ Lều Trại,
\v 11 khi toàn thể Y-sơ-ra-ên đã đến ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi mà Ngài sẽ chọn làm nơi thánh Ngài, thì anh em phải đọc luật này để toàn dân Y-sơ-ra-ên đều nghe.
\s5
\v 12 Hãy nhóm dân chúng lại, từ đàn ông, phụ nữ, con cái họ, cho đến khách ngoại kiều trong các thành của anh em, để họ đều được nghe và học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cùng giữ theo mọi lời trong luật pháp này.
\v 13 Hãy làm như vậy để những con cháu họ, vốn chưa từng nghe biết luật pháp này, cũng được nghe và học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bao lâu mình sống trong xứ mà anh em sắp qua sông Giô-đanh để chiếm hữu.”
\s5
\v 14 Giê-hô-va nói với Môi-se: “Này, ngày con qua đời sắp đến rồi; hãy gọi Giô-suê và cùng anh ta trình diện tại lều hội kiến, để Ta truyền bảo điều này cho anh ta. ”
\v 15 Giê-hô-va ra tại lều hội kiến trong một trụ mây; trụ mây dừng ở cửa lều.
\s5
\v 16 Giê-hô-va nói với Môi-se: Này, con sẽ an giấc cùng các tổ phụ mình; dân này sẽ phản loạn và hành xử như phường điếm đĩ, đi theo các thần lạ trong xứ, là nơi họ sẽ sống chung với chúng.
\s5
\v 17 Nên, vào ngày đó, Ta sẽ nổi thạnh nộ với họ, và Ta sẽ lìa bỏ họ. Ta sẽ giấu mặt khỏi họ, và họ sẽ bị hủy diệt. Họ sẽ gặp nhiều tai họa và phiền nhiễu, đến nỗi lúc đó họ sẽ hỏi: Phải chăng tôi gặp các tai họa này là vì Đức Chúa Trời không ở giữa chúng ta?
\v 18 Ta hẳn sẽ giấu mặt khỏi họ trong ngày đó vì mọi điều ác họ làm, vì họ đã đi theo các thần khác.
\s5
\v 19 Vậy nên con hãy viết ra bài ca này cho mình rồi dạy lại cho dân chúng Y-sơ-ra-ên. Hãy đặt nó trong miệng họ, để bài ca làm chứng cho Ta với dân Y-sơ-ra-ên.
\v 20 Vì khi Ta đã đem họ vào trong xứ mà Ta thề hứa ban cho các tổ phụ họ, là xứ đượm sữa và mật; khi họ đã ăn và được no béo, thì họ sẽ quay qua thờ lạy các thần khác; họ sẽ khinh dễ Ta và vi phạm giao ước Ta.
\s5
\v 21 Khi dân này đã gặp nhiều tai ương và phiền toái, thì bài ca này sẽ lên tiếng như một chứng nhân trước mặt họ; con cháu họ sẽ không quên hát bài ca này đâu. Vì Ta biết những việc ngày nay họ đang dự tính, ngay cả trước khi Ta đem họ vào trong xứ Ta đã thề hứa.”
\s5
\v 22 Vậy, Môi-se viết bài ca này trong cùng ngày hôm đó rồi dạy lại cho dân Y-sơ-ra-ên.
\v 23 Giê-hô-va truyền mạng lệnh này cho Giô-suê, con trai của Nun, rằng: Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, vì con sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên vào xứ mà Ta đã thề hứa với họ, và Ta sẽ ở cùng con.”
\s5
\v 24 Khi Môi-se đã viết xong các lời của luật pháp này vào sách,
\v 25 thì ông truyền lệnh cho những người Lê-vi có trách nhiệm khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va, rằng:
\v 26 "Hãy lấy cuốn sách luật pháp này đặt cạnh rương chứng cớ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, để nó làm chứng cho anh em tại đó.
\s5
\v 27 Vì tôi biết anh em hay phản nghịch và cứng cổ; xem đó, trong lúc tôi vẫn còn sống với anh em ngày nay mà anh em còn phản nghịch Giê-hô-va như vậy, thì anh em sẽ thế nào sau khi tôi qua đời?
\v 28 Hãy triệu tập tất cả trưởng lão của các bộ tộc cùng các viên chức của anh em, để tôi trực tiếp nói cho họ nghe những lời này và kêu gọi trời đất làm chứng cáo tội họ.
\v 29 Vì tôi biết rằng sau khi tôi chết thì anh em sẽ bại hoại và lìa bỏ con đường mà tôi đã truyền dạy anh em; rồi tai họa sẽ giáng trên anh em trong những tháng ngày sau đó. Việc ấy sẽ xảy đến vì anh em sẽ làm ác trước mặt Giê-hô-va, chọc giận Ngài bằng việc làm của tay mình.”
\s5
\v 30 Môi-se hát lời của bài ca này trực tiếp cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đều nghe cho đến khi hết.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Hỡi trời, hãy lắng tai, rồi tôi sẽ nói. Hỡi đất, hãy nghe những lời từ miệng tôi.
\v 2 Hãy để lời giáo huấn của tôi nhỏ xuống như mưa, lời nói tôi giọt xuống như sương móc, như mưa nhẹ rơi trên cỏ non, tựa mưa rào trên cây cỏ.
\s5
\v 3 Vì tôi sẽ xưng tụng danh Giê-hô-va, và nói ra sự vĩ đại của Đức Chúa Trời chúng ta.
\v 4 Công việc Ngài, tức Vầng Đá, là trọn vẹn; mọi đường lối Ngài đều công bình. Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, chẳng phạm tội. Ngài công bình và ngay thẳng.
\s5
\v 5 Họ đã tham nhũng chống lại Ngài, không xứng là con Ngài. Thật đáng xấu hổ. Cả một dòng dõi hư hỏng, quanh co.
\v 6 Những kẻ xuẩn ngốc, điên rồ kia, các người báo đáp Giê-hô-va như vậy sao? Chẳng phải Ngài là Cha các người, Đấng tạo thành các người sao? Chính Ngài đã làm ra các người, và lập nên các người.
\s5
\v 7 Hãy nhớ lại những ngày lúc xa xưa, nghĩ đến những năm trong các đời trước. Hãy hỏi cha mình, rồi người sẽ chỉ cho; hãy hỏi các phụ lão, rồi họ sẽ kể cho các người nghe.
\v 8 Khi Đấng Tối Cao ban sản nghiệp cho các nước khi Ngài phân chia toàn nhân loại, và định ranh giới cho các dân, như Ngài cũng đã định số các thần họ.
\s5
\v 9 Vì phần của Giê-hô-va là dân Ngài; Gia-cốp là phần sản nghiệp Ngài.
\v 10 Ngài tìm thấy người trong vùng đất vắng vẻ, trong hoang mạc cằn cõi, buồn thảm; Ngài che chở người và chăm sóc người, bảo vệ người như con ngươi của mắt mình.
\s5
\v 11 Như phượng hoàng canh giữ tổ, vỗ cánh che con nhỏ mình, thì Giê-hô-va cũng xòe cánh đỡ lấy họ, và mang họ trên cánh Ngài.
\v 12 Chỉ một mình Giê-hô-va dẫn dắt họ; chẳng thần ngoại quốc nào đi với họ.
\s5
\v 13 Ngài khiến người cưỡi trên các nơi cao của xứ, Ngài nuôi người bằng hoa quả ngoài đồng; Ngài dưỡng người bằng mật ong từ tảng đá, và dầu từ vách đá cứng.
\s5
\v 14 Người ăn bơ của đàn bò, uống sữa của đàn chiên, với mỡ chiên con, chiên đực vùng Ba-san và dê, cùng lúa mì hảo hạng và anh em uống rượu tràn trề từ nước ép quả nho.
\s5
\v 15 Nhưng Giê-su-run mập lên và tung chân đá, khi đã no tròn, béo tốt, bảnh bao. Người lìa bỏ Đức Chúa Trời đã tạo ra mình, và người khước từ Vầng Đá cứu rỗi mình.
\v 16 Họ khiến Giê-hô-va ghen tương bởi những thần lạ, chọc giận Ngài bằng các hình tượng kinh tởm của mình.
\s5
\v 17 Họ dâng lễ cho các quỷ, vốn không phải là Đức Chúa Trời mà là các thần họ chưa từng biết, các thần chỉ mới có đây, các thần mà cha ông các người chẳng kính sợ.
\v 18 Các người đã lìa bỏ Vầng Đá, là Cha mình, và quên Đức Chúa Trời đã sinh ra mình.
\s5
\v 19 Giê-hô-va nhìn thấy việc ấy, nên Ngài khước từ họ, vì các con trai, con gái Ngài đã khích Ngài làm vậy.
\v 20 Ngài phán: “Ta sẽ giấu mặt khỏi chúng nó, để xem kết cuộc chúng nó sẽ thế nào; vì chúng nó là dòng dõi ương ngạnh, là con cái bất trung.
\s5
\v 21 Chúng trêu Ta ghen tức bằng thứ chẳng phải là thần, và chọc giận Ta bằng các hình tượng chẳng ra gì. Ta sẽ khiến chúng ganh tị vì những kẻ chẳng phải là một dân; Ta sẽ chọc tức chúng bởi một nước thiếu hiểu biết.
\s5
\v 22 Vì cơn thạnh nộ Ta làm bùng lên ngọn lửa, cháy đến tận đáy âm ti; nó thiêu nuốt đất đai cùng hoa màu; nó đốt cháy nền móng các núi.
\s5
\v 23 Ta sẽ chồng chất tai ương trên chúng; Ta sẽ bắn hết tên vào chúng.
\v 24 Chúng sẽ bị hao mòn vì đói, bị thiêu nuốt bởi sức nóng cháy bỏng và sự hủy diệt kinh khiếp; Ta sẽ khiến chúng làm mồi cho thú hoang, cùng loài rắn độc bò trong bụi đất.
\s5
\v 25 Ngoài đường thanh gươm sẽ cướp giết, còn trong buồng thì kinh hãi ngự trị. Thanh niên, thiếu nữ, em bé, người già đều bị diệt sạch.
\v 26 Ta nói sẽ rải chúng ra thật xa, khiến loài người chẳng ai còn nhớ đến.
\s5
\v 27 Nếu không vì Ta sợ kẻ thù khiêu khích, sợ các cừu địch chúng lầm tưởng, sợ chúng nói rằng: Tay mình cao cường, thì Ta đã thi hành mọi việc ấy rồi.
\s5
\v 28 Vì Y-sơ-ra-ên là một dân thiếu khôn ngoan; nơi chúng chẳng có sự hiểu biết.
\v 29 Ôi, ước gì chúng sáng suốt, để hiểu được điều này, và biết suy xét số phận đang chờ đợi mình!
\s5
\v 30 Làm sao một người rượt đuổi cả ngàn, hai người đuổi được cả vạn cao chạy xa bay, nếu Vầng Đá không bán chúng nó, nếu Giê-hô-va không giao nộp chúng nó?
\v 31 Vì vầng đá của kẻ thù chúng ta chẳng giống Vầng Đá chúng ta, đúng như kẻ thù chúng ta phải thừa nhận.
\s5
\v 32 Vì cây nho chúng có gốc là cây nho Sô-đôm, đâm ra từ ruộng đồng Gô-mô-rơ; Trái nho chúng là trái nho độc; chùm nho chúng là chùm nho đắng.
\s5
\v 33 Rượu nho chúng là nọc độc loài rắn, và nọc dữ của rắn hổ.
\v 34 Chẳng phải việc này được Ta giữ kín, được niêm phong giữa các kho tàng Ta đó sao?
\s5
\v 35 Sự báo oán là việc của Ta, Ta sẽ báo trả, lúc chân chúng nó trượt té; vì ngày tai vạ của chúng đã gần, và những việc phải xảy ra cho chúng sẽ chóng đến.
\s5
\v 36 Vì Giê-hô-va sẽ bênh vực dân Ngài, và sẽ đoái thương các tôi tớ Ngài khi Ngài thấy năng lực họ tiêu mất, kẻ nô lệ lẫn người tự do đều chẳng còn.
\s5
\v 37 Rồi Ngài sẽ phán: Đâu cả rồi các thần của chúng, vầng đá mà chúng náu nương?
\v 38 Tức các thần đã ăn lễ vật của chúng, đã uống rượu tế chúng dâng lên. Hãy để nó trổi dậy cứu giúp các ngươi; hãy để nó chở che các ngươi.
\s5
\v 39 Bây giờ, hãy hiểu rằng Ta, chính Ta, là Đức Chúa Trời, ngoài Ta không có thần nào khác; Ta giết cho chết, và Ta làm cho sống; Ta khiến thương tich, và Ta chữa lành; chẳng ai có thể cứu các ngươi khỏi tay Ta.
\v 40 Vì Ta đưa tay lên trời và nói: Vì Ta sống muôn đời, nên Ta sẽ hành động.
\s5
\v 41 Khi Ta mài bén thanh gươm sáng mình, khi tay Ta khởi thi hành sự chính trực, thì Ta sẽ báo thù các cừu địch, Ta sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta.
\s5
\v 42 Ta sẽ khiến các mũi tên Ta say máu, còn thanh gươm Ta sẽ ăn thịt với máu những kẻ bị giết lẫn kẻ bị cầm, và từ thủ cấp của các quan tướng kẻ thù. ’”
\s5
\v 43 Hỡi muôn dân, hãy vui mừng với dân Đức Chúa Trời, vì Ngài sẽ đòi nợ máu của các tôi tớ Ngài; Ngài sẽ báo oán các kẻ thù mình, và Ngài sẽ chuộc tội cho xứ Ngài, cho dân Ngài.
\s5
\v 44 Môi-se, cùng con trai của Nun là Giô-suê, đến và hát mọi lời của bài ca này trực tiếp cho dân chúng nghe
\v 45 Sau khi hát xong mọi lời này cho toàn dân Y-sơ-ra-ên,
\s5
\v 46 ông nói với họ: “Hãy chú tâm vào mọi lời mà tôi đã làm chứng cho anh em bữa nay, để rồi truyền lại cho con cháu anh em giữ lấy, tức mọi lời của luật pháp này.
\v 47 Đây chẳng phải là việc tầm thường đối với anh em đâu, mà là sự sống của anh em, và nhờ đó anh em sẽ được sống lâu ngày trong xứ mà anh em sắp qua sông Giô-đanh để chiếm hữu.”
\s5
\v 48 Trong cùng ngày đó, Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 49 “Con hãy đi lên đỉnh Nê-bô thuộc dãy núi A-ba-rim, trong xứ Mô-áp, đối diện với Giê-ri-cô. Con cứ nhìn xem xứ Ca-na-an mà Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp.
\s5
\v 50 Rồi con sẽ qua đời trên ngọn núi mà con lên đó, và được tiếp về với cha ông mình, giống như người anh em Y-sơ-ra-ên của con là A-rôn đã chết trên núi Hô-rơ và được tiếp về với tổ tiên người.
\v 51 Sở dĩ như vậy là vì các con đã bất trung với Ta giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên tại suối nước Mê-ri-ba ở Ca-đe, trong hoang mạc Sin; khi các con tỏ ra bất kính và thiếu tôn trọng Ta giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên.
\v 52 Con sẽ nhìn thấy xứ ấy trước mặt, nhưng sẽ không được vào xứ mà Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\c 33
\p
\v 1 Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, chúc cho dân Y-sơ-ra-ên trước khi qua đời.
\v 2 Ông nói: Giê-hô-va từ Si-nai đến, và từ Sê-i-rơ mọc lên soi trên họ. Từ núi Pha-ran Ngài chiếu sáng ra, và Ngài đến với muôn vàn đấng thánh. Trên tay phải Ngài là các tia chớp.
\s5
\v 3 Thật, Ngài yêu thương dân mình; tất cả thánh đồ Ngài nắm giữ trong tay; họ phủ phục nơi chân Ngài, ai nấy đều tiếp nhận lời Ngài.
\v 4 Tôi, Môi-se, đã truyền cho anh em luật pháp, là di sản cho hội của Gia-cốp.
\s5
\v 5 Rồi Giê-hô-va trở nên vua tại Giê-su-run, khi lãnh đạo của dân chúng đã tập họp mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên lại.
\v 6 Nguyện Ru-bên cứ sống, và chẳng chết; nhưng ước cho con cháu người thật ít oi.
\s5
\v 7 Đây là lời chúc phước cho Giu-đa. Môi-se nói: Hỡi Giê-hô-va, xin hãy nghe tiếng của Giu-đa và đem người về với dân mình. Xin Ngài chiến đấu cho người, giúp người chống lại kẻ thù.
\s5
\v 8 Về Lê-vi, Môi-se nói: “Thu-mim và U-rim của Chúa thuộc về kẻ Ngài vừa ý, người Ngài đã thử luyện tại Ma-sa, và tranh chiến với tại suối nước Mê-ri-ba.
\s5
\v 9 Là người đã nói về cha mẹ mình, rằng: “Tôi chưa từng thấy họ. ” Người không nhận anh em mình, hay màng đến con cái của chính mình. Vì người bảo vệ lời Chúa và gìn giữ giao ước Ngài.
\s5
\v 10 Người dạy cho Gia-cốp các quy định của Ngài, dạy cho Y-sơ-ra-ên luật pháp Ngài. Người sẽ dâng hương trước mặt Ngài, và của lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
\s5
\v 11 Hỡi Giê-hô-va, xin hãy ban phước cho cơ nghiệp người, và nhậm lấy công việc của tay người. Xin đập vỡ hông kẻ nào chống nghịch người, của kẻ thù ghét người, để chúng không thể đứng lên được nữa.
\s5
\v 12 Về Bên-gia-min, Môi-se nói: Kẻ được Giê-hô-va yêu thương sống bình yên bên cạnh Ngài; Giê-hô-va che chở người, và người sống trong vòng tay Ngài.
\s5
\v 13 Về Giô-sép, Môi-se nói: Nguyện miền đất của người được Giê-hô-va ban phước, bằng các báu vật từ trời, là sương móc, Bằng mạch nước sâu dưới lòng đất.
\s5
\v 14 Bằng báu vật hoa quả tạo ra nhờ mặt trời, bằng báu vật của các tuần trăng.
\v 15 Bằng phẩm vật hảo hạng của núi cổ, Bằng báu vật của đồi gò vĩnh cửu.
\s5
\v 16 Bằng báu vật của đất cùng sự phong phú nó, và bằng thiện ý của Đấng hiện ra trong bụi cây. Nguyện phước lành giáng trên đầu Giô-sép, trên vầng trán của kẻ làm chúa anh em mình.
\s5
\v 17 Là bò đực đầu lòng, người thật oai vệ, và các sừng người là sừng của bò rừng. Bằng các sừng ấy, người đùa hết mọi dân đến các đầu cùng đất. Đó là hàng vạn người Ép-ra-im; đó là hàng ngàn người Ma-na-se.
\s5
\v 18 Về Sa-bu-lôn, Môi-se nói: Sa-bu-lôn, hãy vui mừng lúc đi ra, còn Y-sa-ca, hãy hớn hở trong lều mình.
\v 19 Họ sẽ gọi các dân lên núi. Tại đó họ sẽ dâng tế lễ công bình. Vì họ sẽ hút lấy sự giàu có của biển khơi, và từ nơi cát trên bờ.
\s5
\v 20 Về Gát, Môi-se nói: Đáng chúc tôn Đấng mở rộng bờ cõi của Gát. Người sẽ sống ở đó như một sư tử cái, và sẽ xé lìa cánh tay hay đầu.
\s5
\v 21 Người cấp cho mình phần tốt đẹp nhất, vì có phần đất dành cho lãnh tụ. Người xuất hiện cùng với giới lãnh đạo dân chúng. Người thi hành sự công chính của Giê-hô-va và các quy định Ngài cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 22 Về Đan, Môi-se nói: Đan là sư tử tơ từ Ba-san nhảy vọt ra.
\s5
\v 23 Về Nép-ta-li, Môi-se nói: Được no đủ nhờ ân huệ và phước lành của Giê-hô-va, Nép-ta-li chiếm hữu vùng đất phía tây và phía nam.
\s5
\v 24 Về A-se, Môi-se nói: Nguyện A-se được phước hơn các con trai khác; nguyện người được anh em mình chấp nhận, và bàn chân người được dầm trong dầu ô-liu.
\v 25 Nguyện các then của thành người là sắt, là đồng; số ngày người sống lâu dài thể nào thì sự an ninh của người cũng lâu dài thể ấy.
\s5
\v 26 Nào có ai giống như Đức Chúa Trời đâu, Giê-su-run Ngài thật chính trực, cưỡi trên các từng trời, oai vệ trên các đám mây, đến cứu giúp ngươi.
\s5
\v 27 Đức Chúa Trời đời đời là nơi trú ẩn cho dân Ngài, dùng tay đời đời đỡ nâng họ. Ngài sẽ đuổi kẻ thù khỏi trước mặt ngươi, và hô lên: “Hãy diệt đi!”
\s5
\v 28 Nguyện Y-sơ-ra-ên được ở bình an. Suối Gia-cốp được an ninh trong miền đất ngũ cốc và rượu mới; thật, hãy để các tầng trời giọt nhỏ sương móc trên nó.
\s5
\v 29 Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi thật có phước! Ai giống như ngươi, dân được cứu bởi Giê-hô-va, thuẫn giúp đỡ ngươi, gươm của sự vinh hiển ngươi? Các kẻ thù ngươi sẽ đến run rẫy trước người, và ngươi sẽ giẫm đạp các nơi cao của chúng nó.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Môi-se từ đồng bằng Mô-áp đi đến núi Nê-bô, lên đỉnh Phích-ga, đối ngang Giê-ri-cô. Giê-hô-va chỉ cho ông thấy toàn xứ Ga-la-át tận cho đến Đan,
\v 2 cùng toàn vùng Nép-ta-li, miền đất của Ép-ra-im và Ma-na-se, toàn miền đất của Giu-đa, cho đến biển tây,
\v 3 vùng Nê-ghép, đồng bằng thung lũng Giê-ri-cô, thành Cây Cọ, cho đến tận Xoa.
\s5
\v 4 Giê-hô-va nói với ông: “Đây là xứ Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, với Y-sác, với Gia-cốp, rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng dõi con. Ta đã cho con tận mắt nhìn thấy, nhưng con sẽ không vào đó. ”
\v 5 Vậy, Môi-se, tôi tớ của Giê-hô-va, qua đời tại đó, trong xứ Mô-áp, như lời của Giê-hô-va đã hứa.
\v 6 Giê-hô-va chôn ông trong thung lũng thuộc xứ Mô-áp, đối ngang Bết Phê-ô, nhưng cho đến tận ngày nay chẳng ai biết mộ của ông đâu cả.
\s5
\v 7 Môi-se được một trăm hai mươi tuổi lúc ông qua đời; mắt ông không mờ, sức ông không giảm.
\v 8 Dân Y-sơ-ra-ên thương khóc Môi-se ba mươi ngày trong đồng bằng Mô-áp, và sau đó thời gian thương khóc Môi-se kết thúc.
\s5
\v 9 Giô-suê, con trai Nun, được đầy dẫy thần trí khôn ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên ông. Dân Y-sơ-ra-ên nghe theo ông và thực hiện những gì Giê-hô-va đã truyền bảo Môi-se.
\s5
\v 10 Từ đó đến nay trong Y-sơ-ra-ên chưa xuất hiện tiên tri nào giống như Môi-se, người được Giê-hô-va biết mặt đối mặt.
\v 11 Chưa bao giờ có tiên tri nào được như ông về các dấu và phép lạ mà Giê-hô-va đã sai ông thực hiện trong xứ Ai Cập, cho Pha-ra-ôn, cho toàn thể quần thần, cùng toàn xứ của ông ta.
\v 12 Chưa từng có tiên tri nào làm được mọi việc lớn lao, đáng sợ như Môi-se đã làm trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.

1329
06-JOS.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1329 @@
\id JOS
\ide UTF-8
\h GIÔ-SUÊ
\toc1 GIÔ-SUÊ
\toc2 GIÔ-SUÊ
\toc3 jos
\mt GIÔ-SUÊ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Chuyện xảy ra sau cái chết của Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, Ngài phán cùng Giô-suê con trai Nun, là phụ tá chính của Môi-se như sau:
\v 2 "Môi-se, tôi tớ của Ta đã chết. Vì lẽ đó, hãy chổi dậy, hãy băng qua sông Giô-đanh nầy, con và hết thảy dân nầy, vào trong đất mà ta sẽ ban cho họ — ban cho dân Do thái.
\v 3 Ta ban cho các con từng chỗ mà bàn chơn các con sẽ đặt đến. Ta ban xứ ấy cho các con, y như đã đã hứa với Môi-se.
\s5
\v 4 Từ đồng vắng và Li-ban, đến sông lớn kia, là sông Ơ-phơ-rát, hết thảy đất của dân Hê-tít, và cho đến Biển Lớn, nơi mặt trời lặn, sẽ là đất của các con.
\v 5 Không một ai sẽ đứng được trước mặt con trọn đời sống con. Ta sẽ ở với con như Ta đã ở với Môi-se. Ta sẽ không bỏ hay lìa con.
\s5
\v 6 Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Con sẽ khiến cho dân nầy hưởng lấy đất đai mà Ta đã hứa với các tổ phụ mà Ta sẽ ban cho họ.
\v 7 Hãy mạnh mẽ và can đảm lên. Phải cẩn thận vâng theo mọi luật lệ mà Môi-se tôi tớ Ta đã truyền cho các con. Đừng xây qua bên hữu hay bên tả, hầu cho con sẽ được thành công bất cứ đâu con đi tới.
\s5
\v 8 Con sẽ luôn luôn nói tới quyển sách luật pháp nầy. Con sẽ suy gẫm sách ấy ngày và đêm hầu cho con có thể vâng theo mọi điều đã chép trong sách ấy. Khi đó con sẽ được thịnh vượng và thành công.
\v 9 Há ta không có bảo con sao? Hãy mạnh mẽ và can đảm lên! Đừng sợ chi cả. Chớ có ngã lòng. Giê-hô-va Đức Chúa Trời con ở với con bất cứ đâu con đi đến.
\s5
\v 10 Khi ấy Giô-suê truyền cho các cấp lãnh đạo của dân sự:
\v 11 "Hãy đi khắp trại quân và truyền cho dân sự: 'Hãy sửa soạn mọi thứ cho bản thân mình. Trong ba ngày anh em sẽ băng qua sông Giô-đanh nầy, bước vào và chiếm lấy xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban cho anh em chiếm lấy"
\s5
\v 12 Đối với chi phái Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se, `Giô-suê nói:
\v 13 "Hãy nhớ đến lời lẽ mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền cho anh em khi người nói: 'Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ ban cho anh em sự yên nghỉ, và Ngài sẽ ban cho anh em đất nầy.'
\s5
\v 14 Vợ của anh em, con nhỏ của anh em, và bầy gia súc của anh em sẽ ở lại trong xứ mà Môi-se đã ban cho anh em ở bên kia sông Giô-đanh. Nhưng các chiến sĩ của anh em sẽ đi cùng với anh em đó và giúp đỡ họ
\v 15 cho tới chừng nào Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em đó yên nghỉ giống như Ngài đã ban sự yên nghỉ đó cho anh em vậy. Và họ cũng sẽ chiếm lấy xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em ban cho họ. Khi ấy anh em sẽ trở về với đất đai riêng của mình và làm chủ nó, là đất đai mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em bên kia sông Giô-đanh, nơi mặt trời mọc lên"
\s5
\v 16 Và họ đáp cùng Giô-suê như sau: "Mọi sự mà ông truyền cho chúng tôi, chúng tôi sẽ làm theo, và bất cứ đâu ông sai phái chúng tôi, chúng tôi sẽ đi ngay.
\v 17 Chúng tôi sẽ vâng theo ông y như chúng tôi đã vâng theo Môi-se. Duy nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông ở cùng ông, y như Ngài đã ở với Môi-se vậy.
\v 18 Kẻ nào loạn nghịch chống lại lệnh của ông và bất tuân lời lẽ của ông sẽ bị án tử hình. Nguyện ông cứ mạnh mẽ và đầy lòng can đảm".
\s5
\c 2
\p
\v 1 Khi ấy Giô-suê, con của Nun sai hai người từ Si-tim đi dọ thám cách kín đáo. Ông nói: "Hãy đi, quan sát cả xứ, đặc biệt tại thành Giê-ri-cô". Họ bèn ra đi rồi đến tại nhà của một gái điếm có tên là Raháp, và họ trú ở đó.
\v 2 Người ta học lại với Vua thành Giê-ri-cô: "Hãy coi chừng, người của Y-sơ-ra-ên đã đến đây do thám xứ sở đấy".
\v 3 Vua thành Giê-ri-cô gửi lời đến Ra-háp như sau: "Hãy trục xuất hai người đến trong nhà cô, vì họ đến do thám cả xứ".
\s5
\v 4 Nhưng người nữ nầy đã đem hai người đi giấu. Nàng nói: "Phải, họ đã đến với tôi, nhưng tôi không biết họ đến từ đâu.
\v 5 Họ đã rời khỏi đây khi trời tối, lúc cổng thành đóng lại. Tôi không biết họ đi đâu. Có lẽ Vua sẽ bắt được họ nếu Ngài mau mau đuổi theo".
\s5
\v 6 Nhưng nàng đã đưa họ lên mái nhà rồi giấu họ dưới những cọng gai mà nàng đã chứa trên mái nhà.
\v 7 Vậy, binh lính đuổi theo họ trên đường dẫn tới các tiền đồn dọc theo sông Giô-đanh. Và hai cổng thành đóng lại khi quân truy đuổi đã ra khỏi thành.
\s5
\v 8 Hai người chưa chợp giấc lúc đêm xuống, thì nàng leo lên mái nhà gặp họ.
\v 9 Nàng nói: "Tôi biết rõ Đức Giê-hô-va đã ban xứ cho các ông và nỗi lo sợ về các ông đang phủ lấy chúng tôi. Hết thảy những ai đang sống trong xứ đều nao sờn trước mặt các ông.
\s5
\v 10 Chúng tôi đã nghe nói thể nào Đức Giê-hô-va đã làm cạn khô Biển Sậy cho các ông khi các ông ra khỏi xứ Ai-cập. Và chúng tôi có nghe biết mọi điều các ông đã làm cho hai vua xứ A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh — Si-hôn và Óc — các ông đã tiêu diệt họ.
\v 11 Không lâu sau khi chúng tôi nghe được việc ấy, lòng chúng tôi nhụt đi và chẳng có chút can đảm nào nơi mọi người — vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ông, Ngài là Đức Chúa Trời ở trên trời và dưới đất thấp nầy.
\s5
\v 12 Cho nên, nhơn Đức Giê-hô-va làm ơn thề với tôi rằng, một khi tôi tử tế với các ông, các ông cũng sẽ đãi tử tế với nhà cha của tôi. Xin ban cho tôi một dấu chắc chắn
\v 13 rằng các ông sẽ tha mạng cho cha, mẹ, anh chị em, và hết thảy gia đình tôi, và các ông sẽ cứu tôi khỏi chết".
\s5
\v 14 Hai người nói với nàng: "Mạng chúng tôi đổi lấy mạng các người, ngay cả với cái chết! Nếu cô không nói tới công việc của chúng tôi, thế thì, khi Đức Giê-hô-va ban cho chúng tôi xứ nầy chúng tôi sẽ tỏ ra sự thương xót và thành tín với cô"
\s5
\v 15 Rồi nàng dòng họ xuống qua cánh cửa sổ bằng một sợi dây. Ngôi nhà trong đó nàng sinh sống được xây dựng trên bức tường của thành phố.
\v 16 Nàng nói với họ: "Hãy vào vùng núi, ẩn mình đi hoặc quân truy đuổi kia sẽ tìm gặp các ông. Hãy trốn ở đó trong ba ngày cho tới khi quân truy đuổi trở về. Khi ấy, hãy tiếp tục đi đường của các ông"
\v 17 Hai người nói với nàng rằng: "Chúng ta sẽ không bị ràng buộc với các lời hứa trong lời thề mà cô buộc chúng ta phải thề, nếu cô không làm theo điều nầy:
\s5
\v 18 Khi chúng tôi vào trong xứ, cô phải buộc sợi dây màu đỏ điều nơi cánh cửa sổ mà cô đã dòng bọn ta xuống, còn cô sẽ lo tập trung nhà cha mẹ cô, anh em cô và hết thảy nhà cha cô.
\v 19 Hễ ai bước ra đường khỏi cửa nhà cô, huyết của họ sẽ ở lại trên đầu họ, còn chúng ta vô tội. Nhưng nếu tay tra vào bất kỳ ai ở với cô trong nhà, huyết của người ấy sẽ đổ trên đầu chúng tôi.
\s5
\v 20 Còn nếu cô nói ra mọi công việc của chúng tôi, khi ấy chúng tôi sẽ không bị ràng buộc với lời hứa mà chúng tôi đã thề với cô, lời hứa mà cô bắt chúng tôi thề"
\v 21 Ra-háp đáp: "Nguyện những gì hai ông nói sẽ được nên". Nàng để cho hai người đi và họ bèn rời đi. Khi ấy nàng buộc sợi dây màu đỏ điều nơi cánh cửa sổ.
\s5
\v 22 Họ rời đi, vào miền núi ở đó ba ngày cho tới khi quân truy đuổi đã trở về. Quân ấy đã rà soát dọc theo con đường mà chẳng gặp được ai.
\s5
\v 23 Hai người băng qua sông trở về gặp Giô-suê con trai Nun, rồi họ tường thuật lại mọi điều đã xảy ra cho họ.
\v 24 Họ nói với Giô-suê: "Quả thực Đức Giê-hô-va đã ban xứ nầy cho chúng ta. Mọi dân cư trong xứ đều nhụt chí vì cớ chúng ta.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Giô-suê dậy sớm lúc ban mai, rồi họ đi ra từ Si-tim. Họ đến sông Giô-đanh, ông và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, họ đóng trại ở đó trước khi qua sông.
\s5
\v 2 Sau ba ngày, các quan trưởng bước vào giữa trại quân;
\v 3 họ truyền cho dân sự: "Khi anh em nhìn thấy hòm giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, và các thầy tế lễ người Lê-vi khiêng hòm ấy, anh em phải rời khỏi chỗ nầy và bước theo hòm ấy.
\v 4 Phải có một khoảng cách giữa anh em và hòm ấy khoảng hai ngàn cubits (cubit = đơn vị đo chiều dài bằng 45, 7 cm, như vậy 2. 000 cubit = 45, 7 cm x 2. 000 = 91. 400cm = 914m). Đừng đến gần chiếc hòm, để anh em có thể thấy con đường phải đi, một khi anh em chưa đi đường nầy trước đây bao giờ".
\s5
\v 5 Giô-suê nói cùng dân sự: "Ngày mai hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va, vì Đức Giê-hô-va sẽ làm nhiều dấu kỳ phép lạ giữa vòng anh em ".
\v 6 Tiếp đến, Giô-suê nói cùng dòng thầy tế lễ: "Hãy khiêng lấy hòm giao ước, rồi đi đàng trước dân sự". Thế là họ nhấc hòm giao ước lên và khiêng đi đàng trước dân sự.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Ngày nay Ta sẽ làm cho con thành một nhân vật cao trọng trong mắt của mọi người Do thái. Họ sẽ nhận biết rằng ta sẽ ở cùng con y như ta đã ở cùng Môi-se vậy.
\v 8 Con sẽ truyền cho các thầy tế lễ nào khiêng hòm giao ước: 'Khi anh em đến mé sông Giô-đanh, anh em phải đứng lại trong dòng sông Giô-đanh".
\s5
\v 9 Khi ấy Giô-suê nói với dân Y-sơ-ra-ên: "Hãy đến đây, và lắng nghe lời của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\v 10 Bởi điều nầy anh em sẽ biết rằng Đức Chúa Trời hằng sống đang ở giữa anh em và sẽ trục xuất khỏi trước mặt anh em dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Hê-vít, dân Phê-rê-sít, dân Ghi-rê-ga-sít, dân A-mô-rít, và dân Giê-bu-sít.
\v 11 Hãy xem đi! Hòm giao ước của Chúa cả thế gian qua sông trước mặt anh em trong dòng sông Giô-đanh.
\s5
\v 12 Bây giờ, hãy chọn mười hai người từ các chi phái Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái một người.
\v 13 Khi gót chân dòng thầy tế lễ đang khiêng hòm giao ước, chạm mặt nước sông Giô-đanh, nước của sông Giô-đanh sẽ bị chia ra, và thậm chí nước tràn xuống từ nguồn sẽ thôi không chảy tràn nữa và chúng dồn lại thành một đống"
\s5
\v 14 Vậy, khi dân sự dàn ra đặng qua bên kia sông, các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đi ở đàng trước dân sự.
\v 15 Ngay khi những người khiêng hòm giao ước đã đến bên sông Giô-đanh, và bàn chân của những người khiêng hòm giao ước vừa chạm mé nước (lúc bấy giờ dòng sông Giô-đanh đang chảy tràn hai bên bờ trong suốt mùa gặt),
\v 16 nước tràn xuống từ nguồn dựng đứng lên thành một đống. Nước thôi không chảy tràn từ một khoảng xa xa. Nước thôi chảy tràn từ thành A-đam, là thành phố ở bên cạnh Xát-than, dòng nước chảy ra biển Nê-giép, Biển Muối. Và dân sự băng qua sông gần thành Giê-ri-cô.
\s5
\v 17 Thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đứng trên đất khô giữa sông Giô-đanh cho đến chừng dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên đất khô.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Khi hết thảy dân sự đã qua sông Giô-đanh, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
\v 2 "Từ giữa vòng dân sự, hãy chọn trong các con mười hai người, mỗi chi phái một người.
\v 3 Hãy ban cho họ mạng lịnh nầy: 'Hãy lấy mười hai hòn đá từ giữa sông Giô-đanh, chỗ các thầy tế lễ đang đứng nơi đất khô, rồi đem chúng qua cho con và hãy đặt chúng ngay chỗ mà con sẽ qua đêm tối nay'"
\s5
\v 4 Khi ấy Giô-suê gọi mười hai người mà ông đã chọn từ các chi phái Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái một người.
\v 5 Giô-suê nói với họ: "Hãy vào giữa sông Giô-đanh ở trước hòm giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, mỗi một người trong anh em vác một hòn đá trên vai mình — mười hai hòn đá, dựng lên theo số các chi phái dân sự Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Đây sẽ là một dấu ở giữa vòng anh em đặng khi con cháu anh em hầu đến hỏi rằng: 'Các hòn đá nầy có ý nghĩa gì chứ?'
\v 7 Khi ấy anh em sẽ nói cùng chúng rằng: 'Nước sông Giô-đanh đã rẽ ra ở trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va. Khi chiếc hòm băng qua sông Giô-đanh, nước sông Giô-đanh đã rẽ ra. Vì vậy những hòn đá nầy sẽ là một ký ức trong dân Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời'".
\s5
\v 8 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm theo đúng lịnh truyền của Giô-suê, và họ nhặt mười hai hòn đá từ giữa sông Giô-đanh, y như Đức Giê-hô-va đã phán cùng Giô-suê, họ đã chất lên theo đúng con số chi phái của dân Y-sơ-ra-ên. Họ đã đem chúng qua sông với họ đến tận chỗ mà họ đã qua đêm rồi đặt xuống ở đó.
\v 9 Khi ấy Giô-suê chất mười hai hòn đá ở giữa sông Giô-đanh, ngay chỗ mà bàn chơn của các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đứng. Và đống đá còn ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\v 10 Các thầy tế lễ khiêng hòm đứng ở giữa sông Giô-đanh cho tới khi mọi sự Đức Giê-hô-va phán dặn Giô-suê truyền bảo dân sự đã hoàn tất, theo mọi sự mà Môi-se đã truyền lại cho Giô-suê. Dân sự vội vã và họ đã băng qua sông.
\v 11 Khi mọi người đã hoàn tất việc vượt sông, hòm của Đức Giê-hô-va và các thầy tế lễ đã băng qua sông trước mặt dân sự.
\s5
\v 12 Chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã băng qua trước khi dân Y-sơ-ra-ên lập đội hình như một đội quân, y như Môi-se đã dặn họ.
\v 13 Khoảng bốn mươi ngàn người được trang bị cho chiến trận đi qua trước mặt Đức Giê-hô-va, vì trận chiến ngay trên đồng bằng Giê-ri-cô.
\v 14 Vào ngày ấy Đức Giê-hô-va làm cho Giô-suê được cao trọng trong con mắt của hết thảy dân Y-sơ-ra-ên. Họ tôn trọng trọn đời của ông — y như họ đã tôn trọng Môi-se vậy.
\s5
\v 15 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
\v 16 "Hãy truyền cho các thầy tế lễ nào khiêng hòm giao ước đi lên khỏi sông Giô-đanh"
\s5
\v 17 Vậy, Giô-suê truyền cho các thầy tế lễ: "Hãy lên khỏi sông Giô-đanh".
\v 18 Khi các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va ra khỏi giữa sông Giô-đanh, và gót chơn của họ vừa nhấc ra khỏi chỗ đất khô, khi ấy nước sông Giô-đanh trở lại chỗ của chúng và tràn lên hai bên bờ, y như chúng đã có bốn ngày trước đó.
\s5
\v 19 Dân sự lên khỏi sông Giô-đanh nhằm ngày mùng mười tháng thứ nhứt. Họ ở lại trong Ghinh-ganh, phía Đông thành Giê-ri-cô.
\v 20 Mười hai hòn đá mà họ lấy ra khỏi sông Giô-đanh, Giô-suê đã chất đống ở Ghinh-ganh.
\v 21 Ông nói với dân Y-sơ-ra-ên: "Khi dòng dõi các ngươi hỏi tổ phụ chúng trong ngày hầu đến: 'Mấy hòn đá nầy là gì chứ?'
\s5
\v 22 Hãy nói với con cháu anh em rằng: 'Đây là chỗ mà Y-sơ-ra-ên đã qua sông Giô-đanh trên đất khô.'
\v 23 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã làm khô dòng sông Giô-đanh cho anh em, cho đến chừng anh em đã qua sông, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm với Biển Sậy, Ngài đã làm khô cho chúng ta cho đến khi chúng ta đã qua sông,
\v 24 hầu cho hết thảy các dân trên đất nhận biết tay của Đức Giê-hô-va là toàn năng, và anh em sẽ tôn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em cho đến đời đời".
\s5
\c 5
\p
\v 1 Các vua dân A-mô-rít ở bờ Tây sông Giô-đanh, và các vua dân Ca-na-an, họ sống dọc theo bờ Biển Lớn, họ nghe nói rằng Đức Giê-hô-va đã làm cho dòng sông Giô-đanh cạn khô cho đến khi dân Y-sơ-ra-ên đã băng qua, lòng họ như nhủn ra, và chẳng có chút tinh thần nào ở trong họ vì cớ dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 2 Lúc bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy chế loại dao bằng đá lửa rồi một lần nữa làm phép cắt bì cho mọi người nam Y-sơ-ra-ên."
\v 3 Khi ấy Giô-suê làm cho mình loại dao bằng đá lửa và ông làm phép cắt bì cho mọi người nam Y-sơ-ra-ên tại A-ra-lốt Ghi-bê-a.
\s5
\v 4 Và đây là lý do để Giô-suê làm phép cắt bì cho họ: hết thảy những người nam nào đã ra khỏi xứ Ai-cập, kể cả những người trong chiến trận, đã chết dọc đường trong đồng vắng, sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập.
\v 5 Mặc dù hết thảy người nam nào đã ra khỏi Ai-cập đều đã chịu phép cắt bì, vẫn có những thiếu niên sanh trong đồng vắng trên đường ra khỏi Ai-cập chưa chịu phép cắt bì.
\s5
\v 6 Vì dân sự Y-sơ-ra-ên đã đi bốn mươi năm trong đồng vắng cho đến khi mọi người, nghĩa là, mọi người của chiến trận đã ra khỏi xứ Ai-cập, đã chết, vì họ không vâng theo tiếng phán của Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va đã thề với họ rằng Ngài không Ngài sẽ không để cho họ nhìn thấy xứ mà Ngài đã thề với các tổ phụ họ rằng Ngài sẽ ban cho chúng ta, một xứ tràn trề với sữa và mật ong.
\v 7 Chính con cái của họ Đức Giê-hô-va đã dấy lên trong chỗ của họ mà Giô-suê đã làm phép cắt bì, vì họ chưa chịu phép cắt bì tới nay.
\s5
\v 8 Khi hết thảy họ đều đã chịu phép cắt bì, họ cứ ở lại chỗ họ đã ở trong trại quân cho đến khi họ lành lặn.
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Ngày nay ta đã lăn xa nỗi ô nhục của xứ Ai-cập khỏi các con". Vì vậy, danh xưng của địa điểm ấy được gọi là Ghinh-ganh cho đến ngày nay.
\s5
\v 10 Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại Ghinh-ganh. Họ giữ Lễ Vượt Qua vào chiều tối ngày mười bốn tháng này, ở đồng bằng Giê-ri-cô.
\v 11 Rồi sau ngày lễ Vượt Qua, chính ngày ấy, họ đã ăn thổ sản của xứ, bánh không men, và gạo rang.
\s5
\v 12 Mana chấm dứt vào ngày sau ngày họ đã ăn thổ sản của xứ. Không còn có mana cho dân Y-sơ-ra-ên ăn nữa, song họ đã ăn thổ sản của xứ Ca-na-an trong năm đó.
\s5
\v 13 Khi Giô-suê ở gần thành Giê-ri-cô, ông ngước mắt lên nhìn, thì kìa có một người đến đứng trước mặt ông; người rút gươm ra cầm nơi tay. Giô-suê bước tới gần người rồi nói: "Người đến vì chúng ta hay vì kẻ thù của chúng ta?"
\s5
\v 14 Người ấy nói: "Không vì một bên nào hết. Vì ta là cấp chỉ huy quân đội của Đức Giê-hô-va. Giờ thì ta đã đến". Khi ấy Giôsuê sấp mặt xuống đất thờ lạy rồi thưa cùng người ấy rằng: "Chúa truyền cho tôi tớ Chúa việc gì?"
\v 15 Viên chỉ huy quân đội của Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy cởi giày ra khỏi chơn, vì nơi con đang đứng là thánh". Rồi Giô-suê đã làm theo y như thế.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Mọi lối vào thành Giê-ri-cô đều bị cấm vì cớ quân đội của Y-sơ-ra-ên. Không có ai được đi ra và chẳng có người nào được vào bên trong hết.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy xem, ta đã phó thành Giê-ri-cô cho con, vua cùng các binh sĩ tinh nhuệ của nó.
\s5
\v 3 Các con phải diễu hành quanh thành, mọi người tham dự chiến trận sẽ đi quanh thành một bận. Các con phải làm điều nầy trong sáu ngày.
\v 4 Bảy thầy tế lễ phải mang bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm giao ước. Đến ngày thứ bảy, các con phải diễu hành quanh thành bảy lần, và các thầy tế lễ phải thổi kèn lên.
\s5
\v 5 Khi ấy họ phải thổi kèm làm bằng sừng chiên đực kia một hơi thật dài, rồi khi các con nghe tiếng kèn, mọi người phải hô lên một tiếng thật lớn, thì bức tường của thành phố kia sẽ sụp xuống. Những lính chiến phải tấn công, từng người ngay trước mặt mình".
\s5
\v 6 Như vậy Giô-suê con trai Nun, đã mời các thầy tế lễ đến rồi nói với họ như sau; "Hãy khiêng hòm giao ước lên, rồi để cho bảy thầy tế lễ cầm loại kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm của Đức Giê-hô-va "
\v 7 Ông nói với dân sự: "Hãy đi và diễu hành quanh thành, những người có vũ trang sẽ đi trước hòm của Đức Giê-hô-va "
\s5
\v 8 Y như Giô-suê đã nói cùng dân sự, bảy thầy tế lễ cần bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước mặt Đức Giê-hô-va. Khi họ đi đàng trước, họ trổi tiếng kèn lên. Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va theo sau họ.
\v 9 Những người có vũ trang đi trước các thầy tế lễ, và họ trổi tiếng kèn lên, còn quân tiếp hậu đi ở đàng sau hòm giao ước, và các thầy tế lễ liên tục trổi tiếng kèn lên.
\s5
\v 10 Còn Giô-suê đã truyền cho dân sự rằng: "Đừng la lên. Không một tiếng nào ra khỏi miệng anh em cho đến ngày ta bảo anh em phải la lên. Chỉ khi ấy anh em mới la lớn tiếng lên".
\v 11 Thế là ông điều động cho hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đi quanh thành một bận trong ngày ấy. Khi ấy họ về lại trại quân của mình, và họ ở lại trong trại lúc ban đêm.
\s5
\v 12 Giô-suê dậy thật sớm lúc ban mai, còn các thầy tế lễ nhấc hòm giao ước của Đức Giê-hô-va lên.
\v 13 Bảy thầy tế lễ cầm bảy cây kèn làm bằng sừng chiên đực đi trước hòm của Đức Giê-hô-va, rồi vừa đi họ vừa trổi tiếng kèn của mình lên. Binh sĩ có vũ trang đi ở đàng trước họ. Nhưng khi quân tiếp hậu đi ở đàng sau hòm của Đức Giê-hô-va, khi ấy kèn cứ được trổi lên liên tục.
\v 14 Họ diễu hành quanh thành một bận trong ngày thứ nhì rồi trở về trại quân mình. Họ đã làm việc nầy trong sáu ngày.
\s5
\v 15 Đến ngày thứ bảy, họ dậy sớm lúc bình minh, rồi họ diễu hành quanh thành theo cùng một cách theo đúng đội hình của họ, lần nầy là bảy bận. Chính ngày này họ diễu hành quanh thành phố bảy lần.
\v 16 Nhằm ngày thứ bảy khi các thầy tế lễ đã trổi tiếng kèn lên, Giô-suê truyền cho dân sự: "Hãy la lên đi! Vì Đức Giê-hô-va đã ban thành phố cho các con.
\s5
\v 17 Thành phố và mọi thứ ở trong nó sẽ được biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va để bị huỷ diệt. Chỉ có gái điếm Ra-háp sẽ được sống — cô ấy và hết thảy những ai ở với cô ấy trong nhà cô ấy — vì cô ấy đã che giấu người mà chúng ta sai đến.
\v 18 Nhưng về phần anh em, phải cẩn thận về việc lấy những thứ biệt riêng ra để huỷ diệt, hầu cho sau khi anh em đánh dấu chúng để bị diệt đi, anh em đừng lấy chúng. Nếu anh em làm điều nầy, anh em sẽ khiến cho trại quân của Y-sơ-ra-ên thành một thứ phải chịu huỷ diệt và anh em sẽ đem tai hoạ giáng trên nó.
\v 19 Hết thảy bạc, vàng, cùng những thứ làm bằng đồng và sắt được dâng cho Đức Giê-hô-va. Chúng phải được chứa trong kho của Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 20 Vì vậy dân sự đã la lớn tiếng, rồi họ trổi kèn lên. Khi dân sự nghe thấy tiếng kèn, họ đã hô lên lớn tiếng, thì bức tường sụp xuống hầu cho dân sự bước lên mà vào trong thành, mỗi người ngay trước mặt mình. Và họ đã chiếm lấy thành.
\v 21 Họ đã huỷ diệt hoàn toàn mọi thứ có ở trong thành bằng lưỡi của thanh gươm — người nam người nữ, già và trẻ, bò, chiên và lừa.
\s5
\v 22 Khi ấy Giô-suê nói với hai người đến do thám xứ: "Hãy vào trong nhà của gái điếm kia. Hãy đem người nữ ấy cùng hết thảy những ai ở với cô ấy ra, y như anh em đã thề với cô ấy"
\s5
\v 23 Thế là hai người là thám tử ấy bước vào rồi đưa Ra-háp ra ngoài. Họ đưa ra ngoài cha mẹ, anh em, cùng những người bà con của cô ấy đến trú ở đó. Họ đưa những người ấy đến một chỗ bên ngoài trại quân của Y-sơ-ra-ên.
\v 24 Rồi họ đốt thành cùng mọi sự ở trong đó. Chỉ có bạc, vàng, cùng những cái chậu bằng đồng và sắt được đem vào trong nhà kho của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 25 Giô-suê đã cho phép gái điếm Ra-háp, người nhà của cha cô ấy và mọi người ở với cô ấy được sống. Cô ấy đã sống trong Y-sơ-ra-ên đến ngày này vì cô ấy đã che giấu hai người mà Giô-suê sai họ đi dọ thám thành Giê-ri-cô.
\s5
\v 26 Khi ấy Giô-suê truyền cho họ với một lời thề, ông nói: "Đáng rủa sả thay cho kẻ nào xây dựng lại thành Giê-ri-cô trước mặt Đức Giê-hô-va. Kẻ đặt lại nền sẽ phải trả giá bằng con đầu lòng mình, còn dựng lên cổng thành kẻ ấy phải trả giá bằng con út mình".
\v 27 Thế là Đức Giê-hô-va đã ở với Giô-suê, và tiếng tăm người rải khắp xứ.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đã hành xử theo cách bất trung liên quan đến những thứ được biệt riêng ra để huỷ diệt. Achan con trai của Cạt-mi, cháu của Xim-ri, chắt của Xê-rách, từ cho phái Giu-đa, đã lấy một số món được biệt riêng ra để huỷ diệt, và cơn giận của Đức Giê-hô-va bùng lên nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 2 Giô-suê sai người từ Giê-ri-cô đến thành A-hi, thành nầy ở gần Bết-A-ven, phía Đông Bê-tên. Ông nói với họ: "Hãy đi lên và do thám xứ". Vậy, họ đi lên và do thám thành A-hi.
\v 3 Khi họ trở về gặp Giô-suê, họ nói với ông như vầy: "Đừng đưa hết dân sự lên thành A-hi. Chỉ cần sai hai hoặc ba ngàn người đi lên và tốn công thành A-hi. Đừng làm cho dân sự phải mệt nhọc trong chiến trận, vì người thành A-hi vốn ít dân lắm".
\s5
\v 4 Thế là chỉ có khoảng ba ngàn người trong quân đội đi lên, nhưng số binh sĩ nầy đã bỏ chạy trước mặt người thành A-hi.
\v 5 Người của thành A-hi giết khoảng ba mươi sáu người khi họ truy kích người Do thái từ cổng thành cho đến vùng mỏ đá, và họ giết số người Do thái nầy khi họ đi xuống một ngọn đồi. Lòng dân sự đầy lo sợ và sự cam đảm đã lìa khỏi họ.
\s5
\v 6 Khi ấy Giô-suê mới xé áo mình. Ông cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lấy đất phủ đầu mình rồi sấp mặt xuống đất ở trước hòm của Đức Giê-hô-va, cứ giữ như thế cho đến chiều tối.
\v 7 Thế rồi Giô-suê nói: "Ôi, hỡi Chúa Giê-hô-va, sao Ngài đem dân nầy qua sông Giô-đanh làm chi chứ? Để phó chúng con vào trong tay dân A-mô-rít để tiêu diệt chúng con ư? Nếu chúng con chỉ đưa ra quyết định khác thì chúng con đã trụ lại bên kia sông Giô-đanh!
\s5
\v 8 Lạy Chúa, con phải nói sao đây, sau khi Y-sơ-ra-ên đã xoay lưng họ lại trước mặt kẻ nghịch thù kia!
\v 9 Vì dân Ca-na-an cùng hết thảy cư dân của xứ sẽ nghe thấy việc ấy. Họ sẽ vây lấy chúng con và khiến dân sự của đất quên danh của chúng con đi. Rồi Ngài sẽ làm gì với uy danh lớn lao của Chúa?"
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê, "Hãy chổi dậy! Sao cứ nằm úp mặt ở đó hoài vậy?
\v 11 Y-sơ-ra-ên đã phạm tội. Họ đã phạm vào giao ước của ta mà ta đã truyền cho họ. Họ đã lấy một số món đã được biệt riêng ra. Họ đã lấy cắp và rồi đã che giấu tội lỗi của họ bằng cách cất giữ những thứ họ đã lấy ở nơi thuộc về họ.
\v 12 Như một kết quả, dân Y-sơ-ra-ên không thể đứng trước mặt kẻ thù nghịch họ. Họ đã xoay lưng họ lại đối với kẻ thù của họ vì đích thân họ bị biệt riêng ra để bị huỷ diệt. Ta sẽ không ở với các con nữa trừ phi các con tiêu diệt những thứ đáng bị huỷ diệt, mà hiện vẫn còn giữa vòng các con.
\s5
\v 13 Hãy chổi dậy đi! Hãy dâng dân sự cho ta và nói với họ: 'Hãy dâng mình làm của lễ sống cho Đức Giê-hô-va ngày mai. Vì Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: "Có những thứ biệt riêng ra để bị huỷ diệt vẫn hiện còn giữa vòng các con, hỡi Y-sơ-ra-ên. Các con không thể đứng chống cự với kẻ thù cho đến chừng nào các con cất bỏ khỏi giữa các con hết thảy những thứ bị biệt riêng ra để chịu huỷ diệt"
\s5
\v 14 Đến sáng, anh em phải tự mình trình diện từng chi phái. Chi phái mà Đức Giê-hô-va chọn do bắt thăm sẽ đến gần cùng với họ hàng của họ. Họ hàng mà Đức Giê-hô-va chỉ ra phải đến gần từng hộ một. Hộ mà Đức Giê-hô-va chỉ ra phải đến gần từng người một.
\v 15 Việc ấy cứ diễn ra cho đến kẻ bị chỉ ra và là người có những thứ bị biệt riêng ra để bị huỷ diệt, người ấy sẽ bị thiêu, người và mọi sự người có, vì người đã phá vỡ giao ước của Đức Giê-hô-va và vì người đã làm một việc đáng hổ thẹn trong Y-sơ-ra-ên.'"
\s5
\v 16 Vậy, Giô-suê dậy sớm lúc ban mai rồi đem Y-sơ-ra-ên đến gần, từng chi phái một, và chi phái Giu-đa bị chỉ ra.
\v 17 Ông đưa họ hàng của Giu-đa đến gần, và họ hàng của Xê-rách bị chỉ ra. Ông đưa họ hàng của Xê-rách đền gần từng người một, và Xáp-đi bị chỉ ra.
\v 18 Ông đưa hộ của Xáp-đi đến gần, từng người một, và A-can con của Cạt-ni cháu của Xê-rách, bị chỉ ra từ chi phái Giu-đa.
\s5
\v 19 Khi ấy Giô-suê mới nói cùng A-can: "Hỡi con, hãy nói thật đi trước mặt Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và hãy xưng tội với Ngài. Hãy vui lòng nói cho ta biết những điều con đã làm. Đừng giấu việc ấy đối với ta".
\v 20 A-can đáp cùng Giô-suê: "Thật, con đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây là những gì con đã làm:
\v 21 Khi con nhìn thấy giữa vòng chiến lợi phẩm một chiếc áo choàng rất đẹp làm từ xứ Babylôn, giá hai trăm siếc-lơ bạc, và một nén vàng nặng chừng năm mươi siếc-lơ, con muốn và đã lấy chúng. Chúng được giấu dưới đất trong trại của con, còn bạc thì ở dưới đất đó".
\s5
\v 22 Giô-suê sai các sứ giả, họ chạy đến trại và đã có các món ấy. Khi họ tìm kiếm, họ gặp chúng được giấu ở trong trại của ông ta, còn bạc thì ở dưới chúng.
\v 23 Họ lấy mấy món đó từ giữa trại rồi mang chúng đến với Giô-suê và với hết thảy dân Y-sơ-ra-ên. Họ đổ chúng ra trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Khi ấy Giô-suê, và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên với ông, bắt lấy A-can con cháu của Xê-rách, còn bạc, áo choàng, nén vàng, các con trai con gái của ông ta, bò, lừa, chiên, trại, cùng mọi sự ông đã có, rồi hết thảy bị họ đưa lên trũng A-cô.
\s5
\v 25 Khi ấy Giô-suê nói: "Tại sao con làm rối cho chúng ta chứ? Đức Giê-hô-va sẽ làm rối con hôm nay". Hết thảy Y-sơ-ra-ên đều ném đá người. Rồi hết thảy bị thiêu đốt, và bị đá lấp lại.
\v 26 Họ chất trên ông ta một đống đá thật lớn, vẫn còn ở đây ngày nay. Đức Giê-hô-va xoay khỏi cơn giận như thiêu như đốt của Ngài. Vì lẽ đó tên của địa điểm ấy là trũng A-cô hãy còn cho đến ngày nay.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Chớ sợ, chớ nãn lòng. Hãy đem theo với con những người của chiến trận. Hãy đi lên thành A-hi. Hãy xem, ta đã phó trong tay con vua của A-hi, dân sự người, thành của người, và đất đai người.
\v 2 Con sẽ làm với A-hi và vua của nó giống như con đã làm với Giê-ri-cô cùng vua của nó, con sẽ chiếm lấy chiến lợi phẩm và gia súc cho chính mình. Hãy phục kích ở phía sau thành".
\s5
\v 3 Thế là Giô-suê trở dậy rồi đem người của chiến trận theo với mình lên thành A-hi. Giô-suê chọn lấy ba mươi ngàn người — những người tinh nhuệ, can đảm — rồi ông sai họ đi lúc ban đêm.
\v 4 Ông truyền cho họ: "Hãy xem đi, anh em sẽ nằm phục kích nghịch lại thành phố, ở phía sau nó. Chớ ở xa thành, song hết thảy anh em phải sẵn sàng.
\s5
\v 5 Ta và những người theo với ta sẽ tiếp cận thành phố. Rồi khi chúng ra tấn công chúng ta, chúng ta sẽ bỏ chạy tránh chúng giống như lần trước.
\v 6 Chúng sẽ đuổi theo sau chúng ta cho đến chừng chúng ta kéo chúng ra khỏi thành. Chúng sẽ nói: 'Họ chạy trốn chúng ta giống như họ đã trốn mới đây'. Vậy chúng ta sẽ chạy trốn khỏi chúng.
\v 7 Khi ấy anh em chổi dậy ra khỏi chỗ ẩn nấp của mình, anh em sẽ chiếm lấy thành. Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ ban thành ấy vào trong tay anh em.
\s5
\v 8 Khi anh em chiếm lấy thành, anh em sẽ phóng hoả nó. Anh em sẽ làm như vậy khi anh em vâng theo mạng lịnh được ban ra theo lời của Đức Giê-hô-va. Hãy xem, ta đã truyền cho anh em".
\v 9 Giô-suê sai họ đi, và họ đi đến chỗ phải nằm phục kích, họ ẩn nấp giữa thành Bê-tên và thành A-hi ở phía Tây A-hi. Còn Giô-suê đêm đó đã ngủ giữa vòng dân sự.
\s5
\v 10 Giô-suê thức dậy sớm và chuẩn bị binh lính mình sẵn sàng, Giô-suê cùng các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, và họ đến tấn công dân thành A-hi.
\v 11 Tất cả binh sĩ chiến đấu ở với ông đi lên và tiếp cận thành phố. Họ đến gần thành và đóng trại ở phía Bắc thành A-hi. Bây giờ, đã có một đồng trũng ở giữa họ và thành A-hi.
\v 12 Ông đem khoảng năm ngàn binh sĩ đặt họ phục kích ở phía Tây thành phố giữa Bê-tên và A-hi.
\s5
\v 13 Họ sắp đặt các binh sĩ, đội quân chính ở phía Bắc thành phố, và phục binh ở phía Tây thành phố. Giô-suê qua đêm ở trong trũng.
\v 14 Khi vua thành A-hi thấy việc ấy, ông cùng quân đội mình trở dậy sớm rồi ùa ra tấn công Y-sơ-ra-ên ngay chỗ đối ngang với đồng bằng sông Giô-đanh. Ông ta không biết có binh mai phục đang chờ đợi tấn công từ phía sau thành.
\s5
\v 15 Giô-suê và hết thảy Y-sơ-ra-ên chịu bại trận trước mặt họ, rồi họ bỏ chạy vào trong đồng vắng.
\v 16 Hết thảy dâng sống trong thành phố được lịnh gọi cùng nhau truy kích họ, rồi họ đuổi theo Giô-suê ra xa khỏi thành phố.
\v 17 Không có một người nào ở lại trong thành A-hi và Bê-tên không ra mà truy kích dân Y-sơ-ra-ên. Họ bỏ thành công khai mở cửa truy đuổi dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Hãy chỉ ngọn giáo cầm trong tay con hướng về thành A-hi, vì Ta sẽ ban thành A-hi vào trong tay con". Giô-suê cần ngọn giáo trong tay chỉ hướng về thành phố.
\v 19 Binh sĩ phục kích mau chóng ùa ra khỏi chỗ của họ khi ông giơ tay lên. Họ chạy ùa vào trong thành chiếm lấy nó. Họ mau chóng phóng hoả thành.
\s5
\v 20 Người của thành A-hi quay nhìn lại. Họ trông thấy khói từ thành phố bốc lên trời, và họ không thoát được theo lối nầy hay lối kia. Vì binh sĩ Do thái đã bỏ chạy trong đồng vắng giờ đây quay lại đối diện với những kẻ đang truy kích họ.
\v 21 Khi Giô-suê và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên nhìn thấy phục binh đã chiếm lấy thành với khói bốc bay cao, họ quay trở lại rồi giết người thành A-hi.
\s5
\v 22 Và các binh sĩ Do thái khác, những người đã bước vào trong thành, đã bước ra tấn công họ. Vì vậy, người của thành A-hi đều bị kẹt ở giữa quân đội của, một số mặt bên nầy và một số người ở mặt bên kia. Y-sơ-ra-ên đã tấn công người của thành A-hi, không một người nào sống sót hay thoát thật được.
\v 23 Họ bắt giữ vua thành A-hi, là kẻ mà họ đã bắt sống, rồi họ mang người đến cùng Giô-suê.
\s5
\v 24 Khi dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn thành việc giết cư dân thành A-hi trong cánh đồng gần đồng vắng họ truy kích chúng, rồi khi hết thảy họ, cho đến người cuối cùng, đã ngã xuống bên lưỡi gươm, dân Y-sơ-ra-ên trở lại thành A-hi. Họ dùng gươm tấn công nó.
\v 25 Hết thảy nam nữ cư dân thành A-hi đều ngã chết trong ngày ấy, là mười hai ngàn người.
\v 26 Giô-suê không rút tay cầm giáo của mình lại, cho đến khi đã tiêu diệt hoàn toàn người thành A-hi.
\s5
\v 27 Y-sơ-ra-ên chỉ lấy bầy gia súc và chiến lợi phẩm từ thành phố cho bản thân họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Giô-suê.
\v 28 Giô-suê đốt thành A-hi rồi biến nó thành một đống đổ nát cho đến đời đời. Đây là một chỗ bị bỏ phế cho đến ngày nay.
\s5
\v 29 Ông cho treo cổ vua thành A-hi trên cây cho đến chiều tối. Khi mặt trời lặn xuống rồi, Giô-suê ban lịnh và họ lấy thây của vua đó xuống rồi quăng thây ấy ở trước cổng thành. Ở đó họ chất một đống đá trên thây ấy. Đống đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\v 30 Khi ấy Giô-suê xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên Núi Ê-banh,
\v 31 y như Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho dân sự Y-sơ-ra-ên, như đã được chép trong sách luật pháp của Môi-se: "Một bàn thờ bằng đá nguyên khối, chưa có một công cụ bằng sắt nào đụng đến". Và ông dâng của lễ thiêu trên đó cho Đức Giê-hô-va, rồi họ đã dâng của lễ thù ân nữa.
\v 32 Rồi ở đó trong sự hiện diện của dân Y-sơ-ra-ên, ông đã khắc trên đá một bản luật pháp của Môi-se
\s5
\v 33 Hết thảy Y-sơ-ra-ên, các trưởng lão, các quan trưởng, và quan xét của họ đến đứng ở hai bên hòm giao ước trước mặt các thầy tế lễ và người dòng Lê-vi, họ khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va — người khách lạ cũng như dân bản xứ — phân nửa họ đứng trước Núi Ga-ri-xim và phân nửa kia đứng trước Núi Ê-banh. Họ chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên, y như Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho họ lúc đầu.
\s5
\v 34 Sau đó, Giô-suê đọc lời của luật pháp, những lời chúc phước cùng những lời rủa sả, y như chúng đã được chép trong sách luật vậy.
\v 35 Không có một lời nào từ mọi sự mà Môi-se đã truyền mà Giô-suê là không đọc ở trước hội chúng Y-sơ-ra-ên, gồm phụ nữ, con trẻ, và các khách lạ nào đã sống giữa vòng họ.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Khi ấy, hết thảy các vua nào sống bên kia sông Giô-đanh trong vùng đồi núi, và trong trũng thấp dọc theo bời Biển Lớn đối ngang Li-ban — dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít —
\v 2 các dân nầy hiệp cùng nhau ở dưới một mạng lịnh, dấy binh chống lại Giô-suê và Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 3 Khi cư dân Ga-ba-ôn hay được những gì Giô-suê đã làm với thành Giê-ri-cô và với thành A-hi,
\v 4 họ đã hành xử với một chương trình thật xảo quyệt. Họ tự cung ứng cho mình với các khoản chu cấp và lấy những cái bao sờn rách rồi đặt chúng lên lừa của mình. Họ cũng lấy loại bầu rượu cũ đã rách, vá lại.
\v 5 Họ mang giày cũ vá nơi chơn, rồi mặc lấy thứ quần áo cũ mòn, rách tươm. Hết thảy bánh trong khoảng cung cấp thức ăn của họ đều khô và vụn hết cả.
\s5
\v 6 Khi ấy họ đến gặp Giô-suê trong trại quân ở Ghinh-ganh rồi nói với ông và với dân sự Y-sơ-ra-ên: "Chúng tôi đến từ một xứ rất xa, vì vậy giờ đây hãy lập một giao ước với chúng tôi".
\v 7 Dân sự Y-sơ-ra-ên nói với dân Hê-vít: "Có lẽ mấy người sống gần chúng ta. Làm sao chúng tôi lập giao ước với mấy người cho được chứ?"
\v 8 Họ nói với Giô-suê: "Chúng tôi là tôi tớ của các ông". Giô-suê nói cùng họ: "Mấy người là ai chứ? Mấy người từ đâu đến?"
\s5
\v 9 Họ nói với ông: "Tôi tớ của ông đã đến đây từ một xứ ở thật xa, vì cớ danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ông. Chúng tôi đã nghe một tường trình về ông và về mọi sự mà ông đã làm trong xứ Ai-cập —
\v 10 và mọi sự mà ông đã làm với hai vua dân A-mô-rít ở bờ bên kia sông Giô-đanh — với Si-hôn vua Hết-bôn, rồi với Óc vua Ba-san ở tại Ách-ta-rốt.
\s5
\v 11 Các trưởng lão của chúng tôi cùng hết thảy dân cư trong xứ của chúng tôi nói với chúng tôi: 'Hãy lấy thực phẩm theo trên chuyến hành trình. Hãy đến mà gặp họ: "Chúng tôi là tôi tớ của các ông. Hãy lập một ước với chúng tôi".
\v 12 Đây là bánh của chúng tôi, nó hãy còn ấm khi chúng tôi đem ra khỏi nhà nhằm ngày chúng tôi sắp đặt để đến gặp các ông. Nhưng hãy xem, giờ đây, bánh đã khô và vụn hết rồi.
\v 13 Những bầu da rượu nầy còn mới khi chúng tôi chứa đầy chúng, và hãy xem đi, chúng đã rách hết rồi. Áo xống và giày của chúng tôi đã rách rưới hết do đi một chặng đường quá dài”.
\s5
\v 14 Thế là dân Do thái nhận lấy một số lương thực của chúng, song họ không cầu hỏi xin sự hướng dẫn từ Đức Giê-hô-va.
\v 15 Giô-suê lập hoà bình với chúng rồi đưa ra lời hứa long trọng được bảo đảm với huyết, để cho họ sống. Cấp lãnh đạo của dân sự cũng đưa ra một lời thề với họ.
\s5
\v 16 Ba ngày sau khi dân Y-sơ-ra-ên lập ước với chúng, họ mới hay rằng họ là những láng giềng của họ và họ sống ở gần đó.
\v 17 Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên mới đi ra, đến các thành của họ vào ngày thứ ba. Các thành nầy là Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt, và Ki-ri-át Giê-a-rim.
\s5
\v 18 Dân Y-sơ-ra-ên không tấn công chúng vì cấp lãnh đạo của chúng đã thề về chúng ở trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều lằm bằm nghịch cùng cấp lãnh đạo của họ.
\v 19 Nhưng các lãnh đạo của họ nói cùng dân sự: "Chúng ta đã có lời thề về họ bởi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và giờ đây chúng ta không thể làm hại họ được.
\s5
\v 20 Đây là điều chúng ta sẽ làm với chúng: Tránh bất kỳ cơn thạnh nộ nào có thể giáng trên chúng ta vì cớ lời thề mà chúng ta đã thề với chúng, chúng ta sẽ để cho chúng sống".
\v 21 Các cấp lãnh đạo nói với dân sự của họ "Hãy để cho chúng sống". Vì vậy, dân Ga-ba-ôn trở thành thợ đốn củi, xách nước cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, y như các cấp lãnh đạo đã nói về chúng.
\s5
\v 22 Giô-suê gọi chúng đến rồi nói rằng "Sao mấy người dối gạt chúng ta khi mấy người nói: 'chúng ta ở rất xa các ông', khi nào thì mấy người mới ăn ở đàng hoàng ở đây giữa vòng chúng ta?
\v 23 Bây giờ, vì cớ điều nầy, mấy người bị rủa sả và một số người sẽ luôn luôn là nô lệ, họ là những kẻ lo đốn củi xách nước cho nhà của Đức Chúa Trời ta".
\s5
\v 24 Họ trả lời Giô-suê và nói: "Vì tôi tớ các ông có hay rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền cho Môi-se tôi tớ Ngài ban cho các ông hết thảy xứ, và phải tiêu diệt hết cư dân trong xứ ở trước mặt các ông — vì vậy chúng tôi rất đỗi lo sợ về mạng sống của chúng tôi vì cớ các ông. Đất là lý do tại sao chúng ta đã làm việc nầy.
\v 25 Bây giờ, hãy xem đây, chúng tôi ở dưới quyền của các ông. Bất cứ điều chi dường như là tốt lành và phải lẽ cho các ông phải làm đối cùng chúng tôi, hãy làm đi".
\s5
\v 26 Vì vậy Giô-suê đã làm việc nầy đối với họ: ông không để cho dân Y-sơ-ra-ên giết chóc họ, và dân Y-sơ-ra-ên đã không tận diệt họ.
\v 27 Ngày ấy Giô-suê cắt dân Ga-ba-ôn làm kẻ đốn củi, xách nước cho cả cộng đồng, và về bàn thờ của Đức Giê-hô-va, cho đến ngày nay, trong chỗ mà Đức Giê-hô-va đã chọn.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Bấy giờ, A-đô-ni-xê-đéc, vua của Giê-ru-sa-lem, hay rằng Giô-suê đã chiếm thành A-hi rồi huỷ diệt hoàn toàn thành ấy, y như ông đã làm với thành Giê-ri-cô cùng vua của nó. Và ông có nghe nói thể nào dân Ga-ba-ôn đã làm hoà ước với Y-sơ-ra-ên và đang sống giữa vòng họ.
\v 2 Dân sự thành Giê-ru-sa-lem lấy làm sợ hãi vì Ga-ba-ôn là một thành lớn, giống như một thành phố hoàng gia vậy. Thành nầy lớn hơn thành A-hi, và người của nó đều là chiến binh mạnh mẽ.
\s5
\v 3 Nên A-đô-ni-xê-đéc, vua của Giê-ru-sa-lem, gửi thông điệp đến Hô-ham, vua Hếp-rôn, đến Phi-ram, vua Giạt-mút, đến Gia-phia, vua La-ki, và đến Đê-bia, vua Éc-lôn:
\v 4 "Hãy đến với ta mà giúp đỡ ta. Chúng ta hãy tấn công Ga-ba-ôn vì họ đã làm hoà ước với Giô-suê và với dân Y-sơ-ra-ên."
\s5
\v 5 Năm vua A-mô-rít; vua Giê-ru-sa-lem, vua Hếp-rôn, vua Giạt-mút, vua La-ki, và vua Éc-lôn xuất quân, họ cùng quân đội của họ. Họ đóng trại chống lại Ga-ba-ôn, và họ đã tấn công thành ấy.
\s5
\v 6 Dân Ga-ba-ôn bèn gửi một thông điệp cho Giô-suê và cho quân đội đóng tại Ghinh-ganh. Họ nói: "Mau lên! Đừng rút tay ông khỏi các tôi tớ ông. Hãy mau đến với chúng tôi và giải cứu chúng tôi. Xin hãy giúp chúng tôi, vì tất cả các vua A-mô-rít họ sống trong vùng đồi núi tập trung lại để tấn công chúng tôi".
\v 7 Giô-suê đi lên từ Ghinh-ganh, ông cùng hết thảy các binh sĩ, và hết thảy những người chiến đấu được.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Đừng sợ chúng nó. Ta đã phó chúng vào trong tay con. Không một kẻ nào trong số chúng còn có khả năng ngăn chặn cuộc tấn công của con".
\s5
\v 9 Giô-suê thình lình chuyển quân suốt đêm đột kích chúng nó từ Ghinh-ganh.
\v 10 Đức Giê-hô-va làm xáo trộn kẻ thù trước mặt dân Y-sơ-ra-ên — họ giết chúng với cuộc tàn sát rất lớn tại Ga-ba-ôn, rồi truy kích chúng trên con đường dẫn đến Bết-Hô-rôn, rồi họ giết chúng trên con đường dẫn tới A-xê-ca và Ma-kê-đa.
\s5
\v 11 Khi chúng bỏ chạy tránh Y-sơ-ra-ên, xuống núi từ Bết-Hô-rôn, Đức Giê-hô-va từ trời ném đá lớn xuống trên chúng họ suốt con đường dẫn đến A-xê-ca, và chúng ngã chết. Đã có nhiều người ngã chết vì mưa đá hơn ngã chết vì bị dân Y-sơ-ra-ên giết.
\s5
\v 12 Khi ấy, Giô-suê thưa cùng Đức Giê-hô-va nhằm ngày Đức Giê-hô-va ban cho dân Y-sơ-ra-ên thắng hơn dân A-mô-rít. Đây là những gì Giô-suê đã thưa cùng Đức Giê-hô-va ở trước mặt Y-sơ-ra-ên: "Hỡi mặt trời, hãy đứng yên tại Ga-ba-ôn, hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trong trũng A-gia-lôn".
\s5
\v 13 Mặt trời đã đứng yên, và mặt trăng dừng lại cho đến khi dân sự đã báo thù giáng trên các kẻ thù mình. Có phải điều nầy không được chép trong Sách Gia-sa sao? Mặt trời đã đứng yên giữa trời; nó không lặn đi suốt một ngày trọn.
\v 14 Chẳng có một ngày nào giống như ngày này trước và sau nó, khi Đức Giê-hô-va nhậm lời của một con người. Vì Đức Giê-hô-va đã đánh trận vì ích cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 15 Giô-suê và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên cùng ông trở về trại quân đóng tại Ghinh-ganh.
\v 16 Bấy giờ năm vua đã bỏ trốn rồi ẩn mình trong hang động Ma-kê-đa.
\v 17 Có người đến báo cho Giô-suê: "Người ta đã tìm gặp chúng! — năm vua ẩn trốn trong hang động Ma-kê-đa!"
\s5
\v 18 Giô-suê truyền rằng: "Hãy lăn những hòn đá lớn lấp miệng hang rồi đặt lính canh giữ họ.
\v 19 Đừng nghỉ ngơi. Hãy truy kích kẻ thù rồi tấn công chúng từ phía sau. Đừng để cho chúng vào thành của chúng, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã ban chúng vào tay anh em".
\s5
\v 20 Giô-suê cùng các con trai Y-sơ-ra-ên đã hoàn tất việc giết chúng nó với một cuộc tàn sát rất lớn, cho đến khi chúng bị tận diệt gần như là hoàn toàn; chỉ một ít kẻ sống sót thoát khỏi vào được các thành kiên cố.
\v 21 Khi ấy, toàn bộ quân đội trở về bình yên với Giô-suê tại trại quân Ma-kê-đa. Và không một ai dám nói một lời nghịch lại bất kỳ người nào trong dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 22 Khi ấy Giô-suê ra lịnh: "Hãy mở miệng hang rồi đem năm vua nầy đến cùng ta".
\v 23 Họ làm theo như ông đã truyền. Họ đem đến cho ông năm vua nầy từ trong hang — vua Giê-ru-sa-lem, vua Hếp-rôn, vua Giạt-mút, vua La-ki, và vua Éc-lôn.
\s5
\v 24 Rồi khi họ đem năm vua đến gặp Giô-suê, ông gọi từng người Y-sơ-ra-ên đến, rồi ông ra lịnh cho những viên chỉ huy binh sĩ đã tham gia trận chiến cùng với ông: "Hãy đạp chân lên cổ chúng". Vì vậy họ bước tới rồi đạp chân họ lên cổ chúng.
\v 25 Khi ấy ông nói với họ: "Đừng sợ và chớ kinh hãi. Phải mạnh mẽ và can đảm lên. Đây là điều Đức Giê-hô-va sẽ làm cho kẻ thù của anh em mà anh em sẽ đánh với".
\s5
\v 26 Khi ấy Giô-suê tấn công rồi giết hết các vua đó. Ông cho treo chúng lên năm cây. Họ treo chúng trên cây cho đến chiều tối.
\v 27 Khi mặt trời lặn rồi, Giô-suê truyền lịnh, và họ đem chúng xuống khỏi cây quăng chúng vào trong hang, chỗ mà chúng ẩn mình. Họ đặt những hòn đá lớn chặn trên miệng hang. Những hòn đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\v 28 Theo cách thức nầy, Giô-suê đã chiếm lấy Ma-kê đa vào ngày ấy rồi dùng gươm giết từng người ở đó, kể cả vua của chúng. Ông tiêu diệt chúng một cách hoàn toàn và từng vật sống ở đó. Ông không chừa lại một kẻ sống sót nào cả. Ông đã làm cho vua Ma-kê-đa y như ông đã làm cho vua Giê-ri-cô.
\s5
\v 29 Giô-suê và hết thảy Y-sơ-ra-ên đi qua khỏi Ma-kê-đa đến Líp-na. Ông đánh trận chống lại Líp-na.
\v 30 Đức Giê-hô-va cũng phó nó vào trong tay của Y-sơ-ra-ên — cùng với vua của chúng. Giô-suê đã dùng gươm tấn công từng vật sống ở đó. Ông không để cho một ai còn sống sót tại nơi ấy. Ông đã làm cho vua nó giống như ông đã làm cho vua Giê-ri-cô.
\s5
\v 31 Thế rồi Giô-suê cùng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên cùng với ông qua khỏi Líp-na đến La-ki. Ông đóng trại gần bên thành ấy và tấn công chống lại nó.
\v 32 Đức Giê-hô-va đã ban La-ki vào trong tay của Y-sơ-ra-ên. Giô-suê chiếm lấy nó vào ngày thứ hai. Ông dùng gươm tấn công từng vật sống ở đó, y như ông đã làm với Líp-na.
\s5
\v 33 Kế đó Hô-ram, vua Ghê-xe, động binh để giúp đỡ La-ki. Giô-suê đã tấn công ông ta cùng quân độ của ông ta cho đến khi chẳng có một người còn sống.
\s5
\v 34 Khi ấy Giô-suê cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên qua khỏi La-ki đến Éc-lôn. Họ đóng trại gần thành ấy rồi tấn công nó,
\v 35 và chiếm lấy nó trong cùng ngày đó. Họ dùng gươm tấn công nó và họ tận diệt hoàn toàn từng người một ở trong đó, như Giô-suê đã làm với La-ki.
\s5
\v 36 Rồi Giô-suê cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên qua khỏi Éc-lôn đến Hếp-rôn. Họ tấn công nghịch lại nó.
\v 37 Họ chiếm lấy thành và dùng gươm tấn công mọi người ở đó, kế cả vua cùng hết thảy các làng mạc xung quanh. Họ tận diệt hoàn toàn từng vật sống ở đó, không để lại một người nào sống sót, y như Giô-suê đã làm với Éc-lôn. Ông tận diệt hoàn toàn thành ấy, cùng từng vật sống trong đó.
\s5
\v 38 Thế rồi Giô-suê cùng cả quân đội Y-sơ-ra-ên, họ qua khỏi Đê-bia và tấn công chống lại nó.
\v 39 Ông chiếm lấy nó và vua nó, và hết thảy các làng mạc lân cận nó. Họ dùng gươm tấn công rồi tận diệt hoàn toàn từng vật sống có mặt trong đó. Giô-suê không chừa lại một kẻ nào còn sống, y như ông đã làm với Hếp-rôn cùng vua của nó, và y như ông đã làm với Líp-na cùng vua của nó.
\s5
\v 40 Giô-suê đã chinh phục cả xứ, vùng đồi núi, xứ Nê-giép, vùng đồng bằng, cùng những gò nỗng. Ông không chừa lại một kẻ nào sống sót trong các vua của chúng. Ông tận diệt hoàn toàn từng vật sống, y như Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã truyền:
\v 41 Giô-suê đã dùng gươm tấn công chúng từ Ca-đe-Ba-nê-a đến Ga-xa, và cả vùng Gô-sen đến Ga-ba-ôn.
\s5
\v 42 Giô-suê đã bắt hết các vua nầy cùng chiếm lấy đất đai của chúng một lần vì Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đánh trận cho Y-sơ-ra-ên.
\v 43 Khi ấy Giô-suê, cùng hết thảy Y-sơ-ra-ên, đã trở về trại quân tại Ghinh-ganh.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Khi Gia-bin, vua Hát-so, nghe biết sự việc nầy, ông ta sai sứ đến gặp Giô-báp, vua Ma-đôn, gặp vua Sim-rôn, và vua Ạc-sáp.
\v 2 Ông ta cũng sai sứ đến gặp các vua thuộc vùng đồi núi phía Bắc, trong đồng bằng sông Giô-đanh ở phía Nam Ki-nê-rết, thuộc trũng thấp, và vùng đồi núi Đô-rơ về phía Tây.
\v 3 Ông ta cũng sai sứ đến với dân Ca-na-an ở phía Đông và phía Tây, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít trong vùng đồi núi, và dân Hê-vít gần Núi Hẹt-môn trong xứ Mích-ba.
\s5
\v 4 Hết thảy quân đội của họ cùng ra trận với họ, một lượng rất lớn nhiều binh lính, với số lượng giống như cát trên bờ biển vậy. Họ có rất nhiều ngựa và xe ngựa.
\v 5 Hết thảy các vua nầy gặp nhau với giờ đã ấn định, rồi họ đóng trại gần sông Mê-rôm để đánh nhau với Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê: "Chớ sợ hãi trước sự hiện diện của chúng, vì ngày mai vào giờ nầy ta phó hết thảy chúng cho Y-sơ-ra-ên giống như những kẻ đã chết rồi vậy. Các con sẽ cắt nhượng ngựa của chúng, rồi các con sẽ thiêu đốt xe cộ của chúng".
\v 7 Giô-suê cùng các chiến sĩ đã đến. Họ đến thình lình tại sông Mê-rôm, rồi tấn công kẻ thù.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phó kẻ thù vào trong tay của Y-sơ-ra-ên, và họ dùng gươm đánh chúng rồi truy kích đến Si-đôn, Mít-rê-phốt-Ma-im, và đến trũng Mích-va về phía Đông. Họ dùng gươm tấn công chúng cho đến chừng chẳng còn một người nào sống sót.
\v 9 Giô-suê đã làm cho chúng y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông. Ông cắt nhượng ngựa rồi thiêu đốt xe cộ.
\s5
\v 10 Giô-suê quay trở lại thời điểm ấy rồi chiếm lấy Hát-so. Ông dùng gươm đánh vua ấy. (Hát-so là đầu của hết thảy các nước nầy).
\v 11 Họ dùng gươm giết hết từng vật sống ở đó, và ông biệt riêng chúng ra để bị tiêu diệt, vì vậy chẳng có một vật nào còn sống chừa lại. Khi ấy ông thiêu đốt Hát-so.
\s5
\v 12 Giô-suê chiếm hết các thành của các vua nầy. Ông cũng bắt hết các vua của chúng rồi dùng gươm tấn công chúng. Ông dùng gươm tận diệt chúng một cách hoàn toàn, y như Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền.
\v 13 Y-sơ-ra-ên không đốt thành nào trên các gò cao, trừ ra Hát-so. Một mình thành ấy đã bị Giô-suê thiêu đốt.
\s5
\v 14 Quân đội của Y-sơ-ra-ên chiếm lấy hết thảy chiến lợi phẩm từ các thành nầy cùng với bầy gia súc cho chính họ. Họ dùng gươm giết từng người cho đến khi hết thảy đều ngã chết. Họ chẳng chừa lại một vật nào còn sống.
\v 15 Y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho tôi tớ Ngài là Môi-se, Môi-se đã truyền lại cho Giô-suê cũng cùng một cách thế ấy. Và thế là Giô-suê đã không chừa lại một thứ gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se phải lo làm.
\s5
\v 16 Giô-suê chiếm hết thảy xứ ấy, cùng núi non, hết thảy Nê-giép, tất cả xứ Gô-sen, vùng đất thấp, đồng bằng sông Giô-đanh, vùng núi của Y-sơ-ra-ên, và xứ thấp.
\v 17 Từ Núi Ha-lác gần Ê-đôm, và trải dài về phía Bắc đến tận Ba-anh Gát trong đồng bằng Li-ban tại chân núi Hẹt-môn, ông bắt hết các vua của chúng rồi giết đi.
\s5
\v 18 Giô-suê giao chiến lâu ngày với các vua nầy.
\v 19 Không có một thành nào lập hoà ước với quân đội Y-sơ-ra-ên trừ ra dân Hê-vít sinh sống tại Ga-ba-ôn. Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành còn lại trong chiến trận.
\v 20 Vì chính Đức Giê-hô-va Ngài đã làm cứng lòng họ hầu cho họ kéo đến đánh nhau chống lại Y-sơ-ra-ên, hầu cho Ngài sẽ tiêu diệt họ hoàn toàn, và chẳng tỏ ra sự thương xót cho họ, y như Ngài đã căn dặn Môi-se.
\s5
\v 21 Khi ấy Giô-suê xuất quân tiêu diệt dân A-na-kim. Ông đã làm điều nầy trong vùng đồi núi, tại Hếp-rôn, Đê-bia, A-náp, và trong các vùng đồi núi của Giu-đa, rồi trong vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên. Giô-suê huỷ diệt hoàn toàn chúng và các thành của chúng.
\v 22 Không một người nào của dân A-na-kim còn sống trong đất của Y-sơ-ra-ên trừ ra ở Ga-xa, Gát, và Ách-đốt.
\s5
\v 23 Vậy Giô-suê đã chiếm lấy toàn bộ xứ, y như Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se. Giô-suê đã ban xứ ấy làm cơ nghiệp cho Y-sơ-ra-ên, phân phối cho từng chi phái của họ. Khi ấy xứ đã yên nghỉ không còn chiến tranh nữa.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là các vua của xứ, là những kẻ mà Y-sơ-ra-ên đã chinh phục. Dân Y-sơ-ra-ên đã chiếm lấy xứ ở bờ Đông sông Giô-đanh, nơi mặt trời mọc, từ đồng bằng Sông Ạt-nôn đến Núi Hẹt-môn, và hết thảy xứ A-ra-ba về phía Đông.
\v 2 Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống ở Hết-bôn. Người cai trị từ A-rô-e, là thành ở mé khe Ạt-nôn từ giữa đồng bằng, và phân nửa xứ Ga-la-át xuống đến Sông Gia-bốc nằm trên đường biên giới của dân Am-môn.
\s5
\v 3 Si-hôn cũng cai trị bên kia A-ra-ba cho đến biển Ki-nê-rết, về phía Đông, đến biển A-ra-ba (Biển Muối) phía Đông, suốt con đường dẫn đến Bết Giê-si-mốt và phía Nam, hướng tới chân triền núi Phích-ga.
\v 4 Óc, vua Ba-san, là kẻ còn sót lại của dân Rê-pha-im, sống tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i.
\v 5 Người cai trị trên Núi Hẹt-môn, Sanh-ca, cùng hết thảy Ba-san, đến biên giới của dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, và phân nửa xứ Ga-la-át, đến biên giới của Si-hôn, vua Hết-bôn.
\s5
\v 6 Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, và dân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại chúng, Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban xứ làm cơ nghiệp cho Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se.
\s5
\v 7 Đây là các vua trong xứ mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại nơi bờ Tây sông Giô-đanh, từ Ba-anh Gát trong đồng bằng gần Li-ban đến Núi Ha-lác gần Ê-đôm. Giô-suê ban xứ cho các chi phái Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp.
\v 8 Ông đã ban cho họ vùng núi non, vùng đất thấp, xứ A-ra-ba, các triền núi, đồng vắng, cùng vùng Nê-giép — đất của dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.
\s5
\v 9 Các vua kể cả vua Giê-ri-cô, vua thành A-hi ở gần Bê-tên,
\v 10 vua của Giê-ru-sa-lem, vua của Ê-na-im,
\v 11 vua Giạt-mút, vua La-ki,
\v 12 vua Éc-lôn, vua Ghê-xe,
\s5
\v 13 vua Đê-bia, vua Ghê-đe,
\v 14 vua Họt-ma, vua A-rát,
\v 15 vua Líp-na, vua A-đu-lam,
\v 16 vua Ma-kê-đa, vua Bê-tên,
\s5
\v 17 vua Tháp-bu-ách, vua Hê-phe,
\v 18 vua A-phéc, vua Sa-rôn,
\v 19 vua Ma-đôn, vua Hát-so,
\v 20 vua Sim-rôn Mê-rôn, vua Ạc-sáp,
\s5
\v 21 vua Tha-a-nác, vua Mê-ghi-đô,
\v 22 vua Kê-đe, vua Giốc-nê-am ở Cạt-mên,
\v 23 vua Đô-rơ ở Na-phát Đô-rơ, vua Gô-im ở Ghinh-ganh,
\v 24 và vua Thiệt-sa. Số các vua là 31 cả thảy.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Bấy giờ Giô-suê đã già và mạnh khoẻ suốt những năm tháng đó, Đức Giê-hô-va phán cùng ông; "Con đã già và tuổi đã cao, nhưng phần đất để chiếm lấy hãy còn nhiều lắm.
\s5
\v 2 Đây là phần đất còn lại: tất cả các khu vực của dân Phi-li-tin, và hết thảy phần đất của dân Ghê-su-rít,
\v 3 (từ Si-cô, ở phía Đông xứ Ai-cập, và phía Bắc đến biên giới của Éc-rôn, bị coi là cơ nghiệp của dân Ca-na-an; năm vua dân Phi-li-tin, các vua của Ga-xa, Ách-đốt, Ách-ca-lôn, Gát, và Éc-rôn — lãnh thổ của dân A-vim).
\s5
\v 4 Ở phía Nam, vẫn còn có đất của dân Ca-na-an, và Mê-a-ra thuộc về dân Si-đôn, đến A-phéc, đến biên giới của dân A-mô-rít;
\v 5 đất đai dân Ghi-bê-lít, hết thảy Li-ban hướng mặt trời mọc, từ Ba-anh Gát xuống tới Núi Hẹt-môn đến Lê-bô Ha-mát.
\s5
\v 6 Hết thảy dân cư của vùng đồi núi từ Li-ban cho đến tận Mi-rê-phốt-Ma-im, bao gồm hết thảy dân Si-đôn. Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi trước mặt quân đội của Y-sơ-ra-ên. Phải bảo đảm phân phối đất đai cho Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp, như ta đã truyền cho các con.
\v 7 Hãy phân chia xứ nầy làm cơ nghiệp cho chín chi phái và phân nửa chi phái Ma-na-se".
\s5
\v 8 Với phân nửa chi phái Ma-na-se, chi phái Ru-bên và chi phái Gát đã nhận phần cơ nghiệp mà Môise đã ban cho họ ở bờ Đông sông Giô-đanh,
\v 9 từ A-rô-e, nằm trên mé sông Ạt-nôn (gồm có thành ở giữa trũng), đến hết thảy đồng bằng Mê-đê-ba có đến tận Đi-bôn;
\s5
\v 10 tất cả các thành của Si-hôn, vua A-mô-rít, là người đã cai trị ở Hết-bôn, đến biên giới dân Am-môn;
\v 11 Ga-la-át, và khu vực dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, tất cả Núi Hẹt-môn, hết thảy Ba-san cho đến Sanh-ca;
\v 12 mọi vương quốc của Óc trong xứ Ba-san, ông ta đã trị vì tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i — đây là số dân sót Ép-ra-im bị chừa lại — Môi-se dùng gươm tấn công họ và trục xuất họ ra khỏi đó.
\s5
\v 13 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không đuổi dân Ghê-su-rít hoặc dân Ma-ca-thít. Thay vì thế, dân Ghê-su-rít và Ma-ca-thít đang sống giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.
\s5
\v 14 Chỉ với chi phái Lê-vi Môi-se không ban cơ nghiệp cho. “Những của lễ của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đưa qua lửa" là cơ nghiệp của họ, y như Đức Chúa Trời đã phán cùng Môi-se.
\s5
\v 15 Môi-se ban một cơ nghiệp cho chi phái Ru-bên, từng hộ một.
\v 16 Lãnh thổ của họ là từ A-rô-e, bên mé Sông Ạt-nôn, và thành nằm ở giữa đồng bằng, và toàn bộ bình nguyên gần Mê-đê-ba.
\s5
\v 17 Ru-bên cũng nhận được Hết-bôn, và mọi thành của nó ở trong đồng bằng, là Đi-bôn, và Ba-mốt-Ba-anh, và Bết-Ba-anh-Mê-ôn,
\v 18 và Gia-hát, và Kê-đê-mốt, và Mê-phát,
\v 19 và Ki-ri-a-tha-im, và Síp-ma, và Xê-rết-Ha-sa-cha ở trên núi thuộc vùng đồng bằng.
\s5
\v 20 Ru-bên cũng nhận được Bết-Phê-ô, các triền núi Phích-ga, Bết-Giê-si-mốt,
\v 21 các thành của đồng bằng, và hết thảy vương quốc của vua Si-hôn dân A-mô-rít, là người đã cai trị ở Hết-bôn, Môi-se đã đánh bại người cùng với cấp lãnh đạo của Ma-đi-an, Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba, các hoàng tử của Si-hôn, họ đã sống trong xứ.
\s5
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên cũng dùng gươm giết Ba-la-am con trai Bê-ô, là người chuyên bói toán, giữa vòng những kẻ mà họ đã giết.
\v 23 Đường biên giới của chi phái Ru-bên là Sông Giô-đanh; đây là ranh giới của họ. Đây là phần sản nghiệp của chi phái Ru-bên, được ban cho từng hộ, với các thành và các làng.
\s5
\v 24 Đây là những gì Môi-se đã ban cho chi phái Gát, từng hộ một:
\v 25 Lãnh thổ của họ là Gia-ê-xe, các thành Ga-la-át và phân nửa đất đai của dân Am-môn, đến A-rô-e, nằm ở phía Đông của Ráp-ba
\v 26 từ Hết-bôn đến Ra-ma-Mít-bê và Bê-tô-nim, từ Ma-ha-na-im đến địa giới của Đê-bia.
\s5
\v 27 Ở đồng bằng, Môi-se đã ban cho họ Bết Ha-ram, Bết-Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn, phần còn lại vương quốc của Si-hôn vua Hết-bôn, với song Giô-đanh làm biên giới, cho đến phần cuối biển Ki-nê-rết, về phía Đông sông Giô-đanh.
\v 28 Đây là sản nghiệp của chi phái Gát, từng hộ một, với các thành và các làng của họ.
\s5
\v 29 Môi-se đã ban sản nghiệp cho phân nửa chi phái Ma-na-se. Sản nghiệp ấy đã được phân phối cho phân nửa dân sự của Ma-na-se, đã được trao cho từng chi phái của họ.
\v 30 Lãnh thổ của họ là từ Ma-ha-na-im, hết thảy Ba-san, hết thảy vương quốc của Óc vua Ba-san, và tất cả các thị trấn của Giai-rơ, nằm trong Ba-san, sáu mươi thành;
\v 31 phân nửa Ga-la-át, và Ách-ta-rốt và Ết-rê-i (đế đô của Óc trong xứ Ba-san). Các thành nầy đã được phân phối cho hộ Ma-ki con trai của Ma-na-se — phân nửa dân sự của Ma-ki, được trao cho từng hộ gia đình của họ.
\s5
\v 32 Đây là sản nghiệp mà Môi-se đã phân phát cho họ trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh ở phía Đông thành Giê-ri-cô.
\v 33 Môi-se không ban sản nghiệp cho chi phái Lê-vi. Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp của họ, y như Ngài đã phán cùng họ.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Có những phần đất dân Y-sơ-ra-ên đã nhận làm sản nghiệp trong xứ Ca-na-an, do thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, do Giô-suê con trai Nun, và bởi cấp lãnh đạo chi phái các gia đình tổ phụ họ trong dân Y-sơ-ra-ên phân phát cho họ.
\s5
\v 2 Sản nghiệp của họ do bóc thăm chọn cho chín chi phái rưỡi, y như Đức Giê-hô-va đã truyền ra bởi tay của Môi-se,
\v 3 vì Môi-se đã ban sản nghiệp của hai chi phái rưỡi ở bên kia sông Giô-đanh, nhưng ông không ban sản nghiệp cho chi phái Lê-vi.
\v 4 Chi phái của Giô-sép chắc chắn là hai chi phái, Ma-na-se và Ép-ra-im. Và không một phần sản nghiệp nào được ban cho người Lê-vi trong xứ, nhưng chỉ có các thành nhất định để sống trong đó, với đồng cỏ dành cho bầy gia súc và để làm tài nguyên về vật chất của họ.
\v 5 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môise, vì vậy họ đã phân chia xứ.
\s5
\v 6 Khi ấy chi phái Giu-đa đến với Giô-suê tại Ghinh-ganh. Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-nít, nói với ông: "Ông biết những gì Đức Giê-hô-va đã phán cùng Môi-se người của Đức Chúa Trời về ông và tôi tại Ka-đe-Ba-nê-a.
\v 7 Tôi đã được bốn mươi tuổi khi Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va sai tôi từ Ka-đe-Ba-nê-a đi do thám xứ. Tôi đã trình cho ông ấy một báo cáo y như lòng tôi viết ra vậy.
\s5
\v 8 Nhưng các anh em họ đồng đi với tôi làm cho tấm lòng của dân sự phải nao sờn. Nhưng tôi hoàn toàn bước theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi.
\v 9 Môi-se đã thề trong ngày ấy mà rằng: 'Chắc chắn đất đai trên đó bàn chơn anh em đặt lên sẽ là sản nghiệp cho anh em và cho con cháu anh em đến đời đời, vì anh em đã bước theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi một cách hoàn toàn.'
\s5
\v 10 Bây giờ, hãy xem đây! Đức Giê-hô-va đã giữ cho tôi còn sống cách đây bốn mươi lăm năm, y như Ngài đã phán — từ thời điểm mà Đức Chúa Trời phán ra lời nầy với Môi-se, trong khi dân Y-sơ-ra-ên còn bước đi trong đồng vắng. Giờ đây, hãy nhìn xem đi! Ngày nay tôi đã được tám mươi lăm tuổi.
\v 11 Tôi vẫn còn mạnh mẽ y như tôi đã có trong ngày mà Môi-se sai tôi đi. Sức lực của tôi giờ đây cũng bằng như khi đó, để ra trận và để vào ra.
\s5
\v 12 Bây giờ, vì lẽ đó hãy ban cho tôi xứ có núi non như thế nầy, mà Đức Giê-hô-va đã hứa với tôi trong ngày ấy. Vì ông có nghe nhằm ngày ấy rằng dân A-na-kim có mặt ở đó với các thành được phòng thủ hẳn hoi. Có thể là Đức Giê-hô-va sẽ hiện diện cùng với tôi và tôi sẽ trục xuất họ ra khỏi, y như Đức Giê-hô-va đã phán"
\s5
\v 13 Khi đó Giô-suê đã chúc phước cho người và ban Hếp-rôn làm sản nghiệp cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê.
\v 14 Vì lẽ đó Hếp-rôn trở nên sản nghiệp của Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-nít cho đến ngày nay, vì ông bước theo Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cách hoàn toàn.
\v 15 Bấy giờ, danh xưng của Hếp-rôn trước kia gọi là Ki-ri-át A-ra-ba. (A-ra-ba là người giềnh giàng hơn hết giữa vòng dân A-na-kim). Thế là xứ đã yên nghỉ không còn chiến tranh nữa.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Phần đất dành cho dân sự chi phái Giu-đa, trao cho các hộ gia đình của họ, chạy dài xuống phía Nam đến biên giới của Ê-đôm, với đồng vắng Sin là điểm xa nhất ở phía Nam.
\v 2 Biên giới của họ ở phía Nam chạy từ cuối Biển Muối, từ chỗ phân cách đối diện với phía Nam.
\s5
\v 3 Biên giới của họ thẳng về phía Nam đồi Ạc-ráp-bim băng dọc theo Xin, rồi thẳng tới phía Nam Ka-đe Ba-nê-a, dọc theo Hết-rôn, và hướng tới Át-đa, ở đó nó rẽ về phía Cạt-đa.
\v 4 Nó băng dọc theo Ạt-nôn, thẳng tới khe Ai-cập, rồi đến điểm cuối tại biển. Đây là đường biên giới phía Nam của họ.
\s5
\v 5 Biên giới phía Đông là Biển Muối, ở ngay cửa sông Giô-đanh. Biên giới về phía Bắc chạy từ chỗ phân cách biển nơi cửa sông Giô-đanh.
\v 6 Nó đi thẳng lên Bết-Hô-la rồi đi dọc phía Bắc của Bết-A-ra-ba. Rồi đi thẳng tới Hòn Đá Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên).
\s5
\v 7 Đường biên giới chạy thắng tới Đê-bia từ trũng A-cô, và tới hướng Bắc, về phía Ghinh-ganh, đối ngược với đồi A-đu-mim, nằm ở sườn phía Nam của dòng sông. Khi ấy biên giới chạy dọc theo các con suối En Sê-mết và thẳng tới En Rô-ghên.
\v 8 Biên giới chạy thẳng lên trũng Bên Hin-nôm tới sườn phía Nam của thành của dân Giê-bu-sít (nghĩa là, Giê-ru-sa-lem). Nó chạy thẳng tới đỉnh đồi nằm bên kia đồng bằng Hin-nôm, về phía Tây, nằm ở cực Bắc của đồng bằng Rê-pha-im.
\s5
\v 9 Biên giới kéo dài từ đỉnh đồi đến dòng suối Nép-tô-ách, và thẳng từ đó đến các thành phố của Núi Ép-rôn. Biên giới cong về phía Ba-la (cũng là Ki-ri-át Giê-a-rim).
\v 10 Khi ấy đường biên giới quanh về phía Tây Ba-la đến Núi Sê-i-rơ, rồi băng dọc theo Núi Giê-a-rim về phía Bắc (cũng là Kê-sa-lôn), chạy xuống Bết Sê-mết, rồi đi dọc theo Thim-na.
\s5
\v 11 Biên giới thẳng ra cạnh đối Éc-rôn ở phía bắc, rồi cong về phía Siếc-rôn rồi đi dọc Núi Ba-la, từ đó nó thẳng đến Giáp-nê-ên. Biên giới kết thúc ở ngay biển.
\v 12 Đường biên giới phía Tây là Biển Lớn cùng dọc bờ của biển ấy. Đây là đường biên giới quanh chi phái Giu-đa, từng hộ một.
\s5
\v 13 Trong việc giữ theo mạng lịnh của Đức Giê-hô-va ban cho Giô-suê, Giô-suê đã ban cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê một phần đất giữa vòng chi phái Giu-đa, Ki-ri-át A-ra-ba, nghĩa là Hếp-rôn. (A-ra-ba là cha của A-nác).
\v 14 Ca-lép trục xuất khỏi đó ba bộ tộc thuộc dòng dõi của A-nác: Sê-sai, A-hi-man và Tha-mai, dòng dõi của A-nác.
\v 15 Ông đi lên từ đó chống lại cư dân của Đê-bia (danh xưng Đê-bia thường được gọi là Ki-ri-át Sê-phe).
\s5
\v 16 Ca-lép nói: "Người nào tấn công Ki-ri-át-Sê-phe rồi chiếm lấy nó, ta sẽ gả Ạc-sa con gái ta cho người làm vợ".
\v 17 Ốt-ni-ên con trai Kê-na, em của Ca-lép, đã chiếm lấy nó. Vì vậy Ca-lép gả Ạc-sa con gái mình cho người làm vợ.
\s5
\v 18 Khi Ạc-sa đến với người, nàng giục người xin cha nàng một cánh đồng. Rồi khi nàng xuống khỏi lưng lừa, Ca-lép nói cùng nàng: "Con muốn chi?"
\s5
\v 19 Ạc-sa đáp: "Xin ban cho con một ơn đặc biệt. Từ khi cha ban cho con đất Nê-giép, cũng hãy ban cho con mấy con suối kia". Và Ca-lép ban cho nàng mấy con suối ở trên và mấy con suối ở dưới.
\s5
\v 20 Đây là sản nghiệp của dân sự chi phái Giu-đa, được ban cho các hộ gia đình họ.
\s5
\v 21 Các thành thuộc chi phái Giu-đa nằm ở cực nam, đối ngang biên giới xứ Ê-đôm, là Cáp-sê-ên, Ê-đe, Gia-gua,
\v 22 Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa,
\v 23 Kê-đe, Hát-so, Gít-nan,
\v 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt.
\s5
\v 25 Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt-Hết-rôn (chỗ nầy cũng được biết đến là Hát-so),
\v 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa,
\v 27 Hát-sa-Ga-đa, Hết-môn, Bết-Pha-lê,
\v 28 Hát-sa-Su-anh, Bê-e-sê-ba, Bi-sốt-gia.
\s5
\v 29 Ba-la, Y-đim, Ê-xem,
\v 30 Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma,
\v 31 Xiếc-lát, Mát-ma-na, San-sa-na,
\v 32 Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn. Đây là hai mươi chín thành cả thảy, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 33 Trong vùng thấp, có Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na,
\v 34 Xa-nô-ách, En-Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam,
\v 35 Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cốt, A-xê-ca,
\v 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, và Ghê-đê-ra (nghĩa là, Ghê-đê-rô-tha-im). Tổng cộng có mười bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh-gát,
\v 38 Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên,
\v 39 La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn.
\s5
\v 40 Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít,
\v 41 Ghê-đê-rốt, Bất Đa-gôn, Na-a-ma, Ma-kê-đa. Tổng cộng là mười sáu thành cả thảy, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 42 Líp-na, Ê-the, A-san,
\v 43 Díp-tách, Át-na, Nết-síp,
\v 44 Kê-i-la, Ạc-síp, Ma-rê-sa. Đây là chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 45 Éc-rôn, với các thị trấn và làng mạc bao quanh;
\v 46 từ Éc-rôn cho đến Biển Lớn, mọi khu định cư đều ở gần Ách-đốt, bao gồm các làng mạc của họ.
\v 47 Ách-đốt, các thị trấn và làng mạc bao quanh nó; Ga-xa, các thị trấn và làng mạc bao quanh nó; cho đến khe Ai-cập, rồi đến Biển Lớn với bờ biển của nó.
\s5
\v 48 Trong vùng đồi núi, Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô,
\v 49 Đa-na, Ki-ri-át-Sa-na (nghĩa là, Đê-bia),
\v 50 A-náp, Ếch-thê-mô, A-nim,
\v 51 Gô-sen, Hô-lôn, và Ghi-lô. Đây là mười một thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 52 A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an,
\v 53 Gia-num, Bết-Tháp-bu-ách, A-phê-ca,
\v 54 Hum-ta, Ki-ri-át-A-ra-ba (nghĩa là, Hếp-rôn), và Si-ô. Đây là chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 55 Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Giu-ta,
\v 56 Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách,
\v 57 Ca-in, Ghi-bê-a, và Thim-na. Đây là mười thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 58 Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô,
\v 59 Ma-a-rát, Bết-A-nốt, và En-thê-côn. Đây là sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 60 Ki-ri-át-Ba-anh (nghĩa là, Ki-ri-át-Giê-a-rim), và Ráp-ba. Đây là hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\v 61 Trong đồng vắng, có Bết-A-ra-ba, Mi-đin, Sê-sa-ca,
\v 62 Níp-san, Thành Muối, và Ên Ghê-đi. Đây là sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 63 Nhưng giống như dân Giê-bu-sít, cư dân của Giê-ru-sa-lem, chi phái Giu-đa không thể đuổi họ được, vì vậy dân Giê-bu-sít sống ở đó với chi phái Giu-đa cho đến ngày nay.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Phần đất dành cho chi phái Giô-sép chạy dài từ sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô, phía Đông các dòng suối của Giê-ri-cô, vào trong đồng vắng, chạy lên từ Giê-ri-cô qua vùng núi ở Bê-tên.
\v 2 Khi ấy nó trải từ Bê-tên đến Lu-xơ rồi ngang qua A-ta-rốt, lãnh thổ của dân A-rê-kít.
\s5
\v 3 Rồi nó xuống phía Tây lãnh thổ dân Giáp-lê-tít, xa đến lãnh thổ Hạ Bết Hô-rôn, thẳng đến Ghê-xe; nó kết thúc ở nơi biển.
\v 4 Chính trong con đường nầy mà các chi phái của Giô-sép, Ma-na-se và Ép-ra-im đã nhận được sản nghiệp của họ.
\s5
\v 5 Lãnh thổ của chi phái Ép-ra-im được phân phát cho các hộ gia đình của họ như sau: biên giới sản nghiệp của họ về phía Đông chạy từ A-ta-rốt A-đa cho đến Thượng Bết Hô-rôn,
\v 6 và từ đó tiếp tục ra đến biển. Từ Mít-mê-thát lên phía Bắc nó chuyển qua hướng Đông tới Tha-a-nát Si-lô và qua khỏi đó đến Gia-nô-a theo phía Đông.
\v 7 Rồi nó vòng xuống từ Gia-nô-a đến A-ta-rốt đến Na-a-ra, rồi đến Giê-ri-cô, kết thúc nơi sông Giô-đanh.
\s5
\v 8 Từ Tháp-bu-ách biên giới chạy về phía Tây đến khe Ca-na và kết thúc ở biển. Đây là sản nghiệp của chi phái Ép-ra-im, phân phối cho các hộ gia đình của họ,
\v 9 cùng với các thành đã được chọn cho chi phái Ép-ra-im bên trong sản nghiệp của chi phái Ma-na-se — tất cả các thành, cũng như những làng mạc của họ.
\s5
\v 10 Họ không trục xuất dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe, thế là dân Ca-na-an sống trong vòng Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng các dân nầy bị buộc phải làm lao động nhọc nhằn.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Đây là phần bắt thăm chia đất cho chi phái Ma-na-se (là trưởng nam của Giô-sép) — nghĩa là, vì Ma-kia, là con đầu lòng của Ma-na-se và chính ông là cha của Ga-la-át. Dòng dõi của Ma-kia bóc thăm được phần đất Ga-la-át và Ba-san, vì Ma-kia là một chiến binh.
\v 2 Đất bóc thăm cho phần còn lại của chi phái Ma-na-se, được trao cho các hộ gia đình của họ — A-bi-Ê-xe, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chem, Hê-phe, và Sê-mi-đa. Đây là các con trai của Ma-na-se, cháu của Giô-sép, được trao cho các hộ gia đình của họ.
\s5
\v 3 Bấy giờ Xê-lô-phát con trai Hê-phe cháu của Ga-la-át chắt của Ma-kia chít của Ma-na-se chẳng có con trai, mà chỉ có mấy cô con gái. Đây là tên của mấy người con gái của ông: Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca, và Thiệt-sa.
\v 4 Họ đến gần Ê-lê-a-sa thầy tế lễ, Giô-suê con trai Nun, cùng các cấp lãnh đạo, rồi họ nói: "Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môise phải trao cho chúng tôi phần cơ nghiệp cùng với các anh em chúng tôi" Vì vậy, theo lệnh truyền của Đức Giê-hô-va, ông đã trao cho mấy người nữ nầy phần sản nghiệp giữa vòng các anh em của cha mấy người nữ ấy.
\s5
\v 5 Mười phần đất bắt thăm cho Ma-na-se trong Ga-la-át và Ba-san, đều ở bên kia sông Giô-đanh,
\v 6 vì các con gái của Ma-na-se đã nhận lãnh phần sản nghiệp cùng với các con trai người. Phần đất ở Ga-la-át trúng nhằm phần con lại của chi phái Ma-na-se.
\s5
\v 7 Lãnh thổ của Ma-na-se trải từ A-se đến Mít-mê-thát, nằm ở phía Đông Si-chem. Rồi biên giới chạy về phía Nam đến những người sống gần suối Tháp-bu-ách.
\v 8 (Phần đất Tháp-bu-ách thuộc về Ma-na-se, song làng Tháp-bu-ách ở gần biên giới của Ma-na-se đã thuộc về chi phái Ép-ra-im).
\s5
\v 9 Biên giới chạy xuống khe Ca-na. Các thành nầy ở phía Nam cái khe ở giữa các làng mạc của Ma-na-se đã thuộc về Ép-ra-im. Biên giới của Ma-na-se nằm ở sườn phía Bắc của cái khe, và nó kết thúc nơi mé biển.
\v 10 Phần đất ở phía Nam đã thuộc về Ép-ra-im, và phần đất ở phía Bắc thì thuộc về Ma-na-se; biển là đường biên giới. Ở sườn phía Bắc giáp với A-se, và phía Đông, với Y-sa-ca.
\s5
\v 11 Trong Y-sa-ca và trong A-se, Ma-na-se có Bết-San cùng các làng mạc nó, Gíp-lê-am cùng các làng mạc nó, cư dân của Đô-rơ cùng các làng mạc nó, cư dân của En-đô-rơ cùng các làng mạc nó, cư dân của Tha-a-nác cùng các làng mạc nó, và cư dân của Mê-ghi-đô cùng các làng mạc nó (và thành thứ ba là Na-phéc).
\v 12 Tuy nhiên chi phái Ma-na-se không thể chiếm lấy các thành ấy, vì dân Ca-na-an tiếp tục sống trong đất nầy.
\s5
\v 13 Khi dân sự Y-sơ-ra-ên càng thêm cường thạnh, họ buộc dân Ca-na-an phải lao động nhọc nhằn, nhưng không trực tiếp trục xuất họ.
\s5
\v 14 Thế thì dòng dõi của Giô-sép nói với Giô-suê như sau: "Tại sao ông chỉ ban cho chúng tôi một phần của xứ và một phần đất làm sản nghiệp, khi chúng tôi là một dân đông, và vì mọi sự Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho chúng tôi?"
\v 15 Giô-suê bèn nói cùng họ: "Nếu anh em là một dân đông, hãy tự mình đi lên khu rừng kia, tìm cho mình một chỗ trong xứ người Phê-rê-sít và người Rê-pha-im. Hãy làm điều nầy, một khi vùng núi Ép-ra-im là quá nhỏ đối với anh em".
\s5
\v 16 Dòng dõi của Giô-sép nói: "Vùng núi non không đủ cho chúng ta. Nhưng dân Ca-na-an họ sống trong đồng bằng đều có xe cộ bằng sắt, cả hai dân nầy đang sống ở Bết-San cùng các làng mạc nó, và những kẻ sống trong đồng bằng Gít-rê-ên".
\v 17 Khi ấy Giô-suê nói với nhà Giô-sép — với Ép-ra-im và Ma-na-se: "Anh em là một dân đông đảo, và anh em có sức lớn. Anh em không những có một phần đất đã bóc thăm cho anh em.
\v 18 Vùng núi cũng thuộc về anh em. Mặc dù đây là một khu rừng, anh em sẽ dọn nó rồi chiếm lấy nó cho đến đường biên giới xa nhất. Anh em sẽ trục xuất người Ca-na-an, mặc dù họ có loại xe bằng sắt, và mặc dù họ rất mạnh mẽ".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Khi ấy toàn bộ hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại tại Si-lô. Họ dựng trại ở đó và họ chinh phục phần đất ở trước mặt họ.
\v 2 Vẫn có bảy chi phái giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên chưa được phân chia sản nghiệp.
\s5
\v 3 Giô-suê nói cùng dân sự Y-sơ-ra-ên: "Anh em cứ trì trệ mãi cho tới chừng nào, không đi chiếm xứ mà Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã ban cho anh em?
\v 4 Hãy tự mình tuyển ra cứ mỗi chi phái ba người, còn ta sẽ sai họ đi ra. Họ sẽ đi điều nghiên cả xứ. Họ sẽ ghi ra phần mô tả xứ với ý đồ cho sản nghiệp của họ, và khi ấy họ sẽ trở lại cùng ta.
\s5
\v 5 Họ sẽ chia xứ ấy thành bảy phần. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của họ về phía Nam, còn nhà Giô-sép sẽ tiếp tục trong lãnh thổ của họ về phía bắc.
\v 6 Anh em sẽ mô tả phần đất trong bảy phần ấy rồi đem phần mô tả về đây cho ta. Ta sã bóc thăm cho anh em ở đây trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 7 Người Lê-vi chẳng có phần gì ở giữa anh em, vì chức thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va là sản nghiệp của họ. Gát, Ru-bên, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã nhận lấy sản nghiệp của họ, bên kia sông Giô-đanh. Đây là sản nghiệp mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho họ".
\s5
\v 8 Vì vậy, họ chỗi dậy rồi đi. Giô-suê truyền cho những người đi ghi chép phần mô tả xứ như sau: "Hãy đi lên rồi chiếm lấy xứ và ghi chép phần mô tả nó và trở lại cùng ta. Ta sẽ bắt thăm cho anh em tại đây trước mặt Đức Giê-hô-va ở Si-lô".
\v 9 Mấy người ấy rời đi, họ lên xuống trong xứ đặng ghi chép phần mô tả xứ đó trong một cuộn giấy da các thành phố trong phần đất đó, liệt kê các thành phố trong mỗi phần đất. Khi ấy họ trở về cùng Giô-suê trong trại quân tại Si-lô.
\s5
\v 10 Rồi Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt Đức Giê-hô-va. Rồi ở đó Giô-suê phân phát đất đai cho dân sự Y-sơ-ra-ên — mỗi chi phái phần của họ trong xứ.
\s5
\v 11 Phần đất bắt thăm cho chi phái Bên-gia-min được trao cho từng hộ gia đình của họ. Lãnh thổ phần đất bắt thăm cho họ nằm ở giữa dòng dõi của Giu-đa và dòng dõi của Giô-sép.
\v 12 Ở sườn phía Bắc biên giới của họ khởi sự tại sông Giô-đanh. Đường biên giới chạy đến phía sau Giê-ri-cô về phía Bắc, rồi lên vùng đồi núi ở hướng Tây. Nó chạy dài tới đồng vắng Bết- A-ven.
\s5
\v 13 Từ đó đường biên giới chạy ngang qua hướng Nam theo hướng thành Lu-xơ (cùng địa điểm là Bê-tên). Khi ấy biên giới chạy xuống tới A-ta-rốt-A-đa, gần dãy núi nằm ở phía Nam Bết-Hô-rôn.
\v 14 Đường biên giới chạy theo hướng khác, quay qua sườn phía Tây, đến phía Nam hướng về vùng núi, đối ngang Bết-Hô-rôn. Nó kết thúc ở Ki-ri-át-Ba-anh (nghĩa là, Ki-ri-át-Giê-a-rim), một thành thuộc về chi phái Giu-đa. Điều nầy hình thành sườn phía Tây.
\s5
\v 15 Sườn phía Nam bắt đầu ngay bên ngoài Ki-ri-át Giê-a-rim. Biên giới trải từ đó đến Ép-rôn, đến suối nước Nép-thô-ách.
\v 16 Khi ấy đường biên giới chạy xuống gặp biên giới của hòn núi nhìn qua bên kia đồng bằng Bên Hin-nôm, nằm ngay cuối phía Bắc của đồng bằng Rê-pha-im. Rồi nó chạy xuống trũng Hin-nôm, phía Nam sườn đồi dân Giê-bu-sít, và tiếp tục xuống đến Ên-Rô-ghên.
\s5
\v 17 Nó đổi sang hướng Bắc, đi theo hướng En-Sê-mết, rồi từ đó nó chạy khỏi Ghê-li-lốt, đối ngang dốc A-đu-mim. Khi ấy nó chạy xuống đá Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên).
\v 18 Nó chạy ngang lên phía Bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba.
\s5
\v 19 Biên giới chạy ngang qua phía Bắc của Bết-Hô-la. Biên giới kết thúc ngay vịnh phía Bắc của Biển Muối, ở cuối phía Nam sông Giô-đanh. Đây là đường biên giới ở phía Nam.
\v 20 Sông Giô-đanh hình thành đường biên giới của nó ở sườn phía Đông. Đây là sản nghiệp của chi phái Bên-gia-min, và nó được trao cho từng hộ gia đình của họ, từng biên giới một.
\s5
\v 21 Giờ đây, các thành của chi phái Bên-gia-min tuỳ theo các hộ gia đình của họ là Giê-ri-cô, Bết-Hô-la, Ê-méc-Kê-sít,
\v 22 Bết-A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên,
\v 23 A-vim, Pha-ra, Óp-ra,
\v 24 Kê-pha-A-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba. Có mười hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 25 Cũng có các thành Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt,
\v 26 Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa,
\v 27 Rê-kem, Giệt-bê-ên, Tha-rê-a-la,
\v 28 Xê-la, Ê-lép, Giê-bu (cũng là Giê-ru-sa-lem), Ghi-bê-át, và Ki-ri-át. Có mười bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ. Đây là sản nghiệp của chi phái Bên-gia-min trao cho các hộ gia đình của họ.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Thăm thứ nhì trúng nhằm chi phái Si-mê-ôn và được phân phối cho các hộ gia đình của họ. Sản nghiệp của họ nằm ở giữa sản nghiệp thuộc về chi phái Giu-đa.
\s5
\v 2 Họ đã có phẩn sản nghiệp của họ Bê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa,
\v 3 Hát-sa-Su-anh, Ba-la, Ê-xem,
\v 4 Ên-thô-lát, Bê-thu, và Họt-ma.
\s5
\v 5 Si-mê-ôn cũng có Xiếc-lát, Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa,
\v 6 Bết-Lê-ba-ốt, và Sê-a-ru-chen. Đây là mười ba thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\v 7 Si-mê-ôn cũng có A-in, Rim-môn, Ê-the, và A-san. Có bốn thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 8 Đây là tất cả các làng vây quanh mấy thành nầy ở xa xa như Ba-lát-Bê-e (cũng là Ra-ma trong Nê-giép). Đây là sản nghiệp của chi phái Si-mê-ôn, được trao cho các hộ gia đình của họ.
\v 9 Sản nghiệp của chi phái Si-mê-ôn hình thành một phần lãnh thổ của chi phái Giu-đa. Vì phần đất phân phối cho chi phái Giu-đa là quá rộng đối với họ, chi phái Si-mê-ôn đã nhận lãnh phần sản nghiệp của họ ở giữa ngoài phần đất của họ.
\s5
\v 10 Thăm thứ ba trúng nhằm chi phải Sa-bu-lôn, và phần đất được trao cho họ từng hộ gia đình. Biên giới của sản nghiệp họ bắt đầu tại Sa-rít.
\v 11 Biên giới của họ chạy lên hướng Tây thẳng đến Ma-rê-a-la đụng Đáp-bê-sết; rồi nó đụng khe nằm đối ngang Giốc-nê-am.
\s5
\v 12 Từ Sa-rít biên giới chạy theo hướng Đông hướng tới phía Đông rồi đến biên giới của Kít-lốt-Tha-bô. Từ đó nó chạy thẳng tới Đáp-rát rồi ngược lên đến Gia-phia.
\v 13 Từ đó nó đi ngang về phía Đông đến Gát Hê-phe, rồi đến Ét-cát-sin; kế đó nó đến tại Rim-môn rồi hướng tới Nê-a.
\s5
\v 14 Biên giới tạo thành ngã rẻ lên phía Bắc đến Ha-na-thôn rồi kết thúc tại đồng bằng Díp-thách-En.
\v 15 Khu vực nầy bao gồm các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la, và Bết-lê-hem. Có mười hai thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\v 16 Đây là sản nghiệp của chi phái Sa-bu-lôn, đã được trao cho từng hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
\s5
\v 17 Thăm thứ tư rơi trúng chi phái Y-sa-ca, và sản nghiệp ấy đã được trao cho từng hộ gia đình của họ.
\v 18 Lãnh thổ của họ bao gồm Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem,
\v 19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, và A-na-cha-rát.
\s5
\v 20 Nó cũng gồm Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết,
\v 21 Rê-mết, En-ga-nim, En-ha-đa, và Bết-phát-sết.
\v 22 Biên giới của họ cũng đụng Tha-bô, Sa-chát-si-ma, và Bết-Sê-mết, rồi kết thúc nơi sông Giô-đanh. Có mười sáu thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 23 Đây là sản nghiệp của chi phái Y-sa-ca, và đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, bao gồm các làng mạc của họ.
\s5
\v 24 Thăm thứ năm rơi nhằm chi phái A-se, và sản nghiệp đã được trao cho các hộ gia đình của họ.
\v 25 Lãnh thổ của họ bao gồm Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ác-sáp,
\v 26 A-lam-mê-léc, A-mê-át, và Mít-sê-anh. Về phía Tây, đường biên giới kéo dài tới Cạt-mên và Si-hô-Líp-nát.
\s5
\v 27 Rồi nó rẻ qua hướng Đông đến Bết Đa-gôn rồi chạy xa tít đến Sa-bu-lôn, rồi đến đồng bằng Díp-thách-en, hướng tới phía bắc đến Bết-ê-méc và Nê-i-ên. Rồi nó tiếp tục đến Ca-bun về phía Bắc.
\v 28 Rồi nó tiếp tục chạy thẳng đến Ép-rôn, Rê-hốp, Ham-môn, và Ca-na, đến tận Si-đôn Lớn.
\s5
\v 29 Biên giới quay trở lại tới Ra-ma, và rồi tới thành kiên cố ở Ty-rơ. Khi ấy đường biên giới chuyển qua Hô-sa rồi kết thúc ngay ở biển, trong khu vực Ạc-xíp,
\v 30 U-ma, A-phéc, và Rê-hốp. Có hai mươi thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\s5
\v 31 Đây là sản nghiệp của chi phái A-se, và nó đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
\s5
\v 32 Thăm thứ sáu rơi trúng chi phái Nép-ta-li, và sản nghiệp được trao cho các hộ gia đình của họ.
\v 33 Biên giới chạy từ Hê-lép, từ cây sồi tại Sa-na-im, cho đến A-đa-mi-nê-kép và Giáp-nê-ên, xa đến Lạt-cum; rồi kết thúc tại sông Giô-đanh.
\v 34 Biên giới chuyển qua hướng tây đến Ạt-nốt-tha-bô rồi tiếp tục tới Hục-cốc; nó đụng đến Sa-bu-lôn ở phía Nam, và đến tận A-se về phía Tây và Giu-đa ở phía Đông sông Giô-đanh.
\s5
\v 35 Các thành kiên cố là Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết,
\v 36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so,
\v 37 Kê-đe, Ết-rê-i, và En-Hát-so.
\s5
\v 38 Cũng có Gi-rê-ôn, Mít-đa-en Hô-rem, Bết-a-nát, và Bết Sê-mết. Có mười chín thành, chưa kể các làng mạc của họ.
\v 39 Đây là sản nghiệp của chi phái Nép-ta-li, và nó được trao cho các hộ gia đình của họ —các thành, kể cả các làng mạc của họ.
\s5
\v 40 Thăm thứ bảy rơi trúng chi phái Đan, và sản nghiệp đã được trao cho các hộ gia đình của họ.
\v 41 Phần lãnh thổ sản nghiệp của họ bao gồm Xô-rê-a, Ét-tha-nôn, Yết-sê-mết,
\v 42 Sa-la-bin, A-gia-lôn, và Gít-la.
\s5
\v 43 Nó cũng bao gồm Ê-lôn, Thim-na, Éc-rôn,
\v 44 En-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát,
\v 45 Giê-hút, Bê-nê-bê-rác, Gát-Rim-môn,
\v 46 Mê-Giạt-côn, và Ra-côn cùng với phần lãnh thổ băng qua Giốp-bê.
\s5
\v 47 Khi phần lãnh thổ của chi phái Đan đã được bóc thăm cho họ, Đan tấn công Lê-sem, đánh trận nghịch cùng nó, rồi chiếm lấy. Họ dùng gươm giết mọi người, chiếm lấy, rồi an cư trong đó. Họ đặt tên Lê-sem lại, gọi đó là Đan theo tên tổ phụ của họ.
\v 48 Đây là phần sản nghiệp của chi phái Dan, và nó đã được trao cho các hộ gia đình của họ — các thành, kể cả các làng mạc của họ.
\s5
\v 49 Khi họ chia xứ làm sản nghiệp xong rồi, dân Y-sơ-ra-ên đã trao sản nghiệp giữa vòng họ cho Giô-suê con trai Nun.
\v 50 Theo lịnh truyền của Đức Giê-hô-va họ đã trao cho ông thành mà ông yêu cầu, Thim-nát-Sê-rách trong cùng đồi núi Ép-ra-im. Ông xây dựng lại thành ấy rồi sinh sống ở đó.
\s5
\v 51 Đây là các sản nghiệp mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun, và cấp lãnh đạo các chi phái trong gia đình của tổ phụ họ trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, đã bóc thăm phân phối tại Si-lô, trước mặt Đức Giê-hô-va, nơi lối vào của hội mạc. Vậy, họ đã hoàn tất việc phân phối xứ.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê:
\v 2 "Hãy nói với dân như vầy: 'Hãy chỉ định các thành ẩn náu mà ta đã phán với con bởi tay của Môi-se.
\v 3 Hãy làm việc nầy hầu cho người nào không chủ ý giết người có thể đến đó ở. Các thành nầy sẽ trở thành một nơi ẩn náu, tránh bất cứ ai tìm cách báo thù huyết của kẻ bị giết.
\s5
\v 4 Người ấy sẽ chạy đến một trong các thành nầy rồi đứng nơi lối vào nơi cổng thành, giải thích trường hợp của mình cho các trưởng lão của thành ấy biết. Rồi họ sẽ đưa người vào trong thành và cung ứng cho người một chỗ để người sống giữa vòng họ.
\s5
\v 5 Và nếu một người đến tìm cách báo thù huyết của kẻ đã chết, khi ấy dân sự của thành không trao cho nhà cầm quyền kẻ đã giết người. Họ không được làm điều nầy, vì kẻ giết người lân cận mình không có cố ý và không có thù ghét người trước đó.
\v 6 Người nầy phải ở lại trong thành đó cho tới chừng người đến đứng trước cả hội chúng để chịu đoán xét, cho tới lúc một người phục vụ trong vai trò thầy tế lễ vào thời ấy qua đời. Khi ấy người vô ý giết người trở về làng mạc quê hương của mình, về với chỗ mà từ đó người trốn đi'".
\s5
\v 7 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã chọn Kê-đe tại Ga-li-kê trong vùng đồi núi của chi phái Nép-ta-li, Si-chem trong vùng đồi núi chi phái Ép-ra-im, và Ki-ri-át-A-ra-ba (cũng là Hếp-rôn) trong vùng đồi núi chi phái Giu-đa.
\v 8 Bên kia sông Giô-đanh ở phía Đông Giê-ri-cô, họ đã chọn Bết-se trong đồng vắng bình nguyên từ chi phái Ru-bên; Ra-mốt, xứ Ga-la-át, từ chi phát Gát; và Gô-lan xứ Ba-san, từ chi phái Ma-na-se.
\s5
\v 9 Đây là các thành được chọn cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên và cho khách lạ cư ngụ giữa vòng họ, vì vậy bất kỳ ai giết người không có chủ ý có thể chạy đến với các thành ấy để được an ninh. Người nầy sẽ không chết bởi tay của những kẻ muốn báo thù huyết đã bị đổ ra, cho đến khi có cuộc xét xử trước hội chúng.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Khi ấy, gia trưởng của những hộ người Lê-vi đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, với Giô-suê con trai Nun, và với cấp lãnh đạo của các gia đình của tổ phụ họ trong dân Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Chúng nói với họ tại Si-lô trong xứ Ca-na-an: "Đức Giê-hô-va truyền cho các ông bởi tay của Môi-se ban cho chúng tôi các thành để ở, cùng với đồng cỏ cho bầy gia súc của chúng tôi".
\s5
\v 3 Vì vậy, bởi mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, dân Y-sơ-ra-ên từ sản nghiệp của họ mà ra các thành sau đây, kể cả đồng cỏ, cho người Lê-vi.
\s5
\v 4 Thăm bắt trúng các hộ gia đình của người Kê-hát ra theo kết quả nầy: dòng thầy tế lễ — dòng dõi của A-rôn ra từ chi phái Lê-vi — họ nhận mười ba thành từ chi phái Giu-đa, từ chi phái Si-mê-ôn, và từ chi phái Bên-gia-min.
\v 5 Phần còn lại, các hộ gia đình từ dòng Kê-hát do bắt thăm nhận được mười thành do các hộ gia đình từ chi phái Ép-ra-im, Đan, và từ phân nửa chi phái Ma-na-se.
\s5
\v 6 Và người ra từ Ghẹt-sôn do bắt thăm nhận được mười ba thành từ các hộ gia đình thuộc chi phái Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và phân nửa chi phái Ma-na-se ở Ba-san.
\v 7 Người nào là dòng dõi của Mê-ra-ri nhận được mười hai thành từ các chi phái Ru-bên, Gát, và Sa-bu-lôn.
\s5
\v 8 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã trao các thành nầy, kể cả đồng cỏ của chúng, cho người Lê-vi qua bắt thăm, y như Đức Giê-hô-va đã truyền bởi tay của Môi-se.
\v 9 Từ các chi phái Giu-đa và Si-mê-ôn, họ đã phân phối đất đai cho các thành sau đây, ở đây được liệt kê ra đích danh.
\v 10 Các thành nầy đã được trao cho dòng dõi của A-rôn, họ có mặt giữa các hộ gia đình của Kê-hát, đổi lại họ xuất thân từ chi phái Lê-vi. Vì lần bắt thăm đầu tiên rơi trúng họ.
\s5
\v 11 Dân Y-sơ-ra-ên đã trao cho họ Ki-ri-át-A-ra-ba (A-ra-ba là cha của A-nác), cũng là Hếp-rôn, trong vùng đồi núi chi phái Giu-đa, với đồng cỏ quanh thành ấy.
\v 12 Nhưng đồng ruộng của thành cùng các làng mạc nó đã trao rồi cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê, làm sản nghiệp của người.
\s5
\v 13 Đối với dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn, họ đã trao Hếp-rôn với đồng cỏ của nó — đây là thành ẩn náu dành cho bất kỳ người nào không chủ ý làm chết người khác — và Líp-na với đồng cỏ của nó,
\v 14 Giạt-thia với đồng cỏ của nó, và Ê-thê-mô-a với đồng cỏ của nó.
\v 15 Họ cũng trao Hô-lôn với đồng cỏ của nó, Đê-bia với đồng cỏ của nó,
\v 16 A-in với đồng cỏ của nó, Giu-ta với đồng cỏ của nó, và Bết Sê-mết với đồng cỏ của nó. Có chín thành do ba chi phái nầy trao cho.
\s5
\v 17 Từ chi phái Bên-gia-min đã trao Ga-ba-ôn với đồng cỏ của nó, Ghê-ba với đồng cỏ của nó,
\v 18 A-na-thốt với đồng cỏ của nó, và Anh-môn với ngoại ô của nó — bốn thành.
\v 19 Các thành được trao cho dòng thầy tế lễ, dòng dõi của A-rôn, là mười ba thành cả thảy, kể cả với đồng cỏ của chúng.
\s5
\v 20 Như đối với phần còn lại của gia đình Kê-hát — những người Lê-vi đó thuộc gia đình Kê-hát — họ đã có các thành mà chi phái Ép-ra-im giao cho qua cách bắt thăm.
\v 21 Đối với họ, Si-chem được trao cho với đồng cỏ của nó trong vùng đồi núi Ép-ra-im — một thành ẩn náu dành cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người — Ghê-xe với đồng cỏ của nó,
\v 22 Kíp-sa-im với đồng cỏ của nó, và Bết-Hô-rôn với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
\s5
\v 23 Từ chi phái Đan, hộ gia đình Kê-hát được trao cho En-thê-kê với đồng cỏ của nó, Ghi-bê-thôn với đồng cỏ của nó,
\v 24 A-gia-lôn với đồng cỏ của nó, và Gát-rim-môn với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
\s5
\v 25 Từ phân nửa chi phái Ma-na-se, hộ gia đình Kê-hát đã trao cho Tha-a-nác với đồng cỏ của nó và Gát-rim-môn với đồng cỏ của nó — hai thành.
\v 26 Có mười thành cả thảy dành cho phần còn lại của các hộ gia đình của người Kê-hát, kể cả với đồng cỏ của chúng.
\s5
\v 27 Từ phân nửa chi phái Ma-na-se, các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, đây là các hộ gia đình khác thuộc Lê-vi, và họ đã trao Gô-lan ở Ba-san với đồng cỏ của nó — một thành ẩn náu cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người khác, cùng với Bết-ê-ra với đồng cỏ của nó — hai thành cả thảy.
\s5
\v 28 Đối với các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, họ cũng trao cho Ki-si-ôn từ chi phái Y-sa-ca, với đồng cỏ của nó, Đáp-rát với đồng cỏ của nó,
\v 29 Giạt-mút với đồng cỏ của nó, và En-gia-nim với đồng cỏ của nó — bốn thành.
\v 30 Từ chi phái A-se, họ đã trao Mi-sê-anh với đồng cỏ của nó, Áp-đôn với đồng cỏ của nó,
\v 31 Hên-cát với đồng cỏ của nó, và Rê-hốp với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
\s5
\v 32 Từ chi phái Nép-ta-li, họ đã trao cho các hộ gia đình của Ghẹt-sôn Kê-đe trong xứ Ga-li-lê với đồng cỏ của nó — một thành ẩn náu dành cho bất kỳ ai không chủ ý làm chết người; Ha-mốt-đô-rơ với đồng cỏ của nó, và Cạt-than với đồng cỏ của nó — ba thành cả thảy.
\v 33 Có mười ba thành cả thảy, cho các hộ gia đình của Ghẹt-sôn, kể cả đồng cỏ của chúng.
\s5
\v 34 Đối với phần còn lại của người Lê-vi — các hộ gia đình của Mê-ra-ri — chi phái Sa-bu-lôn đã trao cho: Giốc-nê-am với đồng cỏ của nó, Cạt-ta với đồng cỏ của nó,
\v 35 Đim-na với đồng cỏ của nó, và Na-ha-la với đồng cỏ của nó — bốn thành cả thảy.
\s5
\v 36 Đối với các hộ gia đình của Mê-ra-ri do chi phái Ru-bên trao cho: Bết-se với đồng cỏ của nó, Giát-sa với đồng cỏ của nó,
\v 37 Kê-đê-mốt với đồng cỏ của nó, và Mê-phát với đồng cỏ của nó — bốn thành.
\v 38 Từ chi phái Gát, họ được trao cho Ra-mốt trong xứ Ga-la-át với đồng cỏ của nó — thành ẩn náu dành cho bất kỳ người nào không chủ ý làm chết người — và Ma-ha-na-im với đồng cỏ của nó.
\s5
\v 39 Các hộ gia đình của Mê-ra-ri cũng được trao cho Hết-bôn với đồng cỏ của nó, và Gia-ê-xe với đồng cỏ của nó. Cả thảy là bốn thành.
\v 40 Đây là hết thảy những thành của gia đình của Mê-ra-ri, xuất thân từ chi phái Lê-vi — mười hai thành cả thảy đã được trao cho họ qua việc bắt thăm.
\s5
\v 41 Các thành của người Lê-vi lấy từ giữa xứ mà dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy là bốn mươi tám thành, kể cả với đồng cỏ của chúng.
\v 42 Các thành nầy mỗi thành đều có đồng cỏ bao quanh nó. Thành nào cũng như vậy cả.
\s5
\v 43 Vì vậy Đức Giê-hô-va ban cho dân Y-sơ-ra-ên hết thảy vùng đất mà Ngài đã thề ban cho các tổ phụ của họ. Dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy xứ ấy làm sản nghiệp rồi ổn định ở đó.
\v 44 Khi ấy Đức Giê-hô-va ban cho họ yên nghỉ tứ phía, y như Ngài đã thề với các tổ phụ họ. Không một kẻ thù nào trong số những kẻ thù của họ có thể đánh bại họ. Đức Giê-hô-va đã ban hết thảy kẻ thù của họ vào trong tay họ.
\v 45 Không một lời nào giữa vòng mọi lời hứa tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã phán với nhà Y-sơ-ra-ên là không trở nên hiện thực. Thảy đều ứng nghiệm hết.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Lúc bấy giờ, Giô-suê gọi người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se.
\v 2 Ông nói cùng họ: "Anh em đã làm mọi sự mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va truyền cho anh em; các con đã vâng theo tiếng ta trong mọi sự ta đã truyền cho các con.
\v 3 Các con không bỏ anh em các con trong bất kỳ ngày nào hoặc ngày nay. Thay vì thế, anh em đã cẩn thận vâng theo mạng lịnh cỉa Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 4 Giờ đây Đức Chúa Trời đã ban sự yên nghỉ cho anh em của anh em, y như đã hứa với họ. Vì lẽ đó hãy trở về trại anh em trong xứ thuộc về mình, nơi mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em ở bên kia sông Giô-đanh.
\v 5 Chỉ phải cẩn thận tuân giữ các điều răn và luật pháp mà Môi-se tôi tớ của Đức Giê-hô-va đã truyền cho anh em, phải kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, bước đi theo đường lối của Ngài, tuân giữ các điều răn của Ngài, và bám theo Ngài cùng hết lòng, hết linh hồn mà thờ phượng Ngài".
\v 6 Vậy, Giô-suê chúc phước cho họ rồi khiến họ trở về trại của mình.
\s5
\v 7 Bấy giờ phân nửa chi phái Ma-na-se, Môi-se đã ban cho họ cơ nghiệp ở tại Ba-san, nhưng với phân nửa kia, Giô-suê đã ban một sản nghiệp bân cạnh anh em của họ trong xứ ở phía Tây sông Giô-đanh. Giô-suê bảo họ trở về trại mình; ông chúc phước cho họ
\v 8 rồi nói với họ: "Hãy trở về trại của mình với nhiều tiền bạc, với nhiều bầy gia súc, với bạc vàng, với đồng và sắt, và với nhiều áo xống. Hãy chia chiến lợi phẩm lấy từ kẻ thù cho anh em của mình".
\s5
\v 9 Vậy dòng dõi của Ru-bên, dòng dõi Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se trở về nhà, để dân Y-sơ-ra-ên lại tại Si-lô, ở trong xứ Ca-na-an. Họ rời đi, đến khu vực Ga-la-át, đến đất riêng của họ, chỗ mà đích thân họ chiếm lấy, trong sự vâng theo các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, bởi tay của Môi-se.
\s5
\v 10 Khi họ đến tại sông Giô-đanh ở trong xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se xây một bàn thờ bên cạnh sông, một bàn thờ rất lớn và nổi bật.
\v 11 Dân Y-sơ-ra-ên nghe nói về việc nầy, họ nói: "Hãy xem! Người Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã xây một bàn thờ ngay trước xứ Ca-na-an, ở Ghê-li-lốt, trong khu vực gần sông Giô-đanh, phía bên thuộc về dân Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 12 Khi dân Y-sơ-ra-ên hay được việc nầy, cả hội chúng dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại với nhau tại Si-lô, họ đi lên và tuyên chiến nghịch cùng chúng.
\s5
\v 13 Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên sai sứ đến với người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se, trong xứ Ga-la-át. Họ cũng sai Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa,
\v 14 và mười cấp lãnh đạo đi cùng với người, mỗi người từng chi tộc của tổ phụ Y-sơ-ra-ên, và từng người trong số họ là gia trưởng trong vòng dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 15 Họ đến với người Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se, trong xứ Ga-la-át, rồi họ nói cùng chúng:
\v 16 "Toàn bộ hội chúng của Đức Giê-hô-va nói như vầy: 'Điều bất trung nầy mà anh em đã phạm nghịch cùng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là gì, ngày nay không bước theo Đức Giê-hô-va bằng cách tự xây một bàn thờ trong sự loạn nghịch với Đức Giê-hô-va hay sao?
\s5
\v 17 Há tội lỗi của chúng ta ở Phê-ô là chưa đủ cho chúng ta hay sao? Tuy nhiên, chúng ta cho tới bây giờ chưa gột rửa được việc ấy. Vì tội lỗi đó một trận dịch đã giáng trên hội chúng của Đức Giê-hô-va.
\v 18 Phải chăng anh em không còn bước theo Đức Giê-hô-va trong ngày hôm nay chăng? Nếu hôm nay anh em nổi loạn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, ngày mai Ngài sẽ nổi cơn thạnh nộ với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 19 Nếu xứ mà anh em chiếm được bị ô uế, khi ấy anh em nên băng vào trong xứ, chỗ có đền tạm của Đức Giê-hô-va ngự kia rồi chiếm lấy cho mình một sản nghiệp giữa vòng chúng ta. Chỉ đừng nổi loạn chống nghịch Đức Giê-hô-va, cũng đừng nổi loạn chống nghịch chúng tôi bằng cách xây một bàn thờ cho bản thân mình khác hơn bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta.
\v 20 Có phải A-can con trai của Xê-rách, đã phá vỡ đức tin khi lấy các thứ đã được dành cho Đức Chúa Trời không? Và có phải cơn thạnh nộ đã giáng xuống hết thảy dân Y-sơ-ra-ên? Người ấy không một mình bị hư mất vì tội lỗi của mình đâu".
\s5
\v 21 Khi ấy các chi phái Ru-bên, Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đáp trả với các gia trưởng của Y-sơ-ra-ên:
\v 22 "Đấng Toàn Năng, Đức Chúa Trời, Đức Giê-hô-va! Đấng Toàn năng, Đức Chúa Trời, Đức Giê-hô-va! — Ngài biết, và nguyện chính Y-sơ-ra-ên cũng biết! Nếu điều nầy nằm trong sự loạn nghịch hoặc có đức tin chống nghịch Đức Giê-hô-va, đừng buông tha chúng tôi vào ngày nầy
\v 23 vì đã xây một bàn thờ để rồi không bước theo Đức Giê-hô-va. Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để dâng trên đó của lễ thiêu, của lễ chay, hay của lễ thù ân, thế thì nguyện Đức Giê-hô-va khiến cho chúng tôi phải trả giá về điều đó.
\s5
\v 24 Không! Chúng tôi dựng lên bàn thờ nầy e rằng trong thì hầu đến, con cái của anh em sẽ nói với con cái của chúng tôi rằng: 'Anh em làm gì với Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên?
\s5
\v 25 Vì Đức Giê-hô-va đã lập sông Giô-đanh làm biên giới giữa chúng tôi và anh em. Anh em người Ru-bên, người Gát, anh em chẳng có gì phải làm với Đức Giê-hô-va.' Vì vậy, con cái anh em sẽ khiến cho con cái chúng tôi phải thôi không thờ phượng Đức Giê-hô-va nữa.
\s5
\v 26 Vì thế chúng tôi nói: Chúng ta hãy xây một bàn thờ, không phải để dâng của lễ thiêu cũng không phải dâng một con sinh nào cả,
\v 27 mà là một bằng chứng giữa chúng tôi và anh em, giữa các thế hệ tới sau của chúng ta, rằng chúng tôi sẽ thi hành sự thờ lạy Đức Giê-hô-va ở trước mặt Ngài, với các thứ của lễ thiêu cùng với các thứ con sinh và với các của lễ thù ân, hầu cho con cái của anh em sẽ không bao giờ nói với con cái của chúng tôi trong thì hầu đến: "Anh em chẳng có phần gì nơi Đức Giê-hô-va"'
\s5
\v 28 Vì vậy, chúng tôi nói: 'Nếu câu nói nầy nói với chúng ta hay với dòng dõi của chúng ta trong thì hầu đến, chúng ta sẽ nói: "Hãy xem đi! Đây là bản sao bàn thờ của Đức Giê-hô-va, mà tổ phụ chúng ta đã đóng, không phải để dâng của lễ thiêu, cũng không dâng các con sinh, mà giống như một chứng nhân ở giữa chúng tôi và anh em".
\v 29 Chúng tôi không có loạn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, và ngày nay chẳng có xoay khỏi Ngài bằng cách xây một bàn thờ để dâng của lễ thiêu, dâng của lễ chay, hay để dâng các thứ con sinh, khác hơn một bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta đang ở trước mặt đền tạm'".
\s5
\v 30 Khi thầy tế lễ Phi-nê-a cùng cấp lãnh đạo dân sự, nghĩa là, các gia trưởng của Y-sơ-ra-ên, họ có mặt cùng với ông, nghe lời lẽ của người Ru-bên, Gát, và Ma-na-se đã nói, điều đó đẹp mắt họ.
\v 31 Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với người Ru-bên, Gát, và Ma-na-se: "Ngày nay chúng ta biết rằng Đức Giê-hô-va đang hiện diện giữa vòng chúng ta, vì anh em không phạm vào việc lìa bỏ đức tin chống nghịch Ngài. Giờ đây, anh em đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay của Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 32 Khi ấy Phi-nê-a con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các cấp lãnh đạo trở về khỏi người Ru-bên, người Gát, họ ra khỏi xứ Ga-la-át, trở về xứ Ca-na-an, với dân sự Y-sơ-ra-ên, và hồi báo cho họ biết.
\v 33 Tường trình của họ vốn đẹp mắt dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên đã chúc phước Đức Chúa Trời và không còn nói tới việc tuyên chiến chống lại người Ru-bên và người Gát, hòng huỷ diệt xứ mà họ đã định cư ở đó.
\s5
\v 34 Người Ru-bên và người Gát đặt tên cho bàn thờ là "Chứng Cớ" vì họ nói: "Đây là bằng chứng giữa chúng ta rằng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời".
\s5
\c 23
\p
\v 1 Rồi sau nhiều ngày, khi Đức Giê-hô-va đã ban sự yên nghỉ cho Y-sơ-ra-ên đối với tất cả kẻ thù ở chung quanh họ, Giô-suê đã cao tuổi rồi.
\v 2 Giô-suê gọi hết thảy Y-sơ-ra-ên — các trưởng lão, cấp lãnh đạo, các quan xét, cùng mọi quan tướng của họ — rồi nói cùng họ: "Ta đã cao tuổi rồi.
\v 3 Anh em đã nhìn thấy mọi việc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã làm cho các dân nầy vì cớ anh em, vì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài đã đánh trận thay cho anh em.
\s5
\v 4 Hãy xem! Ta đã phân phát cho anh em các dân còn lại chưa được chinh phục làm sản nghiệp cho các chi phái anh em, cùng với các dân mà ta đã tiêu diệt rồi, từ sông Giô-đanh cho đến Biển Lớn về phía Tây.
\v 5 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ trục xuất chúng đi. Ngài sẽ đuổi chúng ra khỏi anh em. Ngài sẽ chiếm lấy xứ của họ, và anh em sẽ chiếm đất của họ làm sản nghiệp, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa cùng anh em.
\s5
\v 6 Vì vậy, hãy mạnh mẽ lên, hầu cho anh em tuân giữ là làm theo mọi điều đã được chép trong Sách Luật Pháp của Môi-se, chớ xoay qua bên hữu hay bên tả,
\v 7 để anh em đừng trà trộn với các dân nầy còn lại giữa vòng anh em hoặc nhắc tới danh của các tà thần của họ, thề thốt với chúng, thờ lạy chúng, hoặc sấp mình xuống trước mặt chúng.
\v 8 Thay vì thế, anh em phải bám lấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em y như anh em đã làm cho đến ngày nay.
\s5
\v 9 Vì Đức Giê-hô-va đã đuổi hết các dân mạnh mẽ, rộng lớn trước mặt anh em. Còn đối với anh em, chẳng một dân nào có thể dám đứng trước mặt anh em cho đến ngày nay.
\v 10 Bất kỳ một người nào trong số anh em sẽ khiến cho cả ngàn người phải bỏ chạy, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài là Đấng đánh trận thay cho anh em, y như Ngài đã hứa cùng anh em.
\v 11 Đặc biệt, hãy chú ý, để anh em luôn kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 12 Nhưng nếu anh em xoay lưng lại và bám theo những kẻ sống sót của các dân nầy còn lại giữa vòng anh em, hay nếu anh em kết hôn chéo với chúng, hoặc nếu anh em sống chung đụng với họ và họ với anh em,
\v 13 khi ấy phải biết chắc rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em sẽ không đuổi các dân nầy khỏi giữa vòng anh em. Thay vì thế, họ sẽ trở thành bẫy lưới cho anh em, làm roi quất nơi lưng và gai nhọn nơi mắt anh em, cho tới chừng anh em hư mất khỏi xứ tốt tươi nầy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã ban cho anh em.
\s5
\v 14 Còn bây giờ, ta sẽ đi con đường của cả thế gian, và anh em phải hết lòng và hết linh hồn nhìn biết rằng không một lời nào mà không thành ra sự thực về mọi việc tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa về anh em. Mọi sự nầy thảy đều ứng nghiệm cho anh em. Không một lời nào là sai hết.
\v 15 Nhưng y như từng lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã hứa với anh em đều được ứng nghiệm, cũng một thể ấy Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên anh em mọi thứ xấu xa cho đến khi nào Ngài đã tận diệt anh em khỏi đất tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã ban cho anh em.
\s5
\v 16 Ngài sẽ làm điều nầy nếu anh em phá vỡ giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là điều mà Ngài đã truyền dặn anh em phải tuân giữ. Nếu anh em đi và thờ lạy các thần khác và sấp mình xuống trước mặt chúng, khi ấy cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ nhen lên nghịch cùng anh em, và anh em sẽ mau chóng hư mất khỏi xứ tốt lành mà Ngài đã ban cho anh em"
\s5
\c 24
\p
\v 1 Khi ấy Giô-suê nhóm các chi phái Y-sơ-ra-ên tại Si-chem và gọi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các cấp lãnh đạo, các quan xét, cùng các quan tướng, và họ đứng trình diện trước mặt Đức Chúa Trời.
\v 2 Giô-suê nói với cả dân sự rằng: "Đây là những gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dặn: 'Các tổ phụ của các con đã sống lâu lắm rồi bên kia sông Ê-phơ-rát — Tha-rê, cha của Áp-ra-ham và là cha của Na-cô — và họ đã thờ lạy các thần khác.
\s5
\v 3 Nhưng ta đã chọn tổ phụ các con bên kia sông Ê-phơ-rát rồi dẫn người vào trong xứ Ca-na-an, và ta đã ban cho người nhiều dòng dõi qua Y-sác con trai người.
\v 4 Và ta ban cho Y-sác Gia-cốp và Ê-sau. Ta ban cho Ê-sau cùng đồi núi Sê-i-rơ làm sản nghiệp, nhưng Giacốp cùng con cái người đi xuống xứ Ai-cập.
\s5
\v 5 Ta sai Môi-se và A-rôn, và ta giáng trên người Ai-cập với nhiều trận dịch. Sau đó, ta đem các con ra.
\v 6 Ta đem tổ phụ các con ra khỏi Ai-cập, và các con ra đến biển. Người Ai-cập truy đuổi các con với xe ngựa và người cởi ngựa cho đến Biển Sậy.
\s5
\v 7 Khi tổ phụ các con kêu cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đặt sự tối tăm ở giữa các con và người Ai-cập. Ngài khiến biển úp trên họ và bao phủ họ. Các con đã nhìn thấy những gì ta đã làm cho người Ai-cập. Khi ấy các con sống trong đồng vắng một thời gian dài.
\s5
\v 8 Ta đem các con đến xứ của dân A-mô-rít, họ sống ở bên kia sông Giô-đanh. Họ đã đánh trận với các con, và ta đã phó chúng vào trong tay các con. Các con chiếm lấy xứ làm sản nghiệp, và Ta huỷ diệt họ trước mặt các con.
\s5
\v 9 Khi ấy, Ba-lác con trai của Xếp-bô, vua xứ Mô-áp, chỗi dậy tấn công Y-sơ-ra-ên. Hắn sai Ba-la-am và kêu gọi Ba-la-am con trai Bê-ô, đến rủa sã các con.
\v 10 Nhưng ta không nghe theo Ba-la-am. Thực vậy, hắn chúc phước cho các con. Thế là ta giải cứu các con khỏi tay hắn.
\s5
\v 11 Các con qua sông Giô-đanh rồi đến tại thành Giê-ri-cô. Các quan trưởng thành Giê-ri-cô đánh trận nghịch cùng các con, cùng với dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Ghi-rê-ga-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Ta ban cho các con thắng hơn chúng và đặt chúng ở dưới quyền của các con.
\v 12 Ta sai ong lỗ đi trước các con, ong lỗ đánh đuổi chúng và hai vua dân A-mô-rít ra khỏi trước măt các con. Việc đã không xảy ra do gươm hay cung tên của các con đâu.
\s5
\v 13 Ta ban cho các con đất mà trên đó các con không có lao động và thành quách mà các con không có xây, và giờ đây các con đang sống trong chúng. Các con ăn trái của vườn nho và ô-li-ve mà các con không có trồng'.
\s5
\v 14 Giờ đây, hãy kính sợ Đức Giê-hô-va rồi thờ lạy Ngài với hết lòng và trung tín; hãy từ bỏ các hình tượng mà tổ phụ các con đã thờ lạy ở bên kia sông Ê-phơ-rát và trong xứ Ai-cập, và hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va.
\v 15 Nếu thờ lạy Đức Giê-hô-va dường như là sai trong mắt các con, ngày nay hãy chọn cho mình ai mà các con muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các con đã thờ lạy bên kia sông Ê-phơ-rát, hoặc các thần của dân A-mô-rít, trong xứ của họ các con đang sinh sống. Nhưng còn ta và nhà ta, chúng ta sẽ thờ phượng Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 16 Dân sự đáp trả như sau: "Chúng tôi sẽ không bao giờ lìa bỏ Đức Giê-hô-va để phục vụ các thần khác,
\v 17 vì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, ra khỏi nhà nô lệ, và Ngài đã làm nhiều phép kỳ dấu lạ trước mắt chúng tôi, và Ngài đã phù hộ chúng tôi trong suốt con đường mà chúng tôi đã đi, và giữa vòng các dân mà chúng tôi đã đi ngang qua họ.
\v 18 Và Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt chúng tôi các dân đó, dân A-mô-rít, họ đã sống trong xứ nầy. Vì vậy, chúng tôi cũng sẽ thờ lạy Đức Giê-hô-va, vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi".
\s5
\v 19 Nhưng Giô-suê đã nói với dân sự: "Anh em không thể phục vụ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết; Ngài là một Đức Chúa Trời hay ghen tương; Ngài sẽ chẳng tha sự phản nghịch và tội lỗi của anh em.
\v 20 Nếu anh em quên Đức Giê-hô-va rồi thờ lạy các thần ngoại bang, khi ấy Ngài sẽ xây lại làm hại cho anh em. Ngài sẽ làm cho anh em phải hao mòn đi, sau khi Ngài đã làm ơn cho anh em".
\s5
\v 21 Nhưng dân sự nói cùng Giô-suê: "Không, chúng tôi sẽ thờ lạy Đức Giê-hô-va".
\v 22 Khi ấy Giô-suê nói với dân sự: "Anh em là những chứng nhân nghịch lại bản thân mình rằng anh em đã chọn cho mình Đức Giê-hô-va, muốn thờ lạy Ngài". Họ đáp: "Chúng tôi làm chứng".
\v 23 "Bây giờ hãy cất bỏ các thần ngoại đang có với anh em đi, rồi hướng lòng về Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 24 Dân sự nói với Giô-suê: "Chúng tôi sẽ thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Chúng tôi sẽ lắng nghe tiếng phán của Ngài".
\v 25 Giô-suê lập một giao ước với dân sự trong ngày ấy. Ông đặt ra những chỉ dụ và luật pháp tại Si-chem.
\v 26 Giô-suê đã viết mấy lời nầy trong Sách Luật của Đức Chúa Trời. Ông lấy một hòn đá lớn rồi dựng nó bên dưới cây sồi bên cạnh nơi thánh của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 27 Giô-suê nói với cả dân sự rằng: "Hãy xem đây, hòn đá nầy sẽ là một chứng cớ nghịch lại chúng ta. Nó đã nghe hết mọi lời mà Đức Giê-hô-va có phán cùng chúng ta. Vì vậy, nó sẽ trở thành chứng cớ nghịch lại anh em, một khi anh em chối bỏ Đức Chúa Trời của anh em".
\v 28 Thế rồi Giô-suê cho dân sự về, mỗi người về với sản nghiệp của mình.
\s5
\v 29 Sau những việc nầy Giô-suê con trai Nun, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, qua đời, được 110 tuổi.
\v 30 Họ chôn người tại biên giới sản nghiệp người, ở Thim-nát-Sê-rách, nằm trong vùng đồi núi của Ép-ra-im, phía Bắc núi Ga-ách.
\s5
\v 31 Y-sơ-ra-ên đã thờ lạy Đức Giê-hô-va trong suốt đời của Giô-suê, và đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê, họ là những người đã kinh nghiệm mọi sự mà Đức Giê-hô-va đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 32 Hài cốt của Giô-sép, mà dân sự Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi xứ Ai-cập — họ chôn chúng tại Si-chem, trong mảnh đất mà Gia-cốp đã mua từ các con trai của Hê-mô, cha của Si-chem. Ông đã mua nó giá một trăm miếng bạc, và nó trở thành sản nghiệp cho dòng dõi của Giô-sép.
\v 33 Ê-lê-a-sa con trai của A-rôn cũng qua đời. Họ chôn người tại Ghi-bê-a, thành của Phi-nê-a con trai người, là thành đã được ban cho người. Chỗ nầy nằm trong vùng đồi núi của Ép-ra-im.

1271
07-JDG.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1271 @@
\id JDG
\ide UTF-8
\h CÁC QUAN XÉT
\toc1 CÁC QUAN XÉT
\toc2 CÁC QUAN XÉT
\toc3 jdg
\mt CÁC QUAN XÉT
\s5
\c 1
\p
\v 1 Sau cái chết của Giô-suê, dân Y-sơ-ra-ên cầu xin Đức Giê-hô-va như vầy: "Ai sẽ lãnh đạo chúng tôi đi lên nghịch cùng dân Ca-na-an để đánh trận?" 
\v 2 Đức Giê-hô-va phán: "Giu-đa sẽ lãnh đạo các con. Hãy xem, ta đã giao cho họ quyền kiểm soát xứ nầy".  
\v 3 Người Giu-đa nói với người Si-mê-ôn, anh em của họ: "Hãy đi lên với chúng tôi trong phần lãnh thổ đã phân phát cho chúng tôi, chúng ta cùng nhau đánh trận nghịch cùng dân Ca-na-an. Rồi chúng tôi sẽ đi cùng anh em đến phần lãnh thổ đã phân phát cho anh em". Thế là chi phái Si-mê-ôn cùng đi với họ.
\s5
\v 4 Người Giu-đa đi lên, và Đức Giê-hô-va ban cho họ thắng hơn dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. Họ giết chúng mười ngàn người tại Bê-séc.  
\v 5 Họ tìm gặp A-đô-ni Bê-séc tại Bê-séc, và họ đánh hắn cùng đánh bại dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít.
\s5
\v 6 Nhưng A-đô-ni Bê-séc bỏ trốn, và họ đuổi theo hắn rồi bắt lấy, họ chặt ngón cái của tay chân hắn.
\v 7  A-đô-ni Bê-séc nói: "Bảy mươi vua, ngón cái của tay và chân của họ đã bị chặt, lượm đồ ăn dưới bàn ta. Như ta đã làm, Đức Chúa Trời đã làm y như vậy cho ta". Họ đem hắn về Giê-ru-sa-lem, và hắn chết ở đó.
\s5
\v 8 Người Giu-đa đã đánh trận nghịch cùng thành Giê-ru-sa-lem rồi chiếm lấy nó. Họ đã dùng gươm tấn công nó rồi thiêu đốt thành.  
\v 9 Sau đó, người Giu-đa đi xuống đánh trận với người Ca-na-an, họ sống trong vùng đồi núi, trong vùng Nê-giép, và các chân núi ở phía Tây.  
\v 10 Giu-đa tiến đánh dân Ca-na-an, họ sống trong Hếp-rôn (danh xưng Hếp-rôn trước đó là Ki-ri-át A-ra-ba), và họ đánh bại Sê-sai, A-hi-man, cùng Thanh-mai.
\s5
\v 11 Từ đó người Giu-đa tiến đánh các cư dân ở Đê-bi-a (danh xưng Đê-bi-a trước đó là Ki-ri-át Sê-phe).  
\v 12 Ca-lép nói: "Người nào tấn công Ki-ri-át Sê-phe rồi chiếm lấy nó, ta sẽ gã Ạt-sa, con gái ta làm vợ người".  
\v 13 Ốt-ni-ên con trai của Kê-na (em của Ca-lép) chiếm lấy Đê-bi-a, vì vậy Ca-lép đã gả Ạt-sa, con gái mình làm vợ người.
\s5
\v 14 Ạt-sa mau đến với Ốt-ni-ên, và nàng giục người hỏi xin cha nàng ban cho một cánh đồng. Khi nàng xuống khỏi lưng lừa, Ca-lép hỏi: "Ta sẽ làm gì cho con?"
\v 15  Nàng nói với ông: "Xin ban cho con một điều phước. Một khi cha đặt con vào trong xứ Nê-giép, cũng xin ban cho con các dòng suối nữa". Vì vậy Ca-lép ban cho nàng các thượng nguồn và hạ nguồn.
\s5
\v 16 Dòng dõi của Kê-nít cha vợ Môi-se đi lên thành Cây Chà Là với dân sự Giu-đa, vào trong đồng vắng Giu-đa, giờ đây ở trong xứ Nê-giép, để sống với dân sự Giu-đa gần A-rát.
\v 17 Và người Giu-đa đi với người Si-mê-ôn anh em họ và tấn công dân Ca-na-an nào ngụ trong Xê-phát và hủy diệt hoàn toàn nó. Danh xưng của thành được gọi là Họt-ma.
\s5
\v 18 Người Giu-đa cùng chiếm lấy Ga-xa và đất điền ở chung quanh nó, Ách-ca-lôn và đất điền chung quanh nó, cùng Éc-rôn và đất điền chung quanh nó.  
\v 19 Đức Giê-hô-va đã ở với người Giu-đa và họ đã chiếm lấy vùng đồi núi làm sản nghiệp, nhưng họ không thể đuổi cư dân của đồng bằng đi được vì chúng có xe bằng sắt.
\s5
\v 20 Hếp-rôn đã được trao cho Ca-lép (y như Môi-se đã nói), và ông đuổi khỏi đó ba con trai của A-nác.  
\v 21 Nhưng người Bên-gia-min không đuổi được dân Giê-bu-sít, họ ngụ tại thành Giê-ru-sa-lem. Vì vậy dân Giê-bu-sít đã sống với người Bên-gia-min tại thành Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.
\s5
\v 22 Nhà Giô-sép sửa soạn tấn công Bê-tên, và Đức Giê-hô-va đã ở với họ.
\v 23 Họ sai người đi do thám Bê-tên (thành được gọi là Lu-xơ trước đó).
\v 24  Các thám tử nhìn thấy một người ra khỏi thành, họ nói cùng người như sau: "Làm ơn cho chúng tôi biết làm cách nào để vào trong thành, thì chúng ta sẽ đối xử tử tế với người".
\s5
\v 25 Người ấy chỉ cho họ một lối vào bên trong thành. Và họ đã dùng gươm tấn công thành, nhưng họ để cho người ấy cùng với gia đình của người đi.  
\v 26 Và người đi vào trong đất của dân Hê-tít rồi xây một thành đặt tên là Lu-xơ, danh xưng nầy ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\v 27 Người Ma-na-se không đuổi được những kẻ sống trong các thành ở Bết-san cùng làng mạc của nó, hay Tha-a-nát cùng làng mạc của nó, hay những kẻ sống trong Đô-rơ cùng làng mạc của nó, hoặc những kẻ sống trong Gíp-lê-am cùng làng mạc của nó, hoặc những kẻ sống trong Mê-ghi-đô cùng làng mạc của nó, vì dân Ca-na-an đã quyết sống trong xứ đó.  
\v 28 Khi Y-sơ-ra-ên trở nên mạnh mẽ rồi, họ buộc dân Ca-na-an phải phục vụ họ với lao động nhọc nhằn, song không đuổi họ một cách trọn vẹn được.
\s5
\v 29 Ép-ra-im không đuổi được dân Ca-na-an nào sinh sống ở Ghê-xe, vì vậy dân Ca-na-an cứ tiếp tục sống trong Ghê-xe giữa vòng họ.
\s5
\v 30 Sa-bu-lôn không đuổi được dân đang sinh sống trong Kít-rôn, hoặc dân sống trong Na-ha-lô, và vì vậy dân Ca-na-an tiếp tục sống giữa vòng họ, nhưng Sa-bu-lôn đã buộc dân Ca-na-an phục vụ họ với lao động nhọc nhằn.
\s5
\v 31 A-se đã không đuổi được dân đang sống trong Ác-cô, hoặc dân sống trong Si-đôn, hay những kẻ sống trong Ách-láp, Ạt-síp, Hên-ba, A-phéc, hay Rê-hốp.  
\v 32 Vì vậy chi phái A-se sống giữa vòng dân Ca-na-an (những kẻ sống trong xứ), vì họ không đuổi chúng đi được.
\s5
\v 33 Chi phái Nép-ta-li không đuổi những kẻ sống trong Bết Sê-mết, hay những kẻ sống trong Bết A-nát. Vì vậy chi phái Nép-ta-li sống giữa còng dân Ca-na-an (những kẻ sống trong đất đó). Tuy nhiên, dân cư Bết Sê-mết và Bết A-nát bị buộc vào lao động nhọc nhằn cho Nép-ta-li.
\s5
\v 34 Dân A-mô-rít đã buộc chi phái Dan phải sống trong vùng đồi núi, không cho phép họ đi xuống đồng bằng.  
\v 35 Vậy dân A-mô-rít đã sống ở Núi Hê-re, trong A-gia-lôn, và trong Sa-an-bim, nhưng sức mạnh quân sự của nhà Giô-sép đã chinh phục họ, và họ bị buộc phải phục vụ họ với lao động nhọc nhằn.  
\v 36 Biên giới của dân A-mô-rít chạy từ núi Ác-ráp-bim ở Sê-la lên tới vùng đồi núi.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi từ Ghinh-ganh lên đến Bô-kim, và phán: "Ta đã đem các con ra khỏi Ai-cập, rồi đã đưa các con đến vùng đất mà ta đã thề ban cho tổ phụ các con. Ta đã nói: 'Ta sẽ không hề phá vở giao ước với các con.
\v 2 Các con chớ lập ước nào với những kẻ đang sinh sống trong xứ nầy. Các con phải đánh đổ bàn thờ của chúng nó. Nhưng các con đã không nghe theo tiếng ta. Sao các con lại làm như vậy chứ?
\s5
\v 3 Và giờ đây ta phán: 'Ta sẽ không đuổi dân Ca-na-an đi trước mặt các con, song họ sẽ như gai góc ở bên hông các con, và thần tượng của chúng sẽ trở thành cái bẫy cho các con".  
\v 4 Khi thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán ra mấy lời nầy cho cả dân sự Y-sơ-ra-ên, dân sự bèn gào lên mà khóc.  
\v 5 Họ đã gọi chỗ đó là Bô-kim. Ở đó họ đã dân các thứ của lễ cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Khi Giô-suê sai dân sự đi, dân Y-sơ-ra-ên mỗi người đi đến chỗ đã phân phát cho, để chiếm lấy quyền làm chủ đất của họ.
\v 7 Dân sự đã phục vụ Đức Giê-hô-va trong suốt đời Giô-suê cùng các trưởng lão sống lâu hơn ông, những người đã nhìn thấy mọi công việc lớn lao của Đức Giê-hô-va Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên.  
\v 8 Giô-suê con trai Nun, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã qua đời lúc được 110 tuổi.
\s5
\v 9 Họ đã chôn ông trong đường biên giới của xứ mà ông đã được phân phát cho tại Thim-nát Hê-re, trong vùng đồi núi của Ép-ra-im, về phía Bắc Núi Ga-ách.  
\v 10 Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về với tổ phụ của họ. Và dòng dõi khác dấy lên sau họ, dòng dõi nầy đã không nhìn biết Đức Giê-hô-va hay những gì Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Người Y-sơ-ra-ên đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và họ đã phục vụ thần Ba-anh.  
\v 12 Họ từ bỏ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập. Họ chạy theo các thần khác, chính các thần của các sắc dân sống ở chung quanh họ, và họ đã sấp mình xuống trước chúng. Họ đã chọc cho Đức Giê-hô-va nổi giận vì 
\v 13 họ đã từ bỏ Đức Giê-hô-va và thờ lạy thần Ba-anh và thần Át-tạt-tê.
\s5
\v 14 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, và Ngài đã phó họ cho những kẻ cướp lột, chúng cướp lấy của cải của họ. Ngài đã bán họ làm nô lệ, họ bị cầm giữ bởi sức mạnh của các kẻ thù ở chung quanh họ, vì vậy họ không còn tự bảo vệ mình chống lại các kẻ thù.  
\v 15 Bất cứ đâu Y-sơ-ra-ên đi ra để đánh trận, tay của Đức Giê-hô-va cự lại họ đánh bại họ, y như Ngài đã thề cùng họ. Và họ đã sống trong hoạn nạn kinh khiếp.
\s5
\v 16 Khi ấy Đức Giê-hô-va mới dấy lên các quan xét, họ giải cứu chúng ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp lột của cải của chúng.
\v 17 Tuy nhiên, họ chẳng chịu nghe theo các quan xét. Họ sống bất trung đối với Đức Giê-hô-va và tự phó mình giống như đĩ điếm cho các thần khác và thờ lạy chúng. Không bao lâu sau đó, họ xây khỏi con đường mà các tổ phụ họ đã sống — những người đã vâng theo các điều răn của Đức Giê-hô-va — song chính bản thân họ đã không làm theo như thế.
\s5
\v 18 Khi Đức Giê-hô-va dấy các quan xét lên để cứu giúp họ, Đức Giê-hô-va đã trợ giúp các quan xét và giải cứu họ ra khỏi quyền lực của kẻ thù trọn đời vị quan xét đã sinh sống. Vì Đức Giê-hô-va có lòng thương hại họ khi họ than khóc vì cớ những kẻ áp bức và làm cho họ khốn khổ.  
\v 19 Nhưng khi quan xét qua đời, họ lại xây đi và làm ra những việc còn đồi bại hơn các tổ phụ họ đã làm. Họ chạy theo các tà thần để phục vụ và thờ lạy chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ bất kỳ cách thực hành gian ác hoặc các đường lối ngoan cố của họ.
\s5
\v 20 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên; Ngài phán: "Vì dân nầy đã phá vỡ các điều khoản trong giao ước mà ta đã đề ra cho các tổ phụ của họ — vì họ không chịu nghe theo tiếng phán của ta —  
\v 21 từ giờ trở đi, ta sẽ không đuổi khỏi chúng bất kỳ dân nào mà Giô-suê đã chừa lại khi qua đời.  
\v 22 Ta sẽ làm điều nầy hầu cho ta sẽ thử dân Y-sơ-ra-ên, họ có giữ theo con đường của Đức Giê-hô-va và bước đi trên đó hay không, giống như tổ phụ chúng đã giữ vậy." 
\v 23 Đấy là lý do tại sao Đức Giê-hô-va đã chừa lại các dân đó và không đuổi chúng ra cách mau chóng, và tại sao Ngài không để cho Giô-suê chinh phục chúng.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Giờ đây, Đức Giê-hô-va đã chừa lại các dân nầy để thử Y-sơ-ra-ên, nghĩa là mỗi người trong Y-sơ-ra-ên, họ chưa có kinh nghiệm bất kỳ cuộc chiến nào đã xảy có trong xứ 
\v 2 (Ngài làm điều nầy để dạy chiến trận cho thế hệ mới dân Y-sơ-ra-ên, những ai chưa biết chiến trận trước đó):  
\v 3 năm vua Phi-li-tin, tất cả dân Ca-na--an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít, chúng sống trong vùng Núi Li-ban, từ Núi Ba-anh Hẹt-môn cho đến cửa Ha-mát.
\s5
\v 4 Các dân nầy bị chừa lại làm phương tiện bởi đó Đức Giê-hô-va sẽ thử dân Y-sơ-ra-ên, để khẳng định họ có vâng theo các điều răn mà Ngài đã ban ra cho các tổ phụ họ qua Môi-se hay không!?!  
\v 5 Vì vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã sống giữa vòng dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.  
\v 6 Các con gái của họ bị chúng bắt làm vợ, và con gái của chúng, chúng gả cho các con trai của chúng, và chúng phục vụ các thần của chúng.
\s5
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm những việc gian ác trước mặt Đức Giê-hô-va và quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Họ thờ lạy thần Ba-anh và thần A-sê-ra.
\v 8 Vì lẽ đó cơn giận của Đức Giê-hô-va đã phừng ra lửa chống lại dân Y-sơ-ra-ên, và Ngài phó họ vào trong tay của Cu-san Ri-sa-tha-im vua của A-ram Na-ha-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên đã phục vụ Cu-san Ri-sa-tha-im trong tám năm.
\s5
\v 9 Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu với Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va mới dấy lên một người đến cứu giúp dân Y-sơ-ra-ên, và sẽ giải cứu họ: Ốt-ni-ên con trai Kê-na (em của Ca-lép).
\v 10 Thánh Linh của Chúa mặc lấy quyền uy cho ông và ông đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên, ông đi ra đánh trận. Đức Giê-hô-va đã ban cho ông thắng hơn Cu-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram. Chính sức mạnh của Ốt-ni-ên mới đánh bại Cu-san Ri-sa-tha-im.
\v 11 Xứ được hòa bình trong bốn nươi năm. Thế rồi Ốt-ni-ên con trai Kê-na qua đời.
\s5
\v 12 Dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa bất tuân với Đức Giê-hô-va bằng cách làm ra những việc gián ác, và Ngài đã nhìn thấy mọi điều họ đã làm. Vì vậy, Đức Giê-hô-va ban sức mạnh cho Éc-lôn vua xứ Mô-áp khi ông ta đến nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, vì Y-sơ-ra-ên đã làm nhiều việc gian ác, và Đức Giê-hô-va đã nhìn thấy mọi điều đó.  
\v 13 Éc-lôn đã hiệp với dân Am-môn, dân A-ma-léc và họ ra trận đánh bại dân Y-sơ-ra-ên, rồi họ chiếm lấy thành Cây Chà Là làm của cải.  
\v 14 Dân Y-sơ-ra-ên đã phục vụ Éc-lôn vua dân Mô-áp trong mười tám năm.
\s5
\v 15 Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu với Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va mới dấy lên một người sẽ cứu giúp họ, Ê-hút con trai Ghê-ra, một người Bên-gia-min, là người thuận tay trái. Dân Y-sơ-ra-ên sai người, với cống phẩm của họ, nộp cho Éc-lôn vua dân Mô-áp.
\s5
\v 16 Ê-hút làm cho mình một thanh gươm có hai lưỡi, dài 45cm27; ông đeo trong mình áo nơi háng bên phải.  
\v 17 Ông nộp cống phẩm cho Vua Éc-lôn dân Mô-áp. (Bấy giờ Éc-lôn là một người rất mập).  
\v 18 Sau khi Ê-hút trình dâng cống phẩm xong, ông ra về với những người khiêng gánh cống phẩm đó.
\s5
\v 19 Tuy nhiên, một mình Ê-hút, khi ông đến chỗ các hình tượng chạm khắc được làm ra ở gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại, ông nói: "Tôi có một sứ điệp kín dành cho ông, hỡi vua của tôi". Éc-lôn nói: "Im đi!". Vì vậy hết thảy mọi người phục vụ ông đều rời khỏi cung điện.  
\v 20 Ê-hút đến gần. Nhà vua đang ngồi trên đó một mình trong chỗ mát rượi của phòng cao. Ê-hút nói: "Tôi có một sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời dành cho ông". Nhà vua chỗi dậy trên ngai của mình.
\s5
\v 21 Ê-hút chìa tay trái mình ra rút lấy gươm hơn háng bên phải, rồi ông đâm thẳng vào thân của nhà vua.  
\v 22 Và cán gươm cũng lao thẳng theo lưỡi gươm, mũi gươm ra thẳng phía sau lưng, và mở ôm lấy lưỡi gươm, vì Ê-hút không rút lưỡi gươm ra khỏi thân thể ông ta.
\v 23 Khi ấy Ê-hút bước ra ngoài hiên cửa, ông khép hai cánh cửa phòng cao ấy rồi khóa chúng lại.
\s5
\v 24 Sau khi Ê-hút đi rồi, các tôi tớ của vua bước vào; họ nhìn thấy hai cánh cửa của phòng cao đã bị khóa, họ bèn suy nghĩ: "Chắc Ngài đang nghỉ ngơi trong chỗ mát mẻ của phòng cao".  
\v 25 Họ càng quan tâm hơn nữa, cho đến khi họ sợ bổn phận của họ bị trễ nãi khi nhà vua vẫn chưa chịu mở cửa phòng cao đó. Vì vậy, họ lấy chìa khóa mở cửa ra, và chủ của họ đang nằm dài chết ở đó trên sàn nhà.
\s5
\v 26 Trong khi các tôi tớ đang chờ đợi, họ lấy làm lạ không biết phải làm gì, Ê-hút đã thoát ngang qua bên kia chỗ các hình tượng được chạm khắc, và thế là ông thoát khỏi Sê-ri-a.  
\v 27 Khi ông về đến, ông thổi kẻn lên trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Thế là dân Y-sơ-ra-ên từ đồi núi đi xuống với ông, và ông lãnh đạo họ.
\s5
\v 28 Ông nói với họ: "Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va sắp- sửa đánh bại kẻ thù của các anh em, là dân Mô-áp". Họ đi theo ông và họ chiếm lấy các đồn lũy của sông Giô-đanh đối ngang Mô-áp, và họ không cho phép bất kỳ ai băng qua dòng sông.  
\v 29 Lúc bấy giờ, họ giết khoảng mười ngàn người Mô-áp, và thảy đều là người có sức lực và có khả năng. Không một người nào trốn thoát.  
\v 30 Cho nên, trong ngày ấy Mô-áp bị bắt phục bởi sức mạnh của dân Y-sơ-ra-ên. Và xứ yên nghỉ trong tám mươi năm.
\s5
\v 31 Sau Ê-hút, vị quan xét kế đó là Sam-ga con trai của A-nát, là người giết 600 người Phi-li-tin với cây đót dùng để thúc trâu bò. Ông cũng giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nguy hiểm.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Sau khi Ê-hút qua đời, dân Y-sơ-ra-ên đã bất tuân Đức Giê-hô-va một lần nữa, bằng cách làm nhiều việc gian ác, và Ngài đã nhìn thấy việc họ đã làm.  
\v 2 Đức Giê-hô-va phó họ cho quyền của Gia-bin vua dân Ca-na-an, ông nầy cai trị ở Hát-so. Viên chỉ huy quân đội của ông ta có tên là Si-sê-ra, và ông ta sống ở Ha-rô-sết thuộc về các dân Ngoại.  
\v 3 Dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va xin cứu khổ, vì Si-sê-ra có chín trăm xe sắt và hắn áp bức dân Y-sơ-ra-ên với sức mạnh trong hai mươi năm.
\s5
\v 4 Bấy giờ Đê-bô-ra, một nữ tiên tri (vợ của Láp-bi-đốt), là một quan xét lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên khi đó.  
\v 5 Bà thường ngồi dưới cây chà là của Đê-bô-ra giữa Ra-ma và Bê-tên trong vùng đồi núi Ép-ra-im, và dân Y-sơ-ra-ên đã đến với bà để ổn định mọi tranh chấp của họ.
\s5
\v 6 Bà sai tìm Ba-rác con trai của A-bi-nô-am từ Kê-đe trong Nép-ta-li. Bà nói với ông: "Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, truyền cho ông: 'Hãy đi lên Núi Tha-bô, và đem theo với ông mười ngàn người từ chi phái Nép-ta-li và Sa-bu-lôn.  
\v 7 Ta sẽ khiến Si-sê-ra, viên chỉ huy quân đội của Gia-bin, đi ra gặp con bên dòng sông Ki-sôn, với xe và binh lính của hắn, và ta sẽ ban cho con thắng hơn hắn".
\s5
\v 8 Ba-rác nói với bà: "Nếu bà cùng đi với tôi, tôi sẽ đi, song nếu bà không đi cùng tôi, tôi sẽ không đi đâu".  
\v 9 Bà nói: "Chắc chắn tôi sẽ đi cùng ông. Tuy nhiên, con đường ông đang đi trên đó sẽ không dẫn tới vinh quang cho ông, vì Đức Giê-hô-va sẽ khiến một người đàn bà đánh bại Si-sê-ra bằng sức lực của bà ấy". Thế rồi Đê-bô-ra chỗi dậy và đi với Ba-rác đến Kê-đe.
\s5
\v 10 Ba-rác kêu gọi người Sa-bu-lôn và Nép-ta-li cùng nhau đến tại Kê-đe. Mười ngàn người đi theo ông, và Đê-bô-ra đã cùng đi với ông.
\s5
\v 11 Bấy giờ Hê-be (dân Kê-nít) tự biệt mình riêng ra với dân Kê-nít — họ là dòng dõi của Hô-báp (cha vợ của Môi-se) — và ông ta đóng trại mình bên cây sồi ở Sa-na-im gần Kê-đe.
\s5
\v 12 Khi họ nói cho Si-sê-ra hay rằng Ba-rác con trai của A-bi-nô-am đã đi lên Núi Tha-bô,  
\v 13 Si-sê-ra truyền cho mọi xe cộ của ông ta, chín trăm xe bằng sắt, và hết thảy binh lính nào đã có mặt cùng với ông ta, từ Ha-rô-sết thuộc dân Ngoại đến sông Ki-sôn.
\s5
\v 14 Đê-bô-ra nói với Ba-rác: "Đi nào! Vì đây là ngày mà Đức Giê-hô-va đã khiến cho ông thắng hơn Si-sê-ra. Có phải Đức Giê-hô-va không hướng dẫn ông sao?" Vậy, Ba-rác đi xuống từ Núi Tha-bô với mười ngàn người theo sau ông.
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va khiến cho quân đội của Si-sê-ra lẫn lộn, hết thảy xe cộ, và toàn bộ quân đội của ông ta, và người của Ba-rác tấn công chúng, và Si-sê-ra xuống khỏi xe cộ mình và chạy bộ.  
\v 16 Nhưng Ba-rác truy đuổi theo các xe cộ đó và quân đội cho đến Ha-rô-sết thuộc dân Ngoại, và toàn bộ quân đội của Si-sê-ra bị giết bởi lưỡi gươm, và không một người nào sống sót.
\s5
\v 17 Nhưng Si-sê-ra chạy bộ đến trại của Gia-ên, vợ của Hê-be người Kê-nít, vì đã có hòa bình giữa Gia-bin vua của Hát-so, và nhà Hê-be người Kê-nít.  
\v 18 Gia-ên đi ra gặp Si-sê-ra và nói cùng ông: "Hỡi chủ của tôi, hãy qua đây; hãy qua đây với tôi và đừng sợ nữa". Vì vậy, ông ta đã qua đó rồi vào trong trại của bà ta, và bà ta đắp mền lên người ông ta.
\s5
\v 19 Ông ta nói với bà rằng: "Làm ơn cho tôi uống chút nước, vì tôi khát". Bà mở cáu túi bằng da đựng sữa trao cho ông ta uống, kế đó bà đắp mền lại cho ông ta.  
\v 20 Ông ta nói như sau: "Hãy ra đứng nơi cửa trại. Nếu có ai đến và hỏi bà: 'Có ai ở đây không?' hãy đáp: 'không'".
\s5
\v 21 Khi ấy Gia-ên (vợ của Hê-be) lấy cây nọc trại và cây búa cầm nơi tay rồi kín đáo đền gần ông ta, vì ông ta ngủ say lắm, và bà đóng cây nọc trại vài màng tang ông ta, nó đâm thủng đầu ông ta rồi găm xuống đất. Thế là ông ta chết đi.  
\v 22 Khi Ba-rác đuổi theo Si-sê-ra, Gia-ên đi ra gặp ông rồi nói với ông rằng: "Hãy đến, tôi sẽ chỉ cho ông thấy người mà ông đang truy tìm". Ông đi theo bà ấy, và ở đó Si-sê-ra đang nằm gục chết, với cây nọc trại găm bên màng tang đầu ông ta.
\s5
\v 23 Vậy, trong ngày đó Đức Chúa Trời đã đánh bại Gia-bin vua dân Ca-na-an trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 24 Sức mạnh của dân Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh mẽ hơn chống lại Gia-bin vua dân Ca-na-an, cho đến khi họ đã tiêu diệt ông ta.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Trong ngày đó Đê-bô-ra và Ba-rác con trai của A-bi-nô-am đã hát bài ca nầy:
\v 2 "Khi cấp lãnh đạo nắm lấy quyền lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên,  khi dân sự vui vẻ tình nguyện bước vào chiến trận — chúng ta hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 3 Hãy lắng nghe, hỡi các vua! Hãy chú ý, hỡi các cấp lãnh đạo!  Ta, ta sẽ hát cho Đức Giê-hô-va;  Ta sẽ ngợi khen Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.  
\v 4 Hỡi Đức Giê-hô-va, khi Ngài ra từ Sê-i-rơ, khi Ngài diễu hành từ Ê-đôm,  đất bèn lay động, và bầu trời cũng run rẩy;  các đám mây cũng đổ nước ra.
\s5
\v 5 Các núi rúng động trước mặt Đức Giê-hô-va;  ngay cả Núi Sinai đã rúng động trước mặt của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.  
\v 6 Trong thời buổi của Sam-ga (con trai của A-nát), trong thời của Gia-ên, các con đường chính đều bị bỏ hoang,  và người nào đi bộ chỉ sử dụng các lối quanh quẹo.
\s5
\v 7 Không có một người cày cấy nào trong Y-sơ-ra-ên,  cho tới chừng Ta, Đê-bô-ra, nắm lấy quyền hành — một người làm mẹ nắm lấy quyền hành trong Y-sơ-ra-ên!  
\v 8 Họ đã chọn các thần mới,  và đã có đánh trận tại các cổng thành; cũng không thấy gươm giáo giữa vòng bốn mươi ngàn người trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 9 Tấm lòng ta cùng đi ra với các tướng lãnh của Y-sơ-ra-ên,  cùng với những người vui vẻ tình nguyện — chúng ta hãy cầu phước Đức Giê-hô-va cho họ!  
\v 10 Hãy suy nghĩ về việc nầy — các người là người cỡi trên lưng lừa bạch, ngồi trên thảm, và các người là người đi đường.
\s5
\v 11 Hãy nghe tiếng của những kẻ đứng chia bầy chiên ra giữa những nơi uống nước được.  Ở đó họ làm chứng lại về những việc công bình của Đức Giê-hô-va,  và các hành động công bình của lính chiến Ngài trong Y-sơ-ra-ên.  Khi ấy dân sự của Đức Giê-hô-va bèn đi xuống các cổng thành.
\s5
\v 12 Hãy tỉnh thức, hãy tỉnh thức, hỡi Đê-bô-ra!  Hãy tỉnh thức, tỉnh thức, hãy hát một bài ca!  Hỡi Ba-rác, hãy chỗi dậy, và bắt lấy những kẻ phu tù đi, hỡi người là con trai của A-bi-nô-am.  
\v 13 Khi ấy, những kẻ còn sống sót đi xuống với những người giàu có — dân sự của Đức Giê-hô-va đi xuống với ta giữa vòng các chiến binh.
\s5
\v 14 Họ đã đến từ Ép-ra-im, gốc gác của họ là trong xứ A-ma-léc;  người Bên-gia-min thì đi theo họ.  Từ Ma-ki các tướng lãnh đi xuống,  và từ Sa-bu-lôn những kẻ cầm cây trượng của cấp chỉ huy.
\s5
\v 15 Và các quan trưởng trong Y-sa-ca đã ở với Đê-bô-ra;  và Y-sa-ca đã ở với Ba-rác xông xáo theo sau người vào trong đồng bằng dưới quyền chỉ huy của người.  Giữa vòng họ hàng Ru-bên đã có nhiều nghị luận trong lòng.
\s5
\v 16 Sao các người ngồi bên lò sưởi,  lắng nghe những người chăn bầy đã thổi sáo gọi bầy chiên của họ?  Giống như các họ hàng của Ru-bên đã có nhiều nghị luận trong lòng.
\s5
\v 17 Ga-la-át còn ở bên kia sông Giô-đanh;  còn Đan, sao người cứ đi quanh mấy con tàu? A-se ở lại bên mé biển và sống gần với các cảng của mình.  
\v 18 Sa-bu-lôn là một chi phái dám liều mạng mình cho tới chết,  và Nép-ta-li cũng còn ở trong bãi chiến trường.
\s5
\v 19 Các vua đã đến và tham chiến,  khi ấy các vua Ca-na-an đã tham chiến, ở Tha-a-nát bên dòng sông Mê-ghi-đô.  Nhưng họ không xem bạc là chiến lợi phẩm.  
\v 20 Từ trời các ngôi sao đã tham chiến, từ các con đường dọc ngang trên các từng trời, chúng đánh trận chống lại Si-sê-ra.
\s5
\v 21 Sông Ki-sôn đã kéo trôi chúng nó,  dòng sông xưa ấy, Sông Ki-sôn.  Hỡi linh hồn ta, hãy mạnh mẽ mà đi diễu hành!  
\v 22 Khi ấy tiếng vó ngựa — phi nước đại, những ngựa chiến đang phi nước đại.
\s5
\v 23 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán: 'Hãy rủa sả Mê-rô!' 'Hãy rủa sả cư dân nó! — vì chúng không đến để trợ giúp Đức Giê-hô-va — để giúp Đức Giê-hô-va trong trận chiến chống lại các chiến binh mạnh sức'.
\s5
\v 24 Gia-ên được phước nhiều hơn hết mọi người nữ khác,  Gia-ên (vợ của Hê-be người Kê-nít),  bà được phước nhiều hơn hết thảy những người nữ nào đang sống trong lều trại.  
\v 25 Gã kia xin nước uống, và bà trao sữa cho hắn; bà đem cho hắn bơ đựng trong đĩa mà các vương tử dùng.
\s5
\v 26 Bà cầm trong tay cây nọc trại,  và tay phải bà cầm cây búa của người thợ;  với cây búa bà đánh Si-sê-ra, bà chà nát đầu của hắn.  Bà bửa sọ hắn ra thành nhiều mảnh khi bà đâm thũng qua màng tang của đầu hắn.
\v 27 Hắn gục xuống dưới chân bà, hắn ngã xuống rồi nằm sải ở đó.  Giữa hai chân của bà hắn lả đi.  Chỗ hắn ngã xuống là nơi hắn bị giết hại dữ dội.
\s5
\v 28 Bà nhìn qua khung cửa sổ — mẹ của Si-sê-ra nhìn qua khung cửa lưới rồi kêu la trong buồn thảm:  'Sao xe cộ nó lâu đến đây thế?  Sao móng của những con ngựa kéo xe cộ lại bị trì hoãn?'
\s5
\v 29 Mấy cô con gái khôn khéo nhất của bà ta đáp:  và chính bà ta cũng đưa ra cùng một câu trả lời:  
\v 30 'Phải chăng họ không tìm đặng và phân chia chiến lợi phẩm ư?  — Một tử cung, hai tử cung cho mỗi người;  chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm dành cho Si-sê-ra,  chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm thêu,  hai mảnh vải nhuộm thêu cho cổ của người thắng trận?'
\s5
\v 31 Vì vậy, nguyện hết thảy kẻ thù nghịch của con bị hư mất đi, hỡi Đức Giê-hô-va ôi!  Nhưng nguyện những ai yêu mến Ngài sẽ như mặt trời khi nó mọc lên trong sức mạnh của nó".  Và xứ được hòa bình trong bốn mươi năm.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Người Y-sơ-ra-ên đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và Ngài đặt họ dưới quyền kiểm soát của dân Ma-đi-an trong bảy năm.  
\v 2 Quyền lực của dân Ma-đi-an đã áp bức dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ dân Ma-đi-an, người Y-sơ-ra-ên đã lập những nơi ẩn náu cho họ từ các hang động trong vùng đồi núi, hang hầm, và đồn lũy.
\s5
\v 3 Chuyện xảy ra, bất kỳ lúc nào dân Y-sơ-ra-ên gieo trồng mùa màng của họ, người Ma-đi-an và dân A-ma-léc cùng những người từ phương Đông đến tấn công dân Y-sơ-ra-ên.  
\v 4 Chúng đóng quân trên đất của họ và tận diệt mùa màng, khắp cả xứ Ga-xa. Họ chẳng để lương thực lại trong Y-sơ-ra-ên, và chẳng có chiên, bò hay lừa chi hết.
\s5
\v 5 Bất cứ khi nào họ và bầy gia súc cùng lều trại của họ dựng lên, chúng sẽ loán đến như một bầy cào cào, và người ta cùng lạc đà vô số. Chúng vây hãm xứ để tận diệt nó.  
\v 6 Dân Ma-đi-an làm suy yếu người Y-sơ-ra-ên thê thảm đến nỗi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va vì cớ người Ma-đi-an,  
\v 8 Đức Giê-hô-va sai một đấng tiên tri đến với dân Y-sơ-ra-ên. Vị tiên tri nói với họ: "Đây là những gì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dạy: 'Ta đã đem các con ra khỏi xứ Ai-cập; Ta đã đem các con ra khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 9 Ta đã cứu các con ra khỏi quyền lực của người Ai-cập, và khỏi quyền lực của các dân hay lấn lướt các con. Ta đuổi chúng trước mặt các con, và ta đã ban xứ của chúng cho các con.  
\v 10 Ta phán cùng các con: "Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con; Ta đã truyền cho các con đừng thờ lạy các thần của dân A-mô-rít, các con đang sống trong đất của họ". Nhưng các con đã không tuân theo tiếng phán của ta.'"
\s5
\v 11 Giờ đây thiên sứ của Đức Giê-hô-va đã đến và ngồi dưới cây sồi ở Óp-ra, nơi thuộc về Giô-ách (người A-bi Ê-xê-rít), trong khi Ghê-đê-ôn, con trai Giô-ách, đang đập lúa trên bàn ép nho — để giấu lúa khỏi người Ma-đi-an.  
\v 12 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng ông và phán với ông: "Đức Giê-hô-va ở cùng con, hỡi con, chiến binh mạnh sức!"
\s5
\v 13 Ghê-đê-ôn thưa cùng Ngài: "Ôi Chúa ôi, nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng con, sao mọi sự nầy lại xảy đến cho chúng con? Mọi việc làm kỳ diệu mà tổ phụ chúng con kể lại cho chúng con nghe đang ở đâu, khi họ nói: 'Há Đức Giê-hô-va không đem chúng ta ra khỏi Ai-cập sao?' Song giờ đây Đức Giê-hô-va đã từ bỏ chúng con và phó chúng con vào quyền lực của dân Ma-đi-an".
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va nhìn thẳng vào ông rồi phán: "Hãy đi với sức lực con đang có. Hãy giải phóng Y-sơ-ra-ên ra khỏi quyền lực của dân Ma-đi-an. Há ta không có sai con sao?"
\v 15 Ghê-đê-ôn thưa với Ngài rằng: "Lạy Chúa, con sẽ giải phóng dân Y-sơ-ra-ên bằng cách nào đây? Hãy xem, gia đình con là yếu kém nhất trong họ Ma-na-se, và con là nhỏ hơn hết trong nhà cha của con".
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng người: "Ta sẽ ở với con, và con sẽ đánh bại toàn bộ quân đội Ma-đi-an".  
\v 17 Ghê-đê-ôn thưa rằng: "Nếu Ngài đẹp lòng với con, thế thì hãy ban cho con một dấu cho thấy rằng chính Ngài là Đấng đang phán cùng con.  
\v 18 Xin làm ơn, đừng rời khỏi đây, cho đến khi con đến với Ngài và bày ra của lễ và đặt nó trước mặt Ngài". Đức Giê-hô-va phán: "Ta sẽ đợi cho đến khi con trở lại".
\s5
\v 19 Ghê-đê-ôn bèn đi, sửa soạn một con dê con và một ê-pha bột, ông làm bánh không men. Ông đặt thịt trong một cái rổ, và ông đổ nước thịt vào nồi rồi đem chúng đến dưới cây sồi, và bày chúng ra.  
\v 20 Thiên sứ của Đức Chúa Trời phán cùng ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt chúng lên hòn đá nầy, rồi đổ nước thịt trên chúng". Ghê-đê-ôn bèn làm theo y như thế.
\s5
\v 21 Khi ấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va cầm lấy đầu cây trượng trong tay mình. Với cây trượng đó Ngài chạm đến thịt và bánh không men; một ngọn lửa bốc lên từ hòn đá, thiêu đốt thịt và bánh không men. Khi ấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va biến đi và Ghê-đê-ôn không còn nhìn thấy Ngài nữa.
\s5
\v 22 Ghê-đê-ôn hiểu rõ rằng đây là thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Ghê-đê-ôn nói: "Ôi Chúa Giê-hô-va! Vì con đã thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va mặt đối mặt!" 
\v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng người: "Bình an cho con! Đừng sợ hãi, con sẽ chẳng chết đâu".  
\v 24 Thế là Ghê-đê-ôn xây một bàn thờ ở đó cho Đức Giê-hô-va. Ông gọi bàn thờ đó: Đức Giê-hô-va là Sự Bình An. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn đứng tại Óp-ra thuộc người A-bi Ê-xê-rít.
\s5
\v 25 Đêm đó Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy bắt con bò đực của cha của con, và con bò thứ nhì bảy tuổi, và phá dỡ bàn thờ của Ba-anh thuộc về cha của con, rồi đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở bên cạnh đó.  
\v 26 Hãy dựng một bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con trên nóc của nơi ẩn náu nầy, rồi xây nó theo một hướng đúng đắn. Hãy dâng con bò đực thứ nhì làm của lễ thiêu, sử dụng gỗ từ hình tượng A-sê-ra mà con mới hạ xuống đó."
\s5
\v 27 Thế là Ghê-đê-ôn chọn lấy mười người trong các tôi tớ mình và làm theo y như Đức Giê-hô-va đã phán với ông. Nhưng vì ông quá sợ hãi đối với nhà cha mình cùng người ở trong thành nên không làm việc ấy lúc ban ngày, ông đã làm việc ấy lúc ban đêm.
\s5
\v 28 Đến sáng, khi người trong thành thức giấc, bàn thờ của Ba-anh đã bị đập vỡ, và tượng A-sê-ra ở bên cạnh đã bị đốn hạ, và con bò thứ nhì đã được dâng lên trên bàn thờ đã được dựng lên.  
\v 29 Người trong thành nói với nhau: "Ai đã làm việc nầy?" Khi họ nói với nhiều người khác nữa và tìm câu trả lời, họ nói: "Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách đã làm việc nầy".
\s5
\v 30 Khi ấy người trong thành nói với Giô-ách: "Hãy đem con trai của ông ra hầu cho nó sẽ bị tử hình, vì nó phá dỡ bàn thờ của Ba-anh, và vì nó đánh hạ hình tượng A-sê-ra bên cạnh đó".
\s5
\v 31 Giô-ách nói với mọi người chống đối ông: "Các người binh vực cho Ba-anh sao? Các người sẽ cứu hắn sao? Hễ ai binh vực hắn, nguyện kẻ ấy chết đi trong khi trời hãy còn sáng. Nếu Ba-anh là thần, hãy để cho hắn tự đối nại khi có ai đó giật đổ bàn thờ của hắn".  
\v 32 Vì lẽ đó, vào ngày ấy Ghê-đê-ôn được người ta đặt cho danh xưng: "Giê-ru Ba-anh", vì ông có nói: "Hãy để cho Ba-anh tự đối nại với những ai nghịch cùng mình", vì Ghê-đê-ôn đã đánh hạ bàn thờ của hắn.
\s5
\v 33 Bấy giờ hết thảy người Ma-đi-an, dân A-ma-léc, cùng những người ở phương Đông nhóm lại với nhau. Họ băng qua sông Giô-đanh rồi đóng trại trong đồng bằng Gít-rê-ên.
\s5
\v 34 Nhưng Thánh Linh của Đức Giê-hô-va bao phủ lấy Ghê-đê-ôn để trợ giúp cho ông. Ghê-đê-ôn thổi kèn, kêu gọi người A-bi Ê-xê-rít, họ chịu theo sau người.
\v 35 Ông sai sứ giả đi khắp Ma-na-se, và họ cũng được kêu gọi đi theo ông. Ông cũng sai sứ giả đến với A-se, Sa-bu-lôn, và Nép-ta-li, và họ đi lên để gặp ông.
\s5
\v 36 Ghê-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời: "Nếu Ngài muốn dùng con để giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Ngài đã phán —
\v 37 Hãy xem, con đặt một lốt chiên trên sàn sân đạp lúa. Nếu có sương duy nhứt đóng trên lốt chiên, và đất thì khô ráo, khi ấy con sẽ nhìn biết Ngài sẽ sử dụng con để giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Ngài đã phán".
\s5
\v 38 Đây là điều đã xảy ra — Ghê-đê-ôn dậy sớm sáng hôm sau, ông vắt lốt chiên, thì sương chảy ra đầy một chén nước.
\s5
\v 39 Thế rồi Ghê-đê-ôn thưa cùng Đức Chúa Trời: "Đừng nổi giận với con, con muốn nói thêm một lần nữa. Làm ơn cho con được phép sử dụng lốt chiên một lần nữa. Lần nầy lốt chiên thì khô ráo, và nguyện sương chỉ đóng trên đất ở xung quanh nó mà thôi".  
\v 40 Đức Chúa Trời đã làm những gì ông xin trong đêm ấy. Lốt chiên thì khô, và có sương đóng trên đất ở chung quanh nó.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Khi ấy Giê-ru Ba-anh (nghĩa là, Ghê-đê-ôn) dậy sớm, và cả dân sự cùng dậy sớm với người và họ đóng trại bên cạnh suối Ha-rốt. Trại quân của dân Ma-đi-an nằm ở phía Bắc của họ trong đồng bằng gần núi Mô-rê.
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Có nhiều binh lính quá đến nỗi ta không ban cho các con thắng hơn dân Ma-đi-an. Phải biết chắc rằng Y-sơ-ra-ên sẽ không khoe ngược đối với ta rằng: 'Sức mạnh của chúng ta đã cứu chúng ta'.  
\v 3 Vì vậy, hãy công bố trong lỗ tai của dân sự như vầy: 'Hễ ai sợ, hễ ai run, người đó hãy trở về và rời khỏi Núi Ga-la-át'". Vì vậy, 22. 000 người trở lui, và còn lại 10. 000 người.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Binh lính hãy còn quá đông. Hãy đưa họ xuống sông, và Ta sẽ giảm số lượng họ xuống thay cho con. Nếu ta bảo con: 'Người nầy sẽ đi với con', người sẽ đi với con; nhưng nếu ta bảo: 'Người nầy sẽ không đi với con', người ấy sẽ không đi".
\s5
\v 5 Vì vậy, Ghê-đê-ôn đưa dân sự xuống sông, và Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy biệt riêng kẻ nào hớp nước, giống như con chó hớp, ra khỏi những kẻ quì gối xuống mà uống nước".
\v 6 Ba trăm người đã hớp nước. Phần còn lại dân sự quì gối xuống uống nước.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Với ba trăm người hớp nước kia, Ta sẽ giải cứu các con và ban cho các con thắng hơn dân Ma-đi-an. Còn mỗi người khác hãy quay trở lại chốn của họ".  
\v 8 Vậy, người nào đã được chọn cầm lấy lương thực và kèn của họ. Ghê-đê-ôn cho mọi người Y-sơ-ra-ên trở về, ai về trại nấy, nhưng ông giữ lại ba trăm người. Bấy giờ trại quân Ma-đi-an đóng ở dưới thấp trong đồng bằng.
\s5
\v 9 Chính đêm ấy Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy chỗi dậy! Hãy tấn công trại quân đó, vì ta sẽ ban cho con thắng hơn nó.  
\v 10 Nhưng nếu con sợ không đi xuống, hãy đi xuống đó với Phu-ra tôi tớ của con,  
\v 11 và hãy lắng nghe những điều chúng nói, và lòng can đảm của con sẽ được mạnh mẽ để tấn công trại quân đó". Vậy Ghê-đê-ôn cùng đi với Phu-ra tôi tới người, xuống điếm canh của trại quân ấy.
\s5
\v 12 Dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và hết thảy dân phương Đông đóng dọc theo đồng bằng, dày đặc như đám mây cào cào vậy. Lạc đà của chúng không thể đếm đặng; chúng còn đông hơn cát trên bờ biển.
\s5
\v 13 Khi Ghê-đê-ôn đến đó, gã kia đang thuật lại điềm chiêm bao cho đồng đội mình nghe. Gã nói: "Kìa! Ta có điềm chiêm bao, và ta đã thấy một cái bánh lúa mạch hình tròn lăn vào trong trại quân Ma-đi-an. Nó lăn đụng đến trại, làm cho trại phải ngã xuống làm đảo lộn cả trại, hầu cho trại thành ra bình địa".  
\v 14 Gã kia nói: "Điều nầy chẳng khác gì gươm của Ghê-đê-ôn (con trai Giô-ách), dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã ban cho hắn thắng hơn dân Ma-đi-an cùng cả quân đội của họ."
\s5
\v 15 Khi Ghê-đê-ôn nghe kể lại điềm chiêm bao và cách lý giải nó, ông sấp mình xuống mà cầu nguyện. Ông trở về trại quân của Y-sơ-ra-ên rồi truyền lịnh: "Hãy chỗi dậy! Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em thắng hơn quân đội của dân Ma-đi-an".  
\v 16 Ông chia ba trăm người thành ba nhóm, và ông cung cấp kèn và bình không cho họ, với đuốc ở bên trong bình.
\s5
\v 17 Ông nói với họ: "Hãy nhìn xem ta và làm theo điều ta làm. Hãy xem! Khi ta đến rìa trại quân, anh em phải làm theo điều ta làm.  
\v 18 Khi ta thổi kèn, ta và hết thảy những ai ở với ta, khi ấy cũng hãy thổi kèn lên từng phía của cả trại quân rồi hô lên: 'Vì Đức Giê-hô-va và vì Ghê-đê-ôn!'"
\s5
\v 19 Vậy Ghê-đê-ôn và mấy trăm người ở với ông đi đến rìa trại quân, ngay lúc bắt đầu canh nửa đêm. Giống như dân Ma-đi-an đang đổi gát, họ thổi kèn và đập vỡ những cái bình đang cầm trong tay họ.
\s5
\v 20 Ba đội quân thổi kèn và đập vỡ bình. Họ cầm đuốc bằng tay trái và kèn nơi tay phải để thổi. Họ hô to lên: "Gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn".  
\v 21 Mỗi người đứng tại chỗ của mình quanh trại quân còn toàn bộ quân Ma-đi-an thì bỏ chạy. Chúng la hét rồi chạy đi tứ tán.
\s5
\v 22 Khi họ thổi ba trăm cây kèn, Đức Giê-hô-va giơ gươm của từng người lính Ma-đi-an đánh lại đồng đội của họ và chống lại cả quân đội họ. Quân đội trốn đi thật xa đến tận Bết Si-ta hướng Xê-xê-ra, xa đến biên giới của A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát.  
\v 23 Người Y-sơ-ra-ên tụ tập lại từ Nép-ta-li, A-se, và cả thảy Ma-na-se, và họ đuổi theo dân Ma-đi-an.
\s5
\v 24 Ghê-đê-ôn sai sứ đi khắp vùng đồi núi của Ép-ra-im mà rằng: "Hãy đi xuống chống lại dân Ma-đi-an và kiểm soát Sông Giô-đanh, cho đến tận Bết Ba-ra, để ngăn chặn chúng". Vậy, hết thảy người Ép-ra-im tụ tập lại và kiểm soát dòng sông, xa đến tận Bết Ba-ra và sông Giô-đanh.  
\v 25 Họ bắt hai quan trưởng dân Ma-đi-an, Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp tại hòn đá Ô-rếp, và họ giết Xê-ép tại bàn ép nho Xê-ép. Họ đuổi theo dân Ma-đi-an, và họ đem hai cái đầu của Ô-rếp và Xê-ép cho Ghê-đê-ôn, ông đang ở bên kia sông Giô-đanh.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Người Ép-ra-im nói với Ghê-đê-ôn: "Sao ông làm việc nầy với chúng tôi chứ? Ông không kêu gọi chúng tôi khi ông ra trận chống lại dân Ma-đi-an". Và họ tranh luận dữ dội với ông.
\s5
\v 2 Ông nói với họ: "Giờ đây, những gì tôi đã làm có sánh được với anh em sao? Có phải nho mót ở Ép-ra-im còn tốt hơn mùa hái nho trong A-bi Ê-xe?  
\v 3 Đức Chúa Trời đã ban cho anh em thắng hơn các quan trưởng của dân Ma-đi-an — Ô-rếp và Xê-ép! Những gì tôi đạt được há có sánh bằng anh em đâu?" Cơn giận của họ đối với ông dịu lại khi ông nói với họ như thế.
\s5
\v 4 Ghê-đê-ôn đến tại sông Giô-đanh rồi băng qua nó, ông và ba trăm người đã ở với ông. Họ đã kiệt sức, tuy nhiên họ vẫn giữ cuộc truy kích.  
\v 5 Ông nói với người ở Su-cốt: "Làm ơn cung cấp bánh cho những người theo tôi, vì họ kiệt sức rồi, vì tôi đang truy kích Xê-bách và Xanh-mu-na, hai vua của dân Ma-đi-an".
\s5
\v 6 Các lãnh đạo của Su-cốt nói: "Ông đã thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na chưa? Chúng tôi không biết lý do tại sao chúng tôi phải cung cấp bánh cho quân đội của ông".  
\v 7 Ghê-đê-ôn nói: "Khi Đức Giê-hô-va đã ban cho chúng tôi thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na, tôi sẽ làm tét thịt anh em với gai góc trong đồng vắng".
\s5
\v 8 Ông đi lên từ đó đến Phê-nu-ên rồi nói với dân sự ở theo cùng một cách ấy, nhưng người của Phê-nu-ên đáp cùng ông y như người ở Su-cốt đã đáp vậy.  
\v 9 Ông cũng nói với người ở Phê-nu-ên như sau: "Khi ta bình an trở lại, ta sẽ giật sập cái tháp nầy".
\s5
\v 10 Bấy giờ, Xê-bách và Xanh-mu-na đã đến tại Cạt-cô, với quân đội họ, khoảng 15. 000 người, bấy nhiêu người còn lại từ cả đạo quân của người phương Đông. Vì đã có 120. 000 binh lính thuần thục đã bị gươm giết.
\s5
\v 11 Ghê-đê-ôn đi lên đến trại quân kẻ thù bằng cách đi dọc theo con đường Nô-mát, ngang qua Nô-bách và Giô-hê-ba. Ông đã đánh bại quân kẻ thù, vì họ không ngờ họ bị tấn công.  
\v 12 Xê-bách và Xanh-mu-na chạy trốn, và khi Ghê-đê-ôn truy kích chúng, ông bắt được hai vua dân Ma-đi-an — Xê-bách và Xanh-mu-na — và khiến cả đạo quân rơi vào chỗ hoảng loạn.
\s5
\v 13 Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách trở về từ chiến trường đi ngang qua Hê-re.  
\v 14 Ông gặp một thanh niên dân Su-cốt và hỏi han nó. Thanh niên nầy mô tả cho ông biết cấp lãnh đạo của Su-cốt cùng các trưởng lão ở đó, bảy mươi bảy người.
\s5
\v 15 Ghê-đê-ôn đến với người Su-cốt rồi nói: "Hãy nhìn xem Xê-bách và Xanh-mu-na, anh em đã chế nhạo ta về chúng mà nói: 'Há ông đã thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na chưa? Chúng tôi chẳng biết lý do gì để chúng tôi cung cấp bánh cho quân đội của ông'" 
\v 16 Ghê-đê-ôn bắt lấy các trưởng lão của thành đó, và ông đánh phạt người thành Su-cốt bằng gai góc trong sa mạc.  
\v 17 Và ông giật sập tháp Phê-nu-ên rồi giết người của thành đó.
\s5
\v 18 Khi ấy Ghê-đê-ôn nói cùng Xê-bách và Xanh-mu-na: "Chúng bay đã giết người ở Tha-bô như thế nào?" Chúng đáp: "Ông thể nào, chúng thể ấy. Mỗi người trong số họ trông giống như con trai của một vì vua".  
\v 19 Ghê-đê-ôn nói: "Họ là anh em của ta, các con trai của mẹ ta. Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, nếu chúng bay để cho họ sống, ta sẽ không giết chúng bay".
\s5
\v 20 Ông nói với Giê-the (con đầu lòng của ông): "Hãy chỗi dậy và giết chúng!" Song chàng trai trẻ không rút gươm mình ra vì nó sợ, vì nó hãy còn là một đứa trẻ.
\v 21  Khi ấy Xê-bách và Xanh-mu-na nói: "Hãy tự mình chỗi dậy mà giết chúng ta đi! Vì là người lớn, là người có sức lực". Ghê-đê-ôn chỗi dậy và giết Xê-bách và Xanh-mu-na. Ông cũng tước thứ trang sức hình lưỡi liềm đeo ở cổ lạc đà của chúng.
\s5
\v 22 Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên nói với Ghê-đê-ôn: "Hãy cai trị trên chúng tôi — hỡi người, con trai người, và cháu của người — vì người đã cứu chúng tôi ra khỏi quyền lực của dân Ma-đi-an".  
\v 23 Ghê-đê-ôn nói với họ: "Ta sẽ không cai trị trên anh em, con trai ta cũng không cai trị trên anh em. Đức Giê-hô-va sẽ tể trị trên anh em".
\s5
\v 24 Ghê-đê-ôn nói với họ: "Tôi có một yêu cầu đối với anh em: mỗi người trong anh em sẽ cho tôi những cái vòng từ chiến lợi phẩm kia". (Dân Ma-đi-an đã có những cái vòng bằng vàng vì họ là dân Ích-ma-ên)  
\v 25 Họ đáp: "Chúng tôi bằng lòng trao chúng cho ông". Họ trải chiếc áo choàng ra và mỗi người ném vào đó những cái vòng vàng lấy ra từ số chiến lợi phẩm.
\s5
\v 26 Sức nặng của những chiếc vòng bằng vàng mà ông yêu cầu là 1. 700 siếc-lơ vàng. Số chiến lợi phẩm nầy thêm vào với đồ trang sức hình trăng lưỡi liềm, hoa tai, áo màu đỏ điều mà hai vua dân Ma-đi-an đã mặc, và thêm vào với những cây kiềng đeo ở cổ lạc đà.
\s5
\v 27 Ghê-đê-ôn làm một cái ê-phót từ những chiếc vòng vàng rồi đặt nó trong thành của mình, tại Óp-ra, và cả Y-sơ-ra-ên tự họ tà dâm bằng cách thờ lạy cái ê-phót đó. Nó trở thành cái bẫy cho Ghê-đê-ôn và cho những ai ở trong nhà của ông.  
\v 28 Vậy dân Ma-đi-an bị bắt phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên và họ không còn ngước cái đầu của họ lên một lần nữa. Và xứ được hoàn bình trong bốn mươi năm trong thời của Ghê-đê-ôn.
\s5
\v 29 Giê-ru Ba-anh con trai của Giô-ách trở về sống trong chính ngôi nhà của ông.  
\v 30 Ghê-đê-ôn sanh được bảy mươi con trai, vì ông có nhiều vợ.  
\v 31 Vợ lẽ người sống tại Si-chem, cũng sanh cho người một con trai, và Ghê-đê-ôn đặt tên cho nó là A-bi-mê-léc.
\s5
\v 32 Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách qua đời lúc tuổi đã cao rồi được chôn cất trong mộ của Giô-ách cha người, ở Óp-ra thuộc dòng họ A-bi Ê-xe.  
\v 33 Thế rồi không lâu sau khi Ghê-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên xây trở lại và tự họ tà dâm bằng cách thờ lạy Ba-anh. Họ lập Ba-anh Bê-rít làm thần của họ.
\s5
\v 34 Người Y-sơ-ra-ên không nhớ làm vinh hiển cho Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã giải cứu họ ra khỏi quyền lực của các kẻ thù nghịch họ tứ phía.  
\v 35 Họ không giữ lời hứa với nhà của Giê-ru Ba-anh (danh xưng khác của Ghê-đê-ôn), đổi lại mọi sự tốt lành mà ông đã làm trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 9
\p
\v 1 A-bi-mê-léc con trai Giê-ru Ba-anh đến với mấy người bà con của mẹ mình ở Si-chem và ông nói với họ và cả họ gia đình mẹ mình như sau:  
\v 2 "Làm ơn nói như vầy, hầu cho hết thảy cấp lãnh đạo ở Si-chem nghe: 'Điều nào là tốt hơn cho các ông? Có cả thảy bảy mươi người con của Giê-ru Ba-anh cai trị trên các ông, hoặc chỉ một người cai trị trên các ông?' Hãy nhớ rằng tôi là xương là thịt của các ông".
\s5
\v 3 Những người bà con của mẹ ông nói về ông cho các cấp lãnh đạo ở Si-chem nghe, và họ đồng ý theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: "Người là anh em của chúng ta".  
\v 4 Họ trao cho ông bảy mươi miếng bạc lấy từ nhà của Ba-anh Bê-rít, và A-bi-mê-léc đã dùng bạc ấy thuê những kẻ sống phi luật pháp và hoang đàng, là những kẻ đi theo ông.
\s5
\v 5 Ông đến nhà của cha mình tại Óp-ra, và trên một hòn đá ông giết bảy mươi anh em, con trai của Giê-ru Ba-anh. Chỉ có Giô-tham bị chừa lại, là con trai út của Giê-ru Ba-anh, vì người đã đi trốn.  
\v 6 Hết thảy cấp lãnh đạo của Si-chem và Bết Mi-lô cùng đến với nhau, họ đến lập A-bi-mê-léc làm vua, bên cạnh cây sồi gần cột bằng đá ở trong Si-chem.
\s5
\v 7 Khi người ta đến nói cho Giô-tham biết sự nầy, ông bỏ đi và đứng trên đỉnh Núi Ga-ri-xim. Người gào lên rồi nói với họ: "Hãy nghe tôi, hỡi các cấp lãnh đạo của Si-chem, hầu cho Đức Chúa Trời sẽ lắng nghe anh em.  
\v 8 Những cây nào từng đi ra xức dầu cho một vị vua cai quản họ. Và chúng nói với cây ô-li-ve: 'Hãy cai trị trên chúng tôi'.
\s5
\v 9 Nhưng cây ô-li-ve nói với họ: 'Lẽ nào ta nhã dầu ra, là dầu được sử dụng để tôn vinh Đức Chúa Trời và người ta, để khi ta trở lại, chỉ để làm rối trên các cây khác thôi sao?'
\v 10 Các cây kia nói với cây vả rằng: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.  
\v 11 Nhưng cây vả nói với chúng: 'Lẽ nào ta bỏ đi mùi dịu ngọt và trái tốt của mình, chỉ để khi ta trở lại và làm rối trên các cây khác sao'
\s5
\v 12 Những cây kia nói với cây nho: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.  
\v 13 Cây nho nói với chúng: 'Lẽ nào ta bỏ rượu mới, là thứ làm vui vẻ Đức Chúa Trời và người ta, rồi trở lại làm rối trên các cây khác sao?' 
\v 14 Khi ấy những cây đó nói với bụi gai: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.
\s5
\v 15 Bụi gai nói với các cây đó: 'Nếu cây cối muốn xức dầu ta đặng làm vua trên các cây, thế thì hãy đến và tìm sự an ninh dưới bóng cánh của ta. Nếu không, thế thì nguyện lửa ra từ bụi gai và nó sẽ thiêu đốt rừng bá hương của Li-ban.' 
\v 16 Vì lẽ đó, giờ đây nếu cây cối ứng xử theo lòng chơn thật và ngay thẳng, khi anh em lập A-bi-mê-léc làm vua, và nếu anh em đã xử sự tốt về Giê-ru Ba-anh và nhà của người, và nếu anh em sửa phạt người như người đáng phải chịu —
\s5
\v 17 và nghĩ rằng cha ta đã đánh trận thay cho anh em, đã liều mạng sống mình, và giải cứu anh em ra khỏi tay của người Ma-đi-an — 
\v 18 nhưng ngày nay anh em đã dấy lên chống nghịch nhà cha ta và đã giết các con trai của người, bảy mươi người, trên một hòn đá. Và anh em đã lập A-bi-mê-léc, con trai của tôi tớ gái của người, làm vua trên cấp lãnh đạo của Si-chem, vì người là bà con của anh em.
\s5
\v 19 Nếu anh em đã hành xử ngay thẳng, chân thành với Giê-ru Ba-anh cùng cả nhà người, thế thì anh em đáng phải vui mừng nơi A-bi-mê-léc, và nguyện người cũng vui mừng nơi anh em.  
\v 20 Nhưng nếu không được như thế, nguyện lửa ra từ A-bi-mê-léc thiêu đốt người của Si-chem và nhà của Mi-lô. Nguyện lửa ra từ người của Si-chem và Bết Mi-lô, thiêu đốt A-bi-mê-léc."
\v 21 Giô-tham bỏ chạy trốn, rồi ông đến tại Bê-re. Ông đến sống ở đó vì nơi ấy rất xa đối với A-bi-mê-léc, anh người.
\s5
\v 22 A-bi-mê-léc đã cai trị trên Y-sơ-ra-ên trong ba năm.  
\v 23 Đức Chúa Trời sai một tà linh đến ở giữa A-bi-mê-léc cùng các cấp lãnh đạo Si-chem. Cấp lãnh đạo Si-chem đã phản bội lòng tin cậy mà họ đã có với A-bi-mê-léc.  
\v 24 Đức Chúa Trời đã làm điều này, vì vậy bảy mươi con trai của Giê-ru Ba-anh đã được phục thù, và A-bi-mê-léc anh em của họ sẽ chịu trách nhiệm về việc giết chóc họ; và người Si-chem sẽ phải chịu trách nhiệm vì họ đã giúp người giết các anh em người.
\s5
\v 25 Vậy cấp lãnh đạo Si-chem đặt người mai phục trên đỉnh núi để họ có thể chặn đánh người, và họ cướp lấy mọi người đi ngang qua đó dọc theo con đường. Điều nầy đã được tường trình cho A-bi-mê-léc.
\s5
\v 26 Ga-anh con trai của Ê-bết đã đến với những người bà con của họ và họ đi đánh Si-chem. Cấp lãnh đạo của Si-chem đã có lòng tin cậy nơi người.  
\v 27 Họ vào trong đồng ruộng thu lấy nho từ các nhành nho, và họ đã giẫm đạp trên chúng. Họ tổ chức liên hoan tại nhà thần của họ, ở đó họ ăn uống, và họ rủa sã A-bi-mê-léc.
\s5
\v 28 Ga-anh con trai của Ê-bết nói: "Ai là A-bi-mê-léc, và ai là Si-chem, để chúng ta phục vụ người? Có phải hắn không là con của Giê-ru Ba-anh sao? Và Xê-bun há không phải là quan trưởng của hắn sao? Hãy phục vụ người Ha-mô, là cha của Si-chem! Sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ?  
\v 29 Ta muốn rằng dân nầy ở dưới quyền chỉ huy của ta! Khi ấy ta sẽ dẹp bỏ A-bi-mê-léc. Ta sẽ nói với A-bi-mê-léc: 'Hãy triệu tập hết quân đội của người đi'"
\s5
\v 30 Khi Xê-bun, quan trưởng của thành phố, đã nghe lời lẽ của Ga-anh con của Ê-bết cơn giận người bèn nhen lên.  
\v 31 Người sai sứ đến cùng A-bi-mê-léc với ý đồ dối gạt, nói rằng: "Hãy xem, Ga-anh con của Ê-bết cùng bà con hắn đang đến tại Si-chem, rồi chúng đang khuấy động cả thành chống lại ông.
\s5
\v 32 Bây giờ, hãy chỗi dậy trong ban đêm, ông cùng binh lính với ông, và sửa soạn mai phục ở ngoài đồng.  
\v 33 Khi ấy lúc ban sáng, không bao lâu khi mặt trời mọc lên, hãy dậy sớm rồi mở chiến dịch đánh vào thành. Rồi khi hắn và binh lính với hắn xông ra chống lại ông, hãy làm bất cứ việc gì ông có thể làm đối với chúng".
\s5
\v 34 Vậy, A-bi-mê-léc thức dậy trong đêm, ông cùng hết thảy binh lính có mặt với ông, và họ đi mai phục chống lại Si-chem — chia thành bốn đội.  
\v 35 Ga-anh con của Ê-bết đi ra đứng nơi lối vào tại cổng thành. A-bi-mê-léc cùng binh lính ở với ông bước ra khổi chỗ ẩn mình của họ.
\s5
\v 36 Khi Ga-anh nhìn thấy họ, người nói với Xê-bun: "Hãy xem, binh lính đang xuống từ trên núi!" Xê-bun nói với người: "Ông đã nhìn thấy mấy cái bóng trên núi y như chúng là người ta vậy".  
\v 37 Ga-anh nói lại như sau: "Hãy nhìn kìa, có nhiều người đang đi xuống ở giữa xứ, và mỗi đội đang xuống theo đường cây sồi của những thuật sĩ."
\s5
\v 38 Khi ấy, Xê-bun nói với người như sau: "Bây giờ, lời lẽ tự hào của ông ở đâu, ông là người đã nói: 'Ai là A-bi-mê-léc để phục vụ hắn?' Đây chẳng phải là người mà ông khi dể sao? Bây giờ, hãy đi ra mà chiến đấu chống lại họ đi".  
\v 39 Ga-anh đi ra và ông lãnh đạo người Si-chem, rồi ông đánh A-bi-mê-léc.  
\v 40 A-bi-mê-léc truy kích ông, và Ga-anh chạy trốn trước mặt người. Và nhiều người ngã chết do bị thương trước lối vào của cổng thành.
\s5
\v 41 A-bi-mê-léc ngụ lại trong A-ru-ma. Xê-bun đã buộc Ga-anh cùng bà con của hắn phải ra khỏi thành Si-chem.  
\v 42 Qua hôm sau, dân sự Si-chem đi ra ngoài đồng, và người ta cho A-bi-mê-léc hay việc nầy.
\v 43 Ông đem theo người của mình, chia họ ra thành ba đội, và họ mai phục ở ngoài đồng. Ông quan sát và nhìn thấy dân sự vừa ra khỏi thành phố. Ông đã tấn công họ rồi giết họ.
\s5
\v 44 A-bi-mê-léc cùng các đội binh ở với ông đã tấn công và khóa ngay lối vào thành. Hai đội kia tấn công những kẻ ở ngoài đồng rồi giết họ.  
\v 45 A-bi-mê-léc đánh trận chống lại thành phố suốt ngày ấy. Ông chiếm lấy thành, rồi giết người nào có mặt ở trong đó. Ông đánh phá các bức tường thành và rải muối trên đó.
\s5
\v 46 Khi các cấp lãnh đạo của tháp Si-chem hay được việc ấy, họ bước vào đồn lũy của nhà En Bê-rít.  
\v 47 Người ta cho A-bi-mê-léc hay rằng cấp lãnh đạo đã tập trung lại nơi tháp Si-chem.
\s5
\v 48 A-bi-mê-léc đi lên Núi Sanh-môn, ông cùng hết thảy người theo mình. A-bi-mê-léc lấy một cây búa rồi chặt nhiều nhánh cây. Ông vác nó lên vai rồi truyền cho những người đi với ông: "Anh em đã thấy điều ta làm, hãy mau làm y như ta đã làm".
\v 49 Vậy, mỗi người đều đốn hạ nhiều nhánh cây rồi đi theo A-bi-mê-léc. Họ chất chúng trên mặt hầm, rồi châm lửa đốt ở trên, hầu cho hết thảy người trong tháp Si-chem cũng ngã chết, khoảng một ngàn người nam người nữ.
\s5
\v 50 Khi ấy, A-bi-mê-léc đi đến Thê-bết, rồi đóng trại đối ngang Thê-bết rồi chiếm lấy nó.  
\v 51 Nhưng có cái tháp rất kiên cố trong thành, và mọi người nam người nữ cùng các cấp lãnh đạo của thành đều trốn trong đó rồi đóng cửa chặt lại. Khi ấy họ đi lên đỉnh tháp.
\s5
\v 52 A-bi-mê-léc đến tại tháp đó rồi phong tỏa nó, và ông đến gần tới cửa tháp và thiêu đốt nó.  
\v 53 Nhưng một người nữ ném cái thớt xuống đầu của A-bi-mê-léc làm bể sọ người.  
\v 54 Khi ấy ông mau gọi một thanh niên, là kẻ cầm binh khí cho người, rồi nói với hắn: "Hãy rút gươm ngươi ta mà giết ta đi, để không ai sẽ nói về ta: 'một phụ nữ đã giết ta chết'". Vậy, người lính trẻ kia đã đâm ông, và ông ngã chết.
\s5
\v 55 Khi người Y-sơ-ra-ên thấy A-bi-mê-léc đã chết, họ bèn trở về nhà.  
\v 56 Như vậy, Đức Chúa Trời đã báo ứng điều ác của A-bi-mê-léc đã làm cho cha mình bằng cách giết bảy mươi anh em của người.
\v 57 Đức Chúa Trời đã khiến cho mọi sự ác của người Si-chem xây trở lại trên đầu của chính họ và giáng trả trên họ sự rủa sả của Giô-tham con trai Giê-ru Ba-anh.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Sau A-bi-mê-léc, Thô-la con của Phu-a cháu Đô-đô, một người ra từ Y-sa-ca sống ở Sa-mia, trong vùng núi đồi núi Ép-ra-im, dấy lên giải cứu Y-sơ-ra-ên.  
\v 2 Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên hai mươi ba năm. Ông qua đời, được chôn ở Sa-mia.
\s5
\v 3 Theo sau ông là Giai-rơ người Ga-la-át. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm.  
\v 4 Ông có ba mươi con trai, chúng cởi ba mươi con lừa, và chúng có ba mươi thành, được gọi là Ha-vốc Giai-rơ cho đến ngày nay, hết thảy đều ở trong xứ Ga-la-át.  
\v 5 Giai-rơ qua đời và được chôn ở Kha-môn.
\s5
\v 6 Dân Y-sơ-ra-ên đã thêm điều ác họ đã làm trước mặt Đức Giê-hô-va và đã thờ lạy Ba-anh, Át-tạt-tê, các thần của A-ram, các thần của Si-đôn, các thần của Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ từ bỏ Đức Giê-hô-va và không còn thờ lạy Ngài nữa.  
\v 7 Đức Giê-hô-va nổi phừng cơn giận của Ngài đối cùng Y-sơ-ra-ên, và Ngài phó họ cho dân Phi-li-tin và cho dân Am-môn, để chinh phục họ.
\s5
\v 8 Chúng chà nát và lấn lướt dân Y-sơ-ra-ên trong năm đó, và trong mười tám năm chúng đã áp bức hết thảy người Y-sơ-ra-ên nào sống ở bên kia sông Giô-đanh trong xứ của dân A-mô-rít, nằm trong Ga-la-át.  
\v 9 Và dân Am-môn đã băng qua sông Giô-đanh giao chiến với dân Giu-đa, chống lại Bên-gia-min, và chống lại nhà Ép-ra-im, thế là dân Y-sơ-ra-ên bị áp bức rất nặng nề.
\s5
\v 10 Khi ấy, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va mà rằng: "Chúng con đã phạm tội cùng Ngài, vì chúng con đã từ bỏ Đức Chúa Trời và thờ lạy Ba-anh" 
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng dân Y-sơ-ra-ên: có phải ta không giải cứu các con khỏi người Ai-cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, dân Phi-li-tin,  
\v 12 và cũng khỏi dân Si-đôn sao? Dân A-ma-léc và dân Ma-ôn hà hiếp các con; các con kêu cầu ta, và ta đã giải cứu các con ra khỏi quyền lực của chúng.
\s5
\v 13 Tuy nhiên, các con đã từ bỏ ta một lần nữa và đã thờ lạy các thần khác. Vì lẽ đó, ta sẽ không giải cứu các con nữa.  
\v 14 Hãy đi mà kêu cầu những thần mà các con đã thờ lạy. Nguyện chúng giải cứu các con khi các con gặp hoạn nạn".
\s5
\v 15 Dân Y-sơ-ra-ên thưa cùng Đức Giê-hô-va: "Chúng con đã phạm tội. Hãy làm cho chúng con bất cứ điều gì dường như là tốt lành đối với Ngài. Chỉ hãy làm ơn, giải cứu chúng con ngày nay".  
\v 16 Họ xây khỏi các thần ngoại bang mà họ đã có, và họ thờ lạy Đức Giê-hô-va. Và Ngài đã nhịn nhục trước sự thống khổ của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 17 Khi ấy dân Am-môn tập trung lại và đóng trại tại Ga-la-át. Dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại rồi dựng trại của họ tại Mích-ba.  
\v 18 Các cấp lãnh đạo dân sự ở Ga-la-át nói với nhau: "Ai là người khởi sự ra đánh dân Am-môn đây? Người ấy sẽ trở thành lãnh tụ trên hết thảy những ai đang sinh sống trong xứ Ga-la-át".
\s5
\c 11
\p
\v 1 Bấy giờ Giép-thê người Ga-la-át là một chiến binh mạnh sức, nhưng ông là con trai của một cô gái điếm. Ga-la-át là cha của ông.  
\v 2 Vợ của Ga-la-át cũng sanh cho ông nhiều con trai khác nữa. Khi các con trai ông lớn lên, họ đã buộc Giép-thê phải rời khỏi nhà, họ nói cùng ông như sau: "Mầy sẽ chẳng hưởng gì từ gia đình chúng ta. Mầy là con của người đàn bà khác".  
\v 3 Vì vậy Giép-thê trốn khỏi anh em mình rồi sống trong đất của Tóp. Những kẻ phi luật pháp hiệp cùng Giép-thê, họ đến và cùng đi với ông.
\s5
\v 4 Sau đó ít ngày, dân Am-môn mở chiến tranh chống lại Y-sơ-ra-ên.  
\v 5 Khi dân Am-môn lâm chiến chống lại Y-sơ-ra-ên, các trưởng lão của Ga-la-át đến đem Giép-thê về từ đất của Tóp.  
\v 6 Họ nói với Giép-thê: "Hãy đến và làm lãnh tụ của chúng ta, để chúng ta có thể đánh trận với dân Am-môn".
\s5
\v 7 Giép-thê nói với các cấp lãnh đạo của Ga-la-át như sau: "Mấy người thù ghét tôi và buộc tôi phải rời khỏi nhà cha tôi. Sao bây giờ mấy người lại đến với tôi khi mấy người đang lâm vào hoạn nạn chứ?" 
\v 8 Các trưởng lão của Ga-la-át nói với Giép-thê: "Đấy là lý do tại sao chúng ta hướng về người đây; hãy đến với chúng tôi và đánh nhau với dân Am-môn, thì người sẽ trở thành lãnh tụ trên hết thảy những ai sống trong xứ Ga-la-át".
\s5
\v 9 Giép-thê nói với các trưởng lão xứ Ga-la-át: "Nếu mấy người đưa tôi về nhà lại để đánh trận nghịch cùng dân Am-môn, và nếu Đức Giê-hô-va ban cho chúng ta thắng hơn họ, tôi sẽ trở thành lãnh đạo của mấy người".  
\v 10 Các trưởng lão xứ Ga-la-át nói với Giép-thê: "Nguyện Đức Giê-hô-va làm chứng giữa chúng ta nếu chúng ta không làm theo như chúng ta nói!" 
\v 11 Vì vậy, Giép-thê đi với các trưởng lão xứ Ga-la-át, rồi dân sự lập ông làm lãnh tụ và quan tướng chỉ huy họ. Khi ông đến trước mặt Đức Giê-hô-va ở Mích-ba, Giép-thê lặp lại mọi lời hứa mà ông đã đưa ra.
\s5
\v 12 Khi ấy Giép-thê sai sứ giả đến vua của dân Am-môn, nói rằng: "Cuộc xung đột nầy giữa chúng ta là gì chứ? Tại sao ông lại đến với sức mạnh đặng chiếm lấy xứ của chúng tôi sao?" 
\v 13 Vua của dân Am-môn trả lời cho các sứ giả của Giép-thê: "Vì khi Y-sơ-ra-ên lên khỏi xứ Ai-cập, họ đã chiếm lất đất của ta từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, qua sông Giô-đanh. Giờ đây, hãy trả lại các phần đất ấy trong sự hòa bình".
\s5
\v 14 Một lần nữa Giép-thê sai sứ giả đến gặp vua dân Am-môn,  
\v 15 người nói: "Đây là những gì Giép-thê nói: Y-sơ-ra-ên không chiếm lấy đất của Mô-áp và đất của dân Am-môn,  
\v 16 song khi họ ra khỏi Ai-cập, và dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua đồng vắng đến Biển Sậy rồi tới tại Ca-đe.
\s5
\v 17 Y-sơ-ra-ên sai sứ đến gặp vua Ê-đôm, nói rằng: 'Làm ơn cho chúng tôi đi ngang qua đất của mấy ông', nhưng vua Ê-đôm không chịu nghe. Họ cũng sai sứ đến gặp vua dân Mô-áp, nhưng người đã từ chối. Vì vậy Y-sơ-ra-ên đã trụ lại tại Ca-đe.  
\v 18 Khi ấy họ đi ngang qua đồng vắng rồi quay khỏi đất của Ê-đôm và đất của Mô-áp, và họ đi dọc sườn phía Đông xứ của Mô-áp rồi họ đóng trại ở sườn bên kia của Ạt-nôn. Nhưng họ không đi vào lãnh thổ của Mô-áp, vì Ạt-nôn là biên giới của Mô-áp.
\s5
\v 19 Y-sơ-ra-ên sai sứ đến Si-hôn, vua của dân A-mô-rít, ông ta cai trị trong Hết-bôn; Y-sơ-ra-ên nói với ông ta: 'Làm ơn, cho phép chúng tôi đi ngang qua đất của ông đến chỗ thuộc về chúng tôi'.  
\v 20 Nhưng Si-hôn không tin dân Y-sơ-ra-ên chỉ đi ngang qua lãnh thổ của mình. Vì vậy Si-hôn tập trung quân đội của mình lại rồi dời chúng đến Gia-hát, rồi ở đó ông ta giao chiến với Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 21 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban cho Y-sơ-ra-ên thắng hơn Si-hôn và phó hết thảy dân sự người ở dưới quyền kiểm soát của họ. Vì vậy Y-sơ-ra-ên chiếm hết phần đất của dân A-mô-rít, họ đã sống trong xứ ấy.  
\v 22 Họ chiếm hết mọi thứ trong lãnh thổ của dân A-mô-rít, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc, và từ đồng vắng cho đến sông Giô-đanh.
\s5
\v 23 Thế là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đuổi dân A-mô-rít trước mặt Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài, và giờ đây ông chiếm lấy cơ nghiệp đất đai của họ sao?  
\v 24 Có phải ông không chiếm được xứ mà Kê-mốt, thần của ông, ban cho ông chăng? Vì vậy, bất cứ phần đất nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta đã ban cho chúng ta, chúng ta sẽ chiếm lấy.  
\v 25 Giờ đây có phải ông thực sự tốt hơn Ba-lác con trai của Xếp-bô, vua xứ Mô-áp chăng? Có phải hắn dám tranh luận gì với Y-sơ-ra-ên chăng? Có phải hắn dám tranh chiến nghịch cùng họ không?
\s5
\v 26 Trong khi Y-sơ-ra-ên đã sống trong ba trăm năm ở Hết-bôn cùng các làng mạc nó, và trong A-rô-e cùng các làng mạc nó, và trong tất cả các thành dọc theo hai bên bờ sông Ạt-nôn — tại sao ông không chiếm nó lại trong thời điểm ấy?  
\v 27 Tôi chẳng có làm gì quấy đối với ông, nhưng ông đang làm quấy đối với tôi bằng cách tấn công tôi. Đức Giê-hô-va, là quan án, sẽ quyết định hôm nay giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân Am-môn".  
\v 28 Nhưng vua dân Am-môn từ chối lời cảnh cáo mà Giép-thê gửi đến cho ông ta.
\s5
\v 29 .  Thế rồi Thánh Linh của Đức Giê-hô-va ngự trên Giép-thê, và ông trải qua Ga-la-át và Ma-na-se, rồi qua Mích-ba thuộc Ga-la-át, và từ Mích-ba xứ Ga-la-át ông đi đánh dân Am-môn.
\v 30  Giép-thê lập một lời thề với Đức Giê-hô-va, ông nói: "Nếu Ngài ban cho con thắng hơn dân Am-môn,
\v 31 thế thì bất kỳ thứ gì ra khỏi cửa nhà con để đón con khi con trở về bình yên đối với dân Am-môn sẽ thuộc về Đức Giê-hô-va, và con sẽ dâng thứ đó lên làm của lễ thiêu".
\s5
\v 32 Vậy Giép-thê trải qua dân Am-môn đánh trận nghịch cùng họ, và Đức Giê-hô-va đã ban cho ông chiến thắng.  
\v 33 Ông đã tấn công họ và tạo ra một cuộc giết chóc rất lớn từ A-rô-e cho đến tận Mi-nít — hai mươi thành — và đến A-bên Kê-ra-mim. Vì vậy dân Am-môn bị đặt dưới quyền quản chế của dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 34 Giép-thê về đến nhà mình tại Mích-ba, và ở đó con gái ông đi ra đón ông với trống nhỏ và nhảy múa. Nó chỉ là một đứa trẻ, và ngoài nó ra ông chẳng có con trai hay con gái nào nữa hết.  
\v 35 Khi ông nhìn thấy nó, ông xé quần áo mình rồi nói: "Ôi! Con gái của ta ơi! Con đã làm cho lòng ta phải buồn rầu tan nát, và con đã trở thành kẻ khiến ta phải đau khổ! Vì ta đã lập lời thề với Đức Giê-hô-va, và ta không thể xây lưng lại với lời hứa của mình".
\s5
\v 36 Nó nói với ông: "Cha ơi, cha đã lập một lời thề với Đức Giê-hô-va, hãy làm cho con mọi sự mà cha đã hứa đi, vì Đức Giê-hô-va đã báo thù cho cha chống lại dân Am-môn, là kẻ thù của cha".  
\v 37 Nó nói với cha nó: "Nguyện lời hứa này phải được giữ vì con. Xin để con ở một mình trong hai tháng, để con rời đi và xuống núi than khóc cho sự đồng trinh của con, con và các bạn của con"
\s5
\v 38 Ông nói: "Hãy đi đi". Ông để cho nó đi trong hai tháng. Nó rời khỏi ông, nó cùng đồng bạn, và chúng than khóc sự đồng trinh của mình trong vùng đồi núi.  
\v 39 Khi đến cuối hai tháng, nó trở lại cùng cha mình, ông đã làm với nó theo lời thề hứa mà ông đã lập. Giờ đây, nó chưa hề ngủ với một người nam nào, và điều đó trở thành thông tục trong Y-sơ-ra-ên 
\v 40 rằng con gái của dân Y-sơ-ra-ên mỗi năm, trong bốn ngày, sẽ thuật lại câu chuyện nói tới con gái của Giép-thê người xứ Ga-la-át.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Một lời kêu gọi đi ra cho người Ép-ra-im; họ đi ngang qua Xa-phôn và nói với Giép-thê: "Tại sao ông ra trận chống lại dân Am-môn mà không gọi chúng tôi cùng đi với ông? Chúng tôi sẽ thiêu đốt nhà ông trước mặt ông".  
\v 2 Giép-thê nói với họ: "Ta và nhà ta đã ở trong cuộc xung đột lớn với dân Am-môn. Khi ta gọi anh em, anh em đã không giải cứu ta khỏi họ.
\s5
\v 3 Khi ta thấy anh em không giải cứu ta, ta phó mạng sống ta vào chính sức lực của ta và đi ra đánh với dân Am-môn, và Đức Giê-hô-va đã ban cho ta chiến thắng. Tại sao ngày nay anh em lại nghịch cùng ta chứ?" 
\v 4 Giép-thê tập trung hết thảy người nam xứ Ga-la-át và ông đánh lại người Ép-ra-im. Người xứ Ga-la-át đã tấn công người Ép-ra-im vì họ nói: "Mấy người Ga-la-át là hạng trốn tránh trong xứ Ép-ra-im — giữa Ép-ra-im và Ma-na-se".
\s5
\v 5 Người Ga-la-át chiếm lấy các đồn lũy bên sông Giô-đanh dẫn đến Ép-ra-im. Khi những kẻ sống sót của Ép-ra-im nói: "Cho phép tôi qua sông", người Ga-la-át sẽ nói với người ấy: "Có phải mầy là người Ép-ra-im?" Nếu người ấy nói: "không",  
\v 6 thế thì họ sẽ nói cùng người: "Hãy nói: Si-bê-lết". Và nếu người ấy nói: "Si-bô-lết" (vì người không thể phát âm chính xác chữ ấy cho được), người Ga-la-át sẽ bắt lấy người rồi giết đi tại đồn lũy của Giô-đanh. Bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã bị giết lúc bấy giờ.
\s5
\v 7 Giép-thê phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên trong sáu năm. Khi ấy Giép-thê người Ga-la-át qua đời và được chôn cất ở một trong các thành của Ga-la-át.
\s5
\v 8 Sau ông, Iếp-san của Bết-lê-hem phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên.  
\v 9 Ông có ba mươi con trai. Ông đã gả đi ba mươi người con gái cho người ngoài, rồi ông đem ba mươi con gái của người khác gả cho các con trai mình. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong bảy năm.
\s5
\v 10 Iếp-san qua đời và được chôn cất tại thành Bết-lê-hem.  
\v 11 Sau ông, Ê-lôn người Sa-bu-lôn đã phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong mười năm.  
\v 12 Ê-lôn người Sa-bu-lôn qua đời và được chôn cất ở A-gia-lôn, trong đất của Sa-bu-lôn.
\s5
\v 13 Sau ông, Áp-đôn con của Hi-lên người Phi-ra-thôn đã phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên.  
\v 14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai. Chúng cỡi trên bảy mươi con lừa, và ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong tám năm.  
\v 15 Áp-đôn con của Hi-lên người Phi-ra-thôn qua đời và được chôn cất ở Phi-ra-thôn trong đất của Ép-ra-im, trong vùng đồi núi của dân A-ma-léc.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa đã làm điều gian ác ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và Ngài cho phép dân Phi-li-tin cai trị trên họ trong bốn mươi năm.
\v 2 Có một người xuất thân từ Xô-rê-a, trong gia đình của người Đan, tên của người Ma-nô-a. Vợ người son sẻ vì thế nàng không thể có con được.
\s5
\v 3 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với người nữ ấy rồi phán cùng nàng: "Giờ đây, hãy xem, người vốn son sẻ, không thể có con được, nhưng người sẽ có thai và người sẽ sanh một con trai.  
\v 4 Bây giờ, hãy cẩn thận được uống rượu hay thức uống làm say sưa, và đừng ăn bất kỳ thứ gì mà luật pháp tuyên bố là không sạch.
\v 5 Hãy nhìn đây, người sẽ có thai và sanh một con trai. Không một dao cạo nào đưa qua đầu nó, vì đứa con ấy sẽ là người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ lúc con còn ở trong tử cung của người. Nó sẽ khởi sự giải phóng dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi quyền lực của dân Phi-li-tin."
\s5
\v 6 Khi ấy, người nữ ấy đến nói chồng mình biết: "Người của Đức Chúa Trời đã đến gặp tôi, và dáng dấp của Ngài giống như dáng dấp của một thiên sứ của Đức Chúa Trời, và Ngài làm cho tôi rất đỗi kinh sợ. Tôi không dám hỏi Ngài đến từ đâu, và Ngài không nói cho tôi biết danh của Ngài.  
\v 7 Ngài phán với tôi: 'Hãy xem đây! Người sẽ chịu thai, và người sẽ sanh một con trai. Vì vậy, đừng uống rượu thay thứ chi uống say, và đừng ăn thức ăn nào mà luật pháp tuyên bố là không sạch, vì đứa trẻ sẽ là một người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời và từ khi nó còn ở trong tử cung của ngươi cho tới ngày nó qua đời.'"
\s5
\v 8 Khi ấy Ma-nô-a cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà rằng: "Ôi lạy Chúa, con xin Ngài khiến cho Người mà Đức Chúa Trời sai đến dạy dỗ để chúng con biết mọi điều phải làm cho đứa trẻ không sắp ra đời này".  
\v 9 Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của Ma-nô-a, và thiên sứ của Đức Chúa Trời lại đến với người nữ khi người đang ngồi ở ngoài đồng. Nhưng Ma-nô-a chồng người không có ở đó với người.
\s5
\v 10 Vì vậy người nữ mau chạy về nói với chồng mình: "Hãy xem kìa! Người lại hiện ra cùng với tôi — là Người đã đến gặp tôi ngày trước!" 
\v 11 Ma-nô-a chỗi dậy rồi theo chơn vợ mình. Khi ông gặp Người, ông nói: "Có phải Người là Đấng phán cùng vợ tôi chăng?" Người đáp: "Ta đây".
\s5
\v 12 Vì vậy, Ma-nô-a nói: "Giờ đây, lời của Ngài đã thành ra sự thực. Nhưng có luật lệ nào dành cho đứa trẻ, và đâu sẽ là công việc của nó?" 
\v 13 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng Ma-nô-a: "Vợ người phải cẩn thận làm theo mọi sự mà ta đã căn dặn.
\v 14 Vợ người sẽ không ăn bất cứ thứ chi ra từ cây nho, và chớ để cho người dùng rượu hay thứ chi uống say; đừng để cho người ăn bất cứ thức ăn nào mà luật pháp tuyên bố là không sạch. Người sẽ vâng theo mọi sự mà ta đã truyền cho người phải làm theo".
\s5
\v 15 Ma-nô-a thưa cùng thiên sứ của Đức Giê-hô-va: "Làm ơn ở lại một chút, xin cho chúng tôi có thì giờ sửa soạn một con dê con cho Ngài".  
\v 16 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán với Ma-nô-a: "Cho dù ta ở lại, ta sẽ không ăn đồ ăn của người làm đâu. Song nếu người dọn một của lễ thiêu, dâng của lễ ấy lên cho Đức Giê-hô-va." (Ma-nô-a không biết rằng Người là thiên sứ của Đức Giê-hô-va).
\s5
\v 17 Ma-nô-a thưa cùng thiên sứ của Đức Giê-hô-va: "Tên của Ngài là gì, để chúng tôi tôn vinh Ngài khi lời của Ngài thành ra sự thực?" 
\v 18 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Sao người hỏi tên ta? Tên Ta thật là diệu kỳ!"
\s5
\v 19 Vì vậy, Ma-nô-a bắt con dê con với của lễ chay rồi dâng chúng lên cho Đức Giêhôva trên một hòn đá. Ngài đã làm một việc lạ lùng đang khi Ma-nô-a cùng vợ người đang đứng xem.
\v 20 Khi ngọn lửa bay lên từ bàn thờ hướng lên trời, thiên sứ của Đức Giê-hô-va bay lên trong ngọn lửa của bàn thờ. Ma-nô-a cùng vợ người đã nhìn thấy điều nầy và nằm sấp mặt xuống đất.
\s5
\v 21 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va không hiện ra lại với Ma-nô-a hay với vợ người. Khi ấy Ma-nô-a mới biết rõ rằng Ngài là thiên sứ của Đức Giê-hô-va.  
\v 22 Ma-nô-a nói với vợ mình: "Chúng ta chết chắc rồi, vì chúng ta đã nhìn thấy Đức Chúa Trời!"
\s5
\v 23 Nhưng vợ người nói lại rằng: "Nếu Đức Giê-hô-va muốn giết chúng ta, Ngài sẽ chẳng nhậm của lễ thiêu và của lễ chay mà chúng ta đã dâng lên Ngài. Ngài sẽ chẳng tỏ ra cho chúng ta mọi sự nầy, lần nầy Ngài khiến cho chúng ta phải nghe thấy mọi sự đó".
\s5
\v 24 Sau đó vợ Ma-nô-a đã sanh một trai, và đã đặt tên cho nó là Samsôn. Con trẻ lớn lên và Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho người.
\v 25  Thánh Linh của Đức Giê-hô-va khởi sự khuấy động người ở Ma-ha-ne Đan, giữa Xô-rê-a và Ê-ta-ôn.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Sam-sôn đi xuống Thim-na, rồi ở đó ông nhìn thấy một người nữ, một trong những con gái của người Phi-li-tin.
\v 2  Khi ông trở về, ông thưa cùng cha mẹ mình: "Con đã nhìn thấy một người nữ ở Thim-na, một trong các con gái của người Phi-li-tin. Giờ đây, hãy cưới nàng cho con làm vợ".
\s5
\v 3 Nhưng cha mẹ người nói: "Bộ không có người nữ giữa vòng các con gái của người thân của con, hoặc giữa vòng dân sự của chúng ta sao? Có phải con cưới vợ từ người Phi-li-tin không chịu cắt bì kia ư?" Sam-sôn nói với cha mình: "Hãy cưới nàng cho con, vì khi thấy nàng, nàng đẹp lòng con".  
\v 4 Nhưng cha mẹ người không biết vụ việc nầy đã đến từ Đức Giê-hô-va, vì Ngài muốn tạo ra một sự xung đột với người Phi-li-tin (vì lúc bấy giờ người Phi-li-tin đang cai trị dân Y-sơ-ra-ên).
\s5
\v 5 Khi ấy Sam-sôn đi xuống Thim-na với cha mẹ mình, và họ đã đến vườn nho của Thim-na. Và có một con sư tử tơ đến tại đó và thấy ông thì nó gầm gừ lên.  
\v 6 Thần của Đức Giê-hô-va thình lình giáng trên ông, và ông xé con sư tử một cách dễ dàng như ông xé một dê con vậy, và ông chẳng có cầm vật gì trong tay. Nhưng ông không nói cho cha mẹ mình biết ông vừa mới làm gì.
\s5
\v 7 .  Ông đến và nói với người nữ, và khi ông nhìn thẳng vào nàng, nàng đẹp lòng với Sam-sôn.  
\v 8 Một vài ngày sau đó, khi ông trở lại để cưới nàng, ông đi vòng lại kiếm thây của con sư tử. Và có một bầy ong mật trong những gì còn lại nơi thây con sư tử.  
\v 9 Ông bụm mật trong tay và tiếp tục đi, vừa đi vừa ăn. Khi ông đến gặp cha mẹ mình, ông trao một ít cho họ, và họ đã ăn. Nhưng ông không nói cho họ biết ông đã lấy mật từ trong phần thây còn lại của con sư tử.
\s5
\v 10 Cha của Sam-sôn đi xuống nơi người nữ ở, và Sam-sôn đãi tiệc ở đó, vì đây là thông lệ của những người tuổi trẻ.  
\v 11 Không lâu sau đó, bà con của nàng gặp ông, họ đem đến cho ông ba mươi người bạn của họ để ở với ông.
\s5
\v 12 Sam-sôn nói với chúng: "Giờ đây, tôi muốn ra một câu đố với anh em. Nếu một ngày kia anh em có thể tìm ra và nói cho tôi biết câu trả lời trong bảy ngày tiệc, tôi sẽ trao cho anh em ba mươi cái áo và ba mươi bộ y phục.  
\v 13 Nhưng nếu anh em không thể cho tôi biết câu trả lời, khi ấy anh em sẽ trao cho tôi ba mươi cái áo trong và ba mươi bộ y phục". Chúng nói với ông: "Hãy cho chúng ta biết câu đố của anh, để chúng tôi có thể nghe câu đố đó".
\s5
\v 14 Ông nói với chúng:  "Từ vật ăn ra thứ để ăn;  từ thứ mạnh mẽ ra thứ ngọt ngào".  Nhưng các thực khách của ông không thể tìm được câu trả lời trong ba ngày.
\s5
\v 15 Đến ngày thứ tư, họ nói với vợ của Sam-sôn: "Hãy gạt chồng nàng, hầu cho hắn nói cho chúng ta biết câu trả lời cho câu đố, hoặc chúng ta sẽ thiêu nàng và nhà cha nàng. Có phải nàng mời chúng ta đến đây để làm cho chúng ta ra nghèo chăng?"
\s5
\v 16 Vợ của Sam-sôn khởi sự bật khóc ở trước mặt ông; nàng nói: "Mọi chuyện anh làm là ghét bỏ em! Anh không yêu em. Anh đã ra một câu đó cho một số người trong dân sự của em, nhưng anh không cho em biết câu trả lời". Sam-sôn nói cùng nàng: "Hãy xem kìa, nếu ta không nói cho cha mẹ ruột biết, ta lại nói cho nàng biết hay sao?" 
\v 17 Nàng gào lên trong suốt ngày thứ bảy, khi bữa tiệc của họ kết thúc. Nhằm ngày thứ bảy, ông nói cho nàng biết câu trả lời vì nàng gây nhiều áp lực với ông. Nàng tỏ giải đáp ra cho mấy người bà con trong dân sự của nàng biết.
\s5
\v 18 Và người của thành ấy đáp cùng ông, vào ngày thứ bảy trước khi mặt trời lặn: "Cái gì ngọt hơn mật?  Cái gì mạnh hơn sư tử?" Sam-sôn nói với chúng: "Nếu mấy người đã không cày với bò cái tơ của ta,  mấy người đã không tìm được câu trả lời cho cấu đố của ta".
\s5
\v 19 Khi ấy Thần của Đức Giê-hô-va thình lình giáng trên Sam-sôn với sức lực. Sam-sôn đi xuống Ách-ca-lôn, giết ba người giữa vòng dân sự ấy. Ông lấy áo xống của họ, rồi ông trao những bộ y phục cho những kẻ đã giải được câu đố của ông. Ông nổi diên lên và trở về nhà cha mình.
\v 20  Còn vợ ông đã được gả cho người bạn thân nhất của ông.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Sau ít lâu, vào thời điểm gặt lúa, Sam-sôn đem theo dê con rồi đến thăm vợ mình. Ông nhũ lòng: "Ta sẽ đến tại phòng của vợ ta". Nhưng cha nàng không cho phép ông bước vào.  
\v 2 Cha nàng nói: "Ta thực sự nghĩ con ghét bỏ nó, vì vậy ta đã gả nó cho bạn con. Em gái nó còn xinh đẹp hơn nó nữa, có phải không? Hãy lấy nó mà làm vợ đi".
\s5
\v 3 ".  Sam-sôn nói với họ: "Lần nầy ta sẽ là vô tội một khi ta gây hại cho người Phi-li-tin".  
\v 4 Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó rừng, ông cột chúng lại với nhau thành từng cặp, đuôi con nầy cột với đuôi con kia. Khi ấy ông lấy những ngọn đuốc rồi cột chúng vào giữa từng cặp đuôi ấy.
\s5
\v 5 Khi ông đốt đuốc lên, ông để cho bầy chó rừng chạy vào đồng lúa của người Phi-li-tin, và chúng đốt lúa đã gặt bó lại và lúa còn đứng ngoài đồng, cùng với các vườn nho và vườn ô-li-ve.
\v 6 Người Phi-li-tin hỏi: "Ai làm việc nầy?" Họ nói: "Sam-sôn, con rễ của Thim-na, đã làm điều nầy, vì người Thim-na đã bắt vợ của Sam-sôn gả cho bạn của người". Khi ấy người Phi-li-tin đến thiêu đốt nàng và cha nàng.
\s5
\v 7 Sam-sôn nói với họ: "Nếu đây là điều mấy người làm, ta sẽ báo thù nghịch cùng mấy người, rồi sau khi báo thù xong, ta sẽ dừng lại".  
\v 8 Khi ấy ông cắt chúng ra thành nhiều mảnh, với một cuộc tàn sát rất lớn. Thế rồi ông đi xuống và sống trong hang động ở sườn núi Ê-tam.
\s5
\v 9 Khi ấy người Phi-li-tin kéo đến và họ chuẩn bị đánh nhau trong xứ Giu-đa và sắp sẵn quân đội ở Lê-chi.  
\v 10 Người Giu-đa nói: "Tại sao mấy người kéo đến tấn công chúng ta chứ?" Họ đáp: "Chúng tôi tấn công để chúng tôi bắt cho kỳ được Sam-sôn, vì vậy chúng tôi sẽ làm cho hắn giống như hắn đã làm cho chúng tôi vậy".
\s5
\v 11 Thế rồi ba ngàn người Giu-đa đi xuống hang đá ở sườn núi Ê-tam, và họ nói với Sam-sôn: "Có phải người không biết dân Phi-li-tin là những kẻ cai trị trên chúng ta sao? Người đã làm gì cho chúng ta vậy?" Sam-sôn nói với họ: "Họ đã đối xử với tôi như thế, và tôi đã làm thế với họ".
\s5
\v 12 Họ nói với Sam-sôn: "Chúng ta đã đi xuống để trói người lại và giao cho quyền lực của người Phi-li-tin". Sam-sôn nói với họ: "Hãy thề với tôi rằng mấy người sẽ không giết ta".
\v 13  Họ nói với người: "Không, chúng ta sẽ trói người rồi giao người cho họ. Chúng ta hứa chúng ta sẽ không giết người đâu". Khi ấy họ trói người với hai sợi dây mới và đem người lên khỏi hang đá.
\s5
\v 14 Khi người đến tại Lê-chi, người Phi-li-tin la lên khi họ gặp ông. Khi ấy Thần của Đức Giê-hô-va giáng trên ông với quyền phép. Hai sợi dây trói cánh tay ông giống như tim đèn tàn, chúng rớt xuống khỏi tay ông.
\s5
\v 15 . Sam-sôn thấy cái hàm lừa còn mới, và ông nhặt nó lên rồi dùng nó giết một ngàn người.  
\v 16 Sam-sôn nói:  "Với cái hàm lừa, thây chồng trên thây.  Với cái hàm lừa, ta đã giết một ngàn người".
\s5
\v 17 Khi Sam-sôn nói xong, ông quăng cái hàm lừa đi, và chỗ đó được gọi là Ra-mát Lê-chi.  
\v 18 Sam-sôn rất khát nước, ông kêu cầu Đức Giê-hô-va và nói: "Ngài đã ban chiến thắng lớn lao nầy cho tôi tớ Ngài, nhưng giờ đây con sẽ chết vì khát, và con sẽ rơi vào tay của những kẻ không chịu cắt bì kia".
\s5
\v 19 Và Đức Chúa Trời chẻ hòn đá bộng ở tại Lê-chi, thì nước trào ra. Khi ông uống xong, sức lực ông trở lại và ông được phục hồi. Vì vậy danh xưng của nơi ấy được gọi là En Ha-cô-rê, và nơi ấy ở tại Lê-chi cho đến ngày nay.  
\v 20 Sam-sôn đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên trong những ngày dân Phi-li-tin quản hạt trong hai mươi năm.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Sam-sôn đi đến Ga-xa rồi gặp một gái điếm ở đó, và ông lên giường với nàng ta.  
\v 2 Dân Ga-xa hay được: "Sam-sôn đã đến đây". Dân Ga-xa vây quanh chỗ ấy rồi kín đáo chờ đợi ông suốt cả đêm tại cổng thành. Họ ở yên đấy suốt cả đêm. Họ đã nói: "Chúng ta hãy chờ suốt cả ngày, và rồi chúng ta hãy giết hắn".
\s5
\v 3 Sam-sôn nằm trên giường cho đến nửa đêm. Đến nửa đêm ông trở dậy và nắm cái cổng thành và hai cây cột của nó. Ông nhổ chúng lên khỏi đất, cả then gài, vác chúng trên vai mình, đưa chúng lên đỉnh núi, ở phía trước Hếp-rôn.
\s5
\v 4 Sau việc nầy Sam-sôn lại yêu một người nữ sống trong đồng bằng Xô-réc. Tên nàng là Đa-li-la.  
\v 5 Những người Phi-li-tin cầm quyền đến gặp nàng, và nói với nàng rằng: "Hãy dụ hắn để thấy sức lực lớn lao của hắn là ở chỗ nào, và làm sao chúng ta có thể thắng hơn hắn, hầu cho chúng ta có thể trói hắn để sỉ nhục hắn. Hãy làm việc nầy, và mỗi người chúng ta sẽ cho nàng 1. 100 miếng bạc".
\s5
\v 6 Và thế là Đa-li-la nói với Sam-sôn: "Làm ơn đi, hãy nói cho em biết làm sao người có sức mạnh như thế, và làm sao người ta có thể trói người lại, để người ta khống chế người?" 
\v 7 Sam-sôn nói với nàng ta: "Nếu họ cột ta với bảy sợi dây cung mới chưa bị khô, khi ấy ta trở nên yếu và giống như bao người khác".
\s5
\v 8 Khi ấy những kẻ cầm quyền người Phi-li-tin đưa đến cho Đa-li-la bảy sợi dây cung tươi chưa bị khô, và nàng ta đã trói Sam-sôn lại với chúng.  
\v 9 Bấy giờ nàng ta chứa nhiều người ở nơi kín đáo, ở phòng trong của nàng. Nàng ta nói với người: "Dân Phi-li-tin đang áp đến, Sam-sôn ơi!" Nhưng người bứt đứt những sợi dây cung như chỉ gai đụng đến lửa vậy. Và họ không biết được bí quyết sức mạnh của người.
\s5
\v 10 Khi ấy Đa-li-la nói với Sam-sôn: "Đây là cách người gạt gẫm em và nói dối với em. Làm ơn đi, hãy nói cho em biết làm sao thắng hơn người được".  
\v 11 Người nói với nàng ta: "Nếu họ trói ta bằng những sợi dây mới chưa hề được sử dụng làm việc gì, ta sẽ trở nên yếu và giống như bao người khác".  
\v 12 Vậy Đa-li-la lấy những sợi dây mới rồi dùng chúng trói người lại, rồi nói với người: "Dân Phi-li-tin áp đến kìa, hỡi Sam-sôn!" Những người kia nằm đợi ở phòng trong. Nhưng Sam-sôn bứt đứt các sợi dây khỏi hai cánh tay mình giống như chỉ có một sợi chỉ vậy.
\s5
\v 13 Đa-li-la nói với: "Mãi cho tới giờ nầy người đã gạt gẫm em và nói dối với em. Hãy nói cho em biết làm sao có thể thắng hơn người đi". Sam-sôn nói với nàng ta: "Nếu nàng cột bảy lọn tóc của ta vào trong canh chỉ của nàng, và rồi ta sẽ giống như bao người khác thôi".  
\v 14 Trong khi người nằm ngủ, Đa-li-la cột bảy lọn tóc của người vào con sẻ, rồi nói cùng người: "Hỡi Sam-sôn, dân The Phi-li-tin đang áp sát gần người kìa!" Người tỉnh giấc rồi nhổ con sẻ của khung cửi ra luôn với canh chỉ.
\s5
\v 15 Nàng ta nói với người: "Sao người lại nói: 'Anh yêu em' cho được, khi người không nói cho em biết bí quyết ấy? Người đã chế giễu em ba bận và chưa nói cho em biết làm sao người lại có sức lực lớn lao thể ấy".  
\v 16 Mỗi ngày nàng ta làm khó người với lời lẽ của mình, và nàng ta áp lực nhiều với người đến nỗi người muốn chết đi cho xong.
\s5
\v 17 Vậy Sam-sôn nói cho nàng ta biết mọi sự như sau: "Ta không hề để cho dao cạo đưa qua đầu ta, vì ta là một người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ thuở còn trong lòng mẹ ta. Nếu đầu ta bị cạo, khi ấy sức lực sẽ rời khỏi ta, và ta sẽ trở nên yếu đi và giống như bao người khác".
\s5
\v 18 Khi Đa-li-la thấy người đã nói cho nàng ta biết sự thực về mọi sự rồi, nàng ta mời gọi những người Phi-li-tin cầm quyền, nàng ta nói: "Hãy đến một lần nữa xem, vì người đã nói cho tôi biết mọi sự". Khi ấy những người Phi-li-tin cầm quyền đi đến cùng nàng, đem theo bạc trong tay họ.  
\v 19 Nàng ta để cho người ngủ trong lòng mình. Nàng ta gọi một người đến cạo đi bảy lọn tóc trên đầu người, và nàng khởi sự bắt phục người, vì sức lực người đã rời đi.
\s5
\v 20 Nàng ta nói: "Hỡi Sam-sôn, người Phi-li-tin đang áp đến người kìa!" Ông bực tỉnh giấc rồi nói: "Ta sẽ chỗi dậy như bao lần khác và làm cho mình ra thoải mái". Nhưng ông không biết rằng Đức Giê-hô-va đã lìa khỏi ông.  
\v 21 Người Phi-li-tin bắt lấy ông rồi móc hai con mắt của ông đi. Họ đưa ông xuống Ga-xa rồi cột ông bằng những sợi xiềng bằng đồng. Ông phải xây cối trong nhà ngục.  
\v 22 Nhưng tóc trên đầu ông khởi mọc lại sau khi nó đã bị cạo sạch.
\s5
\v 23 Những người Phi-li-tin tụ tập lại để dâng của lễ cho Đa-gôn thần của họ, và để vui mừng. Vì họ nói: "Thần của ta đã bắt phục Sam-sôn, kẻ thù của chúng ta, rồi đặt hắn tầm tay của chúng ta".  
\v 24 Khi ai nấy nhìn thấy người, họ ngợi khen thần của họ, vì họ nói: "Thần của chúng ta đã bắt phục kẻ thù của chúng ta rồi phó hắn cho chúng ta — kẻ hủy diệt xứ sở của chúng ta, hắn đã giết nhiều người trong chúng ta".
\s5
\v 25 Khi họ ăn mừng, họ nói: "Hãy cho đòi Sam-sôn, để hắn chọc cười cho chúng ta". Họ đưa Sam-sôn ra khỏi ngục và người đã làm cho họ bật cười. Họ bắt người đứng giữa hai cây cột.  
\v 26 Sam-sôn nói với cậu bé nắm hai tay của người: "Hãy cho phép ta chạm vào hai cây cột đỡ cả tòa nhà, hầu cho ta có thể dựa vào chúng".
\s5
\v 27 Bấy giờ, ngôi nhà đầy ắp những người nam người nữ. Tất cả những người Phi-li-tin cầm quyền đều có mặt ở đó. Đã có trên mái nhà khoảng ba ngàn người nam người nữ, họ đứng quan sát trong khi Sam-sôn làm trò cho họ xem.
\s5
\v 28 Sam-sôn kêu cầu Đức Giê-hô-va như sau: "Lạy Chúa Giê-hô-va, xin nhớ đến con! Làm ơn ban sức lực cho con chỉ lần nầy thôi, lạy Đức Chúa Trời, hầu cho con báo thù chỉ một cú giáng trên dân Phi-li-tin vì đã móc hai con mắt của con".  
\v 29 Sam-sôn đã xô hai cây cột đỡ lấy ngôi nhà, và ông đã nghiêng người đẩy chúng, một cây cột với tay phải, và cây cột kia với tay trái.
\s5
\v 30 Sam-sôn nói: "Xin cho phép con chết với người Phi-li-tin!" Người dùng hết sức mình có, và tòa nhà sụp xuống trên những người cầm quyền và trên cả dân chúng có mặt ở trong đó. Vì vậy, số người chết mà người đã giết khi gục chết còn nhiều hơn cả lúc người còn sống nữa.
\v 31 Khi ấy, các anh em của người và cả nhà cha người xuống đến, và họ lấy xác rồi đem người về chôn ở giữa Xô-rê-a và Ê-ta-ôn, ở chỗ chôn Ma-nô-a, cha người. Sam-sôn đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên trong hai mươi năm.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Có một người sống trong vùng đồi núi Ép-ra-im, và tên người là Mi-ca.  
\v 2 Người nói cùng mẹ mình rằng: " 1. 100 miếng bạc của mẹ đã bị mất đi, vì đó mẹ đã rủa sã, và con có nghe — hãy xem đây! Con có số bạc đó. Con đã lấy nó". Mẹ người nói: "Nguyện Đức Giê-hô-va chúc phước cho con, hỡi con trai ta!"
\s5
\v 3 Người trả lại 1. 100 miếng bạc cho mẹ mình và bà nói: "Ta dành riêng số bạc này cho Đức Giê-hô-va, để làm một cái tượng bằng gỗ chạm cho con trai ta và một cái tượng bằng kim loại nữa. Vì vậy giờ đây, ta trao nó lại cho con".  
\v 4 Khi ông nhận lấy số tiền rồi đưa nó cho mẹ mình, bà đã lấy hai trăm miếng bạc rồi giao nó cho người thợ kim loại, người thợ nầy làm chúng trở thành bức tượng gỗ chạm khắc và một cái tượng bằng kim loại nữa. Bức tượng ấy được đặt ở trong nhà của Mi-ca.
\s5
\v 5 Như vậy, Mi-ca có một ngôi nhà đầy hình tượng và người làm một cái ê-phót cùng các thần giữ nhà, rồi người lập một trong các con trai làm thầy tế lễ của mình.  
\v 6 Trong những ngày ấy chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên, và ai nấy làm theo mắt mình cho là phải.
\s5
\v 7 Bấy giờ, có một thanh niên ở Bết-lê-hem xứ Giu-đa, thuộc gia đình của Giu-đa, đây là một người Lê-vi. Người ở lại đó để lo chu toàn các bổn phận của mình.  
\v 8 Người rời khỏi Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa để ra đi tìm một nơi sinh sống. Khi người rời đi, người đến nhà của Mi-ca trong vùng đồi núi Ép-ra-im.
\v 9 Mi-ca nói với người: "Người từ đâu đến?" Người ấy nói như sau: "Tôi là một người Lê-vi thuộc Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa, và tôi đang đó đi đây tìm một nơi để tôi có thể ở".
\s5
\v 10 Mi-ca nói với người rằng: "Hãy sống với ta rồi làm tư vấn và làm thầy tế lễ cho riêng ta. Ta sẽ ban cho ngươi mười miếng bạc một năm, một bộ quân áo, và thức ăn của người". Vậy, người Lê-vi đến sống ở nhà của Mi-ca.
\v 11 Người Lê-vi vốn hài lòng sống với người nầy, và đối với Mi-ca, chàng thanh niên nầy trở thành một trong các con trai của người.
\s5
\v 12 Mi-ca biệt riêng người Lê-vi ra để làm các bổn phận thánh, và chàng thanh niên đó trở thành thầy tế lễ, và sống trong nhà của Mi-ca.  
\v 13 Khi ấy Mi-ca nói: "Bây giờ, ta nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ làm lành cho ta, vì người Lê-vi nầy đã trở thành thầy tế lễ của ta".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Trong thời buổi ấy chẳng có vua nào trong Y-sơ-ra-ên. Dòng dõi của Đan đang tìm kiếm một lãnh thổ để sống trong đó, vì cho tới ngày ấy họ chưa lãnh được sản nghiệp nào từ giữa các chi phái của Y-sơ-ra-ên.  
\v 2 Người Đan sai năm người từ hết thảy chi phái của họ, những người nam nào là chiến binh thuần thục từ Xô-rê-a và từ Ê-ta-ôn, đi do thám xứ. Họ nói với năm người nầy: "Hãy đi và do thám xứ". Họ đến vùng đồi núi Ép-ra-im, đến nhà của Mi-ca, và họ qua đêm ở đó.
\s5
\v 3 Khi họ ở gần nhà của Mi-ca, họ nhận ra giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Thế là họ dừng lại rồi hỏi thăm: "Ai đưa người tới đây? Người đang làm gì ở chốn này? Tại sao người ở đây?" 
\v 4 Người nói với họ: "Đây là điều Mi-ca đã làm cho tôi: Người đã thuê tôi làm thầy tế lễ cho người".
\s5
\v 5 Họ nói với người: "Làm ơn tìm kiếm lời khuyên dạy của Đức Chúa Trời, hầu cho chúng ta biết được trường hợp chuyến hành trình chúng ta đây sẽ được thành công hay không!?!" 
\v 6 Thầy tế lễ nói với họ: "Hãy đi, bình an. Đức Giê-hô-va sẽ dẫn anh em đi trong con đường mà anh em sẽ đi".
\s5
\v 7 Khi ấy năm người nầy mới rời đi rồi đến tại La-ít, và họ thấy dân sự sống ở đó đang sinh sống trong sự an ninh — giống như dân Si-đôn họ đã sống đàng hoàng. Chẳng có một dân nào đến chinh phục họ trong xứ, hoặc dân nào gây rối với họ dù là thế nào đi nữa. Họ đã sống xa cách với dân Si-đôn, và họ chẳng có phiền hà chi với ai hết.  
\v 8 Họ trở về với chia phái của họ ở Xô-rê-a Ê-ta-ôn. Người thân của họ hỏi thăm họ: "Đâu là tường trình của anh em?"
\s5
\v 9 Họ đáp: "Hãy đến! Chúng ta hãy tấn công chúng! Chúng ta đã nhìn thấy đất đai và đất ấy rất là tốt. Anh em chẳng làm gì hết sao? Đừng chậm chạp không tấn công và chinh phục xứ.  
\v 10 Khi anh em đi, anh em sẽ đến với một dân, họ nghĩ họ đang sống an ninh, còn đất đai thì thật là rộng lớn! Nguyện Đức Chúa Trời ban đất ấy cho anh em — một nơi chẳng thiếu thứ chi trên đất".
\s5
\v 11 Sáu trăm người thuộc chi phái Đan, vũ trang với các thứ binh khí, ra khỏi Xô-rê-a và Ê-ta-ôn.  
\v 12 Họ đi lên rồi đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim, trong Giu-đa. Đây là lý do tại sao dân sự gọi chỗ đấy là Ma-ha-ne Đan cho đến ngày nay; nơi ấy ở về phía Tây của Ki-ri-át Giê-a-rim.
\s5
\v 13 Họ ra khỏi đó đến vùng đồi núi của Ép-ra-im và đến tại nhà của Mi-ca.
\v 14 Khi ấy năm người đi do thám xứ La-ít nói với người thân của họ: "Có phải anh em biết rõ trong mấy ngôi nhà kia có một cái ê-phót, các thần bảo hộ gia đình, và hình tượng chạm khắc, và một tượng bằng kim loại không? Hãy quyết định ngay đi, anh em sẽ làm gì đây?"
\s5
\v 15 Vì vậy, họ qua đó và đến tại nhà của chàng thanh niên người Lê-vi, đến nhà của Mi-ca, rồi họ chào thăm người.  
\v 16 Bấy giờ sáu trăm người Đan, vũ trang với các thứ binh khí, đứng tại lối cổng vào.
\s5
\v 17 Năm người đã đi do thám xứ ra tới đó và họ lấy cái tượng chạm, cái ê-phót, và các thần bảo hộ gia đình, cùng tượng kim loại, trong khi thầy tế lễ đứng gần nơi lối cổng vào với sáu trăm người vũ trang với các thứ binh khí.  
\v 18 Khi số người nầy bước vào nhà của Mi-ca và lấy tượng chạm, cái ê-phót, mấy tượng thần bảo hộ gia đình, và tượng bằng kim loại, thầy tế lễ nói với họ: "Anh em làm điều chi vậy?"
\s5
\v 19 Họ nói với người: "Hãy im lặng đi! Hãy đặt tay vào mồm rồi đến cùng chúng ta, rồi làm cha và thầy tế lễ đối cùng chúng ta. Tốt hơn cho người làm thầy tế lễ cho nhà của một người, hay làm thầy tế lễ cho một chi phái và một họ trong Y-sơ-ra-ên?" 
\v 20 Tấm lòng của thầy tế lễ rất vui sướng. Người lấy cái ê-phót, mấy bức tượng bảo hộ gia đình, và tượng chạm kia, và đi cùng với dân sự.
\s5
\v 21 Thế là họ quay người ra đi. Họ để mấy đứa trẻ nhỏ ở đàng trước, cũng như bầy gia súc và của cải của họ.
\v 22 Khi họ đi một khoảng xa xa nhà của Mi-ca, những người ở gần nhà của Mi-ca tập trung lại với nhau, rồi họ đuổi theo người Đan.  
\v 23 Họ kêu la với người Đan, rồi họ xây lại nói với Mi-ca: "Sao người tập trung mấy kẻ kia lại chứ?"
\s5
\v 24 Người nói: "Anh em lấy cắp các tượng mà tôi đã làm, anh em lấy đi thầy tế lễ của tôi, rồi anh em rời đi. Tôi còn lại gì chứ? Anh em lại hỏi tôi: 'Điều gì làm cho anh em bối rối vậy?'" 
\v 25 Người Đan nói với người: "Anh em không nên để cho chúng ta nghe điều gì anh em nói, hoặc một số người giận dữ sẽ tấn công anh em, thì anh em và gia đình anh em sẽ bị giết" 
\v 26 Thế rồi, người Đan bèn đi đường của họ. Khi Mi-ca thấy họ quá mạnh đối với người, người trở lui về nhà mình.
\s5
\v 27 Người Đan đã lấy đi những thứ Mi-ca đã làm, cũng như thầy tế lễ của người, rồi họ đến tại La-ít, với một dân không bị quấy rối và an ninh, họ dùng gươm giết chúng rồi thiêu đốt thành phố.  
\v 28 Không có một người nào đến cứu chúng vì từ Si-đôn đến đó rất là xa, và họ không có nhờ cậy ai hết. Đó là vùng đồng bằng ở gần Bết Rê-hốp. Người Đan tái thiết lại thành phố rồi sống ở đó.  
\v 29 Họ đặt tên thành là Đan, tên của Đan tổ phụ họ, là con trai trong các con trai của Y-sơ-ra-ên. Nhưng tên của thành thường được gọi là La-ít.
\s5
\v 30 Người Đan dựng tượng chạm cho chính họ, và Giô-na-than con của Ghẹt-sôn cháu của Môi-se, ông và các con trai của ông, đều là thầy tế lễ cho chi phái Đan cho đến ngày xứ bị làm phu tù.  
\v 31 Vậy, họ thờ lạy tượng chạm của Mi-ca mà ông đã làm, bao lâu nhà của Đức Chúa Trời còn ở tại Si-lô.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Vào thời buổi ấy, khi chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên, có một người Lê-vi, sống một thời gian ngắn trong vùng sâu vùng xa của đồi núi Ép-ra-im. Ông đem theo với mình một người nữ, một người vợ lẽ xuất thân từ Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa.
\v 2  Nhưng vợ lẽ của ông không chung thủy cùng ông; nàng ta bỏ ông rồi trở lại nhà cha nàng tại Bết-lê-hem xứ Giu-đa. Nàng ở lại đó trong bốn tháng.
\s5
\v 3 Khi ấy chồng nàng trở lên theo để khuyên nàng nên quay lại. Tôi tớ của ông ở với ông, và một cặp lừa. Nàng ta đưa ông về nhà cha của mình. Khi cha của cô gái gặp ông, ông rất vui vẻ.
\v 4  Cha vợ của ông, cha của cô gái, khuyên ông nên ở lại ba ngày. Họ cùng ăn cùng uống, rồi họ qua đêm tại đó.
\s5
\v 5 Đến ngày thứ tư họ dậy sớm và ông sửa soạn ra đi, nhưng cha của cô gái nói với con rễ của mình: "Hãy dùng cái bánh để lấy sức, rồi hẳn đi".  
\v 6 Thế là hai người ngồi xuống ăn uống với nhau. Khi đó cha của cô gái nói: "Làm ơn bằng lòng qua đêm và có thì giờ vui vẻ".
\s5
\v 7 Khi người Lê-vi dậy sớm để rời đi, người cha của thiếu nữ đó giục ông ở lại, vậy ông thay đổi chương trình rồi qua đêm ở đó một lần nữa.  
\v 8 Đến ngày thứ năm, ông dậy sớm để rời đi, song cha của cô gái nói: "Hãy giữ sức, rồi đợi cho đến trưa". Thế là hai người có một bữa ăn.
\s5
\v 9 Khi người Lê-vi cùng vợ lẽ mình và gã tôi tớ chỗi dậy để ra đi, cha vợ của ông, cha của cô gái nói cùng ông: "Hãy xem, trời đã xế chiều rồi. Làm ơn ở lại tối đi, và có thì giờ vui vẻ. Hai người có thể dậy sớm vào ngày mai rồi hãy trở về nhà".
\s5
\v 10 Nhưng người Lê-vi không bằng lòng qua đêm. Ông chỗi dậy rồi ra về. Ông đi về hướng Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem). Ông có một cặp lừa đã thắng yên — và vợ lẽ đi với ông.  
\v 11 Khi họ đến gần Giê-bu, ban ngày gần như qua rồi, và gã tôi tớ nói với chủ mình: "Hãy đến, chúng ta hãy tạt vào trong thành Giê-bu-sít rồi qua đêm trong đó".
\s5
\v 12 Chủ hắn nói cùng hắn: "Chúng ta sẽ không tạt vào trong một thành của dân ngoại, họ không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta sẽ tiếp tục đi đến Ghi-bê-a."
\v 13 Người Lê-vi nói với gã tôi tớ mình: "Hãy đến, chúng ta hãy đến với một địa điểm khác, rồi qua đêm ở Ghi-bê-a hay Ra-ma."
\s5
\v 14 Vậy, họ cứ đi tiếp, và mặt trời đã lặn khi họ đến tại Ghi-bê-a, trong lãnh thổ của Bên-gia-min.  
\v 15 Họ tạt vào đó qua đêm ở trong Ghi-bê-a. Và ông ta ngồi xuống ở quảng trường thành phố, vì chẳng có ai tiếp họ vào nhà để qua đêm.
\s5
\v 16 Nhưng rồi có một cụ già lao động ở ngoài đồng về chiều đó. Ông cụ xuất thân từ vùng đồi núi Ép-ra-im, và ông ngụ một thời gian ngắn tại Ghi-bê-a. Những người sống trong địa điểm ấy là người Bên-gia-min.  
\v 17 Cụ nhướng mắt lên nhìn thấy khách lạ ở quảng trường thành phố. Ông cụ nói: "Mấy người đi đâu vậy? Mấy người từ đâu đến?"
\s5
\v 18 Người Lê-vi nói với ông cụ: "Chúng tôi từ Bết-lê-hem xứ Giu-đa đang trên đường đến vùng sâu vùng xa ở đồi núi Ép-ra-im, là chỗ mà tôi đi đến. Tôi đến thành Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa, và tôi sẽ đi đến nhà của Đức Giê-hô-va, nhưng chẳng có ai tiếp chúng tôi vào nhà của họ.  
\v 19 Chúng tôi có rơm cho lừa ăn, và có bánh cùng rượu cho tôi và nữ tớ gái của ông, và cho gã thanh niên nầy với các tôi tớ của ông. Chúng tôi chẳng thiếu chi hết".
\s5
\v 20 Ông cụ chào họ: "Chúc mấy người bình an! Tôi sẽ lo liệu cho mọi nhu cần của mấy người. Chỉ đừng qua đêm ở quảng trường thôi" 
\v 21 Thế là ông cụ đưa người Lê-vi vào trong nhà mình rồi cho hai con lừa ăn. Họ rửa chơn rồi cùng ăn uống.
\s5
\v 22 Họ có thì giờ vui vẻ, khi những người trong thành, ở quanh ngôi nhà đó, đến đập cửa. Họ nói với cụ già, là chủ nhà, như sau: "Hãy đem người mới đến nhà cụ ra, hầu cho chúng ta ngủ với hắn".  
\v 23 Ông cụ, chủ của ngôi nhà đó, đi ra gặp họ rồi nói với họ rằng: "Không được, hỡi anh em của tôi, làm ơn đừng làm việc ác nầy! Một khi người nầy là khách trong nhà tôi, đừng làm việc gian ác nầy!
\s5
\v 24 Hãy xem, con gái đồng trinh của tôi cùng vợ lẽ của ông ta đang ở đây. Hãy để tôi đưa chúng ra ngoài liền đây. Hãy xúc phạm chúng và làm với chúng bất cứ điều chi anh em thích, nhưng đừng làm một việc gian ác như thế với người nầy!" 
\v 25 Nhưng những kẻ ấy không chịu nghe lời ông, vì vậy người bắt vợ lẽ của người rồi đưa nàng ta ra cho họ. Họ túm lấy nàng ta, ngủ với nàng, rồi lạm dụng nàng suốt cả đêm, rồi lúc bình mình họ thả cho nàng ta đi.  
\v 26 Lúc bình minh, người nữ ấy về đến rồi té ngã ngay cửa nhà của ông cụ nơi có mặt chủ của nàng ta, rồi nằm ở đó cho đến khi trời sáng.
\s5
\v 27 Chủ nàng chỗi dậy sớm rồi mở cửa nhà, bước ra đặng đi đường mình. Ông có thể thấy vợ lẽ của mình đang nắm gục ở đó, với hai bàn tay trên ngạch cửa.
\v 28  Người Lê-vi nói cùng nàng: "Dậy đi. Chúng ta lên đường đó". Nhưng chẳng có câu trả lời nào hết. Ông đặt nàng lên lừa, rồi lên đường về quê nhà.
\s5
\v 29 Khi người Lê-vi về đến nhà mình, ông ta lấy một con dao, nắm lấy vợ lẽ mình, rồi chặt nàng ra, từng chi một, thành mười hai miếng, rồi gửi những chi đó đi khắp Y-sơ-ra-ên.  
\v 30 Hết thảy ai thấy điều nầy đều nói: "Một việc thể ấy chưa bao giờ được làm ra hay được thấy kể từ thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập cho đến ngày nay. Hãy suy nghĩ về điều đó! Hãy cho chúng tôi một lời khuyên! Hãy bảo chúng tôi việc phải làm!"
\s5
\c 20
\p
\v 1 Khi ấy, hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đi ra như một người, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, cũng gồm cả xứ Ga-la-át nữa, và họ tập trung lại trước mặt Đức Chúa Trời ở Mích-ba.  
\v 2 Các cấp lãnh đạo của dân sự, của hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên, ngồi vào chỗ của họ nơi hội chúng của dân sự Đức Chúa Trời — 400. 000 lính bộ, họ đã sẵn sàng dùng gươm để đánh trận.
\s5
\v 3 Bấy giờ người Bên-gia-min hay được rằng dân Y-sơ-ra-ên đã đi lên đến Mích-ba. Người Y-sơ-ra-ên nói: "Hãy kể lại cho chúng ta biết thể nào việc gian ác nầy đã xảy ra?" 
\v 4 Người Lê-vi, chồng của người nữ đã bị giết, trả lời: "Tôi đến xứ Ghi-bê-a trong lãnh thổ thuộc về người Bên-gia-min, tôi và vợ lẽ tôi, qua đêm ở đó.
\s5
\v 5 Suốt cả đêm, mấy người bà con trong xứ Ghi-bê-a đến tấn công tôi, vây quanh ngôi nhà và dự tính giết chết tôi. Họ bắt lấy rồi ngủ với vợ lẽ tôi, và nàng gục chết.  
\v 6 Tôi nắm lấy vợ lẽ tôi rồi chặt nàng ra thành nhiều mảnh, rồi gửi chúng vào từng khu vục sản nghiệp của Y-sơ-ra-ên, vì họ đã phạm sự gian ác thể ấy và sỉ nhục Y-sơ-ra-ên.  
\v 7 Bây giờ, hỡi hết thảy người Y-sơ-ra-ên, hãy phát biểu đi rồi đưa ra lời khuyên và sự chú ý đền việc nầy!"
\s5
\v 8 Hết thảy mọi người đều chỗi dậy như một người, họ nói: "Không một ai trong chúng ta sẽ vào trại mình và chẳng một ai trong chúng ta sẽ trở về nhà mình!  
\v 9 Nhưng bây giờ đây là điều mà chúng ta phải làm với Ghi-bê-a: chúng ta sẽ tấn công nó theo thứ tự bóc thăm.
\s5
\v 10 Chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm trong các chi phái của Y-sơ-ra-ên, và một trăm trong một ngàn, và một ngàn trong mười ngàn, phải tìm lương thực cho số người nầy, hầu cho khi họ đến Ghi-bê-a trong xứ Bên-gia-min, họ sẽ trừng phạt chúng vì sự gian ác mà chúng đã phạm trong Y-sơ-ra-ên".  
\v 11 Thế là hết thảy các chiến binh của Y-sơ-ra-ên tập trung chống lại thành phố, thống nhất với một mục đích.
\s5
\v 12 Các chi phái của Y-sơ-ra-ên sai người đến gặp Bên-gia-min, nói như vầy: "Sao sự gian ác nầy lại được làm ra giữa vòng anh em?  
\v 13 Vì lẽ đó, hãy trao cho chúng tôi những người ở Ghi-bê-a, hầu cho chúng tôi tử hình họ, và nhờ đó chúng tôi sẽ cất bỏ hoàn toàn điều ác nầy ra khỏi Y-sơ-ra-ên". Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe theo tiếng của anh em họ, là dân Y-sơ-ra-ên.  
\v 14 Khi ấy người Bên-gia-min tập trung lại ngoài các thành cho đến Ghi-bê-a sẵn sàng nghinh chiến chống lại Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 15 Người Bên-gia-min kéo ra từ các thành để đánh trận trong ngày ấy 26. 000 chiến sĩ, được huấn luyện dùng gươm thật thuần thục; thêm vào đó số bảy trăm người được chọn từ các cư dân ở Ghi-bê-a.  
\v 16 Giữa vòng họ là bảy trăm người thuận tay trái; từng người một có thể ném một hòn đá trúng một sợi tóc mà chẳng sai trật.
\s5
\v 17 Các chiến sĩ của Y-sơ-ra-ên, không kể số người từ chi phái Bên-gia-min, tổng cộng là 400. 000 người, họ được huấn luyện dùng gươm thuần thục trong chiến đấu. Hết thảy những người nầy đều là người của chiến trận.
\v 18 Dân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy, đi lên đến Bê-tên, rồi xin lời khuyên đến từ Đức Chúa Trời. Họ hỏi: "Ai trước nhứt tấn công Bên-gia-min thay cho chúng ta?" Đức Giê-hô-va phán: "Giu-đa sẽ tấn công trước hết".
\s5
\v 19 Dân Y-sơ-ra-ên trở dậy vào ban sáng và, đối diện với Ghi-bê-a, họ sửa soạn ra trận.
\v 20 Binh lính Y-sơ-ra-ên đi ra trận nghịch cùng Bên-gia-min. Họ dàn trận tại Ghi-bê-a.  
\v 21 Binh lính của Bên-gia-min dàn trận tại Ghi-bê-a, và họ giết 22. 000 người trong quân đội của Y-sơ-ra-ên vào ngày ấy.
\s5
\v 22 Còn binh sĩ của Y-sơ-ra-ên tự mình củng cố lại, rồi họ dàn quân ở cùng chỗ mà họ đã dàn trận vào ngày thứ nhứt.  
\v 23 Và người Y-sơ-ra-ên đi lên và họ bật khóc trước mặt Đức Giê-hô-va cho tới chiều tối. Và họ tìm kiếm sự chỉ dẫn của Đức Giê-hô-va: "Chúng tôi một lần nữa có nên đến gần giao chiến chống lại anh em của chúng tôi, là dân Bên-gia-min hay không?" Và Đức Giê-hô-va phán: "Hãy tấn công chúng!"
\s5
\v 24 Vì vậy, binh lính của Y-sơ-ra-ên ra trận chống lại binh lính của Bên-gia-min vào ngày thứ hai.  
\v 25 Vào ngày thứ hai, Bên-gia-min đi ra chống lại họ từ Ghi-bê-a và họ giết 18. 000 người từ binh lính của Y-sơ-ra-ên. Mọi người nầy đã được huấn luyện để dùng gươm mà chiến đấu.
\s5
\v 26 Khi ấy hết thảy binh sĩ của Y-sơ-ra-ên, cùng hết thảy dân sự, đi lên Bê-tên mà khóc, rồi ở đó họ ngồi xuống trước mặt Đức Giêhôva Đức Giê-hô-va và họ kiêng ăn trong ngày đó cho tới chiều tối và dâng của lễ thiêu, của lễ thù ân trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 27 Người Y-sơ-ra-ên cầu hỏi Đức Giê-hô-va — vì hòm giao ước của Đức Chúa Trời hiện diện ở đó trong thời buồi ấy,  
\v 28 và Phi-nê-a và Ê-lê-a-sa con của A-rôn, đang phục sự trước hòm vào thời buổi đó — "Chúng ta có nên ra trận chống lại người Bên-gia-min, anh em của chúng ta, hay phải dừng lại?" Đức Giê-hô-va phán: "Hãy tấn công, vì ngày mai ta sẽ giúp các con đánh bại chúng".
\s5
\v 29 Vậy Y-sơ-ra-ên đặt người trong chỗ kín đáo quanh Ghi-bê-a.  
\v 30 Binh lính của Y-sơ-ra-ên đã đánh với binh lính của Bên-gia-min trong ngày thứ ba, và họ hình thành các phòng tuyến nghịch cùng Ghi-bê-a y như họ đã làm trước đó.
\s5
\v 31 Người Bên-gia-min ra đánh trận chống lại dân sự, và họ kéo ra khỏi thành phố. Họ khởi sự giết một số người trong dân sự. Đã có khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngã chết trên chiến trường và trên các đường phố — một trong hai con đường đi lên Bê-tên, và con đường kia dẫn tới Ghi-bê-a.
\s5
\v 32 Khi ấy người Bên-gia-min nói: "Họ bị đánh bại và họ bỏ chạy khỏi chúng ta, giống như lần đầu vậy". Nhưng binh lính Y-sơ-ra-ên nói: "Chúng ta hãy quay trở lại rồi kéo chúng ra khỏi thành đến hai con đường kia".  
\v 33 Tất cả binh lính của Y-sơ-ra-ên chỗi dậy ra khỏi vị trí của họ và dàn trận cho trận đánh ở Ba-anh Tha-ma. Khi ấy binh lính của Y-sơ-ra-ên đang ẩn nấp ở các chỗ kín đáo ra khỏi vị trí của họ từ Ma-a-re Ghi-bê-a.
\s5
\v 34 Mười ngàn người trong cả Y-sơ-ra-ên được chọn chống lại Ghi-bê-a, trận chiến rất dữ dội, nhưng người Bên-gia-min không biết tai họa rất gần với họ.  
\v 35 Đức Giê-hô-va đã đánh bại Bên-gia-min trước mặt Y-sơ-ra-ên. Vào ngày ấy, binh lính của Y-sơ-ra-ên đã giết 25. 100 người của Bên-gia-min. Hết thảy những người nầy ngã chết đều là những kẻ được huấn luyện dùng gươm thuần thục để chiến đấu.
\s5
\v 36 Vậy, binh lính của Bên-gia-min đã nhìn thấy họ bị bại trận. Người Y-sơ-ra-ên đã nhường bước cho người Bên-gia-min, vì họ tin tưởng nơi những kẻ họ đặt ở các vị trí hiểm yếu tại Ghi-bê-a.  
\v 37 Khi ấy những người nào đang ẩn nấp chỗi dậy, vội vã chạy ùa vào trong Ghi-bê-a, và họ dùng gươm giết những ai còn sống trong thành phố.  
\v 38 Giờ đây, dấu hiệu được sắp đặt giữa binh lính của Y-sơ-ra-ên cùng những người ẩn nấp sẽ là một cột khói lớn bay lên ở phía ngoài thành phố
\s5
\v 39 và binh lính của Y-sơ-ra-ên sẽ lui dần khỏi trận đánh. Bấy giờ người Bên-gia-min khởi tấn công và họ giết ba mươi người của Y-sơ-ra-ên, rồi họ nói: "Chắc chắn họ đã bị đánh bại trước mặt chúng ta, giống như trong trận đánh thứ nhứt vậy".
\s5
\v 40 Song khi trụ khói bắt đầu bay lên ở phía ngoài thành, người Bên-gia-min xây lại và nhìn thấy cột khói bay lên trời từ cả thành phố.  
\v 41 Khi ấy binh lính của Y-sơ-ra-ên quay lại nghịch cùng họ. Người Bên-gia-min lấy làm kinh hãi, vì họ thấy tai họa đã giáng trên họ.
\s5
\v 42 Vì vậy họ chạy trốn trước mặt binh lính của Y-sơ-ra-ên, trốn chạy trên con đường vào trong đồng vắng. Nhưng cuộc chiến vẫn lan đến họ. Binh lính của Y-sơ-ra-ên ra khỏi các thành phố và giết họ nơi họ đứng.
\s5
\v 43 Họ bao vây người Bên-gia-min rồi truy đuổi họ; và họ truy kích họ đến Nô-ha, rồi giết họ suốt con đường về phía Đông Ghi-bê-a.  
\v 44 Từ chi phái Bên-gia-min, 18. 000 binh sĩ ngã chết, hết thảy họ được biệt riêng ra trong chiến trận.
\s5
\v 45 Họ bỏ chạy hướng về đồng vắng đến vầng đá Rim-môn. Người Y-sơ-ra-ên giết năm ngàn người trong số họ dọc theo các con đường. Họ cứ giữ việc truy kích chúng, theo sau chúng gần con đường dẫn đến Ghi-đôm, và họ giết thêm hai ngàn người nữa.  
\v 46 Tất cả các binh sĩ của người Bên-gia-min ngã xuống trong ngày ấy là 25. 000 người — những người được huấn luyện thuần thục với gươm; hết thảy họ đều được dành để cho chiến trường.
\s5
\v 47 Nhưng có sáu trăm người xây lại trốn vào đồng vắng, hướng tới vầng đá Rim-môn. Và họ ở lại vầng đá Rim-môn trong bốn tháng.  
\v 48 Binh lính Y-sơ-ra-ên xây lưng chống lại người Bên-gia-min và đã tấn công cùng giết họ — toàn bộ thành phố, gia súc, cùng mọi thứ mà họ tìm gặp. Rồi họ thiêu rụi từng thị trấn trên đường tiến quân của họ.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Bây giờ, người Y-sơ-ra-ên đã lập một lời hứa tại Mích-ba: "Không một ai trong chúng ta sẽ để cho con gái mình lấy người Bên-gia-min làm chồng".  
\v 2 Khi ấy dân sự đến tại Bê-tên và ngồi ở đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối, rồi họ bật khóc lớn tiếng cách cay đắng.  
\v 3 Họ gào lên: "Hỡi Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên ơi, sao điều nầy lại xảy ra cho Y-sơ-ra-ên, vì sẽ khuyết mất một trong các chi phái của chúng con hôm nay?"
\s5
\v 4 Qua ngày sau dân sự dậy sớm rồi dựng một bàn thờ ở đó, dâng của lễ thiêu cùng của lễ thù ân.  
\v 5 Người Y-sơ-ra-ên nói: "Có chi phái nào không tới trong hội chúng trình diện Đức Giê-hô-va không?" Vì họ đã lập một lời hứa quan trọng liên quan đến bất cứ ai không lên trình diện Đức Giê-hô-va tại Mích-ba. Họ nói: "Người đó chắc chắn sẽ bị tử hình".
\s5
\v 6 Người Y-sơ-ra-ên có lòng thương xót đối với anh em của họ là Bên-gia-min. Họ nói: "Ngày nay một chi phái đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên.  
\v 7 Ai sẽ tiếp trợ những người vợ bị bỏ lại, một khi chúng ta đã lập một lời hứa với Đức Giê-hô-va rằng chúng ta sẽ không để cho bất kỳ ai trong số họ cưới con gái chúng ta làm vợ?"
\s5
\v 8 Họ nói: "Chi phái nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên không đi lên cùng Đức Giê-hô-va tại Mích-ba?" Họ thấy rằng không một người nào đã đến với hội chúng từ Gia-be Ga-la-át.  
\v 9 Vì khi dân sự đã được lập một cách trật tự, kìa, không một người nào trong dân cư của Gia-be Ga-la-át có mặt tại đó.  
\v 10 Hội chúng bèn sai 12. 000 người dũng cảm nhất với những lời dặn dò đi đến Gia-be Ga-la-át rồi tấn công họ, giết họ, thậm chí cả phụ nữ và trẻ em.
\s5
\v 11 "Hãy làm điều nầy: anh em phải giết hết từng người nam và từng người nữ nào đã ngủ với người nam".  
\v 12 Họ tìm gặp giữa vòng những kẻ sống trong xứ Gia-be Ga-la-át bốn trăm thiếu nữ chưa hề ngủ với một người nam, rồi họ bắt lấy chúng đưa đến trại quân ở Si-lô, trong xứ Ca-na-an.
\s5
\v 13 Toàn bộ hội chúng gửi một sứ điệp dặn người Bên-gia-min nào ở tại vầng đá Rim-môn rằng họ cung ứng cho chúng sự bình an.  
\v 14 Vậy người Bên-gia-min trở về vào thời điểm đó và họ được cung ứng cho những người nữ tại Gia-be Ga-la-át. Nhưng chưa có đủ số phụ nữ cho hết thảy họ.  
\v 15 Họ lấy làm tiếc về việc đã xảy ra cho người Bên-gia-min, vì Đức Giê-hô-va đã lập một điều khoản giữa các chi phái của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 16 Khi ấy cấp lãnh đạo của hội chúng nói: "Chúng ta sẽ kiếm vợ cho người Bên-gia-min còn lại như thế nào đây, một khi những người nữ của Bên-gia-min đã bị giết?" 
\v 17 Họ nói: "Phải có một sản nghiệp cho những người Bên-gia-min còn sống kia, hầu cho một chi phái không bị tuyệt diệt khỏi Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 18 Chúng ta không thể kiếm vợ cho chúng từ các con gái của chúng ta. Vì dân Y-sơ-ra-ên đã lập một lời hứa: 'Đáng rủa thay cho kẻ nào gả vợ cho người Bên-gia-min'".  
\v 19 Vì vậy, họ nói: "Anh em biết có một lễ cho Đức Giê-hô-va mỗi năm tại Si-lô (ở phía Bắc Bê-tên, phía Đông con đường chạy thẳng tới Bê-tên đến Si-chem, và phía Nam của Lê-bô-na)."
\s5
\v 20 Họ dặn người Bên-gia-min, mà rằng: "Hãy đi ẩn mình rồi chờ đợi trong vườn nho.  
\v 21 Hãy canh giờ, lúc các thiếu nữ từ Si-lô đi ra nhảy múa, khi ấy hãy ùa đến từ các vườn nho và mỗi người trong anh em sẽ bắt lấy một người vợ từ các con gái của Si-lô, rồi trở về đất của Bên-gia-min.
\s5
\v 22 Khi cha của anh em họ đến phản đối chúng ta, chúng ta sẽ nói với họ: 'Xin cho chúng được ơn! Chúng còn sống đó vì chúng không kiếm được vợ trong chiến tranh. Và mấy ông thì vô tư đối với lời hứa, vì mấy ông không gả con gái mấy ông cho chúng'".
\s5
\v 23 Người Bên-gia-min đã làm vậy, họ lấy số người vợ mà họ cần từ những thiếu nữ nào đang nhảy múa, rồi họ đưa chúng về làm vợ cho họ. Họ bèn đi rồi trở về địa điểm cơ nghiệp của họ; họ tái thiết các thị trấn, rồi sống trong đó.  
\v 24 Khi ấy người Y-sơ-ra-ên rời khỏi chỗ ấy mà đi về nhà, mỗi người trong chi phái và họ hàng mình, và mỗi người trong sản nghiệp riêng của mình.
\s5
\v 25 Vào thời buổi ấy chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên. Ai nấy đã làm những gì là đúng theo mắt của họ.

176
08-RUT.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,176 @@
\id RUT
\ide UTF-8
\h RU-TƠ
\toc1 RU-TƠ
\toc2 RU-TƠ
\toc3 rut
\mt RU-TƠ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Trong thời các quan xét cai trị, có một nạn đói kém trong xứ. Một người đàn ông nọ từ Bết-lê-hem xứ Giu-đa cùng vợ và hai con trai mình đi đến xứ Mô-áp.
\v 2 Người đó tên là Ê-li-mê-léc, vợ người tên là Na-ô-mi. Hai con trai của người tên là Mạc-lôn và Ki-li-ôn, dân Ê-phơ-rát thuộc Bết-lê-hem, xứ Giu-đa. Họ đến xứ Mô-áp và sống tại đó.
\s5
\v 3 Sau đó, Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời, để bà ở lại cùng với hai con trai.
\v 4 Các con trai này lấy vợ từ giữa những người nữ Mô-áp; một người tên là Ọt-pa, và người kia tên là Ru-tơ. Họ định cư tại đó được khoảng mười năm.
\v 5 Sau đó cả Mạc-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để Na-ô-mi ở lại không chồng và không con.
\s5
\v 6 Khi ấy, Na-ô-mi quyết định cùng hai con dâu mình rời Mô-áp và trở về Giu-đa. Bà có nghe trong vùng Mô-áp rằng Đức Giê-hô-va đã giúp đỡ dân sự Ngài và ban cho họ lương thực.
\v 7 Vậy bà rời khỏi nơi mà bà đã sống cùng hai con dâu mình, và họ lên đường trở về xứ Giu-đa.
\s5
\v 8 Na-ô-mi bảo hai con dâu mình, “Mỗi người trong các con hãy đi, hãy trở về nhà mẹ các con. Nguyện Đức Giê-hô-va tỏ lòng trung kiên với các con, như các con đã tỏ lòng trung kiên với người đã khuất và với mẹ.
\v 9 Nguyện Đức Giê-hô-va cho mỗi người trong các con được thư thái ở nhà chồng khác. ” Sau đó bà hôn họ, và họ cất tiếng khóc.
\v 10 Họ nói với bà, “Không! Chúng con sẽ cùng mẹ trở về với dân của mẹ.”
\s5
\v 11 Nhưng Na-ô-mi đáp, “Hãy trở về, các con gái của mẹ ơi! Sao các con đi với mẹ? Mẹ vẫn còn có những con trai trong lòng cho các con để chúng làm chồng các con sao?
\v 12 Hãy trở về, hỡi các con gái của mẹ, hãy đi theo đường của các con; vì mẹ quá già để cưới chồng rồi. Nếu mẹ nói, mẹ hy vọng đêm nay sẽ có chồng và sau đó sinh con trai,
\v 13 vậy thì các con sẽ đợi cho đến khi chúng trưởng thành sao? Bấy giờ các con sẽ đợi và không cưới chồng sao? Không, các con gái của mẹ! Việc này khiến mẹ đau lòng lắm, còn hơn cả các con cảm thấy đau lòng, vì tay của Đức Giê-hô-va đã giơ ra nghịch lại mẹ.”
\s5
\v 14 Vậy, các con dâu của bà lại khóc lớn tiếng. Ọt-pa hôn từ biệt mẹ chồng mình, nhưng Ru-tơ bám theo bà.
\v 15 Na-ô-mi nói, “Này con ơi, chị dâu con đã trở về cùng dân tộc và các thần của nó rồi. Hãy trở về với chị dâu của con đi.”
\s5
\v 16 Nhưng Ru-tơ nói, “Xin mẹ đừng bắt con rời xa khỏi mẹ, vì mẹ đi nơi nào, con sẽ đi nơi đó; mẹ ở nơi nào, con sẽ ở nơi đó; dân tộc của mẹ sẽ là dân tộc của con, và Đức Chúa Trời của mẹ sẽ là Đức Chúa Trời của con.
\v 17 Mẹ chết nơi nào, con sẽ chết nơi đó, và con sẽ được chôn tại đó. Nguyện Đức Giê-hô-va phạt con càng hơn nữa, nếu bất cứ điều gì ngoại trừ sự chết chia cắt chúng ta. ”
\v 18 Khi Na-ô-mi thấy rằng Ru-tơ nhất quyết theo mình, bà thôi không thuyết phục nàng nữa.
\s5
\v 19 Vậy cả hai người lên đường cho tới khi họ đến thị trấn Bết-lê-hem. Khi họ đến Bết-lê-hem, cả thị trấn đều rất phấn khởi về họ. Những người nữ nói, “Có phải đây là Na-ô-mi không? ”
\v 20 Nhưng bà trả lời họ, “Đừng gọi tôi là Na-ô-mi. Hãy gọi tôi là Cay đắng, vì Đấng Toàn năng đã đãi tôi một cách rất cay đắng.
\v 21 Tôi ra đi dư dật, nhưng Đức Giê-hô-va đã đem tôi về nhà tay không. Vậy tại sao lại gọi tôi là Na-ô-mi, khi mà Đức Giê-hô-va đã phạt tôi, và Đấng Toàn năng đã khiến tôi khổ sở?”
\s5
\v 22 Vậy Na-ô-mi và Ru-tơ người Mô-áp, con dâu bà, trở về từ xứ Mô-áp. Họ đến Bết-lê-hem vào đầu mùa gặt lúa mạch.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Bấy giờ chồng của Na-ô-mi, Ê-li-mê-léc, có người bà con tên là Bô-ô, một người giàu có và đầy uy thế.
\v 2 Ru-tơ người Mô-áp thưa với Na-ô-mi, “Bây giờ xin mẹ cho con đi mót bông lúa ngoài đồng. Con sẽ theo bất cứ người nào mà con thấy được ơn. ” Vậy Na-ô-mi bảo nàng, “Hãy đi, con gái của mẹ.”
\s5
\v 3 Ru-tơ đi mót lúa theo các thợ gặt ngoài đồng. Nàng đến phần ruộng thuộc về Bô-ô, bà con của Ê-li-mê-léc.
\v 4 Kìa, Bô-ô đến từ Bết-lê-hem và bảo các thợ gặt, “Nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng các bạn. ” Họ trả lời ông, “Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ông.”
\s5
\v 5 Bấy giờ, Bô-ô hỏi các đầy tớ là người đang giám sát các thợ gặt, “Người thiếu nữ này là con ai? ”
\v 6 Đầy tớ giám sát các thợ gặt trả lời rằng, “Đó là thiếu nữ người Mô-áp đã trở về cùng với Na-ô-mi từ xứ Mô-áp.
\v 7 Nàng bảo tôi, Xin cho tôi mót và gom bông lúa khi tôi theo sau các thợ gặt. Vậy nàng đến đây và đã làm liên tục từ sáng đến giờ, ngoại trừ lúc nàng nghỉ ngơi một chút trong nhà.”
\s5
\v 8 Bô-ô bảo Ru-tơ, “Con có nghe ta không, hỡi con gái ta? Đừng đi mót lúa trong ruộng khác; đừng rời khỏi ruộng của ta. Trái lại, hãy ở đây và làm việc với các nữ công nhân trẻ của ta.
\v 9 Hãy để ý ở ruộng xem người ta gặt ở đâu rồi theo sau những người nữ khác. Chẳng lẽ ta không dặn những người đó đừng đụng đến con sao? Khi con khát nước, con có thể đến các vò nước và uống nước mà họ đã múc.”
\s5
\v 10 Vậy nàng sấp mình xuống trước mặt Bô-ô, cúi đầu chạm đất. Nàng thưa với ông, “Tại sao con được ơn trước mặt ông, đến nỗi ông quan tâm đến con, là một người ngoại quốc? ”
\v 11 Bô-ô trả lời và bảo nàng, “Người ta đã thuật lại cho ta về mọi điều mà con đã làm kể từ khi chồng của con qua đời. Con đã rời khỏi cha mẹ con và xứ sở của con để đi theo mẹ chồng con và đến với một dân mà con chẳng biết.
\v 12 Nguyện Đức Giê-hô-va ban thưởng cho việc làm của con. Nguyện con nhận được sự dư dật từ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng mà con đã nương náu dưới cánh Ngài.”
\s5
\v 13 Nàng trả lời, “Thưa chủ nhân, nguyện con được ơn trước mặt ông, vì ông đã an ủi con, và ông đã nói tử tế với con, dù con không phải là một trong các đầy tớ gái của ông.”
\s5
\v 14 Vào giờ ăn, Bô-ô bảo Ru-tơ, “Hãy đến đây, và ăn một chút bánh, hãy chấm miếng bánh của con trong rượu giấm. ” Nàng ngồi bên cạnh các thợ gặt, và ông đưa nàng một chút lúa mạch rang. Nàng ăn cho đến khi no và để dành phần còn lại.
\s5
\v 15 Khi nàng đứng dậy đi mót, Bô-ô ra lệnh cho người của ông rằng, “Hãy để cô ấy mót, dù ở giữa các bó lúa, và chớ nói điều gì tệ với cô ấy.
\v 16 Các bạn phải chắc chắn rút ra một số gié lúa tốt từ trong bó cho cô ấy, và bỏ lại để cô ấy mót. Đừng quở cô ấy.”
\s5
\v 17 Vậy nàng đi mót ngoài ruộng cho đến chiều tối. Sau đó nàng đập bông lúa mà nàng đã mót, và số lúa cho ra khoảng một ê-pha lúa mạch.
\v 18 Nàng vác về thành. Sau đó, mẹ chồng nàng thấy lúa mà nàng đã mót. Ru-tơ cũng đem phần lúa mạch rang còn lại trong bữa ăn của nàng và đưa cho bà.
\s5
\v 19 Mẹ chồng nàng bảo nàng, “Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã đi làm ở đâu? Nguyện người nào giúp đỡ con được phước. ” Vậy Ru-tơ kể cho mẹ chồng nàng nghe về người đàn ông sở hữu đám ruộng mà nàng đã làm việc. Nàng nói, “Người đàn ông sở hữu đám ruộng mà hôm nay con đến làm việc tên là Bô-ô. ”
\v 20 Na-ô-mi bảo con dâu bà, “Nguyện ông ấy được Đức Giê-hô-va ban phước, Đấng không ngừng trung kiên với người sống và người đã khuất. ” Na-ô-mi nói với nàng, “Người đó là bà con gần với chúng ta, một trong những người bà con có quyền chuộc tài sản của chúng ta.”
\s5
\v 21 Ru-tơ người Mô-áp nói, “Thật vậy, ông ấy bảo con, Con nên theo các thợ gặt của ta cho đến khi họ hoàn tất mùa gặt của ta. ’”
\v 22 Na-ô-mi bảo Ru-tơ, con dâu bà, “Con gái của mẹ, thật tốt khi con ra ngoài cùng với các nữ công nhân trẻ của ông ấy, để con không làm tổn hại cho bất kỳ ruộng nào khác.”
\s5
\v 23 Vậy nàng theo sát các nữ công nhân của Bô-ô để mót cho đến khi kết thúc mùa gặt lúa mạch và mùa gặt lúa mì. Và nàng ở cùng mẹ chồng mình.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Na-ô-mi, mẹ chồng nàng, bảo nàng, “Con gái của mẹ, mẹ há chẳng nên tìm một nơi cho con an thân, để mọi sự đều hanh thông với con sao?
\v 2 Bây giờ Bô-ô, người mà con đã theo làm việc với các nữ công nhân, chẳng phải là bà con của chúng ta sao? Kìa, đêm nay người sẽ đi sàng lọc lúa mạch ở sân đạp lúa.
\s5
\v 3 Vậy, con hãy tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo, rồi đi xuống sân đạp lúa. Nhưng chớ tở mình cho người đó cho đến khi người ăn uống xong.
\v 4 Và khi người nằm xuống, con hãy đảm bảo là con nhớ nơi người đó nằm để lát sau có có thể đến chỗ người, giở mền dưới chân người, và nằm ở đó. Rồi người sẽ bảo con phải làm gì. ”
\v 5 Ru-tơ trả lời Na-ô-mi, “Con sẽ làm mọi điều mẹ nói.”
\s5
\v 6 Vậy nàng đi xuống sân đạp lúa, và nàng làm theo sự hướng dẫn mà mẹ chồng nàng đã chỉ.
\v 7 Khi Bô-ô đã ăn uống và trong lòng vui mừng, ông đi nằm ở chân đống lúa mạch. Sau đó nàng nhẹ nhàng đến, giở mền dưới chân ông, và nằm xuống.
\s5
\v 8 Nửa đêm, ông giật mình. Ông nghiêng mình qua, và thấy có một người nữ đang nằm dưới chân mình!
\v 9 Ông hỏi, “Cô là ai? ” Nàng trả lời, “Con là Ru-tơ, đầy tớ gái của ông. Xin ông đắp mền của ông trên đầy tớ gái của ông, vì ông là một người bà con gần.”
\s5
\v 10 Bô-ô nói, “Con gái của ta, nguyện con được Đức Giê-hô-va ban phước. Con đã tỏ lòng tử tế về sau này còn nhiều hơn lúc ban đầu, vì con không theo bất cứ thanh niên nào, bất luận nghèo hay giàu.
\v 11 Và bây giờ, hỡi con gái ta, chớ sợ hãi! Ta sẽ làm cho con mọi điều con nói, vì cả thành phố của dân ta biết rằng con là một người phụ nữ xứng đáng.
\s5
\v 12 Bây giờ đúng là ta là bà con gần; tuy nhiên, có một người bà con còn gần hơn ta.
\v 13 Hãy ở lại đây đêm nay, và sáng mai, nếu người đó thực hiện cho con nghĩa vụ của người bà con, thì tốt, hãy để người đó làm nghĩa vụ của người bà con. Nhưng nếu người đó không thực hiện nghĩa vụ của người bà con cho con, thì ta sẽ thực hiện, bởi Đức Giê-hô-va hằng sống. Hãy nằm đây cho đến khi trời sáng.”
\s5
\v 14 Vậy nàng nằm dưới chân ông cho đến sáng. Nhưng nàng thức dậy trước khi bất kỳ ai có thể nhận ra nhau. Vì Bô-ô có nói, “Chớ để ai biết là có một người nữ đã đến sân đạp lúa. ”
\v 15 Sau đó Bô-ô bảo, “Hãy đem đến khăn choàng của con và giơ ra. ” Khi nàng làm vậy, ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch vào đó và đỡ vật gánh lên vai nàng. Rồi ông đi vào trong thành.
\s5
\v 16 Khi Ru-tơ trở về gặp mẹ chồng mình, bà hỏi, “Con gái của mẹ, thế nào rồi con? ” Vậy Ru-tơ kể cho bà nghe mọi điều ông đã làm cho nàng.
\v 17 Nàng nói, “Đây là sáu đấu lúa mạch mà ông ấy cho con, vì ông ấy nói, Chớ đi tay không về nhà mẹ chồng của con. ’”
\v 18 Na-ô-mi trả lời, “Hãy ở lại đây, con gái của mẹ, cho đến khi con biết kết quả sự việc, vì ông ấy sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi đã làm xong việc này hôm nay.”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ Bo-ô đi đến cổng thành và ngồi tại đó. Chẳng mấy chốc, người bà con gần mà Bô-ô có đề cập đi ngang qua. Bô-ô bảo ông ấy, “Bạn của tôi ơi, hãy đến và ngồi đây. ” Người ấy đến và ngồi xuống.
\v 2 Sau đó, Bô-ô dẫn đến mười trưởng lão trong thành và nói, “Xin mời ngồi đây. ” Vậy họ ngồi xuống.
\s5
\v 3 Bô-ô nói với người bà con gần, “Na-ô-mi, người đã trở về từ xứ Mô-áp, đang rao bán mảnh đất của Ê-li-mê-léc, anh chúng ta.
\v 4 Tôi nghĩ mình phải báo cho ông và nói với ông rằng, Trước mặt những người đang ngồi tại đây và trước mặt những trưởng lão của dân sự tôi, hãy mua mảnh đất ấy. Nếu anh muốn chuộc lại, thì hãy chuộc lại. Nhưng nếu anh không muốn chuộc lại, thì hãy nói với tôi, để tôi biết, vì bên cạnh anh không có ai để chuộc lại, và tôi là người sau anh. ” Vậy người kia nói, “Tôi sẽ chuộc nó.”
\s5
\v 5 Khi ấy Bô-ô trả lời, “Vào ngày anh mua ruộng từ tay của Na-ô-mi, anh cũng phải lấy Ru-tơ người Mô-áp, vợ của người đã khuất, đặng nối danh người đã khuất trên sản nghiệp của người. ”
\v 6 Vậy người bà con gần nói, “Tôi không thể chuộc mảnh đất ấy cho mình mà không làm hại đến sản nghiệp của tôi. Anh hãy lấy quyền chuộc của tôi cho anh, vì tôi không thể chuộc lại.”
\s5
\v 7 Bấy giờ, đây là phong tục trong thời trước ở Y-sơ-ra-ên về việc chuộc và trao đổi hàng hóa. Để xác nhận tất cả những điều này, người ta cởi giày mình và đưa cho người láng giềng; đây là cách thực hiện thỏa thuận hợp pháp ở Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Vậy người bà con gần nói với Bô-ô, “Chính anh hãy mua mảnh đất đó. ” Rồi ông cởi giày mình.
\s5
\v 9 Vậy Bô-ô nói với các trưởng lão và cả dân chúng, “Hôm nay các anh đều làm chứng rằng tôi đã mua tất cả mọi thứ của Ê-li-mê-léc, của Ki-li-ôn và Mạc-lôn từ tay của Na-ô-mi.
\v 10 Hơn nữa, về Ru-tơ người Mô-áp, vợ của Mạc-lôn: Tôi cũng được cưới nàng làm vợ, để tôi nối danh người đã khuất về sản nghiệp của người ấy, hầu cho danh của người không bị dứt khỏi giữa các anh em người và dân cư trong thành của người. Hôm nay các anh là nhân chứng.”
\s5
\v 11 Tất cả những người ở cổng thành và các trưởng lão nói, “Chúng tôi làm chứng. Nguyện Đức Giê-hô-va làm cho người nữ đã bước vào nhà ông như Ra-chên và Lê-a, là hai người đã xây dựng nên nhà Y-sơ-ra-ên. Và nguyện ông được thạnh vượng ở Ép-ra-tha và vang danh ở Bết-lê-hem.
\v 12 Nguyện nhà của ông như nhà của Pê-rê, là người được Tha-ma sanh ra Giu-đa, qua dòng dõi mà Đức Giê-hô-va sẽ ban cho ông với thiếu nữ này.”
\s5
\v 13 Vậy Bô-ô cưới Ru-tơ, nàng trở thành vợ của ông. Ông ngủ với nàng, và Đức Giê-hô-va cho nàng thọ thai, nàng sanh một con trai.
\v 14 Những người phụ nữ nói với Na-ô-mi, “Đáng chúc tụng Đức Giê-hô-va, Đấng ngày nay đã không để cho bà thiếu người bà con gần, là đứa trẻ này. Nguyện danh nó được nổi tiếng trong Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Nguyện nó sẽ là người làm tươi mới cuộc sống bà và an ủi bà trong lúc tuổi già, vì con dâu bà, một người yêu thương bà và đã sanh đứa bé, còn quý hơn đối với bà hơn bảy người con trai.”
\s5
\v 16 Vậy Na-ô-mi ẵm đứa bé, để vào lòng, và chăm sóc nó.
\v 17 Những người phụ nữ, hàng xóm của bà, đặt tên cho đứa bé, rằng, “Một con trai đã được sanh cho Na-ô-mi. ” Họ đặt tên đứa bé là Ô-bết. Ô-bết là cha của Gie-sê, ông của Đa-vít.
\s5
\v 18 Bấy giờ, đây là con cháu của Pê-rê: Pê-rê sanh Hết-rôn,
\v 19 Hết-rôn sanh Ram, Ram sanh Am-mi-na-đáp,
\v 20 Am-mi-na-đáp sanh Na-sôn, Na-sôn sanh Sanh-môn,
\v 21 Sanh-môn sanh Bô-ô, Bô-ô sanh Ô-bết,
\v 22 Ô-bết sanh Gie-sê, và Gie-sê sanh Đa-vít.

1671
09-1SA.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1671 @@
\id 1SA
\ide UTF-8
\h 1 SA-MU-ÊN
\toc1 1 SA-MU-ÊN
\toc2 1 SA-MU-ÊN
\toc3 1sa
\mt 1 SA-MU-ÊN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Có một người kia ở Ra-ma-tha-im Xô-phim, trong vùng đồi núi Ép-ra-im; tên người là Ên-ca-na con của Giê-rô-ham cháu của Ê-li-hu chắt của Tô-hu chít của Xu-phơ, người Ép-ra-im.  
\v 2 Người có hai vợ, tên vợ thứ nhứt là An-ne, và tên của người thứ hai là Phê-ni-na. Phê-ni-na có con, nhưng An-ne không có.
\s5
\v 3 Người nầy đi từ thành của mình hết năm nầy sang năm khác để thờ phượng và dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va vạn quân ở Si-lô. Hai con trai của Hê-li, Hóp-ni và Phi-nê-a, thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va, có mặt ở đó.  
\v 4 Khi đến ngày cho Ên-ca-na dâng của lễ mỗi năm, người luôn luôn cung cấp các phần thịt cho Phê-ni-na vợ mình, và cho các con trai con gái của nàng nữa.
\s5
\v 5 Còn với An-ne, người luôn luôn cung cấp gấp bằng hai, vì người yêu An-ne, mặc dù Đức Giê-hô-va không cho nàng có con.  
\v 6 Đối thủ của nàng đã chọc giận nàng cách nghiệt ngã để khiến nàng phải tức tối, vì Đức Giê-hô-va đã không cho nàng có con.
\s5
\v 7 Vì vậy, hết năm này sang năm khác, khi nàng đi lên nhà của Đức Giê-hô-va với gia đình mình, đối thủ của nàng luôn chọc giận nàng. Vì lẽ đó, nàng thường hay khóc và chẳng ăn uống chi hết.  
\v 8 Ên-ca-na chồng nàng luôn nói với nàng: "Hỡi An-ne, sao em khóc? Sao em không ăn uống chi hết vậy? Sao lòng em buồn bã thế? Há ta không đủ sức cho nàng hơn mười đứa trai chăng?"
\s5
\v 9 Vào dịp kia, An-ne chỗi dậy sau khi đã ăn uống xong ở Si-lô. Bấy giờ Hê-li thầy tế lễ đang ngồi trên ghế gần nơi lối vào nhà của Đức Giê-hô-va.  
\v 10 Nàng đương buồn bã lắm; nàng cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rồi khóc cách cay đắng.
\s5
\v 11 Nàng lập một lời thề như sau: "Lạy Đức Giê-hô-va vạn quân, nếu Ngài xét đến hoạn nạn của tôi tớ Ngài và đoái đến con, và đừng quên tôi tớ của Ngài, nhưng hãy ban cho tôi tớ Ngài một đứa trai, thế thì con sẽ dâng nó cho Đức Giê-hô-va trọn cuộc đời của nó, và không một dao cạo nào sẽ chạm đến da đầu nó".
\s5
\v 12 Khi nàng cứ cầu xin trước mặt Đức Giê-hô-va, Hê-li quan sát miệng nàng.  
\v 13 An-ne đã cầu xin từ trong tấm lòng mình. Môi miệng nàng cứ nhóp nhép, song không ai nghe được tiếng của nàng. Vì lẽ đó Hê-li nghĩ nàng say rượu.
\v 14 Hê-li nói cùng nàng: "Người say rượu cho đến chừng nào? Hãy bỏ rượu đi".
\s5
\v 15 An-ne đáp: "Không đâu, chúa ơi, con là một phụ nữ có tâm linh sầu khổ. Con chẳng có uống thứ rượu mạnh nào hết, nhưng con đang dốc đổ linh hồn mình ra trước mặt Đức Giê-hô-va ".  
\v 16 "Đừng xem tôi tớ của ông là một người nữ không biết xấu hổ; con đang cầu khẩn từ chỗ đau đớn và phiền ưu cả thể của con".
\s5
\v 17 Khi ấy Hê-li đáp trả như sau: "Hãy đi bình an; nguyện Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ưng nhận lời cầu xin mà nàng đã dâng lên Ngài".  
\v 18 Nàng nói: "Nguyện tôi tớ ông được ơn trước mặt ông". Khi ấy người nữ đi đường mình rồi ăn; nét buồn trên mặt nàng không còn nữa.
\s5
\v 19 Họ thức dậy sớm thờ lạy trước mặt Đức Giê-hô-va, và rồi một lần nữa họ trở về nhà mình ở Ra-ma. Ên-ca-na ngủ với An-ne vợ mình, và Đức Giê-hô-va đoái đến nàng.
\v 20  Khi đúng kỳ, An-ne có thai và sanh một con trai. Nàng đặt tên cho nó là Sa-mu-ên: "Vì ta đã cầu xin nó nơi Đức Giê-hô-va ".
\s5
\v 21 Một lần nữa, Ên-ca-na và cả nhà người, đi lên dâng của lễ hàng năm cho Đức Giê-hô-va và trả sự hứa nguyện mình.  
\v 22 Nhưng An-ne không đi; nàng nói với chồng mình: "Em sẽ không đi cho đến khi đứa trẻ thôi bú; khi ấy em sẽ đem nó theo, hầu cho nó trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va rồi vĩnh viễn sống ở đó".
\v 23 Ên-ca-na chồng nàng nói như sau: "Hãy làm điều chi là tốt lành đối với em. Hãy đợi cho đến khi em dứt sữa nó; nguyện Đức Giê-hô-va làm cho lời Ngài ra chắc". Thế là người nữ nầy ở lại và nuôi dạy đứa trẻ cho đến khi nó thôi bú.
\s5
\v 24 Khi nàng dứt sữa nó, nàng đem nó theo với mình, cùng với con bò đực ba tuổi, một ê-pha bột, và một chai rượu, rồi đưa nó đến nhà của Đức Giê-hô-va tại Si-lô. Bấy giờ đứa trẻ hãy còn nhỏ lắm.  
\v 25 Họ giết con bò đực, và họ đem đứa trẻ đến cho Hê-li.
\s5
\v 26 Nàng nói: "Ồ, chúa của con ơi! Theo như ông đang sống đấy, chúa của con ơi, con là người nữ đã đứng ở đây gần ông mà cầu xin với Đức Giê-hô-va.  
\v 27 Vì đứa trẻ nầy con cầu xin và Đức Giê-hô-va đã ban cho con điều con cầu xin mà con đã khẩn nguyện với Ngài.  
\v 28 Con đã dâng nó cho Đức Giê-hô-va; cho Ngài mượn trọn đời sống của nó". Và Ên-ca-na cùng gia đình mình thờ lạy Đức Giê-hô-va ở đó.
\s5
\c 2
\p
\v 1 An-ne cầu nguyện như sau:  "Lòng tôi hả hê trong Đức Giê-hô-va.  Sừng tôi ngước cao lên trong Đức Giê-hô-va.  Miệng tôi kiêu hãnh trước kẻ thù nghịch tôi,  vì tôi vui mừng trong sự cứu rỗi tôi. 
\s5
\v 2 Chẳng có ai thánh như Đức Giê-hô-va,  vì chẳng có ai khác hơn Ngài;  chẳng có vầng đá nào giống như Đức Chúa Trời của chúng ta.
\s5
\v 3 Đừng nói cách kiêu kỳ nữa;  chớ để một sự thiếu hiểu biết nào ra khỏi miệng ngươi.  Vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tri thức;  mọi việc làm đều được Ngài xem xét.  
\v 4 Cây cung của những kẻ mạnh sức bị gãy đi,  nhưng người nào hay vấp ngã sẽ mặc lấy sức lực làm dây nịt lưng.
\s5
\v 5 Người nào hay no nê phải tự mình làm thuê mới có bánh mà ăn;  người nào hay đói thôi không còn đói khát nữa.  Ngay cả kẻ son sẻ sanh sản bảy lần,  nhưng người nữ nào có nhiều con phải yếu mỏn.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va giết cho chết rồi làm cho sống.  Ngài đem xuống mồ mã rồi làm cho sống lại.  
\v 7 Đức Giê-hô-va làm cho nghèo nàn, rồi Ngài làm cho giàu có.  Ngài hạ xuống, nhưng Ngài cũng nhắc lên cao.
\s5
\v 8 Ngài đem kẻ khốn cùng ra khỏi bụi đất. Ngài rút kẻ nghèo ra khỏi đống phân để khiến họ ngồi với các quan trưởng và thừa hưởng ngai vinh hiển.  Vì các trụ của trái đất đều thuộc về Đức Giê-hô-va và Ngài đặt thế gian ở trên chúng.
\s5
\v 9 Ngài canh giữ chân của hạng người trung tín của Ngài,  nhưng kẻ ác sẽ bị cầm phải im lặng trong nơi tối tăm,  vì chẳng có ai sẽ chiến thắng bằng sức lực.
\s5
\v 10 Người nào chống đối Đức Giê-hô-va sẽ bị bẻ gãy thành từng mảnh;  Ngài sẽ sấm sét chống lại họ từ trên trời.  Đức Giê-hô-va sẽ xét đoán cho đến các đầu cùng đất,  Ngài sẽ ban sức lực cho vua của Ngài và làm cho sừng kẻ từng xức dầu của Ngài được ngước cao lên".
\s5
\v 11 Khi ấy Ên-ca-na về Ra-ma, đến nhà của mình. Đứa trẻ hầu việc Đức Giê-hô-va trong sự hiện diện của thầy tế lễ Hê-li.
\s5
\v 12 Bấy giờ hai con trai Hê-li là những kẻ không ra gì. Họ không nhận biết Đức Giê-hô-va.  
\v 13 Thói tục của hai thầy tế lễ đối với dân sự là như vầy: khi có bất kỳ ai đến dâng của lễ, tôi tớ của thầy tế lễ sẽ đến cầm chĩa ba nơi tay, đang khi thịt còn đang nấu.  
\v 14 Hắn sẽ dùng chĩa ba thọc vào cái vạc, hay chảo, hoặc nồi. Mọi thứ dân sự mang đến thầy tế lễ sẽ lấy cho bản thân mình. Họ đã làm việc nầy tại Si-lô với hết thảy người Y-sơ-ra-ên nào đến đó.
\s5
\v 15 Thay vì thế, trước khi họ thiêu mỡ, tôi tớ thầy tế lễ đến, họ nói với người dâng của lễ: "Hãy trao thịt để nướng cho thầy tế lễ; vì người sẽ không nhậm thịt luộc từ anh em, mà chỉ lấy thịt sống mà thôi".  
\v 16 Nếu người kia nói: "Họ phải thiêu mỡ trước, rồi khi ấy hãy lấy bao nhiêu thì lấy". Hắn sẽ nói: "Không, anh em phải trao thịt ấy cho tôi ngay bây giờ; bằng không, tôi sẽ dùng sức mà lấy".
\v 17 Tội lỗi của hai thanh niên nầy rất lớn trước mặt Đức Giê-hô-va, vì họ khi dễ của lễ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Nhưng Sa-mu-ên phục vụ Đức Giê-hô-va như một đứa trẻ mặc lấy cái ê-phót bằng vải gai mịn.  
\v 19 Mẹ người may cho người cái áo dài nhỏ và từng năm một đem áo đến cho người, khi bà đến với chồng để dâng của lễ hàng năm.
\s5
\v 20 Hê-li chúc phước cho Ên-ca-na và vợ người như sau: "Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho ông có nhiều con cái bởi người nữ nầy vì cớ lời khẩn cầu mà vợ ông đã lập với Đức Giê-hô-va ". Khi ấy họ trở về nhà của mình.  
\v 21 Đức Giê-hô-va một lần nữa giúp cho An-ne, và người lại có thai nữa. Nàng sanh ba người con trai và hai con gái. Đồng thời, đứa trẻ Sa-mu-ên lớn lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 22 Lúc đó Hê-li đã cao tuổi rồi; ông nghe biết mọi sự mà hai con trai ông đã làm cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, và thể nào họ đã ngủ với những người nữ nào đến phục vụ tại lối vào nơi nhóm lại.  
\v 23 Ông nói với họ: "Sao chúng bay lại làm những việc thể ấy? Vì ta nghe nói tới mọi hành vi gian ác của bay từ hết thảy dân nầy".  
\v 24 Không, hỡi các con ta; vì ta chẳng nghe thấy một tường trình nào tốt cả. Bay làm cho dân sự của Đức Giê-hô-va ra bất tuân.
\s5
\v 25 "Nếu người nầy phạm tội nghịch cùng người khác, Đức Chúa Trời sẽ xét đoán người ấy; nhưng nếu một người nghịch cùng Đức Giê-hô-va, ai sẽ nói thay cho?" Nhưng chúng không nghe theo tiếng của cha mình, vì Đức Giê-hô-va đã dự tính giết họ.  
\v 26 Con trẻ Sa-mu-ên lớn lên, và càng được ơn với Đức Giê-hô-va và cũng với dân sự.
\s5
\v 27 Bấy giờ, có người của Đức Chúa Trời đến với Hê-li rồi nói với ông như vầy: "Đức Giê-hô-va phán: 'Há ta chẳng tỏ mình cho nhà tổ phụ ngươi, khi họ còn sống trong vòng nô lệ tại xứ Ai-cập trong nhà của Pha-ra-ôn sao?  
\v 28 Ta đã chọn ngươi từ các chi phái Y-sơ-ra-ên để làm thầy tế lễ của ta, đến gần bàn thờ ta, rồi xông hương, đeo cái ê-phót trước mặt ta. Ta đã ban cho nhà tổ phụ ngươi mọi của lễ của dân Y-sơ-ra-ên dùng lửa dâng lên.
\s5
\v 29 Vậy thì tại sao, có phải ngươi khi dễ các thứ con sinh của của dâng mà ta đã buộc trong chỗ mà ta ngự chăng? Tại sao ngươi xem trọng hai đứa con trai kia hơn cả ta bằng cách khiến cho chúng mập béo với của dâng tốt nhứt của Y-sơ-ra-ên dân sự ta?' 
\v 30 Về phần Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: 'Ta đã hứa rằng nhà ta, và nhà của tổ phụ ngươi, sẽ đi trước mặt ta cho đến đời đời'. Nhưng bây giờ Đức Giê-hô-va phán: 'Đối với ta, ta không làm như thế nữa, vì ta sẽ trọng người nào kính trọng ta, còn những kẻ nầy khi dễ ta sẽ bị sẽ bị xem nhẹ lại.
\s5
\v 31 Hãy xem, những ngày hầu đến khi ta sẽ dứt bỏ năng lực ngươi và sức mạnh của nhà tổ phụ ngươi, hầu cho sẽ chẳng còn có một người nào cao tuổi trong nhà ngươi.
\v 32 Ngươi sẽ thấy tai vạ trong chỗ mà ta đang ngự. Mặc dù ơn phước sẽ được ban cho Y-sơ-ra-ên, sẽ chẳng còn có người già nào trong nhà ngươi nữa.
\v 33 Bất kỳ ai trong nhà ngươi mà ta không dứt khỏi bàn thờ ta, ta sẽ khiến cho hai con mắt của người bị làng đi, và ta sẽ khiến đau khổ cho cả đời ngươi. Mọi người nam sanh trong gia đình ngươi sẽ ngã chết.
\s5
\v 34 Đây sẽ là dấu cho ngươi, nó sẽ đến trên hai con trai ngươi, trên Hóp-ni và Phi-nê-a: Cả hai chúng sẽ ngã chết cùng một ngày.  
\v 35 Ta sẽ dấy lên cho ta một thầy tế lễ trung tín, người ấy sẽ làm những điều có ở trong lòng ta và trong linh hồn ta. Ta sẽ xây cho người một ngôi nhà chắc chắn; và người sẽ đi trước mặt nhà vua được xức dầu của ta cho đến đời đời.
\s5
\v 36 Từng người nào còn sót lại trong nhà người sẽ đến và sấp mình xuống trước mặt người ấy, cầu xin một miếng bạc và một ổ bánh, rồi nói: "Làm ơn phong cho tôi một chức tế lễ hầu cho tôi có bánh ăn".
\s5
\c 3
\p
\v 1 Con trẻ Sa-mu-ên hầu việc Đức Giê-hô-va dưới quyền của Hê-li. Lời của Đức Giê-hô-va vốn rất hiếm hoi trong thời buổi ấy; chẳng thường có khải tượng tiên tri nào hết.  
\v 2 Lúc bấy giờ, khi Hê-li, mắt người khởi sự làng đi nên người không thấy rõ được, đang nằm nghỉ trên giường,  
\v 3 Ngọn đèn của Đức Chúa Trời chưa tắt, còn Sa-mu-ên đang nằm ngủ trong nhà của Đức Giê-hô-va, nơi có hòm giao ước của Đức Chúa Trời.  
\v 4 Đức Giê-hô-va gọi Sa-mu-ên, người đáp: "Có con đây".
\s5
\v 5 Sa-mu-ên chạy đến gần Hê-li rồi nói: "Có con đây, vì ông đã gọi con". Hê-li nói: "Ta không có gọi con; hãy về nghỉ đi". Vậy, Sa-mu-ên đi rồi nằm xuống nghỉ.  
\v 6 Một lần nữa Đức Giê-hô-va gọi: "Hỡi Sa-mu-ên". Sa-mu-ên lại chỗi dậy đến gần Hê-li rồi nói: "Có con đây, vì ông đã gọi con". Hê-li đáp: "Ta không có gọi con, con trai ta; hãy về nghỉ đi".
\s5
\v 7 Bấy giờ, Sa-mu-ên chưa có kinh nghiệm gì về Đức Giê-hô-va, cũng chẳng có một sứ điệp nào đến từ Đức Giê-hô-va được tỏ ra cho người.  
\v 8 Đức Giê-hô-va lại gọi Sa-mu-ên lần thứ ba. Sa-mu-ên lại chỗi dậy đến gần Hê-li rồi nói: "Có con đây, vì ông đã gọi con". Khi ấy Hê-li nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va đã gọi đứa trẻ.
\s5
\v 9 Thế rồi Hê-li nói với Sa-mu-ên: "Hãy về nghỉ đi; nếu Ngài gọi con nữa, con phải nói: 'Lạy Đức Giê-hô-va, xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang nghe'" Vậy Sa-mu-ên về nằm xuống chính chỗ đó một lần nữa.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va đến đứng ở đó; Ngài gọi y như bao lần khác: "Hỡi Sa-mu-ên, hỡi Sa-mu-ên". Khi ấy, Sa-mu-ên nói: "Xin hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe".  
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-mu-ên: "Hãy xem, ta sắp sửa làm ra một việc trong Y-sơ-ra-ên mà tai ai nghe thấy điều đó sẽ lắc đầu.
\s5
\v 12 Vào ngày đó ta sẽ tỏ ra mọi sự nghịch cùng Hê-li mà ta đã nói về nhà của ông ta, từ trên xuống dưới.  
\v 13 Ta đã nói với người rằng ta sắp sửa xét đoán nhà người một lần đủ cả về tội lỗi mà người đã biết rồi, vì các con trai người đã đem sự rủa sả giáng trên chính mình họ mà người không ngăn cản chúng.  
\v 14 Vì cớ điều nầy ta đã thề với nhà của Hê-li rằng tội lỗi của nhà người chưa hề được chuộc bởi con sinh hay của lễ".
\s5
\v 15 Sa-mu-ên nằm đó cho tới sáng; khi ấy người mở hai cánh cửa của nhà Đức Giê-hô-va. Nhưng Sa-mu-ên vốn sợ Hê-li không nói cho Hê-li biết về mặc khải kia.
\v 16 Khi ấy, Hê-li gọi Sa-mu-ên rồi nói: "Hỡi Sa-mu-ên, con trai ta". Sa-mu-ên đáp: "Có con đây".
\s5
\v 17 Hê-li nói: "Ngài phán cùng con điều gì nào? Làm ơn đừng giấu điều đó khỏi ta. Nguyện Đức Chúa Trời làm thế với con, và thậm chí nhiều hơn nữa, nếu con giấu bất cứ điều gì trong mọi lời mà Ngài đã phán cùng con".
\v 18 Sa-mu-ên thuật lại cho ông ấy biết mọi sự; người không giấu một chút gì hết. Hê-li nói: "Đó là Đức Giê-hô-va. Nguyện Ngài làm điều gì theo Ngài là tốt lành".
\s5
\v 19 Sa-mu-ên lớn lên, và Đức Giê-hô-va ở với người và chẳng để một lời tiên tri nào của Ngài không thành ra sự thực.  
\v 20 Hết thảy Y-sơ-ra-ên từ Đan cho đến Bê-e Sê-ba đều biết rằng Sa-mu-ên đã được xức dầu làm tiên tri của Đức Giê-hô-va.  
\v 21 Đức Giê-hô-va lại hiện ra ở Si-lô, vì Ngài đã tỏ chính mình Ngài ra cho Sa-mu-ên tại Si-lô bằng lời của Ngài.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Lời của Sa-mu-ên đã đến với hết thảy dân Y-sơ-ra-ên.  Bấy giờ Israel ra trận đánh với dân Phi-li-tin. Họ đến đóng trại tại Ê-bên-ê-xe và người Phi-li-tin đến đóng trại tại A-phéc.  
\v 2 Người Phi-li-tin dàn quân đánh với Y-sơ-ra-ên. Khi trận đánh nổ ra, Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại, họ giết bốn ngàn người tại bãi chiến trường.
\s5
\v 3 Khi dân sự về đến trại quân, các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên nói: "Tại sao Đức Giê-hô-va để cho chúng ta bại trận hôm nay trước mặt dân Phi-li-tin? Chúng ta hãy đem hòm bảng chứng của Đức Giê-hô-va từ Si-lô đến đây, để hòm ấy ở đây với chúng ta, hầu cho hòm ấy giữ chúng ta được an toàn tránh quyền lực của kẻ thù".  
\v 4 Vậy, dân sự sai người đến Si-lô; từ đó họ mang hòm bảng chứng của Đức Giê-hô-va vạn quân đến, là Đấng ngự trên chê-ru-bin. Hai con trai của Hê-li, Hóp-ni và Phi-nê-a, có mặt ở đó với hòm bảng chứng của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 5 Khi hòm bảng chứng của Đức Giê-hô-va vào đến trại quân, hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều hô to lớn tiếng, và đất đã rúng động.  
\v 6 Khi dân Phi-li-tin nghe thấy tiếng ồn đó, họ nói: “Tiếng hô to bên phía trại quân của dân Hê-bơ-rơ có nghĩa gì chứ?" Rồi họ nhận ra rằng hòm của Đức Giê-hô-va đã vào đến trại quân.
\s5
\v 7 Người Phi-li-tin lấy làm sợ hãi; họ nói: "Đức Chúa Trời đã vào đến trại quân". Họ nói: "Khốn nạn cho chúng ta rồi! Chưa hề có việc nầy xảy ra trước đây!  
\v 8 Khốn nạn cho chúng ta! Ai sẽ bảo vệ chúng ta tránh được sức mạnh của Đức Chúa Trời toàn năng nầy? Đây là Đức Chúa Trời, là Đấng đã tấn công người Ai-cập với đủ loại dịch lệ trong đồng vắng.  
\v 9 Hãy can đảm lên, và đáng mặt trượng phu, hỡi người Phi-li-tin anh em, hay anh em sẽ trở thành nô lệ cho người Hê-bơ-rơ như họ đã làm nô lệ cho anh em. Hãy trượng phu đi, và hãy chiến đấu".
\s5
\v 10 1Dân Phi-li-tin đã chiến đấu, và dân Y-sơ-ra-ên bị đánh bại. Từng người bỏ trốn về nhà mình, và cuộc tàn sát là lớn lắm; vì ba mươi ngàn lính bộ trong Y-sơ-ra-ên đã ngã chết.  
\v 11 Hòm của Đức Chúa Trời bị cướp đi, và hai con trai của Hê-li, Hóp-ni và Phi-nê-a, đã ngã chết.
\s5
\v 12 Một người Bên-gia-min đã trốn khỏi chiến trường rồi đến tại Si-lô cùng ngày ấy, người đến đó với quần áo rách tươm và đất đầy đầu người.  
\v 13 Khi người đến, Hê-li đang ngồi trên ghế gần con đường, cứ trông ngóng vì tấm lòng run rẩy với lo toan về hòm của Đức Chúa Trời. Khi người kia bước vào thành rồi thuật lại các tin tức, cả thành đều nhốn nháo.
\s5
\v 14 Khi Hê-li nghe thấy tiếng nhốn nháo đó, ông nói: "Ý nghĩa của tiếng ồn nầy là gì vậy?" Người kia mau bước tới kể lại cho Hê-li nghe.  
\v 15 Bấy giờ Hê-li đã chín mươi tám tuổi; hai mắt ông đã làng, và ông không thể thấy được.
\s5
\v 16 Người đó nói với Hê-li: "Tôi là người từ tuyến đầu về đây. Tôi trốn khỏi chiến trường hôm nay". Rồi ông nói: "Hỡi con ta, chiến trường đã thế nào rồi?"
\v 17 Người đem tin tức về đáp lại như sau: " Y-sơ-ra-ên trốn chạy trước người Phi-li-tin. Cũng đã có thất bại lớn lắm giữa vòng dân sự. Hai con trai của ông, Hóp-ni và Phi-nê-a, đã chết, còn hòm của Đức Chúa Trời đã bị chiếm lấy rồi".
\s5
\v 18 Khi hắn nhắc tới hòm của Đức Chúa Trời, Hê-li bật ngửa ra sau ghế ngồi bên cổng thành. Cổ ông bị gãy, và ông qua đời, vì ông đã già và nặng nề. Ông đã xét đoán Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm.
\s5
\v 19 Bấy giờ, con dâu của ông, vợ của Phi-nê-a, có thai và sắp sửa sinh. Khi nàng nghe được các tin tức cho rằng hòm của Đức Chúa Trời đã bị chiếm đi, cha chồng mình và chồng mình đã ngã chết, nàng quỵ xuống rồi sanh con, nhưng nỗi đau đớn khi sinh con áp lấy nàng.
\v 20 Những người đàn bà có mặt lúc nàng sắp chết nói rằng: "Đừng sợ, vì cô đã sanh một con trai". Nhưng nàng không trả lời hay nhận vào lòng mọi điều họ đã nói.
\s5
\v 21 Nàng đặt tên cho đứa trẻ là Y-ca-bốt, rồi nói như vầy: "Sự vinh hiển đã lìa khỏi nhà Y-sơ-ra-ên!" vì hòm của Đức Chúa Trời đã bị chiếm lấy, và vì cớ cha chồng cùng chồng của nàng.
\v 22 Nàng nói: "Sự vinh hiển đã lìa khỏi Y-sơ-ra-ên, vì hòm của Đức Chúa Trời đã bị chiếm lấy".
\s5
\c 5
\p
\v 1 Bấy giờ dân Phi-li-tin chiếm lấy hòm của Đức Chúa Trời, và họ mang hòm đi từ Ê-bên-ê-xe đến to Ách-đốt.  
\v 2 Dân Phi-li-tin lấy hòm của Đức Chúa Trời, đưa nó vào nhà của Đa-gôn, rồi đặt hòm ở bên cạnh trước mặt Đa-gôn.  
\v 3 Khi dân Ách-đốt qua ngày sau dậy sớm, kìa, Đa-gôn ngã sấp mặt xuống đất ở trước hòm của Đức Giê-hô-va. Vậy họ dựng Đa-gôn dậy rồi đặt hắn vào đúng vị trí trước đó.
\s5
\v 4 Nhưng khi họ dậy sớm vào sáng hôm sau, kìa, Đa-gôn ngã sấp mặt xuống đất ở trước hòm của Đức Giê-hô-va. Đầu của Đa-gôn và cả hai tay hắn bị rời lìa ra nằm ngay nơi cửa. Chỉ có cái mình của Đa-gôn là còn lại.
\v 5 Đây là lý do tại sao, cho đến ngày nay, thầy tế lễ của Đa-gôn và bất kỳ ai đến trong nhà của Đa-gôn không bước qua ngạch cửa ở Ách-đốt.
\s5
\v 6 Tay của Đức Giê-hô-va giáng họa nặng nề trên dân sự Ách-đốt. Ngài hủy diệt họ và giáng trên chúng với nhiều khối u, cả hai: Ách-đốt cùng lãnh thổ của nó.
\v 7 Khi dân sự Ách-đốt nhận ra mọi chuyện, họ nói: "Hòm của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên không nên ở lại với chúng ta, vì tay của Ngài khó chịu nghịch cùng chúng ta và nghịch cùng Đa-gôn thần của chúng ta".
\s5
\v 8 Vì vậy, họ gửi mời tập trung hết các quan trưởng của dân Phi-li-tin; họ nói với chúng như vầy: "Chúng ta sẽ làm gì với hòm của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên?" Chúng đáp: "Hãy để cho hòm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đi đến Gát". Và họ mang hòm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đến đó.  
\v 9 Nhưng sau khi họ đem hòm đi, tay của Đức Giê-hô-va nghịch cùng thành ấy, gây ra một sự rối loạn lớn lắm. Ngài giáng họa cho dân trong thành, cả lớn và nhỏ; và nhiều khối u mọc trên họ.
\s5
\v 10 Vì vậy, họ đưa hòm Đức Chúa Trời đến tại Éc-rôn. Nhưng không bao lâu sau khi hòm Đức Chúa Trời vào đến Éc-rôn, dân Éc-rôn la lên mà rằng: "Họ đưa đến cho chúng ta hòm Đức Chúa Trời của để giết chúng ta và dân sự của chúng ta".
\s5
\v 11 Vì vậy, họ cho mời và nhóm các quan trưởng dân Phi-li-tin lại; họ nói với chúng rằng: "Hãy đưa hòm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đi đi, và hãy để nó trở lại đúng chỗ của nó, hầu cho nó không giết chúng tôi và dân sự của chúng tôi". Vì đã có hoảng loạn chết chóc khắp cả thành phố; tay của Đức Chúa Trời giáng họa nặng nề ở đó.  
\v 12 Những kẻ nào không chết thì bị giáng họa với nhiều khối u, và tiếng kêu la của thành lên đến các từng trời.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Bấy giờ hòm của Đức Giê-hô-va ở trong xứ của người Phi-li-tin trong bảy tháng.  
\v 2 Khi ấy, người Phi-li-tin gọi những thầy tế lễ và các thuật sĩ đến; họ nói với chúng: "Chúng ta sẽ làm gì với hòm của Đức Giê-hô-va? Xin nói cho chúng tôi biết làm cách nào chúng tôi gửi trả nó về xứ của nó".
\s5
\v 3 Các thầy tế lễ cùng những thuật sĩ đáp: "Nếu anh em gửi hòm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên về lại, đừng gửi hòm đi mà không có tặng phẩm; tức là dâng cho Ngài của lễ chuộc sự mắc lỗi. Khi ấy anh em sẽ được chữa lành, và anh em sẽ nhận biết lý do tại sao tay Ngài cứ giơ lên trên anh em cho tới bây giờ".  
\v 4 Thế rồi họ nói: "Của lễ chuộc lỗi là như thế nào để chúng tôi dâng cho Ngài?" Chúng đáp: "Năm khối u bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, năm là con số y như số các quan trưởng của dân Phi-li-tin. Vì chính dịch lệ nầy giáng trên anh em và các quan trưởng của anh em.
\s5
\v 5 Vậy, anh em phải lấy mẫu các khối u đó, và lấy mẫu con chuột đang phá hại xứ sở, và dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Có lẽ Ngài sẽ giở tay Ngài khỏi anh em, khỏi các thần của anh em, và khỏi xứ sở của anh em.
\v 6  Tại sao anh em lại cứng lòng, giống như người Ai-cập và Pha-ra-ôn đã làm cứng lòng họ chứ? Đấy là khi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đối xử nghiệt ngã với họ; có phải người Ai-cập không để cho dân sự ra đi, và họ đã rời khỏi đó?
\s5
\v 7 Vậy thì bây giờ, hãy sửa soạn một cái xe mới với hai con bò còn cho bú, chưa mang ách. Hãy cột đôi bò vào xe, nhưng đưa các con nhỏ của nó vào chuồng, cách biệt với chúng.  
\v 8 Tiếp đến, hãy lấy hòm của Đức Giê-hô-va rồi đặt nó vào trong xe. Hãy đặt mấy cái hình bằng vàng mà anh em dâng lại cho Ngài làm của lễ chuộc sự mắc lỗi vào trong một cái hộp đặt bên hông cái xe. Khi ấy hãy để cho nó đi và nguyện nó sẽ đi theo đường riêng của nó.
\v 9  Tiếp đến hãy canh chừng; nếu nó đi theo con đường lên xứ của nó tại Bết Sê-mết, khi ấy chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã thực thi các tai họa lớn lao nầy. Nhưng nếu không phải, khi ấy chúng ta sẽ biết đấy chẳng phải là tay Ngài đã giáng họa trên chúng ta; thay vì thế, chúng ta sẽ biết mọi sự xảy ra cho chúng ta chỉ là tình cờ mà thôi".
\s5
\v 10 Dân sự làm theo những điều họ nói; họ bắt hai con bò còn cho bú, cột chúng vào chiếc xe, rồi nhốt mấy con bò con của chúng vào chuồng.  
\v 11 Họ đặt hòm của Đức Giê-hô-va lên xe, cùng với cái hộp đựng mấy con chuột bằng vàng và mẫu của các khối u của họ.  
\v 12 Hai con bò đi thẳng theo hướng Bết Sê-mết. Chúng đi dọc theo con đường lớn, vừa đi vừa rống, và chúng cũng không xây qua bên trái hay bên phải. Các quan trưởng người Phi-li-tin đã đi theo sau chúng cho đến biên giới Bết Sê-mết.
\s5
\v 13 Bấy giờ dân sự ở Bết Sê-mết đang thu hoạch lúa trong đồng bằng. Khi họ ngước mắt lên và nhìn thấy chiếc hòm, họ rất đỗi vui mừng.
\s5
\v 14 Chiếc xe đã vào đến địa phận của Giô-suê từ thị trấn Bết Sê-mết rồi dừng lại ở đó. Có một hòn đá lớn tại đó, và họ chẻ chiếc xe ra lấy gỗ, và dâng hai con bò làm của lễ thiêu dâng lên Đức Giê-hô-va.  
\v 15 Người Lê-vi đem hòm giao ước và cái hộp trong xe xuống, ở đó có những món bằng vàng, rồi đặt chúng trên hòn đá lớn. Dân sự ở Bết Sê-mết dâng của lễ thiêu và dâng con sinh trong ngày đó cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Khi năm quan trưởng của người Phi-li-tin nhìn thấy điều nầy, họ trở về Éc-rôn trong ngày ấy.
\s5
\v 17 Đây là các khối u bằng vàng mà dân Phi-li-tin đã dâng làm của lễ chuộc sự mắc lỗi cho Đức Giê-hô-va: một của Ách-đốt, một cho Ga-xa, một cho Ách-ca-lôn, một cho Gát, và một cho Éc-rôn.  
\v 18 Mấy con chuột bằng vàng cũng bằng số lượng đó, là số lượng của tất cả các thành của người Phi-li-tin thuộc về năm vị quan trưởng, cả các thành phố được phòng thủ kiên cố cùng các làng mạc trong xứ. Hòn đá lớn, bên cạnh đó họ đặt hòm của Đức Giê-hô-va, đứng đó làm chứng cho ngày nầy trong ruộng của Giô-suê người Bết Sê-mết.
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va đã tấn công một số người của Bết Sê-mết vì họ dám nhìn vào hòm của Ngài. Ngài đã giết bảy mươi người. Dân sự bèn than khóc, vì Đức Giê-hô-va đã phạt dân sự rất nặng nề.  
\v 20 Dân sự ở Bết Sê-mết nói: "Ai có thể đứng trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời thánh khiết nầy? Và Ngài sẽ lìa chúng ta mà đến với ai?"
\s5
\v 21 Họ sai các sứ giả đến với dân sự ở Ki-ri-át Giê-a-rim mà rằng: "Dân Phi-li-tin đã đưa trả hòm của Đức Giê-hô-va về; hãy xuống mà đưa hòm về lại với anh em".
\s5
\c 7
\p
\v 1 Người Ki-ri-át Giê-a-rim đến, lấy hòm của Đức Giê-hô-va, rồi đem hòm ấy vào trong nhà của A-bi-na-đáp ở trên đồi. Họ biệt riêng Ê-lê-a-sa con trai người lo giữ hòm của Đức Giê-hô-va.  
\v 2 Từ ngày hòm ở lại trong xứ Ki-ri-át Giê-a-rim, một thời gian dài trôi qua, hai mươi năm. Hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên đều than khóc và ước muốn trở lại cùng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Sa-mu-ên nói với hết thảy dân Y-sơ-ra-ên: "Nếu anh em hết lòng trở lại cùng Đức Giê-hô-va, cất bỏ các thần ngoại và thần Ách-ta-rốt khỏi giữa anh em, hãy xây lòng anh em hướng về Đức Giê-hô-va, rồi chỉ thờ phượng Ngài thôi, khi ấy Ngài sẽ giải cứu anh em khỏi tay của người Phi-li-tin".
\v 4 Lúc đó, dân Y-sơ-ra-ên cất bỏ thần Ba-anh và thần Ách-ta-rốt, và chỉ thờ lạy Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Tiếp đến, Sa-mu-ên đã nói: "Hãy đưa hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đến Mích-ba, và ta sẽ cầu thay với Đức Giê-hô-va cho anh em".  
\v 6 Họ nhóm lại tại Mích-ba, múc nước và đổ ra trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ kiêng ăn trong ngày đó rồi nói: "Chúng ta đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va". Chính ở đó Sa-mu-ên quyết định những cuộc tranh cãi cho dân Y-sơ-ra-ên và lãnh đạo dân sự.
\s5
\v 7 Bấy giờ, khi dân Phi-li-tin hay được dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại tại Mích-ba, các quan trưởng dân Phi-li-tin đến tấn công Y-sơ-ra-ên. Khi dân Y-sơ-ra-ên nghe được việc ấy, họ rất sợ hãi dân Phi-li-tin.  
\v 8 Thế rồi dân Y-sơ-ra-ên nói với Sa-mu-ên: "Chớ thôi kêu cầu với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta vì chúng ta, để Ngài sẽ cứu chúng ta ra khỏi tay của người Phi-li-tin".
\s5
\v 9 Sa-mu-ên bắt một chiên con còn bú rồi dâng nó làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. Rồi Sa-mu-ên kêu la với Đức Giê-hô-va vì Y-sơ-ra-ên, và Đức Giê-hô-va đáp lại người.
\s5
\v 10 Khi Sa-mu-ên dâng của lễ thiêu xong, người Phi-li-tin kéo đến gần đặng tấn công Y-sơ-ra-ên; nhưng Đức Giê-hô-va nổi tiếng sấm sét thật lớn trong ngày ấy nghịch cùng dân Phi-li-tin rồi khiến chúng rơi vào cảnh lộn xộn, và chúng bỏ chạy trước mặt Y-sơ-ra-ên.  
\v 11 Người của Y-sơ-ra-ên đến từ Mích-ba, và họ truy đuổi dân Phi-li-tin rồi giết chúng cho đến gần Bết-cát.
\s5
\v 12 Khi ấy Sa-mu-ên lấy một hòn đá dựng nó lên giữa Mích-ba và Sen. Người đặt tên chỗ đó là Ê-bên-Ê-xe, nói rằng: "Lâu nay Đức Giê-hô-va đã cứu giúp chúng ta".
\s5
\v 13 Vậy, người Phi-li-tin bị bắt phục và chúng không dám bước vào biên giới của Y-sơ-ra-ên. Tay của Đức Giê-hô-va nghịch cùng dân Phi-li-tin trọn đời sống của Sa-mu-ên.  
\v 14 Các thị trấn mà dân Phi-li-tin đã chiếm từ Y-sơ-ra-ên được hồi phục lại cho Y-sơ-ra-ên, từ Éc-rôn cho đến Gát; Y-sơ-ra-ên lấy lại lãnh thổ của họ từ dân Phi-li-tin. Khi ấy đã có hòa bình giữa Y-sơ-ra-ên cùng các dân A-mô-rít.
\s5
\v 15 Sa-mu-ên đã xét đoán Y-sơ-ra-ên trọn đời sống của người.  
\v 16 Mỗi năm ông đi một vòng đến Bê-tên, đến Ghinh-ganh, và đến Mích-ba. Ông xử lý những vụ tranh cãi cho Y-sơ-ra-ên ở hết thảy các địa điểm nầy.  
\v 17 Thế rồi ông trở về lại Ra-ma, vì nhà ông ở đó; rồi ông cũng quyết định những cuộc tranh cãi cho Y-sơ-ra-ên tại đó. Ông cũng xây một bàn thờ ở đó cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Khi Sa-mu-ên già rồi, ông lập các con trai mình xét đoán Y-sơ-ra-ên.  
\v 2 Tên của con trai đầu lòng là Giô-ên, và tên của con trai thứ nhì là A-bi-gia. Họ là quan xét ở Bê-e Sê-ba.  
\v 3 Hai con trai của ông không bước đi theo đường lối của ông, nhưng thích ham lợi bất chánh. Họ nhận hối lộ và làm trái lệch sự công bình.
\s5
\v 4 Thế rồi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên nhóm lại rồi đến gặp Sa-mu-ên tại Ra-ma.  
\v 5 Họ nói với ông: "Hãy xem đi, ông già rồi, còn con cái của ông không bước đi theo đường lối của ông. Hãy lập cho chúng tôi một vì vua để xét đoán chúng tôi giống như bao nước khác".
\s5
\v 6 Nhưng điều đó không đẹp lòng Sa-mu-ên khi họ nói: "Hãy lập cho chúng tôi một vì vua đặng xét đoán chúng tôi". Vậy Sa-mu-ên cầu nguyện với Đức Giê-hô-va.  
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-mu-ên: "Hãy vâng theo tiếng của dân sự trong mọi điều họ nói cùng con; vì họ không chối con đâu, song họ đã chối ta không phải là vua trên họ.
\s5
\v 8 Họ hiện hành động y như họ đã làm kể từ ngày ta đem họ ra khỏi Ai-cập, họ lìa bỏ ta, rồi hầu việc các thần khác, và họ cũng đang làm vậy với con.  
\v 9 Bây giờ hãy nghe theo họ; nhưng hãy cảnh báo họ thật nghiêm trọng và giúp cho họ nhận biết cách thức nhà vua sẽ cai trị trên họ".
\s5
\v 10 Vậy Sa-mu-ên thuật lại mọi lời của Đức Giê-hô-va cùng dân sự, những kẻ đang cầu xin cho có một vị vua.  
\v 11 Ông nói: "Đây là cách mà nhà vua sẽ trị vì trên anh em. Người sẽ bắt con trai anh em rồi chỉ định họ lái xe mình và trở thành kỵ binh của người, rồi chạy ở trước xe của người.  
\v 12 Người sẽ chỉ định cho mình các quan trưởng cả ngàn binh lính, và quan trưởng của năm mươi lính. Người sẽ khiến một số anh em cày ruộng người, một số lo gặt vụ mùa của người, và một số lo làm binh khí và trang thiết bị cho xe cộ người.
\s5
\v 13 Người cũng sẽ bắt con gái anh em làm thợ chế dầu thơm, nấu ăn, và nướng bánh.  
\v 14 Người sẽ lấy thứ tốt nhứt trong đồng ruộng anh em, vườn nho, và cây ô-li-ve của anh em, rồi ban chúng cho tôi tớ người.  
\v 15 Người sẽ lấy một phần mười ngũ cốc của anh em và vườn nho của anh em rồi trao chúng cho các quan trưởng cùng tôi tớ của họ.
\s5
\v 16 Người sẽ bắt tôi trai tớ gái của anh em và kẻ giỏi nhất thuộc lứa tuổi trai tráng và lừa của anh em; người sẽ buộc hết thảy họ phải làm việc cho người.  
\v 17 Người sẽ lấy phần mười các bầy của anh em, và anh em sẽ trở thành nô lệ của người.  
\v 18 Khi ấy, trong ngày đó anh em sẽ kêu la vì cớ vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình; nhưng Đức Giê-hô-va sẽ không nhậm lời anh em vào ngày ấy".
\s5
\v 19 Nhưng dân sự từ chối không chịu nghe theo Sa-mu-ên; họ nói: "Không! Phải có một vua cầm quyền trên chúng tôi 
\v 20 hầu cho chúng tôi sống giống như bao dân khác, và hầu cho vua của chúng tôi sẽ xét đoán chúng tôi và đi ra trước mặt chúng tôi để đánh trận cho chúng tôi".
\s5
\v 21 Khi Sa-mu-ên nghe thấy mọi lời của dân sự, ông đã lặp đi lặp lại chúng trong lỗ tai của Đức Giê-hô-va.  
\v 22 Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-mu-ên như sau: "Hãy vâng theo tiếng của chúng rồi hãy lập một vì vua cho chúng". Thế là Sa-mu-ên nói cùng người Y-sơ-ra-ên: "Mỗi người phải về lại chính thành của mình".
\s5
\c 9
\p
\v 1 Có người Bên-gia-min kia, một người có ảnh hưởng. Tên của người là Kích, con trai của A-bi-ên, cháu của Xê-rô, chắt của Bê-cô-rát, chít của A-phi-ác, là con trai của một người Bên-gia-min.  
\v 2 Người có một con trai tên là Sau-lơ, một thanh niên rất đẹp trai. Chẳng có ai giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên là người đẹp trai hơn người nầy. Người cao hơn bất cứ ai trong dân sự từ vai trở lên.
\s5
\v 3 Bấy giờ, bầy lừa của Kích, cha của Sau-lơ, bị lạc mất. Vì thế Kích nói với Sau-lơ con trai mình: "Hãy đem theo một tôi tớ đi với con; hãy chỗi dậy mà đi tìm bầy lừa đi".  
\v 4 Vậy Sau-lơ trải ngang qua vùng đồi núi của Ép-ra-im rồi qua xứ Sa-li-sa, nhưng họ không tìm được chúng. Khi ấy họ đi ngang qua xứ Sa-lim, nhưng chúng không có ở đó. Thế rồi người đi ngang qua xứ của người Bên-gia-min, song họ cũng chẳng thấy chúng đâu cả.
\s5
\v 5 Khi họ đến xứ Xu-phơ, Sau-lơ nói với tôi tớ cùng đi với mình: "Nào, chúng ta hãy trở về, hoặc cha ta sẽ thôi không phải lo chi về bầy lừa nữa rồi khởi sự lo cho chúng ta nữa đấy".  
\v 6 Nhưng gã tôi tớ nói với người: "Hãy nghe, có một người của Đức Chúa Trời trong thành nầy. Ông ấy là một người được người ta tôn trọng; mọi sự mà người nói đều thành ra hiện thực cả đấy. Chúng ta hãy đến đó; có lẽ người sẽ nói cho chúng ta biết mình nên đi đường nào".
\s5
\v 7 Khi ấy Sau-lơ mới nói với tôi tớ mình: "Nhưng nếu chúng ta đi, chúng ta mang gì đến gặp người đây? Vì bánh trong túi không còn nữa, và chẳng có món quà nào đem đến cho người của Đức Chúa Trời sao! Chúng ta có gì nào?"
\v 8 Tôi tớ trả lời cho Sau-lơ như sau: "Nè, tôi có một phần tư siếc-lơ bạc, tôi sẽ dâng của người của Đức Chúa Trời, để nói cho chúng ta biết chúng ta phải đi đường nào?"
\s5
\v 9 (Hình thức trong Y-sơ-ra-ên, khi một người tìm kiếm sự hiểu biết ý muốn của Đức Chúa Trời, người nói: "Hãy đến, chúng ta hãy đến với đấng tiên kiến". Vì tiên tri của ngày nay xưa được gọi là đấng tiên kiến).  
\v 10 Khi ấy Sau-lơ nói với gã tôi tớ mình: "Nói phải lắm. Nào, chúng ta đi". Vậy họ đi đến thành, người của Đức Chúa Trời có mặt ở đó.  
\v 11 Khi họ trèo lên đồi đến thành phố, họ gặp mấy thiếu nữ ra giếng lấy nước; Sau-lơ cùng tôi tớ mình nói với họ: "Có đấng tiên kiến ở đây không?"
\s5
\v 12 Họ đáp như sau: "Ông ấy đang ở đây; kìa, ông ấy ở trước mặt hai người. Mau lên, vì ông ấy sẽ ra thành phố hôm nay, vì dân chúng đang dâng của lễ hôm nay trên nơi cao.  
\v 13 Hai người hãy mau vào thành thì sẽ gặp ông ấy, trước khi ông ấy đi lên nơi cao để ăn uống. Dân sự sẽ không ăn cho đến khi ông ấy đến, vì ông ấy sẽ chúc phước cho con sinh; sau đó những ai được mời sẽ ngồi ăn. Bây giờ, hãy đi lên đi, vì hai người sẽ gặp ông ấy ngay đấy".
\s5
\v 14 Thế là họ đi lên thành. Khi họ bước vào thành, họ trông thấy Sa-mu-ên đã đến trước họ, đi lên nơi cao.
\s5
\v 15 Ngày trước ngày Sau-lơ đến đó, Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cùng Sa-mu-ên:  
\v 16 "Ngày mai vào giờ nầy ta sẽ sai đến cùng con một người đến từ xứ Bên-gia-min, và con sẽ xức dầu cho người làm vua trên Y-sơ-ra-ên dân sự ta. Người sẽ cứu dân ta ra khỏi tay của người Phi-li-tin. Vì ta nhìn dân ta với sự thương xót vì tiếng họ cầu xin sự cứu giúp đã đến với ta".
\s5
\v 17 Khi Sa-mu-ên nhìn thấy Sau-lơ, Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Đây là người mà ta đã nói cho con biết đó! Người là vua sẽ cai trị trên dân ta".  
\v 18 Khi ấy Sau-lơ đến gần Sa-mu-ên nơi cổng rồi nói: "Xin nói cho tôi biết nhà đấng tiên kiến ở đâu?" 
\v 19 Sa-mu-ên đáp cùng Sau-lơ như sau: "Ta là đấng tiên kiến đây. Hãy đi lên trước mặt tại nơi cao, vì hôm nay con sẽ ăn cùng ta. Đến sáng ta sẽ để con đi, và ta sẽ nói cho con biết mọi sự đang có trong đầu con.
\s5
\v 20 Còn về bầy lừa đã bị lạc ba ngày qua, đừng lo về chúng mà chi, vì người ta đã tìm gặp chúng. Và ai là nhân vật mà dân Y-sơ-ra-ên ao ước chứ? Há chẳng phải con và nhà cha con không?" 
\v 21 trả lời như sau: "Há con không phải là một người Bên-gia-min, từ chi phái nhỏ nhất trong Y-sơ-ra-ên sao? Há dòng họ con không phải là nhỏ nhất trong các dòng họ của chi phái Bên-gia-min sao? Tại sao ông nói với con với tư thế nầy chứ?"
\s5
\v 22 Vậy Sa-mu-ên đưa Sau-lơ và gã tôi tớ người, đem họ vào trong phòng, rồi đặt họ vào chỗ đầu của những kẻ được mời, có khoảng ba mươi người.
\s5
\v 23 Sa-mu-ên nói với đầu bếp rằng: "Hãy đem phần mà ta đã trao cho con, ta đã nói với con về phần ấy: 'Hãy để riêng ra'" 
\v 24 Vậy, đầu bếp lấy cái chả vai đã được giơ lên làm của lễ và các thứ cùng với nó, rồi đặt nó ở trước mặt Sau-lơ. Tiếp đến Sa-mu-ên nói: "Hãy xem những thứ đã được dành để cho con! Hãy ăn nó, vì nó đã được giữ lấy cho đến giờ ấn định dành cho con. Vì giờ đây, con có thể nói: 'Ta đã mời dân sự'". Vậy Sau-lơ cùng ăn với Sa-mu-ên ngày ấy.
\s5
\v 25 Khi họ từ chỗ cao đi xuống vào trong thành, Sa-mu-ên nói với Sau-lơ trên mái nhà.
\v 26  Rồi khi trời sáng, Sa-mu-ên cho đòi Sau-lơ lên mái nhà rồi nói: "Hãy chỗi dậy, để ta sẽ sai con đi đường mình". Thế là Sau-lơ chỗi dậy, và cả hai: người và Sa-mu-ên bước ra đường phố.
\s5
\v 27 Khi họ ra đến đầu thị trấn, Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Hãy bảo gã tôi tớ đi trước chúng ta (và hắn đi tới trước), nhưng con phải ở lại đây một lúc, để ta có thể công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con".
\s5
\c 10
\p
\v 1 Khi ấy Sa-mu-ên lấy cái ve đựng dầu, đổ trên đầu Sau-lơ, rồi hôn người. Ông nói: "Ấy chẳng phải Đức Y-sơ-ra-ên xức dầu cho con đặng làm vua cai trị cơ nghiệp Ngài hay sao?  
\v 2 Khi con rời khỏi ta hôm nay, con sẽ gặp hai người gần mộ của Ra-chên, trong lãnh thổ của Bên-gia-min tại Xết-sa. Họ sẽ nói với con: 'Bầy lừa mà anh đang tìm đã kiếm được rồi. Bây giờ, cha của anh đã thôi không lo về bầy lừa nữa, mà lấy làm lo về anh, ông ấy nói: "Ta sẽ làm gì về con trai ta?"'
\s5
\v 3 Khi ấy con sẽ đi thêm một đỗi nữa, thì con sẽ đến tại cây sồi ở Tha-bô. Ba người đến thờ lạy Đức Chúa Trời tại Bê-tên sẽ gặp con tại đó, một người chở ba con dê đực, người kia mang theo ba ổ bánh, còn một người nữa mang bầu da rượu.  
\v 4 Họ sẽ chào con rồi trao cho con hai ổ bánh, con sẽ lấy tận tay họ.
\s5
\v 5 Sau đó, con sẽ đến núi của Đức Chúa Trời, có đồn lũy của người Phi-li-tin tại đó. Khi con đến tại thành phố, con sẽ gặp một nhóm tiên tri từ nơi cao đi xuống với đàn sắt, trống cơm, ống sáo, và đàn cầm đi trước họ; họ sẽ nói tiên tri.
\v 6  Thánh Linh của Đức Giê-hô-va sẽ bao phủ lấy con, và con sẽ nói tiên tri với họ, và con sẽ được đổi thành một người khác.
\s5
\v 7 Bấy giờ, khi các dấu lạ nầy đến với con, hãy làm bất cứ điều gì tay con thấy phải làm, vì Đức Chúa Trời ở với con.  
\v 8 Hãy đi xuống Ghinh-ganh trước ta. Khi ấy ta sẽ xuống cùng con để dâng của lễ thiêu và dâng của lễ thù ân. Hãy đợi bảy ngày cho đến khi ta đến cùng con và tỏ cho con điều chi phải làm".
\s5
\v 9 Khi Sau-lơ xây lưng mình đi lìa khỏi Sa-mu-ên, Đức Chúa Trời đã ban cho người tấm lòng khác. Thế rồi mọi dấu lạ nầy đã diễn ra trong ngày ấy.
\v 10 Khi họ ra đến núi, một nhóm tiên tri gặp người, và Thánh Linh Đức Chúa Trời bao phủ họ hầu cho người nói tiên tri với họ.
\s5
\v 11 Khi ai nấy quen biết người trước đã thấy người nói tiên tri với những vị tiên tri, dân sự nói với nhau: "Điều chi đã xảy ra cho con trai của Kích vậy? Có phải Sau-lơ là một vị tiên tri ư?" 
\v 12 Một người ở chỗ đó bèn đáp: "Và ai là cha của họ chứ?" Vì cớ điều nầy, có câu: "Có phải Sau-lơ cũng là một vị tiên tri sao?" 
\v 13 Khi người đã nói tiên tri xong, người đã đến tại chỗ cao.
\s5
\v 14 Khi ấy chú của Sau-lơ nói cùng người và tôi tớ người: "Hai con đã đi đâu vậy?" Và người đáp: "Đi tìm bầy lừa; khi chúng tôi tìm thì không thấy chúng, chúng tôi đã đến gặp Sa-mu-ên".  
\v 15 Chú của Sau-lơ nói: "Làm ơn nói cho ta biết Sa-mu-ên đã nói gì với hai con".  
\v 16 đáp cùng chú mình: "Ông ấy chỉ nói đơn giản rằng người ta đã tìm được bầy lừa rồi". Nhưng người không nói cho ông biết về vấn đề của vương quốc, về những gì mà Sa-mu-ên đã nói.
\s5
\v 17 Bấy giờ Sa-mu-ên triệu tập dân sự ở trước mặt Đức Giê-hô-va tại Mích-ba.  
\v 18 Ông nói với dân Y-sơ-ra-ên: "Đây là những gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: 'Ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, và ta đã giải cứu các ngươi ra khỏi tay của người Ai-cập, và khỏi tay của hết thảy các nước hà hiếp các ngươi.' 
\v 19 Nhưng ngày nay các ngươi đã chối bỏ Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng giải cứu các ngươi khỏi mọi tai vạ và đau khổ; và các ngươi đã nói với Ngài: 'Hãy lập cho chúng tôi một vị vua'. Bây giờ, hãy tự trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va theo từng chi phái từng họ hàng".
\s5
\v 20 Vậy Sa-mu-ên đem hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên đến gần, và chi phái Bên-gia-min được chọn.  
\v 21 Khi ấy ông đem chi phái Bên-gia-min đến gần từng chi họ; và chi họ Mát-ri được chọn; và Sau-lơ con trai của Kích được chọn. Nhưng khi họ tìm người, thì không thấy người đâu hết.
\s5
\v 22 Khi ấy dân sự muốn hỏi Đức Chúa Trời thêm nhiều câu nữa: "Còn có ai khác đến nữa không?" Đức Giê-hô-va đáp: "Người ẩn mình giữa đống đồ đạt kia".  
\v 23 Khi ấy họ chạy đi và gặp Sau-lơ ở chỗ đó. Khi người đứng lên giữa vòng dân sự, người cao hơn bất kỳ ai trong số họ từ vai trở lên.
\s5
\v 24 Khi ấy Sa-mu-ên mới nói cùng dân sự: "Có phải anh em tìm nhân vật mà Đức Giê-hô-va đã chọn không? Chẳng có ai giống như người giữa vòng dân sự!" Mọi người đều hô to lên: "Nhà Vua vạn tuế!"
\s5
\v 25 Khi ấy Sa-mu-ên nói cho dân sự biết về các phong tục và luật lệ của chức vụ vua, ông viết chúng vào một quyển sách, rồi đặt nó ở trước mặt Đức Giê-hô-va. Thế rồi Sa-mu-ên bảo mọi người đi, ai về nhà nấy.
\s5
\v 26 Sau-lơ cũng đi về nhà mình ở Ghi-bê-a, cùng đi với ông là một số người mạnh sức, Đức Chúa Trời đã chạm đến tấm lòng của họ.  
\v 27 Nhưng một số người chẳng ra gì nói: "Người nầy sẽ cứu chúng ta bằng cách nào chứ?" Số người nầy xem khinh Sau-lơ và họ chẳng đem quà tặng gì cho người. Còn Sau-lơ thì giữ im lặng.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Lúc đó Na-hách người Am-môn đến bao vây Gia-be trong xứ Ga-la-át. Hết thảy dân Gia-be nói với Na-hách: "Hãy lập hòa ước với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục vụ ông".  
\v 2 Na-hách người Am-môn đáp: "Nhơn cơ hội nầy ta sẽ lập ước với chúng bay, ta sẽ khoét hết mắt bên phải của chúng bay, và làm thế để gieo sự sỉ nhục cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên ".
\s5
\v 3 Khi ấy các trưởng lão của Gia-be đáp cùng hắn: "Xin để chúng tôi yên trong bảy ngày, để chúng tôi sai sứ giả đến khắp lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên. Rồi, nếu chẳng có ai đến cứu chúng tôi, chúng tôi sẽ đầu hàng cùng ông".
\s5
\v 4 Các sứ giả đến tại Ghi-bê-a, nơi Sau-lơ sinh sống, và nói cho dân sự biết việc đã xảy ra. Cả dân sự đều bật khóc lớn tiếng.  
\v 5 Bấy giờ Sau-lơ đang theo sau bò của mình ngoài đồng ruộng. Sau-lơ nói: "Có việc gì mà dân sự lại khóc lóc như thế?" Họ thuật lại cho Sau-lơ nghe những gì dân Gia-be đã nói.
\s5
\v 6 Khi Sau-lơ hay được điều họ nói, Thánh Linh của Đức Chúa Trời phủ lấy người, và người rất giận dữ.  
\v 7 Người lấy cái ách bò, chặt chúng ra thành từng mảnh, rồi gửi chúng đi khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên cùng với các sứ giả. Người nói: "Hễ ai không đến theo Sau-lơ và theo Sa-mu-ên, đây là điều sẽ được làm cho bò của người ấy". Khi ấy sự kinh khủng của Đức Giê-hô-va giáng trên dân sự, và họ đến với nhau như thể một người vậy.  
\v 8 Khi người tập trung họ ở Bê-xéc, dân Y-sơ-ra-ên có mặt ở đó ba trăm ngàn người, và người của Giu-đa ba mươi ngàn.
\s5
\v 9 Họ nói với các sứ giả đã đến: "Anh em hãy nói với dân sự ở Gia-be Ga-la-át: 'Ngày mai, vào thời điểm trời nắng nóng, anh em sẽ được giải cứu'". Vậy, các sứ giả đi và nói với dân sự ở Gia-be, và họ rất đỗi vui mừng.  
\v 10 Thế rồi dân Gia-be nói với Na-hách: "Ngày mai chúng tôi sẽ đầu hàng ông, và ông có thể làm với chúng tôi những gì là tốt lành cho ông".
\s5
\v 11 Qua ngày sau, Sau-lơ chia dân sự ra làm ba nhóm. Họ vào giữa trại quân trong khoảng nửa đêm cho tới sáng, và họ tấn công đánh bại dân Am-môn cho tới khi trời nắng nóng. Người nào sống sót chạy tản lạc, hầu cho chẳng có hai người ở chung với nhau.
\s5
\v 12 Khi ấy dân sự nói với Sa-mu-ên: "Ai nói: 'Liệu Sau-lơ sẽ trị vì trên chúng ta sao?' Hãy đem họ ra đây, để chúng ta tử hình họ".  
\v 13 Nhưng Sau-lơ nói: "Không một người nào bị tử hình trong ngày nầy, vì hôm nay Đức Giê-hô-va đã giải cứu Y-sơ-ra-ên ".
\s5
\v 14 Rồi Sa-mu-ên nói cùng dân sự: "Hãy đến, chúng ta cùng đến tại Ghinh-ganh và làm mới lại chế độ quân chủ ở đó".  
\v 15 Hết thảy dân sự đều đến tại Ghinh-ganh và lập Sau-lơ làm vua ở trước mặt Đức Giê-hô-va tại Ghinh-ganh. Ở đó họ dâng của lễ thù ân trước mặt Đức Y-sơ-ra-ên, và Sau-lơ cùng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên vui mừng cả thể.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Sa-mu-ên nói với cả Y-sơ-ra-ên: "Ta đã lắng nghe mọi sự anh em nói cùng ta, và ta đã lập một vua trên anh em.  
\v 2 Bây giờ, đây là vua sẽ đi trước anh em; và ta đã già, tóc thì bạc; và, các con trai ta đang ở với anh em. Ta đã ăn ở trước mặt anh em từ thơ ấu cho đến ngày nay.
\s5
\v 3 Ta còn sống đây; hãy làm chứng nghịch cùng ta trước mặt Y-sơ-ra-ên và trước mặt người chịu xức dầu của Ngài. Ta có bắt bò của ai không? Ta có bắt lừa của ai không? Ta có lừa đảo ai không? Ta có há hiếp ai không? Ta có lấy hối lộ từ tay ai để mắt ta làm ngơ chăng? Hãy làm chứng nghịch cùng ta, và ta sẽ hồi trả lại thứ đó cho anh em".
\s5
\v 4 Họ nói: "Ông không có lừa đảo, hà hiếp chúng tôi, hoặc đã lấy thứ chi từ tay của bất kỳ ai".
\v 5  Ông nói với họ: "Đức Giê-hô-va làm chứng nghịch cùng anh em, và người chịu xức dầu của Ngài là bằng chứng hôm nay, rằng anh em chẳng tìm thấy gì nơi tay của ta". Họ đáp: "Đức Giê-hô-va là bằng chứng".
\s5
\v 6 Sa-mu-ên nói với dân sự: "Chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã chỉ định Môise và A-rôn, và là Đấng đã đem tổ phụ anh em lên khỏi xứ Ai-cập.  
\v 7 Giờ đây, hãy bước tới đây, hầu cho ta có thể bàn bạc với anh em trước mặt Đức Giê-hô-va về mọi điều công bình của Đức Giê-hô-va, mà Ngài đã làm cho anh em và tổ phụ của anh em.
\s5
\v 8 Khi Gia-cốp đến xứ Ai-cập, và tổ phụ anh em đã kêu la với Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va sai Môise và A-rôn, họ đã dẫn tổ phụ anh em ra khỏi xứ Ai-cập và họ đến định cư trong chỗ nầy.  
\v 9 Nhưng họ đã quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ; Ngài bán họ vào trong tay của Si-sê-ra, quan trưởng quân đội ở Hát-so, trong tay của dân Phi-li-tin, và trong tay của vua Mô-áp; hết thảy các dân nầy đã đánh trận nghịch cùng tổ phụ anh em.
\s5
\v 10 Họ kêu la với Đức Giê-hô-va mà rằng: 'chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã quên Đức Giê-hô-va và đã hầu việc thần Ba-anh và thần Ách-ta-rốt. Nhưng giờ đây, hãy giải cứu chúng tôi ra khỏi tay kẻ thù của chúng tôi, thì chúng tôi sẽ hầu việc Ngài'.  
\v 11 Vậy Đức Giê-hô-va bèn sai Giê-ru Ba-anh, Bê-đan, Giép-thê, và Sa-mu-ên, rồi ban cho anh em chiến thắng trên các kẻ thù ở chung quanh anh em, hầu cho anh em sống trong sự an ninh.
\s5
\v 12 Khi anh em nhìn thấy Na-hách vua của dân Am-môn đến nghịch cùng anh em, anh em đến nói với ta: 'Không! Thay vì thế, một vua phải trị vì trên chúng tôi' — mặc dù Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, là vua của anh em.  
\v 13 Bây giờ, đây là nhà vua mà anh em đã chọn lựa, là người mà anh em đòi hỏi và là người mà Đức Giê-hô-va giờ đây đã ấn định làm vua trên anh em.
\s5
\v 14 Nếu anh em kính sợ Đức Giêhôva, hầu việc Ngài, vâng theo tiếng Ngài, và không loạn nghịch mạng của Đức Giê-hô-va, khi ấy cả hai: anh em và nhà vua là người đang trị vì trên anh em sẽ là những người bước theo sau Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.  
\v 15 Nếu anh em không vâng theo tiếng của Đức Giê-hô-va, nhưng nổi loạn chống lại mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, khi ấy tay của Đức Giê-hô-va sẽ giơ ra nghịch cùng anh em, y như tay ấy chống lại các tổ phụ của anh em.
\s5
\v 16 Giờ đây hãy tỏ mình ra và nhìn thấy việc lớn nầy mà Đức Giê-hô-va sẽ làm trước mặt anh em.  
\v 17 Ngày nay, có phải là mùa gặt lúa mì hay không? Ta sẽ kêu cầu nơi Đức Giê-hô-va, để Ngài sẽ sai sấm sét và mưa. Khi ấy anh em sẽ nhận biết và thấy rằng sự gian ác của anh em là trọng lắm, là những điều mà anh em đã làm ở trước mặt Đức Giê-hô-va, trong việc đòi cho mình một vị vua".  
\v 18 Thế là Sa-mu-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va; và chính ngày ấy Đức Giê-hô-va đã sai sấm sét và mưa đến. Khi ấy tất cả dân sự đều kinh hãi Đức Giê-hô-va và Sa-mu-ên.
\s5
\v 19 Thế rồi cả dân sự đến nói với Sa-mu-ên: "Xin cầu thay cho các tôi tớ của ông với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, hầu cho chúng tôi không chết. Vì chúng tôi đã thêm vào mọi tội lỗi của chúng tôi điều ác nầy trong việc xin cho có một vị vua cho chính chúng tôi".
\v 20 Sa-mu-ên đáp: "Đừng sợ. Anh em đã làm mọi sự ác nầy, song đừng xây khỏi Đức Giê-hô-va, nhưng hãy hết lòng hầu việc Đức Giê-hô-va.
\v 21 Đừng xây qua chạy theo những thứ hư không, chúng không ích lợi chi hết hoặc có thể giải cứu anh em, vì chúng là thứ vô dụng.
\s5
\v 22 Vì cớ danh lớn của Ngài, Đức Giê-hô-va sẽ không chối bỏ dân sự Ngài, vì lập anh em làm một dân cho chính mình Ngài là điều đẹp lòng Đức Giê-hô-va.  
\v 23 Còn đối với ta, ta sẽ không nghịch cùng Đức Giê-hô-va bằng cách thôi không cầu thay cho anh em. Thay vì thế, ta sẽ dạy cho anh em biết con đường nào là tốt lành và ngay thẳng.
\s5
\v 24 Chỉ hãy kính sợ Đức Giê-hô-va và hết lòng hầu việc Ngài bằng lẽ thật. Hãy xem những việc lớn lao mà Ngài đã làm cho anh em.
\v 25 Nhưng nếu anh em cứ khăng khăng trong việc làm ác, cả hai: anh em và vua của anh em sẽ bị hủy diệt".
\s5
\c 13
\p
\v 1 Sau-lơ được [ba mươi] tuổi khi ông bắt đầu trị vì; khi ông đã cai trị [bốn mươi] năm trên Y-sơ-ra-ên,  
\v 2 ông đã chọn ba ngàn người Y-sơ-ra-ên. Hai ngàn người ở với ông tại Mích-ma và trong vùng đồi núi ở Bê-tên, trong khi cả ngàn người ở với Giô-na-than trong Ghi-bê-a của Bên-gia-min. Phần binh sĩ còn lại ông cho về nhà, mỗi người về lều trại của mình.
\s5
\v 3 Giô-na-than đánh bại đồn lũy Phi-li-tin tại Ghê-ba và dân Phi-li-tin hay được việc ấy. Khi đó Sau-lơ trỗi kèn lên khắp xứ nói rằng: "Nguyện dân Hê-bơ-rơ hãy nghe".  
\v 4 Hết thảy Y-sơ-ra-ên đều nghe nói rằng Sau-lơ đã đánh bại đồn lũy của dân Phi-li-tin, và cũng nghe rằng Y-sơ-ra-ên đã bị dân Phi-li-tin ghen ghét. Khi ấy binh sĩ được triệu tập lại hiệp với Sau-lơ tại Ghinh-ganh.
\s5
\v 5 Dân Phi-li-tin tụ tập lại để đánh trận chống lại dân Y-sơ-ra-ên: ba ngàn cổ xe, sáu ngàn người lái xe, và bộ binh vô số như cát trên bãi biển. Họ đến đóng trại tại Mích-ma, phía Đông Bết-a-ven. 
\s5
\v 6 Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy rằng họ đã lâm vào rắc rối — vì dân sự lo lắng, họ bèn trốn trong các hang đá, trong bụi bờ, trong gành đá, trong mấy cái giếng, và trong hầm hố.
\v 7 Một số người Hê-bơ-rơ qua sông Giô-đanh trong đất của Gát và Ga-la-át. Nhưng Sau-lơ vẫn ở tại Ghinh-ganh, và hết thảy dân sự theo ông run sợ.
\s5
\v 8 Ông đợi bảy ngày, thì giờ do Sa-mu-ên đề ra. Nhưng Sa-mu-ên không đến tại Ghinh-ganh, và dân sự trốn đi khỏi Sau-lơ.  
\v 9 Sau-lơ nói: "Hãy đem cho ta của lễ thiêu cùng của lễ thù ân". Thế rồi ông dâng của lễ thiêu.  
\v 10 Không bao lâu sau khi ông dâng xong của lễ thiêu thì Sa-mu-ên đến nơi. Sau-lơ bước ra gặp gỡ và chào ông.
\s5
\v 11 Khi ấy Sa-mu-ên nói: "Con đã làm gì vậy?" Sau-lơ đáp: "Khi con thấy dân sự lìa bỏ con, và ông không đến trong giờ đã đề ra, và dân Phi-li-tin đã tập trung lại ở Mích-ma,  
\v 12 Con nói: 'Giờ đây dân Phi-li-tin sẽ xuống nghịch cùng con tại Ghinh-ganh, và con không tìm được ơn của Đức Giê-hô-va. Vì vậy con tự mình phải dâng của lễ thiêu".
\s5
\v 13 Khi ấy Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Con đã làm cách dại dột. Con không giữ theo mạng lịnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta mà Ngài đã ban ra cho con. Vì Đức Giê-hô-va muốn lập con cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời.  
\v 14 Nhưng giờ đây quyền cai trị của con sẽ chẳng tiếp tục được nữa. Đức Giê-hô-va đã tìm ra một người vừa lòng Ngài, và Đức Giê-hô-va đã chỉ định người làm vua trên dân sự Ngài, vì con không vâng theo những điều Ngài đã truyền cho con".
\s5
\v 15 Khi ấy Sa-mu-ên chỗi dậy đi từ Ghinh-ganh lên đến Ghi-bê-a thuộc Bên-gia-min.  Khi ấy Sau-lơ kê số dân sự đã ở với mình, khoảng sáu trăm người.  
\v 16 Sau-lơ, Giô-na-than con trai ông, và dân sự có mặt với ông, ở lại tại Ghê-ba của Bên-gia-min. Nhưng dân Phi-li-tin đóng trại tại Mích-ma.
\s5
\v 17 Những kẻ cướp phá ra từ trại của dân Phi-li-tin trong ba nhóm. Một nhóm đi về hướng Óp-ra, cho đến xứ Su-anh.  
\v 18 Nhóm khác đi về hướng Bết-hô-rôn, và nhóm kia nữa đi về hướng biên giới bên kia trũng đồng bằng Sê-bô-im.
\s5
\v 19 Không có một thợ rèn nào được tìm thấy ở khắp xứ Y-sơ-ra-ên, vì dân Phi-li-tin nói: "không có người Hê-bơ-rơ nào tự rèn gươm hay giáo cho chính mình".  
\v 20 Nhưng hết thảy những người nam Y-sơ-ra-ên thường đi xuống với dân Phi-li-tin, mỗi người mài nhọn lưỡi cày, cuốc, rìu, và lưỡi hái của mình.
\v 21  Cái giá 2/3 siếc-lơ để mài lưỡi cày, cuốc, và 1/3 siếc-lơ cho việc mài lưỡi rìu và sửa cái đót lại.
\s5
\v 22 Vì thế trong ngày chiến trận, chẳng có gươm hay giáo được thấy nơi tay của các binh sĩ nào ở với Sau-lơ và Giô-na-than; chỉ có Sau-lơ của Giô-na-than con trai ông có chúng mà thôi.
\v 23  Đồn dân Phi-li-tin kéo ra chặn đường ở Mích-ma.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Một ngày kia, Giô-na-than con trai Sau-lơ nói với người mang binh khí mình: "Hãy đến, chúng ta hãy qua đồn của dân Phi-li-tin phía bên kia". Nhưng người không nói cho cha mình biết.
\s5
\v 2 Sau-lơ ở phía ranh Ghi-bê-a dưới cây lựu tại Mi-gơ-rôn. Khoảng sáu trăm người ở với anh ta,  
\v 3 kể cả A-hi-gia con trai của A-hi-túp (em của Y-ca-bốt) con trai của Phi-nê-a cháu của Hê-li, thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va tại Si-lô, ông có đeo cái ê-phót. Dân sự không biết Giô-na-than đã đi ra ngoài.
\s5
\v 4 Giữa những khoảng đèo, bởi đó Giô-na-than dự định băng qua đồn của dân Phi-li-tin, đã có vực bằng đá ở bên nầy, cùng vực bằng đá ở bên kia. Tên của rặng đá nầy là Bốt-sết, và tên của rặng kia là Sê-nê.  
\v 5 Có một rặng đá mọc lên về phía Bắc ở trước mặt Mích-ma, và rặng kia mọc ở phía Nam xứ Ghê-ba.
\s5
\v 6 Giô-na-than nói với kẻ vác binh khí mình, "Hãy đến, chúng ta hãy băng qua đồn lũy bên kia của những gã chưa chịu phép cắt bì nầy. Có thể là Đức Giê-hô-va sẽ hành động vì ích cho chúng ta, vì chẳng có gì cản được Đức Giê-hô-va không cứu vớt dân sự mình bằng nhiều hay bởi ít người".  
\v 7 Kẻ vác binh khí người đáp như sau: "Hãy làm mọi sự có trong lòng anh. Hãy tới đi, hãy xem, tôi ở cùng anh, vâng theo mọi mạng lịnh của anh".
\s5
\v 8 Khi ấy Giô-na-than nói: "Chúng ta sẽ băng qua bên kia, rồi chúng ta tỏ mình ra cho họ.  
\v 9 Nếu họ nói cùng chúng ta: 'Hãy đợi cho đến chừng chúng ta đến với các anh' — thì chúng ta sẽ ở lại trong chỗ của mình và sẽ không băng qua chúng.  
\v 10 Nhưng nếu chúng đáp: 'Hãy đến với chúng ta', khi ấy chúng ta sẽ băng qua; vì Đức Giê-hô-va đã ban họ vào trong tay của chúng ta. Điều nầy sẽ là dấu cho chúng ta".
\s5
\v 11 Thế là cả hai người đều tỏ mình ra tại đồn lũy của dân Phi-li-tin. Người Phi-li-tin đã nói: "Hãy xem, người Hê-bơ-rơ đang bước ra khỏi mấy cái lỗ, họ đã ẩn mình che giấu".  
\v 12 Khi ấy dân của đồn lũy mời Giô-na-than cùng kẻ vác binh khí mình, rồi nói: "Hãy lên đến gặp chúng tôi, và chúng ta sẽ tỏ cho các ngươi biết một việc gì đó". Giô-na-than nói với kẻ vác binh khí mình: "Hãy theo Ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó họ vào trong tay của Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 13 Giô-na-tha đã trèo lên hai bàn tay, hai chơn của mình, và kẻ mang vũ khí của người cũng lẻo đẻo theo sau người. Dân Phi-li-tin đã đặt án chết ở trước mặt Giô-na-than, và kẻ cầm binh khí người sẽ bị tử hình theo sau người.
\v 14  Cuộc tấn công thứ nhứt mà Giô-na-than và kẻ vác binh khí mình, giết chết khoảng hai mươi người trong vòng một khoảng nửa công đất.
\s5
\v 15 Đã có sự hoảng loạn trong trại quân, trong đồng ruộng, và giữa vòng dân sự. Ngay cả đồn lũy và những kẻ cướp phá đều hoảng sợ. Đã có đất rung, và đã có một cơn hoảng loạn rất lớn.
\s5
\v 16 Khi ấy người canh của Sau-lơ ở Ghi-bê-a thuộc về Bên-gia-min đã nhìn thấy binh lính của dân Phi-li-tin đã rơi vào chỗ hỗn loạn, và họ sẽ đi đầu nầy hay đầu kia.  
\v 17 Khi ấy Sau-lơ nói với quân lính ở cùng ông: "Không thể tính được ai sẽ bị bỏ đi khỏi chúng ta". Khi họ bắt đầu kiểm điểm, thấy thiếu Giô-na-than cùng kẻ vác binh khí của người.
\s5
\v 18 Sau-lơ nói cùng A-hi-gia: "Hãy đem cái ê-phót của Đức Chúa Trời đến tại đây — vì A-hi-gia đang mang cái ê-phót nhằm ngày ấy với các chiên sĩ của Y-sơ-ra-ên.
\v 19 Trong khi Sau-lơ đang nói với thầy tế lễ, thì tiếng ồn ào trong trại quân Phi-li-tin càng tiếp tục thêm lên. Khi ấy Sau-lơ nói với thầy tế lễ: "Hãy giơ tay ông lên".
\s5
\v 20 Sau-lơ và hết thảy dân sự có mặt cùng với ông hiệp lại và ra bãi chiến trường. Từng thanh gươm của người Phi-li-tin đã đánh cùng người bổn xứ mình, và đã có sự hỗn loạn rất lớn.  
\v 21 Bấy giờ những người Hê-bơ-rơ trước đó đã sống với người Phi-li-tin, và theo họ trong trại quân, ngay cả họ hiệp với dân Y-sơ-ra-ên đã ở với Sau-lơ và Giô-na-than.
\s5
\v 22 Khi hết thảy người Y-sơ-ra-ên ẩn mình trong vùng đồi núi gần Ép-ra-im hay được rằng dân Phi-li-tin đã trốn chạy, cũng rượt đuổi chúng trên chiến trường.  
\v 23 Vậy Đức Giê-hô-va đã giải cứu -sơ-ra-ên trong ngày ấy, và chiến trường trải đến Bết A-ven.
\s5
\v 24 Ngày ấy dân Y-sơ-ra-ên bị mệt lắm vì Sau-lơ đã đặt dân sự dưới một lời thề như sau: "Đáng rủa sả thay người nào ăn bất kỳ thứ chi cho đến chiều tối và ta cứ báo thù những kẻ thù nghịch ta". Vì vậy, không có ai trong quân đội nếm lấy thức ăn nào.  
\v 25 Tiếp đến hết thảy dân sự bước vào rừng và có mật ong trên mặt đất.  
\v 26 Khi dân sự bước vào rừng, mật ong chảy ra, song chẳng có ai đưa tay vào miệng mình vì dân sự e sợ lời thề.
\s5
\v 27 Nhưng Giô-na-than vốn không nghe thấy cha mình đã buộc dân sự với một lời thề. Người bèn giơ đầu gậy cầm trong tay mình nhúng vào tàng mật ong. Người đưa tay vào miệng mình, thì mắt người sáng ra.  
\v 28 Khi đó một người trong dân sự nói: "Cha của anh nghiêm ngặt với dân sự bằng một lời thề như vầy: 'Đáng rủa sả thay người nào ăn thứ chi trong ngày này', mặc dù dân sự bị mệt đuối do đói khát".
\s5
\v 29 Khi ấy Giô-na-than nói: "Cha ta đã gây rối cho xứ. Hãy xem mắt ta đã sáng ra biết chừng nào vì ta đã nếm chỉ một chút mật ong này.
\v 30 Sẽ tốt hơn biết bao nếu mọi người ngày nay có thể tự do ăn lấy của cướp từ những kẻ thù mà họ tìm thấy được? Vì bây giờ, sự tàn sát vẫn chưa thật sự nặng nề giữa vòng người Phi-li-tin".
\s5
\v 31 Họ đã tấn công người Phi-li-tin ngày ấy từ Mích-ma cho đến A-gia-lôn. Dân sự thấm mệt rồi.
\v 32 Dân sự xông vào cướp của rồi bắt chiên, bò, dê rồi giết chúng trên đất. Dân sự đã ăn chúng với huyết.
\s5
\v 33 Thế rồi họ đến nói với Sau-lơ: "Hãy xem kìa, dân sự đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va bằng cách ăn thịt với huyết". Sau-lơ nói: "Anh em đã hành động cách bất trung rồi. Giờ đây, hãy lăn hòn đá lớn đến cùng ta".
\v 34 Sau-lơ nói: "Hãy ra cùng dân sự, rồi nói cho họ biết: 'Mỗi người phải đem bò, chiên của mình, giết chúng tại đây, rồi hãy ăn. Đừng phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va bằng cách ăn thịt với huyết'". Vậy, mỗi người trong dân sự đem chính bò của mình theo với tối đó rồi giết nó tại nơi ấy.
\s5
\v 35 Sau-lơ xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là bàn thờ thứ nhứt mà ông đã xây cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 36 Khi đó Sau-lơ nói: "Chúng ta hãy truy kích dân Phi-li-tin lúc ban đêm và cướp phá chúng cho tới sáng; chúng ta đừng để một ai trong chúng còn sống". Họ đáp: "Hãy làm điều chi dường như là tốt lành đối với ông". Nhưng thầy tế lễ nói: "Chúng ta hãy đến gần Đức Chúa Trời ở đây".
\v 37 Sau-lơ muốn cầu hỏi Đức Chúa Trời thêm nhiều câu nữa: "Tôi có nên đuổi theo dân Phi-li-tin không? Liệu Ngài có ban chúng vào tay của Y-sơ-ra-ên không?" Nhưng Đức Chúa Trời không trả lời cho ông ngày ấy.
\s5
\v 38 Thế rồi Sau-lơ nói: "Hãy lại đây, tất cả cấp lãnh đạo của dân sự; hãy tìm hiểu và xem coi thể nào tội lỗi nầy đã xảy ra hôm nay.
\v 39 Vì, như Đức Chúa Trời là hằng sống, là Đấng giải cứu Y-sơ-ra-ên, cho dù nếu đấy là Giô-na-than con trai ta, chắc chắn nó sẽ chết". Nhưng không một người nào giữa vòng dân sự đáp cùng ông.
\s5
\v 40 Rồi ông nói với cả Y-sơ-ra-ên: "Anh em đứng qua một bên, còn ta và Giô-na-than con trai ta sẽ đứng ở một bên". Dân sự nói cùng Sau-lơ: "Hãy làm điều chi là tốt lành đối với ông".
\v 41 Thế rồi Sau-lơ thưa với Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên: "Thu-mim xin hãy tỏ ra". Giô-na-than và Sau-lơ bị chỉ ra, còn dân sự không bị chỉ ra.
\v 42 ấy Sau-lơ nói: "Hãy bóc thăm giữa ta và Giô-na-than con trai ta". Thế rồi Giô-na-than bị chỉ ra.
\s5
\v 43 Sau-lơ nói với Giô-na-than: "Hãy nói cho ta biết việc con đã làm". Giô-na-than nói cho ông biết: "Con đã nếm một chút mật ong bằng đầu cây gậy cầm trong tay con. Nầy con đây; con sẽ chết".
\v 44 Sau-lơ nói: "Nguyện Đức Chúa Trời làm thế và nhiều nữa cho ta, nếu con không chết, hỡi Giô-na-than".
\s5
\v 45 Khi ấy dân sự nói với Sau-lơ: "Giô-na-than phải chết sao, anh ấy là người đã đạt được chiến thắng lớn lao nầy cho Y-sơ-ra-ên? Còn hơn thế nữa! Như Đức Giê-hô-va hằng sống, không một sợi tóc nào trên đầu người sẽ rơi xuống đất, vì người đã làm việc với Đức Chúa Trời hôm nay". Vậy, dân sự đã giải cứu Giô-na-than hầu cho người không phải chết.
\v 46 Khi ấy Sau-lơ thôi không truy kích dân Phi-li-tin nữa, và người Phi-li-tin đã trở về trong xứ mình.
\s5
\v 47 Khi Sau-lơ bắt đầu cầm quyền trên Y-sơ-ra-ên, ông đã đánh trận chống lại các kẻ thù của mình ở tứ phía. Ông đánh trận chống lại dân Mô-áp, dân Am-môn, Ê-đôm, các vua xứ Xô-ba, và dân Phi-li-tin. Bất cứ đâu người nhắm tới, người giáng phạt trên chúng.
\v 48 Người đã hành động với lòng can đảm và đã đánh bại dân A-ma-léc. Người giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay của những kẻ cướp bóc họ.
\s5
\v 49 Các con trai của Sau-lơ là Giô-na-than, Gi-sê-vi, and Manh-ki-sua. Tên của hai con gái người là Mê-ráp, trưởng nữ, cùng thứ nữ là Mi-canh.
\v 50 Tên của vợ Sau-lơ là A-hi-nô-am; bà là con gái của A-hi-mát. Tên của quan tướng đạo binh của người là Áp-ne con trai của Nê-rơ, chú của Sau-lơ.
\v 51 Kích là cha của Sau-lơ; còn Nê-rơ, cha của Áp-ne, là con của A-bi-ên.
\s5
\v 52 Đã có tranh chiến dữ dội chống lại dân Phi-li-tin trọn đời của Sau-lơ. Khi Sau-lơ nhìn thấy bất kỳ kẻ mạnh sức và bạo dạn nào, thì chiêu mộ người theo mình.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Đức Giê-hô-va sai ta xức dầu cho con làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Giờ đây, hãy lắng nghe Lời của Đức Giê-hô-va.
\v 2 Đây là những gì Đức Giê-hô-va vạn quân phán: 'Ta đã thấy điều A-ma-léc đã làm với Y-sơ-ra-ên trong sự ngăn cản trên đường họ ra khỏi xứ Ai-cập.
\v 3 Bây giờ, hãy đi và tấn công A-ma-léc rồi hủy diệt hoàn toàn mọi thứ họ có. Đừng buông tha chúng, song hãy giết cả người nam người nữ, con trẻ và con nhỏ còn bú, bò và chiên, lạc đà và lừa.'"
\s5
\v 4 Sau-lơ triệu tập dân sự lại, điểm soát chúng tại thành Tê-la-im: hai trăm ngàn lính bộ, và mười ngàn người Giu-đa.
\v 5 Khi ấy Sau-lơ đến tại thành của A-ma-léc và phục ở trong trũng.
\s5
\v 6 Sau-lơ nói với dân Kê-nít: "Hãy ra khỏi giữa dân A-ma-léc, hầu cho ta không tiêu diệt anh em cùng với chúng. Vì anh em đối đãi tử tế với hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, khi họ ra khỏi xứ Ai-cập". Thế là dân Kê-nít chuyển ra khỏi dân A-ma-léc.
\v 7 Khi ấy Sau-lơ tấn công dân A-ma-léc, từ Ha-vi-la cho đến tận Su-rơ, nằm ở phía Đông Ai-cập.
\s5
\v 8 Ông bắt sống A-ga vua dân A-ma-léc; ông dùng gươm hủy diệt hoàn toàn hết thảy dân sự.
\v 9 Nhưng Sau-lơ và dân sự đã tha cho A-ga, cũng như con tốt nhứt trong bầy chiên, bò, bò con mập béo, và chiên con. Mọi sự nào là tốt đẹp, họ không hủy diệt. Nhưng họ hủy diệt hoàn toàn bất cứ thứ chi bị xem khinh và vô giá trị.
\s5
\v 10 Khi ấy Lời của Đức Giê-hô-va đến với Sa-mu-ên như sau:
\v 11 "Ta lấy làm buồn vì ta đã lập Sau-lơ làm vua, vì hắn đã xây lại không theo Ta và không hoàn thành mọi mạng lệnh của ta". Sa-mu-ên nổi giận lên; ông kêu la với Đức Giê-hô-va trọn đêm.
\s5
\v 12 Sa-mu-ên dậy sớm đến gặp Sau-lơ lúc ban sáng. Người ta cho Sa-mu-ên hay: "Sau-lơ đã đến tại Cạt-mên và ông ta đã dựng lên một cái bia cho mình tại đó, rồi trở lại đi xuống Ghinh-ganh".
\v 13 Thế là Sa-mu-ên đến gặp Sau-lơ, và Sau-lơ nói cùng ông: "Nguyện ông được phước của Đức Giê-hô-va! Tôi đã chu toàn mạng lệnh của Đức Giê-hô-va."
\s5
\v 14 Sa-mu-ên nói: "Vậy thì tiếng chiên kêu la kia là gì trong lỗ tai ta, và tiếng bò rống mà ta đã nghe là sao chứ?"
\v 15 Sau-lơ đáp: "Dân sự có đem chúng về từ dân A-ma-léc. Vì dân sự có buông tha bầy chiên và bò, để dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông. Phần còn lại chúng tôi đã hủy diệt hoàn toàn".
\v 16 Khi ấy Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Hãy đợi đấy, và ta sẽ nói cho con biết điều Đức Giê-hô-va đã phán cùng ta tối nay". Sau-lơ nói cùng ông: "Xin hãy nói!"
\s5
\v 17 Sa-mu-ên nói: "Mặc dù con là nhỏ trong mắt con, có phải con không được lập làm đầu các chi phái Y-sơ-ra-ên sao? Và Đức Giê-hô-va đã xức dầu cho con làm vua trên Y-sơ-ra-ên;
\v 18 Đức Giê-hô-va sai con đi như vầy: 'Hãy đi và tiêu diệt hoàn toàn hạng tội nhân, là dân A-ma-léc, và đánh trận chống lại chúng cho tới khi chúng bị tiêu diệt cách hoàn toàn.'
\v 19 Tại sao con không vâng theo tiếng của Đức Giê-hô-va, song thay vì thế con đã chiếm lấy chiến lợi phẩm và làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va?"
\s5
\v 20 Khi ấy Sau-lơ nói với Sa-mu-ên: "Thật tôi đã vâng theo tiếng của Đức Giê-hô-va, và đã đã đi trọn đường mà Đức Giê-hô-va đã sai tôi. Tôi đã bắt A-ga, vua dân A-ma-léc, và đã tiêu diệt hoàn toàn dân A-ma-léc.
\v 21 Nhưng dân sự đã chiếm lấy chiến lợi phẩm — bầy chiên và bò, con tốt nhứt trong các thứ bị dành để hủy diệt, để dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông tại Ghinh-ganh".
\s5
\v 22 Sa-mu-ên đáp: "Há Đức Giê-hô-va có ưa thích của lễ thiêu và các thứ con sinh, cho bằng việc vâng theo tiếng của Đức Giê-hô-va chăng? Vâng lời thì tốt hơn của lễ, và nghe theo thì tốt hơn mỡ của chiên đực.
\v 23 Vì sự bội nghịch cũng y như tội tà thuật, và sự ngoan cố thì y như sự ác và phạm tội. Vì con đã chối bỏ lời của Đức Giê-hô-va, Ngài cũng chối bỏ con không còn làm vua nữa".
\s5
\v 24 Thế rồi Sau-lơ nói với Sa-mu-ên: "Tôi đã phạm tội; vì tôi đã phá vỡ mạng lịnh của Đức Giê-hô-va và lời của ông, vì tôi sợ dân sự và vâng theo tiếng của họ.
\v 25 Giờ đây, làm ơn tha thứ tội lỗi của tôi, và trở lại với tôi hầu cho tôi sẽ thờ phượng Đức Giê-hô-va."
\s5
\v 26 Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Ta sẽ không trở lại với con; vì con đã chối bỏ lời của Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va đã chối bỏ con không còn làm vua trên Y-sơ-ra-ên nữa".
\v 27 Khi Sa-mu-ên xây người rời đi, Sau-lơ nắm lấy vạt áo của ông, thì áo rách toạc ra.
\s5
\v 28 Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Đức Giê-hô-va đã xé vương quốc Y-sơ-ra-ên khỏi con ngày nay và đã ban nước ấy cho kẻ lân cận của con, một người tốt hơn con.
\v 29 Sức Lực của Y-sơ-ra-ên sẽ không nói dối cũng không đổi ý mình; vì Ngài không phải là loài người, nên Ngài sẽ đổi ý mình"
\s5
\v 30 Sau-lơ nói: "Tôi đã phạm tội. Nhưng làm ơn tôn trọng tôi giờ đây trước mặt các trưởng lão của dân sự tôi và trước mặt Y-sơ-ra-ên. Hãy xây lại với tôi, để tôi có thể thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông".
\v 31 Vậy, Sa-mu-ên trở lại theo Sau-lơ, và Sau-lơ đã thờ lạy Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 32 Khi ấy Sa-mu-ên nói: "Hãy đem A-ga vua dân A-ma-léc ra đây cho ta". A-ga đến gặp ông, bị xiềng lại và nói: "Chắc chắn nổi cay đắng của sự chết đã qua rồi".
\v 33 Sa-mu-ên đáp: "Giống như lưỡi gươm của ngươi đã làm cho phụ nữ không có con được, cũng một thể ấy mẹ ngươi sẽ không có con giữa vòng những người đàn bà". Rồi Sa-mu-ên chặt A-ga ra thành từng mảnh trước mặt Đức Giê-hô-va tại Ghinh-ganh.
\s5
\v 34 Sa-mu-ên về lại Ra-ma, còn Sau-lơ đi lên nhà mình tại Ghi-bê-a của Sau-lơ.
\v 35 Sa-mu-ên không gặp Sau-lơ cho đến ngày thác của ông, vì người buồn bực về Sau-lơ. Và Đức Giê-hô-va thì buồn rầu vì Ngài đã lập Sau-lơ làm vua trên Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-mu-ên: "Con sẽ buồn rầu về Sau-lơ cho tới chừng nào, một khi ta đã chối bỏ hắn không còn là vua trên Y-sơ-ra-ên? Hãy đổ dầu đầy sừng của con. Ta sẽ sai con đến với Gie-sê ở Bết-lê-hem, vì ta đã chọn cho mình một vị vua giữa vòng các con trai người".
\s5
\v 2 Sa-mu-ên thưa: "Con đi làm sao được chứ? Nếu Sau-lơ hay được việc nầy, hắn sẽ giết con". Đức Giê-hô-va phán: "Hãy bắt con bò cái tơ theo và hãy nói: 'Ta đến dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va'
\v 3 Hãy gọi Gie-sê đến dâng của lễ, và ta sẽ tỏ cho con điều con phải làm. Con sẽ xức dầu kẻ mà ta sẽ bảo cho con biết".
\s5
\v 4 Sa-mu-ên làm theo những gì Đức Giê-hô-va đã phán rồi đi đến Bết-lê-hem. Các trưởng lão của thành đã run sợ khi họ đến gặp ông, họ nói: "Có phải ông đến trong hòa bình chăng?"
\v 5 Người đáp: "Trong hòa bình; Ta đã đến để dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va. Hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va vì của lễ và hãy đến với ta". Và ông dâng Gie-sê cùng các con trai người cho Đức Giê-hô-va, rồi khi ấy ông gọi họ đến dâng của lễ.
\s5
\v 6 Khi họ đến, ông nhìn Ê-li-áp rồi nhũ lòng rằng sự xức dầu của Đức Giê-hô-va chắc chắn là người đứng trước mặt ông.
\v 7 Song Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-mu-ên: "Đừng nhìn vào diện mạo bề ngoài, hoặc vóc dáng cao ráo của người; vì ta đã từ bỏ người. Vì Đức Giê-hô-va không xem như người ta xem; con người nhìn diện mạo bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thẳng vào tấm lòng".
\s5
\v 8 Lúc đó Gie-sê gọi A-ni-na-đáp và bảo người đi qua trước mặt Sa-mu-ên. Sa-mu-ên nói: "Đức Giê-hô-va cũng không chọn người nầy".
\v 9 Rồi Gie-sê bảo Sam-ma đi qua. Sa-mu-ên nói: "Đức Giê-hô-va cũng không chọn người nầy"
\v 10 Gie-sê bảo bảy người con mình đi qua trước mặt Sa-mu-ên. Và Sa-mu-ên nói với Gie-sê: "Đức Giê-hô-va không chọn ai trong số nầy".
\s5
\v 11 Sa-mu-ên nói với Gie-sê: "Hết thảy con trai của ông có từng ấy à?" Người đáp: Còn đứa út, nhưng nó đang chăn chiên". Sa-mu-ên nói với Gie-sê: "Hãy sai gọi người; vì chúng ta sẽ không ngồi xuống cho tới chừng người có mặt ở đây".
\v 12 Gie-sê sai người đưa con út về. Bấy giờ, con trai nầy hồng hào, cặp mắt rất đẹp và bề ngoài điển trai. Đức Giê-hô-va phán: "Hãy chỗi dậy, xức dầu cho người đi; vì người là kẻ được chọn".
\s5
\v 13 Khi ấy Sa-mu-ên lấy cái sừng dầu rồi xức trên người ở giữa các anh em người. Thánh Linh của Đức Giê-hô-va phủ lên Đa-vít từ ngày ấy trở đi. Kế đó Sa-mu-ên đứng dậy rồi đi về Ra-ma.
\s5
\v 14 Bấy giờ Thánh Linh của Đức Giê-hô-va lìa khỏi Sau-lơ, và một linh chuyên làm hại từ Đức Giê-hô-va đến khuấy khuất người.
\v 15 Các tôi tớ của Sau-lơ nói với người: "Hãy xem, một linh chuyên làm hại từ Đức Chúa Trời đến khuấy khuất ông.
\v 16 Nguyện chủ của chúng tôi giờ đây truyền cho các tôi tớ đang đứng trước mặt ông phải tìm một người biết gảy đàn. Khi linh chuyên làm hại kia từ Đức Chúa Trời đến đáp đậu trên ông, người ấy gảy đàn và ông sẽ được mạnh giỏi".
\s5
\v 17 Sau-lơ nói với các tôi tớ người: "Hãy tìm cho ta một người biết gảy đàn và đưa người đến cùng ta".
\v 18 Khi ấy một người trẻ tuổi đáp như sau: "Tôi có thấy một con trai của Gie-sê người Bết-lê-hem, là kẻ gảy đàn rất hay, một thanh niên mạnh sức, can trường, một người của chiến tranh, ăn nói khôn ngoan, một người điển trai; và Đức Giê-hô-va ở với người".
\v 19 Thế là Sau-lơ sai các sứ giả đến gặp Gie-sê, họ nói: "Hãy sai Đa-vít con của ông đến gặp ta, là kẻ chăn chiên".
\s5
\v 20 Gie-sê bắt một con lừa chở bánh, một bình rượu, và một con dê con, rồi gửi chúng cùng với Đa-vít con trai mình đến gặp Sau-lơ.
\v 21 Khi ấy Đa-vít đến gặp Sau-lơ rồi bắt tay phục vụ người. Sau-lơ yêu mến người nhiều lắm, và đặt người làm kẻ vác binh khí mình.
\s5
\v 22 Sau-lơ gửi lời đến Gie-sê như sau: "Hãy để Đa-vít đứng trước mặt ta, vì nó đã tìm được ơn trước mắt ta".
\v 23 Bất cứ khi nào linh chuyên làm hại kia từ Đức Chúa Trời giáng trên Sau-lơ, Đa-vít lấy cây đàn rồi gảy nó. Vậy, Sau-lơ sẽ được tỉnh táo và mạnh giỏi, còn linh chuyên làm hại kia sẽ lìa khỏi người.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Bấy giờ dân Phi-li-tin tập trung quân đội của họ để đánh nhau. Họ tập trung lại tại Sô-cô, thuộc về xứ Giu-đa. Họ đóng quân ở giữa Sô-cô và A-xê-ca, trong Ê-phê-đa-mim.
\s5
\v 2 Sau-lơ và người Y-sơ-ra-ên tập trung và đóng quân trong trũng Ê-la, rồi dàn trận đối đầu với người Phi-li-tin.
\v 3 Người Phi-li-tin đứng trên sườn một ngọn núi, và dân Y-sơ-ra-ên đứng bên sườn núi bên nầy với một cái trũng ở giữa họ.
\s5
\v 4 Một người mạnh sức ra từ trại quân Phi-li-tin, một người có tên là Gô-li-át xứ Gát, chiều cao người là sáu cubit và một gang (1 cubit = 42, 7cm x 6 = 256, 2 cm + 20cm = 276, 2cm = 2, 76m).
\v 5 Hắn đội trên đầu cái mão bằng đồng, và mặc áo giáp vảy cá bằng đồng. Chiếc áo cân nặng năm ngàn siếc-lơ đồng.
\s5
\v 6 Hắn mang ủng bằng đồng, cây lao bằng đồng máng giữa hai vai hắn.
\v 7 Cán của cây lao rất là lớn giống như cây trục của thợ dệt. Mũi của cây lao nầy nặng sáu trăm siếc-lơ sắt. Kẻ vác khiêng cho hắn đi trước mặt hắn.
\s5
\v 8 Hắn đứng đó kêu la cũng hàng ngũ quân Y-sơ-ra-ên: "Cớ sao chúng bay dàn trận chứ? Há ta không phải là một người Phi-li-tin, và chúng bay không phải là tôi tớ của Sau-lơ chăng? Hãy chọn một người cho mình rồi bảo hắn xuống đây với ta.
\v 9 Nếu hắn dám đánh với ta và giết ta, khi ấy chúng ta sẽ làm tôi tớ của chúng bay. Còn nếu ta đánh bại hắn rồi giết hắn, khi ấy chúng bay sẽ làm tôi tớ và hầu việc ta".
\s5
\v 10 Một lần nữa, gã Phi-li-tin nói: "Ta thách thức các cấp của Y-sơ-ra-ên hôm nay. Hãy đưa ra một người hầu cho chúng ta đấu địch cùng nhau".
\v 11 Khi Sau-lơ và cả Y-sơ-ra-ên nghe được những điều gã Phi-li-tin nói: họ sờn lòng và sợ hãi lắm.
\s5
\v 12 Bấy giờ Đa-vít là con trai của của người Ê-phơ-rát ở Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa, tên của người là Gie-sê. Người có tám con trai. Gie-sê là một cụ già trong thời của Sau-lơ, lớn tuổi nhất giữa vòng dân sự.
\v 13 Ba người con lớn nhất của Gie-sê đã theo Sau-lơ ra chiến trường. Tên của ba người con trai nầy ra trận là Ê-li-áp trưởng nam, thứ nam là A-bi-na-đáp, và người thứ ba là Sam-ma.
\s5
\v 14 Đa-vít là con út. Ba người lớn nhất đã đi theo Sau-lơ.
\v 15 Giờ đây, Đa-vít cứ đi tới đi lui giữa quân đội của Sau-lơ và bầy chiên của cha người tại Bết-lê-hem, để chăn giữ chúng.
\v 16 Trong bốn mươi ngày gã mạnh sức Phi-li-tin kia đã đến cả sáng và chiều để tỏ mình khiêu chiến.
\s5
\v 17 Khi ấy Gie-sê nói với Đa-vít con trai mình: "Con hãy lấy một ê-pha hột rang và mười ổ bánh nầy đem đến cho các anh, rồi mau đưa chúng đến trại quân của các anh con.
\v 18 Cũng hãy đem mười cái bánh sữa nầy cho quan tướng ngàn người nữa. Hãy xem coi các anh con có mạnh giỏi không và hãy đem về dấu chứng cho thấy rằng chúng đang mạnh giỏi.
\s5
\v 19 Các anh của con đang ở với Sau-lơ và hết thảy người Y-sơ-ra-ên trong trũng Ê-la, đang đánh nhau với người Phi-li-tin".
\v 20 Đa-vít thức dậy sớm lúc ban sáng rồi để bầy chiên cho người chăn trông coi. Ông chở mấy thứ tiếp trợ lên đường, y như Gie-sê đã truyền cho. Ông đến tại trại quân khi quân đội đi ra chiến trường reo hò khiêu chiến.
\v 21 Và Y-sơ-ra-ên cùng dân Phi-li-tin so kè đối địch nhau, quân đội nầy nghịch cùng đội quân kia.
\s5
\v 22 Đa-vít để đồ đạt cho người giữ đồ, chạy ra chỗ quân đội, rồi chào các anh mình.
\v 23 Khi ông trao đổi với họ, kẻ mạnh sức kia, người Phi-li-tin xứ Gát, Gô-li-át đích danh, bước ra khỏi hàng quân Phi-li-tin, rồi thốt ra chính lời lẽ như trước kia. Và Đa-vít nghe thấy mọi lời ấy.
\v 24 Khi hết thảy dân Y-sơ-ra-ên nhìn thấy gã nầy, họ chạy trốn và rất đỗi sợ hãi.
\s5
\v 25 Người Y-sơ-ra-ên bèn nói: "Anh em có thấy cái gã cứ xơm tới kia hay không? Hắn đã đến thách thức Y-sơ-ra-ên. Và nhà vua sẽ thưởng cho người nào giết hắn sự giàu có lớn lắm, sẽ gả cho người ấy con gái của vua, sẽ khiến cho nhà cha người miễn thuế trong Y-sơ-ra-ên."
\s5
\v 26 Đa-vít nói với những người đứng gần ông: "Điều chi sẽ được làm cho người nào giết gã Phi-li-tin nầy và cất sự sỉ nhục ra khỏi Y-sơ-ra-ên? Gã Phi-li-tin chưa chịu cắt bì nầy là ai mà dám sỉ nhục đạo binh của Đức Chúa Trời hằng sống chứ?"
\v 27 Khi ấy dân sự lặp lại những gì họ đã nghe nói và cho người biết: "Đấy là những điều sẽ được thực thi cho người nào giết được hắn".
\s5
\v 28 Ê-li-áp người anh cả hay được điều người nói với binh lính. Cơn giận của Ê-li-áp phừng lên nghịch cùng Đa-vít, và người nói: "Sao em lại dám xuống tận đây chứ? Em để mấy bầy chiên lại cho ai trong đồng vắng vậy? Anh biết lối kiêu căng của em, và tánh xấu trong lòng em; vì em đã xuống tận đây để em xem đánh nhau".
\v 29 Đa-vít nói: "Em sẽ làm gì bây giờ đây? Đấy chỉ là thắc mắc thôi mà?"
\v 30 Ông đứng xa chỗ của anh mình rồi quay sang người khác mà hỏi cũng cùng một câu đó. Dân sự trả lời cũng một việc như trước đó.
\s5
\v 31 Khi người ta nghe lời lẽ mà Đa-vít nói ra, binh lính bèn lặp lại cho Sau-lơ nghe, và ông sai đòi Đa-vít.
\v 32 Đa-vít nói với Sau-lơ: "Nguyện chẳng một người nào ngã lòng vì cớ gã Phi-li-tin kia; tôi tớ người sẽ đi ra chiến đấu với gã Phi-li-tin nầy".
\v 33 nói với Đa-vít: "Con không thể đấu địch chống lại gã Phi-li-tin nầy được đâu; vì con chỉ là một thiếu niên, còn hắn là một người của chiến trận từ khi còn nhỏ kia".
\s5
\v 34 Nhưng Đa-vít thưa cùng Sau-lơ: "Tôi tớ của ông thường giữ bầy chiên của cha mình. Khi con sư tử hay con gấu đến rồi bắt lấy chiên con ra khỏi bầy,
\v 35 tôi đã đánh đuổi nó và tấn công nó, rồi giải cứu con chiên ra khỏi miệng nó. Và khi nó chỗi dậy chống cự tôi, tôi nắm lấy râu nó, đánh nó, rồi giết nó.
\s5
\v 36 Tôi tớ của ông đã giết cả sư tử và gấu. Gã Phi-li-tin chưa chịu cắt bì nầy giống như một trong hai con thú kia, một khi hắn dám thách thức đạo binh của Đức Chúa Trời hằng sống".
\s5
\v 37 Đa-vít nói: "Đức Giê-hô-va đã giải cứu tôi khỏi hàm của sư tử và khỏi hàm của con gấu. Ngài sẽ giải cứu tôi khỏi tay của gã Phi-li-tin nầy". Khi ấy Sau-lơ nói với Đa-vít: "Hãy đi, và nguyện Đức Giê-hô-va ở với con".
\v 38 Sau-lơ khoác lấy bộ giáp của ông cho Đa-vít. Ông đội mão bằng đồng lên đầu người, rồi ông mặc cho người với chiếc áo giáp.
\s5
\v 39 Đa-vít đeo thanh gươm trên áo giáp của mình. Nhưng ông không thể đi đứng được, vì người chưa thuần thục với chúng. Thế rồi Đa-vít nói với Sau-lơ: "Tôi không thể ra trận với các thứ nầy cho được, vì tôi chưa thuần thục với chúng". Vậy Đa-vít cởi chúng ra.
\v 40 Ông cầm cây gậy trong tay và chọn năm hòn đá bóng láng ở dưới khe; đặt chúng trong cái túi chăn chiên của mình. Cái trành của ông cầm trong tay khi ông tiếp cận người Phi-li-tin.
\s5
\v 41 Gã Phi-li-tin đến gần Đa-vít, với gã mang binh khí của hắn đi trước hắn.
\v 42 Khi người Phi-li-tin nhìn quanh quất và chỉ thấy có Đa-vít, hắn coi thường người, vì người chỉ là một thiếu niên, và nước da hồng hồng, với bề ngoài điển trai.
\v 43 Khi ấy gã Phi-li-tin mới nói cùng Đa-vít: "Có phải ta là một con chó, để mày cầm gậy đến với ta?" Và gã Phi-li-tin rủa sả Đa-vít bởi các thần mình.
\s5
\v 44 Người Phi-li-tin nói với Đa-vít: "Hãy đến cùng ta, thì ta sẽ ban thịt mày cho các loài chim trên trời và cho thú dữ ngoài đồng ruộng".
\v 45 Đa-vít đáp cùng gã Phi-li-tin ấy như sau: "Ngươi dùng gươm, giáo và lao đến với ta. Nhưng ta đến với ngươi trong danh của Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của đạo binh Y-sơ-ra-ên, là Đấng mà ngươi đang sỉ vã.
\s5
\v 46 Ngày nay Đức Giê-hô-va sẽ ban cho ta thắng hơn ngươi, và ta sẽ giết ngươi, cắt lấy đầu ngươi ra khỏi thân thể ngươi. Ngày nay ta sẽ ban thi thể của quân đội Phi-li-tin cho chim trời và cho thú đồng của đất, hầu cho cả đất sẽ biết rằng có một Đức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên,
\v 47 và mọi người ở đây đếu biết rằng Đức Giê-hô-va không ban chiến thắng cho với gươm hay giáo. Vì chiến trận thuộc về Đức Giê-hô-va, và Ngài sẽ phó ngươi vào tay ta."
\s5
\v 48 Khi người Phi-li-tin đứng dậy rồi đến gần đón Đa-vít, khi ấy Đa-vít chạy thật nhanh hướng tới quân đội của kẻ thù đón hắn.
\v 49 thò tay vào trong túi, lấy ra một hòn đá, dùng trành ném nó, và trúng nơi trán của gã Phi-li-tin kia. Hòn đá lọt thấu vào trong trán của gã Phi-li-tin, và hắn té úp mặt xuống đất.
\s5
\v 50 đã đánh bại gã Phi-li-tin với cái trành và một hòn đá. Người đánh gã Phi-li-tin rồi giết hắn. Chẳng có một thanh gươm nào nơi tay của Đa-vít.
\v 51 Khi ấy, Đa-vít chạy đến bên gã Phi-li-tin rồi rút thanh gươm của hắn ra khỏi vỏ, giết hắn, rối cắt cái đầu của hắn bằng thanh gươm đó. Khi dân Phi-li-tin nhìn thấy người mạnh sức của họ đã chết, họ liền bỏ trốn.
\s5
\v 52 ấy dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa chỗi dậy hô lớn tiếng, và truy đuổi dân Phi-li-tin ra đến tận vùng đồng bằng và hai cánh cổng của Éc-rôn. Còn dân Phi-li-tin ngã chết dọc theo con đường dẫn đến Sa-ra-im, cho đến Gát và Éc-rôn.
\v 53 Dân Y-sơ-ra-ên trở về từ cuộc truy kích dân Phi-li-tin, và họ cướp lấy trại quân của chúng.
\v 54 Đa-vít lấy cái đầu của gã Phi-li-tin kia đem đến thành Giê-ru-sa-lem, nhưng ông để bộ giáp của hắn trong trại mình.
\s5
\v 55 Khi Sau-lơ thấy Đa-vít đi ra chống lại gã Phi-li-tin đó, ông nói với Áp-ne, quan tướng của quân đội: "Hỡi Áp-ne, thiếu niên nầy là con của ai vậy?" Áp-ne nói: "Như vua hằng sống, hỡi vua, tôi không biết".
\v 56 Nhà vua nói: "Hãy hỏi thăm người nào biết, thiếu niên nầy là con của ai!?!"
\s5
\v 57 Đa-vít trở về sau khi giết chết gã Phi-li-tin kia, Áp-ne đón người, rồi đưa đến trước mặt Sau-lơ với cái đầu của gã Phi-li-tin trong tay người.
\v 58 Sau-lơ nói với người: "Thiếu niên kia, con là con của ai vậy?" Và Đa-vít đáp: "Tôi là con của tôi tớ ông Gie-sê người Bết-lê-hem".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Khi ông nói xong với Sau-lơ, linh hồn Giô-na-than buộc chặt với linh hồn của Đa-vít, và Giô-na-than yêu mến Đa-vít y như chính linh hồn mình.
\v 2 Sau-lơ đưa Đa-vít vào sự phục vụ ông ngày ấy; ông không để cho Đa-vít trở lại nhà cha người.
\s5
\v 3 Khi ấy Giô-na-than và Đa-vít lập một giao ước thân hữu vì Giô-na-than yêu mến Đa-vít như chính linh hồn mình.
\v 4 Giô-na-than cởi áo mình đang mặc rồi trao nó cho Đa-vít với binh khí mình, cũng như gươm của mình, cung và đai của mình nữa.
\s5
\v 5 Đa-vít đi ra bất cứ đâu Sau-lơ sai người đi, và người rất thành công. Sau-lơ đặt người làm đầu các binh sĩ. Điều nầy đẹp mắt hết thảy mọi người và cũng đẹp mắt các tôi tớ của Sau-lơ.
\s5
\v 6 Khi họ trở về nhà từ việc đánh bại dân Phi-li-tin, các người nữ đến từ các thành Y-sơ-ra-ên, họ ca hát và nhảy múa, đón Vua Sau-lơ, với trống cơm, với sự vui mừng, cùng với các thứ nhạc cụ.
\v 7 Những người nữ hát với nhau như vầy: "Sau-lơ giết hàng ngàn, còn Đa-vít giết hàng vạn".
\s5
\v 8 Sau-lơ rất giận, và bài ca nầy không đẹp lòng ông. Ông nói: "Chúng gán cho Đa-vít hàng vạn, nhưng họ gán cho ta chỉ có hàng ngàn. Nó chỉ còn có ngôi vua nữa mà thôi?"
\v 9 Và Sau-lơ ngó Đa-vít với sự nghi ngờ từ ngày ấy trở đi.
\s5
\v 10 Ngày sau, có một linh chuyên làm hại đến từ Đức Chúa Trời nhập vào Sau-lơ. Và ông nói sảng ở trong nhà. Thế là Đa-vít gảy đàn mình, như người đã làm mỗi ngày. Sau-lơ cầm ngọn giáo mình trong tay.
\v 11 Sau-lơ phóng ngọn giáo, vì ông nghĩ: "Ta sẽ ghim Đa-vít lên tường". Nhưng Đa-vít tránh sự hiện diện của Sau-lơ hai lần theo cách nầy.
\v 12 Sau-lơ vốn sợ Đa-vít, vì Đức Giê-hô-va ở với người, nhưng không còn ở với Sau-lơ nữa.
\s5
\v 13 Thế là Sau-lơ dời người ở xa sự hiện diện của mình và phong người làm quan tướng ngàn người. Với tư thế nầy Đa-vít đi ra và đến trước mặt dân sự.
\v 14 Đa-vít được thịnh vượng trong mọi đường mình, vì Đức Giê-hô-va ở với người.
\s5
\v 15 Khi Sau-lơ nhìn thấy người được hanh thông, ông ta đã đứng trong sự kinh hãi người.
\v 16 Nhưng hết thảy Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều yêu mến Đa-vít, vì người đi ra đứng trước mặt họ.
\s5
\v 17 Khi ấy Sau-lơ nói với Đa-vít: "Đây là Mê-ráp trưởng nữ của ta. Ta sẽ ban nó cho người làm vợ. Chỉ hãy can đảm vì ta và đánh giặc của Đức Giê-hô-va". Vì Sau-lơ nghĩ: "Tay ta không giáng trên người, nhưng thà tay của dân Phi-li-tin giáng trên người thì hơn".
\v 18 Đa-vít nói với Sau-lơ: "Tôi là ai, và thân phận tôi là gì, hay dòng họ cha tôi là chi trong Y-sơ-ra-ên, để tôi làm con rể cho nhà vua?"
\s5
\v 19 Nhưng lúc bấy giờ khi Mê-ráp, con gái của Sau-lơ, sẽ được gả cho Đa-vít, nàng bị gả cho Át-ri-ên người Mê-hô-la làm vợ.
\s5
\v 20 Nhưng Mi-canh, con gái Sau-lơ, yêu mến Đa-vít. Họ nói với Sau-lơ, và điều nầy đẹp lòng ông.
\v 21 Khi ấy Sau-lơ suy nghĩ: "Ta sẽ gả nó cho hắn, để nó làm một cái bẫy cho hắn, và tay của dân Phi-li-tin sẽ nghịch cùng hắn". Thế là Sau-lơ nói với Đa-vít lần thứ hai: "Người sẽ là con rể ta".
\s5
\v 22 Sau-lơ truyền cho các tôi tớ người: "Hãy nói với Đa-vít theo cách riêng như sau: 'Hãy xem, nhà vua lấy làm vui nơi người, và hết thảy tôi tớ người đều yêu mến người. Vậy bây giờ, hãy trở thành con rể của nhà vua'".
\s5
\v 23 Vì vậy, tôi tớ của Sau-lơ phán mấy lời nầy với Đa-vít. Và Đa-vít nói: "Có phải làm con rể của nhà vua chỉ là một vấn đề nhỏ, một khi tôi nghèo hèn, và bị xem thường không?"
\v 24 Tôi tớ của Sau-lơ báo cáo lại với ông lời lẽ mà Đa-vít đã nói.
\s5
\v 25 Và Sau-lơ nói: "Các người sẽ nói với Đa-vít như vầy: 'Nhà vua không muốn sính lễ chi khác, chỉ một trăm dương bì của người Phi-li-tin, đặng trả thù kẻ cừu địch mình'". Bấy giờ Sau-lơ tưởng mình sẽ làm cho Đa-vít phải vấp ngã bởi tay của người Phi-li-tin.
\v 26 Khi tôi tớ người nói cho Đa-vít biết mấy lời nầy, điều đó đẹp lòng Đa-vít muốn trở thành con rễ của nhà vua.
\s5
\v 27 Trước kỳ định đó, Đa-vít đi với người của mình và giết hai trăm người Phi-li-tin. Đa-vít đem về dương bì của họ, và họ dâng chúng đủ số cho nhà vua, hầu cho người trở thành con rể của nhà vua. Vậy Sau-lơ gã Mi-canh cho người làm vợ.
\v 28 Và Sau-lơ đã nhìn thấy và nhận biết rằng Đức Giê-hô-va đã ở với Đa-vít. Mi-canh, con gái của Sau-lơ, yêu mến người.
\v 29 Sau-lơ rất đỗi lo sợ về Đa-vít. Sau-lơ liên tục là kẻ thù của Đa-vít.
\s5
\v 30 Khi đó các vua dân Phi-li-tin xuất trận, và như thường lệ khi họ xuất quân, Đa-vít đã thành công nhiều hơn các tôi tớ của Sau-lơ, thế là tên tuổi người ngày càng lên cao thêm.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Sau-lơ nói với Giô-na-than con trai mình và với các tôi tớ rằng họ sẽ giết Đa-vít. Nhưng Giô-na-than, con trai của Sau-lơ, rất ưa thích Đa-vít.
\v 2 Vì vậy Giô-na-than nói với Đa-vít: "Sau-lơ cha tôi đang tìm cách giết anh. Vì vậy sáng mai hãy coi chừng và hãy ẩn mình đi trong nơi kín đáo.
\v 3 Tôi sẽ đi ra và đứng bên cạnh cha tôi ở ngoài đồng, chỗ anh đang ẩn náu, và tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Nếu tôi hay được điều gì, tôi sẽ nói cho anh biết."
\s5
\v 4 Giô-na-than nói tốt cho Đa-vít với Sau-lơ cha mình như sau: "Đừng để nhà vua phạm tội nghịch cùng Đa-vít tôi tớ vua. Vì người không phạm tội nghịch cùng vua, và mọi việc làm người đã làm cho vua được vui lòng.
\v 5 Vì người lấy mạng mình mà giết dân Phi-li-tin. Đức Giê-hô-va đã đem lại chiến thắng lớn lao cho cả Y-sơ-ra-ên. Vua đã thấy điều đó và vui mừng. Cớ sao vua lại phạm tội nghịch cùng huyết vô tội bằng cách giết Đa-vít mà chẳng có lý cớ chi cả?"
\s5
\v 6 Sau-lơ lắng nghe Giô-na-than. Sau-lơ thề: "Như Đức Giê-hô-va hằng sống, hắn sẽ không phải chết".
\v 7 Khi ấy Giô-na-than gọi Đa-vít, và Giô-na-than thuật cho người nghe mọi sự nầy. Giô-na-than đưa Đa-vít đến gặp Sau-lơ, và người cứ ở trong sự hiện diện của ông như trước.
\s5
\v 8 Và lại có chiến tranh nữa. Đa-vít đi ra đánh trận với người Phi-li-tin và đánh bại họ với một cuộc tàn sát rất lớn. Chúng bỏ chạy trước mặt người.
\v 9 Một linh chuyên làm hại đến từ Đức Giê-hô-va nhập vào Sau-lơ khi người ngồi nơi nhà mình với mũi giáo trong tay, và khi Đa-vít gảy đàn mình.
\s5
\v 10 Sau-lơ tìm cách ghim Đa-vít vào tường với mũi giáo, song người tránh khỏi sự hiện diện của Sau-lơ, hầu cho Sau-lơ phóng mũi giáo vào trong tường. Đa-vít bỏ trốn và thoát đi trong đêm ấy.
\v 11 Sau-lơ sai các sứ giả đến nhà của Đa-vít đặng canh giữ người để ông nhắm giết người vào buổi sáng. Mi-canh, vợ của Đa-vít, nói với người: "Nếu chàng không cứu mạng mình tối nay, ngày mai chàng sẽ bị giết chết".
\s5
\v 12 Thế là Mi-canh thòng Đa-vít xuống ngõ cửa sổ. Người đi trốn, và tránh thoát.
\v 13 Mi-canh lấy hình tượng trong nhà rồi để nó lên giường. Khi ấy, nàng đặt một cái gối lên chỗ đầu của con dê, rồi lấy quần áo bọc nó lại.
\s5
\v 14 Khi ấy Sau-lơ sai các sứ giả đến bắt Đa-vít, nàng nói: "Chàng bị bịnh".
\v 15 Thế rồi Sau-lơ sai các sứ giả đến tìm Đa-vít; ông nói: "Hãy đưa hắn ở trên giường đến gặp ta, hầu cho ta sẽ giết hắn đi".
\s5
\v 16 Khi các sứ giả vào đến, kìa, hình tượng trong gia đình nằm trên giường với cái gối bằng đầu dê.
\v 17 Sau-lơ nói với Mi-canh: "Sao con dám gạt ra mà để cho kẻ thù trốn đi, để hắn đã trốn thoát sao?" Mi-canh trả lời Sau-lơ: "Hắn nói với con: 'Hãy để ta đi. Ta có nên giết nàng không?'"
\s5
\v 18 Bấy giờ Đa-vít trốn thoát đi, rồi đến gặp Sa-mu-ên ở Ra-ma rồi kể cho ông nghe mọi chuyện mà Sau-lơ đã làm cho người. Thế rồi người và Sa-mu-ên cùng đi và ở lại tại Na-giốt.
\v 19 Người ta thuật lại cho Sau-lơ hay như vầy: "Hãy xem, Đa-vít đang ở tại Na-giốt trong Ra-ma".
\v 20 Lúc ấy Sau-lơ sai các sứ giả đến bắt Đa-vít. Khi họ nhìn thấy một nhóm tiên tri đang nói tiên tri, và Sa-mu-ên đang đứng làm đầu họ, Thánh Linh Đức Chúa Trời giáng trên các sứ giả của Sau-lơ, và họ cũng nói tiên tri nữa.
\s5
\v 21 Khi Sau-lơ hay được việc nầy, ông sai các sứ giả khác, và họ cũng nói tiên tri. Vậy Sau-lơ sai các sứ giả một lần nữa đến lần thứ ba, và họ cũng nói tiên tri.
\v 22 Thế rồi ông cũng đến tại Ra-ma và đến chỗ cái giếng sâu ở Sê-cu. Ông hỏi: "Sa-mu-ên và Đa-vít đâu rồi?" Có người đáp: "Hãy xem, họ đang ở tại Na-giốt trong Ra-ma".
\s5
\v 23 Sau-lơ đi đến Na-giốt ở Ra-ma. Và Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng giáng trên ông, và ông vừa đi vừa nói tiên tri, cho đến khi ông đến Na-giốt ở Ra-ma.
\v 24 Và ông, cũng lột áo mình, và ông cũng nói tiên tri trước mặt Sa-mu-ên và ở trần nằm suốt ngày và suốt đêm ở đó. Vì cớ điều nầy, họ nói: "Có phải Sau-lơ cũng có mặt giữa vòng các tiên tri?"
\s5
\c 20
\p
\v 1 Khi ấy, Đa-vít trốn khỏi Na-giốt trong Ra-ma đến nói với Giô-na-than: "Tôi đã làm gì? Đâu là lầm lỗi của tôi? Đâu là tội lỗi của tôi trước mặt cha của anh, mà ông tìm cách lấy mạng tôi?"
\v 2 Giô-na-than nói với Đa-vít: "Đừng nói mãi thế; anh sẽ không chết đâu. Cha của tôi chẳng làm gì dù lớn và nhỏ mà không nói cho tôi biết. Tại sao cha của tôi giấu việc nầy khỏi tôi chứ? Không đúng như thế đâu".
\s5
\v 3 Tuy nhiên, Đa-vít thề một lần nữa rồi nói: "Cha của anh biết rõ là tôi được ưu ái trong mắt của anh. Ông đã nói: 'Đừng cho Giô-na-than biết việc nầy hoặc nó sẽ đau buồn'. Nhưng thực sự như Đức Giê-hô-va hằng sống, và như anh còn sống đây, chỉ có một bước giữa tôi và sự chết mà thôi".
\s5
\v 4 Thế rồi Giô-na-than nói với Đa-vít: "Bất cứ điều chi anh nói, tôi sẽ làm cho anh".
\v 5 Đa-vít nói với Giô-na-than: "Ngày mai là ngày trăng mới, và tôi phải ngồi xuống để ăn với nhà vua. Nhưng hãy để tôi đi, hầu cho tôi ẩn mình trong đồng ruộng cho đến ngày thứ ba lúc buổi tối.
\s5
\v 6 Nếu cha của anh thấy thiếu tôi, thì hãy nói: Đa-vít cứ nài con để nó chạy về Bết-lê-hem thành của mình; vì phải dâng của lễ hàng năm ở đó với cả gia đình.'
\v 7 Nếu người nói: 'Được rồi', tôi tớ của anh sẽ được bình an. Nhưng nếu người nổi giận, khi ấy phải biết rằng ông ấy đã quyết định về điều ác.
\s5
\v 8 Vì lẽ đó, hãy đối xử tử tế với tôi tớ anh. Vì anh đã đưa tôi tớ anh vào một giao ước với anh trong danh của Đức Giê-hô-va. Nhưng nếu có tội lỗi nơi tôi, thì chính anh hãy giết tôi đi; vì sao anh cứ đưa tôi đến với cha anh chứ?"
\v 9 Giô-na-than nói: "Cha tôi quyết làm hại cho anh, tôi sẽ không nói cho anh biết sao?"
\s5
\v 10 Khi ấy Đa-vít nói cùng Giô-na-than: "Ai sẽ nói cho tôi biết nếu cha anh dùng lời nghiêm khắc đáp cùng anh?"
\v 11 Giô-na-than nói với Đa-vít: "Hãy đến, chúng ta hãy đi ra ngoài đồng". Và cả hai người đi ngoài đồng.
\s5
\v 12 Giô-na-than nói với Đa-vít: "Nguyện Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên làm chứng cho. Khi tôi dọ hỏi cha tôi khoảng giờ nầy ngày mai, hay ngày thứ ba, hãy xem, nếu có điều lành đối cùng Đa-vít, tôi sẽ không sai ai đến cho anh hay?
\v 13 Nếu cha tôi cứ muốn làm hại anh, nguyện Đức Giê-hô-va làm thế cho Giô-na-than và nhiều hơn nữa nếu tôi không cho anh hay và báo cho anh biết, hầu cho anh ra đi trong sự bình an. Nguyện Đức Giê-hô-va ở với anh, như Ngài đã ở với cha tôi.
\s5
\v 14 Nếu tôi vẫn còn sống, liệu anh không tỏ cho tôi sự thành tín trong giao ước của Đức Giê-hô-va, rằng tôi sẽ không chết chăng?
\v 15 Và đừng dứt khỏi sự thành tín giao ước khỏi nhà tôi, khi Đức Giê-hô-va sẽ dứt khỏi từng người trong số kẻ thù của Đa-vít khỏi mặt đất".
\v 16 Vậy, Giô-na-than lập một giao ước với nhà Đa-vít rồi nói: "Nguyện Đức Giê-hô-va buộc phải tính sổ nơi tay kẻ thù của Đa-vít ".
\s5
\v 17 Giô-na-than lập với Đa-vít một lời thề vì cớ tình cảm mà người đã có với Đa-vít, vì người yêu thương Đa-vít như người yêu chính lình hồn mình vậy.
\v 18 Thế rồi Giô-na-than nói với Đa-vít: "Ngày mai là ngày trăng mới. Anh sẽ vắng mặt đi, vì chỗ ngồi của anh sẽ trống.
\v 19 Khi anh ở lại ba ngày, mau đi xuống đến chỗ mà ở đó anh ẩn mình đi khi công việc sắp xong, và hãy ở lại bên hòn đá Ê-xe.
\s5
\v 20 Tôi sẽ bắn ba mũi tên về phía đó, dường như tôi bắn vào một cái bia vậy.
\v 21 Và tôi sẽ sai một người trẻ tuổi, bảo hắn: 'Hãy đi tìm các mũi tên'. Nếu tôi nói với gã thanh niên đó: 'Hãy xem, mấy mũi tên ở bên phía ngươi, hãy đi lấy chúng", khi ấy hãy đến; vì sẽ có an toàn cho anh mà chẳng hại gì, như Đức Giê-hô-va là hằng sống.
\s5
\v 22 "Còn nếu tôi nói với gã thanh niên đó: 'Hãy xem, mũi tên ở bên kia ngươi', khi ấy hãy đi đường mình, vì Đức Giê-hô-va khiến anh đi.
\v 23 Như giao kết mà anh và tôi đã thề thốt, hãy xem, Đức Giê-hô-va ngự giữa tôi và anh cho đến đời đời'".
\s5
\v 24 Vậy, Đa-vít đi ẩn mình ngoài đồng ruộng. Khi đến ngày trăng mới, nhà vua ngồi xuống để ăn uống.
\v 25 Nhà vua ngồi trên ghế của mình, như thường lệ, ngồi trên ghế sát vách tường. Giô-na-than đứng dậy, và Áp-ne ngồi xuống cạnh Sau-lơ. Nhưng chỗ của Đa-vít thì trống.
\s5
\v 26 Tuy nhiên. Sau-lơ không nói năng gì trong ngày đó, vì ông nghĩ: "Có chuyện đã xảy ra với hắn. Hắn vốn không sạch; chắc chắn hắn không sạch rồi".
\v 27 Nhưng qua ngày thứ hai, ngày sau ngày trăng mới, chỗ của Đa-vít thì trống. Sau-lơ hỏi Giô-na-than con trai mình: "Sao con của Gie-sê không đến dự bữa ăn, cả ngày hôm qua cho đến bữa nay vậy?"
\s5
\v 28 Giô-na-than trả lời Sau-lơ: "Đa-vít cứ nài xin con phải đi về Bết-lê-hem.
\v 29 Nó nói: 'Làm ơn cho phép tôi đi. Vì gia đình tôi có dâng của lễ trong thành, và các anh tôi đã lịnh cho tôi phải có mặt ở đó. Giờ đây, nếu tôi được ơn trước mắt anh, làm ơn cho phép tôi đi và gặp mấy anh tôi'. Vì lý do nầy nó không đến tại bàn vua".
\s5
\v 30 Lúc đó, cơn giận của Sau-lơ phừng lên nghịch cùng Giô-na-than, và ông nói với người: "Con là con của một người đàn bà ngang bướng, loạn nghịch! Có phải ta không biết rằng con đã chọn con trai của Gie-sê cho sự xấu hổ của chính con, và cho sự xấu hổ trần truồng của mẹ con?
\v 31 Vì bao lâu con trai Gie-sê còn sống trên đất, con và nước của con sẽ chẳng được thiết lập đâu. Vậy bây giờ, hãy sai người đem nó về cho ta, chắc hẳn nó phải chết thôi".
\s5
\v 32 Giô-na-than đáp cùng Sau-lơ cha mình: "Vì lý do gì nó phải chịu giết chứ? Nó đã làm gì chứ?"
\v 33 Lúc đó Sau-lơ phóng ngọn giáo mình vào người để giết người đi. Vì vậy Giô-na-than biết rõ cha mình đã quyết giết chết Đa-vít.
\v 34 Giô-na-than chỗi dậy khỏi bàn, tức tối lắm và chẳng ăn gì trong ngày thứ hai của tháng, vì người lấy làm buồn rầu về Đa-vít, vì cha mình đã sỉ nhục người.
\s5
\v 35 Đến sáng, Giô-na-than đi ra ngoài đồng đến chỗ hẹn với Đa-vít, và một gã thanh niên cùng đi với người.
\v 36 Người nói với gã thanh niên: "Hãy chạy đi tìm mấy mũi tên mà ta đã bắn". Và khi gã thanh niên chạy đi, người bắn một mũi tên ở bên kia nó.
\v 37 Khi gã thanh niên đến tại chỗ mũi tên Giô-na-than đã bắn rơi xuống, Giô-na-than gọi gã thanh niên, rồi nói: "Mũi tên há không ở bên kia ngươi sao?"
\s5
\v 38 Và Giô-na-than gọi vói theo gã thanh niên: "Mau lên, nhanh lên, đừng ở lại!" Vậy, gã thanh niên của Giô-na-than đã thu thập lại mấy mũi tên rồi đến với chủ mình.
\v 39 Nhưng gã thanh niên chẳng biết chút chi hết. Chỉ có Giô-na-than và Đa-vít biết vấn đề mà thôi.
\v 40 Giô-na-than đã trao vũ khí mình cho gã thanh niên rồi nói với hắn: "Hãy đi đi, hãy đem chúng về thành".
\s5
\v 41 Không lâu sau khi gã thanh niên đi khỏi rồi, Đa-vít đứng dậy từ phía Nam, nằm sấp mặt xuống đất, và cúi lạy ba lần. Họ hôn nhau và khóc với nhau, Đa-vít đã khóc nhiều hơn.
\v 42 Giô-na-than nói với Đa-vít: "Hãy đi bình an, vì chúng ta đã nhơn danh Đức Giê-hô-va mà thề: 'Nguyện Đức Giê-hô-va ngự giữa anh và tôi, và giữa dòng dõi tôi và dòng dõi anh, cho đến đời đời '". Khi ấy Đa-vít chỗi dậy rời đi, còn Giô-na-than trở về thành phố.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Khi ấy Đa-vít đến tại Nóp gặp thầy tế lễ A-hi-mê-léc. A-hi-mê-léc đến gặp Đa-vít bộ run rẩy, nói với người: "Sao ông đến đây một mình mà chẳng có ai đi cùng ông vậy?"
\v 2 Đa-vít nói với thầy tế lễ A-hi-mê-léc: "Nhà vua sai ta với một sứ mệnh và nói cùng ta rằng: 'Đừng để ai biết việc gì về công việc ta sai con, và những gì ta đã truyền cho con'. Ta đã chỉ cho những người trẻ tuổi một chỗ nhất định.
\s5
\v 3 Vậy bây giờ ông có gì nơi tay? Hãy cung cấp cho tôi năm ổ bánh, hoặc bất cứ gì có ở đây".
\v 4 Thầy tế lễ đáp cùng Đa-vít: "Chẳng có bánh thường nào ở đây, trừ ra bánh thánh — nếu những người trai trẻ kia giữ mình đừng đến gần đàn bà".
\s5
\v 5 Đa-vít đáp cùng thầy tế lễ: "Chắc chắn là đàn bà bị giữ khỏi chúng ta trong ba ngày nầy. Khi ta đi ra, thân thể của những người trai trẻ nầy đã được dâng cho Đức Giê-hô-va, mặc dù đây là một chuyến hành trình bình thường. Huống chi hôm nay thân thể họ đã được dâng cho Đức Giê-hô-va?"
\v 6 Vậy thầy tế lễ trao cho người bánh đã được dâng cho Đức Giê-hô-va. Vì không có bánh ở đó, chỉ có bánh trần thiết, là bánh đã được cất đi khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va, để hấp nóng lại trong chỗ của nó khi đã được cất đi.
\s5
\v 7 Bấy giờ các tôi tớ của Sau-lơ đã có mặt ở đó trong ngày ấy, bị cấm đến trước mặt Đức Giê-hô-va. Tên của người Đô-e dân Ê-đôm, đầu của những kẻ chăn chiên của Sau-lơ.
\s5
\v 8 Đa-vít nói với A-hi-mê-léc: "Bây giờ chẳng có ở đây gươm hay giáo nào sao? Vì ta không có đem theo gươm hay khí giới nào với ta, vì công việc của vua là cấp bách".
\v 9 Thầy tế lễ nói: "Gươm của Gô-li-át người Phi-li-tin, là kẻ mà ông đã giết tại trũng Ê-la, được bọc trong miếng nỉ ở đàng sau cái ê-phót. Nếu ông cần lấy nó, hãy lấy đi, vì chẳng có khí giới nào ở đây hết". Đa-vít nói: "Chẳng có thanh gươm nào giống như gươm ấy; hãy đưa nó cho ta".
\s5
\v 10 Đa-vít chỗi dậy và trốn đi ngày ấy khỏi Sau-lơ rồi đi đến A-kích, vua xứ Gát.
\v 11 Tôi tớ của A-kích nói với người: "Há đây chẳng phải là Đa-vít vua của xứ sao? Há họ không hát với nhau về người khi nhảy múa: 'Sau-lơ giết hàng ngàn, còn Đa-vít giết hàng vạn sao?'"
\s5
\v 12 Đa-vít nhận mấy lời nầy vào lòng và rất đỗi sợ hãi đối với A-kích, vua xứ Gát.
\v 13 Ông đổi cách ứng xử mình trước mặt họ rồi giả vờ dại khờ trong tay họ; ông làm dấu trên hai cánh cửa nơi cổng và để nước miếng chảy trên râu mình.
\s5
\v 14 Khi ấy A-kích nói với tôi tớ mình: "Hãy xem đi, các người nhìn thấy người điên nầy. Sao các ngươi lại đem hắn đến cho ta chứ?
\v 15 Bộ ta thiếu kẻ điên, để rồi các ngươi đem gã nầy đến để khùng khùng điên điên trước mặt ta mà chi? Kẻ điên như vầy có thực sự được vào trong nhà của ta chăng?"
\s5
\c 22
\p
\v 1 Thế là Đa-vít rời khỏi nơi ấy rồi trốn trong hang A-đu-lam. Khi các anh và cả nhà cha người hay được việc ấy, họ đi xuống đó với người.
\v 2 Người nào ở trong cảnh khốn cùng, kẻ nào mắc nợ, và kẻ nào sống bất mãn — hết thảy họ đều tụ tập lại với người. Đa-vít trở thành thủ lãnh của họ. Đã có khoảng bốn trăm người đến với ông.
\s5
\v 3 Khi ấy Đa-vít đi khỏi đó đến Mít-bê trong xứ Mô-áp. Ông nói với vua xứ Mô-áp: "Làm ơn để cha mẹ tôi ở lại với anh em cho đến chừng ta biết những gì Đức Chúa Trời sẽ làm cho ta".
\v 4 Ông để họ lại với vua xứ Mô-áp. Cha mẹ ông ở lại với ông trọn thời gian ở trong đồn lũy người.
\v 5 Khi ấy tiên tri Gát nói với Đa-vít: "Đừng ở lại trong đồn lũy của ông mà chi. Hãy rời khỏi đó mà vào trong xứ của Giu-đa". Vậy Đa-vít rời khỏi đó rồi vào khu rừng Hê-rết.
\s5
\v 6 Sau-lơ hay được Đa-vít bị phát hiện, cùng với những người ở với ông. Bấy giờ Sau-lơ đang ngồi ở Ghi-bê-a dưới cây liễu xũ tơ ở Ra-ma, với cây giáo trong tay, và hết thảy tôi tớ đều đứng quanh ông.
\s5
\v 7 Sau-lơ nói với các tôi tớ đang đứng ở quanh ông: "Hãy lắng nghe đây, hỡi dân sự Bên-gia-min! Có phải con trai của Gie-sê ban cho từng người trong anh em đồng ruộng và vườn nho chăng? Có phải hắn lập anh em làm quan tướng ngàn người và quan tướng trăm người,
\v 8 đổi lại anh em sẽ mưu nghịch cùng ta chăng? Chẳng có ai trong anh em cho ta hay lúc nào con trai ta lập một giao ước với con trai của Gie-sê. Chẳng có ai trong anh em thương tưởng đến ta. Không một người nào trong anh em cho ta hay con trai ta đã xui Đa-vít tôi tớ ta nghịch cùng ta. Ngày nay nó đi trốn và chờ đợi để tấn công ta".
\s5
\v 9 Khi ấy Đô-e người Ê-đôm, đứng cạnh các tôi tớ của Sau-lơ, đáp rằng: "Tôi có thấy con trai của Gie-sê đến tại Nóp, gặp A-hi-mê-léc con trai của A-hi-túp.
\v 10 Người cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rằng người sẽ giúp đỡ cho hắn, và người tiếp trợ bánh cho hắn cùng thanh gươm của Gô-li-át người Phi-li-tin".
\s5
\v 11 Thế rồi nhà vua sai người đến triệu thầy tế lễ A-hi-mê-léc con trai của A-hi-túp cùng hết thảy nhà cha người, các thầy tế lễ đều ở tại Nóp. Hết thảy họ đều đến gặp nhà vua.
\v 12 Sau-lơ nói: "Giờ đây, hãy nghe, hỡi con trai của A-hi-túp". Ông đáp: "Có tôi đây, hỡi chúa tôi".
\v 13 Sau-lơ nói với người: "Cớ sao ông mưu nghịch cùng ta, ông và con trai của Gie-sê, ông có trao cho hắn bánh, và một thanh gươm, và đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin Ngài giúp đỡ hắn, xin Ngài dấy lên nghịch cùng ta, để hắn đi trốn ở chỗ kín đáo, như đã có ngày nay?"
\s5
\v 14 Thầy tế lễ A-hi-mê-léc đáp cùng nhà vua như sau: "Ai giữa vòng các tôi tớ của vua trung tín như Đa-vít chứ, Đa-vít là con rể của vua và là cấp chỉ huy của binh lính vua, và được tôn trong nhà vua?
\v 15 Có phải hôm nay là lần đầu tiên tôi đã cầu nguyện xin Đức Chúa Trời phù giúp người đâu? Không phải như vậy đâu! Nhà vua đừng gán điều gì cho tôi tớ của ông hoặc cho nhà cha của tôi. Vì tôi tớ vua chẳng biết gì về toàn bộ vấn đề cả".
\s5
\v 16 Nhà vua đáp: "Ngươi chắc sẽ chết, hỡi A-hi-mê-léc, ngươi và cả nhà cha ngươi".
\v 17 Nhà vua nói với binh lính đứng quanh ông: "Hãy xây qua giết các thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va đi. Vì tay của họ cũng ở với Đa-vít, và vì họ biết rõ hắn đi trốn, song không tỏ điều đó cho ta biết". Nhưng các tôi tớ của nhà vua không chịu tra tay mình giết các thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Khi ấy nhà vua bảo Đô-e: "Hãy xây qua giết các thầy tế lễ đi". Thế là Đô-e người Ê-đôm xây qua tấn công các thầy tế lễ; hắn giết tám mươi lăm người đeo cái ê-phót ngày ấy.
\v 19 Với lưỡi gươm, hắn tấn công Nóp, là thành của dòng thầy tế lễ, cả nam và nữ, con trẻ và con đương bú, bò, lừa và chiên. Hắn giết hết thảy họ với lưỡi gươm.
\s5
\v 20 Nhưng một con trai của A-hi-mê-léc cháu của A-hi-túp, tên là A-bia-tha, trốn thoát rồi theo Đa-vít.
\v 21 A-bia-tha thuật lại cho Đa-vít biết Sau-lơ đã giết các thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 22 Đa-vít nói với A-bia-tha: "Ta biết lúc ấy, khi Đô-e người Ê-đôm có mặt ở đó, chắc chắn hắn sẽ nói cho Sau-lơ biết. Ta chịu trách nhiệm cho từng người ngã chết trong gia đình của cha ngươi!
\v 23 Hãy ở đây với ta và đừng sợ hãi. Vì những kẻ săn mạng sống ngươi cũng săn mạng sống ta nữa. Ngươi sẽ được an toàn với ta".
\s5
\c 23
\p
\v 1 Họ nói cho Đa-vít biết: "Xem kìa, người Phi-li-tin đánh Kê-i-la rồi cướp các sân đạp lúa".
\v 2 Thế là Đa-vít cầu xin sự trợ giúp của Đức Giê-hô-va, và ông thưa cùng Ngài: "Con có nên đi ra tấn công người Phi-li-tin nầy không?" Đức Giê-hô-va phán cùng Đa-vít: "Hãy đi và tấn công người Phi-li-tin rồi giải cứu Kê-i-la".
\s5
\v 3 Người của Đa-vít nói cùng ông: "Kìa, chúng ta e sợ ở đây trong xứ Giu-đa. Huống hồ chi chúng ta đến với Kê-i-la chống lại quân đội của người Phi-li-tin?"
\v 4 Khi ấy Đa-vít cầu nguyện xin Đức Giê-hô-va trợ giúp, thế là một lần nữa Đức Giê-hô-va trả lời cho người: "Hãy chỗi dậy, đi xuống Kê-i-la. Vì ta sẽ ban cho con thắng hơn dân Phi-li-tin".
\s5
\v 5 Đa-vít và người của ông đến tại Kê-i-la rồi đánh trận với người Phi-li-tin. Họ dẫn độ bầy gia súc của chúng rồi tấn công chúng với một cuộc tàn sát thật là lớn. Vậy, Đa-vít giải cứu cư dân của Kê-i-la.
\v 6 Khi A-bia-tha con trai của A-hi-mê-léc trốn đến với Đa-vít tại Kê-i-la, người đem theo với mình cái ê-phót trong tay.
\s5
\v 7 Sau-lơ hay được rằng Đa-vít đã đi đến Kê-i-la. Sau-lơ nói: "Đức Chúa Trời đã ban nó vào trong tay ta. Vì nó bị nhốt, nó đã vào trong thành có cửa và then gài".
\v 8 Sau-lơ triệu tập các lực lượng để đánh trận, để đi xuống Kê-i-la, bao vây Đa-vít cùng người của ông.
\v 9 Đa-vít biết rõ Sau-lơ đang mưu tính nghịch cùng mình. Ông nói với thầy tế lễ A-bia-tha: "Hãy đem cái ê-phót đến đây".
\s5
\v 10 Khi ấy Đa-vít nói: "Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài thực có nghe rằng Sau-lơ đang tìm cách đến Kê-i-la, để hủy diệt thành vì cớ con.
\v 11 Có phải người ở Kê-i-la sẽ nộp con vào trong tay của ông ấy không? Có phải Sau-lơ xuống đây, như tôi tớ Ngài có nghe nói không? Hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, con nài xin Ngài, làm ơn cho tôi tớ Ngài biết đi". Đức Giê-hô-va nói: "Hắn sẽ xuống đấy".
\s5
\v 12 Thế rồi Đa-vít nói: "Có phải người ở Kê-i-la sẽ giao nộp con và người của con vào trong tay của Sau-lơ không?" Đức Giê-hô-va phán: "Chúng sẽ nộp con đấy".
\s5
\v 13 Khi ấy Đa-vít và người của ông, có khoản sáu trăm người, họ chỗi dậy rồi đi khỏi Kê-i-la, và họ đi từ chỗ nầy đến chỗ kia. Khi đó Sau-lơ hay rằng Đa-vít đã thoát ra khỏi Kê-i-la, và ông thôi không truy kích nữa.
\v 14 Đa-vít ở lại trong các đồn lũy trong đồng vắng, trong vùng đồi núi, trong đồng vắng Xíp. Sau-lơ tìm kiếm người từng ngày một, nhưng Đức Chúa Trời không phó người vào tay của ông ta.
\s5
\v 15 Đa-vít thấy rằng Sau-lơ đã đến tìm cách cất mạng sống người; bấy giờ Đa-vít ở trong đồng vắng Xíp tại Hô-rết.
\v 16 Khi ấy Giô-na-than, con trai của Sau-lơ, chỗi dậy rồi đến gặp Đa-vít tại Hô-rết, và làm vững mạnh tay người nơi Đức Chúa Trời.
\s5
\v 17 Người nói với Đa-vít: "Đừng sợ. Vì tay của Sau-lơ cha tôi sẽ không truy tìm anh. Anh sẽ là vua trên Y-sơ-ra-ên, và tôi sẽ đứng kế anh. Sau-lơ cha tôi cũng biết rõ việc nầy".
\v 18 Họ lập một giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va. Đa-vít ở lại tại Hô-rết, và Giô-na-than trở về nhà.
\s5
\v 19 Khi ấy dân Xíp đến với Sau-lơ tại Ghi-bê-a rồi nói: "Có phải Đa-vít không trốn giữa vòng chúng tôi trong các đồn lũy tại Hô-rết, trên đồi Ha-ki-la, nằm ở phía Nam Giê-si-môn?
\v 20 Giờ đây, hỡi vua, hãy xuống đi! Theo ước muốn của ông, hãy xuống đi! Phần của chúng tôi sẽ giao nộp hắn vào tay vua".
\s5
\v 21 Sau-lơ nói: "Nguyện anh em được Đức Giê-hô-va chúc phước cho. Vì anh em có thương tưởng đến ta.
\v 22 Hãy đi, khá làm điều đó cho chắc chắn. Hãy tìm biết nơi hắn ẩn náu và ai đã nhìn thấy hắn ở đó. Khi ấy hãy cho ta hay, hắn rất là tiểu xảo.
\v 23 Vậy hãy xem xét, rồi tìm biết mọi địa điểm mà hắn đi ẩn mình. Hãy trở lại cùng ta với thông tin thật chắc chắn, rồi ta sẽ trở lại với anh em. Nếu hắn ở trong xứ, ta sẽ tìm kiếm hắn giữa vòng hàng ngàn người của Giu-đa".
\s5
\v 24 Thế là họ chỗi dậy đi đến Xíp trước cả Sau-lơ. Bấy giờ, Đa-vít cùng người của ông sống trong đồng vắng Ma-ôn, trong xứ A-ra-ba ở phía Nam Giê-si-môn.
\v 25 Sau-lơ cùng người của ông ta truy tìm Đa-vít. Còn Đa-vít thì hay được điều đó, vì vậy ông đi xuống hòn núi đá rồi sống trong đồng vắng Ma-ôn. Khi Sau-lơ hay được việc nầy, ông ta truy đuổi Đa-vít trong đồng vắng Ma-ôn.
\s5
\v 26 Sau-lơ tiếp tục ở bên một sườn núi, và Đa-vít cùng người của mình đang đi bên sườn kia của hòn núi. Đa-vít vội vã tránh xa khỏi Sau-lơ. Khi Sau-lơ cùng người của ông ta đang vây Đa-vít cùng người của Đa-vít để bắt lấy họ,
\v 27 một sứ giả đến với Sau-lơ rồi nói: "Hãy mau mau trở về vì dân Phi-li-tins đã mở một chiến dịch chống lại xứ sở".
\s5
\v 28 Thế là Sau-lơ trở về không truy kích Đa-vít nữa rồi lo chống chọi với dân Phi-li-tin. Vì lẽ ấy, chỗ đó được gọi là Hòn Đá Thoát Thân.
\v 29 Đa-vít đi lên đó và sống trong các đồn lũy của Ên-ghê-đi.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Khi Sau-lơ trở về từ cuộc truy kích dân Phi-li-tin, ông hay được rằng: "David đang ở trong đồng vắng Ên-ghê-đi".
\v 2 Khi ấy Sau-lơ đem ba ngàn người được chọn từ khắp Israel rồi đi tìm Đa-vít cùng người của Đa-vít trên Các Hòn Đá Của Dê Rừng.
\s5
\v 3 Ông đến với các chuồng chiên trên đường, ở đó có một cái hang đá. Sau-lơ vào đó đặng đi tiện. Bấy giờ, Đa-vít cùng người của mình đã ngồi ở phía sau hang đá đó.
\v 4 Người của Đa-vít trình bày với ông: "Đây là ngày mà Đức Giê-hô-va đã phán khi Ngài phán cùng ông: 'Ta sẽ phó kẻ thù vào trong tay con, để con muốn làm gì với hắn theo như con muốn'" Khi ấy Đa-vít chỗi dậy rồi âm thầm bò tới cắt đứt chéo áo của Sau-lơ.
\s5
\v 5 Sau đó lòng của Đa-vít làm cho ông khổ sở vì ông đã cắt chéo áo của Sau-lơ.
\v 6 Ông nói với người của mình: "Nguyện Đức Giê-hô-va cấm ta làm việc nầy với chủ ta, là người chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va, nên rút tay ta lại nghịch cùng người, một khi đã xem người là người đã chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va".
\v 7 Vậy Đa-vít quở trách người của mình với lời lẽ nầy, và không chọ phép họ tấn công Sau-lơ. Sau-lơ đứng dậy, rời khỏi hang, rồi đi đường mình.
\s5
\v 8 Sau đó, Đa-vít cũng chỗi dậy, rời khỏi hang, và kêu với theo Sau-lơ: "Hỡi vua, chúa tôi". Khi Sau-lơ ngó lại đàng sau mình, Đa-vít sấp mặt xuống đất bày tỏ sự tôn trọng người.
\v 9 Đa-vít nói với Sau-lơ: "Sao vua lại nghe theo những kẻ nói: 'Hãy xem, Đa-vít đang tìm cách hại người?'
\s5
\v 10 Ngày nay, mắt vua đã nhìn thấy thể nào Đức Giê-hô-va đã phó vua vào tay tôi khi chúng ta còn ở trong hang đá. Có người bảo tôi hãy giết vua, song tôi đã tha cho vua. Tôi nói: 'Tôi sẽ không tra tay nghịch cùng chủ của mình; vì người đã chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va.
\v 11 Hỡi vua, hãy xem đi, cái vạt áo của vua ở trong tay tôi đây. Vì sự thực cho thấy rằng tôi đã cắt chéo áo của vua chớ không giết vua, vua có thể nhìn biết và thấy rằng chẳng có điều ác hay phản bội nào ở nơi tay tôi, và tôi đã không phạm tội nghịch cùng vua, mặc dù vua săn tìm mạng sống tôi để lấy nó.
\s5
\v 12 Nguyện Đức Giê-hô-va xét đoán giữa vua và tôi, và nguyện Đức Giê-hô-va báo thù cho tôi nghịch cùng vua, nhưng tay tôi sẽ không nghịch cùng vua.
\v 13 Như châm ngôn xưa có nói: 'từ kẻ ác ra điều ác'. Nhưng tay tôi sẽ không nghịch cùng vua.
\s5
\v 14 Vua Y-sơ-ra-ên đã ra ngoài săn tìm ai chứ? Vua đã truy đuổi theo ai chứ? Theo một con chó chết! Theo một con bọ chét!
\v 15 Nguyện Đức Giê-hô-va sẽ đoán xét và ban sự phán xét giữa vua và tôi, và hãy xem xét đi, và bênh vực lý cớ tôi rồi cho phép tôi thoát khỏi tay vua".
\s5
\v 16 Khi Đa-vít nói xong mấy lời nầy với Sau-lơ, Sau-lơ bèn nói: "Có phải giọng nói của con không, hỡi Đa-vít con trai ta?" Sau-lơ cất giọng lên rồi khóc.
\s5
\v 17 Ông nói với Đa-vít: "Con sống công nghĩa hơn ta. Vì con đã lấy lành trả ác, còn ta lấy ác trả lành đối với con.
\v 18 Con đã tuyên bố hôm nay con đã làm điều lành cho ta, vì con đã không giết ta khi Đức Giê-hô-va đã phó ta vào sự thương xót của con.
\s5
\v 19 Vì nếu một người thấy kẻ thù của mình, liệu người ấy có thể để cho hắn đi an toàn sao? Nguyện Đức Giê-hô-va ban thưởng cho con với điều lành mà con đã làm cho ta ngày nay.
\v 20 Giờ đây, ta biết rằng chắc chắn con sẽ lên làm vua và vương quốc Y-sơ-ra-ên sẽ được lập trong tay con.
\s5
\v 21 Hãy thề với ta bởi Đức Giê-hô-va rằng con sẽ chẳng dứt bỏ dòng dõi ta sau ta, và con sẽ không hủy diệt danh ta ra khỏi nhà cha ta".
\v 22 Vậy là Đa-vít lập lời thề với Sau-lơ. Thế rồi Sau-lơ đi về nhà, còn Đa-vít và người của mình đi lên đến chỗ có đồn lũy.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Bấy giờ Sa-mu-ên qua đời. Hết thảy Y-sơ-ra-ên nhóm lại và than khóc người, rồi họ chôn cất ông tại nhà ông ở Ra-ma. Khi ấy Đa-vít chỗi dậy đi xuống đồng vắng Pha-ran.
\s5
\v 2 Có một người ở Ma-ôn, còn sản nghiệp người ở tại Cạt-mên. Người nầy rất giàu có. Người có ba ngàn chiên và một ngàn dê. Người đang hớt lông chiên tại Cạt-mên.
\v 3 Tên của người là Na-banh, còn tên của vợ người là A-bi-ga-in. Vợ rất thông minh và vóc dáng xinh đẹp. Còn chồng thì cứng cỏi gian ác trong mọi cách ứng xử. Người là dòng dõi của nhà Ca-lép.
\s5
\v 4 Đa-vít hay được trong đồng vắng rằng Na-banh đang hớt lông chiên mình.
\v 5 Vì vậy Đa-vít sai mười thanh niên. Đa-vít nói với các thanh niên nầy: "Hãy đi lên Cạt-mên, đến gặp Na-banh, rồi nhơn danh ta chào thăm người.
\v 6 Anh em sẽ nói với người: 'Nguyện ông sống giàu có, bình an cho ông và bình an cho nhà ông, và bình an cho mọi sự ông đang có.
\s5
\v 7 Tôi có hay rằng ông đang hớt lông chiên. Mấy gã chăn bầy của ông đã ở với chúng tôi, và chúng ta đã không gây hại gì cho họ, và họ chẳng thiếu chi trong suốt thời gian họ ở tại Cạt-mên.
\v 8 Hãy hỏi mấy người chăn của ông, thì họ sẽ nói cho ông biết. Bây giờ, nguyện các thanh niên nầy được ơn trước mặt ông, vì chúng tôi đã đến nhằm vào ngày hội. Làm ơn ban thứ chi ông có nơi tay cho các tôi tớ ông và cho con trai của ông là Đa-vít'".
\s5
\v 9 Khi người của Đa-vít đến, họ nói ra mọi sự nầy với Na-banh vì ích của Đa-vít và rồi đứng đợi.
\v 10 Na-banh đáp cùng các tôi tớ của Đa-vít: " Đa-vít là ai vậy? Và ai là con trai của Gie-sê chứ? Có nhiều tôi tớ ngày nay đang phá vỡ luật lệ từ chủ mình.
\v 11 Ta có nên lấy bánh, nước và thịt của ta mà ta đã giết cho những kẻ hớt lông chiên của ta, rồi trao nó cho những kẻ xuất thân ở đâu ta không biết chăng?"
\s5
\v 12 Thế là người của Đa-vít xây đi trở về, rồi thuật lại cho người mọi sự đã được thốt ra kia.
\v 13 Đa-vít nói với người của mình: "Mỗi người hãy lấy theo gươm của mình". Và mỗi người đeo gươm của họ. Đa-vít cũng lấy gươm của ông. Khoảng bốn trăm người theo sau Đa-vít, và hai trăm người ở lại giữ đồ đạt.
\s5
\v 14 Nhưng một thanh niên đến nói với A-bi-ga-in, vợ của Na-banh; anh ta nói: " Đa-vít sai sứ giả từ ngoài đồng vắng đến chào chủ của chúng tôi, và ông đã sỉ nhục họ.
\v 15 Tuy nhiên, họ đối xử với chúng tôi rất tốt. Chúng tôi không bị họ làm hại và chẳng thiếu thốn gì suốt thời gian chúng tôi ở với họ khi chúng tôi ở ngoài đồng ruộng.
\s5
\v 16 Họ là bức tường cho chúng tôi cả ngày lẫn đêm, suốt khoảng thời gian chúng tôi ở với họ lo chăn bầy.
\v 17 Vì lẽ đó, hãy nhận biết việc nầy và hãy xem xét coi bà nên làm gì, vì sự ác đã được hoạch định ra chống lại chủ của chúng tôi, và chống lại cả nhà của chủ nữa đấy. Ông ấy có tánh hung dữ quá, nên chẳng ai có thể bàn bạc được gì với chủ".
\s5
\v 18 Thế là A-bi-ga-in vội vã lấy hai trăm ổ bánh, hai bình rượu, năm con chiên đã làm sẵn rồi, năm đấu hột rang, một trăm bánh nho khô, và hai trăm bánh trái vả khô, rồi chất chúng trên lưng bầy lừa.
\v 19 Bà nói với người của mình: "Hãy đi trước mặt ta, thì ta sẽ theo sau các ngươi". Nhưng bà không nói cho Na-banh chồng mình biết.
\s5
\v 20 Khi bà leo lên lưng lừa rồi đi xuống con đường có núi bao phủ, Đa-vít và người của ông đi hướng về phía bà, rồi bà đã gặp họ.
\s5
\v 21 Bấy giờ Đa-vít nói: "Chắc là ta đã canh giữ luống công mọi sự người nầy có trong đồng vắng, vì vậy chẳng có vật gì thuộc về ông ta bị bỏ sót, và ông ta đã lấy ác báo thiện cho ta đây.
\v 22 Nguyện Đức Chúa Trời làm thế với ta, hỡi Đa-vít, và cũng nhiều hơn nữa, nếu đến sáng ta còn chừa lại một người nam nào thuộc về ông ta".
\s5
\v 23 Khi A-bi-ga-in gặp Đa-vít, bà vội vã xuống khỏi lừa mình rồi nằm sấp mặt xuống đất.
\v 24 Bà nằm dưới chơn ông rồi nói: "Ôi chúa tôi, chỉ hãy tính mọi lỗi lầm với tôi thôi. Làm ơn, hãy để cho tôi tớ ông bày tỏ cùng ông, và hãy lắng nghe lời lẽ của tôi tớ ông
\s5
\v 25 Nguyện chúa tôi đừng màng đến cái gã vô giá trị nầy, là Na-banh, vì tên hắn thể nào thì quả hắn thể ấy. Na-banh là tên hắn, và dại dột ở với hắn. Nhưng tôi, tôi tớ của chúa, đã không gặp các thanh niên của chúa, những người mà chúa sai đến.
\v 26 Vậy bây giờ, chúa của tôi ơi, như Đức Giê-hô-va là hằng sống, và như ông hãy còn sống đây, xin Đức Giê-hô-va ngăn đừng để ông làm đổ máu, và đừng báo thù với chính tay của chúa, giờ đây nguyện kẻ thù của chúa, và những kẻ nào làm ác với chúa tôi, nguyện chúng giống như Na-banh.
\s5
\v 27 bây giờ nguyện tặng vật nầy mà tôi tớ của chúa đã mang đến cho chúa tôi, nguyện nó được trao cho người nào đang bước theo chúa tôi.
\v 28 Làm ơn tha thứ cả gan của tôi tớ chúa, vì Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ lập cho chúa tôi một nhà vững chắc, vì chúa tôi đang đánh trận cho Đức Giê-hô-va; và điều ác sẽ không tìm thấy nơi chúa bao lâu chúa còn sống.
\s5
\v 29 Và mặc dù người ta dấy lên theo đuổi lấy mạng chúa, tuy nhiên mang sống của chúa sẽ được bảo bọc trong bọc của người sống bởi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúa; và chúa sẽ ném xa mạng sống của kẻ thù của chúa, như hòn đá lấy ra khỏi túi của cái trành vậy.
\s5
\v 30 Và khi ấy, lúc Đức Giê-hô-va sẽ làm cho chúa tôi mọi việc lành mà Ngài đã hứa với chúa, và khi Ngài lập chúa làm lãnh tụ trên Y-sơ-ra-ên,
\v 31 việc nầy sẽ chẳng làm buồn gì cho chúa, nguyện chúa tôi chớ phiền lòng, vì chúa không làm đổ huyết mà chẳng có cớ, và chúa không tự mình báo thù. Rồi khi Đức Giê-hô-va đã khiến chúa thành công, hãy nhớ đến tôi tớ của chúa".
\s5
\v 32 David nói với A-bi-ga-in: "Đáng chúc phước thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Ngài đã sai bà đến gặp ta hôm nay.
\v 33 Và sự khôn ngoan của bà được phước, và bà đã được phước, vì bà đã giữ ta hôm nay không phạm tội làm đổ huyết, và khỏi việc tự ta báo thù với chính tay ta.
\s5
\v 34 Quả thật vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là hằng sống, Ngài là Đấng đã giữ ta không làm hại bà, nếu bà không vội vã đến gặp ta, chắc chắn sẽ chẳng có gì còn chừa lại cho Na-banh nhiều hơn một con dê đực con sau buổi sáng nầy".
\v 35 Vậy Đa-vít nhận lấy từ tay A-bi-ga-in mọi thứ đã được đem đến dâng cho ông; ông nói với A-bi-ga-in "Hãy trở về nhà bà bình an; hãy xem, ta đã nghe tiếng bà và đã tiếp nhận bà".
\s5
\v 36 A-bi-ga-in trở về cùng Na-banh; kìa, ông ta đang dự tiệc tại nhà mình, giống như tiệc của một vì vua; và lòng của Na-banh rất vui vẻ ở trong ông ta, vì ông ta đã say lắm rồi. Vậy bà chẳng nói gì với ông cho tới sáng ngày ra.
\s5
\v 37 Đến sáng, khi rượu không còn trong Na-banh nữa, vợ ông mới nói cho ông biết mọi sự nầy; lòng ông chết lặng ở trong ông, rồi ông ta trở nên như hòn đá vậy.
\v 38 Khoảng mười ngày sau đó Đức Giê-hô-va đã tấn công Na-banh, thế là ông ta chết đi.
\s5
\v 39 Rồi khi Đa-vít hay được Na-banh đã chết, ông nói: "Đáng chúc phước thay là Đức Giê-hô-va, Ngài đã cất đi cái cớ sỉ nhục ta từ tay của Na-banh, và đã giữ tôi tớ Ngài khỏi sự ác. Rồi Ngài đổ việc ác của Na-banh lại trên chính cái đầu của hắn ta". Khi ấy Đa-vít sai người đến nói với A-bi-ga-in, lấy người cho mình làm vợ.
\v 40 Khi các tôi tớ của Đa-vít đến cùng A-bi-ga-in tại Cạt-mên, họ nói với bà như sau: "Đa-vít sai chúng tôi đến gặp bà để đưa bà về làm vợ ông ấy".
\s5
\v 41 Bà chỗi dậy, sấp mặt mình xuống đất, rồi nói: "Hãy xem, tôi tớ gái của chúa là tôi tớ rửa chân cho các tôi tớ của chúa tôi".
\v 42 A-bi-ga-in vội vàng chỗi dậy, rồi cởi trên lưng lừa với năm tớ gái của bà, họ đi theo bà, và bà đi theo các sứ giả của Đa-vít rồi trở thành vợ của người.
\s5
\v 43 Đa-vít cũng lấy A-hi-nô-am ở Gít-rê-ên làm vợ; cả hai đều trở thành vợ của người.
\v 44 Bấy giờ Sau-lơ đã gã Mi-canh con gái ông, vợ của Đa-vít, cho Phanh-ti, con trai của La-ít, người thuộc về xứ Ga-lim.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Dân Xíp đến với Sau-lơ tại Ghi-bê-a rồi nói: "Có phải Đa-vít chẳng ẩn trên đồi Ha-ki-la, ở trước đồng vắng sao?"
\v 2 Thế là Sau-lơ chỗi dậy đi xuống đồng vắng Xíp, có ba ngàn người Y-sơ-ra-ên được chọn cùng đi với ông, để tìm Đa-vít trong đồng vắng Xíp.
\s5
\v 3 Sau-lơ đóng trại trên đồi Ha-ki-la, nằm ngay trước đồng vắng, cạnh con đường. Nhưng Đa-vít đã ở lại trong đồng vắng, và ông thấy rằng Sau-lơ đã đi theo ông trong đồng vắng.
\v 4 Vậy Đa-vít sai các thám tử đi và hay được rằng quả thực Sau-lơ đã đến.
\s5
\v 5 Đa-vít chỗi dậy rồi đi đến chỗ mà Sau-lơ đã đóng quân; ông nhìn thấy chỗ mà Sau-lơ đang nằm, và Áp-ne con trai Nê-rơ, quan tướng đạo binh của ông ta; Sau-lơ ngủ ở trong trại quân, và dân sự đã đóng trại ở quanh ông, mọi người đều ngủ.
\s5
\v 6 Khi ấy Đa-vít nói với A-hi-mê-léc người Hê-tít, và với A-bi-sai con trai Xê-ru-gia em của Giô-áp: "Ai sẽ đi xuống với ta đến gặp Sau-lơ trong trại quân?" A-bi-sai đáp: "Tôi sẽ cùng đi với ông".
\v 7 Vậy Đa-vít và A-bi-sai suốt đêm đi qua trại quân. Và gặp Sau-lơ đang nằm ngủ bên trong trại quân, với cây giáo cặm dưới đất bên cạnh đầu của ông. Áp-ne cùng binh lính nằm ở xung quanh ông.
\v 8 Khi ấy A-bi-sai nói với Đa-vít: "Ngày nay Đức Chúa Trời đã phó kẻ thù của ông vào tay ông. Giờ đây, làm ơn cho phép tôi đâm người bằng cây giáo chỉ một lần thôi. Tôi sẽ không đâm lại lần thứ hai".
\s5
\v 9 Đa-vít nói cùng A-bi-sai: "Đừng giết người; vì ai tra tay mình chống lại đấng chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va mà không bị phạt?"
\v 10 Đa-vít nói: "Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, Đức Giê-hô-va sẽ giết người, hoặc ngày của người sẽ đến lúc kết thúc, hay người lâm chiến và hư mất.
\s5
\v 11 Nguyện Đức Giê-hô-va ngăn cấm tay ta nghịch cùng đấng chịu xức dầu của Ngài; song giờ đây, ta nài xin anh em, hãy lấy mũi giáo đang cặm ở gần đầu người và cái bình nước, rồi chúng ta hãy đi ra".
\v 12 Vậy Đa-vít lấy mũi giáo cùng bình nước ra khỏi đầu của Sau-lơ, rồi họ đi ra. Không một ai nhìn thấy họ hoặc nhìn biết về việc ấy, cũng không có ai thức tỉnh, vì hết thảy họ đều ngủ say, vì một giấc ngủ say đến từ Đức Giê-hô-va đã giáng trên chúng.
\s5
\v 13 Khi Đa-vít qua đến phía bên kia rồi đứng trên đỉnh núi xa xa; một khoảng cách lớn ở giữa họ.
\v 14 Đa-vít hô to lớn tiếng với dân sự và với Áp-ne con trai của Nê-rơ; ông nói: "Hỡi Áp-ne, sao ông không trả lời?" Khi ấy Áp-ne đáp như sau: "Ngươi là ai mà dám to tiếng với nhà vua?"
\s5
\v 15 Đa-vít nói với Áp-ne: "Ông không phải là chiến sĩ sao? Có ai giống như ông trong Y-sơ-ra-ên không? Vậy sao ông không canh chừng nhà vua là chủ của ông chứ? Vì có người lọt vào đặng giết nhà vua chủ của ông.
\v 16 Ông đã làm một việc chẳng hay ho chút nào. Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, ông đáng phải chết vì ông không canh giữ chủ của mình, là đấng chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va. Và giờ đây hãy xem ngọn giáo của nhà vua ở đâu, và cái bình nước ở nơi đầu vua".
\s5
\v 17 Sau-lơ nhận ra tiếng của Đa-vít rồi nói: "Có phải tiếng của con không, hỡi Đa-vít con trai ta?" Đa-vít nói: "Hỡi vua, chúa tôi, đó tiếng của tôi".
\v 18 Ông nói: "Cớ sao chúa tôi cứ theo đuổi tôi tớ vua hoài vậy? Tôi đã làm gì chứ? Có điều ác nào nơi tay tôi không?
\s5
\v 19 Bây giờ, tôi nài xin vua, nguyện nhà vua, chúa của tôi hãy nghe lời lẽ của tôi tớ vua. Nếu Đức Giê-hô-va là Đấng khuấy khuất vua nghịch cùng tôi, nguyện Ngài chấp nhận của lễ; còn nếu là do con người, nguyện họ bị rủa sã trước mặt Đức Giê-hô-va, vì ngày nay họ đuổi tôi đi, đặng tôi sẽ không còn bám vào cơ nghiệp của Đức Giê-hô-va; họ nói cùng tôi: 'Hãy đi thờ lạy các thần khác'.
\v 20 Bấy giờ, đừng để cho huyết của tôi rơi xuống đất cách xa sự hiện diện của Đức Giê-hô-va; vì vua của Y-sơ-ra-ên đi ra đặng tìm kiếm một con bọ chét, giống như một người đuổi theo con chin đa đa ở trong núi vậy".
\s5
\v 21 Khi ấy Sau-lơ nói: "Ta đã phạm tội. Hỡi Đa-vít, hỡi con trai ta, hãy trở lại; vì ta chẳng chẳng muốn làm hại con nữa, vì mạng sống ta là quí giá trong con mắt của con ngày nay. Hãy xem, ta đã điên rồi và phạm lỗi rất trọng".
\s5
\v 22 Đa-vít đáp lại như sau: "Hãy xem đi, mũi giáo của vua đang ở đây, hỡi vua! Hãy cho một thanh niên qua rồi lấy nó về cho vua.
\v 23 Nguyện Đức Giê-hô-va trả cho mỗi người vì sự công bình và sự thành tín; vì Đức Giê-hô-va đã phó vua vào tay tôi hôm nay, nhưng tôi không tra tay vào đấng chịu xức dầu của Ngài.
\s5
\v 24 Rồi hãy xem đi, như mạng sống vua là quí báu trong mắt tôi hôm nay, vì vậy nguyện mạng sống tôi được xem trọng nhiều ở trước mắt của Đức Giê-hô-va, và nguyện Ngài giải cứu tôi khỏi mọi tai vạ".
\v 25 Khi ấy Sau-lơ nói với Đa-vít: "Nguyện con luôn được phước, hỡi Đa-vít con trai ta, để con luôn làm những việc lớn, và chắc chắn con sẽ thành công". Vậy Đa-vít đi đường mình, còn Sau-lơ trở về chỗ của mình.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Đa-vít nhũ thầm: "Chắc ta sẽ hư mất một ngày kia bởi tay của Sau-lơ; chẳng gì khá hơn cho ta khi tránh vào xứ của dân Phi-li-tin; Sau-lơ sẽ bỏ đi không còn tìm kiếm ta nữa trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên; với cách nầy ra sẽ thoát khỏi tay người".
\s5
\v 2 Đa-vít chỗi dậy rồi cùng với sáu trăm người ở cùng ông, qua đến A-kích con trai của Ma-óc, vua xứ Gát.
\v 3 Đa-vít sống với A-kích ở tại Gát, ông và người của ông, mỗi người với người nhà của mình, còn Đa-vít với hai vợ của mình là A-hi-nô-am người Gít-rê-ên, và A-bi-ga-in người Cạt-mên, vợ của Na-banh.
\v 4 Sau-lơ hay rằng Đa-vít đã trốn đến Gát, thế là ông không còn truy tìm người nữa.
\s5
\v 5 Đa-vít nói với A-kích: "Nếu tôi được ơn trước mặt ông, xin cho tôi chỗ ở của một thành trong xứ ông, để tôi sống ở đó: vì tại sao tôi tớ ông phải sống trong thành vương giả với ông cho được?"
\v 6 Vậy, A-kích cho ông ngụ tại Xiếc-lác ngày đó; đấy là lý do tại sao Xiếc-lác thuộc về các vua xứ Giu-đa cho đến ngày nay.
\v 7 Số ngày Đa-vít đã sống trong xứ của dân Phi-li-tin là tròn một năm và bốn tháng.
\s5
\v 8 Đa-vít cùng người của ông tấn công nhiều địa điểm khác nhau, mở ra nhiều chiến dịch nhắm vào dân Ghê-su-rít, dân Ghiệt-xít, và dân A-ma-léc; vì các dân đó là cư dân trong xứ, họ ở gần Su-rơ, dài đến tận Ai-cập. Họ đã sống ở đó trong xứ từ thời cổ đại.
\v 9 Đa-vít đã tấn công xứ và chẳng để nhiều người nam người nữ còn sống; ông lấy đi chiên, bò, lừa, lạc đà, và quần áo; ông trở về rồi đến gặp A-kích.
\s5
\v 10 A-kích nói: "Ngươi mở chiến dịch chống lại ai hôm nay vậy?" Đa-vít đáp: "Chống lại miền Nam xứ Giu-đa" hay "Chống lại phía Nam của dân Ghê-ra-mê-lít" hoặc "chống lại phía Nam dân Kê-nít".
\s5
\v 11 Đa-vít chẳng để cho người nam người nữ nào còn sống để đem họ đến Gát, cho rằng: "Chúng không thể nói về chúng ta: ' Đa-vít đã làm việc nầy việc nầy'". Đây là những gì ông đã làm trong khoảng thời gian ông sống trong xứ của dân Phi-li-tin.
\v 12 A-kích tin theo Đa-vít, ông ta nói: "Hắn đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên của hắn hoàn toàn gớm ghiếc hắn; vì lẽ đó hắn sẽ làm tôi tớ cho ta vĩnh viễn".
\s5
\c 28
\p
\v 1 Trong thời buổi ấy dân Phi-li-tin tập trung quân đội lại để đánh trận với Y-sơ-ra-ên. A-kích nói với Đa-vít: "Phải biết chắc rằng ngươi sẽ ra trận với ta trong đạo quân, ngươi và người của ngươi".
\v 2 Đa-vít nói với A-kích: "Vậy thì ông sẽ biết tôi tớ ông sẽ làm gì rồi". A-kích nói với Đa-vít: "Vậy ta sẽ lập ngươi làm vệ sĩ thường trực cho ta".
\s5
\v 3 Sa-mu-ên đã chết; hết thảy Y-sơ-ra-ên đã than khóc rồi chôn người ở tại Ra-ma, trong thành của chính ông. Bấy giờ Sau-lơ đã loại bỏ khỏi xứ những kẻ hay trao đổi với người chết hay với linh hồn.
\v 4 Dân Phi-li-tin tập trung lại đến đóng trại tại Su-nem; còn Sau-lơ tập trung hết thảy Y-sơ-ra-ên lại, rồi họ đến đóng trại tại Ghinh-bô-a.
\s5
\v 5 Khi Sau-lơ nhìn thấy đội quân của dân Phi-li-tin, ông ta lo sợ, và tấm lòng ông ta run rẩy nhiều lắm.
\v 6 Khi Sau-lơ cầu nguyện với Đức Giê-hô-va xin giúp đỡ, song Đức Giê-hô-va không đáp lời người — cũng không bởi chiêm bao, cũng không bởi Urim, cũng không bởi các vị tiên tri.
\v 7 Khi ấy Sau-lơ nói với các tôi tớ mình: "Hãy tìm cho ta một người đàn bà hay trao đổi với kẻ chết, hầu cho ta đến với người rồi tìm sự chỉ dẫn". Các tôi tớ người nói: "Kìa, có một người đàn bà ở En-đô-rơ xưng mình trao đổi với kẻ chết".
\s5
\v 8 Sau-lơ giả trang, mặc lấy y phục khác, rồi đi, ông và hai người cùng đi với ông; họ đến gặp người đàn bà lúc ban đêm. Ông ta nói: "Hãy cầu cho ta, ta nài xin bà đấy, bằng cách trao đổi với kẻ chết, rồi đưa người mà ta nói tên đây đến với ta".
\v 9 Người đàn bà nói với ông: "Kìa, ông biết điều Sau-lơ đã làm, thể nào người loại bỏ hết khỏi xứ những ai trao đổi với kẻ chết hay với linh hồn. Vậy tại sao ông gài bẫy mạng sống tôi, để khiến tôi phải chết chứ?"
\v 10 Sau-lơ nhơn danh Đức Giê-hô-va mà thề với bà ta: "Như Đức Giê-hô-va hằng sống, không một án phạt nào sẽ xảy ra cho bà về việc nầy đâu".
\s5
\v 11 Khi ấy người đàn bà nói: "Tôi sẽ đưa ai lên gặp ông đây?" Sau-lơ nói: "Hãy đem Sa-mu-ên đến gặp ta".
\v 12 Khi người đàn bà nhìn thấy Sa-mu-ên, bà ta kêu lên với giọng lớn tiếng rồi nói với Sau-lơ như sau: "Tại sao ông dối gạt tôi? Vì ông là Sau-lơ".
\s5
\v 13 Nhà vua nói cùng bà ta: "Đừng sợ. Bà thấy gì thế?" Người đàn bà thưa cùng Sau-lơ: "Tôi thấy một vị thần từ đất lên".
\v 14 Ông nói với bà ta: "Ông ta trông thế nào?" Bà ta nói: "Một cụ già đang lên; ông ấy mặc chiếc áo dài". Sau-lơ biết ngay đó là Sa-mu-ên, và ông sấp mặt xuống đất tỏ ra sự kính trọng.
\s5
\v 15 Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: "Sao ngươi quấy rối ta mà đem ta lên đây?" Sau-lơ đáp: "Tôi rất bối rối, vì dân Phi-li-tin đang dàn quân chống lại tôi, còn Đức Chúa Trời đã bỏ tôi, không đáp lời tôi nữa, tiên tri, chiêm bao cũng không có. Vì lẽ đó tôi cho gọi ông, để ông giúp cho tôi biết phải làm gì".
\s5
\v 16 Sa-mu-ên nói: "Thế là người cầu hỏi ta, một khi Đức Giê-hô-va đã lìa khỏi ngươi, và Ngài đã trở thành kẻ thù của ngươi?
\v 17 Đức Giê-hô-va đã làm cho ngươi những gì Ngài đã phán Ngài sẽ làm. Đức Giê-hô-va đã đoạt lấy nước khỏi tay ngươi và Ngài sẽ ban nước ấy cho người khác — cho Đa-vít.
\s5
\v 18 Vì ngươi không vâng theo tiếng của Đức Giê-hô-va và đã không tỏ ra sự giận dữ của Ngài đối với dân A-ma-léc, vì vậy Ngài đã làm điều nầy cho người ngày nay.
\v 19 Hơn nữa, Đức Giê-hô-va sẽ phó Y-sơ-ra-ên và ngươi vào trong tay dân Phi-li-tin. Ngày mai, ngươi và các con trai ngươi sẽ ở với ta. Đức Giê-hô-va cũng sẽ phó quân đội Y-sơ-ra-ên vào trong tay dân Phi-li-tin".
\s5
\v 20 Thế là Sau-lơ ngay lập tức sấp mình xuống đất rồi lấy làm sợ hãi vì cớ lời lẽ của Sa-mu-ên. Chẳng còn chút sức lực nào nữa ở trong người, vì ông ta chẳng có ăn uống chi hết trong ngày ấy, và cả đêm ấy nữa.
\v 21 Người đàn bà đến với Sau-lơ và thấy rằng ông ta rất bối rối, bà ta nói với ông như vầy: "Hãy xem, tôi tớ ông đã nghe thấy giọng nói của ông; tôi đặt mạng sống tôi trong tay ông và đã nghe thấy lời lẽ mà ông đã nói với tôi.
\s5
\v 22 Vì vậy, giờ đây, tôi nài xin ông, cũng hãy nghe theo lời lẽ của tôi tớ ông đây, và cho phép tôi đặt trước mặt ông chút đồ ăn. Hãy ăn đi để ông có thêm sức lực khi đi đường mình".
\v 23 Nhưng Sau-lơ từ chối, ông nói: "Ta sẽ không ăn đâu". Nhưng các tôi tớ ông, cùng với người đàn bà, đã ép ông, rồi ông nghe theo tiếng của họ. Thế rồi ông chỗi dậy khỏi đất rồi ngồi trên giường.
\s5
\v 24 Người đàn bà có một con bò mập béo trong nhà; bà ta vội vã giết nó; bà ta lấy bột nhồi đi và làm bánh không men.
\v 25 Bà ta mang nó đến trước mặt Sau-lơ cùng các tôi tớ người, và họ ăn. Khi ấy họ chỗi dậy rồi rời đi trong đêm đó.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Bấy giờ, dân Phi-li-tin tập trung hết thảy quân đội của họ lại tại A-phéc; dân Y-sơ-ra-ên thì đóng trại bên dòng suối ở Gít-rê-ên.
\v 2 Các quan trưởng của dân Phi-li-tin dàn quân ra hàng trăm, hàng ngàn; Đa-vít cùng người của mình thì canh chừng phía sau với A-kích.
\s5
\v 3 Khi ấy các quan trưởng Phi-li-tin nói: "Mấy người Hê-bơ-rơ đó làm gì ở đây?" A-kích nói với các quan trưởng Phi-li-tin khác: "Há đây chẳng phải là Đa-vít nầy, tôi tớ của Sau-lơ, vua Y-sơ-ra-ên, hắn đã ở với ta suốt những ngày nầy, hay những năm tháng nầy, và ta không tìm được lỗi lầm gì với hắn kể từ ngày hắn đến ở đây với ta?"
\s5
\v 4 Nhưng các quan trưởng Phi-li-tin nổi giận với ông ta; họ nói: "Hãy bảo người nầy cút đi, để hắn trở lại với chỗ của hắn mà ông đã cho phép hắn; đừng để hắn đi ra trận với chúng ta, hầu cho hắn không trở thành kẻ thù chúng ta trong chiến trận. Vì hắn làm thế nào hòa hoãn cùng chủ của hắn chứ? Nếu không phải là mấy cái đầu của chúng ta sao?
\s5
\v 5 Có phải gã Đa-vít nầy mà họ hát với nhau khi nhảy múa: 'Sau-lơ giết hàng trăm, còn Đa-vít giết hàng vạn chăng?'"
\s5
\v 6 Khi ấy A-kích gọi Đa-vít rồi nói với người: "Như Đức Giê-hô-va hằng sống, ngươi đã sống tốt, và việc ra vào của ngươi với ta trong quân đội là tốt theo nhận định của ta; vì ta chẳng tìm thấy gì sai với ngươi kể từ ngày người đến với ta cho đến nay. Tuy nhiên, các quan trưởng không ưa thích ngươi.
\v 7 Vì vậy, bây giờ hãy trở về và đi bình an, hầu cho ngươi không làm mất lòng các quan trưởng dân Phi-li-tin."
\s5
\v 8 Đa-vít nói với A-kích: "Nhưng tôi đã làm gì chứ? Lâu nay ông tìm được gì nơi tôi tớ ông cho đến ngày nầy, để tôi không tham chiến chống lại kẻ thù của chủ tôi là vua sao?"
\v 9 A-kích đáp và nói với Đa-vít: "Ta biết ngươi sống không có lỗi lầm gì trong mắt ta như một thiên sứ của Đức Chúa Trời; tuy nhiên, các quan trưởng dân Phi-li-tin đã nói: 'Hắn không được tham chiến với chúng ta'.
\s5
\v 10 Cho nên, hãy dậy sớm với các tôi tớ nào đã đến với ngươi; sau khi dậy sớm và trời sáng, hãy đi đi".
\v 11 Thế là Đa-vít dậy sớm, ông và người của mình, rời đi lúc ban sáng, trở lại trong xứ của dân Phi-li-tin. Nhưng dân Phi-li-tin đã đi lên Gít-rê-ên.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Đa-vít cùng người của mình đến tại Xiếc-lác vào ngày thứ ba, dân A-ma-léc đã mở một chiến dịch nhắm vào Nê-giép và Xiếc-lác. Chúng đã tấn công Xiếc-lác, thiêu đốt nó,
\v 2 rồi bắt dẫn tù những người đàn bà và hết thảy những ai sống ở đó, cả lớn và nhỏ. Chúng chẳng giết ai cả, song đã đưa họ theo khi chúng đi đường mình.
\s5
\v 3 Lúc Đa-vít cùng người của mình đến tại thành, thì nó đã bị thiêu rồi — và vợ, con trai con gái của họ đều bị bắt dẫn tù.
\v 4 Khi ấy Đa-vít và dân sự ở cùng ông cất giọng họ lên mà khóc cho tới chừng không còn sức để khóc nữa.
\s5
\v 5 Hai người vợ của Đa-vít đã bị bắt dẫn tù, A-hi-nô-am người Gít-rê-ên và A-bi-ga-in vợ của Na-banh người Cạt-mên.
\v 6 Đa-vít buồn lo dữ lắm, vì dân sự đang nói tới việc ném đá ông, vì tâm hồn của mọi người rầu rĩ lắm, mỗi người vì con trai con gái mình; nhưng Đa-vít được sức nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông.
\s5
\v 7 Đa-vít nói với A-bia-tha con trai của thầy tế lễ A-hi-mê-léc: "Ta nài xin ngươi, hãy đem cái ê-phót đến đây cho ta". A-bia-tha đem cái ê-phót đến cho Đa-vít.
\v 8 Đa-vít cầu xin Đức Giê-hô-va chỉ dẫn như sau: "Nếu tôi đuổi theo toán quân nầy, tôi sẽ theo kịp không?" Đức Giê-hô-va đáp cùng người: "Hãy đuổi theo, vì chắc chắn ngươi sẽ theo kịp chúng, và ngươi chắc chắn sẽ có lại được mọi thứ".
\s5
\v 9 Thế là Đa-vít ra đi, ông và sáu trăm người ở với ông; họ đến tại khe Bê-sô, ở đó một số người phải ở lại phía sau.
\v 10 Nhưng Đa-vít cứ giữ việc truy kích, ông và bốn trăm người; vì hai trăm người đã ở lại phía sau, họ yếu sức đến nỗi không thể qua khe Bê-sô được.
\s5
\v 11 Họ tìm gặp một người Ai-cập trong đồng ruộng rồi đưa hắn tới gặp Đa-vít; họ cho hắn bánh và hắn đã ăn; họ cho hắn nước uống;
\v 12 rồi họ trao cho hắn một cái bánh vả khô và hai bánh nho khô. Khi hắn ăn xong, hắn lại sức, vì hắn chẳng có ăn bánh hay uống nước trong ba ngày và ba đêm.
\s5
\v 13 Đa-vít nói với hắn: "Ngươi thuộc về ai? Ngươi từ đâu đến?" Hắn nói: "Tôi là một thanh niên sống trong xứ Ai-cập, tôi tớ của một người A-ma-léc; chủ tôi đã bỏ tôi, vì cách đây ba ngày tôi bị bệnh.
\v 14 Chúng tôi mở một chiến dịch nhắm vào Nê-giép của dân Kê-rê-thít, và xứ thuộc về Giu-đa, và Nê-giép của Ca-lép, và chúng tôi đã đốt Xiếc-lác".
\s5
\v 15 Đa-vít nói với hắn: "Ngươi có chịu đưa ta đến với toán quân nầy không?" Người Ai-cập kia đáp: "Hãy bởi Đức Chúa Trời mà thề với tôi rằng ông sẽ không giết tôi hay nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ đưa ông đến với toán quân nầy".
\s5
\v 16 Khi người Ai-cập đưa Đa-vít xuống, toán quân ấy đang rải ra khắp cả đất, ăn uống, và nhảy múa, vì cớ chiến lợi phẩm rất nhiều mà chúng đã cướp lấy từ đất của dân Phi-li-tin và từ xứ của Giu-đa.
\v 17 đã tấn công chúng từ tảng sáng cho đến chiều ngày hôm sau. Không một người nào thoát được trừ ra bốn trăm thanh niên, họ cỡi lạc đà chạy trốn.
\s5
\v 18 Đa-vít khôi phục lại mọi thứ mà dân A-ma-léc đã chiếm lấy; và Đa-vít đã giải cứu hai vợ mình.
\v 19 Không sót một thứ gì, dù nhỏ hay lớn, các con trai con gái, chiến lợi phẩm, cũng chẳng thiếu một thứ gì mà toán quân kia đã chiếm lấy cho họ. Đa-vít đem về hết mọi sự.
\v 20 Đa-vít chiếm lấy hết các bầy bò và chiên, các thứ mà toán quân kia đã cướp được. Họ nói: "Đây là chiến lợi phẩm của Đa-vít ".
\s5
\v 21 Đa-vít đã đến với hai trăm người vì yếu sức nên không đi theo ông được, những kẻ bị để lại bên khe Bê-sô. Những người nầy ra đón Đa-vít cùng những người đã ở cùng ông. Khi Đa-vít đến với số người nầy, ông đã chào thăm họ.
\v 22 Khi ấy hết thảy những kẻ dữ cùng những gã không có giá trị gì hết giữa vòng những người đã theo cùng Đa-vít nói: "Vì số người nầy không đi theo chúng ta, chúng ta sẽ không trao cho họ bất kỳ chiến lợi phẩm nào mà chúng ta đã khôi phục lại. Trừ phi mỗi người nhận lại vợ con mình, hãy dẫn họ rồi đi đi".
\s5
\v 23 Khi ấy Đa-vít nói: "Anh em đừng làm như vậy, hỡi anh em, với những gì Đức Giê-hô-va đã ban cho chúng ta. Ngài đã bảo tồn chúng ta và đã phó vào tay chúng ta toán quân kia đã loán đến nghịch cùng chúng ta.
\v 24 Ai sẽ nghe theo anh em về vấn đề nầy? Vì phần của kẻ ra trận và phần của những người giữ đồ đạt phải chia như nhau".
\v 25 Kể từ ngày ấy cho đến ngày nay, vì Đa-vít đã lập điều đó thành luật và lệ cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 26 Khi Đa-vít đến tại Xiếc-lác, ông đã gửi một số chiến lợi phẩm cho các trưởng lão của Giu-đa, cho bạn hữu của ông, ông nói: "Hãy xem, đây là món quà cho anh em từ chiến lợi phẩm lấy được từ kẻ thù của Đức Giê-hô-va ".
\v 27 Cho các trưởng lão nào sống tại Bê-tên, và người nào sống tại Ra-mốt ở phương Nam, và cho người nào sống ở Giạt-thia,
\v 28 và cho người sống ở A-rô-e, và cho người nào sống ở Síp-mốt, và cho người nào sống ở Ê-thê-mô-a.
\s5
\v 29 Cũng cho các trưởng lão nào sống ở Ra-canh, và cho những người sống trong các thành của dân Giê-rách-mê-lít, và cho những người sống trong các thành của dân Kê-nít,
\v 30 và cho những người sống ở Họt-ma, và cho những người sống ở Bọt-a-san, và cho những người sống ở A-tát,
\v 31 và cho những người sống ở Hếp-rôn, và cho hết thảy những nơi mà chính Đa-vít cùng người của ông theo thói quen đã đi qua.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Bấy giờ dân Phi-li-tin ra trận chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên trốn chạy trước mặt dân Phi-li-tin và ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.
\v 2 Dân Phi-li-tin truy kích theo Sau-lơ cùng các con trai người. Dân Phi-li-tin đã giết Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua, các con trai người.
\v 3 Chiến trường rất nặng nề nghịch cùng Sau-lơ, và các cung thủ đã bắn trúng ông. Ông bị trọng thương vì cớ chúng.
\s5
\v 4 Khi ấy Sau-lơ nói với kẻ vác binh khí mình: "Hãy rút gươm ngươi ta, đâm ta đi. Bằng không, những kẻ không chịu phép cắt bì nầy sẽ đến và làm nhục ta". Nhưng kẻ vác binh khí người không chịu, vì hắn rất đỗi sợ hãi. Thế là Sau-lơ rút gươm mình ra rồi sấn người lên đó.
\v 5 Khi kẻ vác binh khí của người thấy Sau-lơ đã chết, hắn cũng sấn trên gươm của mình mà chết theo người.
\v 6 Vậy Sau-lơ đã chết, ba con trai người, cùng kẻ vác binh khí người — mấy người nầy thảy đều ngã chết với nhau trong cùng một ngày.
\s5
\v 7 Khi người của Y-sơ-ra-ên còn ở phía bên kia trũng, rồi những người ở bên kia sông Giô-đanh, thấy rằng người của Y-sơ-ra-ên đã trốn chạy, rồi Sau-lơ cùng các con trai người đã chết, họ liền bỏ thành của họ mà chạy trốn, và dân Phi-li-tin đã đến và sống ở trong các thành ấy.
\v 8 Qua ngày hôm sau, lúc dân Phi-li-tin đến lục soát người chết, chúng tìm gặp Sau-lơ cùng ba con trai người ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.
\s5
\v 9 Chúng cắt đầu ông và lột áo giáp của ông, rồi sai sứ vào trong đất của dân Phi-li-tin đem tin tức đến với chùa miễu thần tượng của chúng và cho dân sự biết.
\v 10 Chúng đặt áp giáp người trong đền thờ thần Ách-tô-rết, và chúng treo thi thể của ông trên bức tưởng thành Bết-San.
\s5
\v 11 Khi cư dân của xứ Gia-be Ga-la-át hay được những gì dân Phi-li-tin đã làm cho Sau-lơ,
\v 12 hết thảy những người chiến đấu được chỗi dậy rồi đi suốt đêm lấy thi thể của Sau-lơ và thi thể của các con trai người xuống khỏi bức tường của Bết-San. Dân ấy về lại Gia-be rồi thiêu họ ở đó.
\v 13 Khi ấy họ lấy hài cốt của Sau-lơ cùng mấy con trai chôn hết thảy dưới cây liễu xũ tơ tại Gia-be, rồi kiêng ăn trong bảy ngày.

1364
10-2SA.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1364 @@
\id 2SA
\ide UTF-8
\h II SA-MU-ÊN
\toc1 II SA-MU-ÊN
\toc2 II SA-MU-ÊN
\toc3 2sa
\mt II SA-MU-ÊN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Sau cái chết của Sau-lơ, Đa-vít trở về từ cuộc tấn công dân A-ma-léc rồi ở lại trong Xiếc-lác hai ngày.
\v 2 Đến ngày thứ ba, có người đến từ trại quân của Sau-lơ, quần áo rách tươm và bụi đất đầy đầu. Khi anh ta gặp Đa-vít liền sấp mặt xuống đất mà lạy.
\s5
\v 3 Đa-vít nói với anh ta: "Ngươi từ đâu đến?" Anh ta đáp: "Tôi trốn thoát khỏi trại quân của Y-sơ-ra-ên".
\v 4 Đa-vít nói: "Làm ơn cho ta biết mọi việc xảy ra thế nào?" Anh ta đáp: "Dân sự trốn khỏi chiến trường. Nhiều người vấp ngã và nhiều người bị giết. Sau-lơ và Giô-na-than con trai người cũng bị giết".
\v 5 Đa-vít nói với gã: “Làm sao ngươi biết Sau-lơ và Giô-na-than con trai người bị giết?”
\s5
\v 6 Gã trai trẻ đáp: "Tình cờ tôi có mặt trên Núi Ghinh-bô-a, và Sau-lơ nương mình trên cây giáo người, và lính cưỡi trên xe ngựa sắp sửa bắt lấy người.
\v 7 Sau-lơ xây lại thấy tôi rồi gọi tôi đến. Tôi đáp: 'Có tôi đây'.
\s5
\v 8 Ông ấy nói với tôi: 'Ngươi là ai?' Tôi trả lời người: 'Tôi là một người A-ma-léc'.
\v 9 Ông ấy bảo tôi: 'Làm ơn đứng gần ta rồi giết ta đi, vì ta bị thương nặng, song sự sống vẫn còn ở trong ta'.
\v 10 Vì vậy, tôi đến gần ông ấy rồi giết ông ấy chết, vì tôi biết ông ấy sẽ không sống nổi sau khi té ngã. Và tôi lấy cái mão đội trên đầu người và vòng đeo nơi tay người, rồi đem chúng về đây cho ông, là chúa tôi".
\s5
\v 11 Thế là Đa-vít xé áo mình, và hết thảy người ở với ông đều làm y như thế.
\v 12 Họ bật khóc, than thở và kiêng ăn cho đến chiều tối vì Sau-lơ, vì Giô-na-than con trai người, vì dân sự của Đức Giê-hô-va, và vì nhà Y-sơ-ra-ên, vì họ đã ngã chết bởi gươm.
\v 13 Đa-vít nói với gã trai trẻ kia: "Ngươi từ đâu đến?" Anh ta đáp: "Tôi là con trai của người ngoại bang ở trong xứ, một người A-ma-léc".
\s5
\v 14 Đa-vít nói với gã: "Tại sao ngươi không sợ khi giết nhà vua chịu xức đầu của Đức Giê-hô-va với chính tay của người chứ?"
\v 15 Đa-vít gọi người của mình rồi nói: "Hãy giết hắn". Vậy, người ấy đánh hắn ngã xuống, và người A-ma-léc chết đi.
\v 16 Khi ấy Đa-vít nói với gã A-ma-léc đã chết kia: "Huyết ngươi đổ lại trên đầu ngươi vì chính miệng ngươi đã làm chứng nghịch cùng ngươi rồi nói: tôi đã giết nhà vua chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 17 Tiếp đến Đa-vít hát lên bài ca tang chế nầy về Sau-lơ và Giô-na-than con trai người.
\v 18 Ông truyền cho dân sự phải dạy Bài ca về Cung cho các con trai của Giu-đa, bài ca đã được chép trong sách Giát-sa.
\v 19 "Hỡi Y-sơ-ra-ên, sự vinh hiển ngươi đã chết, bị giết trên đồi núi ngươi! Kẻ mạnh sức đã chết đi rồi!
\v 20 Đừng thuật lại việc nầy trong xứ Gát, đừng kể lại trên các đường phố Ách-ca-lôn, hầu cho các con gái Phi-li-tin sẽ chẳng vui mừng, hầu cho con gái của kẻ không chịu phép cắt bì không được vui vẻ.
\s5
\v 21 Hỡi đồi núi xứ Ghinh-bô-a, nguyện sẽ chẳng có sương hay mưa giáng trên các ngươi, đồng ruộng sẽ chẳng có lúa dùng làm của lễ, vì ở đó cái khiên của kẻ mạnh sức bị nhơ nhuốc. Cái khiên của Sau-lơ không còn được xức dầu nữa.
\v 22 Từ huyết của những người đã ngã chết, từ thi thể của kẻ mạnh sức, cây cung của Giô-na-than không trở lại, và thanh gươm của Sau-lơ đã không trở về luống nhưng.
\s5
\v 23 Sau-lơ và Giô-na-than được người ta yêu mến và được ơn trong cuộc sống, và trong cái chết của họ, họ đã không bị tách lìa ra. Họ vốn lẹ làng như chim ưng, họ vốn mạnh bạo hơn sư tử.
\v 24 Hỡi các ngươi, con gái của Y-sơ-ra-ên, hãy khóc than vì Sau-lơ, ông ấy đã mặc cho các ngươi bằng màu đỏ điều sang trọng, ông ấy điểm trang áo xống các ngươi bằng vàng.
\s5
\v 25 Người mạnh sức sao lại ngã chết ở giữa chiến trường! Giô-na-than bị giết trên các nơi cao của các ngươi.
\v 26 Hỡi anh Giô-na-than, tôi buồn rầu vì cớ anh. Anh rất yêu dấu đối với tôi. Tình cảm của anh đối với tôi thật tuyệt vời, trổi hơn tình yêu của phụ nữ.
\v 27 Người mạnh sức đã ngã chết, và binh khí người bị hư mất đi!"
\s5
\c 2
\p
\v 1 Sau việc nầy Đa-vít cầu hỏi Đức Giê-hô-va như sau: "Tôi có nên đến với một trong các thành của xứ Giu-đa không?" Đức Giê-hô-va đáp cùng người: "Hãy đi lên". Đa-vít nói: "Tôi nên đến với thành nào?" Đức Giê-hô-va đáp: "Với Hếp-rôn".
\v 2 Vậy Đa-vít đi lên với hai vợ mình: A-hi-nô-am từ Gít-rê-ên, và A-bi-ga-in từ Cạt-mên, vợ của Na-banh.
\v 3 Đa-vít đem theo người ở với mình, mỗi người đem theo gia đình của họ, đến các thành ở Hếp-rôn, họ khởi sự sinh sống ở đó.
\s5
\v 4 Khi ấy có người từ xứ Giu-đa đến rồi xức dầu cho Đa-vít làm vua trên cả nhà Giu-đa. Họ nói với Đa-vít: "Người xứ Gia-be Ga-la-át đã chôn cất Sau-lơ".
\v 5 Thế là Đa-vít sai sứ giả đến với dân Gia-be Ga-la-át rồi nói với họ: "Anh em được phước bởi Đức Giê-hô-va, từ khi anh em tỏ ra lòng trung thành với Sau-lơ chủ mình và đã chôn cất người.
\s5
\v 6 Giờ đây, nguyện Đức Giê-hô-va tỏ ra lòng trung thành và sự thành tín theo giao ước của Ngài. Ta cũng tỏ cho anh em sự nhân từ nầy vì anh em đã làm việc nầy.
\v 7 Bây giờ, nguyện tay anh em được mạnh mẽ; phải can đảm vì Sau-lơ chủ của anh em đã chết, và nhà Giu-đa đã xức dầu cho ta làm vua trên họ".
\s5
\v 8 Nhưng Áp-ne con trai của Nê-rơ người chỉ huy quân đội của Sau-lơ, đã bắt lấy Ích-bô-sết con trai của Sau-lơ rồi đưa người đến Ma-ha-na-im;
\v 9 ông ta lập Ích-bô-sết làm vua xứ Ga-la-át, A-se, Gít-rê-ên, Ép-ra-im, Bên-gia-min, và trên khắp cả Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Ích-bô-sết con trai của Sau-lơ, đã được bốn mươi tuổi khi người khởi trị vì trên Y-sơ-ra-ên, và ông đã cai trị hai năm. Nhưng nhà Giu-đa thì theo Đa-vít.
\v 11 Thời gian Đa-vít làm vua ở Hếp-rôn trên nhà Giu-đa là bảy năm sáu tháng.
\s5
\v 12 Áp-ne con trai Nê-rơ, cùng các tôi tớ của Ích-bô-sết con trai của Sau-lơ, đi ra từ Ma-ha-na-im đến Ga-ba-ôn.
\v 13 Giô-áp con trai của Xê-ru-gia cùng các tôi tớ của Đa-vít đi ra đón họ bên hồ Ga-ba-ôn. Họ ngồi xuống ở đó, một nhóm bên nầy hồ và nhóm kia ở bên kia.
\s5
\v 14 Áp-ne nói với Giô-áp: "Hãy để cho những thanh niên chỗi dậy và đua tài trước mặt chúng ta". Khi ấy Giô-áp nói: "Hãy để cho họ chỗi dậy".
\v 15 Thế là các thanh niên chỗi dậy và tụ tập lại với nhau, mười hai người Bên-gia-min và Ích-bô-sết con trai của Sau-lơ, và mười hai người từ tôi tớ của Đa-vít.
\s5
\v 16 Mỗi người nắm lấy đầu của địch thủ rồi đâm gươm vào hông của đối thủ, và họ cùng nhau ngã xuống. Vì lẽ đó, chỗ ấy được gọi theo tiếng Hy-bá-lai: "Helkath Hazzurim" hay "Đồng Gươm" nằm trong Ga-ba-ôn.
\v 17 Chiến trận rất dữ dội trong ngày ấy và Áp-ne cùng người của Y-sơ-ra-ên bị đánh bại trước mặt các tôi tớ của Đa-vít.
\s5
\v 18 Ba người con trai của Xê-ru-gia có mặt ở đó: Giô-áp, A-bi-sai, và A-sa-ên. A-sa-ên vốn chạy nhanh như con hoàng dương rừng.
\v 19 A-sa-ên đuổi sát Áp-ne và theo người mà không xoay qua bên phải hay bên trái.
\s5
\v 20 Áp-ne ngó lại sau, rồi nói: "Ngươi có phải là A-sa-ên không?" Người đáp: "Chính ta đây".
\v 21 Áp-ne nói cùng người: "Hãy qua phía phải hay phía trái, và bắt lấy một thanh niên rồi tước vũ khí của nó". Nhưng A-sa-ên không chịu.
\s5
\v 22 Vì vậy, Áp-ne nói với A-sa-ên một lần nữa: "Hãy thôi đừng đuổi theo ta nữa. Sao ngươi muốn đánh hạ ta xuống đất? Làm sao ta ngó mặt Giô-áp, anh ngươi chứ?"
\v 23 Nhưng A-sa-ên từ chối không chịu xoay đi, và vì vậy Áp-ne đâm người với mũi giáo, thấu qua phía sau lưng. A-sa-ên ngã xuống chết tại đó. Cho nên khi có ai đến tại chỗ A-sa-ên ngã chết, người ấy bèn dừng lại rồi đứng yên.
\s5
\v 24 Nhưng Giô-áp và A-bi-sai cứ truy đuổi Áp-ne. Khi mặt trời lặn rồi, họ đến tại núi Am-ma, ở gần Ghi-a bên con đường vào đồng vắng tại Ga-ba-ôn.
\v 25 Người Bên-gia-min tự nhóm lại sau lưng Áp-ne rồi đứng trên đỉnh núi.
\s5
\v 26 Khi ấy Áp-ne gọi Giô-áp nói như sau: "chẳng lẽ cứ để gươm ăn nuốt cho đến đời đời sao? Bộ ngươi không biết việc sẽ cay đắng lúc cuối cùng sao? Chừng nào ngươi mới bảo người của mình hãy thôi đừng truy kích anh em của họ nữa?"
\v 27 Giô-áp đáp: "Y như Đức Chúa Trời là hằng sống, nếu ngươi không nói như thế, binh lính của ta sẽ truy kích anh em của họ cho tới sáng!"
\s5
\v 28 Thế là Giô-áp trổi kèn lên, và mọi người của ông bèn dừng lại không truy đuổi Y-sơ-ra-ên nữa.
\v 29 Áp-ne và người của ông cứ đi suốt đêm đó qua vùng A-ra-ba. Họ băng qua sông Giô-đanh, đi suốt buổi sáng hôm sau, và rồi đến tại Ma-ha-na-im.
\s5
\v 30 Giô-áp trở về từ cuộc truy đuổi Áp-ne. Ông tập trung người của mình, trong đó thiếu mất A-sa-ên và mười chín binh sĩ của Đa-vít.
\v 31 Nhưng người của Đa-vít đã giết 360 người Bên-gia-min với Áp-ne.
\v 32 Khi ấy, họ đem A-sa-ên chôn người trong mộ của cha người, tại thành Bết-lê-hem. Giô-áp và người của ông đi suốt đêm, rồi rạng ngày đến tại Hếp-rôn.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Bấy giờ có chiến tranh lâu dài giữa nhà Sau-lơ và nhà Đa-vít. Đa-vít ngày càng mạnh hơn, còn nhà Sau-lơ ngày càng yếu đi.
\s5
\v 2 Các con trai được sanh cho Đa-vít Đa-vít ở Hếp-rôn. Con đầu lòng của ông là Am-nôn, bởi A-hi-nô-am từ Gít-rê-ên.
\v 3 Con thứ hai, Ki-lê-áp, sanh bởi A-bi-ga-in, góa phụ của Na-banh từ Cạt-mên. Con thứ ba, Áp-sa-lôm, là con của Ma-a-ca, con gái của Thanh-mai, vua xứ Ghê-su-rơ.
\s5
\v 4 Con thứ tư của Đa-vít, A-đô-ni-gia, là con trai của Ha-gít. Con thứ năm là Sê-pha-tia con của A-bi-tanh,
\v 5 và con thứ sáu, Dít-rê-am, là con trai của Éc-la vợ của Đa-vít. Những người con nầy đã được sanh cho Đa-vít tại Hếp-rôn.
\s5
\v 6 Trong suốt cuộc chiến giữa nhà Sau-lơ và nhà Đa-vít thì Áp-ne làm cho mình ra mạnh trong nhà của Sau-lơ.
\v 7 Sau-lơ có một vợ lẽ tên là Rít-ba, con gái của A-gia. Ích-bô-sết nói với Áp-ne: "Sao ông ngủ với vợ lẽ của cha tôi?"
\s5
\v 8 Khi ấy Áp-ne nổi giận nơi lời lẽ của Ích-bô-sết rồi nói: "Có phải ta là đầu chó thuộc về nhà Giu-đa không? Ngày nay ta tỏ ra trung thành với nhà của Sau-lơ, cha ngươi, với anh em của người, và với bạn bè của người, bằng cách không trao ngươi vào trong tay của Đa-vít. Thế mà ngươi cáo ta về người đàn bà nầy hôm nay?
\s5
\v 9 Nguyện Đức Chúa Trời làm thế với ta, Áp-ne, và cũng nhiều hơn nữa, nếu ta không làm cho Đa-vít như Đức Giê-hô-va đã thề cùng người,
\v 10 chuyển vương quốc từ nhà Sau-lơ rồi dựng lên ngôi của Đa-vít trên Y-sơ-ra-ên và trên Giu-đa, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba".
\v 11 Ích-bô-sết không thể đáp cùng Áp-ne lời nào khác, vì người sợ ông ta.
\s5
\v 12 Khi ấy Áp-ne sai các sứ giả đến cùng Đa-vít nói với người rằng: "Xứ sở nầy là của ai chứ? Hãy lập với tôi một giao ước, thì ông sẽ thấy rằng tay tôi ở với ông, để đem hết thảy Y-sơ-ra-ên về cho ông".
\v 13 Đa-vít đáp: "Được, ta sẽ lập một giao ước với ông. Nhưng có một việc ta buộc với ông, ấy là ông không thể thấy mặt ta trừ phi trước tiên ông đem theo Mi-canh, con gái của Sau-lơ, khi ông đến để gặp ta".
\s5
\v 14 Khi ấy Đa-vít sai các sứ giả đến với Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ nói rằng: "Hãy trao Mi-canh vợ ta cho ta, vì nàng mà ta đã nộp một trăm dương bì người Phi-li-tin".
\v 15 Thế là Ích-bô-sết sai đòi Mi-canh rồi bắt lấy nàng ra khỏi chồng nàng, Pha-ti-ên con trai của La-ít.
\v 16 Chồng nàng cùng đi với nàng, vừa đi vừa khóc, rồi theo nàng đến Ba-hu-rim. Khi ấy Áp-ne nói với người: "Hãy về nhà ngươi liền đi". Thế là người trở về.
\s5
\v 17 Áp-ne nói với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên như vầy: "Trong quá khứ, các ông đã thử lập Đa-vít làm vua trên các ông.
\v 18 Bây giờ, hãy làm việc ấy đi. Vì Đức Giê-hô-va đã phán về Đa-vít như sau: 'Bởi tay tôi tớ của ta, Đa-vít, ta sẽ cứu dân Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi quyền lực của dân Phi-li-tin và mọi kẻ thù của họ".
\s5
\v 19 Áp-ne cũng nói theo cách riêng với dân sự Bên-gia-min. Khi ấy Áp-ne cũng đến nói với Đa-vít tại Hếp-rôn để giải thích mọi sự mà Y-sơ-ra-ên cùng cả nhà Bên-gia-min muốn hoàn thành.
\v 20 Khi Áp-ne cùng hai mươi người của ông ta đến tại Hếp-rôn để gặp Đa-vít, Đa-vít đã đãi tiệc họ.
\s5
\v 21 Áp-ne đã giải thích với Đa-vít: "Tôi sẽ hiệp toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên lại cho ông, là vua chúa tôi, hầu cho họ lập một giao ước với ông, hầu cho ông có thể trị vì trên mọi người mà ông mong muốn". Vậy là Đa-vít để cho Áp-ne đi, rồi Áp-ne ra về trong bình an.
\s5
\v 22 Thế rồi binh lính của Đa-vít và Giô-áp trở về từ một chiến dịch và đem nhiều chiến lợi phẩm theo với họ. Nhưng Áp-ne không ở với Đa-vít tại Hếp-rôn. Đa-vít để cho người đi, và Áp-ne đã rời đi trong bình an.
\v 23 Khi Giô-áp cùng toàn thể quân đội của ông về đến, họ nói với Giô-sáp: "Áp-ne con trai của Nê-rơ đã đến gặp vua, và nhà vua đã để cho ông ta đi, và Áp-ne ra về trong bình an".
\s5
\v 24 Khi Giô-áp đến gặp nhà vua rồi nói: "Vua đã làm gì vậy? Kìa, Áp-ne đã đến gặp vua! Sao vua lại để cho người đi, và người đã ra về?
\v 25 Bộ vua không biết rằng Áp-ne con trai Nê-rơ đã đến để gạt vua và để khám phá mọi chương trình của vua và học biết mọi sự vua đang làm hay sao?"
\v 26 Khi Giô-áp rời khỏi Đa-vít, ông sai sứ giả theo sau Áp-ne, và họ đưa ông ta về lại từ giếng Si-ra, nhưng Đa-vít không biết điều nầy.
\s5
\v 27 Lúc Áp-ne trở lại đến Hếp-rôn, Giô-áp đem người riêng ra nơi cổng để nói nhỏ với người, rồi ở đó Giô-áp đâm người vào bụng và giết chết người. Bằng cách nầy, Giô-áp báo thù huyết của A-sa-ên em mình.
\s5
\v 28 Khi Đa-vít hay được việc nầy, ông nói: "Ta và nước ta vô tội trước mặt Đức Giê-hô-va cho đến đời đời về huyết của Áp-ne con trai Nê-rơ.
\v 29 Nguyện tội lỗi cái chết của Áp-ne rơi trên đầu của Giô-áp và trên hết thảy nhà cha người. Nguyện gia đình của Giô-áp chẳng thiếu người bị bịnh bạch trược, bịnh về da, hay bị què và phải chống gậy mà đi hay bị giết bởi gươm hoặc sẽ không có đồ ăn".
\v 30 Thế là Giô-áp và A-bi-sai em người đã giết chết Áp-ne, vì ông ta đã giết em họ là A-sa-ên tại Ga-ba-ôn trong chiến trận.
\s5
\v 31 Đa-vít nói với Giô-áp và hết thảy dân sự đã ở cùng ông: "Hãy xé áo của anh em, hãy mặc lấy bao tro, và khóc than trước thi thể của Áp-ne". Và Vua Đa-vít đi bộ đàng sau thi thể trong đám tang.
\v 32 Họ đã chôn Áp-ne tại Hếp-rôn. Nhà vua đã khóc lóc và kêu la lớn tiếng tại mộ của Áp-ne, và hết thảy dân sự cũng cất tiếng khóc.
\s5
\v 33 Nhà vua than khóc cho Áp-ne và đã hát: "Áp-ne đã chết như kẻ dại chết sao?
\v 34 Tay ông chẳng bị trói. Hai chân ông cũng chẳng bị xiềng. Giống như một người ngã chết trước mặt thứ con cái của sự bất công, vì ông đã ngã chết". Một lần nữa hết thảy dân sự đều khóc than người.
\s5
\v 35 Hết thảy dân sự đã đến để khiến cho Đa-vít ăn đang khi vẫn còn là ban ngày, nhưng Đa-vít đã thề: "Nguyện Đức Chúa Trời làm vậy với tôi, và còn hơn thế nữa, nếu tôi nếm bánh hay bất cứ gì trước khi mặt trời lặn".
\v 36 Hết thảy dân sự để ý đến sự đau buồn của Đa-vít, và điều đó đẹp lòng họ, giống như bất cứ việc gì nhà vua đã làm đều đẹp lòng họ.
\s5
\v 37 Thế là hết thảy dân sự và hết thảy Y-sơ-ra-ên đều hiểu rõ ngày ấy và đấy chẳng phải là nhà vua mong muốn giết chết Áp-ne con trai của Nê-rơ.
\v 38 Nhà vua nói với các tôi tớ mình: "Bộ anh em không biết một vương tử, một đại nhân đã ngã chết hôm nay trong Y-sơ-ra-ên sao?
\v 39 Và ta hãy còn yếu hôm nay, mặc dù ta là một vị vua đã được xức dầu. Những người nầy, các con trai của Xê-ru-gia, cũng quá tàn bạo đối với ta. Nguyện Đức Giê-hô-va báo trả cho kẻ làm ác, bằng cách trừng phạt hắn vì sự gian ác của hắn, như hắn xứng đáng".
\s5
\c 4
\p
\v 1 Khi Ích-bô-sết, con trai của Sau-lơ, hay rằng Áp-ne đã chết tại Hếp-rôn, tay người trở nên yếu đi, và hết thảy Y-sơ-ra-ên lấy làm bối rối.
\v 2 Bấy giờ con trai của Sau-lơ có hai người làm quan tướng các nhóm chiến binh. Tên của người nầy là Ba-a-na và người kia là Rê-cáp, con trai của Rim-môn người Bê-ê-rốt thuộc dân Bên-gia-min (vì Bê-ê-rốt cũng được xem là một phần của Bên-gia-min,
\v 3 và dân Bê-ê-rốt trốn đến Ghi-tha-im và đã sinh sống ở đó cho tới thời điểm nầy).
\s5
\v 4 Giờ đây, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ có một con trai, nó bị què nơi chơn. Nó được năm tuổi khi được tin từ Gít-rê-ên là Sau-lơ và Giô-na-than đều đã chết. Người vú của nó ẵm nó lên chạy trốn. Song khi lật đật chạy trốn, con trai của Giô-na-than té ngã rồi bị què. Tên của nó là Mê-phi-bô-sết.
\s5
\v 5 Thế là các con trai của Rim-môn người Bê-ê-rốt, Rê-cáp và Ba-a-na, trong lúc trời nắng ban ngày tới nhà của Ích-bô-sết, khi người đang nằm nghỉ trưa.
\v 6 Người đàn bà giữ cửa đã ngủ say trong khi sàng sảy lúa mì, Rê-cáp và Ba-a-na đi nhẹ nhàng qua khỏi bà ta.
\v 7 Sau khi họ đã vào nhà, họ đã tấn công rồi giết ông khi ông đang nằm trên giường trong phòng. Khi ấy họ cắt lấy đầu ông rồi đem đi suốt đêm đến A-ra-ba.
\s5
\v 8 . Họ mang đầu của Ích-bô-sết đến cho Đa-vít tại Hếp-rôn, và họ nói với nhà vua: "Hãy xem, đây là đầu của Ích-bô-sết con của Sau-lơ, kẻ thù của ông, là người đã săn tìm mạng sống ông. Ngày nay Đức Giê-hô-va đã báo thù cho nhà vua, chúa của chúng tôi chống lại Sau-lơ và dòng dõi của người".
\v 9 Đa-vít đáp lại với Rê-cáp và Ba-a-na em người, các con trai của Rim-môn người Bê-ê-rốt; ông nói với họ: "Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, là Đấng đã giải cứu mạng sống ta khỏi từng hoạn nạn,
\v 10 khi có người đến nói với ta: 'Hãy xem, Sau-lơ đã chết', họ nghĩ rằng hắn đã đem những tin tức tốt lành, ta bắt hắn và giết hắn tại Xiếc-lác. Đấy là phần thưởng mà ta đã ban cho hắn vì cớ tin tức của hắn.
\s5
\v 11 Huống hồ gì, khi hạng người gian ác đã giết một người vô tội tại chính nhà người trên giường người, há ta không đòi huyết của người lại nơi tay các ngươi, và dời các ngươi khỏi đất sao?"
\v 12 Thế rồi ông ra lịnh cho những gã trai trẻ, và họ giết hai người nầy, cắt lấy đầu và chân của chúng rồi treo chúng bên hồ tại Hếp-rôn. Nhưng họ lấy đầu của Ích-bô-sết đem chôn nó trong mồ của Áp-ne tại Hết-rôn.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Khi ấy hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn, họ nói: "Hãy xem đi, chúng tôi là cốt nhục của ông.
\v 2 Trong quá khứ gần đây, khi Sau-lơ là vua trên chúng tôi, chính ông đã dẫn dắt quân đội Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va đã phán cùng ông: 'Con sẽ chăn dân Y-sơ-ra-ên ta, và con sẽ trở thành vua trên Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 3 Vì vậy các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến với nhà vua tại Hếp-rôn, và Vua Đa-vít đã lập một giao ước với họ trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ xức dầu cho Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Đa-vít được ba mươi tuổi khi cầm quyền trị vì, và ông trị vì bốn mươi năm.
\v 5 Ở Hếp-rôn, ông trị vì trên Giu-đa bảy năm sáu tháng, rồi tại Giê-ru-sa-lem ông trị vì ba mươi ba năm trên cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
\s5
\v 6 Nhà vua cùng người của mình đi lên Giê-ru-sa-lem chống lại dân Giê-bu-sít, là cư dân của xứ. Họ nói với Đa-vít: "Ông sẽ không đến đây nếu không bị người mù và người què đẩy lui. Đa-vít không thể đến đây được đâu".
\v 7 Tuy nhiên, Đa-vít đã chiếm lấy đồn lũy Si-ôn, giờ đây là thành Đa-vít.
\s5
\v 8 Lúc bấy giờ Đa-vít nói: "Người nào tấn công dân Giê-bu-sít sẽ nếm nước trong khe và họ sẽ gặp 'kẻ què và kẻ đui', là những kẻ thù ghét Đa-vít". Đấy là lý do tại sao dân sự nói: "Kẻ 'mù và què' không thể vào trong cung điện".
\v 9 Thế là Đa-vít sống trong đồn lũy và gọi đó là thành Đa-vít. Người phòng thủ chung quanh nó, từ ngoài rìa cho đến bên trong.
\v 10 Đa-vít trở nên rất mạnh vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của vạn quân, ở cùng ông.
\s5
\v 11 Vua Hi-ram xứ Ty-rơ sai sứ giả đến gặp Đa-vít, cùng gỗ bá hương, thợ mộc, và thợ đá. Họ xây một cung điện cho Đa-vít.
\v 12 Đa-vít biết rõ rằng Đức Giê-hô-va đã lập ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên, và ông làm cho vương quốc mình được mạnh mẽ vì cớ dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.
\s5
\v 13 Sau khi Đa-vít rời Hếp-rôn đến tại thành Jerusalem, ông đem theo nhiều vợ và hầu đến tại Jerusalem, và nhiều con trai con gái được sanh ra cho ông.
\v 14 Đây là tên của những đứa con được sanh cho ông tại thành Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn,
\v 15 Di-ba, Ê-li-sua, Nê-phéc, Gia-phia,
\v 16 Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.
\s5
\v 17 Bấy giờ, khi dân Phi-li-tin hay được rằng Đa-vít đã được xức dầu làm vua trên Y-sơ-ra-ên, hết thảy họ đi ra tìm kiếm ông. Nhưng Đa-vít hay điều đó rồi đi xuống đồn lũy.
\v 18 Dân Phi-li-tin đến bủa ra trong trũng Rê-pha-im.
\s5
\v 19 Khi ấy Đa-vít cầu xin sự vùa giúp từ Đức Giê-hô-va. Ông nói: "Tôi có nên tấn công dân Phi-li-tin chăng? Liệu Ngài có ban chiến thắng trên chúng không?" Đức Giê-hô-va phán cùng: "Hãy tấn công đi, vì ta chắc chắn sẽ ban cho con thắng hơn dân Phi-li-tin".
\v 20 Vì vậy, Đa-vít tấn công tại Ba-anh Phê-rát-sim, và ở đó ông đánh bại chúng. Ông nói: "Đức Giê-hô-va đã đánh vỡ kẻ thù của chúng ta trước mặt ta giống như nước văng tung tóe". Vì vậy danh xưng chỗ đó trở thành Ba-anh Phê-rát-sim.
\v 21 Dân Phi-li-tin bỏ lại các hình tượng ở đó, còn Đa-vít và người của ông lấy chúng đem đi.
\s5
\v 22 Khi ấy dân Phi-li-tin quay trở lại rồi bủa ra một lần nữa trong trũng Rê-pha-im.
\v 23 Thế là Đa-vít tìm kiếm sự vùa giúp của Đức Giê-hô-va một lần nữa, và Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Con đừng tấn công trực diện, thay vì thế hãy vòng ra phía sau chúng rồi đóng ở trong rừng dâu.
\s5
\v 24 Khi con nghe tiếng bước trên ngọn cây dâu, khi ấy hãy dùng sức mạnh mà tấn công. Hãy làm theo điều nầy vì Đức Giê-hô-va sẽ đi ra trước mặt con tấn công quân đội của dân Phi-li-tin".
\v 25 Đa-vít làm theo y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho mình. Ông giết dân Phi-li-tin từ Ghê-ba suốt cho đến Ghê-xe.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Bấy giờ Đa-vít một lần nữa nhóm lại hết thảy những người Y-sơ-ra-ên được chọn, ba mươi ngàn người.
\v 2 Đa-vít chỗi dậy đi cùng người đã ở với ông từ Ba-a-la trong xứ Giu-đa để đem hòm của Đức Chúa Trời lên, người ta kêu cầu danh của Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đấng ngự trên chê-ru-bin.
\s5
\v 3 Họ đặt hòm của Đức Chúa Trời trên chiếc xe bò mới. Họ đưa hòm ấy ra khỏi nhà của A-bi-na-đáp, ở trên núi. U-xa và A-hi-giô, con trai người, đang dẫn chiếc xe bò.
\v 4 Họ đem chiếc xe ra khỏi nhà của A-bi-na-đáp trên núi với hòm của Đức Chúa Trời trên xe. A-hi-giô thì đi ở trước hòm.
\v 5 Khi ấy Đa-vít cùng cả nhà Y-sơ-ra-ên đều khởi sự múa hát trước mặt Đức Giê-hô-va, vui vẻ với các thứ nhạc cụ làm bằng gỗ bá hương, đàn cầm, đàn sắt, trống cơm, lúc lắc, và mã la.
\s5
\v 6 Khi họ đến tại sân đạp lúa của Na-côn, đôi bò bị vấp, và U-xa với tay đỡ lấy hòm của Đức Chúa Trời, và ông giữ lấy nó.
\v 7 Khi ấy cơn giận của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng U-xa. Đức Chúa Trời đánh ông ở đó vì tội của ông. U-xa ngã chết ở đó bên hòm của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 8 Đa-vít rất giận vì Đức Giê-hô-va đã đánh U-xa, và ông đặt tên chỗ đó là Phê-rết U-xa. Chỗ đó được gọi là Phê-rết U-xa cho đến ngày nay.
\v 9 Đa-vít rất đỗi sợ hãi Đức Giê-hô-va trong ngày ấy. Ông nói: "Làm sao để hòm của Đức Giê-hô-va đến cùng ta đây?"
\s5
\v 10 Thế là Đa-vít không bằng lòng đưa hòm của Đức Giê-hô-va đến với người trong thành của Đa-vít. Thay vì thế, ông đặt hòm ấy cạnh nhà của Ô-bết Ê-đôm người Gát.
\v 11 Hòm của Đức Giê-hô-va cứ ở tại nhà của Ô-bết Ê-đôm người Gát trong ba tháng. Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho ông và cả nhà ông.
\s5
\v 12 Bấy giờ Vua Đa-vít hay được: "Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho nhà của Ô-bết Ê-đôm và mọi sự thuộc về ông vì cớ hòm của Đức Chúa Trời". Vậy Đa-vít đi và đem hòm của Đức Chúa Trời từ nhà của Ô-bết Ê-đôm lên thành của Đa-vít với sự vui mừng.
\v 13 Khi những người khiêng hòm của Đức Giê-hô-va đi được sáu bước, ông tế một con bò đực và con bò con mập béo.
\s5
\v 14 Đa-vít hết sức nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va; ông chỉ mặc duy nhứt cái ê-phót.
\v 15 Vậy Đa-vít cùng cả nhà Y-sơ-ra-ên thỉnh hòm của Đức Giê-hô-va với tiếng hô và tiếng kèn.
\s5
\v 16 Bấy giờ hòm của Đức Giê-hô-va đến tại thành của Đa-vít, Mi-canh, con gái của Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ. Nàng nhìn thấy Vua Đa-vít nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va. Thế rồi nàng khinh khỉnh với ông ở trong lòng.
\v 17 Họ thỉnh hòm của Đức Giê-hô-va và đặt đúng vị trí của hòm đó, ở giữa trại mà Đa-vít đã dựng lên cho nó. Khi ấy Đa-vít đã dâng của lễ thiêu và của lễ tương giao trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Khi Đa-vít tế xong của lễ thiêu và của lễ tương giao, ông chúc phước cho dân sự trong danh của Đức Giê-hô-va vạn quân.
\v 19 Thế rồi, ông phân phát giữa vòng hết thảy dân sự, toàn bộ đám dân đông Y-sơ-ra-ên, cả người nam người nữ, một ổ bánh, một phần thịt, và một cái bánh nho. Tiếp đến hết thảy dân sự ra về; mỗi người trở về chính nhà của mình.
\s5
\v 20 Khi ấy Đa-vít trở về chúc phước cho gia đình mình. Mi-canh, con gái của Sau-lơ, đi ra đón Đa-vít rồi nói: "Vua Y-sơ-ra-ên trông thật vẻ vang ghê, chính mình người không mặc gì trước mặt các tớ gái giữa vòng các tôi tớ người, giống như một gã chẳng biết xấu hổ là gì vậy!"
\s5
\v 21 Đa-vít đáp cùng Mi-canh: "Ta làm thế trước mặt Đức Giê-hô-va, Ngài đã chọn ta trên cha của nàng và trên cả gia đình nàng, Ngài đã ấn định ta làm vua trên dân sự của Đức Giê-hô-va, trên Y-sơ-ra-ên. Trước mặt Đức Giê-hô-va ta rất đỗi vui mừng!
\v 22 Thậm chí ta còn 'hèn mạt' hơn thế nầy nữa. Ta sẽ hạ mình xuống theo mắt ta, nhưng giữa vòng các tớ gái mà nàng đã nói, ta sẽ được tôn trọng".
\v 23 Thế là Mi-canh, con gái của Sau-lơ, không có đứa con nào cho đến ngày người qua đời.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Việc xảy ra sau khi nhà vua đã vào ở trong nhà của mình, và sau khi Đức Giê-hô-va đã ban cho người yên nghỉ đối với các kẻ thù ở chung quanh ông,
\v 2 nhà vua nói với tiên tri Na-than: "Hãy xem, ta sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn hòm của Đức Chúa Trời thì đang ở giữa một trại".
\s5
\v 3 Khi ấy Na-than nói với nhà vua: "Hãy đi, làm theo những gì có trong lòng vua, vì Đức Giê-hô-va ở với vua".
\v 4 Nhưng đêm đó có Lời của Đức Giê-hô-va đến với Na-than như vầy:
\v 5 "Hãy đi nói với Đa-vít tôi tớ ta: 'Đầy là điều Đức Giê-hô-va phán: Liệu ngươi sẽ xây cho ta một ngôi nhà để sống trong đó không?
\s5
\v 6 Vì ta không sống trong ngôi nhà từ thuở ta đem dân sự Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập cho đến ngày nay; thay vì thế, ta đã di chuyển từ trại, đến đền tạm.
\v 7 Trong mọi nơi mà ta đã di dời giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, có phải ta có nói gì với bất kỳ cấp lãnh đạo nào trong Y-sơ-ra-ên mà ta ấn định để chăn giữ dân Y-sơ-ra-ên ta: "Sao các ngươi không xây cho ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương?"
\s5
\v 8 Bây giờ, hãy bảo Đa-vít tôi tớ ta: "Nầy là điều mà Đức Giê-hô-va vạn quân phán: 'Ta đã bắt lấy ngươi từ đồng cỏ, từ chỗ đi theo bầy chiên, hầu cho ngươi sẽ làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên ta.
\v 9 Ta đã ở với ngươi bất cứ đâu ngươi đi và đã đánh bại các kẻ thù nghịch ngươi ở trước mặt ngươi. Và ta sẽ làm cho ngươi một danh lớn, giống như danh của những người lỗi lạc sống trên đất.
\s5
\v 10 Ta sẽ ấn định một chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên ta và sẽ trồng họ ở đó, hầu cho họ có thể sống trong chính chỗ của họ và không còn có hoạn nạn nữa. Không có một kẻ ác nào lấn lướt họ, giống như họ đã có trước đây,
\v 11 như họ đã có từ thời ta truyền cho các quan xét cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta. Và ta sẽ ban cho ngươi sự yên nghỉ đối với mọi kẻ thù nghịch ngươi. Hơn nữa, ta, Đức Giê-hô-va, tuyên bố với ngươi rằng ta sẽ dựng cho ngươi một ngôi nhà.
\s5
\v 12 Khi những ngày của ngươi đã mãn và ngươi nằm xuống với các tổ phụ ngươi, ta sẽ dấy lên một dòng dõi sau ngươi, là người sẽ ra từ thân thể ngươi, và ta sẽ thiết lập vương quốc của người.
\v 13 Nó sẽ xây cho ta một ngôi nhà cho danh ta, và ta sẽ lập ngôi nước nó cho đến đời đời.
\v 14 Ta sẽ làm cha nó, và nó sẽ là con trai ta. Khi nó phạm tội, ta sẽ kỷ luật nó với cây roi và với thương vít của con người.
\s5
\v 15 Nhưng sự thành tín giao ước của ta sẽ không lìa khỏi nó, như ta đã làm với Sau-lơ, là kẻ mà ta đã cất khỏi trước mặt ngươi.
\v 16 Nhà và vương quốc của ngươi sẽ được bền chặt đời đời trước mặt ngươi. Ngôi của ngươi sẽ được lập cho đến đời đời'".
\v 17 1a-than nói với Đa-vít và tường thuật cho ông biết hết mọi lời nầy, và ông nói cho người nghe toàn bộ mặc khải.
\s5
\v 18 Khi ấy Đa-vít nhà vua bước vào và ngồi trước mặt Đức Giê-hô-va; ông nói: "Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tôi là ai, và gia đình tôi là gì mà Ngài đem tôi đến chỗ nầy?
\v 19 Và đây là một việc nhỏ trong mắt Ngài, lạy Chúa Giê-hô-va. Ngài đã phán về gia đình của tôi tớ Ngài về lâu về sau, và đã tỏ ra cho tôi biết các thế hệ trong tương lai, Lạy Chúa Giê-hô-va!
\v 20 Tôi, Đa-vít, còn nói gì được với Ngài nữa? Ngài đã tôn cao tôi tớ của Ngài, lạy Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Vì cớ Lời của Ngài, và để chu toàn chính mục đích của Ngài, Ngài đã làm việc lớn nầy và đã tỏ việc ấy ra cho tôi tớ của Ngài.
\v 22 Vì lẽ đó, lạy Đức Giê-hô-va Ngài là lớn, lạy Chúa Giê-hô-va. Vì chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Đức Chúa Trời nào bên cạnh Ngài, giống như chúng tôi đã nghe với chính lỗ tai mình.
\v 23 Và có dân nào giống như Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài, là dân duy nhứt trên đất mà Ngài, lạy Đức Chúa Trời, đã đi ra giải cứu cho chính mình Ngài? Ngài đã làm điều nầy hầu cho họ sẽ trở thành một dân cho chính Ngài, để lập một danh cho chính Ngài, và để làm những việc lớn và đáng sợ cho đất của Ngài. Ngài lèo lái các dân và các thần của họ từ trước mặt dân sự Ngài, là dân mà Ngài đã giải cứu ra khỏi xứ Ai-cập.
\s5
\v 24 Ngài đã lập Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân Ngài cho đến đời đời, và Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, đã trở thành Đức Chúa Trời của họ.
\v 25 Bây giờ, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời, nguyện lời hứa mà Ngài đã lập về tôi tớ Ngài và gia đình nó sẽ được lập cho đến đời đời. Hãy làm y như Ngài đã phán.
\v 26 Nguyện danh Ngài được cả thể cho đến đời đời, vì thế dân sự sẽ nói: 'Đức Giê-hô-va vạn quân là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên', trong khi nhà của tôi, Đa-vít, tôi tớ Ngài được thiết lập trước mặt Ngài.
\s5
\v 27 Đối với Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã tỏ ra cho tôi tớ Ngài thấy rằng Ngài sẽ xây cho nó một ngôi nhà. Đấy là lý do tại sao tôi, tôi tớ Ngài, đã thấy dạn dĩ mà cầu nguyện với Ngài.
\v 28 Giờ đây, hỡi Chúa Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời, và lời của Ngài là đáng tin cậy, và Ngài đã lập lời hứa tốt lành nầy cho tôi tớ Ngài.
\v 29 Như vậy, nguyện Ngài làm ơn chúc phước cho nhà tôi tớ Ngài, hầu cho nó được tiếp tục ở trước mặt Ngài cho đến đời đời. Lạy Chúa Giê-hô-va, vì Ngài đã phán những điều nầy, và với ơn phước của Ngài nhà của tôi tớ Ngài sẽ được phước cho đến đời đời".
\s5
\c 8
\p
\v 1 Sau việc ấy, Đa-vít đã tấn công dân Phi-li-tin và đánh bại họ. Như vậy Đa-vít chiếm lấy Gát cùng các làng mạc nó ra khỏi quyền kiểm soát của dân Phi-li-tin.
\s5
\v 2 Khi ấy ông đánh bại Mô-áp rồi bắt họ nằm dài trên đất rồi lấy dây đo. Ông đo, cứ hai dây thì giết, và một dây thì để cho sống. Vậy, dân Mô-áp trở thành tôi tớ cho Đa-vít rồi khởi sự nộp cống thuế cho ông.
\s5
\v 3 Thế rồi Đa-vít đánh bại Ha-đa-đê-xe con trai của Rê-hốp, vua Xô-ba, khi Ha-đa-đê-xe tìm cách khôi phục lại quyền quản hạt của ông ta bên sông Ơ-phơ-rát.
\v 4 Đa-vít chiếm lấy từ ông ta 1. 700 chiến xa và 20. 000 lính bộ binh. Đa-vít cắt nhượng ngựa kéo chiến xa, nhưng giữ lại chúng đủ cho một trăm chiến xa mà thôi.
\s5
\v 5 Khi người A-ram ở Đa-mách đến đặng giúp cho Ha-đa-đê-xe vua xứ Xô-ba, Đa-vít giết hai mươi hai ngàn dân A-ram.
\v 6 Lúc ấy Đa-vít đặt các đồn lũy trong A-ram thuộc Đa-mách, và người A-ram trở nên tôi tớ cho ông và nộp cống thuế cho người. Đức Giê-hô-va ban chiến thắng cho Đa-vít bất cứ đâu ông đi đến.
\s5
\v 7 Đa-vít chiếm lấy những cái khiêng bằng vàng nơi các tôi tớ của Ha-đa-đê-xe rồi đem chúng đến Jerusalem.
\v 8 Từ Bê-tách và Bê-rô-tôi, các thành của Ha-đa-đê-xe, Vua Đa-vít chiếm lấy rất nhiều đồng.
\s5
\v 9 Khi Thôi, vua của Ha-mát, nghe nói rằng Đa-vít đã đánh bại hết thảy quân đội của Ha-đa-đê-xe,
\v 10 Thôi sai Ha-đô-ram con trai mình đến gặp Vua Đa-vít để chào người và chúc phước cho người, vì Đa-vít đã lâm trận chống lại Ha-đa-đê-xe và đánh bại hắn, và vì Ha-đa-đê-xe đã lâm trận chống lại Thôi. Ha-đô-ram mang theo với mình các đồ vật bằng bạc, vàng, và đồng.
\s5
\v 11 Vua Đa-vít đã dâng các đồ vật nầy cho Đức Giê-hô-va, cùng với bạc và vàng từ các dân mà ông đã chinh phục —
\v 12 từ A-ram, Mô-áp, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, và dân A-ma-léc, cùng với hết thảy các thứ chiến lợi phẩm của Ha-đa-đê-xe con trai của Rê-hốp, vua của Xô-ba.
\s5
\v 13 Danh Đa-vít được mọi người biết đến khi ông trở về từ cuộc chinh phục người A-ram trong trũng Muối, với mười tám ngàn người của họ.
\v 14 Ông đặt các đồn lũy khắp xứ Ê-đôm, và hết thảy Ê-đôm trở thành tôi tớ cho người. Đức Giê-hô-va đã ban chiến thắng cho Đa-vít bất cứ đâu ông đi đến.
\s5
\v 15 Đa-vít đã trị vì trên khắp Y-sơ-ra-ên, và ông đã quản hạt công bình và ngay thẳng cho hết thảy dân sự mình.
\v 16 Giô-áp con trai của Xê-ru-gia là quan tướng chỉ huy quân đội, còn Giô-sa-phát con trai A-hi-lút là quan thái sử.
\v 17 Xa-đốc con trai A-hi-túp và A-hi-mê-léc con trai của A-bia-tha là thầy tế lễ, và Se-ra-gia là thầy thông giáo.
\v 18 Bê-na-gia con trai của Giô-hô-gia-đa lãnh đạo dân Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, còn các con trai của Đa-vít là cố vấn hàng đầu của nhà vua.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đa-vít nói: "Có người nào còn lại trong gia đình của Sau-lơ để ta có thể tỏ ra sự tử tế vì cớ Giô-na-than không?"
\v 2 Trong gia đình của Sau-lơ, có một tôi tớ tên là Xíp-ba, và họ cho ông ta vào gặp Đa-vít. Nhà vua nói với ông ta: "Có phải ngươi là Xíp-ba không?" Ông ta đáp: "Dạ phải. Tôi là tôi tớ của vua".
\s5
\v 3 Vậy, nhà vua nói: "Có ai còn lại trong gia đình của Sau-lơ để ta có thể tỏ ra sự tử tế của Đức Chúa Trời không?" Xíp-ba đáp cùng nhà vua: "Giô-na-than vẫn có một con trai, người bị què nơi chơn".
\v 4 Nhà vua nói với ông ta: "Nó ở đâu?" Xíp-ba đáp cùng nhà vua: "Hãy xem, cậu ấy ở trong nhà của Ma-ki con trai của A-mi-ên tại Lô Đê-ba".
\s5
\v 5 Khi ấy Vua Đa-vít sai đem người ra khỏi nhà của Ma-ki con trai của A-mi-ên từ Lô Đê-ba.
\v 6 Vậy Mê-phi-bô-sết con trai của Giô-na-than cháu của Sau-lơ, đến với Đa-vít rồi sấp mặt mình xuống sàn nhà tỏ lòng kính trọng Đa-vít. Đa-vít nói: "Hỡi Mê-phi-bô-sết". Người đáp: "Hãy xem, tôi là tôi tớ của Vua đây!"
\s5
\v 7 Đa-vít nói với người: "Đừng sợ, vì ta muốn tỏ ra cho ngươi sự tử tế vì cớ Giô-na-than cha ngươi, và ta sẽ phục hồi cho ngươi mọi đất đai của Sau-lơ ông nội ngươi, và ngươi sẽ luôn luôn ăn tại bàn của ta".
\v 8 Mê-phi-bô-sết sấp mình xuống mà nói: "Tôi tớ vua là gì, mà vua đoái đến với sự ưu ái cho một con chó chết như tôi đây?"
\s5
\v 9 Khi ấy nhà vua gọi Xíp-ba, tôi tớ của Sau-lơ, rồi nói với người: "Ta đã ban cho con trai chủ của ngươi mọi tài sản của Sau-lơ và gia đình người.
\v 10 Ngươi cần phải cày cấy đất cho nó, ngươi và các con trai ngươi và tôi tớ của ngươi, và ngươi phải gặt các vụ mùa hầu cho cháu nội của chủ ngươi sẽ có bánh mà ăn. Nhưng Mê-phi-bê-sết cháu nội của chủ ngươi sẽ luôn luôn ăn tại bàn của ta". Bấy giờ Xíp-ba đã có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ.
\s5
\v 11 Khi ấy Xíp-ba nói với nhà vua: "Tôi tớ của vua sẽ làm mọi sự mà vua là chủ tôi đã truyền cho tôi tớ vua". Nhà vua nói thêm: "Như vì Mê-phi-bô-sết nó sẽ ăn tại bàn của ta, như một trong các con trai ta".
\v 12 Mê-phi-bô-sết có một con trai còn nhỏ, tên nó là Mi-ca. Và hết thảy những ai sống trong nhà của Xíp-ba đều là tôi tớ của Mê-phi-bố-sết.
\v 13 Vậy, Mê-phi-bô-sết sống tại thành Jerusalem, và người luôn luôn ăn tại bàn của vua, mặc dù người bị què cả hai chơn.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Sau đó vua dân Am-môn qua đời, và Ha-nun con trai người lên làm vua thay cho người.
\v 2 Đa-vít nói: "Ta sẽ tỏ sự tử tế với Ha-nun con trai của Na-hách, y như cha người đã tỏ sự tử tế với ta". Vậy Đa-vít sai các tôi tớ mình đến yên ủi Ha-nun về cha người. Các tôi tớ ông bước vào đất của dân Am-môn.
\v 3 Nhưng các cấp lãnh đạo dân Am-môn nói với Ha-nun chủ của họ: "Bộ ông thực sự nghĩ rằng Đa-vít kính trọng cha ông vì hắn đã sai người đến yên ủi ông sao? Có phải Đa-vít không sai tôi tớ của hắn đến ông để nhìn vào thành, do thám nó, để lật đổ nó sao?"
\s5
\v 4 là Ha-nun bắt lấy các tôi tớ của Đa-vít, cạo phân nửa râu của họ cắt phân nửa quần áo cho đến nửa thân mình, rồi đuổi họ về.
\v 5 Khi họ giải thích việc nầy với Đa-vít, ông sai người đến đón họ, vì mọi người đều thấy xấu hổ lắm. Nhà vua nói: "Hãy ở lại Giê-ri-cô cho tới chừng râu các ngươi mọc trở lại".
\s5
\v 6 Khi ấy, dân Am-môn thấy họ đã trở nên hôi thối đối với Đa-vít, dân Am-môn sai sứ giả và thuê dân A-ram ở Bết Rê-hốp và Xô-ba, hai mươi ngàn lính bộ, và vua xứ Ma-a-ca với một ngàn người, và người xứ Tóp với mười hai ngàn người.
\v 7 Khi Đa-vít hay được việc nầy, ông sai Giô-áp và hết thảy quân lính.
\v 8 Dân Am-môn kéo ra rồi dàn quân hàng ngang ngay lối vào thành, trong khi dân A-ram ở Xô-ba và Rê-hốp, và người xứ Tóp và Ma-a-ca, tự họ dàn trận ở ngoài đồng trống.
\s5
\v 9 Khi Giô-áp nhìn thấy họ dàn trận đối mặt với ông cả phía trước và phía sau, ông chọn một số binh sĩ tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên dàn quân chống lại người A-ram.
\v 10 Còn phần còn lại của quân đội, ông trao số quân ấy vào tay của A-bi-sai em mình, rồi ông dàn quân ấy đối mặt với với quân đội của dân Am-môn.
\s5
\v 11 Giô-áp nói: "Nếu người A-ram quá mạnh đối với ta, thì em, hỡi A-bi-sai, phải giải cứu ta. Nhưng nếu quân của Am-môn quá mạnh đối với em, thì ta sẽ đến và giải cứu em.
\v 12 Phải mạnh mẽ lên, và nguyện chúng ta tỏ mình ra là mạnh vì dân sự của chúng ta và vì các thành của Đức Chúa Trời chúng ta, vì Đức Giê-hô-va sẽ làm điều chi là tốt lành cho mục đích của Ngài".
\s5
\v 13 Vậy, Giô-áp cùng các binh lính quân đội mình tiến quân vào trận chiến chống lại quân A-ram, họ buộc phải chạy trốn trước mặt quân Y-sơ-ra-ên.
\v 14 Khi quân đội của Am-môn thấy dân A-ram đã bỏ chạy, họ cũng bỏ chạy tránh A-bi-sai và trở vào trong thành. Lúc ấy Giô-áp trở về từ dân Am-môn rồi quay trở lại thành Jerusalem.
\s5
\v 15 Và khi dân A-ram nhìn thấy họ bị dân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ tụ tập lại với nhau một lần nữa.
\v 16 Khi ấy Ha-đa-rê-xe thuê quân A-ram từ bên kia sông Ơ-phơ-rát. Chúng đến tại Hê-lam với Sô-bác, tổng binh quân đội của Ha-đa-rê-xe làm đầu của chúng.
\s5
\v 17 Khi Đa-vít hay được điều nầy, ông nhóm lại hết thảy Y-sơ-ra-ên, băng qua sông Giô-đanh, rồi đến tại Hê-lam. Dân A-ram tự họ dàn trận chống lại Đa-vít và giao chiến với ông.
\v 18 Dân A-ram trốn chạy khỏi Y-sơ-ra-ên. Đa-vít giết bảy trăm xe ngựa của người A-ram và bốn mươi ngàn binh lính. Sô-bác viên chỉ huy quân đội của họ bị thương rồi chết tại đó.
\v 19 Khi hết thảy các vua nào là tôi tớ của Ha-đa-rê-xe thấy rằng họ đã bị Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ lập hòa với Y-sơ-ra-ên rồi lo phục dịch họ. Vậy, dân A-ram sợ lắm không còn giúp đỡ cho dân Am-môn nữa.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đầu mùa xuân, nhằm lúc các vua thường ra giao chiến, Đa-vít sai Giô-áp, các tôi tớ người, và cả quân đội Y-sơ-ra-ên. Họ tiêu diệt quân đội của Am-môn rồi bao vây Ráp-ba. Nhưng Đa-vít ở lại trong thành Jerusalem.
\s5
\v 2 Một chiều kia, Đa-vít trở dậy khỏi giường mình rồi đi dạo trên nóc cung điện mình. Từ đó ông thấy một người nữ đang tắm, và nhìn người nữ ấy rất xinh đẹp.
\v 3 Thế là Đa-vít sai hỏi người nào biết rõ về người nữ đó. Có người nói: "Há không phải là Bát-sê-ba, con gái của Ê-li-am, và nàng chẳng phải là vợ của U-ri người Hê-tít sao?"
\s5
\v 4 Đa-vít sai các sứ giả bắt lấy nàng; nàng vào đấy với ông, và ông ngủ với nàng (vì nàng mới vừa làm sạch sự ô uế mình). Thế rồi nàng trở về nhà mình.
\v 5 Người nữ có thai, và nàng sai người đến báo tin cho Đa-vít biết; nàng nói: "Tôi có thai".
\s5
\v 6 Khi ấy Đa-vít sai đòi Giô-áp: "Hãy đưa U-ri người Hê-tít về đây cho ta". Thế là Giô-áp bảo U-ri về gặp Đa-vít.
\v 7 Khi U-ri về đến, Đa-vít hỏi ông Giô-áp chỉ huy ra sao, quân đội hành quân thế nào, và chiến trận diễn ra làm sao.
\v 8 Đa-vít nói với U-ri: "Hãy đi về nhà ngươi, và rửa chân ngươi đi". Vậy U-ri rời khỏi điện vua, và nhà vua gửi một món quà cho U-ri sau khi người rời đi.
\s5
\v 9 Nhưng U-ri nằm ngủ tại cửa điện vua với các tôi tớ của chủ mình, và ông không về lại nhà mình.
\v 10 Khi họ nói với Đa-vít: "U-ri không về lại nhà mình", Đa-vít nói với U-ri: "Ngươi há không trở về từ một chuyến đi sao? Sao ngươi không về lại nhà mình chứ?"
\v 11 U-ri đáp cùng Đa-vít: "Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đang ở trong lều trại, Giô-áp chủ tôi cùng các tôi tớ của chủ tôi đều đóng trại ở ngoài đồng trống. Làm sao tôi có thể vào trong nhà mình mà ăn uống rồi ngủ với vợ mình chứ? Chắc chắn như vua đang sống đây, tôi sẽ không làm việc nầy".
\s5
\v 12 Vậy, Đa-vít nói với U-ri: "Hãy ở lại đây hôm nay, và ngày mai ta sẽ để cho ngươi đi". Vậy, U-ri ở lại tại thành Jerusalem ngày đó và ngày hôm sau.
\v 13 Khi Đa-vít gọi ông, ông ăn và uống trước mặt người, và Đa-vít chuốc cho người say. Đến chiều U-ri đi ra ngủ trên giường mình với các tôi tớ của chủ mình; ông không về lại nhà mình.
\s5
\v 14 Vì thế, đến sáng Đa-vít viết một lá thư gửi cho Giô-áp, rồi nhờ U-ri mang đi.
\v 15 Đa-vít viết trong thư, nói rằng: "Hãy đặt U-ri ở tuyến đầu của chiến trận, rồi hãy rút lui khỏi người, để người bị đánh chết đi".
\s5
\v 16 Vậy, Giô-áp quan sát việc vây thành, ông phân công U-ri vào địa điểm mà ở đó ông biết binh lính mạnh nhất của kẻ thù sẽ lâm chiến.
\v 17 Khi người của thành kéo ra giao chiến chống lại quân đội của Giô-áp, một số binh lính của Đa-vít ngã chết, và U-ri người Hê-tít cũng bị chết ở đó.
\s5
\v 18 Khi Giô-áp gửi lời đến Đa-vít về mọi sự liên quan đến chiến trường,
\v 19 ông truyền cho sứ giả như sau: "Khi ngươi thuật lại xong mọi việc liên quan đến chiến trận với nhà vua,
\v 20 một khi thấy nhà vua nổi giận, và người sẽ nói với ngươi: 'Sao ngươi lại đến gần thành để giao chiến chứ? Bộ ngươi không biết là họ sẽ bắn tên từ bức tường xuống sao?
\s5
\v 21 Ai đã giết A-bi-mê-léc con trai của Giê-rít-bê-sết? Há chẳng phải là một người nữ đã ném cái cối từ trên tường xuống, để người phải chết tại Tê-bết sao? Sao ngươi dám đến gần bức tường chứ?' Khi ấy người phải đáp như vầy: 'Tôi tớ của ông là U-ri người Hê-tít cũng đã chết nữa'".
\s5
\v 22 Rồi sứ giả rời đi, đến gặp Đa-vít và nói cho ông biết mọi sự mà Giô-áp đã sai ông phải nói.
\v 23 Sứ giả nói với Đa-vít: "Kẻ thù thì mạnh hơn chúng tôi lúc ban đầu; họ kéo ra cùng chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng chúng tôi đẩy lùi họ về ngay cổng vào thành.
\s5
\v 24 Và cung thủ của họ đã bắn vào binh lính của vua từ trên thành xuống, một số tôi tớ vua đã ngã chết, và tôi tớ vua là U-ri người Hê-tít cũng ngã chết nữa".
\v 25 Thế là Đa-vít nói với sứ giả: "Hãy nói với Giô-áp: 'Đừng buồn lòng về việc nầy, vì gươm nuốt người nầy cũng như nuốt người kia. Hãy làm cho chiến trận ngươi được mạnh hơn nữa chống lại thành, rồi lật đổ nó'. Và hãy khích lệ Giô-áp".
\s5
\v 26 Khi vợ U-ri hay được U-ri chồng mình đã chết, nàng than khóc cho chồng mình.
\v 27 Khi buồn rầu đã qua đi, Đa-vít sai bắt lấy nàng từ nhà đưa vào cung điện mình, rồi nàng trở thành vợ người và sanh cho người một con trai. Nhưng việc Đa-vít đã làm không đẹp lòng Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Khi ấy Đức Giê-hô-va sai Na-than đến gặp Đa-vít. Ông đến gặp vua rồi nói: "Trong thành kia có hai người. Một người thì giàu và người kia thì nghèo.
\v 2 Người giàu có chiên bò rất nhiều,
\v 3 còn người nghèo chẳng có gì trừ ra một con chiên cái nhỏ mà người đã mua, người nuôi dưỡng nó. Nó lớn lên cùng với người và với con cái người. Chiên ấy thậm chí đã ăn với người và uống từ chính cái chén của người, rồi nó ngủ trong hai cánh tay người và sống giống như đứa con gái đối với người vậy.
\s5
\v 4 Một ngày kia, nhà người giàu có khách, nhưng người giàu đó không bằng lòng bắt con thú nào từ các bầy của mình để đãi khách cả. Thay vì thế, ông ta bắt con chiên cái của người nghèo rồi nấu thịt nó đãi khách của mình".
\v 5 Đa-vít nổi nóng nghịch lại người giàu kia, và ông thịnh nộ với Na-than: "Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, người nào đã làm điều nầy đáng phải tử hình.
\v 6 Người phải đền bù con chiên bằng bốn lần hơn vì người đã làm một việc như vậy, và vì người chẳng có lòng thương xót đối với kẻ nghèo".
\s5
\v 7 Lúc ấy Na-than nói với Đa-vít: "Vua là người đó! Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: 'Ta đã xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên, và ta đã giải cứu ngươi ra khỏi tay của Sau-lơ.
\v 8 Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, và vợ của chủ ngươi vào trong tay ngươi. Ta cũng ban cho ngươi nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Và nếu điều đó là quá ít, ta sẽ ban cho ngươi nhiều thứ khác thêm nữa.
\s5
\v 9 Vậy tại sao ngươi khinh dể mạng lịnh của Đức Giê-hô-va, lại làm điều ác trước mắt ta chứ? Ngươi đã giết U-ri người Hê-tít với gươm và đã lấy vợ người làm vợ ngươi. Người đã giết người với gươm của quân Am-môn.
\v 10 Vậy, giờ đây, gươm sẽ không hề lìa khỏi nhà ngươi, vì ngươi đã khinh dể ta và đã lấy vợ của U-ri người Hê-tít làm vợ ngươi'
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán: 'Nầy, ta sẽ dấy tai họa lên nghịch cùng ngươi từ chính nhà của ngươi. Trước chính mắt của ngươi, ta sẽ bắt lấy vợ ngươi rồi ban chúng cho kẻ lân cận ngươi, và nó sẽ ngủ với vợ của ngươi công khai giữa ban ngày.
\v 12 Vì người phạm tội cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy ra trước mặt hết thảy Y-sơ-ra-ên, nơi ban ngày'".
\v 13 Khi ấy Đa-vít nói với Na-than: "Ta đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va". Na-than đáp cùng Đa-vít: "Đức Giê-hô-va cũng đã tha tội cho vua. Vua sẽ chẳng chết đâu.
\s5
\v 14 Tuy nhiên, vì hành động nầy vua đã xem khinh Đức Giê-hô-va, đứa trẻ sanh ra cho vua chắc chắn sẽ chết".
\v 15 Khi ấy Na-than rời đi rồi trở về nhà. Đức Giê-hô-va khiến đứa trẻ mà vợ của U-ri đã sanh cho Đa-vít, và nó bị bịnh nặng lắm.
\s5
\v 16 Đa-vít vì đứa trẻ cầu khẩn Đức Chúa Trời. Đa-vít đã kiêng ăn, vào bên trong rồi nằm suốt đêm trên sàn nhà.
\v 17 Các trưởng lão của nhà người chỗi dậy, họ đến đứng bên cạnh người, đỡ người dậy khỏi sàn nhà, song người không chịu đứng dậy, và người sẽ không ăn với họ.
\v 18 Đến ngày thứ bảy thì đứa trẻ chết. Các tôi tớ của Đa-vít rất sợ không dám nói cho người biết rằng đứa trẻ đã chết, vì họ nói: "Kìa, trong khi đứa trẻ hãy còn sống chúng ta nói cho người biết, thì người chẳng chịu nghe chúng ta. Người sẽ làm chi với bản thân người nếu chúng ta nói cho người biết đứa trẻ đã chết chứ?!"
\s5
\v 19 Nhưng khi Đa-vít thấy các tôi tớ mình đang thì thầm với nhau, Đa-vít đoán rằng đứa trẻ đã chết. Người nói với các tôi tớ mình: "Có phải đứa trẻ đã chết không?" Họ đáp: "Nó đã chết".
\v 20 Thế rồi Đa-vít chỗi dậy khỏi sàn nhà rồi đi tắm rửa, tự xức dầu, rồi thay đổi y phục. Ông đi đến đền tạm của Đức Giê-hô-va và thờ lạy ở đó, rồi ông trở lại với chính cung điện mình. Khi ông hỏi thăm về nó, họ đặt thức ăn trước mặt ông, và ông đã ăn.
\s5
\v 21 Khi ấy các tôi tớ người nói với người: "Tại sao vua làm như vậy chứ? Vua kiêng ăn rồi khóc lóc vì đứa trẻ khi nó còn sống, song khi đứa trẻ chết đi, vua chỗi dậy và ăn".
\v 22 Đa-vít đáp: "Trong khi đứa trẻ còn sống, ta đã kiêng ăn và khóc lóc. Ta nói: 'Ai biết được Đức Giê-hô-va sẽ làm ơn cho ta hay không, để cho đứa trẻ sống?'
\v 23 Song giờ đây nó đã chết, thì tại sao ta phải kiêng ăn? Ta có thể đem nó trở lại được chăng? Ta sẽ đi đến cùng nó, song nó không trở lại cùng ta".
\s5
\v 24 Đa-vít đã yên ủi Bát-sê-ba vợ mình, đến cùng nàng, ngủ với nàng. Rồi nàng sanh một con trai, và đứa trẻ được đặt tên là Sa-lô-môn. Đức Giê-hô-va yêu mến người,
\v 25 vậy người gửi lời qua tiên tri Na-than đặt tên cho nó là Giê-đi-đia, vì Đức Giê-hô-va yêu mến nó.
\s5
\v 26 Bấy giờ, Giô-áp giao chiến chống lại Ráp-ba, thành phố vương giả của dân Am-môn, và ông chiếm lấy các đồn lũy của nó.
\v 27 Giô-áp sai các sứ giả đến với Đa-vít thưa rằng: "Tôi đã giao chiến chống lại Ráp-ba, và tôi đã chiếm lấy nguồn cấp nước của thành.
\v 28 Bây giờ hãy tụ tập đội quân còn lại rồi đóng trại nghịch cùng thành và hãy chiếm lấy nó, vì nếu ta lấy thành, thành ấy sẽ được đặt tên theo tên ta".
\s5
\v 29 Thế là Đa-vít nhóm quân đội lại với nhau rồi đi đến Ráp-ba; ông giao chiến chống lại thành rồi chiếm lấy nó.
\v 30 Đa-vít lấy mão của Mo-lóc ra khỏi đầu nó — mão ấy cân nặng một ta-lâng vàng, có một hòn đá quí trên mão ấy. Cái mão được đội trên đầu của Đa-vít. Khi ấy ông đem nhiều chiến lợi phẩm của thành phố với nhiều số lượng mà đem đi.
\s5
\v 31 Ông đem dân sự của thành ấy ra rồi buộc họ phải lao động với cưa, rìu sắt, búa; ông cũng bắt họ lao động trong các lò gạch. Đa-vít cũng buộc các thành của dân Am-môn phải làm công việc nầy. Khi ấy Đa-vít cùng cả thảy quân đội trở về thành Jerusalem.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Sau việc nầy, Am-nôn con trai của Đa-vít, bị hấp dẫn nơi em gái Ta-ma xinh đẹp, Ta-ma là em gái ruột của Áp-sa-lôm, cũng là con trai của Đa-vít.
\v 2 Am-nôn mê mệt đến nỗi người thành bịnh vì cớ Ta-ma, em gái mình. Nàng còn đồng trinh, và dường như khó cho Am-nôn làm một việc gì với nàng.
\s5
\v 3 Nhưng Am-nôn có một người bạn tên là Giô-na-đáp con trai của Si-mê-a, là anh của Đa-vít. Giô-na-đáp là một người rất quỉ quyệt.
\v 4 Giô-na-đáp nói với Am-nôn: "Sao vậy, hỡi con trai của nhà vua, có phải em ngã lòng mỗi sáng không? Em không nói cho anh biết sao?" Thế là Am-nôn đáp cùng người: "Em yêu Ta-ma, là em gái của anh Áp-sa-lôm kia".
\s5
\v 5 Khi ấy Giô-na-đáp nói với người: "Hãy nằm xuống giường đi và giả đò ốm. Khi cha em đến thăm, hãy xin ông ấy: 'Cha hãy làm ơn sai Ta-ma em con đến làm cho con món gì đó nấu trước mặt con để ăn, hầu cho con có thể xem thấy rồi ăn món đó từ tay nó không?' "
\v 6 Vậy Am-nôn nằm xuống giả đò mình bị ốm. Khi nhà vua đến thăm, Am-nôn nói với vua như vầy: "Làm ơn sai em con là Ta-ma đến làm món gì đó cho chứng bịnh của con trước mặt con hầu cho con ăn từ tay của em con".
\s5
\v 7 Thế là Đa-vít gửi lời đến Ta-ma tại cung điện người như sau: "Bây giờ hãy đến với nhà của Am-nôn, anh con và sửa soạn thức ăn cho nó".
\v 8 Vậy Ta-ma đi đến nhà của Am-nôn, anh mình đang nằm ốm ở đó. Nàng lấy bột, nhồi đi và làm thành bánh rồi đem hấp trước mặt người.
\v 9 Nàng lấy chảo xuống rồi đem bánh đến cho người, song người từ chối không chịu ăn. Khi ấy Am-nôn nói với những người khác có mặt ở đó: "Hãy lui ra hết khỏi ta". Mọi người đều lui ra khỏi người.
\s5
\v 10 Am-nôn nói với Ta-ma: "Hãy đem bánh vào phòng để ta ăn từ tay em". Ta-ma lấy bánh mà nàng đã làm, rồi đem vào phòng của Am-nôn anh mình.
\v 11 Khi nàng đem bánh đến cùng người, người nắm lấy tay nàng rồi nói: "Hãy đến, ngủ với ta đi em gái".
\v 12 Nàng đáp cùng người: "Không, anh ơi, đừng bắt buộc em, vì không nên làm việc nầy trong Y-sơ-ra-ên. Đừng phạm vào việc xấu xa nầy!
\s5
\v 13 Em sẽ đi đâu để thoát khỏi nỗi xấu hổ mà việc nầy sẽ gán trên đời sống của em? Và việc làm nầy sẽ đánh dấu anh là một kẻ ngu dại không biết xấu hổ khắp cả Y-sơ-ra-ên. Làm ơn đi, em xin anh hãy thưa với nhà vua. Ông ấy sẽ cho phép anh cưới em mà".
\v 14 Tuy nhiên Am-nôn không chịu nghe theo nàng. Một khi người mạnh hơn Ta-ma, người chiếm lấy nàng và người ngủ với nàng.
\s5
\v 15 Khi ấy Am-nôn thù ghét Ta-ma với sự thù ghét cực kỳ. Người ghét nàng còn hơn cả lúc người muốn nàng nữa là. Am-nôn nói với nàng: "Hãy dậy rồi đi đi".
\v 16 Nhưng nàng đáp cùng người: "Không! Vì cớ việc tội trọng khiến cho tôi rời đi còn tệ hại hơn những gì anh đã làm cho tôi!" Nhưng Am-nôn không nghe nàng.
\v 17 Thay vì thế, người gọi tôi tớ riêng đến rồi nói: "Hãy đưa đàn bà nầy ra khỏi đây, rồi khóa cửa lại".
\s5
\v 18 Tôi tớ người đưa nàng ra khỏi đó rồi khóa cửa lại sau lưng nàng. Ta-ma mặc cái áo dài trong, vì con gái nào của nhà vua còn đồng trinh thì ăn mặc theo cách ấy.
\v 19 Ta-ma lấy bụi phủ lên đầu mình rồi xé cái áo dài đó. Nàng đặt hai tay lên đầu rồi bỏ đi, vừa đi vừa khóc.
\s5
\v 20 Áp-sa-lôm anh nàng nói với nàng: "Có phải Am-nôn, anh của em đã ở với em không? Nhưng bây giờ cứ giữ im lặng, hỡi em gái ta. Hắn là anh của em. Đừng để việc nầy vào lòng". Thế là Ta-ma cứ ở riêng một mình trong nhà của Áp-sa-lôm, anh mình.
\v 21 Nhưng khi Vua Đa-vít hay được mọi việc nầy, ông rất giận dữ.
\v 22 Áp-sa-lôm chẳng nói gì với Am-nôn, vì Áp-sa-lôm ghét người vì những gì người đã làm cho nàng và thể nào người đã sỉ nhục Ta-ma, em gái mình.
\s5
\v 23 Khoảng hai năm sau đó, Áp-sa-lôm đang hớt lông chiên mình tại Ba-anh Hát-so, ở gần Ép-ra-im, và Áp-sa-lôm đã mời hết thảy các con trai vua đến tham quan ở đó.
\v 24 Áp-sa-lôm đến gặp nhà vua rồi nói: "Hãy xem, tôi tớ vua phải hớt lông chiên. Làm ơn, nguyện vua cùng các tôi tớ người đến với con, là tôi tớ của vua".
\s5
\v 25 Nhà vua đáp với Áp-sa-lôm: "Không, hỡi con, tất cả chúng ta sẽ không đi vì chúng ta sẽ là một gánh nặng cho con". Áp-sa-lôm nài nỉ nhà vua, nhưng ông không chịu đi, tuy nhiên ông đã chúc phước cho Áp-sa-lôm.
\v 26 Áp-sa-lôm nói: "Nếu không, làm ơn sai Am-nôn, anh con, đến với chúng con". Nhà vua nói với người: "Cớ sao Am-nôn phải đến với con?"
\s5
\v 27 Áp-sa-lôm ép Đa-vít, và thế là người để cho Am-nôn cùng hết thảy các con trai của vua đến với người.
\v 28 Áp-sa-lôm truyền cho các tôi tớ mình như sau: "Hãy nghe cho kỹ. Khi Am-nôn bắt đầu say rượu, và khi ta nói với các ngươi: 'Hãy tấn công Am-nôn', khi ấy hãy giết hắn đi. Đừng sợ. Há ta không có truyền cho các ngươi sao? Phải dạn dĩ và dũng cảm lên".
\v 29 Vậy các tôi tớ của Áp-sa-lôm đã làm với Am-nôn y như người đã căn dặn họ. Khi ấy, hết thảy các con trai của nhà vua đều chỗi dậy, rồi ai nấy leo lên lừa của mình mà trốn đi.
\s5
\v 30 Trong khi họ còn đương đi đường, các tin tức đã đến với Đa-vít như sau: "Áp-sa-lôm đã giết hết các con trai vua, và chẳng có ai trong số họ thoát khỏi".
\v 31 Nhà vua bèn chỗi dậy, xé quần áo mình, rồi nằm trên sàn nhà; tất cả tôi tớ người đứng gần với quần áo của họ đã bị xé rách.
\s5
\v 32 Giô-na-đáp con trai của Si-mê-a, anh của Đa-vít, thưa rằng: "Xin chúa đừng tin các con trai của vua đã bị giết hết, vì chỉ có Am-nôn chết mà thôi. Áp-sa-lôm đã hoạch định điều nầy từ ngày mà Am-nôn đã xúc phạm em gái người là Ta-ma.
\v 33 Vì lẽ đó, xin chúa tôi đừng để việc nầy vào lòng, cũng đừng tin rằng các con trai vua đã chết, vì chỉ có Am-nôn chết mà thôi".
\s5
\v 34 Áp-sa-lôm đã bỏ trốn mất. Một tôi tớ đứng canh nhướng mắt lên thì thấy có nhiều người đến trên đường, theo hướng tây đi về phía núi.
\v 35 Khi ấy Giô-na-đáp thưa cùng nhà vua: "Hãy xem, các con trai của vua đang về đến. Y như tôi tớ của vua đã nói".
\v 36 Khi hắn nói xong, các con trai của nhà vua về đến rồi cất giọng họ lên mà khóc. Và nhà vua cùng các tôi tớ người cũng khóc lóc cách cay đắng.
\s5
\v 37 Còn Áp-sa-lôm thì bỏ trốn, đến Thanh-mai con trai của A-mi-hút, vua của Ghê-su-rơ. Đa-vít than khóc con trai mình mỗi ngày.
\v 38 Áp-sa-lôm bỏ trốn đến tại Ghê-su-rơ, người ở đó đến ba năm.
\v 39 Tâm thần của Vua Đa-vít mong mỏi nhìn thấy Áp-sa-lôm, vì vua đã được yên ủi về việc Am-nôn và cái chết của người.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Bấy giờ Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia đoán rằng tấm lòng của nhà vua mong mỏi muốn gặp Áp-sa-lôm.
\v 2 Vì vậy Giô-áp gửi lời đến Thê-cô-a rồi tìm một người nữ khôn khéo đưa đến gặp ông ta. Ông ta nói với bà nầy: "Làm ơn giả vờ bà là một kẻ hay than khóc rồi mặc lấy thứ y phục bèo nhèo kia. Làm ơn đừng xức dầu, nhưng phải giả đò giống như kẻ than khóc lâu dài về người chết.
\v 3 Khi ấy hãy đến gặp nhà vua rồi nói với người về những gì ta đã mô tả". Như vậy, Giô-áp dặn dò bà ta lời lẽ mà bà ta cần phải nói với nhà vua.
\s5
\v 4 Khi người đàn bà từ Thê-cô-a đến nói với nhà vua, bà ta nằm sấp mặt xuống đất mà nói: "Hỡi vua, xin giúp đỡ cho".
\v 5 Nhà vua nói với bà ta: "Có việc gì sai trật sao?" Bà ta đáp: "Kỳ thực, tôi là một người góa bụa, và chồng tôi đã quá cố.
\v 6 Tôi, là tôi tớ của vua, có hai con trai, và chúng đánh ngau ở ngoài đồng, và chẳng có người nào can gián. Đứa nầy đánh đứa kia rồi giết nó.
\s5
\v 7 Và giờ đây, cả dòng họ dấy lên nghịch cùng tôi tớ người, họ nói: 'Hãy giao đứa đã đánh chết đứa kia ra đây, hầu cho chúng ta tử hình nó, để trả lại mạng sống cho kẻ mà nó đã giết'. Thế là họ cũng sẽ giết kẻ kế nghiệp đi. Như vậy, họ sẽ rút lấy viên than còn đang cháy mà tôi còn lại, và họ sẽ chẳng để cho chồng tôi một danh hay dòng dõi nào còn lại ở trên mặt đất".
\s5
\v 8 Thế là nhà vua nói với người đàn bà kia: "Hãy về nhà ngươi, và ta sẽ truyền một việc phải làm cho ngươi".
\v 9 Người đàn bà ở Thê-cô-a đáp cùng nhà vua: "Lạy vua, là chúa của tôi, nguyện tội lỗi cứ giáng trên tôi và trên gia đình của cha tôi. Nhà vua và ngai vàng của Ngài là vô tội".
\s5
\v 10 Nhà vua đáp: "Hễ ai nói bất cứ điều gì với ngươi, hãy đưa hắn đến gặp ta, thì hắn sẽ không dám đụng đến ngươi nữa"
\v 11 Khi ấy bà ta nói: "Làm ơn, nguyện vua nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua, hầu cho kẻ báo thù huyết sẽ không hủy diệt ai thêm nữa, hầu cho họ sẽ không tìm diệt con trai tôi". Nhà vua đáp: "Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, không một sợi tóc nào của con trai ngươi sẽ rơi xuống đất".
\s5
\v 12 Khi ấy người đán bà nói: "Làm ơn để cho tôi tớ vua nói thêm một lời với nhà vua chúa của tôi". Ông nói: "hãy nói đi".
\v 13 Thế là người đàn bà nói: "Tại sao vua xét đoán một việc như thế nghịch lại dân sự của Đức Chúa Trời? Vì trong việc nói ra sự việc nầy, vua giống như kẻ đã phạm tội vậy, vì nhà vua không đem đứa con bị trục xuất kia về nhà.
\v 14 Vì hết thảy chúng ta đều phải chết và sống giống như nước đổ ra trên đất, không thể hốt lại được. Nhưng Đức Chúa Trời không cất sự sống đi; thay vì thế, Ngài tìm một cách để đem về lại kẻ mà Ngài đã đẩy đi khỏi Ngài.
\s5
\v 15 Vậy bây giờ, khi thấy tôi đến tỏ điều nầy cho nhà vua chúa của tôi, sở dĩ như thế là vì dân sự làm cho tôi phải kinh sợ. Vì tôi tớ của vua tự nhủ rằng: 'Bây giờ ta sẽ nói với nhà vua. Có thể nhà vua sẽ thực hiện điều tôi tớ Ngài thỉnh cầu.
\v 16 Vì nhà vua sẽ lắng nghe ta, cất bỏ tay của kẻ muốn tiêu diệt ta cùng với con trai ta khỏi sản nghiệp của Đức Chúa Trời'.
\v 17 Tôi tớ của vua đã cầu nguyện: 'Lạy Chúa Giê-hô-va, làm ơn khiến cho lời lẽ của vua chúa tôi ban cho tôi được khuây khỏa, vì giống như một thiên sứ của Đức Chúa Trời, nhà vua là chúa của tôi thốt ra điều lành từ việc dữ'. Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua ở cùng vua".
\s5
\v 18 Khi ấy nhà vua đáp lời cùng người đàn bà: "Làm ơn đừng giấu chi khỏi ta một việc mà ta sẽ hỏi ngươi". Người đàn bà đáp: "Nguyện vua là chúa của tôi hãy nói".
\v 19 Nhà vua nói: "Trong mọi sự nầy, có phải tay của Giô-áp ở với ngươi, có phải không?" Người đàn bà đáp như sau: "Như vua hằng sống, là vua chúa tôi, chẳng có ai thoát khỏi về bên phải hay bên trái điều mà vua chúa tôi mới nói. Chính Giô-áp tôi tớ của vua đã dặn dò tôi phải nói mọi điều nầy mà tôi tớ vua đã nói ra.
\v 20 Giô-áp tôi tớ vua đã làm việc nầy hầu thay đổi cách thức mọi việc đã xảy ra. Chúa tôi thật là khôn ngoan, giống như sự khôn ngoan của một thiên sứ của Đức Chúa Trời, và Ngài biết hết mọi sự đang xảy ra ở trong xứ".
\s5
\v 21 Thế là nhà vua nói với Giô-áp: "Hãy xem, bây giờ ta sẽ làm việc nầy. Vậy, hãy đi, đem gã trai trẻ Áp-sa-lôm trở về".
\v 22 Vậy Giô-áp nằm sấp mặt xuống đất tôn kính và biết ơn đối với nhà vua. Giô-áp nói: "Ngày nay, tôi tớ vua biết được rằng tôi được ơn trước mặt vua, là vua chúa của tôi, trong ơn ấy nhà vua đã thực hiện lời thỉnh cầu của tôi tớ của vua".
\s5
\v 23 Giô-áp chỗi dậy, đi đến Ghê-su-rơ, và đem Áp-sa-lôm về lại thành Jerusalem.
\v 24 Nhà vua nói: "Nó có thể về lại nhà riêng nó, nhưng nó sẽ không được gặp mặt ta". Vậy Áp-sa-lôm trở về nhà riêng mình, nhưng không thấy được mặt của nhà vua.
\s5
\v 25 Bấy giờ, trong cả Y-sơ-ra-ên chẳng có một người nào được khen là đẹp trai hơn Áp-sa-lôm. Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu người, chẳng có tì vít nơi người.
\v 26 Khi người cắt tóc trên đầu mình lúc cuối năm, vì tóc nặng nề quá cho người, người đem cân tóc mình; nó nặng khoảng 200 siếc-lơ, theo tiêu chuẩn cân của nhà vua.
\v 27 Áp-sa-lôm có ba con trai và một con gái, tên của nó là Ta-ma. Nàng là một người nữ rất xinh đẹp.
\s5
\v 28 Áp-sa-lôm đã sống hai năm trọn tại thành Jerusalem, không gặp mặt nhà vua.
\v 29 Khi ấy Áp-sa-lôm gửi lời đến Giô-áp sai ông đến cùng vua, nhưng Giô-áp không đến gặp người. Thế là Áp-sa-lôm gửi lời lần thứ hai, nhưng Giô-áp vẫn không đến.
\s5
\v 30 Vậy Áp-sa-lôm sai các tôi tớ mình: "Hãy xem, đồng ruộng của Giô-áp ở gần đồng ruộng của ta, và hắn ít khi ra đó. Hãy đi châm lửa vào ruộng hắn". Thế là tôi tớ của Áp-sa-lôm châm lửa đốt ruộng ấy.
\v 31 Khi ấy Giô-áp chỗi dậy đến với Áp-sa-lôm tại nhà người, rồi nói như sau: "Cớ sao các tôi tớ ông đốt ruộng tôi chứ?"
\s5
\v 32 Áp-sa-lôm trả lời với Giô-áp: "Hãy xem đi, tôi gửi lời cho ông: 'Hãy đến đây để tôi gửi lời ông đem đến nhà vua như sau: "Cớ sao con từ Ghê-su-rơ trở về? Thà là con cứ ở tại đó. Giờ đây, cho phép con được gặp mặt vua, và nếu con có phạm tội, thì vua hãy giết con đi"'.
\v 33 Giô-áp đến gặp nhà vua rồi thưa với người. Khi nhà vua cho đòi Áp-sa-lôm, ông đến gặp nhà vua rồi sấp mình xuống đất trước mặt nhà vua, và nhà vua hôn Áp-sa-lôm.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Sau việc nầy, Áp-sa-lôm sửa soạn xe ngựa cho mình, với năm mươi người chạy ở trước mặt.
\v 2 Áp-sa-lôm dậy sớm rồi đứng cạnh con đường dẫn tới cổng thành. Khi bất cứ ai có tranh chấp đến với nhà vua để nghe xét xử, khi ấy Áp-sa-lôm gọi người ấy, rồi nói: "Anh em đến từ thành nào?" Và người ấy đáp: "Tôi tớ ông xuất thân từ một trong các chi phái của Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 3 Vậy Áp-sa-lôm sẽ nói với người ấy: "Hãy xem, trường hợp của người là đúng và tốt đấy, nhưng chẳng ai được mặc lấy uy quyền của nhà vua để lắng nghe trường hợp của ngươi đâu".
\v 4 Áp-sa-lôm nói thêm: "Ta ước rằng ta sẽ được lập làm quan án trong xứ, hầu cho từng người có tranh chấp hay duyên cớ gì sẽ đến cùng ta, thì ta sẽ xử công bình cho người ấy!"
\s5
\v 5 Chính vì thế khi bất kỳ ai đến với Áp-sa-lôm đều tôn kính người, Áp-sa-lôm sẽ giơ tay ra đỡ lấy người ấy rồi hôn người.
\v 6 Áp-sa-lôm đã hành động như vậy với hết thảy người Y-sơ-ra-ên nào đến với nhà vua để chịu xét xử. Thế là Áp-sa-lôm chiếm lấy lòng người dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 7 Đến cuối bốn năm, Áp-sa-lôm thưa với nhà vua: "Làm ơn cho con đi trả một lời thề đã lập với Đức Giê-hô-va tại Hếp-rôn.
\v 8 Vì tôi tớ vua đã lập một lời thề trong khi con còn ở tại Ghê-su-rơ trong xứ A-ram như sau: 'Nếu Đức Giê-hô-va quả thực đem con về lại Jerusalem, khi ấy con sẽ thờ lạy Đức Giê-hô-va '".
\s5
\v 9 Nhà vua nói cùng người như vầy: "Hãy đi bình an". Thế là Áp-sa-lôm chỗi dậy đi đến Hếp-rôn.
\v 10 Nhưng Áp-sa-lôm sai các thám tử đi khắp các chi phái Y-sơ-ra-ên mà nói: "Ngay khi anh em nghe thấy tiếng kèn, lúc đó anh em hãy nói: 'Áp-sa-lôm là vua trong Hếp-rôn'".
\s5
\v 11 Đi với Áp-sa-lôm, là hai trăm người được mời từ thành Jerusalem. Họ đi vô tư, không biết mọi điều mà Áp-sa-lôm đã toan tính.
\v 12 Trong khi Áp-sa-lôm dâng của lễ, người sai tìm A-hi-tô-phe từ thị trấn quê hương của người ở Ghi-lô. Người là mưu sĩ của Đa-vít. Sự phản nghịch của Áp-sa-lôm ngày càng mạnh lên, vì dân sự chạy theo Áp-sa-lôm thường tăng lên.
\s5
\v 13 Một sứ giả đã đến nói với Đa-vít: "Tấm lòng của dân sự Y-sơ-ra-ên đang hướng theo Áp-sa-lôm".
\v 14 Vậy Đa-vít nói với các tôi tớ ông, những người ở với ông tại thành Jerusalem: "Hãy chỗi dậy và chúng ta hãy trốn đi, hay không ai trong chúng ta sẽ thoát khỏi Áp-sa-lôm đâu. Hãy sửa soạn rời đi ngay mau, hoặc nó sẽ mau đến bắt lấy chúng ta, và nó sẽ giáng tai vạ trên chúng ta và tấn công thành phố với lưỡi gươm".
\v 15 Các tôi tớ của vua thưa cùng nhà vua như sau: "Hãy xem kìa, các tôi tớ của vua đã sẵn sàng làm bất cứ điều chi vua chúa của chúng tôi đã quyết".
\s5
\v 16 Nhà vua rời đi cùng hết thảy các gia đình theo người, nhưng nhà vua để lại mười người nữ, họ đều là cung phi, để giữ cung điện.
\v 17 Sau khi nhà vua rời đi và hết thảy dân sự đều theo người, họ dừng lại ở ngôi nhà ở cuối thành.
\v 18 Tất cả quân đội của vua đều đi với người, và đi trước mặt người là dân Kê-rê-thít, cùng hết thày dân Phê-lê-thít, và hết thảy dân Ghi-tít — sáu trăm người đã đi theo người từ xứ Gát.
\s5
\v 19 Khi ấy nhà vua nói với Y-tai người Ghi-tít: "Sao ông cũng đi với chúng tôi vậy? Hãy trở về rồi ở với Vua Áp-sa-lôm, vì ông là một người Ngoại và là kẻ bị đày. Hãy trở về với chính chỗ của ông.
\v 20 Một khi ông mới đến hôm qua, tại sao ta khiến cho ông phải sống lang thang khắp nơi với chúng ta? Thậm chí ta còn không biết mình sẽ làm gì nữa đây! Vì vậy, hãy trở về, rồi đem dân xứ mình trở lại đi. Nguyện sự trung thành và sự thành tín đi với ngươi".
\s5
\v 21 Nhưng Y-tai đáp lời vua như sau: "Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, và như vua chúa tôi còn sống đây, chắc chắn vua chúa tôi đi tới đâu chăng nữa, tôi tớ vua cũng sẽ đi tới đó, dù là sống hay chết".
\v 22 Thế là Đa-vít nói với Y-tai: "Hãy đi trước và tiếp tục với chúng tôi". Y-tai người Ghi-tít cùng đi với nhà vua, cùng với hết thảy người của ông và các gia đình đã ở với ông.
\v 23 Cả xứ bật khóc lớn tiếng khi mọi người băng qua trũng Kít-rôn, và chính nhà vua cũng băng qua đó. Hết thảy dân sự đi trên con đường thẳng ra đồng vắng.
\s5
\v 24 Ngay cả Xa-đốc với hết thảy người Lê-vi, khiêng hòm giao ước của Đức Chúa Trời, đều có mặt. Họ đặt hòm của Đức Chúa Trời xuống, và khi ấy A-bia-tha hiệp cùng họ. Họ chờ đợi cho đến khi hết thảy dân sự đã ra hết khỏi thành phố.
\v 25 Nhà vua nói tới Xa-đốc: "Hãy khiêng hòm của Đức Chúa Trời trở vào trong thành. Nếu tôi được ơn trước mắt của Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ đem tôi trở lại đây và cho tôi thấy lại hòm giao ước và chỗ mà Ngài ngự ở đó.
\v 26 Còn nếu Ngài phán: 'Ta không ưa ngươi nữa kìa, ta đây, nguyện Ngài xử ta theo ý tốt của Ngài".
\s5
\v 27 Nhà vua cũng nói với thầy tế lễ Xa-đốc: "Há ngươi chẳng phải là đấng tiên kiến sao? Hãy bình an trở lại trong thành, hai con trai ngươi với ngươi, A-hi-mát con trai ngươi, và Giô-na-than con trai của A-bia-tha.
\v 28 Hãy xem, ta sẽ chờ ở ngoài xứ A-ra-ba cho đến chừng có lời đến từ ngươi thông tin cho ta".
\v 29 Vậy Xa-đốc và A-bia-tha khiêng hòm của Đức Chúa Trời trở vào thành Jerusalem, và họ cứ ở đó.
\s5
\v 30 Nhưng Đa-vít chân không đi lên, khóc lóc trên Núi Ô-li-ve, và ông trùm đầu mình lại. Từng người trong dân sự ở với vua đều trùm đầu lại, và họ vừa đi lên vừa khóc.
\v 31 Có người đến với Đa-vít như sau: "A-hi-tô-phe có mặt giữa vòng các mưu sĩ với Áp-sa-lôm". Đa-vít cầu nguyện: "Lạy Chúa Giê-hô-va, làm ơn đổi mưu luận của A-hi-tô-phe ra dại dột".
\s5
\v 32 Thế rồi, khi Đa-vít đến tận đầu đường, người ta thường thờ lạy Đức Chúa Trời ở đó, Hu-sai người Ạt-kít đến gặp vua với chiếc áo choàng rách tươm và đất phủ đầy đầu.
\v 33 Đa-vít nói với người: "Nếu ngươi đi với ta, thế thì ngươi sẽ trở thành một gánh nặng cho ta.
\v 34 Nhưng nếu ngươi trở lại thành rồi nói với Áp-sa-lôm: 'Tôi sẽ là tôi tớ vua, hỡi vua, giống như tôi là tôi tớ của cha vua trong quá khứ, cũng một thể ấy giờ đây tôi sẽ là tôi tớ của vua', khi ấy ngươi sẽ làm cho lời mưu sĩ của A-hi-tô-phe ra hư cho ta.
\s5
\v 35 Ngươi là bộ ba với hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha, có phải không? Vậy, bất cứ điều gì ngươi nghe từ cung điện của nhà vua, ngươi phải thuật điều đó với hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha.
\v 36 Phải thấy rằng họ có ở đó với hai con trai của họ, A-hi-mát con trai của Xa-đốc, và Giô-na-than con trai của A-bia-tha. Ngươi phải nhờ tay chúng mà gửi cho ta biết mọi sự mà ngươi nghe thấy".
\v 37 Vậy Hu-sai, bạn hữu của Đa-vít đã đến trong thành khi Áp-sa-lôm vào đến Jerusalem.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Khi Đa-vít đã đi một khoảng ngắn qua chót núi, Xíp-ba tôi tớ của Mê-phi-bô-sết gặp vua với hai con lừa; trên lưng chúng là hai trăm ổ bánh, một trăm bánh trái nho, và một trăm bánh trái vả, và một bầu rượu.
\v 2 Nhà vua nói với Xíp-ba: "Tại sao ngươi đem đến các thứ nầy?" Xíp-ba đáp: "Hai con lừa thì dành cho người nhà vua cưỡi, bánh, bánh trái vả thì dành cho người của vua ăn, còn rượu thì dành cho bất kỳ ai mệt nhọc trong đồng vắng uống".
\s5
\v 3 Nhà vua nói: "Còn cháu nội của chủ ngươi đâu?" Xíp-ba đáp cùng nhà vua: "Hãy xem, người ở lại đàng sau trong thành Jerusalem, vì người nói: 'Ngày nay nhà Y-sơ-ra-ên sẽ phục hồi vương quốc của cha ta lại cho ta'".
\v 4 Nhà vua nói với Xíp-ba: "Thế à, mọi sự thuộc về Mê-phi-bô-sết bây giờ thuộc về ngươi". Xíp-ba thưa: "Tôi sấp mình xuống trong sự hạ mình trước mặt vua, chúa của tôi. Cho phép tôi được ơn trước mặt vua".
\s5
\v 5 Khi Vua Đa-vít đến gần Ba-hu-rim, có một người từ đó ra, thuộc về họ hàng của Sau-lơ, tên của người là Si-mê-i con trai của Ghê-ra. Ông ta ra vừa đi đó vừa rủa sả.
\v 6 Ông ta ném đá vào Đa-vít và hết thảy quan chức của vua, bất chấp quân đội hay lính bảo vệ ở bên phải hay bên trái của nhà vua.
\s5
\v 7 Si-mê-i rủa sả như sau: "Cút đi, hãy cút ra khỏi đây, ngươi, kẻ gian tà, người huyết!
\v 8 Đức Giê-hô-va đã báo trả mọi sự của ngươi vì huyết của gia đình Sau-lơ, ngươi đã trị vì trên chỗ của người. Đức Giê-hô-va đã ban nước vào trong tay của Áp-sa-lôm con của ngươi. Và giờ đây ngươi bị hủy hoại vì ngươi là người của huyết".
\s5
\v 9 Lúc ấy A-bi-sai con trai Xê-ru-gia, nói với nhà vua: "Tại sao con chó chết nầy dám rủa nhà vua chúa của tôi? Hãy để cho tôi qua đó mà lấy đầu của hắn".
\v 10 Song nhà vua nói: "Hỡi con trai của Xê-ru-gia, ta có bảo ngươi đâu? Có lẽ hắn đang rủa ta vì Đức Giê-hô-va đã sai hắn: 'Hãy rủa sả Đa-vít đi! Thế thì ai sẽ nói với hắn: 'Sao ngươi dám rủa nhà vua chứ?'"
\s5
\v 11 Đa-vít nói với A-bi-sai và với các tôi tớ người: "Hãy xem, con trai ta, là kẻ từ thân ta mà ra, còn muốn lấy mạng ta. Huống hồ gì gã Bên-gia-min nầy muốn hạ nhục ta? Hãy để hắn yên và cứ để hắn rủa, vì Đức Giê-hô-va đã truyền cho hắn phải làm việc ấy.
\v 12 Có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ có chút thương xót giáng trên ta, và lấy phước báo trả cho sự hắn rủa sã hôm nay".
\s5
\v 13 Đa-vít cùng người của mình cứ đi trên đường, trong khi Si-mê-i đi cạnh vua tiến lên đồi, vừa đi rủa sả vừa rải bụi đá vào người.
\v 14 Khi ấy nhà vua và hết thảy dân sự ở với ông đều mệt mỏi lắm, nên họ dừng lại nghỉ lấy sức
\s5
\v 15 Còn Áp-sa-lôm cùng hết thảy dân sự Y-sơ-ra-ên ở với ông ta, họ đến tại thành Jerusalem, và A-hi-tô-phe có mặt ở đó.
\v 16 Khi Hu-sai người Ạt-kít, bạn hữu của Đa-vít, đã đến với Áp-sa-lôm, Hu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Chúc vua vạn tuế! Chúa vua vạn tuế!"
\s5
\v 17 Áp-sa-lôm nói với Hu-sai: "Có phải đây là lòng trung thành của ngươi đối với bạn hữu của ngươi không? Tại sao ngươi không đi với bạn mình?"
\v 18 Hu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Không! Thay vì thế, người nào Đức Giê-hô-va và dân sự nầy cùng mọi người trong Y-sơ-ra-ên đã chọn, người ấy là người mà tôi sẽ thuộc về, và tôi sẽ ở với người ấy.
\s5
\v 19 Tôi sẽ phục sự ai đây? Tôi há không phục sự trong sự hiện diện của con người ấy sao? Giống như tôi đã phục sự trong sự hiện diện của cha ông, tôi sẽ phục sự trước mặt ông".
\s5
\v 20 Khi ấy Áp-sa-lôm nói với A-hi-tô-phe: "Hãy cho ta lời khuyên của ngươi về việc chúng ta sẽ làm đi".
\v 21 A-hi-tô-phe thưa cùng Áp-sa-lôm: "Hãy đi ngủ với những người vợ nô lệ của cha vua mà người để lại để giữ cung điện, và hết thảy Y-sơ-ra-ên sẽ nghe thấy rằng vua đã trở thành thứ khó chịu cho cha của vua. Khi ấy tay của những người ở với vua sẽ được mạnh mẽ thêm".
\s5
\v 22 Thế là họ làm cho Áp-sa-lôm một trại trên nóc cung điện, và Áp-sa-lôm ngủ với những người vợ nô lệ của cha người trước mặt cả Y-sơ-ra-ên.
\v 23 Bấy giờ lời khuyên của A-hi-tô-phe mà ông ta đưa ra trong những ngày ấy giống như thể người ta nghe thấy từ miệng của chính Đức Chúa Trời vậy. Đấy là cách người ta xem mọi mưu định của A-hi-tô-phe cho cả Đa-vít và cho Áp-sa-lôm.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Khi ấy A-hi-tô-phe nói với Áp-sa-lôm: "Bây giờ cho phép tôi chọn mười hai ngàn người, và tôi sẽ chỗi dậy đuổi theo Đa-vít tối nay.
\v 2 Tôi sẽ xông vào hắn khi hắn mệt mỏi, yếu đuối, và sẽ khiến cho hắn phải lo sợ. Người nào ở với hắn sẽ bỏ chạy, và tôi sẽ tấn công duy có nhà vua thôi.
\v 3 Tôi sẽ đem hết thảy dân sự về với ông, giống như cô dâu đến với chồng mình, và hết thảy dân sự sẽ ở bình an dưới quyền của ông".
\v 4 Những điều A-hi-tô-phe đã nói làm đẹp lòng Áp-sa-lôm cùng tất cả các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Khi ấy Áp-sa-lôm nói: "Bây giờ cũng hãy gọi Hu-sai người Ạt-kít, và chúng ta hãy nghe điều người nói".
\v 6 Khi Hu-sai đến gặp Áp-sa-lôm, Áp-sa-lôm giải thích cho ông nghe mọi điều A-hi-tô-phe đã nói và rồi hỏi Hu-sai: "Chúng ta có nên làm theo những gì A-hi-tô-phe đã nói không? Nếu không, hãy cho ta biết đâu là mưu luận của ông".
\v 7 Vậy Hu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Mưu mà A-hi-tô-phe đã đưa ra lần nầy không được hay lắm đâu".
\s5
\v 8 Hu-sai nói thêm: "Ông biết cha ông và người của cha ông vốn là hạng chiến binh mạnh sức, và họ đang cay đắng, họ giống như gấu cái trên rừng có con nó bị người ta bắt lấy ngoài đồng. Cha của ông là người của chiến trận; ông ấy sẽ không ngủ với quân đội đêm nay đâu.
\v 9 Hãy xem đi, ngay bây giờ có lẽ ông ấy đã ẩn ở trong cái hang nào đó hoặc trong một chỗ khác kia. Cái điều sẽ xảy ra khi người của ông bị giết ngay từ loạt tấn công đầu, hễ ai nghe điều nầy sẽ nói: 'Một cuộc tàn sát đã diễn ra giữa vòng binh lính theo Áp-sa-lôm'.
\v 10 Thậm chí những binh lính can đảm nhất đi nữa, tấm lòng của họ giống như tấm lòng của sư tử, sẽ lo sợ vì hết thảy Y-sơ-ra-ên đều biết rằng cha của ông vốn là một người mạnh sức, và những người ở với ông ấy cũng rất dữ dằn.
\s5
\v 11 Vậy tôi khuyên ông rằng hết thảy Y-sơ-ra-ên nên nhóm lại với ông, từ Đan cho đến Bê-e Sê-ba, nhiều như cát trên bờ biển, và đích thân ông phải ra trận kìa.
\v 12 Khi ấy chúng ta sẽ xông vào người bất cứ đâu tìm gặp, và chúng ta sẽ bao vây người giống như sương sa xuống trên mặt đất vậy. Chúng ta sẽ không rời đi cho đến chừng một người thuộc về Đa-vít hay đích thân ông ấy còn sống.
\s5
\v 13 Nếu người ẩn trong một thành nào đó, thế thì cả Y-sơ-ra-ên sẽ lấy dây vòng quanh thành đó và chúng ta lôi thành đó xuống sông, cho đến chừng không còn một hòn đá nào còn lại đó".
\v 14 Lúc đó Áp-sa-lôm và người của Y-sơ-ra-ên nói: "Mưu của Hu-sai người Ạt-kít thì hay hơn mưu của A-hi-tô-phe". Đức Giê-hô-va đã ấn định sự chối bỏ mưu luận của A-hi-tô-phe để đem sự hủy diệt giáng trên Áp-sa-lôm.
\s5
\v 15 Lúc đó Hu-sai nói với hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha: "A-hi-tô-phe đã bày mưu cho Áp-sa-lôm và các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên bằng cách thế nầy, như vầy … như vầy, nhưng tôi đã bày cách khác.
\v 16 Vậy bây giờ, hãy mau đi báo cho Đa-vít hay; hãy nói với người: 'Đừng đóng trại tối nay ở các đồn lũy của A-ra-ba, nhưng dầu thế nào đi nữa hãy đi xa hơn, hoặc nhà vua sẽ bị nuốt chửng cùng với hết thảy dân sự đang ở với vua'".
\s5
\v 17 Vậy Giô-na-than và A-hi-mát đến ở tại suối Rô-ghên; một nữ tôi tớ thường đi và đem tin đến cho họ. Khi ấy họ sẽ đi báo lại cho Vua Đa-vít biết, hầu cho không ai thấy họ khi họ vào lại trong thành.
\v 18 Nhưng có một thanh niên nom thấy họ lần nầy và báo cho Áp-sa-lôm biết. Thế là Giô-na-than và A-hi-mát bèn ra đi nhanh chóng và đến tại nhà của một người ở Ba-hu-rim, người nầy có cái giếng trong sân của mình, họ bèn xuống giếng đó.
\s5
\v 19 Vợ của người nầy lấy đồ đậy trên giếng lại rồi trải nó ra phủ lên miệng giếng, rồi rãi lúa lên đó, nhờ vậy chẳng có ai biết Giô-na-than và A-hi-mát đang ở dưới giếng.
\v 20 Người của Áp-sa-lôm đến gặp người đàn bà trong nhà và hỏi: "A-hi-mát và Giô-na-than trốn chỗ nào?" Người đàn bà nói với chúng: "Họ đã băng qua sông rồi". Thề rồi sau khi họ nhìn quanh mà không kiếm được ai, họ bèn trở về thành Jerusalem lại.
\s5
\v 21 Sau khi chúng rời đi rồi, họ đem Giô-na-than và A-hi-mát lên khỏi giếng. Họ đến cho Vua Đa-vít hay; họ nói cùng ông: "Hãy chỗi dậy rồi đi tới nữa đi, hãy qua sông vì A-hi-tô-phe đã đưa ra mưu luận thể ấy về vua".
\v 22 Thế là Đa-vít chỗi dậy và hết thảy người nào ở với ông, rồi họ băng qua sông Giô-đanh. Đến khi trời sáng chẳng có người nào mà không băng qua sông Giô-đanh.
\s5
\v 23 Khi A-hi-tô-phe nhìn thấy mưu của mình không được nghe theo, ông ta thắng lừa rồi bỏ đi. Ông ta về nhà trong chính thành của mình, sắp đặt mọi vụ việc xong, thì tự treo cổ chết. Ông ta đã chết theo cách thức nầy rồi được chôn trong mộ của cha mình.
\s5
\v 24 Khi ấy Đa-vít đã đến tận Ma-ha-na-im. Còn về Áp-sa-lôm, ông băng qua sông Giô-đanh, ông và hết thảy người trong Y-sơ-ra-ên cùng với ông.
\v 25 Lúc đó Áp-sa-lôm đặt A-ma-sa chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp. A-ma-sa là con trai của Xét-thê người Y-sơ-ra-ên, là người đã ngủ với A-bi-ga-in, là con gái của Na-hách và là em của Xê-ru-gia, mẹ của Giô-áp.
\v 26 Khi ấy Y-sơ-ra-ên và Áp-sa-lôm đóng trại trong xứ Ga-la-át.
\s5
\v 27 Khi Đa-vít đã đến tại Ma-ha-na-im, thì Sô-bi con trai của Na-hách từ Ráp-ba xứ của dân Am-môn, và Maki con của A-mi-ên từ Lô Đê-ba, và Bát-xi-lai người Ga-la-át từ thành Rô-ghê-lim,
\v 28 mang những giường, mền, chén, chậu, và lúa mì, bột mì, hột rang, các thứ đậu,
\v 29 mật ong, bơ, chiên, và bánh sữa. Vậy Đa-vít và dân sự ở với người có thể ăn uống. Những người nầy nói: "Dân sự đang đói khát, mệt mỏi trong đồng vắng".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đa-vít điểm soát binh lính theo mình rồi ấn định quan tướng ngàn người và quan tướng trăm người.
\v 2 Khi ấy Đa-vít phân quân đội ra, 1/3 dưới quyền chỉ huy của Giô-áp, 1/3 khác dưới quyền chỉ huy của A-bi-sai con trai của Xê-ru-gia, em của Giô-áp, và 1/3 khác nữa dưới quyền chỉ huy của Y-tai người Ghê-tít. Nhà vua nói cùng quân đội: "Nhất định ta cũng sẽ đích thân đi ra với các ngươi nữa".
\s5
\v 3 Nhưng dân sự đáp: "Vua không phải ra trận, vì nếu chúng tôi bỏ chạy họ sẽ chẳng màng gì đến chúng tôi, hay nếu phân nửa chúng tôi ngã chết họ sẽ chẳng quan tâm. Nhưng vua xứng đáng hơn mười ngàn người trong chúng tôi! Vì lẽ đó thà là vua sẵn sàng vùa giúp chúng tôi từ thành phố".
\v 4 Thế là nhà vua nói cùng họ: "Ta sẽ làm bất cứ điều chi dường tốt nhứt cho các ngươi". Nhà vua đứng bên cổng thành trong khi cả quân đội đi ra hàng trăm hàng ngàn.
\s5
\v 5 Nhà vua truyền cho Giô-áp, A-bi-sai, và Y-tai như sau: "Hãy đối xử tử tế với gã trai trẻ, với Áp-sa-lôm". Hết thảy dân sự nghe nói rằng nhà vua đã truyền cho các cấp chỉ huy về Áp-sa-lôm.
\s5
\v 6 Vậy quân đội đi ra ngoài chống lại Y-sơ-ra-ên; trận chiến lan rộng đến rừng Ép-ra-im.
\v 7 Quân đội của Y-sơ-ra-ên bị đánh bại ở đó trước mặt binh sĩ của Đa-vít; đã có một cuộc tàn sát rất lớn, số người tử trận hôm ấy là hai mươi ngàn người.
\v 8 Trận chiến lan rộng khắp cả xứ, và nhiều người bị thiêu đốt ở trong rừng hơn là bởi gươm.
\s5
\v 9 Áp-sa-lôm gặp gỡ một số binh sĩ của Đa-vít. Áp-sa-lôm đang cưỡi một con la, và con la đi dưới những nhánh rậm của cây thông lớn kia, và đầu ông vướng vào cái chảng ba. Ông bị treo giữa trời và đất đang khi con la vượt thoát đi.
\v 10 Có người thấy việc nầy rồi nói cho Giô-áp biết: "Hãy xem kìa, tôi đã nhìn thấy Áp-sa-lôm đang treo trên nhánh cây thông!"
\v 11 Giô-áp nói với người cho ông hay về Áp-sa-lôm: "Nào! Ngươi thấy hắn à! Sao ngươi không hạ hắn xuống đất? Ta sẽ ban cho ngươi mười siếc-lơ bạc và cái đai lưng".
\s5
\v 12 Người đáp cùng Giô-áp: "Dầu tôi nhận một ngàn siếc-lơ, tôi vẫn không chìa tay ra nghịch với con của vua, vì hết thảy chúng ta đã nghe nhà vua truyền cho ông, A-bi-sai, và Y-tai như vầy: 'Không một ai chạm đến gã trai trẻ Áp-sa-lôm'.
\v 13 Nếu tôi liều mạng dám dối trá (và chẳng có gì giấu được nhà vua), ông sẽ từ bỏ tôi".
\s5
\v 14 Khi ấy Giô-áp mới nói: "Ta sẽ chẳng chờ ngươi đâu". Thế là Giô-áp cầm ba mũi giáo trong tay rồi đâm chúng qua tim của Áp-sa-lôm, trong khi người hãy còn sống và treo trên cây thông.
\v 15 Khi ấy mười thanh niên khiêng binh khí của Giô-áp vây quanh Áp-sa-lôm, tấn công người, rồi giết người đi.
\s5
\v 16 Giô-áp trổi kèn lên, và quân đội trở về không truy kích Y-sơ-ra-ên, vì Giô-áp cản họ.
\v 17 Họ đem Áp-sa-lôm xuống quăng người vào cái hố rộng ở trong rừng; họ chôn thây người dưới một đống đá rất lớn, trong khi cả Y-sơ-ra-ên chạy trốn, mỗi người về lại nhà riêng mình.
\s5
\v 18 Bấy giờ Áp-sa-lôm, trong khi còn sống, đã xây cho mình một cây trụ bằng đá rất lớn trong Trũng Vua, vì người nói: "Ta chẳng có con trai nào để ghi nhớ danh ta". Người đặt tên cây trụ theo chính tên của mình, vì vậy chỗ đó gọi là Bia của Áp-sa-lôm cho đến ngày nay.
\s5
\v 19 Khi ấy A-hi-mát con trai Xa-đốc nói: "Bây giờ cho phép tôi chạy đến gặp nhà vua với những tin tức tốt lành, thể nào Đức Giê-hô-va đã cứu vua khỏi kẻ thù mình".
\v 20 Giô-áp đáp cùng người: "Ngươi sẽ chẳng phải là kẻ đem tin tốt hôm nay; người phải làm việc ấy vào ngày khác. Ngày nay ngươi sẽ chẳng phải đem tin tốt vì con của nhà vua đã chết rồi".
\s5
\v 21 Lúc đó, Giô-áp nói với một người Cu-si: "Hãy đi, nói cho nhà vua biết những gì ngươi đã thấy". Người Cu-si sấp mình xuống trước Giô-áp, rồi chạy đi.
\v 22 Lúc đó, A-hi-mát con trai Xa-đốc nói lại với Giô-áp: "Bất chấp việc gì đã xảy ra, làm ơn cho phép tôi chạy theo người Cu-si kia". Giô-áp đáp: "Sao ngươi cứ muốn chạy đi thế, hỡi con trai ta, bộ ngươi chẳng có phần thưởng nào về các tin tức ư?"
\v 23 "A-hi-mát nói: dù việc gì xảy ra, tôi cứ chạy đi". Thế là Giô-áp đáp cùng người: "Hãy chạy đi". Lúc đó A-hi-mát chạy đi bên con đường đồng rộng, rồi băng qua người Cu-sit
\s5
\v 24 Bấy giờ. Đa-vít đang ngồi giữa hai cửa thành. Người canh leo lên trên mái cổng với hai mắt nhướng lên. Khi nhìn thấy người kia đang đến gần, chỉ có một mình thôi.
\v 25 Quân canh la lên và báo cho vua biết. Khi ấy nhà vua nói: "Nếu người có một mình, có tin tức trong miệng người". Người chạy kia càng đến gần thành phố hơn.
\s5
\v 26 Khi ấy quân canh để ý người đang chạy, rồi người canh gọi: "Hãy xem kìa, có người kia đang chạy một mình". Nhà vua đáp: "Hắn cũng đem tin tức tốt lành".
\v 27 Người canh nói: "Tôi nghĩ cách của người chạy trước thì giống như A-hi-mát con trai của Xa-đốc". Nhà vua nói: "Đấy là người tốt và đang đến với những tin tức tốt lành".
\s5
\v 28 Thế rồi A-hi-mát kêu lên, nói cùng nhà vua: "Mọi sự đều suông sẻ". Và người tự sấp mình xuống đất trước mặt nhà vua rồi nói: "Đáng chúc phước thay là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, Ngài đã phó những kẻ dấy lên nghịch cùng vua chúa tôi".
\v 29 Nhà vua đáp: "Có điều tốt lành với gã trai trẻ Áp-sa-lôm chăng?" A-hi-mát đáp: "Khi Giô-áp sai tôi đi, tôi tớ của nhà vua, đến gặp vua, hõi vua, tôi nhìn thấy sự dữ dội lớn lắm, nhưng tôi biết là việc gì".
\v 30 Khi ấy nhà vua nói: "Hãy đứng sang một bên đi". Thế là A-hi-mát đứng sang một bên, và đứng yên lặng.
\s5
\v 31 Ngay khi ấy, người Cu-si về đến nói: "Có những tin tức tốt lành cho vua chúa tôi, vì Đức Giê-hô-va đã báo thù cho vua hôm nay khỏi mọi kẻ dấy lên nghịch cùng vua".
\v 32 Nhà vua nói với người Cu-si: "Gã trai trẻ Áp-sa-lôm có bình yên chăng?" Người Cu-si đáp: "Các kẻ thù của vua chúa tôi, và hết thảy người nào dấy lên nghịch cùng vua muốn làm hại vua, sẽ giống như gã trai trẻ ấy".
\v 33 Nhà vua cảm thương sâu sắc, và bước lên lầu nơi cửa thành mà khóc. Người vừa đi vừa đau buồn lắm: "Hỡi Áp-sa-lôm, con trai ta, hỡi Áp-sa-lôm con trai ta! Ta ước mình chết thay cho con, hỡi Áp-sa-lôm, con trai ta, con trai ta!"
\s5
\c 19
\p
\v 1 Có người đến nói với Giô-áp: "Kìa, vua đang than khóc về Áp-sa-lôm".
\v 2 Thế là chiến thắng trong ngày đó bị đổi thành than khóc cho cả quân đội, vì quân đội cũng nghe biết ngày ấy: "Nhà vua khóc than cho con trai mình".
\s5
\v 3 Binh lính yên lặng lén trở vào thành ngày ấy, giống như kẻ bị xấu hổ vì trốn khỏi chiến trường.
\v 4 Nhà vua che mặt mình lại rồi kêu lớn tiếng lên: "Hỡi Áp-sa-lôm, con trai ta, hỡi Áp-sa-lôm, con trai ta, con trai ta!"
\s5
\v 5 Khi ấy Giô-áp bước vào gặp nhà vua rồi nói với người: "Vua làm hổ mặt hết thảy quân lính vua hôm nay, họ đã cứu mạng sống vua ngày nay, cùng mạng sống của các con trai con gái của vua, và mạng sống của những người vợ của vua, và mạng sống của những người vợ nô lệ của vua,
\v 6 vì vua yêu kẻ ghét vua, và vua ghét những người kính mến vua. Vì ngày nay vua đã tỏ ra rằng các quan tướng và binh kính chẳng là gì với vua cả. Ngày nay tôi tin rằng nếu Áp-sa-lôm còn sống, thì hết thảy chúng ta sẽ chết, chắc điều đó đẹp lòng vua lắm đây.
\s5
\v 7 Vì lẽ đó, giờ đây vua hãy chỗi dậy, đi ra ngoài nói năng tử tế với binh lính vua, vì tôi thề bởi Đức Giê-hô-va, nếu vua không làm thế, chẳng có một người nào sẽ ở lại với vua tối nay. Như vậy sẽ là tệ hại hơn cho vua so với mọi tai vạ đã từng xảy ra với vua từ thời trẻ cho đến bây giờ".
\v 8 Thế là nhà vua chỗi dậy rồi ngồi nơi cổng thành, và điều đó được thông báo cho mọi người: "Hãy xem, nhà vua ra ngồi nơi cổng thành". Khi ấy hết thảy dân sự đến trước mặt vua. Đồng thời, trong Y-sơ-ra-ên từng người một chạy trốn về nhà của mình.
\s5
\v 9 Hết thảy dân sự đang bàn bạc với nhau khắp cả các chi phái của Y-sơ-ra-ên như sau: "Nhà vua đã giải cứu chúng ta ra khỏi tay của mọi kẻ thù. Vua đã cứu chúng ta ra khỏi tay của dân Phi-li-tin và giờ đây vua phải ra khỏi xứ tránh Áp-sa-lôm.
\v 10 Còn Áp-sa-lôm, là người chúng ta xức dầu trên chúng ta, đã chết ngoài chiến trường. Vậy tại sao chúng ta không nói về việc đưa nhà vua trở lại chứ?"
\s5
\v 11 Vua Đa-vít sai tìm hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha mà nói như vầy: "Hãy nói cùng các trưởng lão Giu-đa mà rằng: 'Tại sao các ngươi là người sau cùng đem nhà vua trở lại cung điện mình, một khi hết thảy Y-sơ-ra-ên đều ưu ái với nhà vua, muốn đem người trở lại cung điện mình?
\v 12 Các ngươi là anh em của ta, là xương thịt ta. Tại sao các ngươi là người sau cùng đem vua trở lại chứ?'
\s5
\v 13 Rồi nói với A-ma-sa: 'Có phải ngươi là xương thịt của ta không? Đức Chúa Trời làm thế với ta, và còn nhiều nữa, nếu ngươi không phải là quan tướng đạo binh ta từ giờ trở đi trong cung điện của Giô-áp'".
\v 14 Và ông chiếm lấy lòng của hết thảy dân sự Giu-đa, giống như thể họ là tấm lòng của một người vậy, nhơn đó họ gửi lời đến nhà vua: "Vua và người của vua, hãy trở lại".
\v 15 Thế là nhà vua trở lại rồi đến tại sông Giô-đanh. Và dân sự của Giu-đa đã đến tại Ghinh-ganh để gặp nhà vua, hộ tống nhà vua qua sông Giô-đanh.
\s5
\v 16 Si-mê-i con trai của Ghê-ra, người Bên-gia-min, xuất thân từ Ba-hu-rim, vội vã xuống với người Giu-đa đón Vua Đa-vít.
\v 17 Có một ngàn người từ Bên-gia-min xuống với ông ta, và Xíp-ba tôi tớ của Sau-lơ, và mười lăm người con trai của ông ta cùng hai mươi tôi tớ với người. Họ băng qua sông Giô-đanh trong sự hiện diện của nhà vua.
\v 18 Họ qua sông đem theo gia đình của nhà vua và làm bất cứ việc gì vua nghĩ là tốt lành. Si-mê-i con trai của Ghê-ra sấp mặt xuống đất trước mặt nhà vua ngay trước khi vua bắt đầu qua sông Giô-đanh.
\s5
\v 19 Si-mê-i nói với nhà vua: "Lạy chúa tôi, đừng kể tội tôi hay gợi nhớ trong trí những gì tôi tớ vua đã ngoan cố làm trong ngày chúa tôi rời thành Jerusalem. Làm ơn, nguyện nhà vua đừng để điều đó vào lòng.
\v 20 Vì tôi tớ vua nhìn biết mình đã phạm tội. Hãy xem, đấy là lý do tại sao tôi đã đến hôm nay là người đầu tiên từ hết thảy các gia đình của Giô-sép xuống đấy đặng đón vua chúa tôi".
\s5
\v 21 Nhưng A-bi-sai con trai Xê-ru-gia đáp lời: "Há Si-mê-i sẽ không bị tử hình về việc nầy, vì hắn đã rủa sả đấng chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va?"
\v 22 Khi ấy Đa-vít nói: "Ta phải làm gì với ngươi đây, các ngươi con trai của Xê-ru-gia, ngày nay các ngươi muốn làm kẻ nghịch cùng ta nữa sao? Có ai sẽ bị tử hình hôm nay trong Y-sơ-ra-ên chăng? Vì ta không biết hôm nay ta có được làm vua trên Y-sơ-ra-ên không nữa?"
\v 23 Nhà vua bèn nói cùng Si-mê-i: "Ngươi sẽ chẳng chết đâu". Nhà vua hứa với người bằng một lời thề.
\s5
\v 24 Mê-phi-bô-sết con trai của Sau-lơ cũng xuống đón nhà vua. Anh ta không rửa chơn, chải râu, hoặc giặt áo xống mình kể từ ngày nhà vua rời đi cho đến ngày người trở về trong sự bình an.
\v 25 Rồi khi anh ta đến từ thành Jerusalem để đón nhà vua, nhà vua nói cùng anh ta: "Hỡi Mê-phi-bô-sết, cớ sao ngươi không cùng đi với ta?"
\s5
\v 26 Người đáp: "Hỡi vua chúa tôi, tôi tớ của tôi đã gạt tôi, vì tôi nói: 'Ta sẽ thắng lừa để ta cưỡi nó mà đi với nhà vua, vì tôi tớ vua bị què'.
\v 27 Xíp-ba tôi tớ của tôi đã cáo gian tôi, tôi tớ của vua, với vua chúa tôi. Nhưng vua chúa tôi thì giống như một thiên sứ của Đức Chúa Trời vậy. Vì lẽ đó, hãy làm điều chi là tốt lành theo mắt vua.
\v 28 Vì hết thảy nhà cha tôi đều chết trước khi vua chúa tôi lên làm vua, nhưng vua đã đặt tôi tớ vua giữa vòng những người ngồi ăn với vua tại bàn người. Vì vậy, tôi có lẽ gì mà phàn nàn cùng vua chứ?"
\s5
\v 29 Khi ấy nhà vua nói cùng người: "Cớ gì phải giải thích chứ? Ta đã quyết rằng ngươi và Xíp-ba sẽ chia ruộng đất đi".
\v 30 Mê-phi-bô-sết đáp cùng nhà vua "Phải, hãy để hắn lấy hết đi, một khi vua chúa tôi đã an toàn về đến nhà của mình".
\s5
\v 31 Kế đó Bạt-xi-lai người Ga-la-át xuống tới Rô-ghê-lim để băng qua sông Giô-đanh cùng với nhà vua, và ông đi kèm với nhà vua qua sông Giô-đanh.
\v 32 Bấy giờ Bạt-xi-lai là một cụ già, tám mươi tuổi. Ông cung ứng cho nhà vua với các khoản tiếp trợ đang khi ông còn ở tại Ma-ha-na-im, vì ông là người rất giàu có.
\v 33 Nhà vua nói với Bạt-xi-lai: "Hãy qua đây với ta, và ta sẽ tiếp trợ cho ông để ở với ta tại thành Jerusalem."
\s5
\v 34 Bạt-xi-lai đáp cùng vua: "Đời tôi còn có bao nhiêu ngày nữa để tôi đi lên với nhà vua tại thành Jerusalem?
\v 35 Tôi nay tám mươi tuổi rồi. Tôi có thể phân biệt giữa tốt và xấu sao? Tôi tớ vua có thể nếm thứ chi tôi ăn hoặc thứ chi tôi uống nữa sao? Tôi có thể nghe giọng của những người nam người nữ ca hát sao? Khi ấy tôi tớ vua sẽ trở thành một gánh nặng cho vua chúa tôi?
\v 36 Tôi tớ vua rất muốn qua sông Giô-đanh với nhà vua. Sao vua lại muốn bù lại cho tôi với một phần thưởng dường ấy ư?
\s5
\v 37 Làm ơn để cho tôi tớ vua trở về nhà, hầu cho tôi qua đời trong chính thành của mình bên mộ của cha mẹ tôi. Nhưng hãy xem, đây là Kim-ham tôi tớ vua. Nguyện hắn qua sông với vua chúa tôi, và hãy làm cho hắn điều chi dường tốt lành đối với vua".
\s5
\v 38 Nhà vua đáp: "Kim-ham sẽ qua sông với ta, và ta sẽ đãi người những gì dường tốt lành đối với ông, và bất cứ điều chi ông muốn từ nơi ta, ta làm điều đó vì ông".
\v 39 Khi ấy hết thảy dân sự đã băng qua sông Giô-đanh, và nhà vua đã băng qua, nhà vua hôn Bạt-xi-lai và chúc phước cho người. Thế rồi Bạt-xi-lai trở về chính nhà của mình.
\s5
\v 40 Nhà vua qua đến Ghinh-ganh, và Kim-ham qua cùng với vua. Hết thảy quân đội của Giu-đa đưa nhà vua qua, và cũng có phân nửa quân đội của Y-sơ-ra-ên nữa.
\v 41 Tất cả dân sự của Y-sơ-ra-ên bắt đầu đến với nhà vua, họ nói như sau: "Cớ sao các anh em của chúng tôi, dân sự Giu-đa, lại lén đưa vua và gia đình vua qua sông Giô-đanh, cùng hết thảy người của Đa-vít cùng với người?"
\s5
\v 42 Dân sự Giu-đa đáp cùng dân sự Y-sơ-ra-ên như sau: "Sở dĩ như thế là vì nhà vua có quan hệ gần với chúng tôi. Sao anh em lại giận về việc nầy mà chi? Chúng ta có ăn cái gì mà nhà vua trả cho đâu? Vua đâu có cho chúng tôi quà gì đâu?"
\v 43 Dân sự Y-sơ-ra-ên đáp cùng dân sự Giu-đa: "Chúng tôi có mười chi phái có quan hệ với nhà vua, cho nên chúng tôi có nhiều quyền với Đa-vít hơn anh em. Vậy sao anh em coi thường chúng tôi chứ? Có phải chúng tôi đề nghị đưa nhà vua trở về trước tiên mà ai cũng nghe thấy sao?" Nhưng lời lẽ của dân sự Giu-đa thậm chí còn gay gắt hơn lời lẽ của dân sự Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Chính tại nơi đó có một kẻ gây rối tên hắn là Sê-ba con trai của Biếc-ri, một người Bên-gia-min. Ông ta trỗi kèn lên rồi nói: "Chúng ta chẳng có phần gì nơi Đa-vít, chúng ta cũng chẳng có cơ nghiệp gì nơi con trai của Gie-sê. Mỗi một người hãy trở về nhà mình, hỡi Y-sơ-ra-ên".
\v 2 Thế là hết thảy dân sự của Y-sơ-ra-ên lìa bỏ Đa-vít mà theo Sê-ba con trai của Biếc-ri. Nhưng dân sự Giu-đa thì theo vua của họ, từ sông Giô-đanh cho đến thành Jerusalem.
\s5
\v 3 Khi Đa-vít đã đến cung điện mình tại thành Jerusalem, ông bắt mười người vợ nô lệ mà ông đã để lại đặng coi giữ cung điện, rồi ông đặt họ vào một ngôi nhà có người canh gác. Ông chu cấp mọi nhu cần của họ, song ông không còn ngủ với họ nữa. Vậy, họ bị giam ở đó cho tới ngày chết của họ, sống giống như thể họ là hạng góa bụa vậy.
\s5
\v 4 Khi ấy nhà vua nói với A-ma-sa: "Hãy nhóm người Giu-đa lại trong vòng ba ngày; ngươi cũng phải ở đây nữa".
\v 5 A-ma-sa đi ra kêu gọi dân sự Giu-đa nhóm lại, nhưng người nán lại lâu hơn thì giờ mà vua đã truyền cho mình.
\s5
\v 6 Thế là Đa-vít bảo A-bi-sai: "Bây giờ Sê-ba con trai của Biếc-ri sẽ gây hại còn nhiều hơn cả Áp-sa-lôm đã làm. Hãy lấy các tôi tớ của chủ ngươi, binh lính của ta, đuổi theo hắn, hoặc hắn sẽ tìm được các thành kiên cố mà thoát được mắt chúng ta".
\v 7 Khi ấy người của Giô-áp đi theo sau người, cùng với dân Kê-rê-thít và dân Phê-lê-thít và hết thảy những chiến binh mạnh sức. Họ rời thành Jerusalem đuổi theo Sê-ba con trai của Biếc-ri.
\s5
\v 8 Khi họ đến tại hòn đá lớn ở Ga-ba-ôn, A-ma-sa đến đón họ. Giô-áp đang mặc bộ giáp, bao gồm dây đai ràng hông với thanh gươm hãy còn ở trong vỏ. Khi ông bước tới, thanh gươm bèn tuột ra.
\s5
\v 9 Giô-áp nói với A-ma-sa: "Anh mạnh giỏi chứ?" Giô-áp dùng tay mặt nắm lấy râu của đặng hôn người.
\v 10 A-ma-sa không để ý thanh gươm nơi tay trái của Giô-áp. Giô-áp đâm A-ma-sa nơi bụng ruột đổ ra cả đất. Giô-áp không đánh nữa, và A-ma-sa ngã chết. Vậy Giô-áp và A-bi-sai em người truy đuổi Sê-ba con trai của Biếc-ri.
\s5
\v 11 Khi ấy một trong những người của Giô-áp đứng gần A-ma-sa, và người nói: "Người nào thiên về Giô-áp, và người nào thiên về Đa-vít, người ấy thãy theo Giô-áp."
\v 12 A-ma-sa nằm đẫm trong huyết mình ở giữa đường. Khi người nầy thấy hết thảy dân sự vẫn đứng yên, người khiêng A-ma-sa ra khỏi đường rồi đưa ra một đám ruộng. Người quăng cái áo đắp trên thây vì người thấy ai nấy đến gần A-ma-sa mà đứng im.
\v 13 Sau khi A-ma-sa bị đưa ra khỏi con đường rồi, mọi người đều chạy theo sau Giô-áp để truy đuổi Sê-ba con của Biếc-ri.
\s5
\v 14 Sê-ba đi ngang qua các chi phái của Y-sơ-ra-ên đến A-bên, đến Bết Ma-a-ca, và qua đất của dân Bê-rít, họ nhóm lại và cũng đuổi theo Sê-ba.
\v 15 Họ bắt kịp rồi vây hắn tại A-bên Bết Ma-a-ca. Họ dựng đồn lũy chống lại thành nghịch cùng các bức tường. Hết thảy quân đội ở với Giô-áp đào tường đặng làm cho nó đổ xuống.
\v 16 ấy một người nữ khôn ngoan kêu lên từ trong thành: "Hãy nghe, làm ơn hãy nghe đây, hỡi Giô-áp! Hãy đến gần tôi để tôi có thể nói cho ông nghe".
\s5
\v 17 Thế là Giô-áp đến gần nàng, và người nữ ấy nói: "Có phải ông là Giô-áp không?" Ông đáp: "Ta đây". Nàng nói cùng ông: "Hãy lắng nghe lời tôi tớ ông". Ông nói: "Ta đang nghe đây".
\v 18 Khi ấy nàng nói: "Đời xưa họ nói: 'Chắc phải tìm kiếm lời khuyên ở A-bên', và lời khuyên đó sẽ kết thúc vấn đề.
\v 19 Chúng ta là một thành trung tín và- yên ổn nhất trong Y-sơ-ra-ên. Ông đang tìm cách hủy diệt một thành giống như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên. Cớ sao ông muốn nuốt trọng cơ nghiệp của Đức Giê-hô-va vậy?"
\s5
\v 20 Giô-áp đáp lại như sau: "Hay đấy, hãy nghe ta, ta có nên nuốt trọng hoặc hủy diệt đâu.
\v 21 Điều đó không thật đâu. Nhưng có một người đến từ vùng đồi núi Ép-ra-im, tên là Sê-ba con trai của Biếc-ri, đã giơ tay hắn lên nghịch cùng nhà vua, chống lại Đa-vít. Hãy trao một mình hắn cho ta, thì ta sẽ rút quân khỏi thành". Người nữ kia nói cùng Giô-áp: "Đầu hắn sẽ được ném cho ông qua tường thành".
\v 22 Khi người nữ ấy đến cùng hết thảy dân sự mình với sự khôn ngoan của nàng. Họ cắt đầu của Sê-ba con trai Biếc-ri, rồi quăng nó ra cho Giô-áp. Khi ấy ông trỗi kèn lên và người của Giô-áp rời khỏi thành phố, mỗi người về lại nhà mình. Và Giô-áp trở về thành Jerusalem với nhà vua.
\s5
\v 23 Bấy giờ Giô-áp đã chỉ huy cả quân đội của Y-sơ-ra-ên, và Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa chỉ huy dân Kê-rê-thít và dân Phê-lê-thít.
\v 24 A-đô-ram thì chỉ huy những người lao động cưỡng bách, và Giô-sa-phát con trai của A-hi-lút làm thủ bộ.
\v 25 Sê-gia làm thư ký và Xa-đốc cùng A-bia-tha là thầy tế lễ.
\v 26 Y-ra người Giai-rơ làm tể tướng cho Đa-vít.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Có một cơn đói kém trong thời của Đa-vít trong ba năm liền, và Đa-vít đã tìm kiếm mặt của Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán: "Nạn đói nầy nhắm vào ngươi vì cớ Sau-lơ và gia đình hay giết chóc của hắn, vì hắn khiến cho người Ga-ba-ôn phải chết".
\s5
\v 2 Bấy giờ dân Ga-ba-ôn không xuất thân từ dân Y-sơ-ra-ên; họ là số dân sót A-mô-rít. Dân Y-sơ-ra-ên đã thề không giết họ, nhưng Sau-lơ tìm cách giết họ suốt trong sự sốt sắng của ông dành cho dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa.
\v 3 Vậy Vua Đa-vít cho đòi dân Ga-ba-ôn đến rồi nói với họ: "Ta sẽ làm gì cho các ngươi? Ta làm sự chuộc lỗi như thế nào đây, để các ngươi sẽ chúc phước cho dân sự của Đức Giê-hô-va, họ hưởng lấy sự nhân từ cùng các lời hứa của Ngài?"
\s5
\v 4 Dân Ga-ba-ôn đáp cùng vua: "Vàng, bạc chẳng phải là vấn đề giữa chúng tôi và Sau-lơ hay gia đình của ông ấy. Và chúng tôi cũng chẳng có phép giết người nào trong Y-sơ-ra-ên". Đa-vít nói: "Bất cứ điều chi các ngươi đòi, ta sẽ làm điều đó cho các ngươi".
\s5
\v 5 Họ đáp cùng nhà vua: "Người đó đã tìm cách giết hết thảy chúng tôi, đã lên kế hoạch nghịch cùng chúng tôi, để giờ đây chúng tôi bị hủy diệt và chẳng có chỗ nào trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên —
\v 6 hãy cho bảy người từ trong dòng dõi của người cho chúng tôi đặng treo lên, và chúng tôi sẽ treo họ trước mặt Đức Giê-hô-va trong Ghi-bê-a của Sau-lơ, là người được chọn bởi Đức Giê-hô-va". Nhà vua nói: "Ta sẽ trao chúng cho các ngươi".
\s5
\v 7 Nhưng nhà vua tha cho Mê-phi-bô-sết con trai của Giô-na-than cháu của Sau-lơ, vì cớ lời thề của Đức Giê-hô-va giữa họ, giữa Đa-vít và Giô-na-than con trai của Sau-lơ.
\v 8 Nhưng nhà vua bắt hai con trai của Rít-ba, con gái của A-gia, các con trai mà người đã sanh cho Sau-lơ — hai con trai có tên là Ạt-mô-ni và Mê-phi-bô-sết; và Đa-vít cũng bắt năm người con của Mi-canh con gái của Sau-lơ, mà nàng đã sanh cho Át-ri-ên con trai của Bát-xi-lai người Mê-hô-la.
\v 9 Ông trao chúng vào trong tay dân Ga-ba-ôn. Họ treo chúng trên núi trước mặt Đức Giê-hô-va, và bảy người chúng đã chết với nhau. Chúng bị tử hình trong khi mùa gặt, trong mấy ngày đầu khởi sự mùa gặt lúa mì.
\s5
\v 10 Khi ấy Ríp-ba, con gái của Ai-gia, lấy cái bao trải cho mình nằm trên núi bên cạnh các thi thể đã chết, từ đầu mùa gặt cho tới khi mưa từ trời đổ xuống trên họ. Nàng không để cho chim trời đến quấy rối các thi thể lúc ban ngày hay thú dữ đến trong ban đêm.
\v 11 Người ta cho Đa-vít hay những điều Ríp-ba, con gái của Ai-gia, người vợ nô lệ của Sau-lơ, đã làm.
\s5
\v 12 Thế rồi Đa-vít đến lấy hài cốt của Sau-lơ và hài cốt của Giô-na-than con trai người từ dân sự Gia-be Ga-la-át, họ đã lấy trộm chúng từ quãng trường công cộng ở Bết-san, chỗ dân Phi-li-tin đã treo họ lên, sau khi dân Phi-li-tin đã giết Sau-lơ ở Ghinh-bô-a.
\v 13 Đa-vít lấy ở đó các hài cốt của Sau-lơ và hài cốt của Giô-na-than con trai người, và họ cũng gom hài cốt của bảy người đã bị treo kia nữa.
\s5
\v 14 Họ chôn hài cốt của Sau-lơ và Giô-na-than con trai người trong xứ của Bên-gia-min ở Xê-la, trong mộ của Kích tổ phụ người. Họ đã làm mọi sự mà nhà vua đã truyền dặn. Sau đó, Đức Chúa Trời đã trả lời cho sự cầu nguyện của họ về xứ sở.
\s5
\v 15 Khi ấy dân Phi-li-tin lại ra giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Vậy Đa-vít đi xuống với quân đội mình mà giao chiến với dân Phi-li-tin. Đa-vít vốn mệt nhọc với chiến tranh.
\v 16 Ít-bi-bê-nốp, dòng dõi của người giềnh giàng, cây giáo bằng đồng của người nặng ba trăm siếc-lơ, và người nầy có một thanh gươm mới, dự tính giết chết Đa-vít.
\v 17 Nhưng A-bi-sai con trai của Xê-ru-gia đã giải cứu Đa-vít, tấn công dân Phi-li-tin, rồi giết hắn. Khi ấy người của Đa-vít thề với vua như sau: "Vua không nên ra trận với chúng tôi nữa, để vua không làm tắt đi ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên".
\s5
\v 18 Sau việc nầy, có một cuộc giao chiến nữa với dân Phi-li-tin tại Góp, khi Si-bê-cai người Hu-sa giết Sáp, là dòng dõi của dân Rê-pha-im.
\v 19 Một lần nữa trong chiến cuộc với dân Phi-li-tin tại Góp, En-cha-nan con trai của Gia-a-rê người Bết-lê-hem đã giết Gô-li-át người Gát, cán lao của người ầy thì giống như cây trục của thợ dệt vậy.
\s5
\v 20 Trong một trận chiến khác ở Gát, có một người cao lớn, có sáu ngón tay và sáu ngón chân, tổng số là hai mươi bốn ngón. Người nầy cũng xuất thân từ dân Rê-pha-im.
\v 21 Và khi hắn sỉ nhục dân Y-sơ-ra-ên, Giô-na-than con trai của Sam-ma, em Đa-vít, đã giết hắn.
\v 22 Đây là dòng dõi của dân Rê-pha-im xứ Gát, và chúng đều bị giết bởi tay của Đa-vít và bởi tay của các chiến binh người.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Đa-vít hát cho Đức Giê-hô-va lời lẽ của bài ca nầy nhằm ngày Đức Giê-hô-va giải cứu ông khỏi tay của mọi kẻ thù, và khỏi tay của Sau-lơ.
\v 2 Ông cầu nguyện: "Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Ngài là Đấng giải cứu tôi.
\s5
\v 3 Đức Chúa Trời là hòn đá tôi. Tôi nương náu mình nơi Ngài. Ngài là cái khiêng của tôi, là sừng cứu rỗi tôi, đồn lũy tôi, và là nơi nương náu của tôi, là Đấng cứu tôi khỏi sự hung tàn.
\v 4 Tôi sẽ kêu cầu Đức Giê-hô-va, Ngài đáng được ngợi khen, và tôi được cứu khỏi kẻ thù nghịch mình.
\s5
\v 5 Vì những làn sóng sự chết vây phủ tôi. Những dòng sông đục ngầu xấu xa trùm lấy tôi.
\v 6 Những sợi dây của âm phủ quấn lấy tôi; các bẫy rập sự chết áp hãm tôi.
\s5
\v 7 Trong nổi sầu khổ tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va; tôi kêu cầu Đức Chúa Trời tôi; Ngài nghe tiếng tôi từ đền thờ của Ngài, và tiếng tôi kêu cứu lọt vào tai Ngài.
\s5
\v 8 Khi ấy đất lay động run rẩy. Những nền của các từng trời lay chuyển, vì Đức Chúa Trời đã nổi giận.
\v 9 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài, và lửa hừng ra từ miệng Ngài. Những viên than đỏ hực bay ra từ đó.
\s5
\v 10 Ngài mở các từng trời ra rồi ngự xuống, và bóng tối dày đặc ở dưới chân Ngài.
\v 11 Ngài cưỡi một chê-ru-bin và bay. Rõ ràng Ngài đang bay trên cánh của gió.
\v 12 Và Ngài lấy tối tăm làm thành trại ở chung quanh Ngài, vầy các đám mây làm mưa lớn trên bầu trời.
\s5
\v 13 Từ sấm chớp trước mặt Ngài than lửa phun ra.
\v 14 Đức Giê-hô-va cho sấm sét từ các từng trời. Đấng Chí Cao hô lớn tiếng lên.
\v 15 Ngài bắn tên ra làm cho kẻ thù Ngài tản lạc — chớp nhoáng phát ra làm tan tác chúng.
\s5
\v 16 Khi ấy các dòng nước xuất hiện; các nền thế gian bị bày ra nơi tiếng hô xung trận của Đức Giê-hô-va, nơi tiếng khịt của lỗ mũi Ngài.
\s5
\v 17 Ngài với xuống từ trên cao; Ngài nắm lấy tôi! Ngài kéo tôi ra khỏi chỗ nước sâu.
\v 18 Ngài cứu tôi khỏi kẻ thù mạnh hơn tôi, khỏi những kẻ ghét tôi, vì họ quá mạnh đối với tôi.
\s5
\v 19 Họ đến nghịch cùng tôi nhằm ngày sầu khổ của tôi, nhưng Đức Giê-hô-va giúp đỡ tôi.
\v 20 Ngài cũng đem tôi ra nơi rộng rãi. Ngài cứu tôi vì tôi đẹp lòng Ngài.
\v 21 Đức Giê-hô-va đã thưởng cho tôi vì lượng công bình của tôi; Ngài đã phục hồi tôi theo sự thanh sạch của tay tôi.
\s5
\v 22 Vì tôi đã giữ theo các đường lối của Đức Giê-hô-va và không làm chuyện gian ác bằng cách xoay khỏi Đức Chúa Trời tôi.
\v 23 Vì các mạng lịnh công bình của Ngài hằng ở trước mặt tôi; như các luật lệ Ngài, tôi không xoay khỏi chúng.
\s5
\v 24 Tôi cũng là vô tội trước mặt Ngài, và tôi giữ mình khỏi tội lỗi.
\v 25 Vì lẽ đó Đức Giê-hô-va đã phục hồi tôi tùy lượng công bình của tôi, theo cấp độ thanh sạch tôi trước mặt Ngài.
\s5
\v 26 Đối với người nào biết trung tín, Ngài tỏ mình Ngài ra là thành tín; đối với người nào sống không tì vít, Ngài tỏ mình ra không tì vít.
\v 27 Với kẻ tinh sạch Chúa tỏ mình ra là thanh sạch, nhưng Ngài nghịch mạng với kẻ cong quẹo.
\s5
\v 28 Ngài cứu kẻ bị khốn khổ, nhưng mắt Ngài nghịch cùng kẻ kiêu ngạo, và Ngài hạ họ xuống.
\v 29 Hỡi Đức Giê-hô-va, vì Ngài là ngọn đèn của tôi. Đức Giê-hô-va soi sáng sự tăm tối của tôi.
\s5
\v 30 Bởi Ngài tôi có thể xông ngang qua một đạo binh; bởi Đức Chúa Trời tôi, tôi có thể nhảy qua một bức tường.
\v 31 Vì là Đức Chúa Trời, đường lối Ngài là trọn vẹn. Lời của Đức Giê-hô-va là trong sạch. Ngài là cái thuẫn cho người nào đến nương náu nơi Ngài.
\s5
\v 32 Ai là Đức Chúa Trời trừ ra Đức Giê-hô-va? Và ai là hòn đá nếu không phải Đức Chúa Trời của chúng ta?
\v 33 Đức Chúa Trời là nơi nương náu của tôi, và Ngài dẫn dắt kẻ không tì vít bước đi trên đường Ngài.
\s5
\v 34 Ngài làm cho chân tôi nhanh như con nai và đặt tôi lên những đỉnh núi.
\v 35 Ngài tập tay tôi để chiến trận, và cánh tay tôi giương nổi cung đồng.
\s5
\v 36 Ngài đã ban cho tôi cái thuẫn cứu rỗi của Ngài, và sự ưu ái Ngài khiến cho tôi ra đáng trượng.
\v 37 Ngài lập nơi rộng rãi cho bước chơn tôi, nhờ vậy chơn tôi không bị trơn trợt.
\s5
\v 38 Tôi đuổi theo kẻ thù rồi hủy diệt chúng. Tôi không xây lại cho đến chừng chúng bị tiêu diệt.
\v 39 Tôi ăn nuốt và đâm chúng nó; chúng nó không dậy được. Chúng vấp ngã dưới chơn tôi.
\s5
\v 40 Ngài mặc sức lực trên tôi giống như cái đai dùng cho chiến trận; Ngài khiến những kẻ dấy nghịch tôi phải chịu lụy tôi.
\v 41 Ngài ban cho tôi gáy của kẻ thù tôi; tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi.
\s5
\v 42 Chúng kêu cứu, song chẳng ai đến cứu chúng; chúng kêu la cùng Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài không đáp lời chúng.
\v 43 Tôi đánh chúng tan tành giống như bụi ở trên mặt đất, tôi chà nát chúng giống như bùn ở ngoài đường.
\s5
\v 44 Ngài cũng giải cứu tôi khỏi những tranh cãi của dân tộc tôi. Ngài đã giữ tôi làm đầu của các nước. Một dân tôi không quen biết phục vụ tôi.
\v 45 Những người nước ngoài bị buộc phải sấp mình xuống trước mặt tôi. Họ sớm nghe nói về tôi, họ vâng phục tôi.
\v 46 Những người nước ngoài đã đến run rẩy từ các đồn lũy của họ.
\s5
\v 47 Đức Giê-hô-va hằng sống! Nguyện hòn đá tôi được ngợi khen. Nguyện Đức Chúa Trời được tôn cao, hòn đá cứu rỗi của tôi.
\v 48 Đây là Đức Chúa Trời, Ngài thực hiện sự báo thù thay cho tôi, Ngài là Đấng làm cho nhiều người phải phục dưới chân tôi.
\v 49 Ngài buông tha tôi khỏi các kẻ thù tôi. Quả thực, Ngài nâng tôi lên trên những kẻ dấy lên nghịch cùng tôi. Ngài giải cứu tôi khỏi hạng người hung tàn.
\s5
\v 50 Vì lẽ đó, tôi sẽ dâng lời cảm tạ Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va, giữa vòng các dân; tôi sẽ hát ngợi khen cho danh của Ngài.
\v 51 Đức Chúa Trời ban chiến thắng lớn lao cho vua của Ngài, và Ngài tỏ ra sự thành tín giao ước với kẻ chịu xức dầu của Ngài, cho Đa-vít và cho dòng dõi người đến đời đời".
\s5
\c 23
\p
\v 1 Bây giờ, đây là lời lẽ sau cùng của Đa-vít — Đa-vít con trai của Gie-sê, là người được tôn cao, là người được Đức Chúa Trời của Gia-cốp xức dầu cho, tác giả Thi thiên ngọt ngào của Y-sơ-ra-ên.
\v 2 "Thánh Linh của Đức Giê-hô-va đã phán bởi ta, và lời của Ngài đã ở trên lưỡi ta.
\s5
\v 3 Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán, Hòn Đá của Y-sơ-ra-ên đã phán cùng ta: 'Người nào cai trị cách công bình trên loài người, người cai trị trong sự kính sợ Chúa.
\v 4 Người sẽ giống như sự sáng láng buổi sáng khi mặt trời mọc lên, một buổi sáng không có mây, khi cỏ mọc lên khỏi đất dù ánh sáng chói chang của mặt trời sau khi mưa.
\s5
\v 5 Thực vậy, có phải gia đình tôi không giống như cỏ nầy ở trước mặt Đức Chúa Trời? Có phải Ngài không lập giao ước đời đời với ta, có trình tự và chắc chắn trong từng phương thức? Có phải Ngài không thêm ơn cứu rỗi và làm ứng nghiệm từng ước ao của ta?
\s5
\v 6 Nhưng kẻ không ra gì hết thảy đều giống như chà chuôm bị vứt bỏ đi, vì chúng không thể dùng tay thâu lấy được.
\v 7 Người nào chạm đến chúng phải dùng công cụ bằng sắt hoặc cán giáo để gom chúng lại, chúng phải bị đốt đi ở nơi có chúng'".
\s5
\v 8 Đây là tên các chiến binh của Đa-vít: Giô-sép-Ba-sê-bết, người Tách-kê-môn, làm đầu lính thị vệ của vua. Người đã giết tám trăm người trong một dịp kia.
\s5
\v 9 Sau người là Ê-lê-a-sa con trai của Đô-đô, cháu của A-cô-hi, một trong ba người mạnh sức của Đa-vít. Người có mặt khi họ đánh dân Phi-li-tin, họ cùng nhau có mặt để chiến trận, và khi người của Y-sơ-ra-ên đã rút đi.
\v 10 Ê-lê-a-sa đứng đó và đánh dân Phi-li-tin cho đến khi tay người mỏi mệt và tay người tê cứng lại nơi gươm mình. Đức Giê-hô-va đã đem lại một chiến thắng lớn lao cho ngày ấy. Quân đội trở về sau Ê-lê-a-sa, chỉ có tước lột các thi thể mà thôi.
\s5
\v 11 Sau người là Sam-ma con trai của A-ghe, người Ha-ra. Dân Phi-li-tin tụ tập lại đông lắm ngoài đồng, và quân đội chạy trốn khỏi chúng.
\v 12 Nhưng Sam-ma đứng ở giữa đồng và bảo vệ nó. Ông giết người Phi-li-tin, và Đức Giê-hô-va đã đem lại một chiến thắng lớn lao.
\s5
\v 13 Ba trong ba mươi chiến binh đi xuống với Đa-vít vào mùa gặt, tới hang đá A-đu-lam. Quân đội Phi-li-tin đóng trong đồng bằng Rê-pha-im.
\v 14 Lúc bấy giờ Đa-vít còn ở trong đồn của mình, một hang động, đang khi dân Phi-li-tin đã đóng tại thành Bết-lê-hem.
\s5
\v 15 Đa-vít ước ao về nước uống, ông nói: "Nếu người nào cho ta nước uống lấy từ giếng ở thành Bết-lê-hem, cái giếng ở gần cổng thành đó!"
\v 16 Thế là ba người mạnh sức nầy đã xuyên ngang qua quân Phi-li-tin rồi lấy nước của giếng ở Bết-lê-hem, cái giếng ở ngay nơi cổng thành. Họ lấy nước rồi mang về cho Đa-vít, nhưng ông từ chối không chịu uống nước đó. Thay vì thế, ông đổ nước ra trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 17 Khi ấy ông nói: "Lạy Đức Giê-hô-va, thật là khó cho tôi lắm, nếu tôi uống nước nầy. Tôi có nên uống huyết của mấy người đã liều mạng sống của họ sao?" Thế là ông từ chối không uống nước ấy. Đây là những việc mà ba người mạnh sức nầy đã làm.
\s5
\v 18 A-bi-sai, em của Giô-áp và là con trai của Xê-ru-gia, là quan trưởng của ba người. Ông từng giao chiến với ngọn giáo của mình chống lại ba trăm người rồi giết họ. Ông thường được nhắc tới cùng với ba chiến binh.
\v 19 Có phải ông không nổi tiếng hơn ba người sao? Ông được lập làm trưởng của họ. Tuy nhiên, tiếng tăm của ông không bằng tiếng tăm của ba chính binh nổi tiếng nhất.
\s5
\v 20 Bê-na-gia từ Cáp-sê-ên là con trai của Giê-hô-gia-đa; ông là một người mạnh sức có công rất lớn. Ông giết hai con trai của A-ri-ên xứ Mô-áp. Ông cũng xuống cái hố kia và giết một con sư tử trong khi trời đổ tuyết xuống.
\v 21 Và ông đã giết một gã Ai-cập to con. Người Ai-cập có ngọn giáo trong tay mình, song Bê-na-gia đã giao chiến với hắn chỉ với một cây gậy. Ông bắt lấy ngọn giáo, rút ra khỏi tay của gã Ai-cập rồi giết hắn bằng ngọn giáo của hắn.
\s5
\v 22 Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa đã làm các việc nầy, và ông được kể chung với ba người mạnh sức.
\v 23 Ông được xem trọng hơn ba mươi chiến binh nói chung, nhưng ông không hoàn toàn được xem cao kỳ hơn ba người chiến binh kia. Tuy nhiên Đa-vít đặt ông nắm quyền chỉ huy quân thị vệ của mình.
\s5
\v 24 Ba mươi người bao gồm những người sau đây: A-sa-ên em của Giô-áp, En-ca-nan con trai của Đô-đô từ Bết-lê-hem,
\v 25 Sam-ma người Ha-rốt, Ê-li-ca người Ha-rốt,
\v 26 Hê-lết người Phê-lết, Y-ra con trai của Y-ke người Thê-coa,
\v 27 A-bi-ê-xe người A-na-tốt, Mê-bô-nai người Hu-sa,
\v 28 Sanh-môn người A-hô-a, Ma-ha-rai người Nê-tô-pha;
\s5
\v 29 Hê-lép con của Ba-a-na, người Nê-tô-pha, Y-tai con trai của Ri-bai từ Ghi-bê-a thuộc dân Bên-gia-min,
\v 30 Bê-na-gia người Phi-ra-thôn, Hi-đai thuộc đồng bằng Ga-ách.
\v 31 A-bi-anh-đôn người A-ra-ba, Ách-ma-vét người Bạt-cum,
\v 32 Ê-li-a-ba người Sa-bôn, con trai của Gia-sen ở Gia-sen, Giô-na-than;
\s5
\v 33 Sam-ma người A-ra-rít, A-hi-am con trai của Sa-ra người A-ra-rít,
\v 34 Ê-li-phê-lết con trai của A-ha-bai người Ma-ca-thít, Ê-li-am con trai của A-hi-tô-phe người Ghi-lô,
\v 35 Hết-rai người Cạt-mên, Pha-rai người A-ráp,
\v 36 Di-ganh con trai của Na-than từ Xô-ba, Ba-ni từ chi phái Gát,
\s5
\v 37 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-ê-rốt, người vác binh khí của Giô-sáp con trai của Xê-ru-gia,
\v 38 Y-ra người Giê-the, Ga-rép người Giê-the,
\v 39 U-ri người Hê-tít — cả thảy là ba mươi bảy người.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Một lần nữa, cơn giận của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, và Ngài cảm động Đa-vít nghịch cùng họ như sau: "Hãy đi, kiểm kê dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa".
\v 2 Nhà vua nói với quan tổng binh Giô-áp ở gần người: "Hãy đi khắp các chi phái Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, kiểm tra mọi người, hầu cho ta biết tổng số nam giới có thể ra trận được".
\s5
\v 3 Giô-áp nói với nhà vua: "Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông nhân rộng số người lên cả trăm lần, và nguyện mắt của vua chúa tôi nhìn thấy điều đó diễn ra. Nhưng tại sao vua chúa tôi mong muốn điều nầy chứ?"
\v 4 Tuy nhiên, lời của nhà vua sau cùng nghịch lại Giô-áp và chống lại các quan tướng của quân đội. Thế là Giô-áp cùng các quan tướng ra khỏi sự hiện diện của nhà vua để kiểm tra dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Họ băng qua sông Giô-đanh rồi đóng trại gần A-rô-e, phía Nam thành phố trong đồng bằng. Khi ấy họ đi xuyên qua Gát đến Gia-ê-xe.
\v 6 Họ đến tại Ga-la-át rồi đến xứ Ta-tim Gốt-si, rồi đến Đan Gia-an và đi vòng hướng tới Si-đôn.
\v 7 Họ ra tới đồn Ty-rơ và hết thảy các thành của dân Hê-vít và dân Ca-na-an. Khi ấy họ đến tại Nê-giép trong xứ Giu-đa tại Bê-e-sê-ba.
\s5
\v 8 Khi họ đã đi xuyên qua cả xứ, họ trở về thành Jerusalem vào cuối chín tháng hai mươi ngày.
\v 9 Khi ấy Giô-áp tường trình lại toàn bộ kiểm tra số người chiến đấu được cho nhà vua. Đã có trong Y-sơ-ra-ên tám trăm ngàn chiến binh can đảm, có tài cầm gươm và người xứ Giu-đa là năm trăm ngàn người.
\s5
\v 10 Thế là lòng Đa-vít khổ sở sau khi ông kiểm tra lính chiến. Vì vậy ông thưa cùng Đức Giê-hô-va: "Tôi đã phạm tội trọng do làm công việc nầy. Bây giờ, hỡi Đức Giê-hô-va, xin cất bỏ tội lỗi của tôi tớ Ngài, vì tôi đã làm cách dại dột".
\s5
\v 11 Khi Đa-vít thức dậy lúc ban sáng, lời của Đức Giê-hô-va đã đến với tiên tri Gát, đấng tiên kiến của Đa-vít như sau:
\v 12 "Hãy đi nói với Đa-vít: 'Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: "Ta sẽ cho ngươi ba sự lựa chọn. Hãy chọn một trong số đó"'".
\s5
\v 13 Thế là Gát đến gặp Đa-vít rồi nói với ông như vầy: "Liệu ba năm đói kém đến với ngươi trong xứ ngươi? Hoặc ngươi sẽ chạy trốn kẻ thù trong ba tháng khi chúng đuổi theo ngươi? Hoặc sẽ có ba ngày dịch lệ trong xứ của ngươi? Giờ đây, hãy quyết định trả lời ra sao để ta trở về gặp Đấng đã sai ta".
\v 14 Khi ấy Đa-vít nói với Gát: "Ta bối rối lắm. Hãy để chúng tôi sa vào tay của Đức Giê-hô-va thay vì vào tay của người ta, vì những hành động thương xót của Ngài là rất lớn".
\s5
\v 15 Vậy, Đức Giê-hô-va sai một trận dịch giáng trên Y-sơ-ra-ên từ sáng cho đến thì giờ Ngài đã nhất định, và bảy mươi ngàn người đã ngã chết từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba.
\v 16 Khi thiên sứ chìa tay Ngài ra hướng về thành Jerusalem đặng hủy diệt nó, Đức Giê-hô-va bèn đổi ý Ngài về sự thiệt hại, và phán cùng thiên sứ sẽ hủy diệt dân sự: "Đủ rồi! Giờ hãy rút tay ngươi lại". Lúc ấy, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng tại sân đạp lúa của A-rau-na người Giê-bu-sít.
\s5
\v 17 Và Đa-vít thưa cùng Đức Giê-hô-va khi ông nhìn thấy thiên sứ đã tấn công dân sự, ông nói: "Tôi đã phạm tội, và tôi đã làm cách ngang bướng. Nhưng bầy chiên nầy, Họ có làm gì đâu? Làm ơn xin hành hại tôi và nhà cha tôi!"
\s5
\v 18 Khi ấy Gát đến tìm Đa-vít rồi nói với ông như sau: "Hãy đi lên xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại sân đạp lúa của A-rau-na người Giê-bu-sít".
\v 19 Thế là Đa-vít đi lên y như Gát căn dặn ông phải làm, y như Đức Giê-hô-va đã truyền bảo.
\v 20 A-rau-na nhìn lên thấy nhà vua cùng các tôi tớ người đang đi đến. Vậy, A-rau-na đi ra sấp mình xuống trước nhà vua, mặt úp dưới đất.
\s5
\v 21 Khi ấy A-rau-na nói: "Cớ sao vua chúa tôi đến cùng tôi, là tôi tớ Ngài?" Đa-vít đáp: "Để mua sân đáp lúa của ngươi, để ta có thể xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, hầu cho dịch lệ sẽ bị dời đi khỏi dân sự".
\v 22 A-rau-na thưa cùng:"Hãy lấy nó theo như ý ông, là vua chúa tôi. Hãy làm với nó điều chi là tốt lành trong mắt ông. Hãy xem, đây là con bò dùng làm của lễ thiêu, cộ và ách bò dùng làm củi.
\v 23 Lạy vua chúa tôi, mọi sự nầy tôi, A-rau-na, sẽ dâng cho vua". Khi ấy, ông thưa với nhà vua: "Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua tiếp nhận vua".
\s5
\v 24 Nhà vua nói với A-rau-na: "Không, ta quyết mua nó với một giá. Ta sẽ không dâng một của lễ thiêu nào cho Đức Giê-hô-va mà chẳng tổn phí". Vậy Đa-vít mua sân đạp lúa và con bò với giá năm mươi siếc lơ bạc.
\v 25 Đa-vít xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va ở đó và dâng trên đó của lễ thiêu và của lễ tương giao. Như vậy Đức Giê-hô-va đẹp lòng nghĩ đến xứ, và dịch lệ đã dừng lại trong Y-sơ-ra-ên.

1583
11-1KI.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1583 @@
\id 1KI
\ide UTF-8
\h 1 CÁC VUA
\toc1 1 CÁC VUA
\toc2 1 CÁC VUA
\toc3 1ki
\mt 1 CÁC VUA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Vua Đa-vít đã già và tuổi tác đã cao. Người ta đắp quần áo cho ông, nhưng ông không thể ấm được.
\v 2 Do đó, các tôi tớ nói với ông, “Để chúng tôi đi tìm một trinh nữ cho vua chúa chúng tôi. Hãy để nàng hầu hạ và chăm sóc vua. Hãy để nàng nằm trong vòng tay vua để vua chúa chúng tôi được ấm áp.”
\s5
\v 3 Vậy, họ tìm một thiếu nữ xinh đẹp trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Họ tìm được A-bi-sác, người Su-nem, và dẫn nàng đến cho vua.
\v 4 Nàng rất xinh đẹp. Nàng phục vụ và chăm sóc vua, nhưng vua không liên hệ tình dục cùng nàng.
\s5
\v 5 Khi đó, A-đô-ni-gia, con trai của Ha-ghít, tự tôn mình, nói rằng, “Ta sẽ làm vua. ” Vậy người tự sắm các chiến mã và lính kỵ cùng với năm mươi người chạy trước mặt mình.
\v 6 Cha người không bao giờ phiền muộn về người mà nói rằng, “Sao con làm điều này hay điều kia? ” A-đô-ni-gia cũng là một người rất đẹp trai, là em của Áp-sa-lôm.
\s5
\v 7 Ông hội ý với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, và với thầy tế lễ A-bia-tha. Họ xuôi theo A-đô-ni-gia và giúp đỡ người.
\v 8 Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa, tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và những dũng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia.
\s5
\v 9 A-đô-ni-gia dâng chiên, bò đực, và bò mập trên tảng đá Xô-hê-lết, gần Ên Rô-ghên. Ông mời tất cả các anh em mình, là hoàng tử của vua, và tất cả những người nam của Giu-đa, là quan chức của vua.
\v 10 Nhưng ông không mời tiên tri Na-than, Bê-na-gia, các dũng sĩ, hoặc em mình là Sa-lô-môn.
\s5
\v 11 Sau đó Na-than nói với Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn, rằng, “Bà không biết tin A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã lên làm vua, và Đa-vít, chủ chúng ta, không biết sao?
\v 12 Vậy bây giờ, tôi sẽ cho bà lời khuyên, đặng bà giữ mạng mình và mạng của Sa-lô-môn, con trai bà.
\s5
\v 13 Hãy đến gặp Vua Đa-vít; tâu rằng, Thưa vua, chủ tôi, chẳng phải vua đã thề với tôi tớ vua rằng, “Chắc chắn Sa-lô-môn, con trai nàng, sẽ lên kế vị ta, và sẽ ngồi trên ngai ta? ” Vậy tại sao bây giờ A-đô-ni-gia lại lên cai trị?
\v 14 Trong lúc bà còn đang tâu với vua, tôi sẽ vào sau bà và xác nhận lời nói của bà.”
\s5
\v 15 Vậy Bát-sê-ba vào phòng của vua. Vua rất già, và A-bi-sác, người Su-nem, đang hầu hạ vua.
\v 16 Bát-sê-ba quỳ xuống và phủ phục trước mặt vua. Vua hỏi, “Nàng muốn gì? ”
\v 17 Bà tâu rằng, “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đã nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của bệ hạ mà thề cùng thiếp rằng, Chắc chắn Sa-lô-môn con trai nàng sẽ kế vị ta, và nó sẽ ngồi trên ngai ta.
\s5
\v 18 Bây giờ, kìa, A-đô-ni-gia làm vua, còn bệ hạ, là chủ của thiếp, thì lại không biết.
\v 19 Nó đã dâng bò đực, bò mập và rất nhiều chiên, và mời hết thảy hoàng tử của bệ hạ, thầy tế lễ A-bi-a-tha, và Giô-áp, sĩ quan quân đội, nhưng nó không mời Sa-lô-môn, tôi tớ của bệ hạ.
\s5
\v 20 Thưa bệ hạ, chủ của thiếp, mắt của Y-sơ-ra-ên dõi theo bệ hạ, họ trông chờ bệ hạ sẽ cho biết người nào kế vị bệ hạ.
\v 21 Nếu không, khi bệ hạ an giấc cùng tổ phụ mình, thiếp và Sa-lô-môn, con trai của thiếp, sẽ bị xem là kẻ tội đồ.”
\s5
\v 22 Trong khi bà còn đang tâu với vua, tiên tri Na-than bước vào.
\v 23 Các tôi tớ thưa với vua, “Tiên tri Na-than đang ở đây. ” Na-than bước vào diện kiến vua, ông phủ phục trước mặt vua và sấp mặt xuống đất.
\s5
\v 24 Na-than tâu, “Muôn tâu bệ hạ, chủ của hạ thần, có phải bệ hạ đã nói rằng, A-đô-ni-gia sẽ kế vị ta, và nó sẽ ngồi trên ngai ta?
\v 25 Vì hôm nay người đã đi xuống dâng bò đực, bò mập, và nhiều chiên, người có mời hết thảy hoàng tử của bệ hạ, các sĩ quan quân đội, và thầy tế lễ A-bia-tha. Họ đang ăn uống trước mặt người, và hô rằng, Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!”
\s5
\v 26 Nhưng đối với hạ thần, là tôi tớ của bệ hạ, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa, và tôi tớ bệ hạ là Sa-lô-môn đều không được mời.
\v 27 Phải chăng bệ hạ, chủ của hạ thần, đã làm việc này mà không cho bầy tôi của bệ hạ biết rằng ai sẽ kế vị?”
\s5
\v 28 Sau đó Vua Đa-vít trả lời rằng, “Hãy gọi Bát-sê-ba trở lại cho ta. ” Nàng bước đến trước mặt vua và đứng chầu.
\v 29 Vua thề và nói rằng, “Vì Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng đã giải cứu ta khỏi mọi tai họa,
\v 30 như ta đã nhân danh Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mà thề cùng ngươi rằng, Sa-lô-môn, con trai nàng, sẽ kế vị ta, và nó sẽ ngồi trên ngai ta, Hôm nay ta sẽ thực thi lời thề ấy. ”
\v 31 Vậy Bát-sê-ba sấp mặt quỳ xuống và phủ phục trước mặt vua, tâu rằng, “Nguyện Vua Đa-vít, chủ tôi sống lâu mãi!
\s5
\v 32 Vua Đa-vít nói, “Hãy gọi thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-nai-gia, con trai Giê-hô-gia-đa cho ta. ” Vậy họ đến trước mặt vua.
\v 33 Vua nói với họ, “Hãy dẫn tôi tớ ta, chủ của các ngươi, theo các ngươi, rồi cho Sa-lô-môn, con trai ta ngồi lên con la của ta, sau đó dẫn nó xuống Ghi-hôn.
\v 34 Tại đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than sẽ xức dầu cho nó làm vua cai trị Y-sơ-ra-ên rồi thổi kèn và hô lên rằng, Vua Sa-lô-môn vạn tuế!”
\s5
\v 35 Sau đó các ngươi sẽ đi lên theo sau nó, và nó sẽ đến ngồi trên ngai ta; vì nó sẽ kế vị ta. Ta đã chỉ định nói cai trị Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. ”
\v 36 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, tâu cùng vua và rằng, “Nguyện được như vậy! Cầu xin Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của bệ hạ chúng tôi chứng giám điều đó.
\v 37 Vì Đức Giê-hô-va đã ở cùng bệ hạ, chủ của hạ thần, cho nên Ngài sẽ ở cùng với Sa-lô-môn, và làm cho ngai của người lớn hơn ngai bệ hạ, chủ của hạ thần, là Vua Đa-vít.”
\s5
\v 38 Vậy, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa, cùng người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít đi xuống đỡ Sa-lô-môn lên con lừa của Vua Đa-vít; họ dẫn người tới Ghi-hôn.
\v 39 Thầy tế lễ Xa-đốc lấy sừng đựng dầu trong đền tạm và xức cho Sa-lô-môn. Rồi họ thổi kèn, cả dân sự đồng thanh hô lớn, “Vua Sa-lô-môn vạn tuế! ”
\v 40 Sau đó, tất cả dân chúng đi lên theo sau người, người ta thổi sáo và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất rúng động bởi tiếng hô vang của họ.
\s5
\v 41 A-đô-ni-gia và toàn thể quan khách đang ở với ông nghe có tiếng kêu lớn sau khi đã ăn xong. Khi Giô-áp nghe tiếng kèn thì hỏi, “Sao trong thành có tiếng ồn ào? ”
\v 42 Trong khi ông còn đang nói, thì Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha đến. A-đô-ni-gia nói, “Hãy đến đây, vì ngươi là người đáng tin và đem tin tốt lành.”
\s5
\v 43 Giô-na-than trả lời và tâu với A-đô-ni-gia, “Vua chúa chúng ta đã lập Sa-lô-môn lên làm vua.
\v 44 Và vua đã sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, đi với người. Họ đỡ Sa-lô-môn lên con lừa của vua.
\v 45 Thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho người làm vua tại Ghi-hôn, và họ đã lên đó reo mừng, đến nỗi cả thành phố đều náo động. Đó chính là tiếng ồn ào mà vua đã nghe.
\s5
\v 46 Ngoài ra, Sa-lô-môn đang ngồi trên ngai cai trị vương quốc.
\v 47 Hơn nữa, các triều thần đã đến chúc phước cho Vua chúa Đa-vít của chúng ta rằng, Cầu xin Đức Chúa Trời của bệ hạ làm cho Sa-lô-môn rạng danh hơn bệ hạ, và ngai của người lớn hơn ngai của bệ hạ. Rồi vua đã quỳ xuống bên giường.
\v 48 Vua nói rằng, Chúc tụng Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã cho có người ngồi trên ngai con hôm nay, và chính mắt con thấy điều đó. ’”
\s5
\v 49 Vậy tất cả các quan khách của A-đô-ni-gia đều kinh hãi; họ đứng lên và ai nấy trở về nhà mình.
\v 50 A-đô-ni-gia sợ Sa-lô-môn nên ông đứng dậy, bỏ đi, đến nắm các sừng trên bàn thờ.
\v 51 Người ta thuật lại với Sa-lô-môn rằng, “Kìa, A-đô-ni-gia sợ Vua Sa-lô-môn, vì người có nắm các sừng bàn thờ và nói rằng, “Xin Vua Sa-lô-môn thề với tôi trước nhất rằng vua sẽ không dùng gươm giết tôi tớ mình. ’”
\s5
\v 52 Sa-lô-môn trả lời, “Nếu người ăn ở tử tế, thì không một sợi tóc nào của người rơi xuống đất, nhưng nếu người ăn ở gian ác, thì người sẽ chết. ”
\v 53 Vậy Vua Sa-lô-môn sai người đến đem A-đô-ni-gia xuống khỏi bàn thờ. Người đến và quỳ trước mặt Vua Sa-lô-môn, và Sa-lô-môn nói rằng, “Hãy trở về nhà của ngươi.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Khi gần đến ngày Đa-vít băng hà, ông truyền cho Sa-lô-môn, con trai mình, rằng,
\v 2 “Ta sắp đi con đường mà cả thế gian đều đi. Vậy, con hãy mạnh mẽ và chứng tỏ mình là bậc trượng phu.
\v 3 Hãy giữ mạng lệnh của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con, đặng bước đi trong đường lối Ngài, vâng giữ luật thánh của Ngài, điều răn, phán quyết, và những sắc lệnh theo giao ước của Ngài, hãy cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong luật pháp Môi-se, hầu cho con được thạnh vượng trong mọi việc con làm, ở bất cứ nơi nào con đến,
\v 4 hầu cho Đức Giê-hô-va làm trọn lời Ngài đã phán về ta rằng, Nếu con cháu ngươi cẩn thận để ý cách cư xử, bước đi trung tín trước mặt Ta với trọn cả tấm lòng và linh hồn, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Con cũng biết điều Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã gây ra cho ta, và việc hắn đã gây ra với hai sĩ quan quân đội Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai Giê-the, tức hai người đã tử trận. Hắn làm đổ huyết trong thời bình nhưng lại dính huyết chiến trận trên thắt lưng và giày của hắn.
\v 6 Hãy dùng sự khôn ngoan mà con đã học mà xử lý Giô-áp, nhưng đừng để cái đầu bạc của hắn bình yên xuống mồ.
\s5
\v 7 Tuy nhiên, con hãy tỏ lòng nhân hậu đối với các con trai của Bát-xi-lai, người Ghi-la-át, và hãy để họ ngồi chung với những người ăn cùng bàn với con, vì họ đã sát cánh bên ta khi ta chạy trốn Áp-sa-lôm, anh của con.
\s5
\v 8 Kìa, ở với con là Si-mê-i - con trai Ghê-ra, người Ben-gia-min ở Ba-hu-rim, kẻ đã rủa sả ta bằng lời lẽ cay nghiệt khi ta đến Ma-ha-na-im. Si-mê-i đi xuống gặp ta ở Giô-đanh, và ta nhân danh Đức Giê-hô-va thề cùng nó rằng, Ta sẽ không dùng gươm giết ngươi.
\v 9 Vậy bây giờ con chớ để hắn thoát tội. Con là một người khôn ngoan, và con biết mình sẽ phải xử lý hắn ra sao. Con cho cái đầu bạc của hắn dính đầy huyết xuống mồ.”
\s5
\v 10 Vậy Đa-vít an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít.
\v 11 Đa-vít cai trị Y-sơ-ra-ên được bốn mươi năm. Ông cai trị bảy năm ở Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 12 Sau đó Sa-lô-môn kế vị cha mình là Đa-vít, và ông cai trị đất nước vững chắc.
\s5
\v 13 Rồi A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến gặp Bát-sê-ba, thân mẫu của Sa-lô-môn. Bà hỏi, “Ngươi đến bình an chăng? ” Ông trả lời, “Bình an. ”
\v 14 Ông nói, “Con có đôi điều muốn nói cùng bà. ” Bà trả lời, “Cứ nói đi! ”
\v 15 A-đô-ni-gia nói, “Bà biết rằng vương quốc này thuộc về con, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong con lên làm vua. Tuy nhiên, cuối cùng thì sự việc đã thay đổi và vương quốc này thuộc về em tôi, vì đó là do ý muốn của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Bây giờ con có một yêu cầu. Xin bà đừng từ chối. ” Bát-sê-ba nói, “Ngươi cứ nói. ”
\v 17 Ông nói, “Xin bà nói với vua Sa-lô-môn, vì người sẽ không từ chối bà, để người ban cho tôi A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ tôi. ”
\v 18 Bát-sê-ba đáp, “Tốt thôi, ta sẽ nói cho vua biết.”
\s5
\v 19 Vậy Bát-sê-ba đến gặp Vua Sa-lô-môn để nói giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và quỳ xuống trước mặt bà. Sau đó vua ngồi trên ngai và sai người ta đem một cái ngai đến cho mẫu hậu. Bà ngồi ở bên phải vua.
\v 20 Bà nói, “Mẹ muốn nhờ con một điều; chớ từ chối mẹ. ” Vua trả lời, “Mẹ cứ hỏi con, vì con sẽ không từ chối điều mẹ nói. ”
\v 21 Bà nói, “Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia, là anh con, đặng làm vợ.”
\s5
\v 22 Vua Sa-lô-môn trả lời và nói với bà, “Sao mẹ muốn A-bi-sác người Su-nem được ban cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ cũng không xin con cho anh ta vương quốc này luôn, vì đó là anh trai của con cũng ban cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha, và Giô-áp, con trai Xê-ru-gia? ”
\v 23 Vậy Vua Sa-lô-môn nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề rằng, “Nguyện Đức Chúa Trời xử con và xử nhiều hơn nữa, nếu A-đô-ni-gia không nói lời này trái với mạng sống mình.
\s5
\v 24 Bây giờ, vì Đức Giê-hô-va là Đấng sống, Đấng đã lập con trên ngai Đa-vít, cha của con, và ban cho con một nhà như Ngài đã hứa, chắc chắn hôm na A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử. ”
\v 25 Vậy Vua Sa-lô-môn ra lệnh cho Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa truy tìm A-đô-ni-gia và giết ông ấy.
\s5
\v 26 Vậy vua phán với thầy tế lễ A-bia-tha rằng, “Hãy đến A-na-tốt, về lại những cánh đồng của ngươi. Ngươi thật đáng chết, nhưng lần này ta sẽ không giết ngươi, vì ngươi đã khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời trước mặt Đa-vít, thân phụ ta, và chịu đau khổ cùng người. ”
\v 27 Vậy Sa-lô-môn cắt chức tế lễ của A-bia-tha trước mặt Đức Giê-hô-va, làm ứng nghiệm lời của Đức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li tại Si-lô.
\s5
\v 28 Tin tức đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm. Vậy Giô-áp chạy trốn đến đền tạm của Đức Giê-hô-va và nắm các sừng bàn thờ.
\v 29 Người ta báo lại cho Vua Sa-lô-môn rằng Giô-áp đã chạy trốn đến đền tạm của Đức Giê-hô-va và bấy giờ đang ở cạnh bàn thờ. Vậy Sa-lô-môn sai Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, rằng, “Hãy đi xử tử hắn.”
\s5
\v 30 Bê-na-gia đến đền tạm của Đức Giê-hô-va và nói với ông, “Vua nói rằng, Hãy ra khỏi đây. ’” Giô-áp đáp lại, “Không, tôi sẽ chết ở đây. ” Bê-na-gia trở về gặp vua, tâu rằng, “Giô-áp nói rằng hắn muốn chết ở bàn thờ. ”
\v 31 Vua nói cùng ông, “Hãy làm như lời hắn nói. Hãy giết và chôn hắn, đặng các ngươi cất khỏi ta và nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã làm đổ ra vô cớ.
\s5
\v 32 Nguyện Đức Giê-hô-va đổ lại huyết này trên đầu hắn, vì hắn đã tấn công hai người công bình hơn và tốt hơn hắn và dùng gươm giết họ cùng với Áp-ne - con trai Nê-rơ, sĩ quan quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa - con trai Giê-the, sĩ quan quân đội Giu-đa, mà Đa-vít, thân phụ ta, lại không biết.
\v 33 Vậy nguyền huyết của họ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu con cháu hắn muôn đời. Nhưng nguyện Đức Giê-hô-va ban sự bình an đời đời cho Đa-vít và con cháu người, nhà của người, cùng ngai của người,.”
\s5
\v 34 Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đi lên tấn công Giô-áp và giết chết ông ấy. Người ta chôn ông ấy trong nhà của ông ở hoang mạc.
\v 35 Vua đặt Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa lên chỉ huy quân đội ở nơi mình, và ông đặt thầy Xa-đốc lên làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha.
\s5
\v 36 Sau đó, vua sai người triệu tập Si-mê-i, và nói rằng, “Ngươi hãy cất nhà ở Giê-ru-sa-lem và sống tại đó, đừng rời khỏi đó đến nơi nào khác.
\v 37 Vì nếu ngươi ra ngoài, và băng qua Thung lũng Kít-rôn, ắt hẳn ngươi sẽ chết. Huyết của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.
\v 38 Vậy Si-mê-i nói cùng vua, “Điều bệ hạ đã nói thật tốt lành. Hạ thần sẽ tuân lệnh như bệ hạ, chủ của hạ thần, đã truyền. ” Vậy Si-mê-i sống tại Giê-ru-sa-lem trong lâu ngày.
\s5
\v 39 Nhưng vào cuối ba năm, thì hai trong số các đầy tớ của Si-mê-i chạy trốn đến nhà A-kích, con trai Ma-a-ca, vua xứ Gát. Họ nói với Si-mê-i rằng, “Kìa, các tôi tớ của ông đang ở tại Gát. ”
\v 40 Vậy Si-mê-i đứng dậy, thắng yên lừa và đi đến A-kích ở xứ Gát để tìm các tôi tớ người. Ông đi và đem các tôi tớ của ông từ xứ Gát trở về.
\s5
\v 41 Khi Sa-lô-môn hay rằng Si-mê-i đã đi từ Giê-ru-sa-lem đến Gát và đã trở về,
\v 42 vua sai người đến gọi Si-mê-i và nói rằng, “Chẳng phải ta đã không bắt ngươi chỉ danh Đức Giê-hô-va mà thề, và xác nhận với ngươi rằng, Hãy nhớ rằng nếu ngày nào đó ngươi ra đi và đi đến bất cứ nơi nào khác, chắc chắn ngươi sẽ chết? Rồi ngươi nói với ta, Lời của bệ hạ thật tốt lành.
\s5
\v 43 Sao ngươi không giữ lời thề trước mặt Đức Giê-hô-va, và lệnh mà ta đã truyền cho ngươi? ”
\v 44 Vua cũng nói với Si-mê-i, “Ngươi biết rõ trong lòng mình mọi điều ác mà ngươi đã gây ra cho Đa-vít, thân phụ ta. Vậy Đức Giê-hô-va sẽ báo trả việc ác ngươi đã gây ra.
\s5
\v 45 Nhưng Vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngai Đa-vít sẽ được thiết lập trước mặt Đức Giê-hô-va mãi mãi. ”
\v 46 Vậy vua sai Bê-na-gia - con trai Giê-hô-gia-đa đem Si-mê-i ra ngoài và xử tử. Vậy quyền cai trị được lập vững chắc trong tay Sa-lô-môn.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Sa-lô-môn liên minh với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, bằng cách cưới con gái của Pha-ra-ôn rồi đem nàng về thành Đa-vít đến khi đã xây xong cung điện cho mình, đền thờ của Đức Giê-hô-va, và tường thành Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Dân sự khi đó dâng của lễ tại các điện thờ, vì chưa có đền thờ nào được xây cho danh Đức Giê-hô-va.
\v 3 Sa-lô-môn yêu mến Đức Giê-hô-va, bước theo các luật lệ của Đa-vít, cha mình, ngoại trừ việc ông dâng tế lễ và đốt hương ở các điện thờ.
\s5
\v 4 Vua đến Ghi-bê-ôn để dâng tế lễ, vì đó là điện thờ lớn. Sa-lô-môn dâng một ngàn của lễ thiêu trên bàn thờ đó.
\v 5 Đức Giê-hô-va hiện ra với Sa-lô-môn tại Ghi-bê-ôn trong giấc chiêm bao; Ngài phán, “Hãy xin! Ta sẽ ban cho ngươi điều chi?”
\s5
\v 6 Vậy Sa-lô-môn trả lời, “Chúa đã bày tỏ sự thành tín lớn lao theo giao ước với tôi tớ Ngài là Đa-vít, thân phụ con, vì người đã bước đi trước mặt Ngài cách ngay thẳng, công bình, và chánh trực trong lòng. Ngài đã giữ sự thành tín lớn lao này cho người và ban cho người một con trai kế vị hôm nay.
\s5
\v 7 Và giờ đây, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, Ngài đã lập tôi tớ của Ngài lên làm vua kế vị cho thân phụ con, là Đa-vít, dù con chỉ là một đứa trẻ. Con không biết phải đi ra đi vào thể nào.
\v 8 Tôi tớ Ngài ở giữa dân mà Ngài đã chọn, là một dân lớn, đông đến nỗi không thể đếm hoặc thống kê hết.
\v 9 Vậy, xin Chúa ban cho tôi tớ Ngài một tấm lòng thông minh để đoán xét dân sự Ngài, đặng con có thể phân biệt giữa điều thiện và điều ác. Vì ai có thể đoán xét dân lớn này của Ngài?”
\s5
\v 10 Lời cầu xin của Sa-lô-môn làm hài lòng Chúa.
\v 11 Đức Chúa Trời phán cùng ông, “Vì ngươi đã xin điều này mà không xin sự sống lâu, sự giàu có, hoặc mạng sống của kẻ thù ngươi, nhưng xin sự hiểu biết để nhận thức công lý.
\v 12 Kìa, bây giờ Ta sẽ ban cho ngươi mọi điều ngươi đã cầu xin Ta. Ta ban cho ngươi một tấm lòng khôn ngoan và am hiểu, hầu cho trước ngươi không có ai bằng, và sau ngươi sẽ không ai sánh được.
\s5
\v 13 Ta cũng ban cho ngươi điều ngươi không xin, tức là sự giàu có và danh giá, hầu cho sẽ không có vua nào giống như ngươi trong trọn đời ngươi.
\v 14 Nếu ngươi bước theo đường lối Ta, giữ các luật lệ và mạng lệnh Ta, như Đa-vít, cha ngươi, đã làm, thì Ta sẽ làm cho ngươi sống lâu hơn.”
\s5
\v 15 Sau đó Sa-lô-môn thức giấc, và kìa, đó là một giấc chiêm bao. Ông đến Giê-ru-sa-lem và đứng trước hòm giao ước của Chúa. Ông dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân, và đãi tiệc cho tất cả tôi tớ mình.
\s5
\v 16 Bấy giờ có hai người cô gái điếm đến gặp vua và chầu ông.
\v 17 Một người nữ nói, “Ôi, thưa chủ tôi, người nữ này và tôi chung sống trong một nhà, tôi và chị ấy cùng sinh con khi ở đó.
\s5
\v 18 Vào ngày thứ ba sau khi tôi sinh nở, chị ấy cũng sinh con trai. Chúng tôi cùng ở với nhau. Không ai ở chung với chúng tôi, chỉ có hai người chúng tôi thôi.
\v 19 Sau đó, con trai của chị chết trong đêm, vì chị ấy nằm đè lên nó.
\v 20 Vì vậy, chị ấy thức dậy lúc nửa đêm và lấy con trai tôi đang nằm cạnh tôi, trong khi tôi tớ của vua đang ngủ, rồi để nó nằm trên ngực mình, sau đó đặt đứa con trai đã chết của chị lên ngực tôi.
\s5
\v 21 Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy để cho đứa trẻ bú, thì nó đã chết rồi. Nhưng sáng hôm đó, khi tôi cẩn thận nhìn kỹ nó, thì đó không phải là đứa con trai do tôi sinh. ”
\v 22 Sau đó người kia nói, “Không, đứa đang sống là con trai tôi, còn đứa đã chết là con chị. ” Người nữ thứ nhất nói, “Không, đứa chết là con chị, còn đứa đang sống là con tôi. ” Hai người nói như vậy trước mặt vua.
\s5
\v 23 Sau đó vua phán, “Không ai trong hai chị nói rằng, Đứa đang sống là của tôi, còn con trai của chị đã chết rồi, và người kia nói, Không, con trai của chị là đứa đã chết, còn con trai của tôi là đứa còn sống. ’”
\v 24 Vua bảo, “Hãy đem đến cho ta một thanh gươm. ” Vậy họ đem đến cho vua một thanh gươm.
\v 25 Sau đó vua phán, “Hãy chặt đứa bé còn sống làm đôi, rồi đưa một nửa cho chị này, còn một nửa cho chị kia.”
\s5
\v 26 Vậy người nữ mà có đứa con còn sống thưa với vua, vì nàng thương xót đứa con mình, nàng nói rằng, “Ôi, thưa chủ tôi, xin hãy cho chị ấy đứa trẻ còn sống, đừng giết nó. ” Nhưng người nữ kia nói, “Nó sẽ chẳng phải là con của chị hoặc của tôi. Hãy chia đôi nó. ”
\v 27 Vậy vua trả lời rằng, “Hãy trao đứa trẻ còn sống cho người nữ thứ nhất, và đừng giết nó. Chị ấy là mẹ của nó. ”
\v 28 Khi cả Y-sơ-ra-ên nghe đến sự xử đoán mà vua đã thực hiện, họ kinh sợ vua, vì họ thấy rằng người có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong việc xử đoán.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Vua Sa-lô-môn cai trị khắp Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Đây là các quần thần của ông: A-xa-ria, con trai Xa-đốc, làm thầy tế lễ.
\v 3 Ê-li-hô-rếp và A-hi-gia, con trai Si-sa, làm thư ký. Giê-hô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm ngự sử.
\v 4 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội. Xa-đốc và A-bia-tha làm thầy tế lễ.
\s5
\v 5 A-xa-ria, con trai Na-than, chỉ huy các quan lại. Xa-bút, con trai Na-than, làm thầy tế lễ và là bạn của vua.
\v 6 A-hi-sa quản lý hoàng cung. A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, quản lý việc lao dịch.
\s5
\v 7 Sa-lô-môn có mười hai quan chức cai trị khắp Y-sơ-ra-ên, họ là người cung cấp thực phẩm cho vua và hoàng gia. Mỗi người phải cung cấp trong một tháng mỗi năm.
\v 8 Đây là tên của họ: Ben Hu-rơ, phụ trách vùng cao nguyên Ép-ra-im;
\v 9 Bên Đê-ke phụ trách vùng Ma-cát, Sa-anh-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lôn-bết Ha-nan;
\v 10 Bên Hê-sết phụ trách vùng A-ru-bốt (ông quản lý Sô-cô và cả xứ Hê-phe);
\s5
\v 11 Bên A-bi-na-đáp phụ trách toàn quận Đô-rơ (ông cưới vợ là Ta-phát, con gái của Sa-lô-môn);
\v 12 Ba-a-na, con trai A-hi-lút, phụ trách Ta-a-nách và Mê-ghi-đô, cả vùng Bết Sê-an gần Xa-rê-than, dưới Giê-rê-ên, từ Bết Sa-ên đến A-bên Mê-hô-la, qua bên kia Giốc-mê-am;
\v 13 Bên Ghê-be phụ trách vùng Ra-mốt Ghi-lê-át (ông phụ trách các thành phố của Giai-rơ, con trai Ma-na-se, ở Ghi-lê-át, và khu vực Ạc-gốp mà ông quản lý, thuộc xứ Ba-san, với sáu mươi thành lớn có tường thành và thanh cài cổng bằng đồng);
\v 14 A-hi-na-đáp, con trai Y-đô, phụ trách Ma-ha-na-im;
\s5
\v 15 A-hi-ma phụ trách Nép-ta-li (ông cũng cưới vợ là Bách-mát, con gái Sa-lô-môn);
\v 16 Ba-a-na, con trai Hu-sai, phụ trách A-se và Bê-a-lốt;
\v 17 Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-a, phụ trách Y-sa-ca;
\s5
\v 18 Si-mê-i, con trai Ê-la, phụ trách Ben-gia-min;
\v 19 và Ghê-be, con trai U-ri, phụ trách xứ Ghi-lê-át, và nước của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và vua Ốc của Ba-san, ông là viên chức duy nhất trong xứ.
\s5
\v 20 Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển. Họ ăn uống và hạnh phúc.
\v 21 Sa-lô-môn cai trị tất cả các vương quốc từ Sông đến xứ Phi-li-tin và biên giới Ai Cập. Họ cống nạp lễ vật và phục vụ Sa-lô-môn trong trọn đời ông.
\v 22 Mỗi ngày người ta cung cấp cho Sa-lô-môn ba mươi cô-rơ bột lọc và sáu mươi cô-rơ bột,
\v 23 mười con bò đực mập, hai mươi con bò đực nuôi ngoài đồng, và một trăm con chiên, ngoài ra còn có hươu, linh dương, hoẵng đực, và gà thịt béo tốt.
\s5
\v 24 Vì ông cai trị khắp vùng ở bên này Sông, từ Típ-sa đến Ga-xa, ông thống trị tất cả các vua ở bên này Sông, và giao hảo thân thiện với các nước lân bang.
\v 25 Giu-đa và Y-sơ-ra-ên sống trong sự thái bình, mỗi người đều sống yên bình dưới cây nho và cây vả, từ Đan đến Bê-e-sê-ba, trong trọn các ngày Sa-lô-môn cai trị.
\s5
\v 26 Sa-lô-môn có bốn mươi ngàn chuồng ngựa để kéo chiến mã, và mười hai ngàn lính kỵ.
\v 27 Các viên chức đó cung cấp thực phẩm cho vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến ngồi bàn của vua Sa-lô-môn, mỗi người cung cấp trong một tháng. Họ chẳng để thiếu thứ gì.
\v 28 Họ cũng đem đến nơi vua ở lúa mạch và rơm nuôi ngựa của chiến mã và ngựa của binh sĩ, mỗi người đem theo thứ mình có thể đem.
\s5
\v 29 Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan và thông hiểu lớn, và sự hiểu biết sâu rộng như cát trên bờ biển.
\v 30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương đông và sự khôn ngoan ở Ai Cập.
\v 31 Ông khôn ngoan hơn tất cả mọi người hơn cả Ê-than người E-xơ-ra-hi, Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai của Ma-hôn và danh tiếng của ông lan đến tận các quốc gia lân bang.
\s5
\v 32 Ông nói ba ngàn châm ngôn, và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát.
\v 33 Ông mô tả các loài thực vật, từ cây tuyết tùng ở Ly-băng đến cây bài hương mọc trên tường. Ông cũng giảng giải về các loài thú, chim trời, bò sát, và cá.
\v 34 Các vua trên đất nghe đến sự khôn ngoan của ông, họ phái người trong xứ mình đến để nghe sự khôn ngoan của Sa-lô-môn.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hi-ram, vua Ty-rơ, sai các quan chức đến gặp Sa-lô-môn, vì ông có nghe là người đã được xức dầu để kế vị vua cha; do Hi-ram luôn yêu mến Đa-vít.
\v 2 Sa-lô-môn gửi thông điệp đến Hi-ram rằng,
\v 3 “Vua biết là Đa-vít, thân phụ tôi, đã không thể xây một cái đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người vì giặc giã bốn bè, Đức Giê-hô-va đã đặt quân thù dưới chân người trong lúc người còn sống.
\s5
\v 4 Nhưng bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi đã cho tôi được yên ổn tứ phía. Chẳng có sự thù nghịch hay tai họa nào.
\v 5 Vậy tôi có ý định xây một cái đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, vì Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, thân phụ tôi, rằng, Con trai ngươi, người mà Ta sẽ lập ngai lên kế vị ngươi, sẽ xây một đền thờ cho danh Ta.
\s5
\v 6 Vậy bây giờ, xin vua ra lệnh đốn cây tuyết tùng ở Li-băng cho tôi. Tôi tớ của tôi sẽ tham gia cùng tôi tớ của vua, tôi sẽ trả công cho tôi tớ của vua theo mức giá mà vua đồng ý thực hiện. Vì vua biết là trong chúng tôi chẳng có ai thạo nghề đốn gỗ như người Si-đôn.”
\s5
\v 7 Khi Hi-ram nghe các lời của Sa-lô-môn, ông vui mừng lắm và nói rằng, “Nguyện hôm nay Đức Giê-hô-va được chúc tán, Đấng đã ban cho Đa-vít một con trai khôn ngoan để cai trị dân lớn này. ”
\v 8 Hi-ram đáp lại Sa-lô-môn rằng, “Tôi đã nhận được thông điệp vua gửi cho tôi. Tôi sẽ làm mọi điều vua muốn liên quan đến việc làm gỗ cây tuyết tùng và cây bách.
\s5
\v 9 Các tôi tớ của tôi sẽ đem cây từ Li-băng xuống biển, rồi tôi sẽ cho kết thành bè chuyển đến nơi mà vua đã chỉ định. Tại đó tôi sẽ cho người rã bè, rồi vua sẽ vận chuyển chúng. Vua sẽ làm theo điều tôi mong muốn, ấy là cung cấp lương thực cho triều đình tôi.”
\s5
\v 10 Vậy Hi-ram cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ cây tuyết tùng và gỗ linh sam mà ông yêu cầu.
\v 11 Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram hai mươi ngàn cô-ra lúa mạch để làm thực phẩm và hai mươi cô-ra dầu nguyên chất. Sa-lô-môn cung cấp như vậy cho Hi-ram vào mỗi năm.
\v 12 Đức Giê-hô-va ban sự khôn ngoan cho Sa-lô-môn như Ngài đã hứa. Hi-ram và Sa-lô-môn có sự hòa hảo với nhau, và cả hai đều đã kết ước.
\s5
\v 13 Vua Sa-lô-môn trưng dụng lao động khắp cả Y-sơ-ra-ên; số người phải lao động là ba mươi ngàn người.
\v 14 Ông phái họ đến Li-băng, mỗi tháng là mười ngàn người. Họ ở Li-băng một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-ram quản lý các nhân công lao động.
\s5
\v 15 Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn lao công và tám mươi ngàn công nhân đục đá trên núi,
\v 16 bên cạnh 3. 300 viên chức trưởng của Sa-lô-môn là những người quản lý công trình và giám sát công nhân.
\s5
\v 17 Theo lệnh của vua, họ khai thác những tảng đá lớn có chất lượng cao để làm nền cho đền thờ.
\v 18 Vì vậy, các thợ xây của Sa-lô-môn và Hi-ram cùng người Ghê-ba-lít làm công việc đốn cây và chuẩn bị gỗ và đá để xây đền thờ.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Vậy Sa-lô-môn bắt đầu xây đền thờ của Đức Giê-hô-va. Việc xây dựng được tiến hành vào năm thứ 480 sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, nhằm năm thứ tư trong thời Sa-lô-môn cai trị Y-sơ-ra-ên, tức tháng Xíp, là tháng thứ hai.
\v 2 Đền thờ Vua Sa-lô-môn xây cho Đức Giê-hô-va dài sáu mươi cu-bít, rộng hai mươi cu-bít, và cao ba mươi cu-bít.
\s5
\v 3 Cổng vòm ở trước chính điện dài hai mươi cu-bít, theo chiều rộng của đền thờ, và rộng mười cu-bít ở trước đền.
\v 4 Với đền thờ, ông làm những cửa sổ có khung khiến cho phía ngoài cửa sổ rộng hơn bên trong.
\s5
\v 5 Dọc theo tường quanh chính điện, ông xây nhiều phòng ốc cả trong lẫn ngoài. Ông xây phòng ở tứ phía.
\v 6 Tầng dưới rộng năm cu-bít, tầng giữa rộng sáu cu-bít, và tầng thứ ba rộng bảy cu-bít. Vì ở bên ngoài, ông xây các vách tường thụt vào để các cây đà không đâm vào vách đền.
\s5
\v 7 Đền thờ được xây bằng đá đục sẵn ở hầm đá; không có tiếng búa, rìu, hay dụng cụ bằng sắt nào bên trong đền khi xây dựng.
\v 8 Phía nam đền thờ là lối vào ở tầng trệt, tiếp theo là cầu thang lên tầng giữa, và từ tầng giữa lên tầng ba.
\s5
\v 9 Vậy Sa-lô-môn xây đền thờ và hoàn tất công trình ấy; ông lợp đền thờ bằng các cây đà và ván gỗ tuyết tùng.
\v 10 Ông xây các phòng dọc theo các phòng bên trong, mỗi bên cao năm cu-bít; các phòng ấy được nối với đền thờ bằng những cây đà làm bằng gỗ tuyết tùng.
\s5
\v 11 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-lô-môn rằng,
\v 12 “Về ngôi đền mà ngươi đang xây dựng, nếu ngươi đi theo luật lệ Ta, làm điều chính trực, giữ các điều răn Ta và làm theo, thì Ta sẽ làm vững chắc lời hứa với ngươi, là lời Ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi.
\v 13 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và không lìa bỏ họ.”
\s5
\v 14 Vậy Sa-lô-môn xây đền thờ và hoàn tất công trình ấy.
\v 15 Sau đó ông lấy ván gỗ tuyết tùng lát vách trong của đền. Từ sàn đến trần đều được ông lát bên trong bằng gỗ, và sàn được lát bằng ván tuyết tùng.
\s5
\v 16 Ông lấy ván tuyết tùng ngăn hai mươi cu-bít phía sau đền từ sàn đến trần nhà. Ông xây phòng này để làm phòng ở trong, là nơi chí thánh.
\v 17 Chính điện là nơi thánh ở phía trước nơi chí thánh, dài bốn mươi cu-bít.
\v 18 Bên trong đền có gỗ tuyết tùng, được chạm trổ bằng hình trái bầu và hoa nở. Bên trong đền toàn là gỗ tuyết tùng. Trong đó không có tác phẩm bằng đá nào cả.
\s5
\v 19 Sa-lô-môn chuẩn bị phòng trong đền thờ để đặt hòm giao ước của Đức Giê-hô-va tại đó.
\v 20 Phòng trong dài hai mươi cu-bít, rộng hai mươi cu-bít, và cao hai mươi cu-bít; Sa-lô-môn dát vàng ròng lên vách và bọc bàn thờ bằng gỗ tuyết tùng.
\s5
\v 21 Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong đền thờ. Và ông đặt dây xích vàng ở phía trước phòng trong, rồi dát vàng lên phía trước.
\v 22 Ông dát vàng lên toàn bộ bên trong cho đến khi xây xong đền thờ. Ông cũng dát vàng lên toàn bộ bàn thờ ở phòng bên trong.
\s5
\v 23 Sa-lô-môn làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu cho phòng bên trong, mỗi cái cao mười cu-bít.
\v 24 Cánh của chê-ru thứ nhất dài năm cu-bít, và cánh kia cũng dài năm cu-bít.
\v 25 Chê-ru thứ nhì cũng có sải cánh dài mười cu-bít. Cả hai chê-ru-bim đều được làm theo cùng kích cỡ và hình dáng.
\v 26 Chê-ru-bim thứ nhất cao mười cu-bít, và chê-ru còn lại cũng có chiều cao tương tự.
\s5
\v 27 Sa-lô-môn đặt các chê-ru-bim ở phòng trong cùng. Đôi cánh của các chê-ru-bim dang ra đến nỗi cánh của mỗi chê-ru đều chạm vách. Hai cánh còn lại của mỗi chê-ru-bim chạm vào nhau ở giữa nơi chí thánh.
\v 28 Sa-lô-môn lấy vàng dát các chê-ru-bim.
\s5
\v 29 Ông chạm trổ trên vách đền bằng những hình ảnh chê-ru-bim, cây chà là, và hình hoa nở, ở các phòng bên ngoài và bên trong.
\v 30 Sa-lô-môn lấy vàng dát sàn đền thờ, cả bên ngoài và bên trong.
\s5
\v 31 Sa-lô-môn dùng gỗ cây ô-liu làm cửa ra vào phòng trong cùng. Cái đà cửa và trụ có năm cạnh.
\v 32 Như vậy ông làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, và khắc lên đó hình chê-ru-bim, cây chà là, và hoa nở. Ông dát vàng lên cửa, ông phết vàng lên hình chê-ru-bim và cây chà là.
\s5
\v 33 Sa-lô-môn cũng làm các khung cửa ở lối vào đền bằng gỗ ô-liu với bốn cạnh
\v 34 và hai cửa bằng gỗ trắc bá. Hai cánh xoay của cửa này được gập vào, và hai cánh xoay của cửa kia cũng gập vào.
\v 35 Ông khắc các hình chê-ru-bim, cây chà là, và hoa nở, rồi khảm vàng lên các công trình chạm trổ.
\s5
\v 36 Ông xây sân trong đền với ba hàng đá đẽo và một hàng cây xà bằng gỗ tuyết tùng.
\s5
\v 37 Nền đền thờ Đức Giê-hô-va được khai móng vào năm thứ tư, nhằm tháng Xíp.
\v 38 Năm thứ mười một, tháng Bun, tức tháng thứ tám, các chi tiết đền thờ được hoàn tất theo các chi tiết kỹ thuật. Sa-lô-môn xây đền thờ trong bảy năm.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Sa-lô-môn xây hoàng cung cho ông trong mười ba năm.
\v 2 Ông xây Cung Rừng Li-băng. Cung điện này dài một trăm cu-bít, rộng năm mươi cu-bít, và cao ba mươi cu-bít. Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ tuyết tùng, trên đó có các cây đà bằng gỗ tuyết tùng.
\s5
\v 3 Trần được làm bằng gỗ tuyết tùng; các cột được đỡ với hơn bốn mươi lăm cây đà, mỗi hàng có mười lăm cây.
\v 4 Các cây đà được đặt theo ba dãy, có ba bộ cửa sổ gồm các cửa sổ đối diện nhau.
\v 5 Tất cả cánh cửa và cột trụ đều được dựng theo hình vuông với cây đà, cửa sổ được đặt đối diện nhau trong ba bộ.
\s5
\v 6 Có một dãy cột dài năm mươi cu-bít và rộng ba mươi cu-bít, phía trước có một vòm, hàng cột và mái hiên.
\s5
\v 7 Sa-lô-môn xây đại sảnh đặt ngai ông ngồi xử đoán, tức là sảnh công lý. Sảnh được làm bằng gỗ tuyết tùng từ nền đến trần.
\s5
\v 8 Cung Sa-lô-môn ở, tại một hành lang bên trong khu vực hoàng cung, được thiết kế tương tự. Ông cũng xây một cung tương tự cho vợ ông, là con gái của Pha-ra-ôn.
\s5
\v 9 Các tòa nhà này được trang hoàng bằng những viên đá quý do người ta đẽo, đo lường chính xác và cắt xén bằng cưa, các cạnh đều nhẵn. Người ta dùng các viên đá ấy để lát từ nền đến trần, và cũng lát bên ngoài sân lớn.
\v 10 Nền nhà được xây bằng những phiến đá quý rất lớn, rộng tám cu-bít và dài mười cu-bít.
\s5
\v 11 Bên trên là các viên đá quý được đẽo và cắt chính xác theo kích cỡ, cùng các cây đà gỗ tuyết tùng.
\v 12 Đại sảnh bao quanh cung điện có ba hàng đá xẻ và một hàng cây đà gỗ tuyết tùng tương tự như nội sảnh đền thờ của Đức Giê-hô-va và cổng đền.
\s5
\v 13 Sa-lô-môn sai người đến mời Hu-ram từ thành Ty-rơ.
\v 14 Hu-ram là con trai của một góa phụ thuộc chi phái Nép-ta-li; cha là người thành Ty-rơ, làm thợ đồng. Hu-ram có đầy sự khôn ngoan, hiểu biết và kiến thức trong mọi công việc liên quan đến đồng. Ông đến gặp Vua Sa-lô-môn để làm đồ đồng cho vua.
\s5
\v 15 Hu-ram tạo hình hai cột đồng, mỗi cột cao mười tám cu-bít và có chu vi là mười hai cu-bít.
\v 16 Ông làm hai đầu cột bằng đồng đánh bóng để đặt trên đỉnh các cây cột. Chiều cao của mỗi đầu cột là năm cu-bít.
\v 17 Lưới rèm và vòng hoa kết theo dây chuyền được đặt trên đầu cột, mỗi đầu cột có bảy vòng hoa.
\s5
\v 18 Vậy Hu-ram làm hai hàng quả lựu xung quanh mỗi đầu cột để trang trí.
\v 19 Các đầu cột trên các cột nơi vòm được trang trí bằng hoa huệ, cao bốn cu-bít.
\s5
\v 20 Trên chop các đầu cột trên hai cột này cũng được gắn hai trăm quả lựu theo hàng quanh đầu cột.
\v 21 Ông dựng các cây cột ở vòm đền. Cột bên phải gọi là Gia-kin, cột bên trái gọi là Bô-ô.
\v 22 Trên đầu cột có hình hoa huệ. Người ta làm các cây cột theo kiểu như vậy.
\s5
\v 23 làm bể nước tròn bằng đồng, miệng bể có đường kính là năm cu-bít. Bể cao năm cu-bít và có chu vi là ba mươi cu-bít.
\v 24 Dưới mép miệng bể nước là các bầu đựng nước, mỗi cu-bít có mười trái, đúc thành một với bể.
\s5
\v 25 Bể được đặt trên mười hai con bò đực, ba con hướng về phía bắc, ba con hướng về phía tây, ba con hướng về phía nam, và ba con hướng về phía đông. Bể được đặt trên lưng chúng, và phần thân sau của chúng đều hướng vào trong.
\v 26 Bể dày một gang tay, miệng bể được gò như miệng chén, có hình hoa huệ. Bể chứa hai ngàn bát nước.
\s5
\v 27 Hu-ram làm mười đế đồng. Mỗi đế dài bốn cu-bít và rộng bốn cu-bít, cao ba cu-bít.
\v 28 Việc chế tạo đế được thực hiện như sau. Họ đặt các tấm đồng giữa các khung,
\v 29 trên các tấm gắn vào khung có hình sư tử, bò đực, và chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới sư tử và bò đực là các tràng hoa được chạm.
\s5
\v 30 Mỗi đế có bốn bánh xe và trục đồng, bốn góc có phần chống bên dưới chậu. Các cột chống có hình tràng hoa.
\v 31 Miệng có hình tròn và nhô lên, rộng một cu-bít rưỡi, nằm bên trong khung có chiều cao là một cu-bít. Miệng chậu có hình chạm trổ, các tấm đồng có hình vuông, chứ không phải hình tròn.
\s5
\v 32 Bốn bánh nằm bên dưới các tấm đồng, trục bánh xe và chốt gắn với đế. Chiều cao của mỗi bánh xe là một cu-bít rưỡi.
\v 33 Các bánh xe được làm như bánh xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục được làm bằng kim loại.
\s5
\v 34 Bốn góc đế có bốn cái giá đỡ, được đúc liền với đế.
\v 35 Trên đầu mỗi đế có một đai tròn cao một cu-bít rưỡi, và trên đó có viền và các tấm trám đồng.
\s5
\v 36 Trên mặt viền và các tấm trám được Hu-ram khắc hình chê-ru-bim, sư tử, và cây chà là, xung quanh có tràng hoa.
\v 37 Ông làm mười đế y như vậy. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, mỗi cái đều có cùng kích thước và hình dạng.
\s5
\v 38 Hu-ram làm mười cái chậu đồng. Mỗi chậu có thể chứa bốn mươi bát nước. Mỗi chậu có đường kính bốn cu-bít, và mỗi chậu được đặt trong mười giàn.
\v 39 Ông làm năm đế ở phía nam đền thờ và năm đế ở phía bắc đền thờ. Ông đặt bể ở góc phía đông, hướng về phía nam đền thờ.
\s5
\v 40 Hu-ram làm các chậu, xẻng và vá chậu. Sau đó ông hoàn tất các công việc mà Vua Sa-lô-môn giao trong đền thờ Đức Giê-hô-va:
\v 41 hai cái trụ, và hai bầu trụ trên mỗi trụ, và hai bộ lưới rèm được bọc hai bầu trụ trên đầu trụ.
\s5
\v 42 Ông làm bốn trăm quả lựu cho hai bộ lưới rèm: hai hàng quả lựu cho mỗi bộ lưới rèm để bọc hai bầu trụ,
\v 43 và mười cái đế, mười chậu trên các đế.
\s5
\v 44 Ông làm một cái bể nước và mười hai con bò đực bên dưới;
\v 45 ông cũng làm bình, xẻng, chậu, và những đồ dùng khác Hu-ram làm tất cả đồ đồng cho Vua Sa-lô-môn trong đền của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 46 Vua cho đúc ở đồng bằng Giô-đanh, tại khu vực đất sét giữa Su-cốt và Xa-rê-than.
\v 47 Sa-lô-môn không cho cân tất cả các vật dụng vì số lượng quá nhiều, đến nỗi không ai có thể biết trọng lượng của đồng là bao nhiêu.
\s5
\v 48 Sa-lô-môn làm tất cả các vật dụng trong đền thờ của Đức Giê-hô-va bằng vàng: bàn thờ bằng vàng và bàn để bánh trần thiết.
\v 49 Các chân đèn, bên phải có năm đèn và bên trái có năm đèn, đặt ở trước phòng trong cùng, được làm bằng vàng ròng, có hình hoa, đèn, và tim đèn bằng vàng.
\s5
\v 50 Các chén, kéo cắt tim đèn, chậu, muỗng và đồ đựng hương đều làm bằng vàng ròng. Các bản lề cửa của phòng trong cùng, là nơi chí thánh, và cửa của đại sảnh trong đền, đều được làm bằng vàng.
\s5
\v 51 Như vậy, công việc của Vua Sa-lô-môn liên quan đến đền thờ Đức Giê-hô-va được hoàn tất. Vậy Sa-lô-môn đem vào những vật do thân phụ ông là Đa-vít hiến dâng cho Đức Giê-hô-va, cùng với các dụng cụ bằng bạc, vàng, và đem vào kho trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Bấy giờ, Sa-lô-môn nhóm họp các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng chi phái, và trưởng gia tộc trong dân Y-sơ-ra-ên, đến trước mặt ông tại Giê-ru-sa-lem, để rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, còn gọi là Si-ôn.
\v 2 Tất cả các người nam của Y-sơ-ra-ên tập họp trước mặt Vua Sa-lô-môn vào kỳ lễ, nhằm tháng Ê-tha-nim, tức tháng thứ bảy.
\s5
\v 3 Hết thảy các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến, và thầy tế lễ thì lấy hòm.
\v 4 Họ rước hòm của Đức Giê-hô-va, lều hội họp, và tất cả các vật dụng thánh trong lều tạm. Thầy tế lễ và người Lê-vi đem những vật này lên đền.
\v 5 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên cùng đến trước hòm, dâng của lễ là chiên và bò đực nhiều đến nỗi không thể nào đếm hết.
\s5
\v 6 Thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va vào đền, đặt tại phòng trong cùng của đền, tức nơi chí thánh, dưới các cánh của chê-ru-bim.
\v 7 Các chê-ru-bim dang cánh ra trên nơi để hòm, cánh che phủ hòm và các đòn khiêng.
\v 8 Các cây đòn dài đến nỗi từ nơi thánh ở phía trước phòng trong cùng có thể nhìn thấy đầu của chúng, nhưng ở ngoài thì không thể thấy được. Các đòn khiêng vẫn còn tại đó cho đến ngày nay.
\s5
\v 9 Trong hòm không có gì ngoại trừ hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào tại Hô-rếp, nơi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 10 Khi các thầy tế lễ ra khỏi nơi thánh, mây che phủ đền thờ của Đức Giê-hô-va.
\v 11 Các thầy tế lễ không thể đứng hành lễ vì mây che và vì vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy khắp đền thờ.
\s5
\v 12 Sau đó Sa-lô-môn nói, “Đức Giê-hô-va phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm,
\v 13 nhưng con đã xây cho Ngài một nơi ở nguy nga, là một nơi cho Ngài ngự đời đời.”
\s5
\v 14 Nói rồi, vua quay lại và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên, khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng.
\v 15 Ông nói, “Đáng ngợi khen thay là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã phán với Đa-vít, thân phụ ta, và dùng tay Ngài làm trọn lời ấy rằng,
\v 16 “Kể từ ngày Ta đem dân Ta là Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, Ta không chọn thành nào trong tất cả các chi phái của Y-sơ-ra-ên đặng xây một cái nhà để danh Ta ngự tại đó. Tuy nhiên, Ta đã chọn Đa-vít cai trị dân Y-sơ-ra-ên của Ta.
\s5
\v 17 Bấy giờ, Đa-vít, thân phụ ta, có lòng xây một cái nhà cho danh Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng Đa-vít, thân phụ ta, rằng, Ngươi có lòng xây một cái nhà cho danh Ta, điều đó là tốt.
\v 19 Tuy nhiên, ngươi sẽ không xây nhà ấy; trái lại, con trai ngươi, là đứa con sẽ được sinh ra từ thắt lưng ngươi, sẽ xây nhà cho danh Ta.
\s5
\v 20 Đức Giê-hô-va đã thực hiện lời Ngài phán, vì ta kế vị Đa-vít, thân phụ ta, và ta ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên, như Đức Giê-hô-va đã hứa. Ta đã xây một cái nhà cho danh Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 21 Ta đã làm một nơi để hòm, là hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, tức giao ước mà Ngài đã lập cùng tổ phụ chúng ta khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai Cập.”
\s5
\v 22 Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, và giơ tay lên trời.
\v 23 Ông nói, “Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hoặc dưới đất, Đấng giữ sự thành tín theo giao ước Ngài với các tôi tớ Ngài là những người trọn lòng bước đi trước mặt Ngài;
\v 24 Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ Ngài là Đa-vít, thân phụ con. Vâng, chính miệng Ngài đã phán và tay Ngài đã làm trọn lời ấy, như ngày hôm nay.
\s5
\v 25 Vậy bây giờ, lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa thực hiện lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài là Đa-vít, thân phụ con, khi Ngài phán rằng, Ngươi sẽ không thiếu người ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi cẩn thận bước đi trước mặt Ta, như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.
\v 26 Vậy bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cầu xin lời hứa Ngài đã lập cùng tôi tớ Ngài là Đa-vít, thân phụ con, được thực thi.
\s5
\v 27 Nhưng liệu Đức Chúa Trời thật sự ngự trên đất chăng? Kìa, cả vũ trụ và bầu trời đều không thể chứa Ngài huống hồ gì cái đền thờ này mà con đã xây!
\v 28 Nhưng xin Chúa đoái đến lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời cầu xin của người, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con; xin Ngài lắng nghe lời kêu cầu và khẩn nguyện mà tôi tớ Ngài cầu xin trước mặt Ngài hôm nay.
\s5
\v 29 Nguyện mắt Chúa đêm ngày đoái xem đền thờ này, là nơi mà Ngài cóphán rằng, Danh Ta và sự hiện diện Ta sẽ ở tại đó’ để nghe những lời mà tôi tớ Ngài sẽ cầu khẩn hướng về nơi này.
\v 30 Vậy xin Chúa lắng nghe lời cầu xin của tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài khi chúng con hướng về nơi này mà cầu nguyện. Vâng, xin Chúa lắng nghe từ nơi thiên đàng, là nơi Ngài ngự; và xin Chúa tha thứ khi Ngài lắng nghe chúng con.
\s5
\v 31 Nếu ai phạm tội với láng giềng mình và buộc phải thề, và nếu người đến thề trước bàn thờ Ngài trong ngôi đền này,
\v 32 thì xin Chúa từ trời lắng nghe, hành động và xét đoán các tôi tớ Ngài, kết án kẻ gian ác, báo trả trên đầu nó về cách cư xử của nó. Và tuyên bố người công bình là vô tội, thưởng cho người vì sự ngay lành của người.
\s5
\v 33 Khi dân Y-sơ-ra-ên của Ngài bị quân thù đánh bại vì đã phạm tội với Ngài, nếu họ quay về bên Ngài, xưng danh Ngài, cầu nguyện, và xin Ngài tha tội trong đền thờ này
\v 34 thì xin Chúa từ trời lắng nghe và tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài; đem họ trở lại xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
\s5
\v 35 Khi các từng trời đóng lại và không mưa vì dân sự đã phạm tội đối với Ngài nếu họ hướng về nơi này mà cầu nguyện, xưng danh Ngài, và từ bỏ tội lỗi khi Ngài đã khiến họ khổ sở -
\v 36 thì xin Chúa từ trời lắng nghe và tha tội cho các tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, là dân mà Ngài đã ban cho cơ nghiệp.
\s5
\v 37 Khi có đói kém trong xứ, hoặc khi có có dịch lệ, tai họa hay nấm mốc, châu chấu hay sâu bướm; hoặc khi quân thù tấn công các cổng thành trong xứ họ, hoặc có tai ương hoặc bệnh tật
\v 38 và nếu có một người nào hoặc toàn thể dân Y-sơ-ra-ên của Ngài cầu nguyện và cầu xin mỗi người đều nhận biết tai họa trong lòng mình và giơ tay hướng về đền thờ này.
\s5
\v 39 Thì xin Chúa lắng nghe từ trời, là nơi Ngài ngự, xin Ngài tha thứ, hành động, và báo đáp mỗi người tùy công việc mình làm; Ngài biết lòng họ, vì Ngài và chỉ có Ngài biết được lòng người.
\v 40 Xin Chúa làm điều này để họ kính sợ Ngài khi họ sống trong xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ chúng con.
\s5
\v 41 Hơn nữa, đối với những người ngoại quốc không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Ngài: khi bởi danh Ngài mà họ đến từ một nước xa xôi
\v 42 vì họ sẽ nghe đến danh lớn lao của Ngài, tay quyền năng Ngài, và cánh tay giơ cao của Ngài khi họ đến và hướng về đền thờ này cầu nguyện,
\v 43 thì xin Chúa lắng nghe từ trời, là nơi Ngài ngự, và nhậm lời cầu xin của người ngoại quốc đó. Xin Chúa làm vậy để mọi dân trên đất biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin Chúa thực hiện để họ biết rằng nhà mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.
\s5
\v 44 Nếu dân Ngài ra trận đánh quân thù, dù được Ngài sai họ đi bằng bất cứ cách nào, và nếu họ cầu khẩn Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, họ hướng về thành mà Ngài chọn, và hướng về nhà mà con đã xây vì danh Ngài,
\v 45 xin Chúa từ trời lắng nghe lời cầu nguyện của họ, lời cầu xin, và giúp đỡ duyên cớ của họ.
\s5
\v 46 Nếu họ phạm tội đối với Ngài, vì không ai mà không phạm tội, và nếu Ngài giận họ và phó họ cho quân thù, để quân thù bắt họ làm tù binh trong xứ của chúng, bất kể xa hay gần.
\v 47 Nếu họ tỉnh ngộ thấy mình đang ở trong xứ bị lưu đày, nếu họ ăn năn và tìm kiếm Ngài từ xứ của kẻ bắt giam họ. Nếu họ nói rằng, Chúng con đã ương bướng và phạm tội. Chúng con đã hành xử gian ác.
\s5
\v 48 Nếu họ hết lòng và hết linh hồn quay trở về cùng Ngài trên đất của quân thù đã bắt họ, và nếu họ hướng về xứ của họ nguyện cầu Ngài, là xứ mà Ngài ban cho tổ phụ họ, và hướng về thành mà Ngài đã chọn, hướng về nhà mà con đã xây cho danh Ngài,
\s5
\v 49 thì xin Chúa từ trời, là nơi Ngài ngự, lắng nghe lời cầu nguyện và cầu xin của họ, và giúp đỡ duyên cớ họ.
\v 50 Xin Chúa tha thứ cho dân Ngài, là dân đã phạm tội nghịch cùng Ngài, và mọi tội lỗi họ đã phạm trái với mệnh lệnh Ngài. Xin thương xót họ trước mặt quân thù đã bắt họ làm tù binh, để chúng cũng thương xót dân Ngài.
\s5
\v 51 Họ là tuyển dân của Ngài, được Ngài giải cứu ra khỏi Ai Cập như thể ra khỏi từ giữa lò nung sắt.
\v 52 Cầu xin Chúa đoái mắt đến lời cầu xin của tôi tớ Ngài, lời cầu xin của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, lắng nghe họ bất cứ khi nào họ kêu cầu Ngài.
\v 53 Vì Ngài đã phân rẽ họ khỏi mọi dân trên đất đặng thuộc về Ngài và nhận lãnh lời hứa của Ngài, như Ngài đã giải thích qua Môi-se, tôi tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai Cập, thưa Chúa Giê-hô-va.”
\s5
\v 54 Vậy khi Sa-lô-môn kết thúc cầu nguyện và cầu xin Đức Giê-hô-va, ông đứng dậy trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, là nơi ông đã quỳ gối và giơ tay lên trời.
\v 55 Ông đứng và lớn tiếng chúc phước cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, rằng,
\v 56 “Đức Giê-hô-va đáng được ngợi khen, Đấng đã ban sự an nghỉ cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, giữ mọi lời hứa của Ngài. Không một lời nào trong mọi lời hứa tốt lành của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã phán qua Môi-se tôi tớ Ngài, mà không được thực hiện.
\s5
\v 57 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ở cùng chúng ta, như Ngài đã ở cùng tổ phụ chúng ta. Nguyện Ngài không bao giờ lìa xa hay bỏ rơi chúng ta,
\v 58 xin Ngài giục lòng chúng ta về Ngài, đặng đi trong mọi đường lối Ngài, giữ điều răn, luật lệ và mệnh lệnh Ngài, mà Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta.
\s5
\v 59 Và nguyện những lời ta nói, tức lời cầu xin của ta đã trình trước mặt Đức Giê-hô-va, sẽ cạnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm, đặng Ngài giúp đỡ duyên cớ của tôi tớ Ngài và duyên cớ của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, như chúng ta cầu xin Ngài mỗi ngày;
\v 60 đặng mọi dân trên đất sẽ biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và không có Đức Chúa Trời nào khác!
\v 61 Vậy, các ngươi hãy có lòng thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, bước đi trong luật thánh của Ngài và giữ điều răn Ngài, như ngày hôm nay.”
\s5
\v 62 Vậy vua và cả dân Y-sơ-ra-ên cùng dâng sinh tế cho Đức Giê-hô-va.
\v 63 Sa-lô-môn dâng con sinh tế cho của lễ thù ân, của lễ ông dâng cho Đức Giê-hô-va gồm: 22. 000 con bò đực và 120. 000 con chiên. Vậy vua và cả dân Y-sơ-ra-ên cung hiến nhà của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 64 Cũng trong ngày đó, vua cung hiến phần giữa của sân phía trước đền thờ Đức Giê-hô-va, tại đó ông dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ của của lễ thù ân, vì bàn thờ đồng ở trước mặt Đức Giê-hô-va quá nhỏ để đặt của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của của lễ thù ân.
\s5
\v 65 Vậy Sa-lô-môn tổ chức kỳ lễ và cả dân Y-sơ-ra-ên ở với người, tức là một hội chúng lớn, từ Lê-bô Ha-mát đến khe Ai Cập, trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta trong bảy ngày và cũng trong bảy ngày nữa, tổng cộng là mười bốn ngày.
\v 66 Vào ngày thứ tám, ông cho dân sự trở về, dân sự chúc phước cho vua và trở về nhà mình, lòng đầy hớn hở và vui mừng về mọi điều tốt lành mà Đức Giê-hô-va đã tỏ cho Đa-vít, tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự Ngài.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Sau khi Sa-lô-môn đã xây dựng xong nhà của Đức Giê-hô-va và hoàng cung, và sau khi đã hoàn thành tất cả công trình ông muốn làm,
\v 2 Đức Giê-hô-va lại hiện đến cùng ông lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với ông tại Ghi-bê-ôn.
\s5
\v 3 Đức Giê-hô-va phán cùng ông, “Ta đã nghe lời cầu nguyện và cầu xin mà ngươi trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt riêng nhà này cho Ta, là nhà mà ngươi xây, đặng danh Ta ngự tại đó đời đời, mắt Ta và lòng Ta sẽ ở tại đó luôn luôn.
\s5
\v 4 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Đa-vít, cha ngươi, đã lấy lòng liêm chính và ngay thẳng mà bước đi, vâng giữ mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, giữ luật lệ và quy tắc của Ta,
\v 5 thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi trên Y-sơ-ra-ên mãi mãi, như Ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi, rằng, Con cháu ngươi sẽ luôn ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Nhưng nếu ngươi hoặc con cái ngươi từ bỏ, không giữ điều răn và luật lệ mà Ta đã đặt trước mặt ngươi, và nếu ngươi thờ các thần khác và quỳ lạy chúng,
\v 7 Ta sẽ dứt Y-sơ-ra-ên khỏi xứ mà Ta đã ban cho chúng; còn nhà này là nhà mà Ta đã dành riêng cho danh Ta Ta sẽ phá bỏ nó khỏi mắt Ta. Rồi danh Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên một tục ngữ và trò cười giữa các dân.
\s5
\v 8 Và dù hiện nay đền thờ này nguy nga, nhưng ai đi ngang qua nó cũng sẽ sốc và huýt sáo chê cười. Họ sẽ hỏi, Sao Đức Giê-hô-va đã làm việc ấy trên xứ này và nhà này?
\v 9 Người khác sẽ đáp rằng, Bởi vì họ từ bỏ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ai Cập, và họ theo các thần khác, quỳ lạy và thờ chúng. Cho nên Đức Giê-hô-va đã giáng tai ương này trên họ. ’”
\s5
\v 10 Đến cuối hai mươi năm, Sa-lô-môn hoàn tất việc xây hai tòa nhà, tức là đền thờ Đức Giê-hô-va và hoàng cung.
\v 11 Hi-ram, vua Ty-rơ, đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ thông, và vàng, là những thứ mà Sa-lô-môn đề nghị. Vậy Vua Sa-lô-môn cấp cho Hi-ram hai mươi thành trong xứ Ga-li-lê.
\s5
\v 12 Hi-ram ra khỏi Ty-rơ đặng quan sát các thành mà Sa-lô-môn đã cấp cho mình, nhưng ông hài lòng về các thành đó.
\v 13 Hi-ram nói, “Anh ơi, các thành mà anh đã cấp cho tôi là những thành nào vậy? ” Rồi Hi-ram gọi đó là Xứ Ca-bun, ngày nay xứ ấy vẫn còn mang tên đó.
\v 14 Hi-ram đã gửi cho vua 120 ta-lâng vàng.
\s5
\v 15 Sau đây là lý do Vua Sa-lô-môn bắt buộc thực hiện công việc: xây đền thờ của Đức Giê-hô-va và hoàng cung của ông, xây công trình Mi-lô và tường thành Giê-ru-sa-lem, và xây các thành lũy Hát-so, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe.
\v 16 Vua Pha-ra-ôn của Ai Cập đã đi lên đánh Ghê-xe, phóng hỏa đốt thành, và tiêu diệt người Ca-na-an trong thành. Sau đó Pha-ra-ôn ban thành đó cho con gái mình, là vợ của Sa-lô-môn, để làm của hồi môn.
\s5
\v 17 Vậy Sa-lô-môn tái thiết Ghê-xe và vùng hạ Bết Hô-rôn,
\v 18 Ba-a-lát và Tát-mốt trong hoang mạc xứ Giu-đa,
\v 19 và tất cả các thành làm kho dự trữ của ông, các thành dành cho chiến mã, lính kỵ, và bất cứ công trình nào mà ông cảm thấy muốn xây tại Giê-ru-sa-lem, Li-băng, và ở khắp xứ ông cai trị.
\s5
\v 20 Với những ai còn sót lại là người A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, là người không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên,
\v 21 tức là những con cháu được chừa lại trong xứ, là người mà dân Y-sơ-ra-ên không thể hoàn toàn tiêu diệt thì Sa-lô-môn đã đưa vào lực lượng lao động cưỡng bách cho đến ngày nay.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Sa-lô-môn không bách người Y-sơ-ra-ên làm việc. Trái lại, họ được làm lính, cận thần, quan chức, sĩ quan, và chỉ huy các đội quân chiến mã và kỵ binh.
\s5
\v 23 Cũng có các sĩ quan cao cấp quản lý các nhân viên giám sát công trình của Sa-lô-môn, gồm có 550 người, họ giám sát nhân công làm việc.
\s5
\v 24 Con gái của Pha-ra-ôn rời thành Đa-vít dọn đến cung điện mà Sa-lô-môn đã xây cho nàng. Sau đó, Sa-lô-môn dựng công trình Mi-lô.
\s5
\v 25 Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn dâng của lễ thiêu và của thù ân trên bàn thờ do ông xây cho Đức Giê-hô-va, dâng hương trên bàn thờ đặt trước mặt Đức Giê-hô-va. Vậy ông hoàn tất việc xây đền thờ và bấy giờ sử dụng đền thờ ấy.
\s5
\v 26 Vua Sa-lô-môn lập một hạm đội tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lát bên bờ biển Đỏ, thuộc xứ Ê-đôm.
\v 27 Hi-ram sai các tôi tớ đến hạm đội của Sa-lô-môn, tức là thủy thủ thạo việc đi biển, tham gia với các tôi tớ của Sa-lô-môn.
\v 28 Họ đến Ô-phia với các đầy tớ của Sa-lô-môn. Họ đem về 420 ta lâng vàng cho Vua Sa-lô-môn.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Khi nữ hoàng Sê-ba nghe đồn về danh tiếng của Sa-lô-môn là danh có được từ danh Đức Giê-hô-va, bà đến thăm để thử ông bằng những câu hỏi hóc búa.
\v 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng đoàn tùy tùng rất đông, với lạc đà chở hương liệu, nhiều vàng, và đá quý. Khi đã đến nơi, bà nói với Sa-lô-môn về mọi điều trong lòng mình.
\s5
\v 3 Sa-lô-môn giải đáp tất cả câu hỏi của bà. Chẳng có câu nào bà hỏi mà vua không trả lời.
\v 4 Khi nữ hoàng Sê-ba thấy mọi sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện mà ông đã xây,
\v 5 thức ăn trên bàn và địa vị của các quần thần cùng công việc của các tôi tớ ông và y phục của họ, các quan tửu chánh và cách ông dâng của lễ thiêu trong nhà Đức Giê-hô-va, thì bà kinh hồn.
\s5
\v 6 Bà nói cùng vua, “Danh tiếng mà tôi đã nghe đồn trong xứ tôi về lời nói và sự khôn ngoan của vua là thật.
\v 7 Tôi không tin những gì mình đã nghe cho đến khi tôi đến đây, và giờ đây mắt tôi đã trông thấy điều đó. Những gì tôi nghe về sự khôn ngoan giàu có của vua chỉ là một nửa! Vua vượt hơn cả danh tiếng mà tôi đã nghe đến.
\s5
\v 8 Dân của vua thật có phước thay, và quần thần của vua thật có phước, tức là những người luôn đứng chầu trước mặt vua, vì họ nghe sự khôn ngoan của vua.
\v 9 Đáng ngợi khen thay là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua, Đấng đã hài lòng ở vua, đặt vua ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên. Vì Đức Giê-hô-va yêu mến Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua, đặng vua thực thi công lý và sự công bình!”
\s5
\v 10 Bà tặng vua 120 ta-lâng vàng và một lượng lớn hương liệu cùng đá quý. Lượng hương liệu mà nữ hoàng Sê-ba tặng cho Vua Sa-lô-môn nhiều đến nỗi sau này không ai có thể tặng cho vua nhiều hơn số đó.
\s5
\v 11 Hạm đội Hi-ram, một hạm đội chở vàng từ Ô-phia, cũng đem về từ Ô-phia một lượng lớn gỗ bạch đàn và đá quý.
\v 12 Vua dùng gỗ bạch đàn làm cột trong đền thờ Đức Giê-hô-va và hoàng cung, và làm đàn hạc và đàn lia cho các ca sĩ. Từ đó đến nay, không có số lượng gỗ bạch đàn nào được chở đến hoặc nhìn thấy nữa.
\s5
\v 13 Vua Sa-lô-môn ban cho nữ hoàng Sê-ba mọi thứ bà thích, bất cứ món gì bà muốn, ngoài những gì đã tặng bà tùy theo sự hào phóng sang trọng của ông. Vậy bà cùng tôi tớ mình trở về xứ.
\s5
\v 14 Bấy giờ, lượng vàng mà Sa-lô-môn nhận mỗi năm là 666 ta-lâng,
\v 15 ngoài số vàng mà các thương gia và lái buôn đem đến. Tất cả các vua Ả-rập và thống đốc trong xứ cũng đem vàng và bạc đến nộp cho Sa-lô-môn.
\s5
\v 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn bằng vàng dát mỏng. Mỗi cái dùng sáu trăm siếc-lơ vàng.
\v 17 Ông cũng làm ba trăm cái khiên bằng vàng dát mỏng. Mỗi cái dùng ba min vàng; vua đặt chúng trong Cung Rừng Li-băng.
\s5
\v 18 Vua làm một cái ngai lớn bằng ngà voi và bọc vàng ròng.
\v 19 Có sáu bậc thang dẫn lên ngai, phía sau ngai có hình tròn. Hai bên ngai có chỗ gác tay, và hai con sư tử đứng bên cạnh chỗ gác tay.
\v 20 Trên các bậc tam cấp có mười hai con sư tử, mỗi bên có sáu con đứng trên sáu bậc. Không nước nào có chiếc ngai nào giống vậy.
\s5
\v 21 Tất cả ly chén của Vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả ly chén trong Cung Rừng Li-băng đều bằng vàng ròng. Không có cái nào được làm bằng bạc, vì người ta không xem bạc là thứ có giá trị trong thời của Sa-lô-môn.
\v 22 Vua có một hải đội tàu thuyền để ra khơi, cùng với hạm đội Hi-ram. Cứ mỗi ba năm, hạm đội chở về vàng, bạc, và ngà voi, cũng như khỉ và công.
\s5
\v 23 Vậy Vua Sa-lô-môn trổi hơn tất cả các vua trên thế gian về sự giàu có và khôn ngoan.
\v 24 Cả thế gian tìm đến gặp Sa-lô-môn đặng nghe về sự khôn ngoan của ông mà Đức Chúa Trời đã đặt để trong lòng ông.
\v 25 Hàng năm, những người đến viếng thăm vua đều đem theo đồ cống nạp, bình bằng bạc và vàng, quần áo, áo giáp, hương liệu cũng như ngựa và la.
\s5
\v 26 Sa-lô-môn thâu thập các xe chiến mã và lính kỵ. Ông có 1. 400 xe chiến mã và mười hai ngàn lính kỵ được đặt trong các thành chứa xe chiến mã và thành của ông tại Giê-ru-sa-lem.
\v 27 Ở Giê-ru-sa-lem, vua có bạc nhiều như đá trên đất. Ông khiến gỗ tuyết tùng trở nên nhiều như cây sung mọc ở vùng đồng bằng.
\s5
\v 28 Sa-lô-môn sở hữu ngựa được từ Ai Cập và Xi-li-xia. Các lái buôn của vua mua chúng theo đàn, mỗi đàn đều có giá phải chăng.
\v 29 Các xe chiến mã được mua từ Ai Cập với giá sáu trăm siếc-lơ bạc mỗi chiếc, và ngựa có giá 150 siếc-lơ mỗi con. Nhiều thứ trong số này được bán cho các vua dân Hê-tít và A-ram.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Bấy giờ Vua Sa-lô-môn yêu nhiều người nữ ngoại quốc: con gái của Pha-ra-ôn và những người nữ Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít
\v 2 thuộc những quốc gia mà Đức Giê-hô-va đã phán cùng dân Y-sơ-ra-ên, “Các ngươi không được cưới gả giữa chúng nó, chúng nó cũng không được cưới gả giữa các ngươi, vì chúng chắc chắn sẽ xây lòng các ngươi hướng về các thần của chúng. ” Nhưng Sa-lô-môn yêu những người nữ này.
\s5
\v 3 Sa-lô-môn có bảy trăm hoàng hậu và ba trăm cung phi. Các bà vợ của ông khiến ông trở lòng.
\v 4 Vì khi Sa-lô-môn đã già, các hoàng hầu hướng lòng ông đi theo các thần khác; ông không trọn lòng đầu phục Giê-hô-va Đức Chúa Trời, như lòng của Đa-vít, thân phụ ông.
\s5
\v 5 Vì Sa-lô-môn theo thần Ách-tô-rét, nữ thần của dân Si-đôn, và ông theo thần Minh-côm, tức là thần tượng gớm ghiếc của dân Am-môn.
\v 6 Sa-lô-môn làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va; ông không bước theo Đức Giê-hô-va cách trọn vẹn, như Đa-vít, thân phụ ông xưa kia.
\s5
\v 7 Sau đó, Sa-lô-môn xây một điện thờ cho Kê-mốt, thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, trên một ngọn đồi phía đông Giê-ru-sa-lem, và ông cũng xây một điện thờ cho Mô-lết, thần gớm ghiếc của dân Am-môn.
\v 8 Ông cũng xây các điện thờ cho tất cả những bà vợ ngoại quốc của ông, là những người dâng hương và tế lễ cho các thần của họ.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va giận Sa-lô-môn, vì ông đã trở lòng lìa khỏi Ngài, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thậm chí dù Ngài đã hiện ra gặp ông hai lần
\v 10 và truyền dặn ông về chính điều này, rằng ông không được đi theo các thần khác. Nhưng Sa-lô-môn không vâng phục lời Đức Giê-hô-va đã phán truyền.
\s5
\v 11 Vậy, Đức Giê-hô-va phán cùng Sa-lô-môn, “Vì ngươi đã phạm điều này và không giữ giao ước cùng luật lệ Ta đã truyền cho ngươi, nên chắc chắn Ta sẽ xé vương quốc khỏi ngươi và ban nó cho tôi tớ ngươi.
\v 12 Tuy nhiên, bởi Đa-vít, cha ngươi, Ta sẽ không thực hiện điều đó trong đời ngươi, nhưng Ta sẽ xé vương quốc khỏi tay con trai ngươi.
\v 13 Tuy nhiên, Ta sẽ không xé cả vương quốc; Ta sẽ để một chi phái cho con trai ngươi vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta, và vì cớ Giê-ru-sa-lem, là thành mà Ta đã chọn.”
\s5
\v 14 Sau đó, Đức Giê-hô-va dấy lên một kẻ thù chống đối Sa-lô-môn, là Ha-đát người Ê-đôm. Ông xuất thân từ hoàng tộc Ê-đôm.
\v 15 Khi Đa-vít ở tại Ê-đôm, Giô-áp đại úy quân đội, đi lên để chôn xác người chết, là những kẻ bị giết tại Ê-đôm.
\v 16 Giô-áp và cả Y-sơ-ra-ên ở lại đó trong sáu tháng cho đến khi ông giết hết những người nam ở Ê-đôm.
\v 17 Nhưng các tôi tớ của cha ông đã đem Ha-đát cùng những người Ê-đôm khác qua Ai Cập, vì Ha-đát vẫn còn là một đứa trẻ.
\s5
\v 18 Họ rời Mi-đi-an và đến Pha-ran, từ đó họ đem theo một số người đến Ai Cập, gặp vua Pha-ra-ôn ở Ai Cập, là người đã ban cho ông nhà, đất đai và lương thực.
\v 19 Ha-đát được ơn trước mặt Pha-ra-ôn, đến nỗi Pha-ra-ôn gả vợ cho ông, nàng là em vợ của vua, tức em gái của hoàng hậu Ta-pê-nê.
\s5
\v 20 Em gái của Ta-pê-nê sinh cho Ha-đát một con trai; họ đặt tên nó là Ghê-nu-bát; Ta-pê-nê nuôi đứa bé trong cung điện của Pha-ra-ôn. Vậy Ghê-nu-bát sống trong cung của Pha-ra-ôn cùng với con cái của Pha-ra-ôn.
\v 21 Khi Ha-đát ở Ai Cập hay tin rằng Đa-vít đã an giấc với tổ phụ, và rằng Giô-áp đại úy quân đội của vua đã chết, Ha-đát nói với Pha-ra-ôn, “Xin bệ hạ cho phép hạ thần ra đi trở về xứ của mình. ”
\v 22 Pha-ra-ôn trả lời ông, “Nhưng ta còn thiếu ngươi thứ gì nữa đến nỗi giờ đây ngươi muốn trở về xứ mình? ” Ha-đát trả lời, “Không có gì cả, chỉ xin bệ hạ cho hạ thần lên đường.”
\s5
\v 23 Đức Chúa Trời cũng dấy lên một kẻ thù khác nghịch cùng Sa-lô-môn, là Rê-xôn con trai của Ê-li-a-đa, người đã chạy trốn khỏi chủ mình là Ha-đa-đê-xe, vua xứ Xô-ba.
\v 24 Rê-xôn tập hợp một số người rồi lên làm đại úy chỉ huy một đám quân nhỏ khi Đa-vít đánh bại dân Xô-ba. Người của Rê-xôn đến Đa-mách và sống tại đó, còn Rê-xôn kiểm soát Đa-mách.
\v 25 Ông là một kẻ thù của Y-sơ-ra-ên trong đời Sa-lô-môn, ngoài sự quấy nhiễu từ phía Ha-đát. Rê-xôn ghét cay ghét đắng Y-sơ-ra-ên và cai trị A-ram.
\s5
\v 26 Sau đó, Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, người Ép-ra-im ở Xê-rê-đa, là quan chức của Sa-lô-môn, có mẹ tên là Xê-ru-a, là một góa phụ, cũng nổi lên chống lại vua.
\v 27 Lý do ông ấy phản loạn chống nghịch là vì Sa-lô-môn đã xây Mi-lô và sửa chữa lỗ hổng trong vách thành của Đa-vít, cha ông.
\s5
\v 28 Giê-rô-bô-am là một tay mạnh mẽ dũng cảm. Sa-lô-môn nhận thấy người thanh niên này cần cù, vì vậy vua giao cho ông chỉ huy lực lượng lao động của nhà Giô-sép.
\v 29 Lúc đó, khi Giê-rô-bô-am ra khỏi Giê-ru-sa-lem, tiên tri A-hi-gia người Si-lô gặp ông trên đường. Bấy giờ A-hi-gia mặc một áo choàng mới, và chỉ có hai người ở trên đồng.
\v 30 Sau đó A-hi-gia nắm chiếc áo choàng mới đang mặc và xé ra thành mười hai mảnh.
\s5
\v 31 Ông nói cùng Giê-rô-bô-am, “Hãy lấy mười mảnh, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng, Này, Ta sẽ xé vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn, và Ta sẽ ban mười chi phái cho ngươi
\v 32 (nhưng Sa-lô-môn sẽ có một chi phái, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta, và vì cớ Giê-ru-sa-lem, là thành mà Ta đã chọn trong tất cả các chi phái Y-sơ-ra-ên),
\v 33 vì chúng đã từ bỏ Ta và thờ lạy Át-tô-rết, nữ thần của dân Si-đôn, Kê-mốt thần của dân Mô-áp, và Minh-côm thần của dân Am-môn. Chúng từ bỏ đường lối Ta, không làm điều thiện trước mặt Ta, giữ luật lệ và đạo luật Ta, như Đa-vít, cha của người.
\s5
\v 34 Tuy nhiên, Ta sẽ không tước toàn bộ vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn. Trái lại, Ta đã lập người lên cai trị trong trọn đời người, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta, là người mà Ta đã chọn, tức là người đã giữ điều răn và luật lệ Ta.
\v 35 Nhưng Ta sẽ cất vương quốc khỏi tay con trai của người, và Ta sẽ ban nó cho ngươi, tức là cho ngươi mười chi phái.
\v 36 Ta sẽ trao một chi phái cho con trai của Sa-lô-môn, đặng Đa-vít, tôi tớ Ta sẽ luôn có một ngọn đèn trước mặt Ta tại Giê-ru-sa-lem, là thành mà Ta đã chọn đặng để danh Ta tại đó.
\s5
\v 37 Ta sẽ chọn ngươi, và ngươi sẽ cai trị để làm trọn mọi điều ngươi muốn, và ngươi sẽ làm vua cai trị Y-sơ-ra-ên.
\v 38 Nếu ngươi nghe mọi điều Ta truyền cho ngươi, và nếu ngươi bước theo đường lối Ta, làm điều thiện trước mặt Ta, giữ luật lệ và điều răn Ta, như Đa-vít, tôi tớ Ta đã làm, Ta sẽ ở cùng ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà vững chắc, như Ta đã xây cho Đa-vít, và Ta sẽ ban Y-sơ-ra-ên cho ngươi.
\v 39 Ta sẽ trừng phạt con cháu của Đa-vít, nhưng không trừng phạt mãi mãi. ’”
\s5
\v 40 Vậy, Sa-lô-môn cố tìm cách giết Giê-rô-bô-am, nhưng Giê-rô-bô-am vội trốn qua Ai Cập, đến gặp Si-sác, vua Ai Cập, và ở tại Ai Cập cho đến khi Sa-lô-môn băng hà.
\s5
\v 41 Về những việc khác liên quan đến Sa-lô-môn, mọi việc người làm và sự khôn ngoan của người, há chẳng phải được chép trong Sách Lịch sử của Sa-lô-môn sao?
\v 42 Sa-lô-môn cai trị Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem được bốn mươi năm.
\v 43 Ông an giấc cùng tổ phụ mình, và được chôn cất trong thành Đa-vít, thân phụ ông. Rê-hô-bô-am, con trai ông, lên kế vị cha mình.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Rê-hô-bô-am đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đang đến Si-chem để tôn ông lên làm vua.
\v 2 Khi đó, Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, nghe được việc này (vì ông vẫn còn ở tại Ai Cập, là nơi ông đã chạy trốn Vua Sa-lô-môn; Giê-rô-bô-am khi đó đang sống ở Ai Cập).
\s5
\v 3 Vậy người ta sai người đi mời ông đến, Giê-rô-bô-am và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên cùng đến; họ nói với Rê-hô-bô-am rằng,
\v 4 “Cha của bệ hạ đã khiến chúng tôi mang ách nặng nề. Vậy bây giờ, xin bệ hạ làm nhẹ bớt lao dịch nặng nề của thân phụ bệ hạ, và làm nhẹ ách nặng nề mà người đã chất trên chúng tôi, chúng tôi sẽ hầu hạ bệ hạ. ”
\v 5 Rê-hô-bô-am trả lời họ, “Hãy lui khỏi ta trong ba ngày; sau đó hãy trở lại gặp ta. ” Vậy họ rời đi.
\s5
\v 6 Vua Rê-hô-bô-am hội ý với các trưởng lão, là những người đã đứng chầu trước mặt Sa-lô-môn, cha của người, khi vua còn sống; ông hỏi rằng, “Các ngươi khuyên ta phải trả lời những người này ra sao? ”
\v 7 Họ trả lời vua rằng, “Nếu hôm nay bệ hạ làm tôi tớ của những người này và phục vụ họ, dùng những lời tốt đẹp để đối đáp họ, thì họ sẽ luôn là tôi tớ của bệ hạ.”
\s5
\v 8 Nhưng Rê-hô-bô-am phớt lờ lời khuyên của các trưởng lão, ông hội ý với các thanh niên đã cùng lớn lên với ông, là những người đứng chầu trước mặt ông.
\v 9 Ông hỏi họ, “Các ngươi sẽ khuyên ta điều gì để ta trả lời nhóm người đã đến nói với ta rằng, Xin bệ hạ làm nhẹ gánh mà cha của bệ hạ đã áp đặt trên chúng tôi?”
\s5
\v 10 Những gã thanh niên đã cùng lớn lên với Rê-hô-bô-am trả lời rằng, “Xin bệ hạ phán cùng những người đã đến bảo bệ hạ rằng vua cha Sa-lô-môn của bệ hạ đã khiến cho ách của họ trở nên nặng nề nhưng bệ hạ phải giảm ách ấy. Bệ hạ nên trả lời họ như thế này, Ngón tay út của ta còn dày hơn thắt lưng của cha ta.
\v 11 Vậy bây giờ, dù cha ta đã chất lên các ngươi một ách nặng nề, ta sẽ thêm ách cho các ngươi. Cha ta phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ phạt các ngươi bằng bò cạp. ’”
\s5
\v 12 Giê-rô-bô-am và cả dân sự đến gặp Rê-hô-bô-am vào ngày thứ ba, như vua đã truyền khi nói rằng, “Hãy trở lại gặp ta vào ngày thứ ba. ”
\v 13 Vua trả lời họ một cách thô lỗ và phớt lờ lời khuyên của các trưởng lão trước đó.
\v 14 Ông phán cùng họ dựa theo lời khuyên của các thanh niên, rằng, “Cha ta đã chất lên các ngươi một ách nặng nề, ta sẽ thêm ách cho các ngươi. Cha ta phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ phạt các ngươi bằng bò cạp.”
\s5
\v 15 Vậy, vua không lắng nghe dân sự, vì đó là một sự chuyển biến sự kiện do Đức Giê-hô-va cho xảy ra, để Ngài thực hiện lời Ngài đã phán với Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, qua A-hi-gia người Si-lô.
\s5
\v 16 Khi cả Y-sơ-ra-ên thấy rằng vua không lắng nghe họ, dân sự trả lời người và nói rằng, “Chúng tôi có phần gì với Đa-vít? Chúng tôi không thừa hưởng gì với con trai của Gie-sê! Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về lều mình. Đa-vít! Từ bây giờ hãy coi chừng nhà của ông. ” Vậy Y-sơ-ra-ên trở về lều mình.
\v 17 Nhưng còn dân Y-sơ-ra-ên ở các thành của Giu-đa, thì Rê-hô-bô-am làm vua cai trị họ.
\s5
\v 18 Sau đó, Vua Rê-hô-bô-am phái A-đô-ram đi ra, ông là quan chức giám sát các nhân công cưỡng bách, nhưng cả dân Y-sơ-ra-ên ném đá ông cho đến chết. Vua Rê-hô-bô-am nhanh chóng lên xe chiến mã chạy trốn đến Giê-ru-sa-lem.
\v 19 Vì vậy, Y-sơ-ra-ên nổi nghịch với nhà Đa-vít cho đến ngày nay.
\s5
\v 20 Khi Y-sơ-ra-ên nghe rằng Giê-rô-bô-am đã trở về, họ sai người đi gọi ông đến với hội chúng và tôn ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Không có ai theo nhà Đa-vít, ngoại trừ chi phái Giu-đa.
\s5
\v 21 Khi Rê-hô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem, ông nhóm họp tất cả nhà Giu-đa và chi phái Ben-gia-min; có 180. 000 người nam là lính được chọn, để đánh nhà Y-sơ-ra-ên, nhằm phục hồi vương quốc cho Rê-hô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn.
\s5
\v 22 Nhưng lời của Đức Chúa Trời đến cùng Sê-mai-a, người của Đức Chúa Trời; Ngài phán rằng,
\v 23 “Hãy nói với Rê-hô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, vua Giu-đa, với cả nhà Giu-đa và Ben-gia-min, và những người còn lại; hãy nói,
\v 24 Đức Giê-hô-va có phán: Các ngươi không được tấn công hay đánh anh em mình, là dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi người hãy trở về nhà mình, vì Ta đã khiến việc này xảy ra. ’” Vậy họ nghe lời của Đức Giê-hô-va, và ai nấy theo đường mình trở về, họ vâng lời Ngài.
\s5
\v 25 Sau đó, Giê-rô-bô-am xây Si-chem trên vùng cao nguyên Ép-ra-im, và sống tại đó. Từ đó, ông đi ra và xây dựng Phê-nu-ên.
\v 26 Giê-rô-bô-am nghĩ trong lòng rằng, “Bây giờ nước sẽ trở về nhà Đa-vít.
\v 27 Nếu dân này đi lên dâng sinh tế trong đền Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, thì lòng của họ sẽ lại hướng về chủ của họ là Rê-hô-bô-am, vua Giu-đa. Họ sẽ giết ta và quay trở lại với Rê-hô-bô-am, vua Giu-đa.”
\s5
\v 28 Vậy Vua Giê-rô-bô-am tìm lời khuyên và làm hai con bò bằng vàng; ông nói với dân sự, “Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem thật quá xa. Kìa, đây là những thần của các ngươi, hỡi Y-sơ-ra-ên, đó là đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập. ”
\v 29 Họ dựng một con tại Bê-tên và một con tại Đan.
\v 30 Hành động này trở thành một tội ác. Trên đường đến Đan, dân sự đến nơi này hoặc nơi kia.
\s5
\v 31 Giê-rô-bô-am cho xây đền thờ trên các điện thờ; ông cũng lập thầy tế lễ từ giữa dân sự, là những người không phải là con cháu Lê-vi.
\v 32 Giê-rô-bô-am sắp xếp một yến tiệc vào tháng thứ tám, nhằm ngày thứ mười lăm trong tháng, như lễ ở Giu-đa, và người ta đi lên bàn thờ. Ông cũng làm vậy tại Bê-tên, dâng sinh tế là các con bò con mà ông đã chuẩn bị, và ông đặt tại Bê-tên các thầy tế lễ trông coi các điện thờ mà ông đã dựng.
\s5
\v 33 Giê-rô-bô-am đi lên bàn thờ mà ông đã lập tại Bê-tên vào ngày mười lăm tháng thứ tám, đúng tháng ông tự chọn; ông ban hành một buổi lễ cho dân Y-sơ-ra-ên rồi đi lên bàn thờ để dâng hương.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Có một người của Đức Chúa Trời ở Giu-đa được Đức Chúa Trời sai đến Bê-tên. Khi ấy Giê-rô-bô-am đang đứng bên bàn thờ để đốt hương.
\v 2 Người của Đức Chúa Trời dùng lời của Đức Chúa Trời nói nghịch lại bàn thờ rằng, “Hỡi bàn thờ, bàn thờ kia, Đức Giê-hô-va phán, Này, nhà Đa-vít sẽ sinh một con trai tên là Giô-si-a, từ trên nó sẽ tế trên mày các tư tế của những điện thờ là những kẻ đốt hương trên mà; chúng sẽ đốt xương người trên mày. ’”
\v 3 Sau đó, người của Đức Chúa Trời đưa ra một dấu hiệu trong ngày, rằng, “Đây là dấu hiệu mà Đức Giê-hô-va đã phán: Kìa, bàn thờ sẽ vỡ, tro trên nó sẽ đổ xuống. ’”
\s5
\v 4 Khi vua nghe lời người của Đức Chúa Trời đã nói, là lời người nói nghịch với bàn thờ Bê-tên, Giê-rô-bô-am giơ tay từ phía bàn thờ, nói rằng, “Hãy bắt nó. ” Liền sau đó tay vua đã giơ ra nghịch cùng người ấy trở nên khô cứng, đến nỗi ông không rút tay về được.
\v 5 Bàn thờ cũng bị vỡ, và tro trên bàn thờ rớt xuống, y như dấu hiệu được người của Đức Chúa Trời bởi lời Đức Giê-hô-va mô tả.
\s5
\v 6 Vua Giê-rô-bô-am trả lời và bảo người của Đức Chúa Trời, “Hãy nài xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi thương xót và hãy cầu nguyện cho ta, để tay ta được lành hẳn. ” Vậy người của Đức Chúa Trời khẩn cầu Đức Giê-hô-va, và tay vua được lành lại trở nên như trước.
\v 7 Vua bảo người của Đức Chúa Trời, “Hãy về nhà với ta và nghỉ ngơi, ta sẽ ban thưởng cho ngươi.”
\s5
\v 8 Người của Đức Chúa Trời tâu với vua, “Dù bệ hạ chia cho hạ thần nửa tài sản, hạ thần cũng sẽ không đi với bệ hạ, không ăn hoặc uống nước ở nơi này,
\v 9 vì Đức Giê-hô-va đã dùng lời Ngài phán với hạ thần, Ngươi chớ ăn bánh hay uống nước, hoặc trở về bằng chính con đường ngươi đã đến. ’”
\v 10 Vậy, người của Đức Chúa Trời rời khỏi cung và không trở về nhà bằng đường ông đã đến Bê-tên.
\s5
\v 11 Bấy giờ có một tiên tri già sống ở Bê-tên, một trong các con trai của ông đến và kể cho ông nghe tất cả mọi việc mà người của Đức Chúa Trời đã làm trong ngày hôm đó tại Bê-tên. Các con trai ông cũng thuật lại cho ông những lời mà người của Đức Chúa Trời đã nói với vua.
\v 12 Cha họ bảo họ rằng, “Người đi đường nào? ” Khi đó các con trai của ông đã thấy con đường mà người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đã đi.
\v 13 Vậy ông bảo các con trai mình, “Hãy thắng yên lừa cho cha. ” Vậy họ thắng yên lừa rồi ông cưỡi con lừa ấy.
\s5
\v 14 Vị tiên tri già đi tìm người của Đức Chúa Trời và thấy ông ấy đang ngồi dưới cây sồi; ông bảo người, “Có phải anh là người của Đức Chúa Trời đến từ Giu-đa không? ” Người trả lời, “Vâng, đúng vậy. ”
\v 15 Tiên tri già nói cùng người, “Hãy về nhà tôi và ăn bánh. ”
\v 16 Người của Đức Chúa Trời trả lời, “Tôi không thể về nhà ông hoặc đi cùng ông, cũng không thể ăn bánh hay uống nước với ông tại nơi này,
\v 17 vì lời của Đức Giê-hô-va đã truyền cho tôi rằng, Ngươi chớ ăn bánh hay uống nước ở đó, cũng chớ trở về bằng đường mà ngươi đã đi. ’”
\s5
\v 18 Vậy, tiên tri già nói cùng người, “Tôi cũng là tiên tri như anh, một thiên sứ đã dùng lời của Đức Giê-hô-va phán với tôi rằng, Hãy đem người về nhà của ngươi để người ăn bánh và uống nước. ’” Nhưng ông ấy đang nói dối người của Đức Chúa Trời.
\v 19 Vậy người của Đức Chúa Trời trở về cùng tiên tri già rồi ăn bánh và uống nước trong nhà ông ấy.
\s5
\v 20 Khi họ ngồi vào bàn, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng vị tiên tri đã đem người trở về,
\v 21 và ông lớn tiếng nói với người của Đức Chúa Trời đến từ Giu-đa rằng, “Đức Giê-hô-va phán, Vì ngươi đã bất tuân lời của Đức Giê-hô-va và không giữ lệnh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi truyền cho ngươi,
\v 22 nhưng ngươi đã quay trở lại ăn bánh và uống nước ở nơi mà Đức Giê-hô-va đã bảo ngươi chớ ăn bánh hay uống nước, do đó thây ngươi sẽ không được chôn trong mồ của tổ phụ ngươi. ’”
\s5
\v 23 Sau khi người đã ăn bánh và uống nước, vị tiên tri thắng yên lừa cho người của Đức Chúa Trời, là người đã cùng ông trở về nhà.
\v 24 Khi người của Đức Chúa Trời đã đi khỏi, một con sư tử xuất hiện trên đường và giết người, thây người nằm lại trên đường. Con lừa đứng bên thây ấy, và con sư tử cũng đứng bên thây.
\v 25 Khi người ta đi ngang qua và thấy thây nằm trên đường, và con sư tử đang đứng bên thây, họ đến nơi thành phố mà vị tiên trì già sống đặng kể lại ở nơi đó.
\s5
\v 26 Khi vị tiên tri là người đã đem người kia về nhà ông nghe được điều đó, ông nói rằng, “Đó chính là người của Đức Chúa Trời, người bất tuân lời của Đức Giê-hô-va. Vì vậy Đức Giê-hô-va đã phó người cho sư tử, con thú ấy xé xác người và cắn giết người ấy, như lời của Đức Giê-hô-va đã cảnh báo người. ”
\v 27 Vậy, vị tiên tri già bảo các con trai mình, “Hãy thắng yên lừa cho cha, ” rồi họ thắng yên lừa.
\v 28 Ông đi ra và tìm thấy thây nằm trên đường, còn con lừa và sư tử đang đứng bên cạnh thây. Con sư tử không ăn thịt thây ấy, cũng không tấn công con lừa.
\s5
\v 29 Tiên tri nhặt xác người của Đức Chúa Trời, đặt lên con lừa, và đem về thành. Ông đi cùng với cư dân trong thành phố đến than khóc và chôn người ấy.
\v 30 Ông đặt thây ấy trong mồ mình, rồi họ than khóc người rằng, “Khốn thay, anh tôi!”
\s5
\v 31 Sau đó họ chôn người, tiên tri già nói với các con trai mình rằng, “Khi cha chết, các con hãy chôn cha trong mồ chung với người của Đức Chúa Trời. Hãy để xương cha bên cạnh xương của người ấy.
\v 32 Vì những lời người đã nói khi lớn tiếng dùng lời của Đức Giê-hô-va nói nghịch bàn thờ tại Bê-tên và nghịch cùng các bàn thờ ở những điện thờ trong các thành ở xứ Sa-ma-ri, chắc chắn sẽ xảy đến.
\s5
\v 33 Sau việc này, Giê-rô-bô-am không trở lại con đường gian ác của ông, nhưng vẫn lập các tư tế từ trong dân sự cho những điện thờ. Ông phong thánh cho bất cứ người nào phục vụ, để họ làm tư tế ở các điện thờ.
\v 34 Đây là việc làm lỗi của nhà Giê-rô-bô-am và nhà ấy bị chặt bỏ và diệt khỏi đất.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Khi đó, A-bi-gia con trai Giê-rô-bô-âm lâm bệnh.
\v 2 Giê-rô-bô-am nói cùng vợ mình, “Em hãy trở dậy rồi mặc đồ cải trang để người ta không biết em là vợ anh, em hãy đến Si-lô, vì tiên tri A-hi-gia đang ở tại đó; ông ấy là người đã nói trước rằng anh sẽ làm vua cai trị dân này.
\v 3 Em hãy đem theo mười ổ bánh mì, vài cái bánh, và một hũ mật ong, rồi đến gặp A-hi-gia. Ông ấy sẽ cho em biết chuyện gì sẽ xảy đến với con chúng ta.”
\s5
\v 4 Vợ Giê-rô-bô-am làm theo lời ông; bà lên đường đến Si-lô rồi vào nhà của A-hi-gia. Bấy giờ A-hi-gia không thể thấy được, do tuổi tác ông đã cao nên mắt ông bị lòa.
\v 5 Đức Giê-hô-va phán với A-hi-gia, “Kìa, vợ của Giê-rô-bô-am đang đến đặng được nghe ngươi nói về con trai của nàng, vì đứa trẻ ấy đang bệnh. Ngươi hãy nói cùng nàng như vầy và như vầy, vì khi nàng đến, nàng sẽ giả dạng là người nữ khác.”
\s5
\v 6 Khi A-hi-gia nghe tiếng chân của nàng đến trước cửa, ông nói, “Vào đi, vợ của Giê-rô-bô-am. Tại sao bà giả làm người khác? Chúa sai tôi gặp bà để báo cho bà tin xấu.
\v 7 Hãy đi, nói với Giê-rô-bô-am rằng, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán, Ta đã dấy ngươi lên từ giữa dân sự đặng lập ngươi lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta.
\v 8 Ta đã xé vương quốc từ nhà Đa-vít và ban nó cho ngươi, nhưng ngươi không như Đa-vít, tôi tớ Ta, là người trọn lòng giữ điều răn Ta và theo Ta, chỉ làm điều thiện trước mặt Ta.
\s5
\v 9 Trái lại, ngươi đã làm điều ác nhiều hơn mọi kẻ trước thời ngươi. Ngươi đã lập các thần khác, ngươi đúc tượng kim loại đặng chọc giận Ta, và bỏ Ta đằng sau lưng.
\v 10 Vì vậy, kìa, Ta sẽ giáng họa trên nhà ngươi; Ta sẽ loại khỏi ngươi từng người nam trong Y-sơ-ra-ên, bất luận là nô lệ hay tự chủ, và Ta sẽ hoàn toàn loại bỏ nhà ngươi, như người ta đốt phân cho đến khi không còn gì.
\s5
\v 11 Bất kỳ thành viên nào trong nhà ngươi chết trong thành sẽ bị chó ăn, và bất cứ ai chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn, vì Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán.
\v 12 Vậy hãy trỗi dậy, hỡi vợ của Giê-rô-bô-am, và trở về nhà mình; khi ngươi bước chân vào thành, A-bi-gia, con ngươi, sẽ chết.
\v 13 Cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc nó và chôn nó. Nó là người duy nhất trong nhà Giê-rô-bô-am sẽ được chôn trong mồ, vì ngoài những người khác trong nhà Giê-rô-bô-am, nó là người duy nhất có chút lòng tốt trước mặt Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 14 Ngoài ra, Đức Giê-hô-va sẽ dấy lên một vua Y-sơ-ra-ên, vua ấy sẽ bứng nhà Giê-rô-bô-am trong ngày đó. Hôm nay, ngay bây giờ, chính là ngày đó.
\v 15 Vì Đức Giê-hô-va sẽ đánh Y-sơ-ra-ên như cây sậy bị rung dưới nước, và Ngài sẽ nhổ Y-sơ-ra-ên khỏi xứ tốt tươi mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ. Ngài sẽ rải họ qua bên kia Sông Ơ-phơ-rát, vì họ đã dựng các trụ thờ thần A-sê-ra và chọc giận Đức Giê-hô-va.
\v 16 Ngài sẽ từ bỏ Y-sơ-ra-ên vì tội của Giê-rô-bô-am, là những tội mà người đã phạm và xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.”
\s5
\v 17 Vậy vợ Giê-rô-bô-am đứng lên và ra về, bà đến thành Tiệt-sa. Ngay khi bà đến ngạch cửa trong nhà, thì đứa trẻ chết.
\v 18 Cả Y-sơ-ra-ên chôn cất đứa trẻ và than khóc, như lời Đức Giê-hô-va đã phán qua tôi tớ Ngài là tiên tri A-hi-gia.
\s5
\v 19 Về những việc khác của Giê-rô-bô-am, cách ông tiến hành chiến tranh và cai trị, kìa, tất cả đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên.
\v 20 Giê-rô-bô-am cai trị được hai mươi hai năm rồi an giấc cùng tổ phụ mình, con trai ông là Na-đáp lên kế vị.
\s5
\v 21 Bấy giờ, Rê-hô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, đang cai trị ở Giu-đa. Rê-hô-bô-am lên làm vua khi ông được bốn mươi mốt tuổi, ông cai trị mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành mà Đức Giê-hô-va đã chọn từ tất cả các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng đặt danh Ngài ngự. Mẹ ông là Na-a-ma, người Am-môn.
\v 22 Dân Giu-đa làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va; họ khiêu khích Ngài ghen với tội lỗi họ phạm, nhiều hơn những gì tổ phụ họ đã làm.
\s5
\v 23 Họ cũng xây các điện thờ, các cột đá thờ, và các cột thờ thần A-sê-ra trên đồi cao và dưới bóng cây.
\v 24 Trong xứ cũng có điếm đĩ cúng tế. Họ làm những việc đáng khinh như các nước khác, là những nước mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khuất mắt Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 25 Năm thứ năm trong đời Vua Rê-hô-bô-am trị vì, vua Si-sắc của Ai Cập lên đánh Giê-ru-sa-lem.
\v 26 Ông cướp những kho tàng trong nhà Đức Giê-hô-va, và những kho báu trong hoàng cung. Ông lấy đi mọi thứ; ông cũng lấy tất cả các khiên vàng mà Sa-lô-môn đã làm.
\s5
\v 27 Vua Rê-hô-bô-am làm các khiên đồng để thay thế và giao phó vào tay các sĩ quan quân thị vệ canh gác cửa hoàng cung.
\v 28 Hễ khi nào vua bước vào nhà Đức Giê-hô-va, lính canh sẽ đem theo chúng; sau đó họ sẽ đem để lại trong phòng canh giữ.
\s5
\v 29 Về những việc khác của Rê-hô-bô-am, và mọi điều ông làm, chẳng phải hết thảy đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 30 Giữa nhà Rê-hô-bô-am và nhà Giê-rô-bô-am luôn có chiến tranh triền miên.
\v 31 Vậy Rê-hô-bô-am an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn với họ trong thành Đa-vít. Mẹ người tên là Na-a-ma, người Am-môn. A-bi-gia, con trai người, lên kế vị.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Vào năm thứ mười tám trong đời Vua Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, A-bi-gia lên làm vua dân Giu-đa.
\v 2 Ông cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông tên là Ma-a-ca.
\v 3 Ông bước theo mọi tội lỗi mà cha ông đã phạm trước kia; ông không tận hiến lòng mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông như Đa-vít, tổ phụ ông, đã trọn lòng.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, vì cớ Đa-vít, nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho ông một ngọn đèn ở Giê-ru-sa-lem bằng cách lập con trai ông lên kế vị đặng củng cố Giê-ru-sa-lem.
\v 5 Đức Chúa Trời làm việc này vì Đa-vít đã làm điều thiện trước mặt Ngài; vì trong trọn đời ông, ông không từ chối bất cứ việc gì Ngài truyền dặn ông, chỉ ngoại trừ vụ của U-ri-a, người Hê-tít.
\v 6 Bấy giờ trong đời của A-bi-gia luôn có chiến tranh giữa Rê-hô-bô-am và Giê-rô-bô-am.
\s5
\v 7 Về những việc của A-bi-gia, tất cả mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao? Giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am có chiến tranh.
\v 8 A-bi-gia an giấc cùng tổ phụ mình, người ta chôn ông trong thành Đa-vít. A-sa, con trai ông, lên kế vị.
\s5
\v 9 Vào năm thứ hai mươi trong đời Giê-rô-bô-a, vua Y-sơ-ra-ên, A-sa lên ngôi cai trị Giu-đa.
\v 10 Ông trị vì bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội ông là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm.
\v 11 A-sa làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, như Đa-vít, tổ phụ ông, đã làm.
\s5
\v 12 Ông tống khứ bọn điếm đĩ cúng tế ra khỏi xứ và loại bỏ mọi thần tượng mà các tổ phụ của ông đã làm.
\v 13 Ông cũng cách chức hoàng thái hậu của Ma-a-ca, bà nội ông, vì bà đã dựng một trụ thờ kinh tởm cho thần A-sê-ra. A-sa dẹp bỏ vật gớm ghiếc và đốn nó ở Thung lũng Kít-rôn.
\s5
\v 14 Nhưng các điện thờ thì không bị dẹp bỏ. Tuy nhiên, A-sa trọn lòng theo Đức Giê-hô-va khi còn sống.
\v 15 Ông đem vào nhà Đức Giê-hô-va những vật mà cha ông dâng cho Đức Giê-hô-va và những món ông đã dâng, là những vật bằng vàng và bạc.
\s5
\v 16 Giữa A-sa và Ba-a-sa, vua Y-sơ-ra-ên, luôn có chiến tranh trong thời của họ.
\v 17 Ba-sa-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đi đánh Giu-đa và xây dựng Ra-ma, đặng không ai được phép ra khỏi hay vào xứ của A-sa, vua Giu-đa.
\s5
\v 18 Sau đó, A-sa lấy hết vàng và bạc trong kho của nhà Đức Giê-hô-va, và các kho trong hoàng cung. Ông trao cho các cận thần và sai họ gửi cho Bên Ha-đát, con trai Táp-rim-môn, cháu Hê-xi-ôn, vua A-ram, tại Đa-mách. Ông nói,
\v 19 “Giữa tôi và vua hãy lập một hiệp ước, như giữa cha tôi và cha của vua. Kìa, tôi đã gửi cho vua quà bằng bạc và vàng. Hãy hủy hòa ước của vua với Ba-a-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đặng ông ấy để cho tôi yên.”
\s5
\v 20 Bên Ha-đát nghe lời Vua A-sa và sai các sĩ quan quân đội của ông tấn công các thành của Y-sơ-ra-ên. Họ đánh I-giôn, Đan, A-bên Bết Ma-a-ca, và cả vùng Kin-nê-rết, cùng với cả xứ Nép-ta-li.
\v 21 Xảy ra khi Ba-a-sa hay tin này, ông ngưng việc xây dựng Ra-ma và trở về Tiệt-xa.
\v 22 Sau đó Vua A-sa tuyên bố với toàn dân Giu-đa. Không ai được miễn trừ. Họ lấy đi những tảng đá và cây gỗ ở Ra-ma mà Ba-a-sa dùng để xây thành. Vua A-sa dùng vật liệu xây dựng đó để xây Ghê-ba ở Ben-gia-min và Mích-pa.
\s5
\v 23 Về những việc khác của A-sa, sức mạnh của ông, mọi việc ông làm, và các thành ông xây, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao? Nhưng khi về già, ông bị bệnh đau chân.
\v 24 Vậy A-sa an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn cùng họ trong thành Đa-vít, tổ của ông. Giê-hô-sa-phát, con trai ông, lên kế vị.
\s5
\v 25 Na-đáp, con trai Giê-rô-bô-am, lên cai trị Y-sơ-ra-ên vào năm thứ nhì trong đời A-sa, vua Giu-đa; ông cai trị Y-sơ-ra-ên hai năm.
\v 26 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và đi theo con đường của cha ông phạm tội, xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\v 27 Ba-a-sa, con trai A-hi-gia, thuộc nhà Y-sa-ca, mưu hại Na-đáp; Ba-a-sa giết ông ở Ghi-bê-thôn trong xứ Phi-li-tin, vì Na-đáp và cả Y-sơ-ra-ên khi đó bao vây Ghi-bê-thôn.
\v 28 Vào năm thứ ba trong đời A-sa, vua Giu-đa, Ba-a-sa giết Na-đáp và lên làm vua thay thế.
\s5
\v 29 Ngay khi vừa lên làm vua, Ba-a-sa giết hết cả nhà Giê-rô-bô-am. Ông không chừa lại một ai trong số con cháu Giê-rô-bô-am; như vậy ông diệt hoàng tộc của vua ấy, như Đức Giê-hô-va đã phán qua tôi tớ Ngài là A-hi-gia, người Si-lôn,
\v 30 vì những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã phạm và xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, vì ông đã chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 31 Về những việc khác của Na-đáp, và mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 32 Giữa A-sa và Ba-a-sa vua Y-sơ-ra-ên luôn có chiến tranh trong đời của họ.
\s5
\v 33 Vào năm thứ ba đời A-sa vua Giu-đa, Ba-a-sa con trai A-hi-gia lên cai trị Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-xa và ông cai trị hai mươi bốn năm.
\v 34 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và đi theo con đường của Giê-rô-bô-am và tội lỗi của ông ấy, xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Có lời của Đức Giê-hô-va đến với Giê-hu, con trai Ha-na-ni, phán nghịch cùng Ba-a-sa, rằng,
\v 2 “Dù Ta đã đem ngươi lên từ bụi đất và lập ngươi làm lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta, nhưng ngươi đã đi theo đường lối của Giê-rô-bô-am và xui dân Y-sơ-ra-ên Ta phạm tội, cũng như chọc giận Ta vì cớ tội lỗi họ.
\s5
\v 3 Này, Ta sẽ xóa sạch Ba-a-sa và gia đình nó, và Ta sẽ khiến gia đình ngươi như gia đình của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát.
\v 4 Chó sẽ ăn thịt người nào thuộc gia đình Ba-a-sa chết trong thành, và ai chết ngoài đồng thì sẽ bị chim trời ăn.”
\s5
\v 5 Về những việc khác của Ba-a-sa, những việc ông làm, và sức mạnh của ông, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 6 Ba-a-sa an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn tại Tiệt-xa, rồi Ê-la, con trai ông, lên kế vị.
\s5
\v 7 Vậy, Đức Giê-hô-va cậy tiên tri Giê-hu, con trai Ha-na-ni, phán lời nghịch cùng Ba-a-sa và nhà ông, ấy là vì mọi điều ác ông đã làm trước mặt Đức Giê-hô-va, chọc giận Ngài bởi công việc của tay mình, y như nhà của Giê-rô-bô-am, và cũng vì ông đã giết hết nhà Giê-rô-bô-am.
\s5
\v 8 Vào năm thứ hai mươi sáu trong đời A-sa, vua Giu-đa, Ê-la, con trai Ba-a-sa lên làm vua dân Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-xa; ông cai trị trong hai năm.
\v 9 Tôi tớ ông là Xim-ri, sĩ quan chỉ huy một nửa đạo quân xe chiến mã, lập mưu phản ông. Bấy giờ Ê-la đang ở Tiệt-xa, uống rượu say sưa trong nhà của A-xa, là chủ nhà tại Tiệt-xa.
\v 10 Xim-ri bước vào, tấn công và giết ông vào năm thứ hai mươi bảy trong đời A-sa, vua Giu-đa, và lên làm vua thay thế.
\s5
\v 11 Khi Xim-ri bắt đầu cai trị, vừa ngay khi ông ngồi lên ngai, ông giết hết nhà Ba-a-sa. Ông không chừa lại một người nam nào, cũng như bà con và hay bạn bè của Ba-a-sa.
\v 12 Vậy Xim-ri diệt cả nhà Ba-a-sa, như lời Đức Giê-hô-va đã cậy tiên tri Giê-hu phán nghịch cùng Ba-a-sa,
\v 13 vì mọi tội lỗi của Ba-a-sa và tội lỗi của Ê-la, con trai ông, và vì họ đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên khi thờ thần tượng.
\s5
\v 14 Về những việc khác của Ê-la, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\s5
\v 15 Vào năm thứ hai mươi bảy trong đời A-sa, vua Giu-đa, Xim-ri lên cai trị chỉ được bảy ngày tại Tiệt-xa. Bấy giờ quân đội đóng trại ở Ghi-bê-thôn, trong xứ của dân Phi-li-tin.
\v 16 Quân đội đóng trại tại đó và nghe rằng, “Xim-ri đã lập mưu và giết vua. ” Hôm đó ở trại, hết thảy Y-sơ-ra-ên đều tuyên bố Ôm-ri, sĩ quan quân đội, làm vua Y-sơ-ra-ên.
\v 17 Ôm-ri đi lên từ Ghi-bê-thôn, và cả Y-sơ-ra-ên đi cùng ông, họ bao vây Tiệt-xa.
\s5
\v 18 Khi Xim-ri thấy thành phố đã bị chiếm, ông vào pháo đài trong hoàng cung và phóng hỏa đốt tòa nhà ấy; như vậy ông chết trong trận hỏa hoạn đó.
\v 19 Việc này xảy ra là do tội lỗi ông đã phạm khi làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, đi theo con đường của Giê-rô-bô-am và phạm tội, xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\v 20 Về những việc khác của Xim-ri, và mưu phản của ông, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\s5
\v 21 Sau đó dân Y-sơ-ra-ên chia làm hai phe. Một phe theo Típ-ni, con trai Ghi-nát, và lập ông làm vua; phe còn lại theo Ôm-ri.
\v 22 Nhưng phe Ôm-ri mạnh hơn phe Típ-ni, con trai Ghi-nát. Vì vậy Típ-ni chết, và Ôm-ri làm vua.
\s5
\v 23 Ôm-ri bắt đầu cai trị Y-sơ-ra-ên vào năm thứ ba mươi mốt trong đời A-sa, vua Giu-đa, và ông cai trị mười hai năm. Ông cai trị ở Tiệt-xa được sáu năm.
\v 24 Ông mua đồi Sa-ma-ri từ Sê-me với giá hai ta-lâng bạc. Ông dựng một thành phố trên đồi và gọi đó là thành Sa-ma-ri, theo tên của Sê-me, chủ cũ của ngọn đồi.
\s5
\v 25 Ôm-ri làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và còn ác hơn tất cả các vua trước ông.
\v 26 Ông đi theo trọn con đường của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và bởi tội lỗi mình xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên khi thờ thần tượng.
\s5
\v 27 Về những việc khác của Ôm-ri, và sức mạnh của ông, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 28 Vậy Ôm-ri an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn ở Sa-ma-ri; A-háp, con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 29 Vào năm thứ ba mươi tám trong đời A-sa, vua Giu-đa, A-háp, con trai Ôm-ri lên cai trị Y-sơ-ra-ên. A-háp, con trai Ôm-ri, cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri được hai mươi hai năm.
\v 30 A-háp, con trai Ôm-ri, làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va nhiều hơn tất cả những vua trước ông.
\s5
\v 31 Việc A-háp đi theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, ông cho đó là việc hết sức bình thường, ông cưới Giê-sa-bên, con gái Ết-ba-anh, vua dân Si-đôn, làm vợ; ông thờ lạy Ba-anh và quỳ lạy nó.
\v 32 Ông xây một bàn thờ cho Ba-anh trong đền Ba-anh, là đền ông đã xây tại Sa-ma-ri.
\v 33 A-háp dựng một trụ thờ thần A-sê-ra. A-háp thậm chí chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hơn, hơn tất cả các vua Y-sơ-ra-ên trước ông.
\s5
\v 34 Trong đời ông, Hi-ên, ở Bê-tên, tái xây dựng Giê-ri-cô. Ông xây móng thành khi A-bi-ram, con trưởng của ông chết, và xây các cổng thành khi con út ông là Sê-gúp chết, họ làm điều này vì họ vâng lời Đức Giê-hô-va, là lời Ngài đã phán bởi Giô-suê, con trai Nun.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Ê-li người Ti-sê-be, đến từ Ti-sê-be trong xứ Ghi-lê-át, nói với A-háp, “Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời hằng sống của Y-sơ-ra-ên, tôi đứng trước mặt Ngài mà tuyên bố rằng sẽ không có sương hoặc mưa trong ba năm tới nếu tôi chẳng nói vậy.”
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li rằng,
\v 3 “Hãy rời khỏi đây và đi về phía đông; ẩn mình trong khe Kê-rít, phía đông Giô-đanh.
\v 4 Ngươi sẽ uống nước từ khe, và Ta sẽ sai quạ đến nuôi ngươi.”
\s5
\v 5 Vậy Ê-li lên đường và làm y như lời Đức Giê-hô-va đã phán. Ông đến trú tại khe Kê-rít, phía đông Giô-đanh.
\v 6 Quạ đem bánh và thịt đến cho ông vào buổi sáng và buổi chiều, ông uống nước từ trong khe.
\v 7 Nhưng một thời gian sau, khe cạn nước vì trong xứ không có mưa.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng ông rằng,
\v 9 “Hãy đứng dậy, đến Sa-rép-ta, trong xứ Si-đôn, và ở tại đó. Kìa, Ta đã truyền một góa phụ tại đó chu cấp cho ngươi. ”
\v 10 Vậy, ông đứng dậy và đến Sa-rép-ta, và khi đến cổng thành, ông thấy một bà góa đang lượm củi. Ông gọi bà và nói, “Xin cho tôi uống một ít nước trong vại.”
\s5
\v 11 Khi bà chuẩn bị đi lấy nước, ông gọi bà và nói rằng, “Xin đem cho tôi một mẫu bánh trên tay bà. ”
\v 12 Bà trả lời, “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời hằng sống của ông, tôi không có bánh nào cả, ngoại trừ một nắm thức ăn trong vại và một ít dầu trong bình. Kìa, tôi đang lượm hai cây củi để về nấu cho tôi và con trai tôi, chúng tôi sẽ ăn rồi chết. ”
\v 13 Ê-li bảo bà, “Đừng sợ. Hãy đi và làm điều bà nói, nhưng trước nhất hãy làm một ít bánh và đem đến cho tôi. Sau đó hãy làm cho bà và con trai bà.
\s5
\v 14 Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán rằng, Hũ thức ăn sẽ không vơi, bình dầu cũng sẽ luôn chảy, cho đến ngày Đức Giê-hô-va ban mưa trên đất. ”
\v 15 Vậy bà làm theo lời Ê-li đã bảo, và bà, Ê-li, và con trai bà ăn trong nhiều ngày.
\v 16 Hũ thức ăn không vơi, bình dầu sẽ luôn chảy, như lời Đức Giê-hô-va đã phán bởi Ê-li.
\s5
\v 17 Sau những việc này, con trai của bà chủ nhà lâm bệnh. Đứa nhỏ bệnh nặng đến nỗi tắt thở.
\v 18 Người mẹ nói với Ê-li, “Ông đã gây ra chuyện gì cho tôi vậy, hỡi người của Đức Chúa Trời? Ông đến gặp tôi đặng nhắc lại tội lỗi tôi và giết con trai tôi?”
\s5
\v 19 Ê-li trả lời bà, “Hãy trao con trai bà cho tôi. ” Ông ẵm đứa bé từ tay bà và đem nó vào phòng của ông, rồi đặt đứa trẻ nằm lên giường.
\v 20 Ông kêu cầu Đức Giê-hô-va rằng, “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời con, Ngài cũng giáng họa lên bà góa này, là người cho con ở trọ, và Ngài giết con trai bà sao? ”
\v 21 Vậy Ê-li nằm sấp lên người đứa trẻ ba lần; ông kêu cầu Đức Giê-hô-va rằng, “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời, con cầu xin Ngài cho sự sống của đứa trẻ trở lại trong nó.”
\s5
\v 22 Đức Giê-hô-va lắng nghe tiếng của Ê-li; đứa trẻ được hồi sinh và nó sống lại.
\v 23 Ê-li bế đứa trẻ ra khỏi phòng và xuống nhà; ông trao đứa trẻ cho bà và nói, “Này, con trai bà còn sống. ”
\v 24 Người phụ nữ nói cùng Ê-li, “Bây giờ tôi biết rằng ông là người của Đức Chúa Trời, và lời của Đức Giê-hô-va trong miệng ông là thật.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Nhiều ngày sau, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li, vào hạn hán thứ ba, “Hãy đi gặp A-háp, Ta sẽ ban mưa xuống trên đất. ”
\v 2 Ê-li đến gặp A-háp; bấy giờ ở Sa-ma-ri đang có nạn đói dữ dội.
\s5
\v 3 A-háp gọi Áp-đia, là người phụ trách cung điện. Khi đó Áp-đia rất kính trọng Đức Giê-hô-va,
\v 4 vì khi Giê-sa-bên ra tay giết các tiên tri của Đức Giê-hô-va, Áp-đia đã dẫn một trăm tiên tri đi nơi khác và giấu năm mươi người trong một cái hang, sau đó nuôi họ bằng bánh và nước.
\s5
\v 5 A-háp bảo Áp-đia, “Hãy đi khắp xứ tìm đến những con suối và khe nước. Có thể chúng ta sẽ tìm được cỏ đặng cứu ngựa và la, hầu cho chúng ta không mất hết con vật nào cả. ”
\v 6 Vậy họ chia nhau đi khắp xứ để tìm nước. A-háp đi hướng này, và Áp-đia đi hướng kia.
\s5
\v 7 Khi Áp-đia đang đi đường, Ê-li tình cờ gặp ông. Áp-đia nhận ra ông và sấp mặt xuống đất. Ông nói, “Có phải ông là Ê-li, chủ của tôi? ”
\v 8 Ê-li trả lời, “Chính ta đây. Hãy đi nói với chủ ngươi, Kìa, Ê-li đang ở đây. ’”
\s5
\v 9 Áp-đia đáp, “Tôi đã phạm tội thế nào đến nỗi ông giao tôi tớ của ông vào tay A-háp đặng giết tôi?
\v 10 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời hằng sống của ông, không có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ của tôi không sai người đi tìm ông. Hễ bất cứ khi nào mà nước này hay vương quốc kia nói rằng, ‘Ê-li không có ở đây, thì A-háp bắt họ thề là họ đã không tìm được ông.
\v 11 Nhưng bây giờ ông nói, Hãy đi, nói với chủ ngươi rằng Ê-li đang ở đây.
\s5
\v 12 Ngay khi tôi vừa đi khỏi ông, Thần của Đức Giê-hô-va sẽ đem ông đến nơi nào đó mà tôi chẳng biết. Rồi khi tôi đi nói với A-háp, ông ấy sẽ giết tôi nếu không thể tìm được ông. Tuy nhiên tôi, là tôi tớ của ông, đã thờ phượng Đức Giê-hô-va bằng môi miệng mình.
\v 13 Thưa chủ, phải chăng ông chưa biết điều tôi đã làm khi Giê-sa-bên giết các tiên tri của Đức Giê-hô-va, việc tôi giấu một trăm tiên tri của Đức Giê-hô-va, năm mươi người trong một cái hang và nuôi họ bằng bánh và nước chăng?
\s5
\v 14 Và giờ đây ông nói, Hãy đi, nói với chủ ngươi rằng Ê-li đang ở đây, ông ấy sẽ giết tôi. ”
\v 15 Ê-li trả lời, “Vì Đức Giê-hô-va vạn quân hằng sống, là Đấng mà ta đang đứng trước mặt, hôm nay chắc chắn ta sẽ đến gặp A-háp.”
\s5
\v 16 Vậy Áp-đia đi gặp A-háp; ông thuật lại, và A-háp đến gặp Ê-li.
\v 17 Khi A-háp thấy Ê-li, ông hỏi vị tiên tri, “Phải chăng đó là ngươi, kẻ gây rối của Y-sơ-ra-ên?”
\s5
\v 18 Ê-li trả lời, “Tôi không gây rối Y-sơ-ra-ên, nhưng bệ hạ và gia đình bệ hạ chính là những kẻ gây rối khi từ bỏ điều răn của Đức Giê-hô-va và thờ lạy các thần tượng Ba-anh.
\v 19 Vậy bây giờ, bệ hạ hãy triệu tập cho tôi tất cả dân Y-sơ-ra-ên tại Núi Cạt-mên, cùng với 450 tiên tri Ba-anh và bốn trăm tiên tri A-sê-ra là những người ăn tại bàn của Giê-sa-bên.”
\s5
\v 20 Vậy A-háp sai người đi rao báo khắp dân Y-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại Núi Cạt-mên.
\v 21 Ê-li đến gần hết thảy dân sự và nói rằng, “Quý vị còn đổi ý cho đến khi nào? Nếu Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, hãy theo Ngài. Nhưng nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời, hãy theo nó. ” Tuy nhiên, dân sự không trả lời ông một tiếng nào.
\s5
\v 22 Ê-li nói với dân sự, “Tôi, một mình tôi đây, là tiên tri của Đức Giê-hô-va còn sống sót, nhưng tiên tri của Ba-anh có đến 450 người.
\v 23 Vậy hãy để họ đem đến cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn một con bò và xẻ thịt, đặt lên củi, nhưng không đốt lửa. Sau đó, tôi sẽ xẻ thịt con bò kia rồi đặt lên củi, cũng không đốt lửa.
\v 24 Tiếp theo, quý vị sẽ kêu cầu danh của thần quý vị, còn tôi sẽ kêu cầu danh Giê-hô-va, và thần nào trả lời bằng lửa, thì thần đó là Đức Chúa Trời. ” Vậy cả dân sự trả lời rằng, “Hay lắm.”
\s5
\v 25 Ê-li nói với các tiên tri Ba-anh, “Các ông hãy chọn một con bò và xẻ thịt nó trước đi, vì các ông đông người hơn. Sau đó hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được đốt lửa thiêu con bò. ”
\v 26 Họ lấy con bò đã đã chọn và xẻ thịt nó, rồi kêu cầu danh Ba-anh từ sáng đến trưa, rằng, “Lạy Ba-anh, xin nghe chúng tôi. ” Nhưng không có tiếng nào cả, cũng không ai trả lời. Họ nhảy múa quanh bàn thờ đã dựng.
\s5
\v 27 Vào buổi trưa, Ê-li chế nhạo họ và nói rằng, “Hãy la lớn lên! Hắn là thần! Có lẽ hắn đang suy nghĩ, hay đang tĩnh tâm, hoặc hắn đang đi đường, hoặc có thể hắn đang ngủ và cần được đánh thức. ”
\v 28 Vậy họ kêu cầu lớn hơn, họ tự rạch da như mọi khi bằng gươm và giáo, cho đến khi máu chảy trên người họ.
\v 29 Nửa ngày đã trôi qua, và họ vẫn nói như điên dại cho đến giờ dâng lễ vật vào buổi chiều, nhưng không có tiếng nói nào hoặc ai trả lời; không ai để ý đến những lời cầu xin của họ.
\s5
\v 30 Sau đó Ê-li nói cùng hết thảy dân sự, “Hãy đến gần tôi, ” và cả dân sự đến gần ông. Ông sửa lại bàn thờ đổ vỡ của Đức Giê-hô-va.
\v 31 Ê-li lấy mười hai hòn đá, tượng trưng cho mỗi chi phái của các con trai Gia-cốp Đức Giê-hô-va đã phán cùng Gia-cốp rằng, “Ngươi sẽ tên là Y-sơ-ra-ên. ”
\v 32 Ông nhân danh Đức Giê-hô-va dựng một bàn thờ trên mười hai hòn đá, và ông đào một cái mương quanh bàn thờ rộng đủ để chứa hai thúng hạt giống.
\s5
\v 33 Sau đó ông đặt củi nhóm lửa và xẻ thịt con bò, ông đặt các miếng thịt lên củi. Ông nói, “Hãy múc đầy nước trong bốn vại rồi đổ lên của lễ thiêu và củi. ”
\v 34 Ông lại nói, “Hãy làm lần thứ nhì, ” và họ làm lần thứ nhì. Rồi ông nói, “Hãy làm lần thứ ba, ” và họ làm lần thứ ba.
\v 35 Nước chảy quanh bàn thờ và tràn mương.
\s5
\v 36 Khi đến giờ dâng của lễ vào buổi chiều, tiên tri Ê-li đến gần và nói rằng, “Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Y-sơ-ra-ên, hôm nay xin Chúa tỏ ra rằng Ngài là Đức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên, và con là tôi tớ Ngài, con đã làm mọi điều Ngài phán dặn.
\v 37 Lạy Đức Giê-hô-va, xin lắng nghe con, để dân này biết rằng Ngài, Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ khiến họ hướng lòng về lại với Ngài.”
\s5
\v 38 Sau đó, lửa của Đức Giê-hô-va giáng xuống và thiêu đốt của lễ thiêu, cũng như củi, đá, bụi, và làm khô hết nước trong mương.
\v 39 Khi cả dân sự thấy việc này, họ sấp mặt xuống đất và nói rằng, “Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời! Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời! ”
\v 40 Ê-li nói cùng họ, “Hãy bắt các tiên tri Ba-anh. Chớ để tên nào trốn thoát. ” Vậy họ bắt chúng, Ê-li đem các tiên tri Ba-anh đến khe Kít-sôn rồi giết chúng tại đó.
\s5
\v 41 Ê-li bảo A-háp, “Bệ hạ hãy đi lên, ăn và uống, vì tôi nghe có tiếng mưa lớn. ”
\v 42 Vậy A-háp đi lên ăn và uống. Sau đó Ê-li đi lên núi Cạt-mên, cúi mặt và sấp mình xuống đất.
\s5
\v 43 Ông nói với tôi tớ của ông, “Hãy đi lên, nhìn về phía biển. ” Tôi tớ ông đi lên nhìn và nói, “Chẳng có gì cả. ” Ê-li nói, “Hãy đi lên thêm bảy lần nữa. ”
\v 44 Đến lần thứ bảy, tôi tớ nói, “Kìa, có một đám mây đang nổi lên từ ngoài biển, nhỏ như bàn tay. ” Ê-li đáp, “Hãy đi lên và nói với A-háp, Xin bệ hạ chuẩn bị sẵn xe chiến mã và đi xuống trước khi mưa ngăn bệ hạ lại. ’”
\s5
\v 45 Bỗng chốc sau đó, mây đen kịt trên trời, gió nổi lên, và xuất hiện một trận mưa lớn. A-háp cưỡi xe đến Giê-rê-ên,
\v 46 nhưng tay của Đức Giê-hô-va đặt trên Ê-li. Ông nịt áo bằng thắt lưng rồi chạy trước A-háp đến cửa thành Giê-rê-ên.
\s5
\c 19
\p
\v 1 A-háp kể cho Giê-sa-bên về mọi chuyện Ê-li đã làm, và việc ông ấy đã dùng gươm giết hết tất cả tiên tri ra sao.
\v 2 Sau đó Giê-sa-bên sai một sứ giả đến gặp Ê-li, nói rằng, “Cầu các thần giáng phạt ta, và cũng phạt ta nặng hơn, nếu ngày mai vào giờ này ta không biến mạng sống ngươi trở nên như mạng sống của một trong các tiên tri đã chết. ”
\v 3 Khi Ê-li nghe lời đó, ông đứng dậy và chạy trốn để bảo toàn mạng sống, ông đến Bê-e-sê-ba, trong xứ Giu-đa, và để tôi tớ mình ở lại đó.
\s5
\v 4 Còn một mình ông đi vào hoang mạc hết một ngày đường, ông đến ngồi xuống dưới một cây giếng giêng. Ông ước gì mình có thể chết, và nói rằng, “Đức Giê-hô-va ơi, đủ rồi; xin cất mạng sống con, vì con không hơn gì so với các tổ phụ con. ”
\v 5 Vậy ông nằm xuống và ngủ dưới cây giếng giêng; bỗng dưng một thiên sứ đến chạm ông và phán, “Hãy đứng dậy và ăn. ”
\v 6 Ê-li nhìn xem, gần đầu ông là bánh được nướng trên than và một bình nước. Ông ăn và uống rồi lại nằm xuống.
\s5
\v 7 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đến lần thứ nhì rồi chạm vào ông và nói rằng, “Hãy dậy và ăn, vì đường còn dài lắm. ”
\v 8 Vậy ông ngồi dậy và ăn uống, sau đó bởi được tiếp thêm sức từ lương thực đó, ông đi trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm đến Hô-rếp, là núi của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 9 Ông đến một hang động tại đó và ở trong đó. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ông rằng, “Hỡi Ê-li, ngươi đang làm gì ở đây? ”
\v 10 Ê-li thưa rằng, “Con đã rất nhiệt thành vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, vì dân Y-sơ-ra-ên đã bỏ giao ước Ngài, phá hủy bàn thờ Ngài, và dùng gươm giết các tiên tri Ngài. Giờ đây, chỉ mình con còn sống sót và họ đang tìm cách đoạt mạng con.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va đáp, “Hãy đi ra và đứng trên núi trước mặt Ta. ” Sau đó, Đức Giê-hô-va đi ngang qua, một cơn gió mạnh làm rung chuyển những ngọn núi và khiến đá vỡ ra từng mảnh trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng Đức Giê-hô-va không ở trong cơn gió. Sau cơn gió là trận động đất, nhưng Đức Giê-hô-va không có trong cơn động đất.
\v 12 Sau cơn động đất là lửa, nhưng Đức Giê-hô-va không có trong lửa. Sau lửa là một tiếng nói êm dịu.
\s5
\v 13 Khi Ê-li nghe giọng nói ấy, ông lấy áo choàng che mặt lại, đi ra, và đứng ở cửa hang. Có một tiếng phán cùng ông rằng, “Hỡi Ê-li, ngươi đang làm gì ở đây? ”
\v 14 Ê-li thưa rằng, “Con đã rất nhiệt thành vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, vì dân Y-sơ-ra-ên đã bỏ giao ước Ngài, phá hủy bàn thờ Ngài, và dùng gươm giết các tiên tri Ngài. Giờ đây, chỉ mình con còn sống sót và họ đang tìm cách đoạt mạng con.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va phán cùng ông, “Hãy đi, trở lại con đường ngươi đã đi đến hoang mạc Đa-mách, khi đến đó, ngươi hãy xức dầu cho A-xa-ên lên làm vua A-ram,
\v 16 hãy xức dầu cho Giê-hu, con trai Nim-si, lên làm vua Y-sơ-ra-ên, và cũng hãy xức dầu cho Ê-li-sê, con trai A-bên Mê-hô-la, làm tiên tri thay thế ngươi.
\s5
\v 17 Khi đó, Giê-hu sẽ giết bất cứ ai thoát khỏi gươm của Ha-xa-ên, và Ê-li-sê sẽ giết bất kỳ ai thoát khỏi gươm của Giê-hu.
\v 18 Nhưng Ta sẽ chừa lại cho Ta bảy ngàn người trong Y-sơ-ra-ên, là những người không quỳ lạy Ba-anh, và miệng họ chưa từng hôn nó.”
\s5
\v 19 Vậy Ê-li từ đó ra đi và tìm gặp Ê-li-sê, con trai Sa-phát, khi ấy người đang cày với mười hai đôi bò đực ở phía trước, và người đang cày với đôi thứ mười hai. Ê-li đi ngang qua Ê-li-sê và quăng áo choàng lên ông.
\v 20 Sau đó Ê-li-sê để lại đôi bò và chạy theo Ê-li; ông nói, “Xin hãy để tôi hôn cha tôi và mẹ tôi, rồi tôi sẽ theo ông. ” Ê-li đáp, “Hãy trở lại, nhưng hãy nghĩ đến điều ta đã làm cho ngươi.”
\s5
\v 21 Vậy sau khi gặp Ê-li, Ê-li-sê trở về và lấy đôi bò, giết chúng, rồi dùng củi lấy từ ách bò để nấu thịt, chia cho mọi người cùng ăn. Rồi ông đứng dậy, đi theo Ê-li, và phục vụ người.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Bên Ha-đát, vua A-ram, tập hợp toàn quân đội; có ba mươi hai vua chư hầu đi cùng ông, đem theo ngựa và xe chiến mã. Ông đến bao vây Sa-ma-ri và đánh thành ấy.
\v 2 Ông sai các sứ giả vào thành gặp A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, và nói rằng, “Bên Ha-đát nói như vầy:
\v 3 Bạc và vàng của ngươi là của ta. Những người vợ đẹp nhất và con cái ngươi, bây giờ là của ta. ’”
\s5
\v 4 Vua Y-sơ-ra-ên trả lời rằng, “Thật như lời vua nói, thưa vua chúa tôi. Tôi và tất cả những gì thuộc về tôi đều là của vua. ”
\v 5 Các sứ giả trở lại và báo, “Bên Ha-đát nói như vầy, Ta đã sai người đến bảo ngươi rằng ngươi phải nộp cho ta bạc, vàng, vợ và con ngươi.
\v 6 Nhưng ta sẽ sai tôi tớ ta đến gặp ngươi vào ngày mai đúng giờ này, họ sẽ lục soát nhà của ngươi và nhà tôi tớ ngươi. Chính tay họ sẽ chiếm đoạt và đem đi bất cứ thứ gì họ thích. ’”
\s5
\v 7 Sau đó, vua Y-sơ-ra-ên gọi tất cả trưởng lão trong xứ đến và nói rằng, “Các ông hãy lưu ý và xem người này đến đây gây sự. Hắn sai người đến đòi ta phải nộp vợ, con, bạc và vàng ta cho hắn, ta đã không từ chối hắn. ”
\v 8 Hết thảy trưởng lão và dân sự nói cùng A-háp, “Bệ hạ đừng nghe lời hắn hoặc ưng thuận đòi hỏi của hắn.”
\s5
\v 9 Vậy A-háp sai các sứ giả đến gặp Bên Ha-đát, “Hãy nói với vua chúa ta, Ta đồng ý với mọi điều vua sai tôi tớ đến lần đầu, nhưng tôi không thể chấp nhận yêu cầu lần thứ nhì này. ’” Vậy các sứ giả ra đi và đem câu trả lời về cho Bên Ha-đát.
\v 10 Sau đó Bên Ha-đát trả lời A-háp rằng, “Cầu các thần phạt ta và phạt ta nặng nề hơn nếu tro của Sa-ma-ri không đủ cho tất cả những ai theo ta, mỗi người một nắm tay.”
\s5
\v 11 Vua Y-sơ-ra-ên trả lời rằng, “Hãy nói với Bên Ha-đát, Không ai mặc áo giáp mà lại khoe khoang như thể mình đã cởi áo giáp rồi. ’”
\v 12 Bên Ha-đát nghe tin này khi ông đang cùng các vua chư hầu khác uống rượu trong lều. Bên Ha-đát ra lệnh, “Hãy dàn trận. ” Vậy họ đi dàn trận để tấn công thành phố.
\s5
\v 13 Khi đó, một tiên tri đến gặp A-háp, vua Y-sơ-ra-ên và nói rằng, “Đức Giê-hô-va phán, Ngươi có thấy đội quân lớn này không? Kìa, hôm nay Ta sẽ phó nó vào tay ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va. ’”
\v 14 A-háp trả lời, “Bởi ai? ” Đức Giê-hô-va trả lời, “Bởi những sĩ quan trẻ của ngươi, là những người phục vụ các thống đốc ở quận. ” A-háp hỏi, “Ai sẽ bắt đầu trận chiến? ” Đức Giê-hô-va trả lời, “Ngươi. ”
\v 15 Vậy A-háp tập họp các sĩ quan trẻ là những người phục vụ các thống đốc quận. Có 232 người. Sau đó, ông tập họp tất cả binh lính, cả quân đội Y-sơ-ra-ên, tổng cộng là bảy ngàn người.
\s5
\v 16 Họ đi ra vào ban trưa. Bên Ha-đát đã uống rượu say mèm trong lều mình cùng với ba mươi hai vua chư hầu là những vua đang hỗ trợ ông.
\v 17 Các sĩ quan trẻ là người phục vụ thống đốc quận đến trước tiên. Sau đó Bên Ha-đát được báo cáo bởi những người trinh sát do ông sai đi, “Những người đó đang đến từ Sa-ma-ri.”
\s5
\v 18 Bên Ha-đát nói, “Dù chúng đến vì hòa bình hay chiến tranh, hãy bắt sống chúng. ”
\v 19 Vậy các sĩ quan trẻ của các thống đốc quận ra ngoài thành phố, và có quân đội theo họ.
\s5
\v 20 Mỗi người giết kẻ thù mình, và dân A-ram chạy chạy thoát thân: Y-sơ-ra-ên đuổi theo sau. Bên Ha-đát, vua A-ram, trốn thoát trên một con ngựa cùng với một số lính kỵ khác.
\v 21 Sau đó, vua Y-sơ-ra-ên đi ra và đánh các ngựa chiến và xe chiến mã, rồi tàn sát dân A-ram nặng nề.
\s5
\v 22 Vậy tiên tri đến gặp vua Y-sơ-ra-ên và nói rằng, “Vua hãy đi, củng cố quân lực, hãy hiểu và lập kế hoạch vua sẽ làm, vì khi vua A-ram trở lại, hắn sẽ đánh vua lần nữa. ”
\v 23 Các tôi tớ của A-ram nói cùng ông, “Thần của họ là thần núi. Đó là lý do họ mạnh hơn chúng ta. Nhưng bây giờ chúng ta hãy đánh chúng ở đồng bằng, chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn chúng.
\s5
\v 24 Bệ hạ cũng hãy làm điều này: Cắt các tiểu vương khỏi quyền chỉ huy, và đưa các sĩ quan quân đội vào thế cho họ.
\v 25 Xin bệ hạ lập nên một quân đội như quân đội mà bệ hạ đã mất, chuẩn bị đủ số ngựa và xe chiến mã, rồi chúng ta sẽ đánh chúng ở đồng bằng. Chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn chúng. ” Vậy Bên Ha-đát nghe theo lời khuyên của họ và làm như lời đề xuất.
\s5
\v 26 Vào đầu năm mới, Bên Ha-đát tập họp quân A-ram và đi lên A-phéc đặng đánh Y-sơ-ra-ên.
\v 27 Dân Y-sơ-ra-ên được triệu tập và tiếp tế để đánh quân thù. Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại đối diện họ như hai bầy dê nhỏ, nhưng quân A-ram thì đầy khắp cả vùng.
\s5
\v 28 Khi đó, có một người của Đức Chúa Trời đến gần và nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng, “Đức Giê-hô-va phán: Vì dân A-ram đã nói rằng Đức Giê-hô-va là thần núi, chứ không phải là thần thung lũng, nên Ta sẽ phó đội quân lớn này vào tay ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va. ’”
\s5
\v 29 Vậy cả hai đội quân đóng trại đối diện nhau trong bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, họ bắt đầu đánh nhau. Dân Y-sơ-ra-ên giết một trăm ngàn lính bộ binh trong một ngày.
\v 30 Số còn lại lẩn trốn đến A-phéc, vào trong thành, và tường thành đổ sập trên hai mươi bảy ngàn người còn lại. Bên Ha-đát bỏ chạy và vào trong thành, trốn trong một phòng kín.
\s5
\v 31 Các tôi tớ của Bên Ha-đát nói cùng ông, “Bây giờ, chúng tôi nghe nói là các vua của Y-sơ-ra-ên là những người có lòng khoan dung. Xin bệ hạ hãy để chúng tôi quấn vải gai quanh thắt lưng và buộc dây quanh đầu rồi đến gặp vua Y-sơ-ra-ên. Có thể ông ấy sẽ tha mạng của bệ hạ. ”
\v 32 Vậy họ quấn vải gai quanh thắt lưng và buộc dây quanh đầu, sau đó họ đến gặp vua Y-sơ-ra-ên và nói rằng, “Bên Ha-đát, tôi tớ của bệ hạ có nói rằng, Xin tha mạng tôi. ’” A-háp hỏi, “Ông ấy vẫn còn sống à? Ông ấy là anh em của ta.”
\s5
\v 33 Bấy giờ, họ thấy có dấu hiệu từ A-háp, họ vội trả lời ông, “Vâng, người anh em Bên Ha-đát của bệ hạ còn sống. ” A-háp nói, “Hãy đi và dẫn ông ấy đến đây. ” Bên Ha-đát đến gặp A-háp, và A-háp mời ông lên xe chiến mã của mình.
\v 34 Bên Ha-đát nói với A-háp, “Tôi sẽ sẽ trả lại cho vua những thành phố mà phụ vương tôi đã chiếm từ phụ vương của vua, và vua sẽ lập chợ ở Đa-mách, như phụ vương tôi đã làm tại Sa-ma-ri. ” A-háp trả lời, “Tôi sẽ thả vua với thỏa thuận này. ” Vậy A-háp lập một thỏa thuận với Bên Ha-đát rồi thả ông ấy đi.
\s5
\v 35 Có một người kia, là một trong các con trai của những tiên tri, dùng lời của Đức Giê-hô-va nói với một trong các bạn tiên tri của mình rằng, “Hãy đánh tôi. ” Nhưng người đó từ chối đánh ông.
\v 36 Tiên tri ấy nói cùng bạn của ông rằng, “Vì anh không vâng theo tiếng Đức Giê-hô-va, nên ngay khi anh vừa đi khỏi tôi, một con sư tử sẽ cắn chết anh. ” Và vừa ngay khi người đó rời đi, một con sư tử vồ đến và giết chết ông.
\s5
\v 37 Sau đó, tiên tri tìm một người khác và bảo, “Hãy đánh tôi. ” Người đó đánh ông và làm ông bị thương.
\v 38 Vị tiên tri trở về và đợi vua bên đường; ông cải trang thành một người quấn dải băng quanh mắt.
\s5
\v 39 Khi vua đi ngang qua, vị tiên tri kêu lớn tiếng đến vua rằng, “Tôi tớ của bệ hạ đã ở giữa chiến trận, một tên lính đem đến cho tôi một tù binh và nói rằng, Hãy canh người này. Nếu để xổng hắn, mạng ông sẽ phải đền cho mạng nó, hoặc ông sẽ phải trả một ta-lâng bạc.
\v 40 Nhưng vì tôi tớ của bệ hạ bận đi tới đi lui, nên kẻ thù đã trốn thoát. ” Vua Y-sơ-ra-ên nói với ông, “Hình phạt của ngươi như vậy là rõ ràng rồi chính ngươi đã tự kết án mình.”
\s5
\v 41 Sau đó, vị tiên tri nhanh chóng tháo dải băng khỏi mắt, và vua Y-sơ-ra-ên nhận ra đó là một trong các tiên tri.
\v 42 Vị tiên tri nói với vua, “Đức Giê-hô-va phán, Vì ngươi đã để xổng người mà Ta muốn phải chết, nên ngươi sẽ thế mạng cho mạng nó, và dân của ngươi sẽ bị thế cho dân của nó. ’”
\v 43 Vua Y-sơ-ra-ên trở về cung tại Sa-ma-ri, lòng đầy phẫn uất và giận dữ.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Sau đó, xảy ra chuyện này, Na-bốt người Giê-rê-ên có một vườn nho ở Giê-rê-ên, gần cung điện của A-háp, vua Sa-ma-ri.
\v 2 A-háp bảo Na-bốt, “Hãy nhượng cho ta vườn nho của ngươi, để ta làm vườn rau, vì nó ở gần nhà ta. Đổi lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt hơn, hoặc, nếu ngươi thích, ta sẽ trả tiền cho ngươi.”
\s5
\v 3 Na-bốt trả lời A-háp, “Cầu xin Đức Giê-hô-va cấm tôi giao sản nghiệp của tổ phụ tôi cho bệ hạ. ”
\v 4 Vậy A-háp trở về cung điện, lòng đầy uất ức và tức giận vì câu trả lời của Na-bốt người Giê-rê-ên khi nghe ông nói rằng, “Tôi sẽ không nhượng cho bệ hạ sản nghiệp của tổ phụ tôi. ” Ông nằm trên giường, quay mặt đi, và không ăn gì cả.
\s5
\v 5 Hoàng hậu Giê-sa-bên đến gặp ông và hỏi, “Sao bệ hạ phiền muộn đến nỗi không ăn? ”
\v 6 Ông trả lời bà, “Ta đã nói với Na-bốt người Giê-rê-ên rằng, Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, ta sẽ trả tiền, hoặc nếu ngươi muốn thì ta sẽ cho ngươi một vườn nho khác. Sau đó ông ấy trả lời ta, “Tôi sẽ không nhượng cho bệ hạ vườn nho của tôi. ’”
\v 7 Hoàng hậu Giê-sa-bên trả lời vua, “Chẳng phải bệ hạ vẫn đang cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên sao? Bệ hạ hãy ngồi dậy và ăn; bệ hạ hãy vui lên. Thiếp sẽ giành cho bệ hạ vườn nho của Na-bốt người Giê-rê-ên.”
\s5
\v 8 Vậy Giê-sa-bên nhân danh A-háp viết thư, lấy ấn của ông đóng dấu, rồi gửi cho các trưởng lão và những người giàu có cùng tham dự cuộc họp với ông, họ là những người sống gần Na-bốt.
\v 9 Bà viết trong thư rằng, “Hãy rao một cuộc kiêng ăn và đặt Na-bốt ngồi trước mặt dân.
\v 10 Cũng hãy đặt hai tên bất lương cùng ngồi với hắn và để chúng làm chứng dối về hắn, rằng, Ngươi đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua. ’” Sau đó hãy dẫn hắn ra ngoài và ném đá đến chết.
\s5
\v 11 Vậy những người trong thành của ông, các trưởng lão và người giàu có sống cùng thành, làm theo lời mô tả của Giê-sa-bên theo thư mà bà gửi cho họ.
\v 12 Họ rao một cuộc kiêng ăn và đặt Na-bốt ngồi trước mặt dân chúng.
\v 13 Hai tên bất lương đến ngồi trước mặt Na-bốt; chúng làm chứng nghịch lại Na-bốt trước mặt dân sự, rằng, “Na-bốt đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua. ” Sau đó chúng đem ông ra ngoài thành và ném đá cho đến chết.
\v 14 Các trưởng lão báo với Giê-sa-bên rằng, “Na-bốt đã bị ném đá chết.”
\s5
\v 15 Khi Giê-sa-bên hay tin Na-bốt đã bị ném đá và đã chết, bà nói với A-háp, “Bệ hạ hãy đến lấy vườn nho của Na-bốt người Giê-rê-ên mà ông ấy đã không chịu nhận tiền để nhượng lại cho bệ hạ, vì Na-bốt đã chết rồi, hắn không còn sống nữa. ”
\v 16 Khi A-háp nghe rằng Na-bốt đã chết, ông đứng dậy đi xuống vườn nho của Na-bốt người Giê-rê-ên và chiếm nó.
\s5
\v 17 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li người Ti-sê-be rằng,
\v 18 “Hãy đến gặp A-háp, vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Hắn đang ở trong vườn nho của Na-bốt, là nơi mà hắn đã chiếm đoạt.
\s5
\v 19 Ngươi phải nói cùng hắn và nói rằng Đức Giê-hô-va có phán, Ngươi đã giết người và chiếm đoạt ư? Và ngươi hãy nói với hắn rằng Đức Giê-hô-va phán, Nơi nào chó liếm huyết Na-bốt, thì chó cũng sẽ liếm huyết của ngươi. ’”
\v 20 A-háp nói với Ê-li, “Hỡi kẻ thù kia, ngươi đã bắt quả tang ta chăng? ” Ê-li trả lời, “Tôi đã bắt quả tang bệ hạ, vì bệ hạ đã bán mình để làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va phán với bệ hạ như vầy: Kìa, Ta sẽ giáng họa trên ngươi và hoàn toàn tiêu diệt ngươi cũng như giết mọi người nam của ngươi bất luận là nô lệ hay người tự chủ ở Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Ta sẽ khiến gia đình ngươi giống như gia đình của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, và như gia đình của Ba-a-sa con trai A-hi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va cũng phán về Giê-sa-bên rằng, Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên bên vách thành Giê-rê-ên.
\v 24 Ai thuộc về nhà A-háp nếu chết trong thành chó sẽ ăn thịt người đó. Và ai chết ngoài đồng chim trời sẽ ăn thịt người đó.”
\s5
\v 25 Không ai như A-háp, là người đã tự bán mình đặng làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng mà Giê-sa-bên, hoàng hậu của ông, xúi giục phạm tội.
\v 26 A-háp cũng làm những việc gớm ghiếc cho các thần mà ông theo, như những việc dân Am-môn làm, là dân mà Đức Giê-hô-va đã diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 27 Khi A-háp nghe những lời ấy, ông xé quần áo mình và mặc vải gai trên người rồi kiêng ăn, nằm trong vải gia và rất buồn rầu.
\v 28 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li người Ti-sê-be,
\v 29 “Ngươi có thấy A-háp hạ mình trước mặt Ta không? Vì người đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng trai họa khi người còn sống; trong thời con trai của người, Ta sẽ giáng tai họa trên gia đình của hắn.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Giữa A-ram và Y-sơ-ra-ên không có chiến tranh trong suốt ba năm.
\v 2 Sau đó, vào năm thứ ba, Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa đi xuống gặp vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 3 Bấy giờ, vua Y-sơ-ra-ên đã nói với các tôi tớ ông, “Các ngươi có biết rằng Ra-mốt Ghi-lê-át thuộc về chúng ta không, nhưng chúng ta chẳng làm gì để lấy nó lại từ tay của vua A-ram? ”
\v 4 Ông nói với Giê-hô-sa-phát, “Vua sẽ cùng tôi đi đánh Ra-mốt Ghi-lê-át chứ? ” Giê-hô-sa-phát trả lời vua Y-sơ-ra-ên, “Tôi cũng như vua, dân của tôi cũng như dân của vua, ngựa của tôi cũng như ngựa của vua.”
\s5
\v 5 Giê-hô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên, “Vua hãy tìm chỉ thị từ lời của Đức Giê-hô-va, vì đó là việc vua phải làm trước nhất. ”
\v 6 Vậy vua Y-sơ-ra-ên triệu tập các tiên tri, được bốn trăm người, và bảo họ, “Ta nên đi đánh Ra-mốt Ghi-lê-át, hay ta không nên đi? ” Họ trả lời, “Bệ hạ hãy đánh, vì Chúa sẽ phó nó vào tay bệ hạ.”
\s5
\v 7 Nhưng Giê-hô-sa-phát hỏi, “Không còn một tiên tri nào khác của Đức Giê-hô-va để chúng ta cầu vấn sao? ”
\v 8 Vua Y-sơ-ra-ên trả lời Giê-hô-sa-phát, “Vẫn còn một người nữa mà chúng ta có thể cầu vấn Đức Giê-hô-va, đó là Mi-chê con trai Im-la, nhưng tôi ghét ông ấy vì ông ấy không nói tiên tri lành về tôi, chỉ nói về những điều khó khăn thôi. ” Nhưng Giê-hô-sa-phát nói, “Xin vua chớ nói vậy. ”
\v 9 Vua Y-sơ-ra-ên gọi một viên chức rồi ra lệnh, “Hãy đưa Mi-chê, con trai Im-la đến đây ngay.”
\s5
\v 10 Bấy giờ, A-háp vua Y-sơ-ra-ên và Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa đang ngồi trên ngai, cả hai mặc vương bào, tại cửa thành Sa-ma-ri, và tất cả các tiên tri đang nói tiên tri trước mặt họ.
\v 11 Sê-đê-kia con trai Kê-na-na làm cho mình những chiếc sừng bằng sắt và nói, “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Với những sừng này, ngươi sẽ húc dân A-ram cho đến khi chúng bị diệt hết. ’”
\v 12 Và tất cả các tiên tri đều nói tiên tri y như nhau rằng, “Hãy đánh Ra-mốt Ghi-lê-át và chiến thắng, vì Đức Giê-hô-va đã phó nó vào tay bệ hạ.”
\s5
\v 13 Sứ giả đã đi gọi Mi-chê nói với ông rằng, “Kìa, các tiên tri đều đồng nói những lời lành cho vua. Xin ông hãy nói những lời lành như họ. ”
\v 14 Mi-chê đáp, “Bởi Giê-hô-va là Đấng sống, tôi sẽ nói lại lời Đức Giê-hô-va phán với tôi. ”
\v 15 Khi ông đến gặp vua, vua hỏi, “Mi-chê, chúng ta nên hay không nên đánh Ra-mốt Ghi-lê-át? ” Mi-chê trả lời, “Bệ hạ hãy đánh và chiến thắng. Đức Giê-hô-va sẽ phó nó vào tay bệ hạ.”
\s5
\v 16 Vua nói với ông, “Đã bao nhiêu lần ta bảo ngươi phải thề là sẽ chẳng nói điều gì khác ngoại trừ nhân danh Đức Giê-hô-va nói sự thật? ”
\v 17 Mi-chê nói, “Tôi thấy Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên núi, như chiên không có người chăn, và Đức Giê-hô-va phán, Dân này không có người chăn. Ai nấy hãy trở về nhà mình bình an. ’”
\s5
\v 18 Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giê-hô-sa-phát, “Chẳng phải tôi đã nói với vua là ông ấy sẽ không nói tiên tri lành về tôi, chỉ nói về tai họa thôi sao? ”
\v 19 Mi-chê nói, “Vậy bệ hạ hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Tôi thấy Đức Giê-hô-va đang ngồi trên ngôi, và hết thảy cơ binh trên trời đang đứng bên phải và bên trái Ngài.
\v 20 Đức Giê-hô-va phán, Ai sẽ dụ A-háp, để hắn đi lên và ngã xuống tại Ra-mốt Ghi-lê-át? Người thì nói thế này, người thì nói thế kia.
\s5
\v 21 Khi đó, một thần tiến đến đứng trước mặt Đức Giê-hô-va, và nói, Tôi sẽ dụ hắn. Đức Giê-hô-va hỏi thần ấy, Bằng cách nào?
\v 22 Thần trả lời, Tôi sẽ đi ra và đặt một thần dối trá vào miệng tất cả các tiên tri của hắn. Đức Giê-hô-va đáp, Ngươi sẽ dụ hắn và sẽ dụ được. Hãy đi và làm y như vậy.
\v 23 Vậy bây giờ, Đức Giê-hô-va đã đặt một thần dối trá vào miệng tất cả các tiên tri của bệ hạ, và Đức Giê-hô-va đã ra lệnh giáng họa trên bệ hạ.”
\s5
\v 24 Sê-đê-kia con trai Kê-na-na đến vả má Mi-chê và hỏi, “Thần của Đức Giê-hô-va lìa khỏi tôi theo ngã nào mà đến phán với ông vậy? ”
\v 25 Mi-chê đáp, “Kìa, ông sẽ biết điều đó vào ngày ông chạy trốn trong phòng kín.”
\s5
\v 26 Vua Y-sơ-ra-ên bảo các tôi tớ, “Hãy bắt Mi-chê và dẫn hắn đến A-môn, thống đốc thành phố, và Giô-ách con trai ta.
\v 27 Hãy nói với ông ấy rằng, Vua có phán, Hãy bỏ tù người này và chỉ cho hắn ăn một ít bánh và uống một ít nước thôi, cho đến khi ta trở về an toàn. ’”
\v 28 Mi-chê nói, “Nếu bệ hạ an toàn trở về, thì Đức Giê-hô-va đã không phán qua tôi. ” Ông nói thêm, “Hỡi toàn dân, hãy nghe điều này.”
\s5
\v 29 Vậy A-háp vua Y-sơ-ra-ên và Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa đi lên Ra-mốt Ghi-lê-át.
\v 30 Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát, “Tôi sẽ cải trang và ra trận, nhưng vua cứ mặc vương bào của vua. ” Vậy vua Y-sơ-ra-ên cải trang và ra trận.
\s5
\v 31 Bấy giờ vua A-ram ra lệnh ba mươi hai sĩ quan chỉ huy đội xe chiến mã rằng, “Đừng đánh mấy tên lính không quan trọng hoặc quan trọng. Nhưng chỉ đánh vua Y-sơ-ra-ên thôi. ”
\v 32 Khi các sĩ quan chỉ huy xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ nói, “Chắc chắn đó là vua Y-sơ-ra-ên. ” Họ quay lại và đánh Giê-hô-sa-phát, nhưng ông la lên.
\v 33 Khi các quan chỉ huy xe chiến mã thấy đó không phải là vua Y-sơ-ra-ên, họ thôi không đuổi theo ông.
\s5
\v 34 Nhưng một người kia tình cờ giương cung và bắn trúng giữa khớp áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên. Vua A-háp nói với người lái xe chiến mã của ông, “Hãy quay lại và đem ta ra khỏi chiến trận, vì ta bị thương trầm trọng rồi.”
\s5
\v 35 Hôm đó chiến trận trở nên dữ dội hơn, và vua được đỡ để đứng trên xe chiến mã đối đầu quân A-ram. Ông chết vào buổi chiều. Huyết chảy từ vết thương ướt cả sàn xe chiến mã.
\v 36 Vào lúc hoàng hôn, người ta rao trong quân đội rằng, “Ai nấy hãy trở về thành của mình, ai nấy hãy trở về khu vực của mình!”
\s5
\v 37 Vậy Vua A-háp chết và được đem đến Sa-ma-ri, người ta chôn ông tại Sa-ma-ri.
\v 38 Họ rửa xe chiến mã ở ao Sa-ma-ri, và chó liếm huyết của ông (đây là nơi mà các điếm đĩ tắm), như lời Đức Giê-hô-va đã rao.
\s5
\v 39 Về những việc khác của A-háp, những gì ông làm, cung điện ngà mà ông xây, và tất cả thành phố mà ông xây dựng, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 40 Vậy A-háp an giấc cùng tổ phụ mình, và A-ha-xia lên kế vị.
\s5
\v 41 Khi đó Giê-hô-sa-phát con trai A-sa bắt đầu cai trị Giu-đa vào năm thứ tư trong đời A-háp vua Y-sơ-ra-ên.
\v 42 Giê-hô-sa-phát lên cai trị khi ông ba mươi lăm tuổi, và ông cai trị tại Giê-ru-sa-lem được hai mươi lăm năm. Mẹ ông tên là A-xu-ba, con gái của Sin-hi.
\s5
\v 43 Ông đi theo đường lối của A-sa, phụ vương ông; ông không từ bỏ những đường lối đó; ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. Tuy nhiên, các điện thờ thì vẫn không bị cất bỏ. Dân sự vẫn dâng tế lễ và dâng hương tại các điện thờ.
\v 44 Giê-hô-sa-phát giao hảo thuận hòa với vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 45 Về những việc khác của Giê-hô-sa-phát, sức mạnh của ông, cách ông đánh trận, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 46 Ông loại trừ khỏi xứ những đĩ nam cúng tế còn sót lại trong thời của A-sa, phụ vương ông.
\v 47 Ở Ê-đôm không có vua, nhưng có một quan nhiếp chính cai trị.
\s5
\v 48 Giê-hô-sa-phát đóng các tàu biển; họ phải đến Ô-phia để lấy vàng, nhưng họ không đi vì tàu bị đắm ở Ê-xi-ôn Ghê-be.
\v 49 Sau đó A-ha-xia con trai A-háp nói với Giê-hô-sa-phát, “Hãy để các tôi tớ của tôi ra khơi cùng các tôi tớ của vua. ” Nhưng Giê-hô-sa-phát không cho phép.
\v 50 Giê-hô-sa-phát an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn với họ trong thành Đa-vít, tổ phụ của ông; Giê-hô-ram con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 51 A-ha-xia con trai A-háp bắt đầu cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri vào năm thứ mười bảy đời Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, và ông cai trị Y-sơ-ra-ên trong hai năm.
\v 52 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và bước theo con đường của phụ vương và mẫu hậu ông, và theo con đường của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là con đường mà ông đã xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\v 53 Ông phục vụ Ba-anh và thờ phượng nó, như vậy ông chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như phụ vương ông đã làm.

1394
12-2KI.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1394 @@
\id 2KI
\ide UTF-8
\h 2 CÁC VUA
\toc1 2 CÁC VUA
\toc2 2 CÁC VUA
\toc3 2ki
\mt 2 CÁC VUA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Dân Mô-áp nổi loạn chống dân Y-sơ-ra-ên sau khi A-háp băng hà.
\v 2 Khi ấy, A-ha-xi-a té xuống qua lan can trong phòng cao ở Sa-ma-ri và bị thương. Ông sai người gọi các sứ giả và bảo họ, “Hãy đi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn, đặng xem ta sẽ được lành thương tích không?.”
\s5
\v 3 Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng Ê-li người Ti-sê-be, “Hãy đi lên gặp các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và hỏi họ, Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn?
\v 4 Vậy Đức Giê-hô-va phán, “Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết. ” Vậy Ê-li ra đi.
\s5
\v 5 Khi các sứ giả quay về gặp A-ha-xi-a, ông hỏi họ, “Sao các ngươi quay về? ”
\v 6 Họ thưa rằng, “Có một người đến gặp chúng tôi và bảo rằng, Hãy quay về cùng vua đã sai các ông đi và tâu rằng, “Đức Giê-hô-va có phán: Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn? Vậy ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết.
\s5
\v 7 A-ha-xi-a hỏi các sứ giả, “Người mà đã đến gặp các ngươi và nói những lời này là ai? ”
\v 8 Họ trả lời, “Người đó mặc áo lông và đeo một dây thắt lưng bằng da. ” Vua nói, “Đó là Ê-li người Ti-sê-be.”
\s5
\v 9 Sau đó vua sai một sĩ quan đi cùng năm mươi lính đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan lên gặp Ê-li khi ông đang ngồi trên đỉnh đồi và nói rằng, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo, Hãy đi xuống. ’”
\v 10 Ê-li trả lời viên sĩ quan, “Nếu tôi là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt ông và năm mươi người kia. ” Lửa từ trời liền giáng xuống và thiêu đốt viên sĩ quan cùng năm mươi lính.
\s5
\v 11 Vua A-xa-hi-a lại sai một viên sĩ quan khác đi cùng năm mươi lính đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan cũng bảo Ê-li, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo, Hãy đi xuống. ’”
\v 12 Ê-li trả lời viên sĩ quan, “Nếu tôi là người của Đức Chúa Trời, nguyện lửa lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt ông và năm mươi người kia. ” Lửa từ trời lại giáng xuống và thiêu đốt ông cùng năm mươi lính.
\s5
\v 13 Tuy nhiên vua lại sai một nhóm thứ ba gồm năm mươi lính đến gặp tiên tri. Viên sĩ quan đi lên, sấp mình quỳ trước mặt Ê-li, và van nài rằng, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, tôi cầu xin ông hãy xem mạng sống của tôi và năm mươi tôi tớ của ông là quý báu trước mặt ông.
\v 14 Quả thực lửa từ trời đã giáng xuống và thiêu đốt hai viên sĩ quan trước với người của họ, nhưng bây giờ xin ông hãy xem mạng sống của tôi quý báu trước mặt ông.”
\s5
\v 15 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói với Ê-li, “Hãy đi xuống với người ấy, đừng sợ. ” Vậy Ê-li đứng dậy và đi xuống núi cùng ông ấy đến gặp vua.
\v 16 Ê-li nói với A-ha-xi-a, “Này là lời Đức Giê-hô-va phán, Ngươi đã sai sứ giả đi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn. Phải chăng vì trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời đến nỗi ngươi cầu vấn Ba-anh Xê-búp, thần của Éc-rôn? Vậy ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm; trái lại, ngươi chắc chắn sẽ chết. ’”
\s5
\v 17 Vậy Vua A-ha-xi-a băng hà như lời Đức Giê-hô-va đã phán qua Ê-li. Giô-ram lên kế vị vào năm thứ hai đời Giê-hô-ram, con Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa, vì A-ha-xi-a không có con trai.
\v 18 Về những việc khác của A-ha-xi-a, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\s5
\c 2
\p
\v 1 Xảy ra khi Đức Giê-hô-va sắp cất Ê-li lên trời bằng một cơn gió lốc, Ê-li và Ê-li-sê rời khỏi Ghinh-ganh.
\v 2 Ê-li bảo Ê-li-sê, “Con hãy ở lại đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Bê-tên. ” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy. ” Vậy họ đi xuống Bê-tên.
\s5
\v 3 Các môn đồ của những tiên tri tại Bê-tên đến gặp Ê-li-sê và hỏi, “Anh có biết là hôm nay Đức Giê-hô-va sẽ cất thầy của anh đi không? ” Ê-li-sê trả lời, “Vâng, tôi biết, nhưng đừng nói nữa. ”
\v 4 Ê-li bảo, “Ê-li-sê, con hãy chờ ở đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Giê-ri-cô. ” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy. ” Vậy họ đi đến Giê-ri-cô.
\s5
\v 5 Các môn đồ của những tiên tri ở Giê-ri-cô đến gặp Ê-li-sê và hỏi, “Anh có biết là hôm nay Đức Giê-hô-va sẽ cất thầy anh đi không? ” Ê-li-sê trả lời, “Vâng, tôi biết, nhưng đừng nói nữa. ”
\v 6 Ê-li bảo, “Ê-li-sê, con hãy chờ ở đây, vì Đức Giê-hô-va đã sai ta đến Giô-đanh. ” Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống và thầy còn đang sống, con sẽ không rời khỏi thầy. ” Vậy cả hai người cùng đi tiếp.
\s5
\v 7 Sau đó, năm mươi người trong số các tiên tri đứng đối diện từ đàng xa, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Giô-đanh.
\v 8 Ê-li lấy chiếc áo choàng, cuộn lại, rồi đập xuống nước. Nước rẽ thành hai bên để cả hai người đi trên đất khô.
\s5
\v 9 Khi họ đã băng qua sông, Ê-li nói với Ê-li-sê, “Con muốn ta làm gì cho con trước khi ta được cất lên trời? ” Ê-li-sê trả lời, “Xin cho được gấp đôi thần của thầy ngự trên thầy. ”
\v 10 Ê-li trả lời, “Con vừa cầu xin một việc khó. Tuy nhiên, nếu con thấy ta khi ta được cất lên, thì điều đó sẽ xảy đến với con, nhưng nếu không thì chẳng có gì cả.
\s5
\v 11 Khi họ còn đang đi đường và nói chuyện, kìa, một xe chiến mã kéo bằng ngựa lửa xuất hiện tách hai người ra, và Ê-li được cất lên trời bằng một cơn gió lốc.
\v 12 Ê-li-sê thấy vậy và la lên, “Cha tôi ơi, cha tôi ơi, xe chiến mã của Y-sơ-ra-ên và kỵ binh! ” Ông không còn thấy Ê-li nữa, ông nắm quần áo của ông và xé làm hai.
\s5
\v 13 Ông nhặt chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại và quay về đứng bên bờ sông Giô-đanh.
\v 14 Ông lấy áo choàng của Ê-li rơi lại và đập xuống nước rồi nói, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu? ” Khi ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên và Ê-li-sê băng qua sông.
\s5
\v 15 Khi các môn đồ của các tiên tri từ Giê-ri-cô nhìn thấy ông, họ nói, “Thần của Ê-li ngự trên Ê-li-sê! ” Vậy họ đến gặp ông và sấp mình xuống đất trước mặt ông.
\v 16 Họ nói với ông, “Này, trong số các tôi tớ của ông có năm mươi người cường tráng. Xin ông hãy để họ đi tìm thầy của ông, có lẽ Thần của Đức Giê-hô-va cất ông ấy lên và quăng xuống ngọn núi hay thung lũng nào đó. ” Ê-li-sê trả lời, “Không, chớ sai họ đi.”
\s5
\v 17 Nhưng khi họ thúc giục Ê-li-sê cho đến khi ông thấy xấu hổ, ông nói “Hãy sai họ đi. ” Vậy họ sai năm mươi người đi ra tìm Ê-li trong ba ngày nhưng không tìm được.
\v 18 Họ quay về gặp Ê-li-sê, khi ông đang ở tại Giê-ri-cô và ông bảo họ, “Chẳng phải tôi đã nói các anh rằng Đừng nên đi? ’” chăng?”
\s5
\v 19 Những người trong thành nói với Ê-li-sê, “Kìa, chúng tôi xin ông, địa thế trong thành phố này thì đẹp rồi, cũng như chủ tôi có thể thấy, nhưng nước thì không tốt và xứ thì không sinh ra bông trái. ”
\v 20 Ê-li-sê trả lời, “Hãy đem đến cho ta một cái tô mới và bỏ muối vào, ” vậy họ đem đến cho ông.
\s5
\v 21 Ê-li-sê đi ra con suối và đổ muối xuống đó; rồi ông nói, “Đức Giê-hô-va phán như vầy, Ta đã chữa lành nguồn nước này. Kể từ đây, sẽ không còn xứ nào chết hoặc sanh bông trái không kết quả nữa. ’”
\v 22 Vậy nước hóa lành cho đến ngày nay, bởi lời của Ê-li-sê.
\s5
\v 23 Sau đó Ê-li-sê đi lên Bê-tên. Khi ông đang đi đường, một nhóm trẻ nam ra khỏi thành phố và nhạo báng ông, rằng, “Đi lên đi, lão hói! Đi lên đi, lão hói! ”
\v 24 Ê-li-sê quay lại nhìn thấy chúng; ông nhân danh Đức Giê-hô-va mà rủa sả chúng. Khi ấy, hai con gấu cái ra khỏi rừng và cắn xé bốn mươi hai đứa trẻ trai.
\v 25 Vậy Ê-li-sê đi đến Núi Cạt-mên, và từ đó ông trở về Sa-ma-ri.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Bấy giờ vào năm thứ mười tám trong đời Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, Giô-ram con trai A-háp lên làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông cai trị mười hai năm.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không như cha mẹ ông; vì ông đã loại bỏ trụ đá thờ thần Ba-anh mà cha ông đã dựng.
\v 3 Tuy nhiên, ông noi theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội; ông không từ bỏ những tội lỗi đó.
\s5
\v 4 Lúc ấy, Mê-sa vua Mô-áp nuôi chiên. Ông phải cống nộp cho vua Y-sơ-ra-ên 100. 000 chiên con và lông của 100. 000 chiên đực.
\v 5 Nhưng sau khi A-háp băng hà, vua Mô-áp nổi loạn chống vua Y-sơ-ra-ên.
\v 6 Khi đó, Vua Giô-ram rời Sa-ma-ri để tổng động viên toàn dân Y-sơ-ra-ên ra trận.
\s5
\v 7 Ông sai một sứ giả đến gặp vua Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, nói rằng, “Vua Mô-áp đã nổi loạn chống tôi. Vua sẽ cùng với tôi ra trận đánh Mô-áp chứ? ” Giê-hô-sa-phát trả lời, “Tôi sẽ đi. Tôi cũng như vua, dân của tôi cũng như dân của vua, ngựa của tôi cũng như ngựa của vua. ”
\v 8 Ông hỏi, “Chúng ta sẽ tấn công theo ngả nào? ” Giô-ram trả lời, “Theo ngả hoang mạc Ê-đôm.”
\s5
\v 9 Vậy các vua Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và Ê-đôm hành quân lòng vòng hết bảy ngày. Ở đó người ta không tìm thấy nước cho quân đội cũng như cho ngựa và các loài động vật khác.
\v 10 Vậy vua Y-sơ-ra-ên nói, “Chuyện gì vậy? Đức Giê-hô-va đã gọi cả ba vua ra đây để dân Mô-áp đánh bại chúng ta sao?”
\s5
\v 11 Nhưng Giê-hô-sa-phát nói, “Ở đây không có một tiên tri nào của Đức Giê-hô-va đặng chúng ta nhờ người mà cầu vấn Đức Giê-hô-va chăng? ” Một trong các tôi tớ của vua Y-sơ-ra-ên trả lời rằng, “Ê-li-sê con của Sa-phát đang ở đây, ông ấy là người đã xối nước lên tay Ê-li. ”
\v 12 Giê-hô-sa-phát nói, “Lời của Đức Giê-hô-va ở với người. ” Vậy vua Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-sa-phát, và vua Ê-đôm đi xuống gặp Ê-li-sê.
\s5
\v 13 Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên, “Tôi có liên quan gì đến vua? Hãy đến gặp các tiên tri của cha mẹ vua. ” Vua Y-sơ-ra-ên nói, “Không, vì Đức Giê-hô-va đã gọi cả ba vua chúng tôi để Mô-áp đánh bại chúng tôi. ”
\v 14 Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va vạn quân hằng sống, là Đấng mà tôi đang đứng trước mặt, chắc chắn nếu không bởi vì tôi kính trọng sự hiện diện của Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa, thì tôi sẽ không ngó ngàng gì đến vua, hay thậm chí nhìn vua.
\s5
\v 15 Nhưng bây giờ hãy dẫn đến cho tôi một nhạc sĩ. ” Khi người chơi đàn hạc khảy đàn, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên Ê-li-sê.
\v 16 Ông nói, “Đức Giê-hô-va có phán, Hãy đào nhiều hầm hố trong thung lũng khô cạn này.
\v 17 Vì Đức Giê-hô-va phán rằng, Các ngươi sẽ không thấy gió, cũng không thấy mưa, nhưng thung lũng này sẽ ngập nước, các ngươi, bầy gia súc và súc vật của các ngươi sẽ uống.
\s5
\v 18 Đây là một việc dễ dàng trước mặt Đức Giê-hô-va. Ngài cũng sẽ cho quý vị chiến thắng dân Mô-áp.
\v 19 Quý vị sẽ tấn công các thành kiên cố và thành trì vững chắc, đốn hạ cây cối, ngăn tất cả các con suối, và lấy đá làm cho tan hoang xứ này.”
\s5
\v 20 Sáng hôm sau, vào khoảng giờ dâng của tế lễ, nước từ phía Ê-đôm chảy ra; cả miền đều ngập nước.
\s5
\v 21 Bấy giờ, khi toàn dân Mô-áp hay tin rằng các vua đã đến đặng đánh họ, họ tập hợp lại, ai nấy đều mặc áo giáp và đóng ở biên giới.
\v 22 Sáng hôm sau, họ dậy sớm, ánh mặt trời phản chiếu trên mặt nước. Khi dân Mô-áp thấy có nước ở trước mặt, họ thấy nước đó đỏ như huyết.
\v 23 Họ kêu lên, “Đây là huyết! Các vua chắc hẳn đã tiêu diệt nhau, và họ đã giết nhau! Hỡi Mô-áp, chúng ta hãy cướp bóc chúng!”
\s5
\v 24 Khi dân Mô-áp đến trại của Y-sơ-ra-ên, dân Y-sơ-ra-ên đột kích và tấn công những ai chạy trốn. Quân Y-sơ-ra-ên đuổi dân Mô-áp vào xứ, giết chết họ.
\v 25 Y-sơ-ra-ên phá hủy các thành phố, mỗi người ném một cục đá vào những mảnh đất tốt và đá lấp đầy các cánh đồng màu mỡ. Họ ngăn các con suối và chặt mọi cây gỗ tốt, ngoại trừ ở Ki-rơ Ha-rê-sết, là nơi họ chừa lại đá. Nhưng lính dùng máy bắn đá tấn công nơi đó.
\s5
\v 26 Khi Vua Mê-sa của Mô-áp thấy rằng họ đã bại trận, ông dẫn theo bảy trăm lính cầm gươm chọc thủng phòng tuyến của vua Ê-đôm, nhưng lại bại trận.
\v 27 Sau đó, ông bắt đứa con trai cả, là người lẽ ra sẽ kế vị ông, rồi thiêu nó làm vật tế thần trên tường thành. Vậy có một sự giận dữ lớn trên dân Y-sơ-ra-ên, và quân Y-sơ-ra-ên rời rút lui khỏi Vua Mê-sa và trở về xứ của họ.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ, vợ của một trong các môn đồ của các tiên tri đến khóc với Ê-li-sê rằng, “Tôi tớ của thầy là chồng của con đã chết, thầy biết rằng tôi tớ của thầy kính sợ Đức Giê-hô-va. Bây giờ chủ nợ đã đến bắt hai đứa con trai của con đặng làm nô lệ. ”
\v 2 Ê-li-sê nói với bà, “Tôi có thể làm gì cho bà? Hãy cho tôi biết trong nhà bà đang có gì? ” Bà trả lời, “Tôi tớ của thầy chẳng có thứ gì trong nhà này, ngoài cái bình dầu.”
\s5
\v 3 Ê-li-sê bảo, “Hãy đi mượn thêm bình của hàng xóm, hãy mượn bình rỗng. Mượn càng nhiều càng tốt.
\v 4 Sau đó, hãy vào trong nhà, đóng cửa, rồi bà và các con trai bà hãy đổ dầu vào tất cả các bình đó; bình nào đầy thì để riêng ra.”
\s5
\v 5 Vậy bà rời khỏi Ê-li-sê rồi cùng các con trai bà đóng cửa lại. Họ đem bình đến cho bà, bà đổ dầu vào đó.
\v 6 Khi các bình đầy, bà bảo các con bà, “Đem cho mẹ thêm một bình nữa. ” Nhưng đứa con đáp, “Không còn bình nào nữa. ” Dầu ngưng chảy.
\s5
\v 7 Bà đến kể cho người của Đức Chúa Trời nghe. Ông nói, “Hãy bán dầu đó để trả nợ rồi mẹ con bà hãy dùng số dầu còn lại.”
\s5
\v 8 Một ngày kia, Ê-li-sê đi ngang qua Su-nem, tại đó có một người phụ nữ giàu có sinh sống; bà thuyết phục ông ở lại dùng bữa. Vậy thường mỗi khi Ê-li-sê đi ngang qua, ông đều ghé vào nhà đó để dùng bữa.
\v 9 Người nữ nói với chồng bà, “Kìa, bây giờ em biết rằng người mà hay đi ngang qua đây là người thánh của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 10 Chúng ta hãy xây một phòng nhỏ trên mái cho Ê-li-sê, đặt trong đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn. Khi nào người ghé nhà chúng ta, thì người sẽ ở trên đó. ”
\v 11 Vậy một ngày kia Ê-li-sê đi ngang qua đó, ông ở lại và nghỉ ngơi trên phòng.
\s5
\v 12 Ê-li-sê bảo Ghê-ha-xi, tôi tớ ông, “Hãy gọi người Su-nem đó. ” Khi ông đã gọi bà, bà đến đứng trước mặt ông.
\v 13 Ê-li-sê bảo tôi tớ, “Hãy nói với bà ấy, Bà đã nhọc công chăm lo cho chúng tôi. Chúng tôi có thể làm gì cho bà? Chúng tôi có thể thay mặt bà tâu với vua hoặc sĩ quan quân đội? ’” Bà trả lời, “Tôi vẫn sống giữa dân tôi.”
\s5
\v 14 Ê-li-sê hỏi, “Vậy chúng ta có thể làm gì cho bà ấy? ” Ghê-ha-xi trả lời, “Thật ra, bà ấy không có con trai, chồng bà lớn tuổi rồi. ”
\v 15 Ê-li-sê trả lời, “Hãy gọi bà ấy. ” Khi ông đã gọi bà, bà đứng trước cửa.
\v 16 Ê-li-sê nói, “Năm sau, cũng vào ngày này, bà sẽ ẵm một đứa con trai. ” Bà nói, “Không, thưa thầy, là người của Đức Chúa Trời, xin chớ nói dối tôi tớ của ông.”
\s5
\v 17 Nhưng năm sau, người nữ ấy thụ thai và sinh một con trai vào đúng lúc như Ê-li-sê đã bảo bà.
\v 18 Khi đứa trẻ đã lớn, một ngày kia nó đi cùng cha nó ra ngoài cùng với những người gặt lúa.
\v 19 Nó nói với cha nó, “Đầu của con, đầu của con. ” Cha đứa bé bảo tôi tớ, “Hãy đem nó về cho mẹ nó. ”
\v 20 Khi tôi tớ ẵm đứa bé về đem đến cho người mẹ, nó ngồi trên đùi bà cho đến trưa thì chết.
\s5
\v 21 Bà đứng dậy và đặt đứa bé nằm trên giường của người của Đức Chúa Trời, đóng cửa lại, rồi ra ngoài.
\v 22 Bà gọi chồng bà và nói, “Xin anh gọi cho em một trong các tôi tớ và chuẩn bị một con lừa để em mau chóng đến gặp người của Đức Chúa Trời rồi trở về.”
\s5
\v 23 Người chồng hỏi, “Sao hôm nay em muốn đến gặp ông ấy? Hôm nay chẳng phải là ngày trăng mới hoặc Sa-bát. ” Bà trả lời, “Sẽ ổn thôi. ”
\v 24 Vậy bà thắng yên lừa và bảo tôi tớ, “Hãy thúc lừa đi nhanh lên; khi nào tôi bảo thì hãy dừng.”
\s5
\v 25 Vậy bà đi và đến gặp người của Đức Chúa Trời trên Núi Cạt-mên. Khi người của Đức Chúa Trời thấy bà từ đàng xa, ông bảo với Ghê-ha-xi tôi tớ ông, Kìa, người nữ Su-nem ấy đang đến.
\v 26 Hãy đến gặp bà ấy và hỏi rằng, Bà và chồng con bà đều ổn chứ? ’” Bà trả lời, “Ổn cả.”
\s5
\v 27 Khi bà dến gặp người của Đức Chúa Trời trên núi, bà ôm chân ông. Ghê-ha-xi đến gần đặng xô bà ra nhưng người của Đức Chúa Trời bảo, “Hãy để bà ấy yên, vì bà đang rất buồn, Đức Giê-hô-va đã giấu ta điều gì đó và chẳng tỏ cho ta biết.”
\s5
\v 28 Bà nói, “Thưa thầy, có phải là tôi đã xin thầy cho tôi có một đứa con trai sao? Chẳng phải tôi đã nói rằng, Xin đừng gạt tôi? ”
\v 29 Ê-li-sê bảo Ghê-ha-xi, “Hãy mặc đồ lên đường và cầm theo cây gậy của ta. Hãy cùng bà ấy về nhà. Nếu ngươi gặp bất cứ ai, đừng chào hỏi; và nếu có ai chào hỏi ngươi, thì cũng chớ trả lời người đó. Hãy đặt cây gậy của ta trên mặt đứa bé.”
\s5
\v 30 Nhưng người mẹ đứa bé nói, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống, và thầy còn đang sống, tôi sẽ không rời khỏi thầy. ” Vậy Ê-li-sê đứng lên và đi theo bà.
\v 31 Ghê-ha-xi nhanh chóng đi trước họ và đặt cây gậy lên mặt đứa bé, nhưng nó không nói cũng không nghe. Ghê-ha-xi trở về gặp Ê-li-sê và bảo ông ấy rằng, “Đứa bé không tỉnh lại.”
\s5
\v 32 Khi Ê-li-sê đến nhà, đứa bé đã chết và nằm yên trên giường.
\v 33 Ê-li-sê vào trong phòng và đóng cửa lại, chỉ có ông và đứa bé, ông cầu nguyện với Đức Giê-hô-va.
\v 34 Ông lên giường nằm sấp lên đứa bé; đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, tay ông trên tay nó. Ông nằm duối ra trên đứa bé, và cơ thể đứa bé bắt đầu ấm.
\s5
\v 35 Ê-li-sê đứng dậy đi quanh phòng rồi lại lên giường nằm duỗi ra trên người đứa bé. Đứa bé hắt hơi bảy lần và mở mắt ra!
\v 36 Ê-li-sê gọi Ghê-ha-xi và nói: “Hãy gọi người Su-nem! ” Vậy ông gọi bà và bà đến trong phòng, Ê-li-sê bảo, “Hãy ẵm đứa bé. ”
\v 37 Bà sấp mặt xuống đất và ôm chân ông, sau đó bà ẵm đứa bé và đi ra ngoài.
\s5
\v 38 Khi đó, Ê-li-sê trở lại Ghinh-ganh. Trong xứ có nạn đói kém, và các môn đồ của các tiên tri đang ngồi trước mặt ông. Ông bảo tôi tớ của ông, “Hãy bắt một cái nồi lớn trên lửa rồi nấu đậu cho các môn đồ của các tiên tri. ”
\v 39 Một người trong số đó ra đồng hái rau. Ông tìm thấy một cây leo hoang rồi hái trái bỏ đầy vạt áo. Họ cắt ra, bỏ vào nồi, nhưng không biết đó là gì.
\s5
\v 40 Họ múc canh cho mọi người ăn. Khi họ vừa ăn, họ la lên, “Hỡi người của Đức Chúa Trời, trong nồi này có chất độc! ” Và họ không thể ăn được nữa.
\v 41 Ê-li-sê nói, “Hãy đem đến một chút bột. ” Ông bỏ bột vào nồi và nói, “Hãy múc ra cho mọi người ăn. ” Cái nồi liền hết độc.
\s5
\v 42 Một người từ Ba-anh Sa-li-sát đến gặp người của Đức Chúa Trời và đem theo một cái bị đựng mười hai ổ bánh mì lúa mạch được làm từ mùa gặt mới và một bao cốm gạo. Ông nói, “Hãy phát cho mọi người cùng ăn.
\v 43 Tôi tớ ông nói, “Gì chứ, con nên phát món này cho một trăm người sao? ” Nhưng Ê-li-sê bảo, “Hãy phát cho họ, để họ ăn, vì Đức Giê-hô-va phán, Họ sẽ ăn và sẽ còn dư.
\v 44 Vậy tôi tớ của ông phát cho họ; họ ăn, và còn dư lại y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Bấy giờ Na-a-man, sĩ quan chỉ huy quân đội của Vua A-ram, là một người quyền thế và được quý trọng trước mặt chủ, vì Đức Giê-hô-va đã dùng ông đem lại chiến thắng cho A-ram. Ông là một người mạnh mẽ, dũng cảm, nhưng lại bị bệnh phung.
\v 2 Các toán quân A-ram đã đột kích và bắt một bé gái từ Y-sơ-ra-ên đem về hầu hạ vợ Na-a-man.
\s5
\v 3 Cô bé nói với bà chủ, “Ước gì ông chủ được gặp tiên tri ở Sa-ma-ri! Ông ấy sẽ chữa lành ông chủ khỏi bệnh phung. ”
\v 4 Vậy Na-a-man vào cung và thưa với vua về điều mà bé gái người Y-sơ-ra-ên đã nói.
\s5
\v 5 Vua A-ram nói, “Đi đi, ta sẽ gửi thư cho vua Y-sơ-ra-ên. ” Na-a-man lên đường và đem theo mười ta-lâng bạc, sáu ngàn đồng vàng, và mười bộ quần áo.
\v 6 Ông cũng đem theo thư gửi vua Y-sơ-ra-ên có nội dung rằng, “Bấy giờ, khi thư này được trao cho vua, vua sẽ thấy rằng tôi đã gửi tôi tớ của tôi là Na-a-man đến gặp vua, đặng vua chữa ông ấy khỏi bệnh phung.”
\s5
\v 7 Khi vua Y-sơ-ra-ên đọc thư, ông xé quần áo mình và nói rằng, “Bộ ta là Đức Chúa Trời có quyền giết và làm cho sống, mà người này muốn ta chữa hắn khỏi bệnh phung sao? Có vẻ hắn muốn gây sự với ta.”
\s5
\v 8 Khi Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, hay tin vua Y-sơ-ra-ên đã xé quần áo, ông sai người gửi lời đến vua rằng, “Sao bệ hạ xé quần áo mình? Hãy để ông ấy đến gặp tôi, rồi ông ấy sẽ biết rằng có một tiên tri ở Y-sơ-ra-ên. ”
\v 9 Vậy Na-a-man đi cùng với ngựa và xe chiến mã đến trước cửa nhà Ê-li-sê.
\v 10 Ê-li-sê sai một sứ giả ra bảo, “Hãy đi tắm dưới sông Giô-đanh bảy lần, rồi da thịt của ông sẽ được lành lặn; ông sẽ được sạch.”
\s5
\v 11 Nhưng Na-a-man tức giận bỏ đi và nói, “Kìa, ta đã nghĩ là chắc chắn ông ấy sẽ ra đón ta rồi đứng đó cầu khẩn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông ấy, giơ tay lên trời và chữa lành bệnh phung cho ta.
\v 12 Bộ A-ba-na và Bạt-ba, hai con sông ở Đa-mách, không tốt hơn nước ở Y-sơ-ra-ên sao? Ta không thể tắm ở trong các con sông đó đặng được sạch à? ” Vậy ông giận dữ ngoảnh mặt bỏ đi.
\s5
\v 13 Sau đó, các tôi tớ của Na-a-man đến gần và nói với ông, “Thưa cha, nếu tiên tri đã truyền cho cha phải làm việc gì khó lắm, thì cha sẽ không làm? Huống chi khi ông ấy chỉ bảo cha là, Hãy tắm thì ngươi sẽ được sạch? ’”
\v 14 Ông đi xuống tắm bảy lần dưới sông Giô-đanh, theo sự hướng dẫn của người Đức Chúa Trời. Da thịt ông lại được lành lặn như thịt của đứa trẻ, và ông được chữa lành.
\s5
\v 15 Na-a-man và đoàn của ông trở lại gặp người của Đức Chúa Trời, ông đứng trước mặt Ê-li-sê. Ông nói, “Kìa, bây giờ tôi biết rằng chẳng có Đức Chúa Trời nào khác trên đất này ngoại trừ Đức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên. Vậy, xin ông hãy nhận một món quà từ tôi tớ ông. ”
\v 16 Nhưng Ê-li-sê trả lời, “Có Đức Giê-hô-va hằng sống, là Đấng mà ta đang đứng trước mặt, ta sẽ không nhận thứ gì cả. ” Na-a-man nài nỉ Ê-li-sê nhận quà, tuy nhiên ông từ chối.
\s5
\v 17 Vậy Na-a-man nói, “Nếu không, xin cho tôi tớ ông đem về đất cỡ hai con la chở được, vì kể từ bây giờ, tôi tớ ông sẽ không dâng của lễ thiêu hay lễ vật gì cho bất cứ thần nào ngoại trừ Đức Giê-hô-va.
\v 18 Chỉ có một điều xin Đức Giê-hô-va tha thứ cho tôi tớ ông, ấy là, khi vua của tôi vào đền thờ thần Rim-môn đặng thờ lạy, ông ấy vịn tay tôi và tôi quỳ trong đền thờ Rim-môn, khi tôi quỳ trong đền thờ Rim-môn, nguyện Đức Giê-hô-va tha thứ cho tôi tớ ông về điều này. ”
\v 19 Ê-li-sê bảo ông, “Hãy đi bình an. ” Vậy Na-a-man rời đi.
\s5
\v 20 Khi ông vừa đi được một quãng ngắn, thì Ghê-ha-xi, tôi tớ của Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, tự nhủ, “Kìa, chủ ta không nhận lễ vật của Na-a-man, người A-ram đó. Có Đức Giê-hô-va hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận một chút lễ vật. ”
\v 21 Vậy Ghê-ha-xi chạy theo Na-a-man. Khi Na-a-man thấy có người đang chạy theo phía sau, ông nhảy xuống xe chiến mã đến gặp và hỏi, “Mọi việc ổn chứ? ”
\v 22 Ghê-ha-xi đáp, “Mọi việc đều ổn. Chủ của tôi đã sai tôi đi, nói rằng, Kìa, có hai thanh niên là môn đồ của các tiên tri từ vùng cao nguyên Ép-ra-im đến gặp ta. Xin hãy cho họ một ta-lâng bạc và hai bộ quần áo. ’”
\s5
\v 23 Na-a-man trả lời, “Ta rất vui mà cho ngươi hai ta-lâng. ” Na-a-man đề xuất với Ghê-ha-xi và cột hai ta-lâng bạc vào trong hai cái túi, cùng hai bộ quần áo, rồi giao hai đầy tớ khiêng đi trước mặt Ghê-ha-xi.
\v 24 Khi Ghê-ha-xi đi đến ngọn đồi, ông lấy các túi bạc rồi giấu trong nhà; sau đó ông cho họ ra về.
\v 25 Khi Ghê-ha-xi vào nhà và gặp chủ, Ê-li-sê hỏi, “Ghê-ha-xi, ngươi đã đi đâu vậy? ” Ông trả lời, “Tôi tớ ông chẳng đi đâu cả.”
\s5
\v 26 Ê-li-sê nói với Ghê-ha-xi, “Thần của ta không ở cùng ngươi khi người kia quay xe chiến mã lại gặp ngươi sao? Đây là lúc nhận tiền, quần áo, vườn ô-liu và vườn nho, chiên và bò đực, tôi trai tớ gái sao?
\v 27 Vậy bệnh phung của Na-a-man sẽ giáng trên ngươi và con cháu ngươi đời đời. ” Ghê-ha-xi rời đi, ông nổi phung trắng như tuyết.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Các môn đồ của các tiên tri nói với Ê-li-sê, “Chỗ mà chúng tôi ở với thầy thật quá chật hẹp.
\v 2 Chúng ta hãy đến sông Giô-đanh, mỗi người chặt một cây rồi xây một chỗ ở cho chúng ta. ” Ê-li-sê trả lời, “Hãy đi đi. ”
\v 3 Một người trong số họ nói, “Xin đi cùng tôi tớ của thầy. ” Ê-li-sê trả lời, “Ta sẽ đi.”
\s5
\v 4 Vậy ông đi cùng họ, và khi đến sông Giô-đanh, họ bắt đầu đốn cây.
\v 5 Nhưng có một người kia đang chặt cây, cái lưỡi rìu rớt xuống nước; ông la lên, “Ôi không, chủ tôi ơi, cái rìu con mượn người ta!”
\s5
\v 6 Người của Đức Chúa Trời hỏi, “Nó văng ở đâu? ” Người ấy chỉ vị trí cho Ê-li-sê. Ông chặt một khúc cây, quăng xuống nước, và cái rìu sắt nổi lên.
\v 7 Ê-li-sê bảo, “Hãy vớt nó lên. ” Vậy người ấy giơ tay ra lượm chiếc rìu.
\s5
\v 8 Bấy giờ vua A-ram đang giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Ông hội ý với các quần thần, “Trại của ta sẽ ở chỗ này và chỗ kia. ”
\v 9 Người của Đức Chúa Trời sai người đến gặp vua Y-sơ-ra-ên và nói, “Xin bệ hạ cẩn thận đừng băng qua chỗ đó, vì dân A-ram sẽ xuống đó.”
\s5
\v 10 Vậy vua Y-sơ-ra-ên sai người đi đến nơi mà người của Đức Chúa Trời đã cảnh báo. Lời cảnh báo ấy đã cứu ông một vài lần.
\v 11 Vua A-ram rất bối rối về lời cảnh báo này, ông gọi các quần thần và hỏi, “Các ngươi sẽ không cho ta biết ai trong số chúng ta là nội gián của vua Y-sơ-ra-ên sao?”
\s5
\v 12 Một trong số các quần thần của ông trả lời, “Không, thưa bệ hạ, chủ của tôi, bởi vì tiên tri Ê-li-sê ở Y-sơ-ra-ên nói cho vua Y-sơ-ra-ên biết những lời bệ hạ nói trong phòng ngủ của bệ hạ! ”
\v 13 Vua trả lời, “Hãy đi tìm Ê-li-sê để ta sai người đến bắt hắn. ” Người đó trả lời, “Kìa, hắn đang ở Đô-than.”
\s5
\v 14 Vậy vua đem ngựa, xe chiến mã, và một đội quân lớn đến Đô-than. Họ đến vào ban đêm và bao vây thành phố.
\v 15 Khi tôi tớ của người của Đức Chúa Trời dậy sớm và ra ngoài, kìa, một đội quân lớn gồm ngựa và xe chiến mã đã bao vây thành phố. Tôi tớ nói, “Ôi, chủ tôi ơi! Chúng ta sẽ làm gì? ”
\v 16 Ê-li-sê trả lời, “Chớ sợ hãi, vì người của chúng ta đông hơn người của chúng nó.”
\s5
\v 17 Ê-li-sê cầu nguyện và nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, con cầu xin Ngài mở mắt cho tôi tớ của con để người đó thấy. ” Vậy Đức Giê-hô-va mở mắt người tôi tớ, và ông thấy. Kìa, trên núi đầy ngựa lửa và xe chiến mã lửa xung quanh Ê-li-sê!
\v 18 Khi quân A-ram kéo xuống chỗ Ê-li-sê, ông cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng, “Xin Chúa khiến chúng bị mù. ” Vậy Đức Giê-hô-va khiến chúng bị mù, y theo lời cầu xin của Ê-li-sê.
\v 19 Sau đó, Ê-li-sê bảo quân A-ram, “Các ngươi đi sai đường rồi, đây không phải là thành phố. Hãy theo ta, ta sẽ dẫn các ngươi đến gặp người mà các ngươi đang tìm. ” Và ông dẫn họ đến Sa-ma-ri.
\s5
\v 20 Xảy ra khi họ đã vào thành Sa-ma-ri, Ê-li-sê nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, xin Chúa mở mắt những người này để họ nhìn thấy. ” Đức Giê-hô-va mở mắt họ và họ thấy, kìa, họ đang ở giữa thành Sa-ma-ri.
\v 21 Vua Y-sơ-ra-ên khi thấy họ bèn hỏi Ê-li-sê, “Cha tôi ơi, tôi nên giết chúng không? Tôi có nên giết chúng chứ?”
\s5
\v 22 Ê-li-sê trả lời, “Bệ hạ không được giết chúng. Bệ hạ sẽ giết tù binh bằng gươm và cung sao? Hãy để bánh và nước trước mặt chúng, cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về nơi chủ của chúng. ”
\v 23 Vậy vua dọn nhiều thức ăn cho họ, khi họ đã ăn uống rồi, ông cho họ trở về nơi chủ của họ. Những toán lính A-ram đó không trở lại xứ Y-sơ-ra-ên trong suốt một thời gian dài.
\s5
\v 24 Sau việc này, Bên Ha-đát, vua A-ram, triệu tập toàn quân đội rồi tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành.
\v 25 Do đó, có một nạn đói lớn ở Sa-ma-ri. Kìa, họ bao vây thành cho đến khi một cái đầu lừa được bán với giá tám mươi siếc-lơ bạc, và một phần tư lít phân bồ câu có giá bằng năm siếc-lơ bạc.
\v 26 Khi vua Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên tường thành, một người phụ nữ đến khóc với ông và nói rằng, “Xin bệ hạ, chủ của tôi, giúp tôi với.”
\s5
\v 27 Vua trả lời, “Nếu Đức Giê-hô-va không giúp ngươi, thì làm sao ta có thể giúp ngươi? Trên sân đạp lúa và bồn ép rượu có gì không? ”
\v 28 Vua hỏi tiếp, “Điều gì làm ngươi sầu khổ? ” Bà trả lời, “Người đàn bà này bảo tôi, Hôm nay hãy đưa tôi con trai của chị để chúng ta ăn thịt nó, rồi ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai tôi. ’”
\v 29 Vậy, chúng tôi nấu con trai tôi và ăn thịt nó, rồi hôm sau tôi bảo bà ấy, “Hãy đưa tôi con trai của chị để chúng ta ăn thịt nó”, nhưng bà ấy đã giấu con trai mình.”
\s5
\v 30 Khi vua nghe người phụ nữ này nói, ông xé toạc quần áo (bấy giờ ông đang đi trên tường thành), người ta thấy ông mặc một lớp vải gai bên trong.
\v 31 Ông nói, “Cầu Đức Chúa Trời phạt ta thật nặng, nếu hôm nay đầu của Ê-li-sê con trai Sa-phát vẫn chưa rơi.”
\s5
\v 32 Nhưng Ê-li-sê đang ngồi trong nhà, và các trưởng lão đang ngồi với ông. Vua sai một sứ giả đi tìm ông, nhưng khi sứ giả đến gặp Ê-li-sê, ông nói với các trưởng lão, “Hãy xem tên sát nhân sai đứa con của hắn lấy đầu tôi thể nào? Kìa, khi hắn đến, hãy đóng cửa, và khóa cửa lại. Chẳng phải không có tiếng chân của chủ hắn đi phía sau hắn sao? ”
\v 33 Khi ông đang nói với họ, kìa, sứ giả đã đến gặp ông. Vua hỏi, “Kìa, tai họa này đến từ Đức Giê-hô-va. Tại sao ta phải chờ đợi Đức Giê-hô-va nữa?”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Ê-li-sê nói, “Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Này là lời Đức Giê-hô-va phán: Ngày mai, vào giờ này, một đấu bột lọc sẽ được bán với giá một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ được bán với giá một siếc-lơ, tại cổng thành Sa-ma-ri. ’”
\v 2 Khi đó, quan hộ giá đang giang tay cho vua vịn trả lời người của Đức Chúa Trời, “Kìa, ngay cả nếu Đức Giê-hô-va có mở các cửa sổ trên trời, thì làm sao điều này có thể xảy ra? ” Ê-li-sê đáp, “Này, chính mắt ông sẽ thấy điều đó, nhưng ông sẽ không được ăn bất cứ phần nào.”
\s5
\v 3 Bấy giờ có bốn người phung đang ở ngay ngoài cổng thành. Họ nói với nhau, “Tại sao chúng ta phải ngồi đây chờ chết?
\v 4 Nếu chúng ta nói rằng chúng ta nên vào trong thành, thì trong thành đang có cơn đói kém, chúng ta sẽ chết. Nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây, chúng ta vẫn sẽ chết. Vậy thì, chúng ta hãy đến trại quân A-ram. Nếu họ cho chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống, còn nếu họ giết chúng ta, thì chúng ta cũng sẽ chết.”
\s5
\v 5 Vậy họ đứng dậy vào lúc chạng vạng rồi vào trại quân A-ram; khi họ đến phía đầu trại, chẳng có ai ở đó.
\v 6 Vì Chúa đã khiến quân A-ram nghe tiếng xe chiến mã và tiếng vó ngựa tiếng của một đội quân lớn khác, và họ bảo nhau rằng, “Vua Y-sơ-ra-ên đã thuê các vua Hê-tít và Ai Cập đến đánh chúng ta.”
\s5
\v 7 Vậy quân lính đứng dậy và chạy trốn lúc chạng vạng; họ bỏ lại lều, ngựa, lừa, trại, và chạy thục mạng.
\v 8 Khi những người phung đến đầu trại, họ đi vào trong một lều nọ rồi ăn uống, sau đó lấy vàng bạc và quần áo rồi đem đi giấu. Họ cũng trở lại và vào một lều khác đặng lấy của cải rồi đem đi giấu.
\s5
\v 9 Họ nói với nhau, “Chúng ta đang làm bậy. Hôm nay là ngày có tin tốt lành, nhưng chúng ta lại không nói. Nếu đợi đến rạng đông, thì chúng ta sẽ bị trừng phạt. Vậy bây giờ, chúng ta hãy đi và báo cho hoàng gia. ”
\v 10 Vậy họ đi gọi lính gác cổng thành. Họ bảo, “Chúng tôi đã đến trại quân A-ram, nhưng không có ai ở đó, không nghe tiếng ai cả, chỉ có ngựa và lừa còn được cột lại, lều vẫn còn đó. ”
\v 11 Lính gác cổng báo tin, sau đó người ta thuật lại cho nhà vua.
\s5
\v 12 Vua thức giấc vào ban đêm và bảo các quần thần, “Ta sẽ cho các ngươi biết quân A-ram đã làm gì đối với chúng ta. Chúng biết chúng ta đói, nên chúng đã ra khỏi trại đặng phục kích trong các cánh đồng. Chúng bảo nhau, Khi chúng ra khỏi thành, chúng ta sẽ bắt sống chúng, rồi xông vào thành. ’”
\v 13 Một trong các quần thần của vua trả lời, “Xin bệ hạ sai vài người lấy năm con ngựa còn sót lại trong thành. Họ cũng giống như dân Y-sơ-ra-ên còn sót lại hầu hết đều đã chết; chúng ta hãy sai họ đi xem thử.”
\s5
\v 14 Vậy họ lấy hai xe chiến mã và ngựa, vua sai họ đuổi theo quân A-ram, nói rằng, “Hãy đi xem thử. ”
\v 15 Họ đuổi theo quân A-ram đến sông Giô-đanh, dọc đường đầy quân trang và quân dụng mà dân A-ram vội vã quăng đi. Các sứ giả trở về và báo cho vua.
\s5
\v 16 Dân chúng tràn ra ngoài và cướp trại quân A-ram. Do đó, một đấu bột lọc được bán với giá một siếc-lơ, và hai đấu lúa mạch được bán với giá một siếc-lơ, theo như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 17 Vua đặt quan hộ giá đứng canh cổng, nhưng dân chúng giẫm đạp lên ông ngay tại cổng thành. Ông chết như lời người của Đức Chúa Trời đã nói khi vua đến gặp ông.
\s5
\v 18 Việc đó xảy ra như lời người của Đức Chúa Trời đã bảo vua, “Vào giờ này ở cổng thành Sa-ma-ri, hai đấu lúa mạch sẽ có giá một siếc-lơ, và một đấu bột lọc sẽ có giá một siếc-lơ. ”
\v 19 Quan trả lời người của Đức Chúa Trời, “Kìa, ngay cả nếu Đức Giê-hô-va có mở các cửa sổ trên trời, thì làm sao điều này có thể xảy ra? ” Ê-li-sê đáp, “Này, chính mắt ông sẽ thấy điều đó, nhưng ông sẽ không được ăn bất cứ phần nào. ”
\v 20 Và việc này đã xảy ra cho vị quan đó, ông chết do dân chúng giẫm đạp lên ông ở cổng thành.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Bấy giờ Ê-li-sê nói với người phụ nữ có đứa con trai được ông làm cho sống lại. Ông bảo bà, “Hãy chỗi dậy, đi với gia đình bà, đến một xứ khác và ở tại bất cứ nơi nào có thể được, vì Đức Giê-hô-va sẽ giáng một nạn đói trên xứ này trong bảy năm. ”
\v 2 Vậy người phụ nữ chỗi dậy và vâng lời người của Đức Chúa Trời. Bà cùng với gia đình đến sống tại xứ Phi-li-tin trong bảy năm.
\s5
\v 3 Cuối bảy năm, người phụ nữ từ xứ Phi-li-tin trở về, bà đến gặp vua và nài xin vua về chuyện nhà và đất đai.
\v 4 Khi đó, vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người của Đức Chúa Trời, “Hãy kể cho ta nghe mọi việc lớn mà Ê-li-sê đã làm.”
\s5
\v 5 Vậy, đang khi ông kể cho vua nghe về việc Ê-li-sê đã làm cho đứa trẻ đã qua đời được sống lại, chính người phụ nữ mà đứa con được sống lại đã đến van nài vua về chuyện nhà cửa và đất đai của bà. Ghê-ha-xi nói, “Thưa bệ hạ, chủ của tôi, đây là người phụ nữ đó, và đây là đứa con trai của bà mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại. ”
\v 6 Khi vua hỏi người nữ về con trai bà, bà kể cho vua nghe. Vậy vua sai một quan giải quyết cho bà và nói rằng, “Hãy trả lại cho nàng tất cả những gì của nàng và tất cả huê lợi của đồng ruộng nàng kể từ ngày nàng rời khỏi xứ cho đến giờ.”
\s5
\v 7 Ê-li-sê đến Đa-mách khi Bên Ha-đát, vua A-ram đang bị bệnh. Người ta báo với vua, “Người của Đức Chúa Trời đã đến đây. ”
\v 8 Vua bảo Ha-xa-ên, “Hãy đem lễ vật đến gặp người của Đức Chúa Trời, và nhờ người cầu vấn Đức Giê-hô-va rằng, Liệu ta sẽ được lành bệnh chăng? ’”
\v 9 Vậy Ha-xa-ên đến gặp người và đem theo lễ vật tốt nhất từ Đa-mách được chở bằng bốn mươi con lạc đà. Ha-xa-ên đến ra mắt Ê-li-sê và nói, “Con trai ông là Bên Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến gặp ông, hỏi rằng, Ta sẽ được lành bệnh chăng? ’”
\s5
\v 10 Ê-li-sê trả lời, “Hãy đi nói với Bên Ha-đát, Chắc chắn bệ hạ sẽ lành bệnh, nhưng Đức Giê-hô-va đã cho tôi thấy rằng vua chắc sẽ chết. ”
\v 11 Lúc ấy Ê-li-sê nhìn chằm chằm Ha-xa-ên đến nỗi ông thấy ngượng, rồi người của Đức Chúa Trời khóc.
\v 12 Ha-xa-ên hỏi, “Thưa chủ tôi, sao ông khóc? ” Ông trả lời, “Vì tôi biết việc ác mà ông sẽ gây ra trên dân Y-sơ-ra-ên. Ông sẽ phóng hỏa các thành trì, ông sẽ dùng gươm giết những người thanh niên, chà nát trẻ thơ, và mổ bụng đàn bà có thai.”
\s5
\v 13 Ha-xa-ên trả lời, “Tôi tớ ông là ai, đến nỗi làm chuyện lớn này? Tôi chỉ là một con chó. ” Ê-li-sê trả lời, “Đức Giê-hô-va đã tỏ cho tôi biết rằng ông sẽ làm vua A-ram. ”
\v 14 Sau đó, Ha-xa-ên rời khỏi Ê-li-sê và trở về gặp chủ mình, vua hỏi, “Ê-li-sê đã nói gì với ngươi? ” Ông trả lời, “Ông ấy nói cho tôi biết rằng bệ hạ chắc chắn sẽ lành bệnh. ”
\v 15 Hôm sau, Ha-xa-ên lấy một cái mền, nhúng nước, rồi đắp lên mặt Bên Ha-đát đến nỗi ông ấy chết. Rồi Ha-xa-ên lên kế vị.
\s5
\v 16 Vào năm thứ năm đời Giô-ram con trai A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-ram lên cai trị. Ông là con trai Giê-hô-sa-phát vua Giu-đa. Ông bắt đầu cai trị khi Giê-hô-sa-phát làm vua Giu-đa.
\v 17 Giê-hô-ram được ba mươi hai tuổi khi lên làm vua, ông cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 18 Giê-hô-ram đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, như nhà A-háp đã làm; vì ông cưới con gái của A-háp, và làm việc ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 19 Tuy nhiên, vì cớ tôi tớ Ngài là Đa-vít, nên Đức Giê-hô-va không muốn hủy diệt Giu-đa, vì Ngài đã phán với ông rằng Ngài sẽ luôn ban cho ông con cháu.
\s5
\v 20 Trong thời của Giê-hô-ram, Ê-đôm nổi loạn chống lại quyền cai trị của Giu-đa, và lập nên một vua.
\v 21 Sau đó, Giê-hô-ram cùng với các sĩ quan chỉ huy và xe chiến mã kéo quân ra trận. Ông kéo quân vào ban đêm, tấn công và áp đảo dân Ê-đôm khi đó đang bao vây ông và các sĩ quan chỉ huy xe chiến mã. Sau đó, quân của Giê-hô-ram thoát về trại.
\s5
\v 22 Vậy Ê-đôm đã nổi loạn chống lại quyền lực của Giu-đa cho đến ngày nay. Khi đó, dân Líp-na cũng nổi loạn.
\v 23 Về những việc khác của Giê-hô-ram, tất cả mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 24 Giê-hô-ram băng hà và an nghỉ với tổ phụ, người ta chôn ông chung với các tổ phụ trong thành Đa-vít. Sau đó A-ha-xi-a con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 25 Vào năm thứ hai mươi trong đời Giô-ram con trai A-háp, vua Giu-đa, A-ha-xi-a con trai Giê-hô-ram vua Giu-đa, bắt đầu cai trị.
\v 26 A-ha-xi-a được hai mươi hai tuổi khi ông lên cai trị; ông trị vì được một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-tha-li-a, cháu của Ôm-ri, vua Y-sơ-ra-ên.
\v 27 A-ha-xi-a đi theo đường lối của nhà A-háp; ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như nhà A-háp đã làm, vì A-ha-xi-a là con rể của nhà A-háp.
\s5
\v 28 A-ha-xi-a cùng với Giô-ram con trai A-háp đi đánh Ha-xa-ên, vua A-ram, tại Ra-mốt Ghi-lê-át. Quân A-ram đánh cho Giô-ram bị thương.
\v 29 Vua Giô-ram trở về Giê-rê-ên để chữa lành vết thương do quân A-ram gây ra tại Ra-ma, khi ông đánh Ha-xa-ên vua A-ram. Vậy A-ha-xi-a con trai Giê-hô-ram, vua Giu-đa, đi xuống Giê-rê-ên đặng thăm Giô-ram con trai A-háp, vì Giô-ram đã bị thương.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Tiên tri Ê-li-sê gọi một trong các môn đồ của các tiên tri và bảo, “Hãy mặc đồ lên đường, lấy chai dầu này rồi đi đến Ra-mốt Ghi-lê-át.
\v 2 Khi đến đó, hãy tìm Giê-hu con trai Giê-hô-sa-phát cháu Nim-si, hãy đi vào và mời ông ấy rời khỏi các bạn mình, và dẫn vào một phòng kín.
\v 3 Sau đó lấy chai dầu xức lên đầu ông ấy và nói, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Ta đã xức dầu ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên. ”” Nói xong hãy mở cửa và chạy trốn; đừng chậm trễ.”
\s5
\v 4 Vậy người thanh niên đó, tiên tri trẻ, đến Ra-mốt Ghi-lê-át.
\v 5 Khi ông đến, kìa, các tướng lãnh quân đội đang ngồi. Tiên tri trẻ nói, “Tôi đến đây có một mục đích dành cho ông, thưa chỉ huy. ” Giê-hu trả lời, “Cho ai trong chúng tôi? ” Tiên tri trẻ trả lời, “Cho ông, thưa chỉ huy. ”
\v 6 Vậy Giê-hu đứng dậy và đi vào trong nhà, tiên tri xức dầu lên đầu Giê-hu và nói, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã xức dầu cho ngươi làm vua dân sự của Đức Giê-hô-va, là dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 7 Ngươi phải giết nhà A-háp, chủ ngươi, đặng Ta báo thù huyết của các tiên tri Ta, và huyết của tất cả các tôi tớ của Giê-hô-va, là những người do chính tay Giê-sa-bên giết.
\v 8 Vì cả nhà A-háp sẽ hư mất, Ta sẽ nhổ khỏi A-háp từng người nam, dù là nô lệ hay tự do.
\s5
\v 9 Ta sẽ khiến nhà A-háp giống như nhà Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát và nhà Ba-a-sa con trai A-hi-gia.
\v 10 Chó sẽ ăn thị Giê-sa-bên tại Giê-rê-ên, và sẽ không ai chôn bà ấy. ’” Sau đó tiên tri mở cửa và chạy trốn.
\s5
\v 11 Giê-hu trở ra gặp các tôi tớ của chủ ông, một người hỏi, “Mọi sự ổn chứ? Sao tên khùng đó đến gặp ông? ” Giê-hu trả lời, “Ông biết người đó và những điều ông ấy nói mà. ”
\v 12 Họ nói, “Ông nói dối. Hãy kể cho chúng tôi nghe. ” Giê-hu trả lời, “Ông ấy nói thế này và thế kia cho tôi nghe, và ông ấy cũng nói, Này là lời Đức Giê-hô-va phán” Ta đã xức dầu ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên. ’”
\v 13 Khi đó, mỗi người trong bọn họ nhanh chóng cởi áo choàng rồi đặt trên cá bậc thang dưới chân Giê-hu. Họ thổi kèn và hô, “Giê-hu là vua.”
\s5
\v 14 Như vậy Giê-hu con trai Giê-hô-sa-phát, cháu Nim-si, lập mưu phản Giô-ram. Bấy giờ Giô-ram đang bảo vệ Ra-mốt Ghi-lê-át, ông và cả nhà Y-sơ-ra-ên, vì cớ Ha-xa-ên vua A-ram,
\v 15 nhưng Vua Giô-ram đã trở về Giê-rê-ên để được lành khỏi các vết thương mà quân A-ram đã đánh ông, khi ông ra trận đánh Ha-xa-ên vua A-ram. Giê-hu nói với các tôi tớ của Giô-ram, “Nếu đây là quan điểm của các ngươi, thì chớ để ai thoát và ra khỏi thành phố, đặng thuật lại tin này ở Giê-rê-ên. ”
\v 16 Vậy Giê-hu cưỡi một xe chiến mã đến Giê-rê-ên; vì Giô-ram đang nghỉ ngơi tại đó. Bấy giờ A-ha-xi-a vua Giu-đa đã đi xuống gặp Giô-ram.
\s5
\v 17 Lính canh đang đứng trên tháp ở Giê-rê-ên, và ông thấy nhóm của Giê-hu từ đằng xa; ông nói, “Tôi thấy một nhóm người đang đến. ” Giô-ram nói, “Hãy đem cho ta một lính kỵ binh, rồi đưa ta đến gặp họ; hãy hỏi ông ấy rằng, Các ông đến bình an chứ? ’”
\v 18 Vậy họ sai một người phi ngựa ra gặp ông; người đó nói, “Vua hỏi: Các ngươi đến hòa bình chứ? ’” Giê-hu nói, “Tôi với ông có bình an liên quan gì? Hãy quay đầu và đi ngựa phía sau tôi. ” Lính canh tâu với vua, “Sứ giả đã gặp họ, nhưng ông ta không quay về.”
\s5
\v 19 Vua lại sai một người thứ nhì cưỡi ngựa ra gặp họ và nói, “Đức vua hỏi: Mọi sự bình an chứ? ’” Giê-hu trả lời, “Tôi với ông có bình an liên quan gì? Hãy quay đầu và đi ngựa phía sau tôi. ”
\v 20 Lính canh lại báo cáo, “Sứ giả đã đến gặp họ, nhưng ông ấy không trở về. Cách xe chiến mã được lái trông như Giê-hu con trai Nim-si lái, vì ông ta lái điên dại.”
\s5
\v 21 Giô-ram ra lệnh, “Hãy chuẩn bị sẵn xe chiến mã cho ta. ” Họ chuẩn bị xe chiến mã cho Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên và A-ha-xi-a vua Giu-đa mỗi người đánh xe chiến mã ra để gặp Giê-hu. Họ tìm thấy ông đang trên đất của Na-bốt người Giê-rê-ên.
\v 22 Khi Giô-ram thấy Giê-hu, ông hỏi, “Giê-hu, ông đến bình an chứ? ” Giê-hu trả lời, “Bình an gì chứ? Khi mà Giê-sa-bên, mẹ ông, phạm quá nhiều tội thông dâm thần tượng và pháp thuật?”
\s5
\v 23 Vậy Giô-ram quay đầu xe chiến mã chạy trốn và bảo A-ha-xi-a, “A-ha-xi-a, có mưu phản. ”
\v 24 Sau đó Giê-hu lấy hết sức giương cung ra và bắn trúng giữa hai vai Giô-ram; mũi tên xuyên thấu tim ông, ông ngã xuống trên xe chiến mã.
\s5
\v 25 Giê-hu bảo thủ lĩnh Bích-ca, “Hãy nhặt xác hắn và quăng vào ruộng của Na-bốt người Giê-rê-ên. Hãy nghĩ đến lúc ngươi và ta cùng lái xe đuổi theo sau cha hắn là A-háp, Đức Giê-hô-va đã có lời tiên tri nghịch lại hắn:
\v 26 Chắc chắn hôm qua Ta đã thấy huyết của Na-bốt và huyết của các con trai người, Đức Giê-hô-va phán, và Ta sẽ báo đáp ngươi trong ruộng này, ” Đức Giê-hô-va phán. Vậy bây giờ, hãy nhặt xác hắn và quăng vào đó, cái đồng ruộng đó, để làm đúng lời chúng ta đã được Đức Giê-hô-va phán là sẽ xảy ra.”
\s5
\v 27 Khi A-ha-xi-a vua Giu-đa thấy việc này, ông lên đường chạy trốn sang Bết Hác-gan. Nhưng Giê-hu đuổi theo và nói, “Hãy giết hắn trên xe chiến mã, ” và họ bắn ông ngay chỗ quẹo về Gu-rơ, qua ngã Íp-lê-am. A-ha-xi-a chạy trốn qua Mê-ghi-đô và băng hà tại đó.
\v 28 Các quần thần ông đem xác ông trên một xe chiến mã đến Giê-ru-sa-lem và chôn ông trong mồ với những tổ phụ của ông tại thành Đa-vít.
\s5
\v 29 Bấy giờ là năm thứ 11 của Giô-ram, con trai A-háp mà A-ha-xi-a đã bắt đầu cai trị Giu-đa.
\s5
\v 30 Khi Giê-hu đến gặp Giê-rê-ên, Giê-rê-ên đã nghe tin đó, bà kẻ mắt, chải tóc, và nhìn ra cửa sổ.
\v 31 Khi Giê-hu đang bước vào cổng, bà hỏi ông, “Ngươi đến bình an chứ, hỡi Xim-ri, kẻ sát nhân của chủ tôi? ”
\v 32 Giê-hu nhìn lên cánh cửa và nói, “Ai đứng về phía tôi? Ai? ” Có hai hay ba thái giám nhìn nhau.
\s5
\v 33 Giê-hu nói, “Hãy ném bà ấy. ” Vậy họ ném Giê-sa-bên xuống, một ít huyết của bà văng trên tường và ngựa, Giê-hu cũng đã giẫm bà dưới chân.
\v 34 Khi Giê-hu bước vào cung điện, ông ăn và uống. Ông nói, “Hãy xem người đàn bà bị rủa sả này và chôn bà, vì bà ấy là con gái vua.
\s5
\v 35 Họ đi chôn bà, nhưng họ không tìm thấy xác bà còn nguyện vẹn ngoại trừ cái sọ, chân và lòng bàn tay.
\v 36 Khi họ quay trở về và bảo Giê-hu. Ông nói, “Đây là lời Đức Giê-hô-va đã phán với tôi tớ Ngài là Ê-li-sê người Ti-sê-bết rằng, “Trong đất Giê-rê-ên, chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên,
\v 37 và xác Giê-sa-bên sẽ được trông như phân trên các cánh đồng trong xứ Giê-rê-ên, đến nỗi không ai ở nổi, “Đây là Giê-sa-bên.”
\s5
\c 10
\p
\v 1 Bấy giờ A-háp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri cho các quan ở Giê-rê-ên, gồm các trưởng lão và quan giám hộ các con của A-háp, nói rằng,
\v 2 “Con của chủ các ngươi đang ở với các ngươi, các ngươi cũng có xe chiến mã, ngựa, thành trì kiên cố và áo giáp. Vậy, ngay khi các ngươi nhận thư này,
\v 3 hãy chọn một người giỏi nhất và xứng đáng nhất trong số các con của chủ các ngươi và cho lên kế vị cha hắn, hãy chiến đấu cho dòng dõi hoàng tộc của chủ các ngươi.”
\s5
\v 4 Nhưng họ kinh hãi và nói với nhau, “Kìa, hai vua còn không thể đương đầu nổi Giê-hu. Vậy thì làm sao chúng ta có thể chống lại ông ấy được? ”
\v 5 Khi đó, quan tổng quản hoàng cung, quan tổng quản thành phố, và các trưởng lão cùng mấy người đỡ đầu những đứa trẻ đó, đáp lại Giê-hu rằng, “Chúng tôi là tôi tớ của ông. Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông ra lệnh. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua. Xin hãy làm điều ông muốn.”
\s5
\v 6 Giê-hu viết một lá thư lần thứ nhì và gửi cho họ, “Nếu các ngươi đứng về phía ta, và nếu các ngươi nghe tiếng ta, hãy chặt đầu các con của chủ các ngươi, rồi đến gặp ta ở Giê-rê-ên vào giờ này ngày mai. ” Bấy giờ các con của vua, gồm bảy mươi người, đang ở với các đại quan trong thành, là những người đỡ đầu họ.
\v 7 Khi nhận được thư, họ bắt các con trai của vua và giết chúng, tổng cộng bảy mươi người, rồi bỏ đầu chúng vào trong giỏ, đem đến cho Giê-hu tại Giê-rê-ên.
\s5
\v 8 Một sứ giả đến báo tin cho Giê-hu, “Họ có đem đầu các con trai của vua ấy đến đây. ” Ông bảo, “Hãy chất chúng thành hai đống ở trước cổng thành cho đến sáng mai. ”
\v 9 Sáng hôm sau, Giê-hu đi ra và đứng đó nói với toàn dân, “Các ngươi vô tội. Kìa, ta đã lập mưu phản chủ ta và giết hắn, nhưng ai đã giết tất cả những kẻ này?
\s5
\v 10 Bây giờ các ngươi chắc chắn nhận thấy rằng không một lời nào trong lời của Đức Giê-hô-va, là lời mà Ngài đã phán về nhà A-háp, lại rơi xuống đất, vì Đức Giê-hô-va đã thực hiện lời Ngài phán qua tôi tới Ngài là Ê-li. ”
\v 11 Vậy Giê-hu giết tất cả những ai còn sót lại trong nhà A-háp ở Giê-rê-ên, tất cả những đại quan, bạn bè thân cận, và tư tế của vua ấy, cho đến khi chẳng còn ai sống sót.
\s5
\v 12 Sau đó Giê-hu đứng dậy và rời đi; ông đến Sa-ma-ri. Khi ông đi ngang Bết Ê-kết, tại khu chăn chiên,
\v 13 ông gặp các anh em của A-ha-xi-a vua Giu-đa. Giê-hu hỏi họ, “Các ngươi là ai? ” Họ trả lời, “Chúng tôi là anh em của A-ha-xi-a, chúng tôi đi xuống đó để chào thăm các con của vua và Hoàng hậu Giê-sa-bên. ”
\v 14 Giê-hu bảo người của ông, “Hãy bắt sống chúng. ” Vậy họ bắt sống chúng và giết chúng ở giếng Bết Ê-kết, tổng cộng là bốn mươi hai người. Ông không chừa một ai sống sót.
\s5
\v 15 Khi Giê-hu đã rời đi, ông gặp Giô-na-đáp con trai Rê-cáp đang đến đón ông. Giê-hu chào và hỏi, “Lòng ngươi có ở với ta, như lòng ta ở với ngươi không? ” Giô-na-đáp trả lời, “Có. ” Giê-hu nói, “Nếu có, hãy giơ tay ngươi ra. ” Giô-na-đáp giơ tay ra, Giê-hu nắm tay ông và dẫn ông đến xe chiến mã.
\v 16 Giê-hu bảo, “Hãy đi với ta và xem lòng nhiệt thành của ta đối với Đức Giê-hô-va. ” Vậy ông đưa Giô-na-đáp lên xe chiến mã.
\v 17 Khi đến Sa-ma-ri, Giê-hu giết tất cả con cháu của A-háp còn sót lại tại Sa-ma-ri, cho đến khi ông hủy diệt hoàng tộc của A-háp, như lời Đức Giê-hô-va đã phán qua Ê-li.
\s5
\v 18 Sau đó, Giê-hu triệu tập toàn dân và nói, “A-háp thờ Ba-anh một ít, nhưng Giê-hu sẽ thờ Ba-anh nhiều hơn.
\v 19 Hãy triệu tập cho ta toàn thể tiên tri Ba-anh, những người thờ lạy thần đó, và tất cả các tư tế. Đừng bỏ sót ai, vì ta có một lễ vật lớn muốn dâng cho Ba-anh. Ai không đến sẽ bị xử tử. ” Nhưng Giê-hu giả vờ làm vậy, nhằm mục đích diệt những kẻ thờ lạy Ba-anh.
\v 20 Giê-hu nói, “Hãy làm một đại hội thật trọng thể cho Ba-anh, và dành riêng một ngày cho sự kiện đó. ” Vậy họ đi rao báo.
\s5
\v 21 Giê-hu triệu tập trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên tất cả những kẻ thờ lạy Ba-anh, họ đến đông đủ, không thiếu một ai. Họ vào trong đền thờ Ba-anh, đông nghịt từ đầu này đến đầu kia.
\v 22 Giê-hu ra bảo người giữ quần áo tư tế, “Hãy đem áo choàng ra cho tất cả những người thờ lạy Ba-anh. ” Vậy người đó đem áo choàng ra cho họ.
\s5
\v 23 Giê-hu cùng với Giô-na-đáp con trai Rê-cáp đi vào trong đền thờ Ba-anh, ông bảo những kẻ thờ lạy Ba-anh, “Hãy tra tìm và đảm bảo rằng trong này không có ai là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, nhưng chỉ có những người thờ lạy Ba-anh thôi. ”
\v 24 Sau đó họ vào trong đặng dâng lễ vật và của lễ thiêu. Bấy giờ Giê-hu chọn tám mươi người đứng bên ngoài, ông bảo họ, “Nếu ai trong số những kẻ mà ta giao cho các ngươi bỏ trốn, ai để tên nào trốn thoát, thì mạng người đó sẽ thế mạng cho tên đã chạy trốn.”
\s5
\v 25 Ngay khi Giê-hu dâng xong của lễ thiêu, ông ra lệnh cho lính canh và các sĩ quan, “Hãy vào trong và giết chúng. Chớ để ai trốn thoát. ” Vậy họ dùng lưỡi gươm giết chúng, lính canh và các sĩ quan liệng chúng ra ngoài và đi vào phòng trong cùng của đền thờ Ba-anh.
\v 26 Họ lôi ra ngoài các trụ đá thiêng từ đền thờ Ba-anh và đốt chúng.
\v 27 Họ đánh sập trụ thờ Ba-anh, và phá hủy đền thờ Ba-anh, biến nó thành một nhà xí, như vẫn còn đến ngày nay.
\v 28 Đó là cách Giê-hu hủy diệt Ba-anh và loại bỏ việc thờ lạy nó khỏi Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 29 Nhưng Giê-hu không từ bỏ các tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là những điều mà ông ấy đã xui Y-sơ-ra-ên phạm nghĩa là, sự thờ lạy con bò vàng tại Bê-tên và Đan.
\v 30 Vậy Đức Giê-hô-va phán với Giê-hu, “Vì ngươi đã hết lòng làm điều thiện trước mặt Ta, và đã ra tay trên nhà A-háp theo trọn lòng ngươi, nên con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư. ”
\v 31 Nhưng Giê-hu không hết lòng quan tâm đến việc bước đi trong luật pháp của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là những điều ông ấy đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\v 32 Trong những ngày ấy, Đức Giê-hô-va bắt đầu giảm bớt các miền của Y-sơ-ra-ên, và Ha-xa-ên đánh bại dân Y-sơ-ra-ên ở các vùng biên giới Y-sơ-ra-ên,
\v 33 từ phía đông Giô-đanh, toàn xứ Ghi-lê-át, địa phận của chi phái Gát, Ru-bên, và Ma-na-se, từ A-rô-ơ, bên thung lũng Ạc-nôn, qua Ghi-lê-át đến Ba-san.
\s5
\v 34 Về những việc khác của Giê-hu, tất cả những việc ông làm, sức mạnh của ông, chẳng phải được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 35 Giê-hu an giấc cùng tổ phụ ông, người ta chôn ông tại Sa-ma-ri. Sau đó, Giê-hô-a-ha, con trai ông lên kế vị.
\v 36 Giê-hu cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri được hai mươi tám năm.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Bấy giờ khi A-tha-li-a, mẹ của A-ha-xi-a, thấy con trai bà đã chết, bà chỗi dậy và giết hết tất cả những đứa trẻ trong hoàng tộc.
\v 2 Nhưng Giê-hô-sê-ba, con gái Vua Giô-ram và là chị của A-ha-xi-a, dẫn theo Giô-ách con của A-ha-xi-a, và giấu khỏi số các con hoàng tử bị giết, đi cùng bà còn có vú nuôi của Giô-ách; bà đưa họ vào trong một phòng ngủ. Họ giấu Giô-ách khỏi A-tha-li-a để Giô-ách không bị giết.
\v 3 Giô-ách được Giê-hô-sê-ba giấu trong đền thờ Đức Giê-hô-va sáu năm, đang khi A-tha-li-a cai trị xứ.
\s5
\v 4 Năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa sai người đi mời các quan chỉ huy hàng trăm quân người Ca-ri và vệ binh đến gặp ông tại đền thờ Đức Giê-hô-va. Ông lập giao ước với họ và yêu cầu họ thề trong đền thờ Đức Giê-hô-va. Sau đó ông chỉ cho họ xem con trai của vua.
\v 5 Ông bảo, “Này là điều các ông phải làm. Một phần ba các ông trong phiên ngày Sa-bát sẽ bảo vệ hoàng cung,
\v 6 một phần ba sẽ ở Cổng Su-rơ, và một phần ba còn lại sẽ canh cổng phía sau phòng của quân thị vệ.
\s5
\v 7 Và hai nhóm khác, gồm những người không phục vụ trong ngày Sa-bát, phải canh đền thờ Đức Giê-hô-va cho vua.
\v 8 Các ông phải bao quanh vua, mỗi người phải cầm vũ khí trong tay. Ai xông vào hàng ngũ các ông sẽ bị giết. Các ông phải đi theo vua khi người đi ra đi vào.”
\s5
\v 9 Vậy các quan chỉ huy trăm quân vâng theo mọi điều thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi người đem theo quân của mình, là những người phải phục vụ và không phục vụ trong ngày Sa-bát; họ đến gặp thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa.
\v 10 Sau đó thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao giáo và khiên của Vua Đa-vít trong đền thờ Đức Giê-hô-va cho các quan chỉ huy trăm quân.
\s5
\v 11 Quân thị vệ tay cầm binh khí đứng canh từ bên phải đến bên trái đền thờ, dọc theo bàn thờ và đền thờ, bảo vệ vua tứ phía.
\v 12 Giê-hô-gia-đa dẫn hoàng tử Giô-ách ra, đội vương miện, và trao sắc lệnh giao ước cho người. Họ tôn người làm vua và xức dầu cho người. Họ vỗ tay và hô vang, “Đức vua vạn tuế!”
\s5
\v 13 Khi A-tha-li-a nghe tiếng huyên náo của quân thị vệ và dân chúng, bà đến gặp những người trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 14 Bà nhìn, và kìa, vua đang đứng bên cột trụ, theo nghi thức, có các quan chỉ huy và người thổi kèn đứng quanh vua. Toàn dân trong xứ vui mừng và thổi kèn. A-tha-li-a xé quần áo bà và la lớn, “Mưu phản! Mưu phản!”
\s5
\v 15 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa ra lệnh các quan chỉ huy trăm quân, “Hãy đem mụ ấy ra khỏi hàng ngũ. Ai theo mụ sẽ bị giết bằng gươm. ” Vì thầy tế lễ đã nói, “Chớ để mụ ấy bị giết trong đền thờ Đức Giê-hô-va. ”
\v 16 Vậy họ tránh đường cho bà đi ra, bà đi theo lối cổng ngựa đến hoàng cung, tại đó người ta giết bà.
\s5
\v 17 Sau đó Giê-hô-gia-đa lập giao ước với Đức Giê-hô-va, Vua Giô-ách, và dân sự, rằng họ sẽ là dân sự của Đức Giê-hô-va, và ông cũng lập giao ước giữa vua và dân chúng.
\v 18 Vậy toàn dân trong xứ đến đền thờ Ba-anh và đánh sập nó. Họ đập vỡ bàn thờ Ba-anh và các hình tượng ra từng mảnh, họ giết Ma-tan, tư tế Ba-anh, trước các bàn thờ đó. Thầy tê lễ chỉ định quân thị vệ canh giữ đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Giê-hô-gia-đa đem các quan chỉ huy trăm quân, người Ca-rít, quân thị vệ, và toàn dân trong xứ dẫn vua ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va và đi theo lối cổng dành cho quân thị vệ đến hoàng cung. Vậy Giô-ách lên ngôi vua.
\v 20 Toàn dân trong xứ vui mừng, và thành phố yên ổn. Còn về A-tha-li-a, người ta dùng gươm giết bà tại hoàng cung.
\s5
\v 21 Giô-ách lên ngôi cai trị khi ông được bảy tuổi.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Năm thứ bảy trong đời Giê-hu, Giô-ách lên ngôi vua; ông trị vì bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Xi-bia, con gái Bê-e-sê-ba.
\v 2 Giô-ách làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va trong trọn đời ông, vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã dạy dỗ ông.
\v 3 Nhưng các điện thờ không được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn tế lễ và đốt hương tại đó.
\s5
\v 4 Giô-ách bảo các thầy tế lễ, “Tất cả tiền bạc dâng cho những thứ thuộc về Đức Giê-hô-va và phải được đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va, tiền đóng góp theo định mức mỗi đầu người, và toàn bộ số tiền do dân sự được Đức Giê-hô-va khiến cho cảm động lòng đem dâng
\v 5 các thầy tế lễ phải gom số tiền đó từ những người dâng hiến, họ phải giữ số tiền đó trong đền thờ để sửa chữa bất cứ khi nào cần.”
\s5
\v 6 Nhưng vào năm thứ hai mươi ba trong đời Vua Giô-ách, các thầy tế lễ không sửa sang gì trong đền thờ.
\v 7 Vua Giô-ách triệu tập thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và các thầy tế lễ khác, ông hỏi họ, “Sao các ngươi không sửa sang gì trong đền thờ vậy? Bây giờ đừng nhận tiền dâng nữa, nhưng hãy lấy số tiền đã gom để sửa chữa đền thờ và giao số tiền đó cho người nào có thể sửa chữa. ”
\v 8 Vậy các thầy tế lễ đồng ý không nhận thêm tiền dâng và không phụ trách sửa đền thờ.
\s5
\v 9 Trái lại, thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa lấy một cái rương, đục một cái lỗ trên nắp, rồi đặt bên cạnh bàn thờ, về ở phía bên phải khi người ta đi vào đền thờ Đức Giê-hô-va. Các thầy tế lễ canh cửa đền thờ bỏ vào rương tất cả số tiền đã được dâng cho đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 10 Hễ khi nào họ thấy rương đầy tiền, quan thư ký của vua và thầy tế lễ thượng phẩm sẽ đến và bỏ tiền vào trong giỏ rồi đếm số tiền được dâng trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Họ giao số tiền đã khảo giá cho những người sửa sang đền thờ Đức Giê-hô-va. Họ trả công cho các thợ mộc và thợ xây là những người làm việc trong đền thờ Đức Giê-hô-va,
\v 12 và trả công cho thợ nề và thợ đục đá, họ dùng số tiền đó mua gỗ và đẽo đá để sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va, và thanh toán các hạng mục cần được sửa chữa.
\s5
\v 13 Nhưng người ta không dùng số tiền được dâng cho đền thờ Đức Giê-hô-va để sắm chén bạc, kéo cắt tim đèn, chậu, kèn, hay bất cứ đồ đạc nào bằng vàng hay bạc.
\v 14 Họ trả tiền cho những người sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Hơn nữa, họ không yêu cầu người quản lý việc trả lương cho nhân công phải tính sổ, vì họ làm việc thành thật.
\v 16 Nhưng tiền thuộc của lễ chuộc tội và của lễ tạ lỗi không được đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va, vì chúng thuộc về các thầy tế lễ.
\s5
\v 17 Khi đó, Ha-xa-ên vua A-ram tấn công và đánh chiếm xứ Gát. Ha-xa-ên quay lại đánh Giê-ru-sa-lem.
\v 18 Giô-ách vua Giu-đa lấy mọi thứ của Đức Giê-hô-va mà Giê-hô-sa-phát, Giê-hô-ram và A-ha-xia, tổ phụ ông, các vua Giu-đa, đã dâng cho Đức Giê-hô-va, tức những vật thánh của Ngài, và mọi thứ bằng vàng được tìm thấy trong các nhà kho trong đền thờ Đức Giê-hô-va và của vua; ông đưa cho Ha-xa-ên vua A-ram. Sau đó Ha-xa-ên rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 19 Về những việc khác của Giô-ách, những việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 20 Các quần thần của ông nổi dậy và lập mưu phản; họ tấn công Giô-ách trong điện Mi-lô, trên đường ông đi xuống Si-la.
\v 21 Giô-xa-ca con trai Si-mê-a, và Giê-hô-xa-bát con trai Sô-mê, tức các quần thần ông, tấn công ông và giết ông. Họ chôn Giô-ách chung với các tổ phụ trong thành Đa-vít, và A-ma-xia con trai ông lên kế vị.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Năm thứ hai mươi ba trong đời Giô-ách con trai A-ha-xia, vua Giu-đa, Giê-hô-a-ha con trai Giê-hu lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì mười bảy năm.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và noi theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội; Giê-hô-a-ha không từ bỏ những tội lỗi đó.
\s5
\v 3 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi bừng lên Y-sơ-ra-ên, Ngài cứ phó họ vào tay Ha-xa-ên vua A-ram, và Bên Ha-đát con trai Ha-xa-ên.
\v 4 Giê-hô-a-ha khẩn nài Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va lắng nghe ông vì Ngài thấy cảnh áp bức của Y-sơ-ra-ên, cách vua A-ram đàn áp họ.
\v 5 Đức Giê-hô-va ban cho Y-sơ-ra-ên một người giải cứu, họ được thoát khỏi quyền lực của người A-ram và sống an thái trong nhà như trước.
\s5
\v 6 Tuy nhiên, họ không từ bỏ tội lỗi của nhà Giê-rô-bô-am, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội, họ lại phạm những tội đó. Trụ thờ thần A-sê-ra vẫn còn đặt tại Sa-ma-ri.
\v 7 Dân A-ram chỉ chừa lại cho Giê-hô-a-ha năm mươi kỵ binh, mười xe chiến mã, và mười ngàn lính bộ binh, vì vua A-ram đã phá hủy chúng và khiến giống như rơm rạ khi đạp lúa.
\s5
\v 8 Về những việc khác của Giê-hô-a-ha, mọi điều ông làm, quyền lực của ông, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 9 Vậy Giê-hô-a-ha an giấc cùng tổ phụ, người ta chôn ông tại Sa-ma-ri. Giô-ách con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 10 Năm thứ ba mươi bảy trong đời Giô-ách vua Giu-đa, Giê-hô-ách con trai Giê-hô-a-ha cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì mười sáu năm.
\v 11 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng lại noi theo những tội lỗi đó.
\s5
\v 12 Về những việc khác của Giô-ách, những việc ông làm, và sức mạnh của ông khi đánh A-ma-xia vua Giu-đa, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 13 Giô-ách an giấc cùng tổ phụ mình, Giê-rô-bô-am lên kế vị. Giô-ách được chôn tại Sa-ma-ri chung với các vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 14 Bấy giờ Ê-li-sê bị bệnh rồi sau đó qua đời, Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên đi xuống thăm và than khóc ông. Ông nói, “Cha tôi ơi, cha tôi ơi, các xe chiến mã của Y-sơ-ra-ên và lính kỵ ơi! ”
\v 15 Ê-li-sê bảo ông, “Hãy lấy cung và tên, ” vậy Giô-ách lấy một cây cung và vài mũi tên.
\v 16 Ê-li-sê bảo vua Y-sơ-ra-ên, “Hãy cầm cung, “ông cầm cung. Ê-li-sê đặt tay ông lên tay vua.
\s5
\v 17 Ê-li-sê nói, “Hãy mở cửa về hướng đông, ” ông liền mở nó. Ê-li-sê bảo, “Bắn! ” ông bắn. Ê-li-sê nói, “Đây là mũi tên chiến thắng của Đức Giê-hô-va, mũi tên chiến thắng quân A-ram, vì vua sẽ tấn công dân A-ram ở A-phéc cho đến khi đã tiêu diệt được chúng. ”
\v 18 Ê-li-sê nói, “Hãy lấy các mũi tên, ” Giô-ách lấy các mũi tên. Ông bảo vua Y-sơ-ra-ên, “Hãy đập xuống đất, ” ông đập xuống đất ba lần rồi ngừng lại.
\v 19 Nhưng người của Đức Chúa Trời giận ông và nói, “Lẽ ra vua nên đập xuống đất năm hay sáu lần. Rồi vua sẽ tấn công A-ram cho đến khi vua đã tiêu diệt hết chúng, nhưng bây giờ vua sẽ đánh A-ram chỉ ba lần thôi.”
\s5
\v 20 Sau đó Ê-li-sê qua đời và được đem chôn. Bấy giờ, các toán quân Mô-áp xâm chiếm xứ vào đầu năm.
\v 21 Khi người ta đang chôn một người nọ, họ thấy một toán quân Mô-áp, họ liền quăng thây đó vào mộ Ê-li-sê. Ngay khi thây ấy đụng vào hài cốt của Ê-li-sê, người chết bèn sống lại và đứng dậy.
\s5
\v 22 Ha-xa-ên vua A-ram đàn áp Y-sơ-ra-ên trong suốt triều đại của Giê-hô-a-ha.
\v 23 Nhưng Đức Giê-hô-va tỏ lòng nhân từ với Y-sơ-ra-ên, Ngài thương xót họ và quan tâm đến họ, vì cớ giao ước của Ngài với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Vậy Đức Giê-hô-va không diệt họ, Ngài vẫn không đuổi họ khuất mắt Ngài.
\v 24 Ha-xa-ên vua A-ram băng hà, và Bên Ha-đát con trai ông lên kế vị.
\v 25 Giê-hô-ách con trai Giê-hô-a-ha giành lại từ tay Bên Ha-đát con trai Ha-xa-ên các thành phố bị chiếm khỏi tay Giê-hô-a-ha cha ông trong cuộc chiến. Giô-ách đánh vua ấy ba lần, và thu hồi lại các thành phố ở Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Năm thứ nhì trong đời Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha vua Y-sơ-ra-ên, A-ma-xi-a con Giô-ách vua Giu-đa lên ngôi cai trị.
\v 2 Ông được hai mươi lăm tuổi khi trị vì; ông cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-hô-a-đan ở thành Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không như Đa-vít, tổ phụ ông. Ông làm mọi điều mà Giô-ách, cha ông đã làm.
\s5
\v 4 Nhưng các điện thờ vẫn không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn còn dâng tế lễ và đốt hương ở đó.
\v 5 Khi vừa thiết lập quyền cai trị, ông giết các quần thần là những người đã ám sát vua cha.
\s5
\v 6 Nhưng ông không giết con của những kẻ sát nhân; ông tuân theo điều được chép trong luật pháp, Sách của Môi-se, như Đức Giê-hô-va đã truyền, “Cha mẹ sẽ không bị xử tử vì con cái, con cái cũng sẽ không bị xử tử vì cha mẹ. Trái lại, mỗi người phải bị xử tử vì tội của mình. ”
\v 7 Ông giết mười ngàn lính Ê-đôm ở thung lũng Muối; ông cũng chiếm Sê-la khi ra trận và gọi đó là Giốc-thê-ên, như vẫn còn được gọi đến ngày nay.
\s5
\v 8 Sau đó, A-ma-xia sai sứ giả đến gặp Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha, cháu Giê-hu vua Y-sơ-ra-ên, nói rằng, “Nào, chúng ta hãy ra trận mặt đối mặt. ”
\v 9 Nhưng Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên sai sứ giả trở lại gặp A-ma-xia vua Giu-đa, nói rằng, “Một cây kế ở Li-băng sai một sứ giả đến gặp cây tuyết tùng ở Li-băng và nói, Hãy gả con gái ngươi cho con trai ta, nhưng một con thú hoang ở Li-băng đi ngang qua và giẫm lên cây kế.
\v 10 Thật ông đã đánh Ê-đôm, và lòng ông đã tâng bốc ông lên. Hãy vênh váo về chiến thắng của ông, nhưng hãy ở nhà, vì sao ông muốn tự chuốc họa và cả ông và Giu-đa đều lãnh họa?”
\s5
\v 11 Nhưng A-ma-xia không nghe. Vậy Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên tấn công; ông và A-ma-xia vua Giu-đa, mỗi người đối đầu tại Bết Sê-mết, thuộc địa phận Giu-đa.
\v 12 Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại trận, ai nấy đều bỏ chạy về nhà.
\s5
\v 13 Giê-hô-ách vua Y-sơ-ra-ên bắt A-ma-xia vua Giu-đa, con Giê-hô-ách, cháu A-ha-xia, tại Bết Sê-mết. Ông kéo quân đến Giê-ru-sa-lem và đánh sập tường thành Giê-ru-sa-lem từ Cổng Ép-ra-im đến Cổng Góc, tạo một khoảng trống dài bốn trăm cu-bít.
\v 14 Ông cướp mọi đồ dùng bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Giê-hô-va, cùng những thứ giá trị trong hoàng cung, ông bắt con tin, rồi quay về Sa-ma-ri.
\s5
\v 15 Về những việc khác của Giê-hô-ách, tất cả những việc ông làm, sức mạnh của ông, và cách ông đánh A-ma-xi-a vua Giu-đa, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 16 Vậy Giê-hô-ách an giấc cùng tổ phụ và được chôn tại Sa-ma-ri chung với các vua Y-sơ-ra-ên, Giê-rô-bô-am con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 17 A-ma-xia con trai Giô-ách, vua Giu-đa, sống thêm mười lăm năm sau khi Giê-hô-ách con Giê-hô-a-ha, vua Y-sơ-ra-ên băng hà.
\v 18 Về những việc khác của A-ma-xia, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 19 Người ta lập mưu phản A-ma-xia tại Giê-ru-sa-lem, nên ông trốn đến La-kích. Nhưng họ sai người đuổi theo ông đến La-kích và giết ông tại đó.
\s5
\v 20 Họ lấy ngựa chở xác ông về và chôn chung với các tổ phụ tại thành Đa-vít.
\v 21 Toàn dân Giu-đa tôn U-xi-a, một người mới mười sáu tuổi, lên làm vua kế vị cha ông là A-ma-xia.
\v 22 Chính U-xi-a là người tái xây dựng Ê-lốt và thu hồi cho Giu-đa, sau khi Vua A-ma-xia an giấc với các tổ phụ.
\s5
\v 23 Năm thứ mười lăm đời A-ma-xia con trai Giô-ách, vua Giu-đa, Giê-rô-bô-am con Giê-hô-ách lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông cai trị bốn mươi mốt năm.
\v 24 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\v 25 Ông phục hồi biên giới Y-sơ-ra-ên từ Lê-bô Ha-mát đến biển A-ra-ba, y theo lời của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán qua tiên tri Giô-na con của A-mi-tai, người ở Gát Hê-phe.
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va thấy sự đau khổ của Y-sơ-ra-ên, ai nấy cũng cảm thấy thật cay đắng, cả nô lệ và tự chủ, và chẳng có ai giải cứu Y-sơ-ra-ên.
\v 27 Vậy Đức Giê-hô-va nói rằng Ngài sẽ không xóa danh Y-sơ-ra-ên dưới trời; trái lại, Ngài giải cứu họ khỏi tay Giê-rô-bô-am con trai Giê-hô-ách.
\s5
\v 28 Về những việc khác của Giê-rô-bô-am, các việc ông làm, quyền lực của ông, và cách ông đánh trận thu hồi Đa-mách và Ha-mát về cho Y-sơ-ra-ên, vốn thuộc về Giu-đa, chẳng phải đều được viết trong Sách Sự kiện của Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 29 Giê-rô-bô-am an giấc cùng tổ phụ, tức các vua Y-sơ-ra-ên. Xa-cha-ri con trai ông lên kế vị.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Năm thứ hai mươi bảy trong đời Giê-rô-bô-am vua Y-sơ-ra-ên, A-xa-ria con trai A-ma-xia, vua Giu-đa, lên ngôi vua.
\v 2 A-xa-ria được mười sáu tuổi khi lên ngôi. Ông trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-cô-lia, người Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi gương thân phụ ông là A-ma-xia, và làm y như vậy.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, các điện thờ không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn tế lễ và đốt hương tại đó.
\v 5 Đức Giê-hô-va giáng sự đau đớn trên vua đến nỗi ông bị phung và phải sống trong nhà riêng cho đến ngày ông băng hà. Giô-tham, con trai ông, lên kế vị và cai trị dân trong xứ.
\s5
\v 6 Về những việc khác của A-xa-ria, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 7 Vậy A-xa-ria an giấc cùng tổ phụ mình; người ta chôn ông chung với các tổ phụ ông trong thành Đa-vít. Giô-tham, con trai ông, lên kế vị.
\s5
\v 8 Năm thứ ba mươi tám trong đời A-xa-ria, vua Giu-đa, Xa-cha-ri con trai Giê-rô-bô-am cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri trong sáu tháng.
\v 9 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va như các tổ phụ đã làm. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con Nê-bát, tức những tội ông ấy đã xui cho Y-sơ-ra-ên phạm.
\s5
\v 10 Sa-lum con trai Gia-bết lập mưu phản Xa-cha-ri, tấn công ông trước mặt dân sự, rồi giết ông. Sau đó ông lên làm vua thế cho Xa-cha-ri.
\v 11 Về những việc khác của Xa-cha-ri, tất cả đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Y-sơ-ra-ên.
\v 12 Này là lời Đức Giê-hô-va đã phán với Giê-hu, “Con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngai Y-sơ-ra-ên đến đời thứ tư. ” Vậy điều đó đã xảy ra.
\s5
\v 13 Sa-lum con trai Gia-bết lên ngôi vua vào năm thứ ba mươi chín trong đời A-xa-ria vua Giu-đa, ông chỉ cai trị được một tháng tại Sa-ma-ri.
\v 14 Mê-na-hem con trai Ga-đi từ Tiệt-xa đem quân lên Sa-ma-ri. Ông đánh Sa-lum con Gia-bết tại Sa-ma-ri. Ông giết Sa-lum và lên ngôi thế vị.
\s5
\v 15 Về những việc khác của Sa-lum và âm mưu mà ông lập, tất cả đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
\v 16 Sau đó Mê-na-hem tấn công Típ-sa và dân cư tại đó, và tấn công các vùng biên giới quanh Tiệt-xa, vì họ không mở cửa thành tiếp đón ông. Do đó ông tấn công thành ấy và mổ bụng tất cả phụ nữ mang thai.
\s5
\v 17 Năm thứ ba mươi chín trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Mê-na-hem con trai Ga-đi lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên; ông trị vì mười năm tại Sa-ma-ri.
\v 18 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Trong trọn đời ông, ông không từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\v 19 Sau đó, Pun, vua A-si-ri tấn công xứ, Mê-na-hem trao cho Pun một ngàn ta-lâng bạc, để Pun giúp ông củng cố vương quốc Y-sơ-ra-ên trong tay mình.
\v 20 Mê-na-hem lấy tiền thu từ dân Y-sơ-ra-ên bằng cách yêu cầu mỗi người giàu phải đóng năm mươi siếc-lơ bạc để ông đặng cống nạp cho vua A-si-ri. Vậy vua A-si-ri trở về và không ở lại trong xứ.
\s5
\v 21 Về những việc khác của Mê-na-hem, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
\v 22 Mê-na-hem an giấc cùng tổ phụ mình, Phê-ca-hia con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 23 Năm thứ năm mươi trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Phê-ca-hia con trai Mê-na-hem lên cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì được hai năm.
\v 24 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, tức những tội mà ông đã xui Y-sơ-ra-ên phạm.
\s5
\v 25 Pê-ca con trai Rê-ma-lia, thủ lĩnh dưới quyền Phê-ca-hia, lập mưu hại ông và giết ông với Ạc-gốp và A-ri-ê tại Sa-ma-ri, trong thành lũy của hoàng cung. Năm mươi người Ghi-lê-át đi với ông. Ông giết Phê-ca-hivà lên ngôi thay thế.
\v 26 Về những việc khác của Phê-ca-hia, mọi việc ông làm, đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 27 Năm thứ năm mươi hai trong đời A-xa-ri-a vua Giu-đa, Pê-ca con trai Rê-ma-lia lên ngôi cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri; ông trị vì được hai mươi năm.
\v 28 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, là người đã xui Y-sơ-ra-ên phạm tội.
\s5
\v 29 Trong thời của Pê-ca, vua Y-sơ-ra-ên, Tích-lát Phi-lê-se vua A-si-ri đến chiếm Y-giôn, A-bên Bết-mê-a-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Ha-xơ, Ghi-lê-át, Ga-li-lê, và toàn miền Nép-ta-li. Ông bắt dân ở đó đem về A-si-ri.
\v 30 Hô-sê-a con trai Ê-la lập mưu phản Pê-ca con trai Rê-ma-lia. Ông tấn công Pê-ca và giết vua. Sau đó ông lên ngôi vua thay thế Pê-ca vào năm thứ hai mươi trong đời Giô-tham con trai A-xa-ria.
\v 31 Về những việc khác của Pê-ca, mọi việc ông làm, đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 32 Năm thứ nhì trong đời Pê-ca con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, Giô-tham con trai A-xa-ria vua Giu-đa, lên ngôi cai trị.
\v 33 Ông được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi; ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc.
\s5
\v 34 Giô-tham làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông noi gương mọi việc mà A-xa-ria, phụ vương ông đã làm.
\v 35 Tuy nhiên, các điện thờ không bị dẹp bỏ. Dân sự vẫn tế lễ và đốt hương ở các điện thờ đó. Giô-tham xây cổng trên trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 36 Về những việc khác của Giô-tham, mọi việc ông làm, chẳng phải được chép trong Sách Sử ký của các Vua Giu-đa sao?
\v 37 Trong thời đó, Đức Giê-hô-va bắt đầu sai Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con trai Rê-ma-lia đến đánh Giu-đa.
\v 38 Giô-tham an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn cùng các tổ phụ trong thành Đa-vít, tổ phụ ông. A-ha, con trai ông, lên kế vị.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Năm thứ mười bảy trong đời Pê-ca con trai Rê-ma-lia, A-cha con trai Giô-tham, vua Giu-đa, lên làm vua.
\v 2 A-cha được hai mươi tuổi khi lên ngôi, ông cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông không làm điều thiện trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông, như Đa-vít, tổ phụ ông đã làm.
\s5
\v 3 Trái lại, ông đi theo con đường của các vua Y-sơ-ra-ên; thật vậy, ông dùng con trai ông làm của lễ thiêu qua lửa, bắt chước những thói tục ghê tởm của các dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khuất mắt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Ông dâng lễ vật và đốt hương ở các nơi cao, trên đồi, và dưới gốc cây.
\s5
\v 5 Sau đó, Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, kéo quân lên đánh Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-cha, nhưng không thể chế ngự được ông.
\v 6 Khi ấy, Rê-xin vua A-ram lấy lại Ê-la cho A-ram rồi đuổi người Giu-đa ra khỏi Ê-la. Vậy dân A-ram đến ở tại Ê-la cho đến ngày nay.
\s5
\v 7 A-cha sai sứ giả đến gặp Tích-lát Phi-lê-se, nói rằng, “Tôi là bầy tôi và là con trai của vua. Xin vua đi lên giải cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua Y-sơ-ra-ên, là những kẻ tấn công tôi. ”
\v 8 Vậy A-cha lấy bạc và vàng trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong các kho tàng của hoàng cung rồi làm lễ vật dâng cho vua A-si-ri.
\v 9 Vua A-si-ri nghe lời ông và đi lên đánh Đa-mách, chinh phục thành ấy và bắt dân trong thành làm tù binh đem qua Ki-rơ. Ông cũng giết Rê-xin vua A-ram.
\s5
\v 10 Vua A-cha đến Đa-mách đặng gặp Tích-lát Phi-lê-se, vua A-si-ri. Tại Đa-mách, ông thấy một bàn thờ. Ông gửi cho thầy tế lễ U-ri mô hình của bàn thờ, kiểu mẫu và thiết kế của bàn thờ ấy để làm một cái giống vậy.
\v 11 Thầy tế lễ U-ri làm một bàn thờ theo các kiểu mẫu mà Vua A-cha đã gửi từ Đa-mách. Ông làm xong bàn thờ đó trước khi Vua A-ha từ Đa-mách trở về.
\v 12 Khi trở về từ Đa-mách, vua thấy bàn thờ; ông đến bàn thờ và dâng lễ vật trên đó.
\s5
\v 13 Ông dâng của lễ thiêu và của lễ chay, đổ ra của lễ quán, và rảy huyết của lễ thù ân trên bàn thờ.
\v 14 Còn bàn thờ đồng ở trước mặt Đức Giê-hô-va vốn ở phía trước đền thờ, nghĩa là giữa bàn thờ của ông và đền thờ Đức Giê-hô-va rồi, ông cho di dời và đặt ở phía bắc bàn thờ mới làm.
\s5
\v 15 Sau đó, Vua A-cha ra lệnh thầy tế lễ U-ri, “Bàn thờ lớn dùng để dâng của lễ thiêu vào buổi sáng và của lễ chay vào buổi chiều, của lễ thiêu và của lễ chay của vua, cùng với của lễ thiêu của toàn dân trong xứ, của lễ chay và của lễ quán của họ. Hãy rảy lên đó huyết của của lễ thiêu và huyết của con sinh tế. Còn bàn thờ đồng sẽ được ta dùng để cầu vấn Đức Chúa Trời giúp đỡ. ”
\v 16 Thầy tế lễ U-ri làm theo lệnh Vua A-cha.
\s5
\v 17 Sau đó, Vua A-cha dời bỏ các tấm trám và chậu khỏi trụ nâng; ông cũng gỡ cái biển ra khỏi con bò đực bằng đồng bên dưới và đặt lên một mặt lát bằng đá.
\v 18 Vì cớ vua A-si-ri, ông dỡ bỏ lối đi có mái hiên dành cho ngày Sa-bát mà người ta đã xây trong đền thờ, cùng với lối vào đặc biệt dành cho vua bên ngoài đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Về những việc khác của A-ha và những việc ông đã làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sử ký của các Vua Giu-đa sao?
\v 20 A-cha an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ ông trong thành Đa-vít. Hê-xê-kia con trai ông lên kế vị.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Năm thứ mười hai đời A-cha vua Giu-đa, Hô-sê-a con Ê-la lên ngôi vua. Ông cai trị Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri được chín năm.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không bằng các vua Y-sơ-ra-ên ở đời trước.
\v 3 Sanh-ma-na-se vua A-si-ri kéo quân đến đánh Hô-sê-a, ông trở thành chư hầu của vua A-si-ri và phải cống nạp.
\s5
\v 4 Sau đó, vua A-si-ri biết Hô-sê-a đang lập mưu phản ông, vì Hô-sê-a có sai các sứ giả đến gặp Sô, vua Ai Cập; ngoài ra, ông ấy không nộp triều cống cho vua A-si-ri như những năm trước. Vậy vua A-si-ri bắt Hô-sê-a và bỏ tù ông.
\v 5 Khi đó vua A-si-ri kéo quân đánh cả xứ, tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy trong ba năm.
\v 6 Năm thứ chín đời Hô-sê-a, vua A-si-ri chiếm Sa-ma-ri và bắt dân Y-sơ-ra-ên qua A-si-ri. Ông để họ sống tại Ha-la, bên Sông Ha-bơ ở Gô-xan, và trong các thành của người Mê-đi.
\s5
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên bị bắt làm phu tù vì họ đã phạm tội nghịch Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, tức ra khỏi quyền cai trị của Pha-ra-ôn vua Ai Cập. Dân sự đã thờ lạy các thần khác
\v 8 và bắt chước thói tục của các vua Y-sơ-ra-ên trước.
\s5
\v 9 Dân Y-sơ-ra-ên lén lút phạm tội trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Họ xây điện thờ trong tất cả các thành phố, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
\v 10 Họ cũng dựng trụ thờ bằng đá và trụ thờ thần A-sê-ra trên các đồi cao và dưới gốc cây.
\s5
\v 11 Họ đốt hương ở các điện thờ, như các dân khác hay làm, tức là những dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi trước mặt họ. Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác khiến Đức Giê-hô-va nổi giận;
\v 12 họ thờ thần tượng, phạm điều mà Đức Giê-hô-va đã phán, “Các ngươi chớ làm như vậy.”
\s5
\v 13 Nhưng Đức Giê-hô-va đã dùng các nhà tiên kiến và tiên tri tỏ cho Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng, “Hãy từ bỏ đường lối gian ác của các ngươi, giữ điều răn và mạng lệnh Ta, cẩn thận giữ luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi và tôi tớ Ta là các tiên tri do Ta sai đến.”
\s5
\v 14 Tuy nhiên họ không nghe; trái lại, họ rất cứng đầu như tổ phụ họ, tức những người không tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 15 Họ từ bỏ mạng lệnh và giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ họ, và khinh bỉ giao ước mà Ngài đã ban cho họ. Họ làm theo những thói tục vô ích và chính họ trở nên vô dụng. Họ bắt chước các dân ngoại giáo xung quanh họ, là những dân mà Đức Giê-hô-va đã bảo họ chớ bắt chước.
\s5
\v 16 Họ từ bỏ mọi điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời họ. Họ lấy kim loại đúc thành hai tượng bò để thờ lạy. Họ dựng một trụ thờ thần A-sê-ra, và thờ lạy các tinh tú trên trời và Ba-anh.
\v 17 Họ tế con trai và con gái họ qua lửa, họ theo bói toán và bùa ếm, phó chính mình họ vào sự làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, khiến Ngài nổi giận.
\v 18 Do đó, Đức Giê-hô-va rất giận Y-sơ-ra-ên và đuổi họ khuất mắt Ngài, không còn một ai ngoại trừ chi phái Giu-đa.
\s5
\v 19 Thậm chí Giu-đa không giữ điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nhưng trái lại, họ theo các thói tục ngoại giáo như Y-sơ-ra-ên đã phạm.
\v 20 Vậy Đức Giê-hô-va từ bỏ tất cả con cháu Y-sơ-ra-ên; Ngài giáng họa trên họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt họ cho đến khi Ngài đã đuổi họ khuất mắt Ngài.
\s5
\v 21 Ngài xé Y-sơ-ra-ên khỏi dòng dõi hoàng tộc của Đa-vít, họ lập Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát lên làm vua. Giê-rô-bô-am dẫn Y-sơ-ra-ên đi xa khỏi Đức Giê-hô-va và xui cho họ phạm tội lỗi lớn.
\v 22 Dân Y-sơ-ra-ên bắt chước mọi tội lỗi của Giê-rô-bô-am và không từ bỏ chúng,
\v 23 vì vậy Đức Giê-hô-va loại bỏ họ khỏi mắt Ngài, như Ngài đã cậy các tôi tớ và tiên tri Ngài phán rằng Ngài sẽ làm điều ấy. Do đó, Y-sơ-ra-ên bị lưu đày sang A-si-ri cho đến ngày nay.
\s5
\v 24 Vua A-si-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cu-tha, A-va, Ha-mát và Sê-phạt-va-im, đặt trong các thành ở Sa-ma-ri thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm Sa-ma-ri và sống trong các thành ở đó.
\v 25 Khi bắt đầu định cư tại đó, họ không tôn kính Đức Giê-hô-va. Vì vậy, Đức Giê-hô-va sai sư tử đến giết họ.
\v 26 Họ tâu với vua A-si-ri rằng, “Các dân mà bệ hạ đã bắt và đặt trong các thành ở Sa-ma-ri không biết tục lệ thờ thần ở xứ đó. Do đó thần ấy đã sai sư tử đến giết họ vì họ không biết cách thờ thần ở đó.”
\s5
\v 27 Vua A-si-ri ra lệnh, “Hãy chọn một trong các thầy tế lễ mà các ngươi đã bắt về, hãy cho người ấy đến sống tại đó và dạy họ giữ các tục thờ thần trong xứ. ”
\v 28 Vậy một trong các thầy tế lễ mà họ đã bắt khỏi Sa-ma-ri được đưa đến sống tại Bê-tên; ông dạy họ cách tôn kính Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 29 Mỗi dân trong các thành ấy dựng thần cho riêng mình, đặt chúng ở các điện thờ mà người Sa-ma-ri đã xây.
\v 30 Dân Ba-by-lôn dựng thần Su-cốt Bê-nốt; dân Cút dựng thần Nẹt-ganh; dân Ha-mát dựng thần A-si-ma;
\v 31 dân A-vít dựng thần Níp-ha và Tạt-tác; và dân Sê-phạt-va-im thiêu con cái họ bằng lửa cho A-tra-mê-léc và A-na-mê-léc, là các thần của người Sê-phạt-va-im.
\s5
\v 32 Họ cũng tôn kính Đức Giê-hô-va, và chọn ra các thầy tế lễ tại các nơi cao để dâng tế lễ thay họ trong các chùa miễu ở các điện thờ.
\v 33 Họ tôn kính Đức Giê-hô-va và cũng thờ lạy các thần của họ, theo phong tục của các nước đã bị dời đi.
\s5
\v 34 Họ vẫn giữ những thói tục cũ đó cho đến nay. Họ không tôn kính Đức Giê-hô-va, không làm theo các giới mạng, sắc lệnh, luật pháp, hoặc điều răn mà Đức Giê-hô-va đã ban cho con cháu Gia-cốp là người mà Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên
\v 35 và với dân mà Đức Giê-hô-va đã lập giao ước và truyền rằng, “Các ngươi chớ sợ các thần khác, cũng đừng quỳ lạy chúng, thờ lạy chúng, dâng tế lễ cho chúng.
\s5
\v 36 Nhưng Đức Giê-hô-va, Đấng đã đưa tay đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập bằng đại quyền, là Đấng mà các ngươi phải tôn kính; chính Ngài là Đấng các ngươi phải phủ phục, và chính Ngài là Đấng các ngươi phải dâng lễ vật.
\v 37 Các ngươi phải giữ những giới mạng, sắc lệnh, luật pháp và điều răn Ngài đã viết cho các ngươi. Vậy các ngươi chớ sợ các thần khác,
\v 38 và chớ quên giao ước Ta đã lập với các ngươi; cũng đừng tôn kính các thần khác.
\s5
\v 39 Nhưng các ngươi phải tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi sức mạnh của kẻ thù nghịch. ”
\v 40 Họ không chịu nghe, vì họ cứ tiếp tục phạm tội như trước.
\v 41 Vậy các dân này kính sợ Đức Giê-hô-va và cũng thờ lạy các tượng thần của họ, con cái họ cũng làm y như vậy và con cháu họ cũng chẳng khác họ. Họ vẫn phạm tội như tổ phụ mình, cho đến ngày nay.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Bấy giờ vào năm thứ ba trong đời Hô-sê-a con trai Ê-la, vua Y-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con trai A-cha, vua Giu-đa lên làm vua.
\v 2 Ông lên ngôi khi được hai mươi lăm tuổi; ông cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi-gia, con gái Xa-cha-ri.
\v 3 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi gương Đa-vít, tổ phụ ông đã làm.
\s5
\v 4 Ông dẹp bỏ các điện thờ, hủy phá các cột thờ bằng đá, và đốn hạ trụ thờ thần A-sê-ra. Ông đập vỡ con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm, vì trong ngày đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn dâng hương cho nó; người ta gọi nó là “Nê-hu-tan”.
\v 5 Ê-xê-chia tin cậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đến nỗi sau ông và trước ông chẳng có vua Giu-đa nào giống ông.
\s5
\v 6 Ông nương cậy Đức Giê-hô-va. Ông không từ bỏ Ngài nhưng giữ điều răn Ngài, tức những điều Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\v 7 Vậy Đức Giê-hô-va ở cùng Ê-xê-chia, khiến ông được thạnh vượng ở bất cứ nơi nào ông đến. Ông chống nghịch vua A-si-ri và không thần phục vua ấy.
\v 8 Ông đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và các vùng biên giới, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
\s5
\v 9 Năm thứ tư đời Vua Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy đời Hô-sê-a con Ê-la vua Y-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-si-ri đi lên tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy.
\v 10 Cuối ba năm, họ chiếm được thành, tức năm thứ sáu trong đời Ê-xê-chia, và năm thứ chín trong đời Hô-sê-a vua Y-sơ-ra-ên; như vậy Sa-ma-ri thất thủ.
\s5
\v 11 Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên qua A-si-ri và cho họ ở tại Ha-la, bên Sông Ha-bơ ở Gô-xan, và trong các thành của dân Mê-đi.
\v 12 Sở dĩ như vậy là vì họ không vâng theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời họ, họ vi phạm giao ước Ngài, vi phạm tất cả mọi điều mà Môi-se tôi tớ Ngài đã truyền. Họ không nghe và làm theo.
\s5
\v 13 Năm thứ mười bốn trong đời Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-si-ri đánh tất cả các thành trì kiên cố của Giu-đa và chiếm chúng.
\v 14 Vậy Ê-xê-chia vua Giu-đa sai người gửi lời đến vua A-si-ri khi vua đang ở tại La-kích, “Tôi đã xúc phạm vua. Xin hãy lui binh. Vua muốn chi tôi cũng chịu. ” Vua A-si-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa trả ba trăm ta-lâng bạc và ba mươi ta-lâng vàng.
\v 15 Vua Ê-xê-chia đưa cho vua ấy bạc được tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va và trong các kho tàng của hoàng cung.
\s5
\v 16 Sau đó, Ê-xê-chia gỡ vàng trên các cánh cửa đền thờ Đức Giê-hô-va và khỏi các trụ mà ông đã cẩn; ông trao vàng cho vua A-si-ri.
\v 17 Nhưng vua A-si-ri huy động một lực lượng quân đội lớn, sai Tạc-tan và Ráp-sa-ri là chỉ huy trưởng từ La-kích sang gặp Vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên theo các ngã đường và dừng lại ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Họ đến kênh dẫn nước của hồ thượng, chỗ dẫn đến cánh đồng của thợ nện rồi đứng đó.
\v 18 Khi đã yêu cầu được gặp Vua Ê-xê-chia, Ê-li-a-lim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, và quan thư ký Sép-na, cùng Giô-a con A-sáp quan thái sử, ra gặp họ.
\s5
\v 19 Quan chỉ huy bảo họ tâu với Ê-xê-chia về lời của đại đế A-si-ri, “Các ngươi dựa vào đâu mà tin?
\v 20 Các ngươi chỉ nói những lời vô bổ, cho là có quân đồng minh và sức mạnh để tranh chiến. Bây giờ các ngươi trông cậy ai? Ai cho các ngươi có lòng can đảm đặng chống nghịch ta?
\v 21 Kìa, các ngươi tin cây sậy gãy của Ai Cập, nhưng nếu ai dựa vào nó, sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Đây là sự thật về Pha-ra-ôn vua Ai Cập đối với kẻ nào tin cậy hắn.
\s5
\v 22 Nhưng nếu các ngươi tâu với ta, Chúng tôi tin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, phải chăng đó không phải là Đấng mà Ê-xê-chia đã dẹp các điện thờ và bàn thờ, và bảo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng, Các ngươi chỉ thờ lạy Ngài trước bàn thờ này tại Giê-ru-sa-lem sao?
\v 23 Vậy bây giờ, ta có một lời đề nghị tốt đẹp dành cho các ngươi từ chủ ta là vua A-si-ri. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi kiếm đủ người cưỡi chúng.
\s5
\v 24 Làm thế nào các ngươi có thể nhờ cậy các xe chiến mã và kỵ binh Ai Cập để chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ Ta chăng?
\v 25 Chẳng phải bởi Đức Giê-hô-va mà ta đã đến đây đặng đánh và hủy diệt sao? Đức Giê-hô-va phán với ta, Hãy tấn công xứ này và diệt nó. ’”
\s5
\v 26 Sau đó Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, cùng Sép-na và Giô-a nói với quan tổng tư lệnh, “Xin hãy nói với tôi tớ các ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu. Chớ nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa kẻo dân chúng trên tường thành nghe.
\v 27 Nhưng quan tổng tư lệnh trả lời họ, “Có phải chủ ta đã sai ta gến gặp chủ các ngươi và nói những lời này chăng? Ông ấy không sai ta đến gặp những người ngồi trên tường thành, tức những người sẽ phải ăn phân và uống nước tiểu của họ với các ngươi sao?”
\s5
\v 28 Quan chỉ huy đứng dậy và kêu lên lớn tiếng bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời của đại đế, vua A-si-ri.
\v 29 Vua bảo, “Chớ để Ê-xê-chia lừa dối các ngươi, vì ông ấy không thể cứu các ngươi khỏi quyền lực ta.
\v 30 Chớ để Ê-xê-chia dụ các ngươi tin Đức Giê-hô-va, rằng, Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta; thành này sẽ không bị vua A-si-ri chiếm. ’”
\s5
\v 31 Chớ nghe lời Ê-xê-chia, vì đây là lời vua A-si-ri bảo: Hãy lập hòa ước với ta và ra đây. Sau đó mỗi người sẽ ăn trong vườn nho và vườn vả và uống nước giếng mình.
\v 32 Các ngươi sẽ sống như vậy cho đến khi ta đến đem các ngươi qua xứ giống xứ các ngươi, là xứ có lúa mạch và rượu mới, một xứ đầy bánh và vườn dâu, một xứ có cây ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết. Chớ nghe lời Ê-xê-chia khi hắn thuyết phục các ngươi rằng, Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta.
\s5
\v 33 Có thần nào của các dân đó cứu họ khỏi quyền lực vua A-si-ri chưa?
\v 34 Các thần của Ha-mát và Ạc-phát đâu rồi? Các thần của Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va đâu rồi? Chúng có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta không?
\v 35 Trong số các thần trong xứ, có thần nào đã giải cứu xứ của họ ra khỏi quyền lực ta? Làm sao Đức Giê-hô-va có thể cứu Giê-ru-sa-lem ra khỏi quyền lực ta?”
\s5
\v 36 Nhưng dân sự làm thinh và không trả lời nào cả, vì vua đã ra lệnh, “Chớ trả lời hắn. ”
\v 37 Vậy Ê-lê-a-kim con Hinh-kia, quan tổng trưởng hoàng cung; thư ký Sép-na, Giô-a con trai A-sáp, đến gặp Ê-xê-chia, họ xé quần áo và thuật lại cho ông những lời của quan chỉ huy.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Khi vua Ê-xê-chia nghe báo cáo, ông xé quần áo, mặc áo vải gai, rồi vào đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 2 Ông sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, và quan thư ký Sép-na, cùng các thầy tế lễ trưởng, tất cả đều mặc áo vải gai, đến gặp tiên tri Ê-sai con A-mốt.
\s5
\v 3 Họ thưa rằng, “Ê-xê-chia có nói, Hôm nay là ngày đau buồn, khiển trách, và ô nhục, vì đã đến lúc con trẻ được sinh ra, nhưng người mẹ không đủ sức để sinh.
\v 4 Có thể Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ nghe mọi lời của quan tổng tư lệnh mà chủ hắn là vua A-si-ri đã sai đến đặng thách đố Đức Chúa Trời hằng sống, và sẽ khiển trách những lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe. Vậy bây giờ xin ông cầu nguyện cho những người còn sót lại ở đây. ’”
\s5
\v 5 Các quần thần của Vua Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai,
\v 6 và Ê-sai bảo họ, “Hãy nói với chủ các ông: Đức Giê-hô-va phán, “Chớ sợ những lời các ngươi vừa nghe, tức những lời mà tôi tớ vua A-si-ri đã sỉ nhục Ta.
\v 7 Này, Ta sẽ đặt một thần trong nó, nó sẽ nghe một tin đồn và rút về xứ nó. Ta sẽ khiến nó ngã bởi gươm trong xứ nó. ’””
\s5
\v 8 Sau đó, quan tổng tư lệnh trở lại và thấy vua A-si-ri đang đánh Líp-na, vì ông có nghe rằng vua đã rời khỏi La-kích.
\v 9 San-chê-ríp hay rằng Tiệt-ha-ca vua Ê-thi-ô-pi và Ai Cập đã động binh đánh ông, do đó ông lại sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia:
\s5
\v 10 ”Hãy tâu với Ê-xê-chia vua Giu-đa, Chớ để Đức Chúa Trời mà ngươi tin lừa dối ngươi mà nói rằng, “Giê-ru-sa-lem sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri. ”
\v 11 Kìa, ngươi đã nghe những gì vua A-si-ri làm cho mọi nước khi tiêu diệt tất cả bọn chúng. Vậy ngươi sẽ được cứu chăng?
\s5
\v 12 Các thần của các dân có cứu chúng không, tức là các dân mà tổ phụ ta đã diệt: Gô-xan, Ha-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa?
\v 13 Vua Ha-mát, vua Ạc-pát, vua của các thành ở Sê-phạt-va-im, Hê-na, và Y-va đâu rồi? ’”
\s5
\v 14 Ê-xê-chia nhận thư từ các sứ giả và đọc. Sau đó ông đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va và mở thư ấy ra trước mặt Ngài.
\v 15 Ê-xê-chia nguyện cầu Đức Giê-hô-va rằng, “Lạy Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngự trên các chê-ru-bim, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời trên mọi nước trong thế gian này. Ngài đã dựng nên trời và đất.
\s5
\v 16 Lạy Đức Giê-hô-va, xin nghiêng tai và nghe tiếng con. Lạy Đức Giê-hô-va, xin Chúa mở mắt, nhìn, và nghe lời nói của San-chê-ríp, là những lời hắn đã dùng để nhạo báng Đức Chúa Trời hằng sống.
\v 17 Thật vậy, thưa Đức Giê-hô-va, các vua A-si-ri đã diệt các dân và các xứ.
\v 18 Chúng quăng các thần của họ vào lửa, vì các thần đó không phải là thần, chúng chỉ là công việc do tay người làm ra bằng gỗ và đá. Vậy dân A-si-ri đã diệt chúng.
\s5
\v 19 Bây giờ, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, con cầu xin Ngài giải cứu chúng con khỏi quyền lực vua ấy, để mọi vương quốc trên đất đều biết rằng Ngài, Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời duy nhất.”
\s5
\v 20 Ê-sai con A-mốt sai một sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, nói rằng, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán, Vì ngươi đã nguyện cầu lên Ta về San-chê-ríp vua A-si-ri, nên Ta đã nghe ngươi.
\v 21 Này là lời Đức Giê-hô-va phán về nó: “Trinh nữ Si-ôn sẽ khinh bỉ ngươi và nhạo báng ngươi. Con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu về ngươi.
\v 22 Ngươi đã thách đố và sỉ nhục ai? Ngươi đã lên giọng và nhướng mắt kiêu ngạo chống lại ai? Đó là chống lại Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên!
\s5
\v 23 Ngươi đã dùng các sứ giả của ngươi để thách đố Chúa, và nói rằng, Với đội xe chiến mã, ta đã lên tận các đỉnh núi, đến những nơi cao nhất ở Li-băng. Ta sẽ hạ những cây tuyết tùng cao ngất và cây linh sam tốt nhất, ta sẽ đến tận những nơi xa nhất, vào tận rừng rậm thâm u.
\v 24 Ta đã đào giếng và uống nước ở xứ xa lạ. Ta đã làm khô mọi sông ngòi ở Ai Cập dưới chân ta.
\s5
\v 25 Ngươi không biết là Ta đã định từ lâu và thực hiện từ thời cổ đại sao? Bây giờ Ta sẽ thực hiện. Ngươi đến đây để phá các thành trì vững chắc thành những đống hoang tàn.
\v 26 Cư dân ở đó yếu sức, bị đánh tản lạc và xấu hổ. Chúng là thực vật trên đồng, là cỏ xanh, cỏ mọc trên mái hay ngoài đồng, bị đốt trước khi lớn lên.
\s5
\v 27 Nhưng Ta biết khi ngươi ngồi, lúc ngươi đi ra đi vào, và cơn giận của ngươi nghịch lại Ta.
\v 28 Vì cớ cơn giận của ngươi đối với Ta, và vì lòng ngạo mạn ngươi đã thấu đến tai Ta, Ta sẽ xỏ khoen vào mũi ngươi, tra hàm thiếc vào miệng ngươi; Ta sẽ bắt ngươi trở về con đường ngươi đi.”
\s5
\v 29 Này là dấu hiệu cho ngươi: Năm nay ngươi sẽ ăn vật chi mọc tự nhiên, năm sau ngươi sẽ ăn thứ lớn lên từ đó. Nhưng năm thứ ba ngươi phải trồng trọt và thu hoạch, trồng vườn nho và ăn trái trong đó.
\v 30 Những gì còn sót lại của nhà Giu-đa sẽ đâm rễ và ra trái.
\v 31 Vì từ Giê-ru-sa-lem sẽ ra những người còn sống sót, từ Núi Si-ôn sẽ ra những người sống sót. Lòng hăng hái của Đức Giê-hô-va sẽ làm việc ấy.
\s5
\v 32 Vậy Đức Giê-hô-va phán về vua A-si-ri: “Nó sẽ không vào thành này hoặc bắn mũi tên nào vào đây. Nó sẽ không cầm khiên đến trước thành hoặc xây lũy tấn công.
\v 33 Nó sẽ trở về bằng con đường nó đã đi; nó sẽ không vào thành này. Đây là lời tuyên bố của Đức Giê-hô-va. ”
\v 34 Vì Ta sẽ bảo vệ thành này và giải cứu nó, vì cớ danh Ta và vì tôi tớ Ta là Đa-vít.”
\s5
\v 35 Trong đêm đó, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi ra và tấn công trại quân A-si-ri, giết 185. 000 người. Sáng sớm hôm sau người ta thức dậy thấy xác chết nằm la liệt khắp nơi.
\v 36 Vậy San-chê-ríp vua A-si-ri rời khỏi Y-sơ-ra-ên và trở về nhà tại Ni-ni-ve.
\v 37 Sau đó, khi ông đang thờ lạy trong đền Nít-róc, thần của ông, thì các con trai ông là A-tra-mê-léc và Sa-rê-xe dùng gươm giết ông. Họ chạy trốn qua xứ A-ra-rát. Sau đó Ê-sạt-ha-đôn con trai ông lên ngôi thế vị.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Trong những ngày đó, Ê-xê-chia lâm bệnh đến nỗi gần chết. Tiên tri Ê-sai con A-mốt đến gặp ông và tâu rằng, “Đức Giê-hô-va phán, Hãy dàn xếp việc nhà của ngươi; vì ngươi sẽ chết. ’”
\v 2 Nghe xong, Ê-xê-chia quay mặt vào tường và nguyện cầu Đức Giê-hô-va,
\v 3 “Lạy Đức Giê-hô-va, xin Ngài nhớ lại là con đã trung tín trọn lòng bước đi trước mặt Ngài thể nào, và làm điều thiện trước mặt Ngài ra sao. ” Rồi Ê-xê-chia khóc lớn tiếng.
\s5
\v 4 Trước khi Ê-sai đi vào giữa sân đền thờ, Đức Giê-hô-va bảo ông,
\v 5 “Hãy quay lại và nói với Ê-xê-chia, người lãnh đạo dân Ta, Này là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ vua, phán: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, Ta đã thấy những giọt nước mắt của ngươi. Ta sẽ chữa lành ngươi vào ngày thứ ba, rồi ngươi sẽ đi lên đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm, Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này khỏi quyền lực của vua A-si-ri, và Ta sẽ bảo vệ thành này vì cớ Ta và tôi tớ Ta là Đa-vít. ”’”
\v 7 Ê-sai bảo, “Hãy làm một bánh trái vả. ” Họ làm bánh đó và đặt nó lên chỗ sưng nhọt của ông thì ông được lành.
\s5
\v 8 Ê-xê-chia bảo Ê-sai, “Dấu hiệu nào cho biết Đức Giê-hô-va sẽ chữa lành ta, và dấu hiệu nào tỏ ra rằng ta sẽ lên đền thờ Đức Giê-hô-va vào ngày thứ ba? ”
\v 9 Ê-sai trả lời, “Này là dấu hiệu của Đức Giê-hô-va dành cho vua, Đức Giê-hô-va sẽ thực hiện lời Ngài phán. Bóng sẽ ngã tới mười bước, hay lùi về mười bước?”
\s5
\v 10 Ê-xê-chia trả lời, “Bóng ngã tới mười bước thì dễ quá. Không, hãy cho bóng lùi lại mười bước. ”
\v 11 Vậy tiên tri Ê-sai kêu cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài khiến cho bóng lùi về mười bước, kể từ chỗ bóng đã di chuyển trên bậc thang A-cha.
\s5
\v 12 Khi đó, Bê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-bi-lôn, gửi thư và quà cho Ê-xê-chia, vì ông có nghe rằng Ê-xê-chia được lành bệnh.
\v 13 Ê-xê-chia nghe đọc các thư đó, rồi ông chỉ cho các sứ giả xem khắp cung điện và những thứ quý báu, bạc, vàng, hương liệu và dầu quý, kho vũ khí, và mọi thứ trong các kho của ông. Chẳng có thứ gì trong cung, hoặc trong cả vương quốc của Ê-xê-chia mà ông lại không cho họ xem.
\s5
\v 14 Tiên tri Ê-sai đến gặp Vua Ê-xê-chia và hỏi, “Những người này đã nói gì với vua? Họ ở đâu đến? ” Ê-xê-chia đáp, “Họ đến từ xứ Ba-bi-lôn xa xôi. ”
\v 15 Ê-sai hỏi, “Họ đã thấy gì trong cung vua? ” Ê-xê-chia trả lời, “Họ đã thấy mọi thứ trong nhà ta. Chẳng có thứ gì trong số những món quý báu của ta mà ta không cho họ xem.”
\s5
\v 16 Ê-sai nói cùng Ê-xê-chia, “Vua hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va:
\v 17 Kìa, những ngày ấy sẽ đến khi mọi thứ trong cung ngươi, tức những thứ mà tổ phụ ngươi đã cất giữ cho đến ngày nay, sẽ bị đem qua Ba-by-lôn. Chẳng gì còn sót lại, Đức Giê-hô-va phán.
\v 18 Các con trai mà ngươi đã sanh sẽ bị bắt, chúng sẽ làm thái giám trong cung vua Ba-by-lôn. ’”
\s5
\v 19 Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Lời của Đức Giê-hô-va mà ông đã nói thật tốt lành. ” Vì ông nghĩ, “Trong thời của ta sẽ không có hòa bình và ổn định chăng? ”
\v 20 Về những việc khác của Ê-xê-chia, quyền lực ông, cách ông xây dựng hồ và máng nước, cách ông dẫn nước vào thành chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 21 Ê-xê-chia an giấc cùng tổ phụ mình, Ma-na-se con trai ông lên kế vị.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Ma-na-se lên ngôi vua khi được mười hai tuổi; ông cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Hếp-xi-ba.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, tức những điều tương tự như những việc ghê tởm của các dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khuất mắt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Ông tái xây dựng các điện thờ mà phụ vương ông là Ê-xê-chia đã đánh đổ, ông xây các bàn thờ cho Ba-anh, dựng trụ thờ thần A-sê-ra, như vua Y-sơ-ra-ên là A-háp đã làm, và ông quỳ lạy trước tất cả các tinh tú và thờ lạy chúng.
\s5
\v 4 Ma-na-se dựng các bàn thờ ngoại giáo trong đền thờ Đức Giê-hô-va, dù Đức Giê-hô-va đã truyền, “Danh Ta sẽ ngự tại Giê-ru-sa-lem mãi mãi. ”
\v 5 Ông dựng các bàn thờ cho tất cả các tinh tú trên trời ở hai sân đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 6 Ông dâng con trai ông làm của lễ thiêu qua lửa; ông thực hành thuật bói toán và yêu thuật, hội ý với những kẻ nói chuyện với người chết và vong linh. Ông phạm nhiều điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và trêu giận Đức Chúa Trời.
\s5
\v 7 Ông dựng tượng thần A-sê-ra và đặt trong đền thờ Đức Giê-hô-va. Đây là đền thờ mà Đức Giê-hô-va đã phán cùng Đa-vít và con trai người là Sa-lô-môn; Ngài phán, “Ta sẽ đặt danh Ta mãi mãi trong đền thờ này tại Giê-ru-sa-lem, là thành được Ta chọn từ các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Ta sẽ không khiến Y-sơ-ra-ên lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nữa, nếu họ cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền, và vâng giữ trọn luật pháp mà Môi-se, tôi tớ Ta đã truyền. ”
\v 9 Nhưng dân sự không chịu nghe, Ma-na-se dẫn dụ họ làm điều ác thậm chí còn nhiều hơn các dân mà Đức Giê-hô-va đã hủy diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Vậy Đức Giê-hô-va phán qua các tiên tri là tôi tớ Ngài,
\v 11 “Vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những điều gớm ghiếc này, làm những việc gian ác hơn tất cả mọi điều mà dân A-mô-rít trước đời nó đã làm, và xui Giu-đa phạm tội thờ lạy hình tượng do nó dựng nên, ”
\v 12 vậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán, “Này, Ta sẽ giáng sự dữ trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến nó cũng đều lùng bùng lỗ tai.
\s5
\v 13 Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem dây đo đã dùng để đo Sa-ma-ri, và dây dọi đã dùng trên nhà A-háp; Ta sẽ quét sạch Giê-ru-sa-lem, như người ta chùi cái dĩa rồi úp lại.
\v 14 Ta sẽ ném những kẻ còn sót lại của cơ nghiệp Ta và phó chúng vào tay kẻ thù chúng. Chúng sẽ trở thành nạn nhân và bị kẻ thù cướp bóc,
\v 15 vì chúng đã làm điều ác trước mặt Ta, và chọc giận Ta, kể từ ngày tổ phụ chúng ra khỏi Ai Cập cho đến giờ.”
\s5
\v 16 Hơn nữa, Ma-na-se làm đổ nhiều huyết vô tội, cho đến khi ông làm ngập Giê-ru-sa-lem từ đầu này đến đầu kia bằng sự chết. Đây là hành động ngoài tội lỗi mà ông đã xui khiến Giu-đa phạm tội, ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 17 Về những việc khác của Ma-na-se, mọi việc ông làm, và tội lỗi ông phạm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 18 Ma-na-se an giấc cùng tổ phụ và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức vườn U-xa. A-môn con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 19 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi vua; ông cai trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Mê-su-lê-mết; bà là con gái của Ha-ru, cháu Giọt-ba.
\v 20 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như cha ông là Ma-na-se đã làm.
\s5
\v 21 A-môn theo trọn đường lối của cha mình và thờ lạy hình tượng mà ông ấy đã thờ, A-môn cũng quỳ lạy chúng.
\v 22 Ông từ bỏ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ ông, và không theo đường lối Đức Giê-hô-va.
\v 23 Các quần thần của A-môn lập mưu nghịch lại ông và giết ông trong cung.
\s5
\v 24 Nhưng dân trong xứ giết tất cả những kẻ lập mưu hại Vua A-môn, và họ đưa Giô-sia con trai ông lên kế vị.
\v 25 Về những việc khác của A-môn, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 26 Dân chúng chôn ông trong mộ của ông tại vườn U-xa, Giô-sia con trai ông lên kế vị.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi vua; ông cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-đi-đa (con gái của A-đai-a, cháu Bô-cát).
\v 2 Ông làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va. Ông đi theo trọn đường lối của Đa-vít, tổ phụ ông, và không xây qua bên phải hoặc bên trái.
\s5
\v 3 Năm thứ mười tám trong đời Vua Giô-si-a, ông sai Sa-phan con A-xa-lia, cháu Mê-su-lam, quan thư ký, đến đền thờ Đức Giê-hô-va và nói rằng,
\v 4 “Hãy đi gặp thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia và bảo người đếm số tiền được đem vào nhà Đức Giê-hô-va, là số tiền mà những người bảo vệ đền thờ đã nhận từ dân sự.
\v 5 Hãy trao số tiền đó cho các công nhân phụ trách đền thờ Đức Giê-hô-va, và trao cho những người làm việc trong đền thờ Đức Giê-hô-va, đặng họ sửa chữa những hư hỏng trong đền thờ.
\s5
\v 6 Hãy trao cho các thợ mộc, thợ xây, thợ nề, và cũng dùng món tiền ấy mua gỗ và đẽo đá để sửa đền thờ. ”
\v 7 Tuy nhiên số tiền được giao cho họ không cần phải kê khai, vì họ sử dụng trung thực.
\s5
\v 8 Thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia bảo quan thư ký Sa-phan, “Ta tìm thấy Sách Luật pháp trong đền thờ Đức Giê-hô-va. ” Vậy Hinh-kia trao quyển sách cho Sa-phan và ông đọc nó.
\v 9 Sa-phan đem sách ấy cho vua, và cũng tâu lại với vua, “Các quần thần của bệ hạ đã lấy số tiền trong đền thờ trao cho những người giám sát việc coi sóc đền thờ Đức Giê-hô-va. ”
\v 10 Quan thư ký Sa-phan tâu cùng vua, “Thầy tế lễ Hinh-kia có đưa cho tôi một cuốn sách. ” Sa-phan đọc sách ấy cho vua nghe.
\s5
\v 11 Khi vua đã nghe những lời luật pháp ấy, ông xé quần áo mình.
\v 12 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ Hinh-kia, A-hi-cam con Sa-phan, Ách-bơ con Mi-cai-a, quan thư ký Sa-phan, và A-sa-gia, tôi tớ của ông,
\v 13 “Hãy đi cầu vấn Đức Giê-hô-va cho ta, cho dân sự và cho cả Giu-đa, vì những lời đã được đọc trong sách này. Cơn giận lớn của Đức Giê-hô-va đã được nhen lên đối cùng chúng ta. Cơn giận ấy lớn, vì tổ phụ chúng ta đã không nghe theo những lời trong sách này đặng vâng giữ mọi điều được chép về chúng ta.”
\s5
\v 14 Vậy thầy tế lễ Hinh-kia, A-hi-cam, Ách-bơ, Sa-phan, và A-sai-a đến gặp nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum, con trai Tích-va, cháu Hạc-ha, người giữ tủ quần áo (bà sống ở Giê-ru-sa-lem, tại khu phố thứ nhì), và họ kể cho bà nghe.
\v 15 Bà bảo họ, “Này là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán, Hãy tâu với người đã bảo các ông đến gặp tôi,
\v 16 “Đây là lời Đức Giê-hô-va phán: Kìa, Ta sẽ giáng họa lên nơi này và dân cư của nó, y như những lời trong sách mà vua Giu-đa đã nghe.
\s5
\v 17 Vì chúng đã từ bỏ Ta và dâng hương cho các thần khác, đến nỗi chúng chọc giận Ta bằng những việc chúng làm do đó cơn giận Ta đã nhen nhúm đối cùng nơi này, cơn giận ấy sẽ không bị dập tắt. ’”
\v 18 Nhưng còn vua Giu-đa, là người đã sai các ông đến cầu vấn ý Đức Giê-hô-va, này là lời các ông sẽ tâu với người: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Về những lời ngươi đã nghe:
\v 19 vì lòng ngươi mềm mại, và vì ngươi hạ mình trước mặt Đức Giê-hô-va khi ngươi nghe điều Ta phán nghịch lại nơi này cùng dân cư của nó, rằng chúng sẽ trở thành một nơi hoang tàn và một lời nguyền rủa, và vì ngươi đã xé áo ngươi và khóc trước mặt Ta, nên Ta cũng đã nghe ngươi Đức Giê-hô-va tuyên bố như vậy.
\s5
\v 20 Kìa, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ phụ ngươi; ngươi sẽ được chôn trong mồ mả yên bình, mắt ngươi sẽ không thấy bất kỳ tai họa nào mà Ta sẽ giáng trên nơi này cùng cư dân của nó. ’” Vậy họ trở về thuật lại thông điệp đó cho vua nghe.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Vua sai các sứ giả đi mời tất cả trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Sau đó vua lên đền thờ Đức Giê-hô-va, đi cùng ông là toàn dân Giu-đa và cư dân thành Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ, tiên tri, và cả dân sự, từ nhỏ tới lớn. Ông đọc cho họ nghe mọi lời trong sách giao ước mà người ta tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Vua đứng bên cây trụ và lập một giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa hết lòng và hết linh hồn bước theo Đức Giê-hô-va, giữ điều răn Ngài, các sắc lệnh giao ước, luật thánh, củng cố những lời trong giao ước đã được chép trong sách này. Toàn dân sự đồng ý giữ giao ước.
\s5
\v 4 Vua ra lệnh cho thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia, các thầy tế lễ cấp dưới, những người gác cổng, đem ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va tất cả vật dụng được làm cho Ba-anh và A-sê-ra, và hết thảy các vì tinh tú trên trời. Ông đốt chúng bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng ở Thung Lũng Kít-rôn và đem tro của chúng đến Bê-tên.
\v 5 Ông diệt các tư tế thờ thần tượng mà các vua Giu-đa đã lập để dâng hương tại các điện thờ ở những thành phố của Giu-đa và các nơi xung quanh Giê-ru-sa-lem tức những kẻ dâng hương cho Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, và tất cả các ngôi sao trên trời.
\s5
\v 6 Ông đem trụ thờ thần A-sê-ra ra khỏi đền thờ Đức Giê-hô-va, ông đem ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem và mang đến Thung lũng Kít-rôn rồi đốt nó. Ông nghiền nát thành bụi và quăng bụi ấy lên mồ mả của thường dân.
\v 7 Ông dọn dẹp sạch các phòng của bọn mại dâm nam trong đền thờ Đức Giê-hô-va, là nơi những người nữ dệt vải cho A-sê-ra.
\s5
\v 8 Giô-si-a đem hết thảy các thầy tế lễ ra khỏi các thành ở Giu-đa và làm ô uế các điện thờ mà các thầy tế lễ đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e-sê-ba. Ông tiêu hủy các điện thờ ở cổng, là các điện thờ ở lối vào Cổng Giô-suê, do viên thống đốc thành phố tên là Giô-suê xây dựng. Các điện thờ này nằm ở bên trái cổng thành là nơi người ta đi vào thành.
\v 9 Thậm chí dù các tư tế của những điện thờ đó không được phép phục vụ ở bàn thờ của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, nhưng họ được phép ăn bánh không men, như các thầy tế lễ anh em khác của họ.
\s5
\v 10 Giô-si-a làm ô uế Tô-phết trong thung lũng Ben Hin-nôm, để không ai có thể dâng con trai hay con gái mình làm của lễ thiêu qua lửa cho thần Mô-lết.
\v 11 Ông trừ bỏ những con ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng cho thần mặt trời. Chúng ở khu vực lối vào đền thờ Đức Giê-hô-va, gần phòng của quan thái giám Na-than Mê-léc. Giô-si-a đốt các xe chiến mã của thần mặt trời.
\s5
\v 12 Vua Giô-si-a phá hủy các bàn thờ trên lầu của A-cha, là phòng mà các vua Giu-đa đã xây, và các bàn thờ mà Ma-na-se để ở hai sân đền thờ Đức Giê-hô-va. Giô-si-a nghiền nát chúng thành vụn và quăng chúng vào Thung lũng Kít-rôn.
\v 13 Giô-si-a làm ô uế các điện thờ ở phía đông Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Hủy diệt mà Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã xây cho Át-tô-rết, thần tượng gớm ghiếc của dân Si-đôn; Kê-mốt, thần tượng gớm ghiếc của dân Mô-áp; và Minh-côm, thần tượng gớm ghiếc của dân Am-môn.
\v 14 Vua Giô-si-a đập bể các trụ thờ bằng đá, đốn các trụ thờ thần A-sê-ra rồi quăng vào đó đầy xương người.
\s5
\v 15 Giô-si-a cũng phá bỏ bàn thờ tại Ba-bên và điện thờ mà Giê-rô-bô-am con Nê-bát, là kẻ xui khiến Y-sơ-ra-ên phạm tội, đã xây dựng. Ông đốt bàn thờ ở điện thờ và đập nát ra bụi; ông cũng đốt trụ thờ thần A-sê-ra.
\v 16 Khi Giô-si-a nhìn quanh khu vực, ông thấy có các mộ ở triền đồi. Ông sai người đến lấy xương ra khỏi các mồ mả; sau đó ông thiêu chúng trên bàn thờ để làm ô uế nó. Điều này ứng với lời Đức Giê-hô-va đã phán qua người của Đức Chúa Trời, là người tiên đoán trước những điều này.
\s5
\v 17 Ông hỏi, “Mộ đó của ai? ” Dân trong thành trả lời, “Đó là mộ người của Đức Chúa Trời đến từ Giu-đa và ông ấy đã nói về những điều mà bệ hạ vừa làm đối với bàn thờ ở Bê-tên. ”
\v 18 Vậy Giô-si-a bảo, “Hãy để yên mộ đó. Không ai được dời hài cốt của ông ấy. ” Vậy họ để yên hài cốt của người, cùng với hài cốt của tiên tri đến từ Sa-ma-ri.
\s5
\v 19 Tất cả đền thờ và điện thờ trong các thành ở Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã lập đặng chọc giận Đức Giê-hô-va đều bị Giô-si-a dẹp bỏ. Ông dẹp bỏ chúng y như đã làm tại Bê-tên.
\v 20 Ông cũng giết tất cả các tư tế của các điện thờ trên các bàn thờ tại đó, và thiêu xương người trên các bàn thờ ấy. Sau đó ông quay về Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 21 Vua ra lệnh cho toàn dân, “Hãy giữ Lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, như có chép trong sách giao ước này. ”
\v 22 Không có một Lễ Vượt qua nào được tổ chức như vậy từ thời các quan xét cai trị Y-sơ-ra-ên cho đến thời các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
\v 23 Tuy vậy, Lễ Vượt qua này thật sự được cử hành vào năm thứ mười tám trong đời Vua Giô-si-a; lễ ấy dành cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 24 Giô-si-a cũng diệt trừ những kẻ đồng bóng và thầy bói. Ông cũng loại bỏ những vật thờ, thần tượng, và mọi thứ gớm ghiếc trong xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, nhằm củng cố lời luật pháp đã được chép trong sách mà thầy tế lễ Hinh-kia tìm thấy trong đền thờ Đức Giê-hô-va.
\v 25 Trước thời của Giô-si-a, không có vua nào như ông, một người trọn lòng, linh hồn, và hết sức theo Đức Giê-hô-va, làm trọn luật pháp của Môi-se. Cũng không có vua nào về sau giống như Giô-si-a.
\s5
\v 26 Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va không bỏ cơn thạnh nộ to lớn của Ngài, cơn thịnh nộ ấy đã được nhen nhóm nghịch lại Giu-đa vì tội thờ ngoại giáo mà Ma-na-se đã chọc giận Ngài.
\v 27 Vậy Đức Giê-hô-va phán, “Ta cũng sẽ loại bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã loại bỏ Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ quăng thành phố này mà Ta đã chọn, là thành Giê-ru-sa-lem, và nhà mà Ta đã phán, “Danh Ta sẽ ngự tại đó. ’”
\s5
\v 28 Về những việc khác của Giô-si-a, mọi việc ông làm, đều chẳng được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 29 Trong thời của ông, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai Cập, kéo quân đi đánh vua A-si-ri bên Sông Ơ-phơ-rát. Vua Giô-si-a nghênh chiến Nê-cô trong chiến trận, và bị Nê-cô giết chết tại Mê-ghi-đô.
\v 30 Các quần thần của Giô-si-a đem xác ông lên xe chiến mã đi từ Mê-ghi-đô về Giê-ru-sa-lem và chôn trong mộ của ông. Sau đó tiên tri trong xứ chọn Giê-hô-a-ha con Giô-si-a, họ xức dầu cho ông, và lập ông lên làm vua kế vị cho cha ông.
\s5
\v 31 Giê-hô-a-ha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi vua, và ông cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan; bà là con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
\v 32 Giê-hô-a-ha làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, như những gì mà tổ phụ ông đã làm.
\v 33 Pha-ra-ôn Nê-cô bắt ông và xiềng xích ông trở về Ríp-la ở xứ Ha-mát, để ông không cai trị ở Giê-ru-sa-lem. Sau đó Nê-cô bắt Giu-đa phải nộp một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng.
\s5
\v 34 Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim con Giô-si-a lên làm vua thế cho Giô-si-a cha ông, và đổi tên ông thành Giê-hô-gia-kim. Nhưng ông bắt Giê-hô-a-ha sang Ai Cập, rồi Giê-hô-a-ha chết tại đó.
\v 35 Giê-hô-gia-kim nộp bạc và vàng cho Pha-ra-ôn. Ông đánh thuế cả xứ để nộp theo lệnh của Pha-ra-ôn. Ông buộc mỗi người dân trong xứ thanh toán bằng bạc và tiền để trao cho Pha-ra-ôn Nê-cô.
\s5
\v 36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi, ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Xê-bi-đát; con gái của Phê-đai-a ở Ru-ma.
\v 37 Giê-hô-gia-kim làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, y như tổ phụ ông đã làm.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Trong thời Giê-hô-gia-kim, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn tấn công Giu-đa; Giê-hô-gia-kim phải thần phục ông trong ba năm. Sau đó Giê-hô-gia-kim trở về và nổi nghịch chống lại Nê-bu-cát-nết-sa.
\v 2 Đức Giê-hô-va sai các toán quân Canh-đê, A-ram, Mô-áp, và Am-môn đến đánh Giê-hô-gia-kim; Ngài sai họ đến đánh Giu-đa để hủy diệt nước ấy. Việc này ứng với lời Đức Giê-hô-va đã phán qua tôi tớ Ngài là các tiên tri.
\s5
\v 3 Chắc chắn theo lệnh của Đức Giê-hô-va, việc này xảy đến trên Giu-đa, đặng loại bỏ họ khỏi mắt Ngài, vì cớ những tội lỗi Ma-na-se đã phạm,
\v 4 và cũng vì cớ huyết vô tội ông đã làm đổ, khiến Giê-ru-sa-lem ngập huyết vô tội. Đức Giê-hô-va không muốn bỏ qua chuyện đó.
\s5
\v 5 Về những việc khác của Giê-hô-gia-kim, mọi việc ông làm, chẳng phải đều được chép trong Sách Sự kiện của các Vua Giu-đa sao?
\v 6 Giê-hô-gia-kim an giấc cùng tổ phụ, và Giê-hô-gia-kin con trai ông lên kế vị.
\s5
\v 7 Vua Ai Cập không còn ra khỏi xứ của ông ấy đặng tấn công, vì vua Ba-by-lôn đã chinh phục tất cả mọi xứ trước kia do vua Ai Cập kiểm soát, từ khe Ai Cập đến Sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 8 Giê-hô-gia-kin lên ngôi vua khi được mười tám tuổi; ông cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Nê-hút-ta, con gái của Ên-na-than, người thành Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va y như cha ông đã làm.
\s5
\v 10 Khi ấy, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem và bao vây thành phố.
\v 11 Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến cổng thành trong khi binh lính của ông đang bao vây thành,
\v 12 Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa cùng với mẫu hậu, các quần thần, hoàng tử, và triều thần ra ngoài thành để đầu hàng vua Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bắt ông vào năm thứ tám trong đời ông cai trị.
\s5
\v 13 Nê-bu-cát-nết-sa cướp mọi thứ có giá trị trong đền thờ Đức Giê-hô-va, và trong hoàng cung. Ông cắt mọi vật bằng vàng mà Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã làm trong đền thờ Đức Giê-hô-va, theo lời Đức Giê-hô-va đã phán là sẽ xảy đến.
\v 14 Ông lưu đày dân cư Giê-ru-sa-lem, tất cả các trưởng lão, binh lính, mười ngàn tù binh, các thợ thủ công và thợ rèn. Không còn ai trong xứ ngoại trừ những người nghèo nhất.
\s5
\v 15 Nê-bu-cát-nết-sa bắt Giê-hô-gia-kin đem lưu đày tại Ba-by-lôn cùng với mẫu hậu, các hoàng hậu, triều thần, và những người quyền quý trong xứ. Ông bắt họ ra khỏi Giê-ru-sa-lem và lưu đày tại Ba-by-lôn.
\v 16 Có bảy ngàn lính, một ngàn thợ thủ công và thợ rèn, tất cả những người có khả năng chiến đấu đều bị vua Ba-by-lôn bắt đem đi lưu đày tại Ba-by-lôn.
\v 17 Vua Ba-by-lôn lập Mát-ta-ni, chú của Giê-hô-gia-kin, lên ngôi kế vị, và đổi tên ông thành Sê-đê-kia.
\s5
\v 18 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi; ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na.
\v 19 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va như mọi điều mà Giê-hô-gia-kim đã làm.
\v 20 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, Ngài giáng những sự việc này trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Ngài đuổi họ khuất mắt Ngài. Sau đó, Sê-đê-kia nổi loạn chống vua Ba-by-lôn.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Năm thứ chín đời Vua Sê-đê-kia, nhằm ngày mười tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem. Ông đóng quân bên ngoài thành và dựng lũy bao vây thành.
\v 2 Do đó, thành phố bị bao vây đến năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia cai trị.
\v 3 Đến ngày chín tháng tư, xảy ra một nạn đói khủng khiếp trong thành đến nỗi dân chúng không còn thức ăn.
\s5
\v 4 Thành phố sau đó bị thất thủ, tất cả lính chiến đều bỏ chạy trong đêm qua lối cổng thành giữa hai tường thành, gần vườn ngự uyển, dù quân Canh-đê đang bao vây thành. Vua đi theo hướng về Ả-rập.
\v 5 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo Vua Sê-đê-kia và bắt kịp ông trong đồng bằng của thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Toàn bộ quân đội của ông đều bị đánh tan tác.
\s5
\v 6 Chúng bắt vua và nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la, là nơi họ tuyên án ông.
\v 7 Chúng tàn sát các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông. Sau đó, vua Ba-by-lôn móc mắt ông, xiềng ông bằng xích đồng, rồi dẫn qua Ba-by-lôn.
\s5
\v 8 Bấy giờ là ngày bảy tháng năm, nhằm năm thứ chín thuộc triều đại Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan, tôi tớ của vua Ba-by-lôn và là quan chỉ huy quân thị vệ, đến Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Ông phóng hỏa đền thờ của Đức Giê-hô-va, hoàng cung, cùng tất cả nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông cũng phóng hỏa các tòa nhà quan trọng.
\v 10 Quân Ba-by-lôn dưới sự chỉ huy của quan thị vệ hủy phá tường thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 11 Với những người còn sót trong thành, những người đào ngũ theo vua Ba-by-lôn, và số dân còn lại quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt đem đi lưu đày.
\v 12 Nhưng quan thị vệ chừa lại một số người nghèo nhất trong xứ để làm việc ở vườn nho và ngoài đồng.
\s5
\v 13 Còn các trụ cột bằng đồng, cái giá đồng và bể đồng trong đền thờ Đức Giê-hô-va, quân Canh-đê đập nát và đem đồng về Ba-by-lôn.
\v 14 Những cái nồi, xẻng, kéo cắt tim đèn, muỗng, và những dụng cụ bằng đồng mà các thầy tế lễ dùng để phục vụ trong đền thờ - cũng bị dân Canh-đê cướp mất.
\v 15 Cái nồi để bỏ tro và các chậu bằng vàng, cùng những thứ làm bằng bạc quan chỉ huy quân thị vệ của vua cũng cướp mất.
\s5
\v 16 Hai trụ cột, cái bể, và các giá mà Sa-lô-môn làm cho đền thờ Đức Giê-hô-va chứa nhiều đồng đến nỗi không thể cân được.
\v 17 Trụ thứ nhất cao mười tám cu-bít, có đầu bằng đồng. Đầu trụ cao ba cu-bít, có lưới rèm và quả lựu xung quanh, tất cả đều làm bằng đồng. Trụ thứ nhì và lưới rèm cũng giống như trụ thứ nhất.
\s5
\v 18 Quan thị vệ bắt thầy tế lễ thượng phẩm Sê-ra-gia làm tù binh, cùng với phó tế Sô-phô-ni,, và ba người giữ cổng.
\v 19 Ông cũng bắt một tướng chỉ huy quân đội, năm cố vấn của vua còn sót trong thành, quan đặc trách việc chiêu mộ quân lính, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành làm tù binh.
\s5
\v 20 Sau đó, quan thị vệ Nê-bu-xa-ra-đan bắt họ và đem nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la.
\v 21 Vua Ba-by-lôn giết họ ở Ríp-la trong xứ Ha-mát. Như vậy, Giu-đa bị bắt lưu đày biệt xứ.
\s5
\v 22 Với những người còn sót lại trong xứ Giu-đa, là những người mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn đã chừa lại, ông giao Ghê-đa-lia con trai A-hi-cam, cháu Sa-phan phụ trách.
\v 23 Bấy giờ khi tất cả các quan thị vệ cùng người của họ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia lên làm thống đốc, thì họ đi từ Ghê-đa-lia đến Mích-pa. Những người này là Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con Ka-rết, Sê-ra-gia con trai Tan-hu-nê người Nê-tô-phát, và Gia-a-xa-nia con trai Mác-ca-thít họ và những người của họ.
\v 24 Ghê-đa-lia thề cùng họ và người của họ, “Chớ sự các quan người Canh đê. Hãy sống trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn, các ông sẽ bình an.
\s5
\v 25 Nhưng nhằm tháng bảy, Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc dòng dõi hoàng tộc, đi cùng mười người đi đánh Ghê-đa-lia. Ghê-đa-lia chết cùng những người Giu-đa và Ba-by-lôn ở với ông tại Mích-pa.
\v 26 Sau đó cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, các tướng chỉ huy quân đội trỗi dậy và đến Ai Cập, vì họ sợ người Ba-by-lôn.
\s5
\v 27 Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, nhằm ngày hai mươi bảy tháng mười hai, khi Ê-vin Mê-rô-đác lên làm vua Ba-by-lôn, ông thả Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi tù.
\s5
\v 28 Ông nói chuyện tử tế với vua Giu-đa và cho ông ấy một địa vị cao hơn địa vị của các vua khác đang bị quản thúc với ông tại Ba-by-lôn.
\v 29 Ê-vin Mê-rô-đác cho Giê-hô-gia-kin cởi bỏ bộ quần áo tù, Giê-hô-gia-kin được ăn uống bình thường trên bàn của vua trong suốt đời còn lại.
\v 30 Ông thường xuyên được trợ cấp thực phẩm hàng ngày trong suốt cuộc đời còn lại.

1707
13-1CH.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1707 @@
\id 1CH
\ide UTF-8
\h 1 SỬ KÝ
\toc1 1 SỬ KÝ
\toc2 1 SỬ KÝ
\toc3 1ch
\mt 1 SỬ KÝ
\s5
\c 1
\p
\v 1 A-đam sanh Sết, Sết sanh Ê-nót,
\v 2 Kê-nan, Kê-nan sanh Ma-ha-la-le, Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt,
\v 3 Giê-rệt sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc,
\v 4 Lê-méc sanh Nô-ê, Nô-ê sanh Sem, Cham, và Gia-phết.
\s5
\v 5 Các con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra.
\v 6 Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-ga-ma.
\v 7 Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Đô-đa-nim.
\s5
\v 8 Các con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an.
\v 9 Các con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca. Các con trai của Ra-a-ma là Sê-ba và Đê-đan.
\v 10 Cúc trở thành cha của Nim-rốt, là người chinh phục đầu tiên trên đất.
\s5
\v 11 Mích-ra-im trở thành tổ phụ của dân Lu-đim, A-na-mít, Lê-ha-bít, Náp-tu-hít,
\v 12 Phát-ru-sít, Cách-lu-hít (từ họ mà ra dân Phi-li-tin), và Cáp-tô-rít.
\s5
\v 13 Ca-na-an trở thành cha của Si-đôn, là con đầu lòng của ông, và Hếch.
\v 14 Ông cũng là tổ phụ của dân Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít,
\v 15 Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít,
\v 16 A-va-đít, Xê-ma-rít, và Ha-ma-tít.
\s5
\v 17 Các con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mê-siếc.
\v 18 A-bác-sát trở thành cha của Sê-lách, và Sê-lách trở thành cha của Hê-be.
\v 19 Hê-be có hai con trai. Tên của một người là Bê-léc, vì trong đời người đất bị chia ra. Tên em người là Giốc-tan.
\s5
\v 20 Giốc-tan trở thành cha của A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách,
\v 21 Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la,
\v 22 Ê-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,
\v 23 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Hết thảy những người nầy là đều là con trai của Giốc-tan.
\s5
\v 24 Sem sanh A-bác-sát, A-bác-sát sanh
\v 25 Sê-lách, Sê-lách hay Hê-be, Hê-be sanh Bê-léc, Bê-léc sanh Rê-hu,
\v 26 Rê-hu sanh Sê-rúc, Sê-rúc sanh Na-cô, Na-cô sanh Tha-rê,
\v 27 Tha-rê sanh Áp-ram, cũng là Áp-ra-ham.
\s5
\v 28 Các con trai của Áp-ra-ham là Y-sác và Ích-ma-ên.
\v 29 Đây là các con trai của họ: con đầu lòng của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt, kế đến là Kê-đa, Át-bi-ên, Mi-bô-sam,
\v 30 Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma,
\v 31 Giê-tu, Na-phích, và Kết-ma. Đây là các con trai của Ích-ma-ên.
\s5
\v 32 Các con trai của Kê-tu-ra, vợ nhỏ của Áp-ra-ham là Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, và Su-ách. Các con trai của Giốc-san là Sê-ba và Đê-đan.
\v 33 Các con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa, và En-đa. Hết thảy những người nầy là dòng dõi của Kê-tu-ra.
\s5
\v 34 Ápraham trở thành cha của Y-sác. Các con trai của Y-sác là Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.
\v 35 Các con trai của Ê-sau là Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.
\v 36 Các con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na, và A-ma-léc.
\v 37 Các con trai của Rê-u-ên là Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, và Mích-xa.
\s5
\v 38 Các con trai của Sê-i-rơ là Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ét-xe, và Đi-san.
\v 39 Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hô-man, và Thim-na là em gái của Lô-than.
\v 40 Các con trai của Sô-banh là A-li-an, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phi, và Ô-nam. Các con trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na.
\s5
\v 41 Con trai của A-na là Đi-sôn. Các con trai của Đi-sôn là Ham-ran, Ếch-ban, Dít-ran, và Kê-ran.
\v 42 Các con trai của Ét-xe là Binh-han, Xa-van, và Gia-a-can. Các con trai của Đi-san là Út-xơ và A-ran.
\s5
\v 43 Đây là các vua đã cai trị trong xứ Ê-đôm trước khi có vua cai trị trên Y-sơ-ra-ên: Bê-la con trai Bê-ô, và tên của thành phố của ông là Đin-ha-ba.
\v 44 Khi Bê-la qua đời, thì Giô-báp con trai của Xê-rách xứ Bốt-ra, cai trị trong chỗ của người.
\v 45 Khi Giô-báp qua đời, Hu-sam thuộc về đất của dân Thê-man cai trị trong chỗ của người.
\s5
\v 46 Khi Hu-sam qua đời, Ha-đát con trai của Bê-đát, là người đánh bại dân Ma-đi-an ở trong xứ Mô-áp, cai trị trong chỗ của người. Tên thành của người là A-vít.
\v 47 Khi Ha-đát qua đời, thì Sam-la người Ma-rê-ca cai trị trong chỗ của người.
\v 48 Khi Sam-la qua đời, thì Sau-lơ xứ Rê-hô-bốt, sống gần sông Ơ-phơ-rát, cai trị trong chỗ của người.
\s5
\v 49 Khi Sau-lơ qua đời, thì Ba-anh Ha-nan con trai của Ạc-bồ cai trị trong chỗ của người.
\v 50 Khi Ba-anh-Ha-nan con trai Ạc-bồ qua đời, thì Ha-đa cai trị trong chỗ của người. Tên thành của người là Pha-i. Tên vợ của người là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại của Mê-xa-háp
\s5
\v 51 Ha-đát qua đời. Các trưởng tộc trong Ê-đôm là Thim-na, A-li-a, Giê-tết,
\v 52 Trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn,
\v 53 Trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa,
\v 54 Trưởng tộc Mác-đi-ên, và trưởng tộc Y-ram. Đây là các trưởng tộc trong xứ Ê-đôm.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đây là các con trai của Y-sơ-ra-ên: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn,
\v 2 Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
\s5
\v 3 Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la, do con gái của Su-a, người Ca-na-an. Ê-rơ, con đầu lòng của Giu-đa, sống gian ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va giết người đi.
\v 4 Tha-ma, con dâu của ông, đã sanh cho ông Phê-rết và Xê-rách. Giu-đa có năm người con trai.
\s5
\v 5 Các con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun.
\v 6 Các con trai của Xê-rách là Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Đa-ra, năm người cả thảy.
\v 7 Con trai của Cạt-mi là A-ca, người nầy đem lại sự rối loạn giáng trên Y-sơ-ra-ên, khi ông lấy cắp các thứ dành cho Đức Chúa Trời.
\v 8 Con trai của Ê-than là A-xa-ria.
\s5
\v 9 Các con trai của Hết-rôn là Giê-rác-mê-en, Ram, và Kê-lu-bai.
\v 10 Ram trở thành cha của A-mi-na-đáp, và A-mi-na-đáp trở thành cha của Na-ha-sôn, là lãnh đạo giữa vòng dòng dõi của Giu-đa.
\v 11 Na-ha-sôn trở thành cha của Sanh-ma, và Sanh-ma trở thành cha của Bô-ô.
\v 12 Bô-ô trở thành cha của Ô-bết, và Ô-bết trở thành cha của Gie-sê.
\s5
\v 13 Gie-sê trở thành cha của trưởng nam mình là Ê-li-áp, A-bi-na-đáp con thứ hai, Si-mê-a thứ ba,
\v 14 Na-tha-na-ên thứ tư, Ra-đai thứ năm,
\v 15 Ô-xem thứ sáu, và Đa-vít thứ bảy.
\s5
\v 16 Các chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Các con trai của Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp, và A-sa-ên, ba người cả thảy.
\v 17 A-bi-ga-in sanh A-ma-sa, cha người là Giê-the người Ích-ma-ên.
\s5
\v 18 Ca-lép con trai của Hết-rôn trở thành cha của mấy đứa con do A-xu-ba vợ người, và Giê-ri-ốt. Các con trai của ông là Giê-se, Sô-báp, và Ạt-đôn.
\v 19 A-xu-ba qua đời, và Ca-lép cưới Ê-phơ-rát, là người sanh cho ông Hu-rơ.
\v 20 Hu-rơ trở thành cha của U-ri, và U-ri trở thành cha của Bết-sa-lê-ên.
\s5
\v 21 Sau đó, Hết-rôn, khi ông được sáu mươi tuổi, cưới con gái của Ma-ki, cha của Ga-la-át. Nàng sanh cho ông Sê-gúp.
\v 22 Sê-gúp trở thành cha của Giai-rơ, người nầy cai quản hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át.
\s5
\v 23 Dân Ghê-su-rơ và A-ram chiếm lấy các thành Giai-rơ và Kê-nát, cũng như sáu mươi làng xung quanh. Hết thảy cư dân nầy là dòng dõi của Ma-ki, cha của Ga-la-át.
\v 24 Sau cái chết của Hết-rôn, Ca-lép ngủ với Ép-ra-tha, vợ của Hết-rôn cha mình. Người sanh cho ông A-su-rơ, cha của Thê-cô-a
\s5
\v 25 Các con trai của Giê-rác-mê-ên, trưởng nam của Hết-rôn, là Ram con đầu lòng, Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, và A-hi-gia.
\v 26 Giê-rác-mê-ên có vợ khác, tên người là A-ta-ra. Nàng là mẹ của Ô-nam.
\v 27 Các con trai của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là Ma-ách, Gia-min, và Ê-ke. Các con trai của Ô-nam là Sa-mai và Gia-đa.
\v 28 Các con trai của Sa-mai là Na-đáp và A-bi-su.
\s5
\v 29 Tên của vợ A-bi-su là A-bi-hai; nàng sanh cho ông Ác-ban và Mô-lít.
\v 30 Các con trai của Na-đáp là Sê-le và A-ba-im, nhưng Sê-le chết không con. Con trai của A-ba-im là Di-si.
\v 31 Con trai của Di-si là Sê-san.
\v 32 Con trai của Sê-san là Ác-lai. Các con trai của Gia-đa, em của Sa-mai, là Giê-the và Giô-na-than. Giê-the chết không con.
\v 33 Các con trai của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Đây là dòng dõi của Giê-rác-mê-ên.
\s5
\v 34 Giờ đây Sê-san không có con trai, chỉ có con gái. Sê-san có một tôi tớ, một người Ai-cập, tên người là Gia-ra.
\v 35 Sê-san gả con gái mình là Gia-ha cho tôi tớ mình làm vợ. Nàng sanh Át-tai cho người.
\s5
\v 36 Át-tai trở thành cha của Na-than, và Na-than trở thành cha của Xa-bát.
\v 37 Xa-bát trở thành cha của Ép-la, và Ép-la trở thành cha của Ô-bết.
\v 38 Ô-bết trở thành cha của Giê-hu, và Giê-hu trở thành cha của A-xa-ria.
\s5
\v 39 A-xa-ria trở thành cha của Hê-lết, và Hê-lết trở thành cha của Ê-la-xa.
\v 40 Ê-la-xa trở thành cha của Sít-mai, và Sít-mai trở thành cha của Sa-lum.
\v 41 Sa-lum trở thành cha của Giê-ca-mia, và Giê-ca-mia trở thành cha của Ê-li-sa-ma.
\s5
\v 42 Các con trai của Ca-lép, em của Giê-rác-mê-ên, là Mê-sa con đầu lòng, người là cha của Xíp. Con thứ hai của người là Ma-rê-sa, là cha của Hếp-rôn.
\v 43 Các con trai của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem, và Sê-ma.
\v 44 Sê-ma trở thành cha của Ra-cham, cha của Giô-kê-am. Rê-kem trở thành cha của Sa-mai.
\s5
\v 45 Con trai của Sa-mai là Ma-ôn, và Ma-ôn là cha của Bết-sua.
\v 46 Ê-pha, là hầu của Ca-lép, sanh Ha-ran, Một-sa, và Ga-xe. Ha-ran trở thành cha của Ga-xe.
\v 47 Các con trai của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-tham, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và Sa-áp.
\s5
\v 48 Ma-a-ca, hầu của Ca-lép, sanh Sê-be và Ti-ra-na.
\v 49 Nàng cũng sanh Sa-áp cha của Mát-ma-na, Sê-va cha của Mác-bê-na và cha của Ghi-bê-a. Con gái Ca-lép là Ạc-sa.
\v 50 Đây là dòng dõi của Ca-lép. Đây là dòng dõi của Hu-rơ, do Ép-ra-ta sanh ra: Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim,
\s5
\v 51 Sanh-ma cha của Bết-lê-hem, và Ha-rép cha của Bết-ga-đe.
\s5
\v 52 Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim có nhiều dòng dõi: Ha-rô-ê, phân nửa dân Mê-nu-hốt,
\v 53 và các họ của Ki-ri-át-Giê-a-rim — Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít, và Mích-ra-ít. Từ những người nầy mới có người Xô-ra-tít và Ếch-tao-ít.
\s5
\v 54 Dòng họ của Sanh-ma như sau đây: Bết-lê-hem, dân Nê-tô-pha-tít, Ạt-rốt Bết-Giô-áp, và phân nửa dân Ma-na-ha-tít — dân Xô-rít,
\v 55 dòng họ của các thầy thông giáo sống tại Gia-bết: dân Ti-ra-tít, Si-ma-tít, và Su-ca-tít. Đây là dân Kê-nít ra từ Ha-mát, tổ phụ của nhà Rê-cáp.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Đây là các con trai của Đa-vít sanh cho ông tại Hếp-rôn: Trưởng nam là Am-nôn, bởi A-hi-nô-am từ Gít-rê-ên; thứ hai, Đa-ni-ên, bởi A-bi-ga-in từ Cạt-mên;
\v 2 thứ ba là Áp-sa-lôm, mẹ người là Ma-a-ca, con gái của vua Thanh-mai xứ Ghê-su-rơ. Thứ tư là A-đô-ni-gia con trai của Ha-ghít;
\v 3 thứ năm, Sê-pha-ti-a bởi A-bi-tanh; thứ sáu, Dít-rê-am bởi Éc-la vợ người.
\s5
\v 4 Sáu người sanh cho Đa-vít ở Hếp-rôn, ông trị vì ở đó bảy năm sáu tháng. Rồi ông trị vì ba mươi ba năm tại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 5 Bốn người con trai nầy, bởi Bát-sê-ba con gái của A-mi-ên, sanh cho ông tại thành Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn.
\s5
\v 6 Chín người con khác của Đa-vít là Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết,
\v 7 Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,
\v 8 Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.
\v 9 Đây là các con trai của Đa-vít, chưa kể các con trai do các cung phi sanh ra. Ta-ma là em gái của họ.
\s5
\v 10 Con trai của Sa-lô-môn là Rô-bô-am. Con trai của Rô-bô-am là A-bi-gia. Con trai của A-bi-gia là A-sa. Con trai của A-sa là Giô-sa-phát.
\v 11 Con trai của Giô-sa-phát là Giô-ram. Con trai của Giô-ram là A-cha-xia. Con trai của A-cha-xia là Giô-ách.
\v 12 Con trai của Giô-ách là A-ma-xia. Con trai của A-ma-xia là A-xa-ria. Con trai của A-xa-ria là Giô-tham.
\s5
\v 13 Con trai của Giô-tham là A-cha. Con trai A-cha là Ê-chê-xia. Con trai Ê-chê-xia là Ma-na-se.
\v 14 Con trai Ma-na-se là A-môn. Con trai của A-môn là Giô-si-a.
\s5
\v 15 Con trai Giô-si-a là Giô-ha-nan trưởng nam, con thứ hai là Giê-hô-gia-kim, con thứ ba là Sê-đê-kia, và con thứ tư là Sa-lum.
\v 16 Con trai của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia. Vua sau cùng là Sê-đê-kia.
\s5
\v 17 Các con trai của Giê-chô-nia, làm phu tù, là Sa-la-thi-ên,
\v 18 Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.
\s5
\v 19 Các con trai của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Các con trai của Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-ni; Sê-lô-mít là chị em của họ.
\v 20 Năm người con trai của ông là Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, và Du-sáp-hê-rết.
\v 21 Các con trai của Ha-na-ni là Phê-la-tia và Giê-sai. Con trai của ông là Rê-pha-gia, dòng dõi người là Ác-nan, Ô-ba-đia, và Sê-ca-nia.
\s5
\v 22 Con trai của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia. Các con trai của Sê-ma-gia là Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria, và Sa-phát.
\v 23 Ba con trai của Nê-a-ria là Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia và A-ri-kham.
\v 24 Bảy con trai của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia, và A-na-ni.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Dòng dõi của Giu-đa là Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.
\v 2 Sô-banh là cha của Rê-a-gia. Rê-a-gia là cha của Gia-hát. Gia-hát là cha của A-hu-mai và La-hát. Đây là gốc gác của dòng họ Xô-ra-tít.
\s5
\v 3 Đây là gốc gác của dòng họ ở thành Ê-tam: Gít-rê-ên, Dít-ma, và Di-ba. Tên của em gái của họ là Ha-sê-lê-bô-ni.
\v 4 Phê-nu-ên là gốc của dòng họ ở thành Ghê-đô. Ê-xe là gốc của dòng họ ở Hu-sa. Đây là dòng dõi của Hu-rơ, trưởng nam của Ép-ra-ta và là gốc của Bết-lê-hem.
\s5
\v 5 A-su-rơ cha của Thê-co-a có hai vợ: Hê-lê-a và Na-a-ra.
\v 6 Na-a-ra sanh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-ta-ri. Đây là các con trai của Na-a-ra.
\v 7 Các con trai của Hê-lê-a là Xê-rết, Díp-ha, Ét-nan,
\v 8 Và Cốt, ông trở thành cha của A-núp và Xô-bê-ha, và dòng họ ra từ A-ha-hên con trai của Ha-rum.
\s5
\v 9 Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em mình. Mẹ ông gọi ông là Gia-bê. Bà nói: "Vì ta sanh nó trong sự đau đớn".
\v 10 Gia-bê kêu cầu với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như sau: "Quả thực, nếu như Ngài ban phước cho tôi, mở rộng lãnh thổ tôi. Nguyện tay Ngài ở cùng tôi; giữ tôi khỏi sự dữ hầu cho tôi không phải gánh chịu đau khổ!" Và Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của ông.
\s5
\v 11 Kê-lúp, anh em của Su-ha trở thành cha của Mê-hia, người là cha của Éc-tôn.
\v 12 Éc-tôn trở thành cha của Bết-ra-pha, Pha-sê-a, và Tê-hi-na, người khởi sự dựng thành Na-hách. Đây là những người đã sống tại Rê-ca.
\s5
\v 13 Các con trai của Kê-na là Ố-ni-ên và Sê-ra-gia. Các con trai của Ốt-ni-ên là Ha-thát và Mê-ô-nô-thai.
\v 14 Mê-ô-nô-thai trở thành cha của Óp-ra, và Sê-ra-gia trở thành cha của Giô-áp, gốc của dân Giê Ha-ra-sim, dân sự của ông đều là thợ mộc.
\v 15 Các con trai của Ca-lép cháu của Giê-phu-nê là Y-ru, Ê-la và Na-am. Con trai của Ê-la là Kê-na.
\v 16 Các con trai của Gia-ha-lê-le là Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sa-rên.
\s5
\v 17 Các con trai của E-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Vợ người Ai-cập của Mê-rết sanh Mi-ri-am, Sa-mai, và Dít-bác, người trở thành cha của Éc-tê-mô-a.
\v 18 Đây là các con trai của Bi-thi-a, con gái của Pha-ra-ôn, là người mà Mê-rết đã cưới. Vợ người Do-thái của Mê-rết sanh Giê-rệt, người trở thành cha của Ghê-đô; Hê-be, người trở thành cha của Sô-cô; và Giê-cu-ti-ên, người trở thành cha của Xa-nô-a.
\s5
\v 19 Trong hai con trai của vợ Hô-đia, em gái của Na-ham, người trở thành cha của Kê-hi-la người Gạt-mít. Và người kia là Ếch-tê-mô-a người Ma-ca-thít.
\v 20 Các con trai của Si-môn là Am-nôn, Ri-na, Bên-ha-nan, và Ti-lôn. Các con trai của Di-si là Xô-hết và Bên Xô-hết.
\s5
\v 21 Các dòng dõi của Sê-la, một con trai của Giu-đa, là Ê-rơ cha của Lê-ca, Lê-a-đa cha của Ma-rê-sa và là gốc của dòng họ những thợ dệt vải gai mịn ở Bết-Ách-bê-a,
\v 22 Giô-kim, những người ở Cô-xê-ba, Giô-ách và Sa-ráp, họ có đất đai ở xứ Mô-áp, nhưng họ đã về lại Bết-lê-hem. (Thông tin nầy lấy từ các bản tường trình xưa).
\v 23 Một số trong những người nầy là thợ gốm, họ sống ở Nê-ta-im và Ghê-đê-ra và làm việc cho nhà vua.
\s5
\v 24 Dòng dõi của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xêra, và Sau-lơ.
\v 25 Sa-lum là con trai của Sau-lơ, Míp-sam là con trai của Sa-lum, và Mích-ma là con trai của Míp-sam.
\v 26 Dòng dõi của Mích-ma là Ham-mu-ên con trai ông, Xa-cu cháu nội ông, và Si-mê-i chắt của ông.
\s5
\v 27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái. Các anh em người không có nhiều con, vì vậy dòng họ của họ không tăng nhiều theo số lượng như dân Giu-đa đã có.
\v 28 Họ sống ở Bê-e-sê-ba, Mô-la-đa, và tại Ha-xa-su-a.
\s5
\v 29 Họ cũng sống ở Bi-la, Ê-xem, Tô-lát.
\v 30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiết-lác,
\v 31 Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa-Su-sim, Bết-Bi-rê, và Sa-a-ra-im. Đây là các thành của họ cho đến sự trị vì của Đa-vít.
\s5
\v 32 Năm làng của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san,
\v 33 cùng với các làng mạc ở vùng sâu như Ba-anh. Đây là nơi định cư của họ, và họ giữ các bảng gia phổ của họ.
\s5
\v 34 Cấp lãnh đạo họ hàng của họ là Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa con trai của A-ma-xia,
\v 35 Giô-ên, Giê-hu con trai của Giô-xơ-bia cháu Sê-ra-gia chắt của A-si-ên,
\v 36 Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia,
\v 37 Và Xi-xa con trai Si-phi cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri con trai của Sê-ma-gia.
\v 38 Những người nầy được nhắc đích danh đều là lãnh đạo dòng tộc của họ, và dòng tộc họ tăng trưởng rất nhiều.
\s5
\v 39 Họ đến gần Ghê-đô, ở phía Đông vùng đồng bằng, để tìm đồng cỏ cho bầy gia súc của họ.
\v 40 Họ tìm được đồng có dư dật và tươi tốt. Đất thì rộng, yên tĩnh và bình an. Dòng dõi Cham trước đó đã sinh sống ở đây.
\v 41 Những người được nêu đích danh ở đây trong thời vua Ê-xê-chia xứ Giu-đa, và đã tấn công khu định cư của dòng dõi Cham và dân Ma-ô-nít, họ cũng có mặt ở đó. Họ tuyệt diệt chúng hoàn toàn rồi sống ở đó vì họ đã tìm được đồng cỏ cho các bầy gia súc của họ.
\s5
\v 42 Năm trăm người từ chi phái Si-mê-ôn đi đến Núi Sê-i-rơ, với các cấp lãnh đạo của họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên, các con trai của Di-si.
\v 43 Họ đánh bại phần dân A-ma-léc còn sót lại, và đã sống ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Các con trai của Ru-bên trưởng nam Y-sơ-ra-ên — bấy giờ Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, song quyền trưởng nam của được ban cho các con trai của Giô-sép, con của Y-sơ-ra-ên vì Ru-bên làm ô uế giường cha của mình. Vì vậy, ông không được kể là con lớn nhất.
\v 2 Giu-đa là người con mạnh nhất trong các anh em người, và cấp lãnh đạo sẽ ra từ người. Song quyền trưởng nam thì thuộc về Giô-sép.
\v 3 Các con trai của Ru-bên, con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.
\s5
\v 4 Dòng dõi của Giô-ên là đây: con trai của Giô-ên là Sê-ma-gia. Con trai Sê-ma-gia là Gót. Con trai của Gót là Si-mê-i.
\v 5 Con trai của Si-mê-i là Mi-ca. Con trai của Mi-ca là Rê-a-gia. Con trai của Rê-a-gia là Ba-anh.
\v 6 Con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, là người bị Tiếc-lát -Phin-nê-xe vua xứ A-si-ri bắt đi làm phu tù. Bê-ê-ra là lãnh đạo trong chi phái của Ru-bên.
\s5
\v 7 Họ hàng của Bê-ê-ra theo dòng tộc của họ như sau đây, được liệt kê ra trong bản gia phổ: Giê-i-ên con cả, Xa-cha-ri,
\v 8 Bê-la con của A-xa cháu của Sê-ma chắt của Giô-ên. Họ sống tại A-rô-e, xa đến Nê-bô và Ba-anh-Mê-ôn,
\v 9 và phía Đông vào lối đồng vắng dài đến Sông Ơ-phơ-rát. Sở dĩ như vậy là vì họ có nhiều gia súc trong xứ Ga-la-át.
\s5
\v 10 Trong đời vua Sau-lơ, chi phái của Ru-bên đã tấn công dân Ha-ga-rít và đánh bại họ. Họ sống trong lều trại của dân Ha-ga-rít xuyên suốt vùng đất phía Đông Ga-la-át.
\s5
\v 11 Các thành viên của chi phái Gát sống ở gần họ, trong xứ Ba-san đến tận Sanh-ca.
\v 12 Các cấp lãnh đạo của họ là Giô-ên, là trưởng tộc, và Sa-pham là trưởng tộc khác, và Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.
\v 13 Những người thân tộc họ, bởi gia đình của cha họ, là Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia, và Ê-be — cả thảy là bảy người.
\s5
\v 14 Những người nầy được nêu đích danh đều là dòng dõi của A-bi-hai, và A-bi-hai là con trai của Hu-ri. Hu-ri là con trai của Gia-rô-a. Gia-rô-a là con trai của Ga-la-át. Ga-la-át là con trai của Mi-ca-ên. Mi-ca-ên là con trai của Giê-si-sai. Giê-si-sai là con trai của Giác-đô. Giác-đô là con trai của Bu-xơ.
\v 15 A-hi con trai Áp-đi-ên, Áp-đi-ên là con trai của Gu-ni, là trưởng tộc gia đình của cha họ.
\s5
\v 16 Họ sống ở Ga-la-át, trong Ba-san, trong các làng mạc của nó, và trong các đồng cỏ Sa-rôn cho đến tận các đường biên giới của nó.
\v 17 Hết thảy những người nầy được liệt kê theo bản gia phổ vào thời của Vua Giô-tham xứ Giu-đa và thời vua Giê-rô-bô-am xứ Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 18 Chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se có bốn mươi bốn ngàn chiến binh thuần thục cho chiến trận, họ mang khiên và gươm, và giương cung.
\v 19 Họ đã tấn công dân Ha-ga-rít, Giê-tua, Na-phi, và Nô-đáp.
\s5
\v 20 Họ nhận được sự vùa giúp thiêng liêng nghịch lại chúng. Theo phương thức nầy, dân Ha-ga-rít cùng hết thảy những ai ở với họ đều bị đánh bại. Sở dĩ như vậy là vì dân Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu với Đức Chúa Trời trong chiến trận, và Ngài nhậm lời họ, vì họ đặt lòng tin cậy nơi Ngài.
\v 21 Họ chiếm lấy những bầy súc vật, bao gồm năm mươi ngàn lạc đà, 250. 000 chiên, hai ngàn con lừa, và 100. 000 người.
\v 22 Vì Đức Chúa Trời đã đánh trận thay cho họ, họ giết nhiều người trong số kẻ thù. Họ sống trong đất của họ cho đến kỳ lưu đày.
\s5
\v 23 Phân nửa chi phái Ma-na-se đã sống trong xứ Ba-san đến tận Ba-anh-Hẹt-môn và Sê-nia (nghĩa là, Núi Hẹt-môn).
\v 24 Đây là các cấp lãnh đạo của các gia đình họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-riên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Giắc-đi-ên. Họ là những người mạnh mẽ và can đảm, những người nổi tiếng, các cấp lãnh đạo của gia đình họ.
\s5
\v 25 Nhưng họ bất trung đối với Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ. Thay vì thế, họ đã thờ lạy các thần của những dân trong xứ, chúng đã bị Đức Chúa Trời huỷ diệt ở trước mặt họ.
\v 26 Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên khiến Phun, vua của A-si-ri lên (cũng gọi là Tiếc-lác Phin-nê-se, vua của A-si-ri). Ông ta đưa đi lưu đày chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se. Ông ta đưa họ đến Ha-la, Cha-bo, Ha-ra, và đến sông Gô-xan, họ ở đó cho đến ngày nay.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
\v 2 Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Két-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
\v 3 Con cái của Am-ram là A-rôn, Môi-se, và Mi-ri-am. Các con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
\s5
\v 4 Ê-lê-a-sa trở thành cha của Phi-nê-a, Phi-nê-a trở thành cha của A-bi-sua.
\v 5 A-bi-sua trở thành cha của Bu-ki, và Bu-ki trở thành cha của U-xi.
\v 6 U-xi trở thành cha của Xê-ra-hi-gia, và Xê-ra-hi-gia trở thành cha của Mê-ra-giốt.
\s5
\v 7 Mê-ra-giốt trở thành cha của A-ma-ria, và A-ma-ria trở thành cha của A-hi-túp.
\v 8 A-hi-túp trở thành cha của Xa-đốc, và Xa-đốc trở thành cha của A-hi-ma-ách.
\v 9 A-hi-ma-ách trở thành cha của A-xa-ria, và A-xa-ria trở thành cha của Giô-ha-nan.
\s5
\v 10 Giô-ha-na trở thành cha của A-xa-ria, là người phục vụ trong đền thờ do Sa-lô-môn xây dựng tại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 11 A-xa-ria trở thành cha của A-ma-ria, và A-ma-ria trở thành cha của A-hi-túp.
\v 12 A-hi-túp trở thành cha của Xa-đốc, và Xa-đốc trở thành cha của Sa-lum.
\s5
\v 13 Sa-lum trở thành cha của Hinh-kia, và Hinh-kia trở thành cha của A-xa-ria.
\v 14 A-xa-ria trở thành cha của Sê-ra-gia, và Sê-ra-gia trở thành cha của Giê-hô-xa-đác.
\v 15 Giê-hô-xa-đác bị làm phu tù khi Đức Giê-hô-va đày Giu-đa và Giê-ru-sa-lem bởi tay của Nê-bu-cát-nết-sa.
\s5
\v 16 Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
\v 17 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i.
\v 18 Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Két-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
\s5
\v 19 Các con trai của Mê-ra-ri là Mách-li và Mu-si. Mấy người nầy trở nên họ hàng của người Lê-vi bởi các gia đình của tổ phụ họ. Dòng dõi của
\v 20 Ghẹt-sôn khởi sự với con trai ông là Líp-ni. Con trai của Líp-ni là Gia-hát. Con trai ông là Xim-ma.
\v 21 Con trai ông là Giô-a. Con trai ông là Y-đô. Con trai ông là Xê-ra. Con trai ông là Giê-a-trai.
\s5
\v 22 Dòng dõi của Kê-hát khởi sự với con trai ông là A-mi-na-đáp. Con trai ông là Cô-rê. Con trai ông là Át-si. Con trai ông là Ên-ca-na.
\v 23 Con trai ông là Ê-ni-a-sáp. Con trai ông là Át-si.
\v 24 Con trai ông là Ta-hát. Con trai ông là U-ri-ên. Con trai ông là U-xi-gia. Con trai ông là Sau-lơ.
\s5
\v 25 Các con trai của Ên-ca-na là A-ma-sai, A-hi-mốt, và Ên-ca-na.
\v 26 Con trai của Ên-ca-na là Xô-phai. Con trai ông là Na-hát.
\v 27 Con trai ông là Ê-li-áp. Con trai ông là Giê-rô-ham. Con trai ông là Ên-ca-na.
\s5
\v 28 Các con trai của Sa-mu-ên là con đầu lòng, Giô-ên, và A-bi-gia, con thứ.
\v 29 Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li. Con trai ông là Líp-ni. Con trai ông là Si-mê-i. Con trai ông là U-xa.
\v 30 Con trai ông là Si-mê-a. Con trai ông là Ha-ghi-gia. Con trai ông là A-sai-gia.
\s5
\v 31 Sau đây là danh tánh của những người mà Đa-vít đặt để lo về âm nhạc trong nhà của Đức Giê-hô-va, sau khi hòm giao ước yên nghỉ rồi.
\v 32 Họ phục vụ bằng cách ca hát trước đền tạm, nơi nhóm lại, cho đến khi Sa-lô-môn đã xây dựng nhà của Đức Giê-hô-va tại thành Giê-ru-sa-lem. Họ chu toàn các bổn phận theo sự hướng dẫn đã được ban cho họ.
\s5
\v 33 Đây là những người phục vụ với các con trai họ. Từ dòng họ Kê-hát đến nhạc sĩ Hê-man. Đây là các tổ phụ của họ, tính ngược lại: Hê-man là con trai của Giô-ên. Giô-ên là con trai của Sa-mu-ên.
\v 34 Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na. Ên-ca-na là con trai Giê-rô-ham. Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên. Ê-li-ên là con trai của Thô-a.
\v 35 Thô-a là con trai của Xu-phơ. Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na. Ên-ca-na là con trai của Ma-hát. Ma-hát là con trai của A-ma-sai. A-ma-sai là con trai của Ên-ca-na.
\s5
\v 36 Ên-ca-na là con trai của Giô-ên. Giô-ên là con trai của A-xa-ria. A-xa-ria là con trai của Xô-phô-ni.
\v 37 Xô-phô-ni là con trai của Ta-hát. Ta-hát là con trai của Át-si. Át-si là con trai của Ê-ni-a-sáp. Ê-ni-a-sáp là con trai của Cô-rê.
\v 38 Cô-rê là con trai của Két-sê-ha. Két-sê-ha là con trai của Kê-hát. Kê-hát là con trai của Lê-vi. Lê-vi là con trai của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 39 Bạn đồng công của Hê-man là A-sáp, là người đứng bên tay phải ông. A-sáp là con trai của Bê-rê-kia. Bê-rê-kia là con trai của Si-mê-a.
\v 40 Si-mê-a là con trai của Mi-ca-ên. Mi-ca-ên là con trai của Ba-sê-gia. Ba-sê-gia là con trai của Manh-ki-gia.
\v 41 Manh-ki-gia là con trai của Ét-ni. Ét-ni là con trai của Xê-ra. Xê-ra là con trai của A-đa-gia.
\v 42 A-đa-gia là con trai của Ê-than. Ê-than là con trai của Xim-ma. Xim-ma là con trai của Si-mê-i.
\v 43 Si-mê-i là con trai của Gia-hát. Gia-hát là con trai của Ghẹt-sôn. Ghẹt-sôn là con trai của Lê-vi.
\s5
\v 44 Ở bên trái của Hê-man là bạn đồng công của ông các con trai của Mê-ra-ri. Họ gồm có Ê-than con trai của Ki-si. Ki-si là con trai của Áp-đi. Áp-đi là con trai của Ma-lúc.
\v 45 Ma-lúc là con trai của Ha-sa-bia. Ha-sa-bia là con trai của A-ma-xia. A-ma-xia là con trai của Hinh-kia.
\v 46 Hinh-kia là con trai của Am-si. Am-si là con trai của Ba-ni. Ba-ni là con trai của Sê-me.
\v 47 Sê-me là con trai của Mách-li. Mách-li là con trai của Mu-si. Mu-si là con trai của Mê-ra-ri. Mê-ra-ri là con trai của Lê-vi.
\s5
\v 48 Anh em của họ, người Lê-vi, được phân công lo làm mọi công việc trong đền tạm, nhà của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 49 A-rôn và các con trai người đã làm mọi công việc liên quan với nơi chí thánh. Họ dâng các thứ của lễ lên bàn thờ để làm của lễ thiêu. Họ dâng của lễ lên bàn thờ xông hương. Mọi thứ của lễ nầy được dâng lên để làm sự chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên. Họ làm theo mọi sự mà Môi-se tôi tớ của Đức Chúa Trời đã truyền dặn.
\s5
\v 50 Dòng dõi của A-rôn được kể ra như sau: con trai của A-rôn là Ê-lê-a-sa. Con trai của Ê-lê-a-sa là Phi-nê-a. Con trai của Phi-nê-a là A-bi-sua.
\v 51 Con trai của A-bi-sua là Bu-ki. Con trai của Bu-ki là U-xi. Con trai của U-xi là Xê-ra-hi-gia.
\v 52 Con trai của Xê-ra-hi-gia là Mê-ra-giốt. Con trai của Mê-ra-giốt là A-ma-ria. Con trai của A-ma-ria là A-hi-túp.
\v 53 Con trai của A-hi-túp là Xa-đốc. Con trai của Xa-đốc là A-hi-ma-ách.
\s5
\v 54 Sau đây là các địa điểm được phân chia cho các dòng dõi của A-rôn. Cho dòng họ của nhà Kê-hát (họ bắt thăm trước hết):
\v 55 Họ được phân cho Hếp-rôn trong đất của Giu-đa, và địa hạt nó.
\v 56 Nhưng các đồng ruộng của thành cùng các làng mạc bao quanh đều được cấp cho Ca-lép con trai Giê-phu-nê.
\s5
\v 57 Các dòng dõi của A-rôn được cấp cho Hếp-rôn, là thành ẩn náu, Líp-na với địa hạt nó, Gia-tia, Ếch-tê-mô-a với địa hạt nó,
\v 58 Hi-lên với địa hạt nó, và Đê-bia với địa hạt nó.
\s5
\v 59 Các dòng dõi nầy của A-rôn cũng được cấp cho A-san với địa hạt nó và Bết-Sê-mết với địa hạt nó.
\v 60 Từ chi phái Bên-gia-min họ được cấp cho Ghê-ba với địa hạt nó, A-lê-mết với địa hạt nó, và A-na-tốt với địa hạt nó. Dòng họ Kê-hát nầy đã nhận mười ba thành cả thảy.
\s5
\v 61 Đối với phần còn lại của dòng dõi Kê-hát được cấp cho mười thành từ phân nửa chi phái Ma-na-se.
\v 62 Đối với dòng dõi của Ghẹt-sôn trong các họ khác được cấp cho mười ba thành từ chi phái Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và phân nửa chi phái Ma-na-se ở Ba-san.
\s5
\v 63 Đối với dòng dõi của Mê-ra-ri được cấp cho mười hai thành theo bóc thăm các họ khác từ các chi phái Ru-bên, Gát, và Sa-bu-lôn.
\v 64 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã trao các thành nầy và các địa hạt của họ cho người Lê-vi.
\v 65 Họ theo bóc thăm mà cấp cho nhiều làng mạc được nhắc tới ở trên từ các chi phái Giu-đa, Si-mê-ôn, và Bên-gia-min.
\s5
\v 66 Một số dòng họ của dân Kê-hát được cấp cho các thành từ chi phái Ép-ra-im.
\v 67 Họ được cấp cho Si-chem (thành ẩn náu) với địa hạt nó trong xứ đồi núi Ép-ra-im, Ghê-xe với địa hạt nó,
\v 68 Giốc-mê-am với địa hạt nó, Bết Hô-rôn với địa hạt nó,
\v 69 A-gia-lôn với địa hạt nó, và Gát Rin-môn với địa hạt nó.
\s5
\v 70 Từ phân nửa chi phái Ma-na-se họ được cấp cho A-ne với địa hạt nó và Bê-lê-am với địa hạt nó. Các địa điểm nầy trở thành tài sản của các dòng họ Kê-hát.
\s5
\v 71 Đối với dòng dõi của Ghẹt-sôn, họ được cấp cho từ các dòng họ của phân nửa chi phái Ma-na-se, Gô-lan trong Ba-san với địa hạt nó và Ách-ta-rốt với địa hạt nó.
\v 72 Từ chi phái Y-sa-ca, các dòng dõi của Ghẹt-sôn đã nhận lấy Kê-đe với địa hạt nó, Đa-bê-ra với địa hạt nó,
\v 73 Ra-mốt với địa hạt nó, và A-nem với địa hạt nó.
\s5
\v 74 Từ chi phái A-se, họ đã nhận lấy Ma-sanh với địa hạt nó, Áp-đôn với địa hạt nó,
\v 75 Hu-cốc với địa hạt nó, và Rê-hốp với địa hạt nó.
\v 76 Từ chi phái Nép-ta-li, họ đã nhận lấy Kê-đe trong xứ Ga-li-lê với địa hạt nó, Ham-môn với địa hạt nó, và Ki-ria-ta-im với địa hạt nó.
\s5
\v 77 Đối với phần còn lại của chi phái Lê-vi, dòng dõi của Mê-ra-ri, được cấp cho từ chi phái Sa-bu-lôn, Ri-mô-nô với địa hạt nó và Tha-bô với địa hạt nó.
\v 78-79 Đối với họ cũng được cấp cho, ở bên kia sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, phía Đông của con sông, Bết-se trong sa mạc với địa hạt nó, Gia-xa với địa hạt nó, Kê-đê-mốt với địa hạt nó, và Mê-phát với địa hạt nó. Những dòng họ nầy cũng được chi phái Ru-bên cấp đất cho.
\s5
\v 80 Từ chi phái Gát, họ được cấp cho Ra-mốt trong xứ Ga-la-át với địa hạt nó, Ma-ha-na-im với địa hạt nó,
\v 81 Hết-bôn với địa hạt nó, và Gia-a-xe với địa hạt nó.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Bốn con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-a, Gia-súp, và Sim-rôn.
\v 2 Các con trai của Thô-la là U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam, và Sa-mu-ên. Đây là gốc của dòng tộc ra từ các tổ phụ họ, tức là, dòng họ của Thô-la. Họ là hạng người mạnh sức, can đảm. Họ được kê sổ 22. 600 người trong thời của David, theo danh sách của họ.
\v 3 Con trai của U-xi là Dít-ra-hia. Các con trai của ông là Mi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên, Di-si-gia, cả thảy năm trưởng tộc.
\s5
\v 4 Cùng với họ, họ có 36. 000 người ra trận được, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ, vì họ có nhiều vợ và con trai.
\v 5 Các anh em của họ, chi phái Y-sa-ca, có 87. 000 người ra trận được, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ.
\s5
\v 6 Ba con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên.
\v 7 Năm con trai của Bê-la là Ét-nôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri. Họ là lính chiến và là gốc của các họ hàng. Dân sự họ kê sổ 22. 034 chiến binh, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ.
\s5
\v 8 Các con trai của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-xe, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt, và A-lê-mết. Mọi người nầy đều là con trai của ông.
\v 9 Danh sách các dòng họ của họ kê sổ là 20. 200 lãnh đạo gia đình và là những người chiến đấu được.
\v 10 Con trai của Giê-đi-a-ên là Binh-han. Các con trai của Binh-han là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha.
\s5
\v 11 Hết thảy những người nầy là con trai của Giê-đi-a-ên. Được liệt kê trong các danh sách dòng tộc của họ là 17. 200 lãnh đạo và chiến binh phù hợp với chức năng quân sự.
\v 12 (Súp-bim và Hốp-bim là các con trai của Y-rơ, và Hu-sim là con trai của A-he).
\s5
\v 13 Các con trai của Nép-ta-li là Gia-si-ên, Gu-ni, Gie-xe, và Sa-lum. Đây là các cháu nội của Bi-la.
\s5
\v 14 Ma-na-se có đứa con trai tên là Ách-ri-ên, do người hầu A-ram sanh ra. Nàng cũng sanh cho Ma-ki, cha của Ga-la-át.
\v 15 Ma-ki lấy một người vợ từ Hốp-kim và Súp-kim. Tên của người em gái là Ma-a-ca. Dòng dõi khác của Ma-na-se là Xê-lô-phát, là người chỉ có con gái.
\v 16 Ma-a-ca, vợ của Ma-ki, sanh một con trai, và nàng đặt tên nó là Phê-rết. Tên của em nó là Sê-rết, các con trai người là U-lam và Ra-kem.
\s5
\v 17 Con trai của U-lam là Bê-đan. Đây là dòng dõi của Ga-la-át cháu của Ma-ki chắt của Ma-na-se.
\v 18 Em gái Ga-la-át là Ha-mô-lê-kết sanh Y-sốt, A-bi-Ê-xe, và Mác-la.
\v 19 Các con trai của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi, và A-ni-am.
\s5
\v 20 Dòng dõi của Ép-ra-im như sau đây: con trai của Ép-ra-im là Su-tê-la. Con trai của Su-tê-la là Bê-re. Con trai của Bê-re là Ta-hát. Con trai của Ta-hát là Ê-lê-a-đa. Con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát.
\v 21 Con trai của Ta-hát là Xa-bát. Con trai của Xa-bát là Su-tê-la. (Ê-xe và Ê-lê-át bị người của Gát giết, những người dân bản xứ, khi họ đi cướp gia súc của chúng.
\v 22 Ép-ra-im cha họ than khóc cho họ trong nhiều ngày, và các anh em người đến yên ủi người.
\s5
\v 23 Ông ngủ với vợ mình. Nàng sanh cho ông một con trai. Ép-ra-im đặt tên cho nó là Bê-ri-a, vì tai vạ đã đến với gia đình của ông.
\v 24 Con gái ông là Sê-rê-a, là người xây dựng Hạ và Thượng Bết Hô-rôn và U-sên Sê-rê-a).
\s5
\v 25 Con trai ông là Rê-pha. Con trai của Rê-pha là Rê-sép. Con trai của Rê-sép là Tê-la. Con trai của Tê-la là Ta-han.
\v 26 Con trai của Ta-han là La-ê-đan. Con trai của La-ê-đan là Am-mi-hút. Con trai của Am-mi-hút là Ê-li-sa-ma.
\v 27 Con trai của Ê-li-sa-ma là Nun. Con trai của Nun là Giô-suê.
\s5
\v 28 Cơ nghiệp và nơi ở của họ là Bê-tên cùng các làng mạc bao quanh nó. Họ trải dài về phía Đông đến Na-a-ran và về phía Tây cùng các làng mạc nó, rồi đến Sê-kem cùng các làng mạc nó đến Ga-xa cùng các làng mạc nó.
\v 29 Giáp biên giới với Ma-na-se là Bết San cùng các làng mạc nó, Ta-nác cùng các làng mạc nó, Mê-ghi-đô cùng các làng mạc nó, và Đô-rơ cùng các làng mạc nó. Chính trong các thị trấn nầy dòng dõi của Giô-sép con trai của Y-sơ-ra-ên sống ở đó.
\s5
\v 30 Các con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, và Bê-ri-a. Sê-ra là em gái của họ.
\v 31 Các con trai của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên, là cha của Bê-ri-a.
\v 32 Các con trai của Hê-be là Giáp-phơ-lết, Sô-mê, và Hô-tham. Su-a là em gái của họ.
\s5
\v 33 Các con trai của Giáp-phơ-lết là Pha-sác, Bim-hanh, và A-vát. Đây là con cái của Giáp-phơ-lết.
\v 34 Sô-mê, em của Giáp-phơ-lết, có ba con trai: Rô-hê-ga, Hu-ba, và A-ram.
\v 35 Em của Sê-me là Hê-lem, có ba con trai: Xô-pha, Dim-na, Sê-lết, và A-manh.
\s5
\v 36 Các con trai của Xô-pha là Su-a, Hạt-nê-phê, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra,
\v 37 Bê-xe, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran, và Bê-ê-ra.
\v 38 Các con trai của Giê-the là Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra.
\s5
\v 39 Các con trai của U-la là A-ra, Ha-ni-ên, và Ri-xi-a.
\v 40 Hết thảy những người nầy là dòng dõi của A-se. Họ là gốc gác của các dòng tộc, lãnh đạo các gia đình của mình, những người nam biệt riêng ra, những người chiến đấu được, và đứng đầu các cấp lãnh đạo. Đã có 26. 000 người được liệt kê phù hợp với công tác quân sự, theo danh sách kê sổ của họ.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Năm con trai của Bên-gia-min là Bê-la trưởng nam, Ách-bên, Ác-ra,
\v 2 Nô-ha, và Ra-pha.
\v 3 Các con trai của Bê-la là Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút,
\v 4 A-bi-sua, Na-a-man, An-hoa,
\v 5 Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram.
\s5
\v 6 Đây là dòng dõi của Ê-hút, ông là trưởng tộc của các họ hàng cư dân ở Ghê-ba, họ bị buộc phải chuyển đến Ma-na-hát:
\v 7 Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra. Người sau cùng là Ghê-ra, lãnh đạo họ trong việc di dời. Ông là cha của U-xa và A-hi-hút.
\s5
\v 8 Sa-ha-ra-im trở thành cha của mấy đứa con ở trong đất của Mô-áp, sau khi ông ly dị với mấy người vợ là Hu-sim và Ba-ra.
\v 9 Bởi vợ ông là Hê-đe, Sa-ha-ra-im trở thành cha của Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam,
\v 10 Giê-út, Sô-kia, và Mịt-ma. Đây là các con trai của ông, các lãnh đạo trong dòng tộc của họ.
\v 11 Ông đã trở thành cha của A-bi-túp và En-ba-anh do Hu-sim.
\s5
\v 12 Các con trai của En-ba-anh là Ê-be, Mi-sê-am, và Sê-mết (là người xây dựng Ô-nô và Lót với các làng mạc bao quanh nó).
\v 13 Cũng có Bê-ri-a và Sê-ma. Họ là trưởng tộc sống ở A-gia-lôn, họ đã đánh đuổi cư dân của Gát.
\s5
\v 14 Bê-ri-a có các con trai như sau đây: A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt,
\v 15 Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe,
\v 16 Mi-ca-ên, Dít-pha, và Giô-ha.
\v 17-18 En-ba-anh có các con trai như sau: Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, Gié-mê-rai, Gít-lia, và Giô-báp.
\s5
\v 19-21 Si-mê-i có các con trai như sau: Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên, A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát.
\s5
\v 22-25 Sa-sác có các con trai sau đây: Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan, Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, Gíp-đê-gia, và Phê-nu-ên.
\s5
\v 26-27 Giê-rô-ham có các con trai như sau: Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia, Gia-rê-sia, Ê-li-gia, và Xiếc-ri.
\v 28 Đây là các trưởng tộc và lãnh đạo sống trong thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 29 Cha của Ga-ba-ôn là Giê-i-ên, tên vợ người là Ma-a-ca, sống ở Ga-ba-ôn.
\v 30 Con đầu lòng của ông là Áp-đôn, theo sau là Xi-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp,
\v 31 Ghê-đô, A-hi-ô, và Xê-ke.
\s5
\v 32 Con trai khác trong số những con trai của Giê-i-ên là Mích-lô, ông trở thành cha của Si-mê-a. Họ cũng sống gần bà con của họ trong thành Giê-ru-sa-lem.
\v 33 Nê-rơ là cha của Kích. Kích là cha của Sau-lơ. Sau-lơ là cha của Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
\v 34 Con trai của Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh. Mê-ri-Ba-anh là cha của Mi-ca.
\s5
\v 35 Các con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
\v 36 A-cha trở thành cha của Giê-hô-gia-đa. Giê-hô-gia-đa là cha của A-lê-mết, Át-ma-véc, và Xim-ri. Xim-ri là cha của Một-xa.
\v 37 Một-xa là cha của Bi-nê-a. Bi-nê-a là cha của Ra-pha. Ra-pha là cha của Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa là cha của A-xên.
\s5
\v 38 A-xên có sáu con trai: A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan. Hết thảy những người nầy là con trai của A-xên.
\v 39 Các con trai của Ê-sết, em người, là U-lam con đầu lòng, Giê-úc con thứ, và Ê-li-phê-lết thứ ba.
\v 40 Các con trai của ông là những chiến binh và cung thủ. Họ có nhiều con trai và cháu trai, tổng cộng là 150. Hết thảy những người nầy thuộc về dòng dõi của Bên-gia-min.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên đã được ghi chép trong các bản gia phổ. Họ đã được chép trong Sách Các Vua của kìa đã ghi chép vào sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên. Còn về dân Giu-đa, họ bị bắt đem đi làm phu tù trong xứ Ba-by-lôn vì cớ tội lỗi của họ.
\v 2 Người đầu tiên tái định cư trong các thành của họ là số người Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, người Lê-vi, và các tôi tớ trong đền thờ.
\v 3 Một số dòng dõi của người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Ép-ra-im, và người Ma-na-se sống tại thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 4 Những người định cư gồm có có U-thai, con trai của A-mi-hút, cháu của Ôm-ri, chắt của Im-ri, chít của Ba-ni, một dòng dõi của Phê-rết, con của Giu-đa.
\v 5 Giữa vòng người Si-lô-ni là A-sai-gia trưởng nam cùng các con trai người.
\v 6 Giữa vòng dòng dõi của Xê-rách là Giê-u-ên. Các dòng dõi người đếm được sáu trăm chín mươi người.
\s5
\v 7-9 Giữa vòng dòng dõi của Bên-gia-min là Sa-lu, con của Mê-su-lam cháu của Hô-đa-via; chắt của A-sê-nu-a; Cũng có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con của Sê-pha-tia; cháu của Rê-u-ên; chắt của Gíp-nê-gia, Những người bà con của họ được ghi trong các bản gia phổ kê sổ là chín trăm năm mươi sáu người. Những người ấy đều là trưởng tộc của các tổ phụ họ
\s5
\v 10 Các thầy tế lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin,
\v 11 Cũng có A-xa-ria, con của Hinh-kia; cháu của Mê-su-lam; chắt của Xa-đốc; chít của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt là con trai của A-hi-túp, là kẻ cai quản nhà của Đức Chúa Trời;
\s5
\v 12 Có A-đa-gia, con của Giê-rô-ham; cháu của Giê-rô-ham, chắt của Pha-sua; chít của Manh-ki-gia. Cũng có Ma-ê-sai con của A-đi-ên; cháu của Gia-xê-ra; chắt của Mê-su-lam; chít của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít là con của Y-mê;
\v 13 Những người bà con của họ đều là trưởng tộc trong dòng tộc của tổ phụ họ, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người. Họ là những người có khả năng trong công tác của nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Giữa vòng người Lê-vi có Sê-ma-gia, con của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; giữa vòng các dòng dõi của Mê-ra-ri;
\v 15 Cùng có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, con của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp;
\v 16 Cũng có Ô-ba-đia, con của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum; và Bê-rê-kia, con của A-sa, cháu của En-ca-na, họ sống trong các làng mạc của dân Nê-tô-pha-tít.
\s5
\v 17 Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và dòng dõi của họ; Sa-lum làm đầu.
\v 18 Trước đó, họ đứng tại cổng vua về phía Đông trại quân của dòng dõi người Lê-vi.
\v 19 Sa-lum con Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em người; thuộc về họ của cha mình, dân Cô-rê, lo công việc của đền thờ, và canh giữ các sân đạp lúa của đền tạm. Đây đúng là các tổ phụ của họ đã cai quản lối vào chỗ Đức Giê-hô-va ngự.
\s5
\v 20 Phi-nê-a, con trai của Ê-lê-a-sa, quản trị họ trong quá khứ, và Đức Giê-hô-va ở với người.
\v 21 Xa-cha-ri, con trai của Mê-sê-lê-mia, là kẻ canh giữ lối vào Đền Thờ, “nơi nhóm lại”.
\s5
\v 22 Hết thảy những kẻ nầy được lựa chọn làm người canh giữ những lối vào, số là hai trăm mười hai người. Tên họ của chúng được ghi trong bản ghi chép của dân sự theo các làng mạc của họ; vua Đa-vít và Sa-mu-ên đấng tiên kiến, đã đặt họ vào các chức sắc đáng tin cậy.
\v 23 Vậy, họ cùng con cháu họ đứng canh giữ những cổng của nhà Đức Giê-hô-va, là đền tạm.
\v 24 Những kẻ canh giữ cổng được đặt ở bốn phía: đông, tây, nam, và bắc.
\s5
\v 25 Anh em của họ, họ sống trong các làng mạc của họ, họ đến xoay vòng theo phiên thứ hàng tuần.
\v 26 Nhưng bốn người Lê-vi làm trưởng những người canh cửa, được phân công lo canh chừng các phòng ốc và kho tàng trong nhà của Đức Chúa Trời.
\v 27 Họ sử dụng buổi tối ở các trạm xung quanh nhà của Đức Chúa Trời canh giữ nó; vì họ chịu trách nhiệm canh giữ chúng. Mỗi sáng họ sẽ mở cửa ra.
\s5
\v 28 Một số người trong họ lo giữ gìn trang thiết bị của đền thờ, họ đếm các món đồ khi đem ra đem vào.
\v 29 Một số người trong họ được phân công coi sóc các đồ vật thánh, trang thiết bị, và các thứ chu cấp bao gồm bột miến, rượu, dầu, nhũ hương, và các thứ thuốc thơm.
\s5
\v 30 Một số các con trai thầy tế lễ chế các thứ hương liệu.
\v 31 Ma-ti-thia, một trong những người Lê-vi, con đầu lòng của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-rê, coi sóc việc chuẩn bị bánh cho các thứ của lễ.
\v 32 Một số trong các anh em của họ, dòng dõi Kê-hát, coi sóc về bánh trần thiết, sắm sẵn nó cho từng ngày sa-bát.
\s5
\v 33 Những người ca hát và các trưởng tộc gia đình người Lê-vi vẫn ở trong các phòng tại nơi thánh khi họ được phân công phục sự ngày và đêm, nên được miễn các công việc khác.
\v 34 Đây là những trưởng tộc gia đình của người Lê-vi, như đã được kê sổ trong các bản tường trình gia phổ của họ. Họ sống trong thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 35 Cha của Ga-ba-ôn là Giê-i-ên, tên của vợ ông là Ma-a-ca, sống tại thành Ga-ba-ôn.
\v 36 Con trưởng nam của người là Áp-đôn; kế đến các con trai ông là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp,
\v 37 Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lô.
\s5
\v 38 Mích-lô là cha của Si-mê-am. Họ cũng sống gần anh em của họ thành Giê-ru-sa-lem.
\v 39 Nê-rơ là cha của Kích; Kích là cha của Sau-lơ; Sau-lơ là cha của Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
\v 40 Con trai Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh; Mê-ri-Ba-anh là cha của Mi-ca.
\s5
\v 41-43 Các con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha. A-cha là cha của Gia-ê-ra; Gia-ê-ra là cha của A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri là cha của Một-sa; Một-sa là cha của Bi-nê-a. Bi-nê-a là cha của Rê-pha-gia. Rê-pha-gia là cha của of Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa là cha của A-xên.
\v 44 Sáu người con của A-xên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan; ấy đều là con trai của A-xên.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Bấy giờ, dân Phi-li-tin giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Từng người trong Y-sơ-ra-ên chạy trốn trước mặt dân Phi-li-tin, rồi ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.
\v 2 Dân Phi-li-tin đuổi theo sát Sau-lơ cùng các con trai người. Dân Phi-li-tin giết Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua, các con trai người.
\v 3 Trận chiến rất kịch liệt chống lại Sau-lơ; khi các cung thủ tiến sát người. Người bị thương nặng vì cớ các cung thủ.
\s5
\v 4 Khi ấy, Sau-lơ bảo kẻ vác binh khí mình rằng: “Ngươi hãy rút gươm ngươi ra rồi đâm gươm ấy vào người ta. Bằng không, những kẻ chẳng chịu cắt bì kia đến sỉ nhục ta”. Song kẻ vác binh khí người không nghe theo, vì hắn rất đỗi sợ hãi. Vì vậy, Sau-lơ bèn cầm lấy gươm mình rồi thúc nó vào ngực.
\s5
\v 5 Khi kẻ vác binh khí thấy Sau-lơ đã chết rồi, tương tự, hắn cúi thúc ngực mình vào gươm rồi ngã chết.
\v 6 Vậy, Sau-lơ, ba con trai người, và hết thảy các thành viên trong nhà người đều cùng nhau ngã chết.
\s5
\v 7 Khi từng người Y-sơ-ra-ên ở trong đồng bằng thấy họ đã trốn đi, Sau-lơ cùng các con trai người đã chết rồi, thì bỏ thành mình mà trốn đi. Khi ấy, dân Phi-li-tin đến và sống trong các thành ấy.
\v 8 Qua ngày hôm sau, dân Phi-li-tin đến lột trần những kẻ tử trận, thì thấy Sau-lơ cùng các con trai người ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.
\s5
\v 9 Chúng lột thây, chặt đầu người, tịch thu binh khí người. Họ sai sứ giả đi khắp xứ Phi-li-tin, để báo tin cho các thần tượng và dân sự hay.
\v 10 Chúng để binh khí người tại trong miễu các thần của chúng nó, còn đầu người thì đóng đinh treo trong chùa Đa-gôn.
\s5
\v 11 Khi hết thảy Gia-be ở Ga-la-át nghe mọi điều dân Phi-li-tin đã làm cho Sau-lơ,
\v 12 hết thảy những chiến binh đi lên lấy xác vua Sau-lơ và xác các con trai người, rồi đem về Gia-be. Chúng chôn hài cốt của họ dưới cây sồi tại Gia-be, rồi kiêng ăn bảy ngày.
\s5
\v 13 Vậy, vua Sau-lơ đã chết vì ông bất trung đối với Đức Giê-hô-va. Ông không vâng theo những giáo huấn của Đức Giê-hô-va, nhưng cầu tìm lời khuyên từ kẻ trò chuyện với người chết,
\v 14 Người chẳng có tìm sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va, vậy, Đức Giê-hô-va đã giết người và phó vương quốc cho Đa-vít con trai của Gie-sê.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Lúc ấy, cả Y-sơ-ra-ên đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn, mà nói rằng: Kìa, chúng tôi vốn là xương thịt của ông.
\v 2 Mới rồi đây, khi Sau-lơ còn làm vua trên chúng tôi, chính ông đã lãnh đạo quân đội Y-sơ-ra-ên; Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông có phán cùng ông rằng: “Ngươi sẽ chăn dân Y-sơ-ra-ên ta, và ngươi sẽ trở thành người cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta”.
\v 3 Vậy, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cùng vua ở Hếp-rôn; Đa-vít bèn lập giao ước với chúng trước mặt Đức Giê-hô-va. Chúng xức dầu cho Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Theo cách thức nầy Lời của Đức Giê-hô-va đã thành ra sự thực y như Sa-mu-ên đã tuyên bố.
\s5
\v 4 Đa-vít và cả dân Y-sơ-ra-ên đi lên thành Giê-ru-sa-lem, (tức là Giê-bu). Bấy giờ, người Giê-bu-sít, là dân bản xứ, đã ở đó.
\v 5 Dân cư của Giê-bu nói cùng Đa-vít rằng: “Ngươi sẽ chẳng vào được đây”. Nhưng Đa-vít chiếm lấy đồn lũy Si-ôn, ấy là thành Đa-vít.
\v 6 Đa-vít nói rằng: Hễ ai hãm đánh dân Giê-bu-sít trước hết sẽ được làm quan tổng binh. Vậy, Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đi lên đánh trước hết, nên được phong là tổng binh.
\s5
\v 7 Khi ấy Đa-vít bắt đầu sống trong đồn. Vì vậy, họ gọi là thành của Đa-vít.
\v 8 Từ Mi-lô người xây tường thành bốn phía. Giô-áp lo củng cố phần còn lại của thành.
\v 9 ngày càng cường thạnh vì Đức Giê-hô-va vạn quân ở cùng người.
\s5
\v 10 Đây là cấp lãnh đạo mà Đa-vít đã có, họ tỏ mình ra mạnh mẽ với người trong vương quốc của người, cùng với cả Y-sơ-ra-ên, lập người lên làm vua, vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã phán về Y-sơ-ra-ên.
\v 11 Nầy là danh sách binh lính mạnh dạn của Đa-vít: Gia-sô-bê-am, con trai của Hác-mô-ni, làm đầu ba mươi tướng. Ông dùng giáo mình mà giết ba trăm người một lượt.
\s5
\v 12 Sau người có Ê-lê-a-sa, con trai của Đô-đô, ở A-hô-a, ông là một trong ba người mạnh dạn.
\v 13 Người nầy ở cùng Đa-vít nơi Pha-đa-mim, và ở đó người Phi-li-tin tập trung lại đặng giao chiến, ở đó có một đám ruộng lúa mạch, và quân đội chạy trốn khỏi mặt dân Phi-li-tin.
\v 14 Họ đứng ở giữa ruộng, bảo vệ nó, và đánh hơn dân Phi-li-tin. Đức Giê-hô-va đã giải cứu họ với một chiến thắng thật lớn.
\s5
\v 15 Và ba trong số ba mươi tướng lãnh, họ đi xuống hang đá A-đu-lam, đến cùng Đa-vít. Quân đội Phi-li-tin đóng trại trong trũng Rê-pha-im.
\v 16 Lúc ấy Đa-vít còn ở trong đồn, trong khi dân Phi-li-tin thiết lập trại của họ ở Bết-lê-hem.
\v 17 Đa-vít ước muốn uống nước mà rằng: “Nếu có ai ban cho ta nước uống của giếng từ thành Bết-lê-hem, cái giếng ở bên cạnh cổng thành ấy!"
\s5
\v 18 Vậy, ba người mạnh sức nầy xông ngang qua trại quân Phi-li-tin múc nước của cái giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, cái giếng ở bên cạnh cổng thành. Họ đem nước về trao cho Đa-vít; song người từ chối không chịu uống nước ấy. Thay vì thế, ông rảy nước ấy ra trước mặt Đức Giê-hô-va,
\v 19 Khi ấy ông nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin đừng dan xa khỏi tôi, tôi sẽ uống nước nầy chăng? Tôi hẳn không uống huyết của ba người nầy, họ đã liều mạng mình, ông từ chối không uống nước ấy. Đây là những việc của ba người mạnh dạn đó đã làm.
\s5
\v 20 A-bi-sai, em của Giô-áp, làm đầu ba người mạnh dạn đó. Ông dùng giáo mình chống lại ba trăm người rồi giết họ. Ông thường được nhắc tới với ba người ấy.
\v 21 Trong ba người mạnh dạn đó, người được tôn trọng hơn và trở thành thủ lãnh của họ. Tuy nhiên, tiếng tăm của ông không bằng tiếng tăm của ba người nối tiếng nhất.
\s5
\v 22 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, là một người mạnh dạn đã làm nhiều việc cả thể. Ông đã giết hai con trai mạnh bạo hơn hết của A-ri-ên xứ Mô-áp. Ông cũng đi xuống một cái hố giết một con sư tử trong khi trời đổ tuyết xuống.
\v 23 Ông cũng giết một người Ê-díp-tô cao năm cubits (42, 7cmx5=212 cm=2m12); người Ê-díp-tô có ngọn giáo lớn bằng trục máy dệt, nhưng Bê-na-gia đi xuống đón người, tay cầm một cây gậy, tước lấy ngọn giáo khỏi tay người Ê-díp-tô, rồi dùng giáo của hắn mà giết hắn.
\s5
\v 24 Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa đã làm mọi việc nầy, được nổi danh cùng với ba người mạnh dạn.
\v 25 Nói chung, ông được tôn trọng hơn ba ngươi chiến binh, song chẳng bằng ba người kia. Đa-vít đặt người chỉ huy vệ binh của ông.
\s5
\v 26 Những người mạnh dạn là: A-sa-ên, em của Giô-áp; En-ca-nan, con trai của Đô-đô ở Bết-lê-hem;
\v 27 Sa-mốt, người Ha-rôn; Hê-lết, người Pha-lôn;
\v 28 Y-ra, con trai của Y-kết ở Thê-kô-a; A-bi-ê-xe ở A-na-tốt;
\v 29 Si-bê-cai người Hu-sa; Y-lai người A-hô-a;
\s5
\v 30 Ma-ha-rai người Nê-tô-pha; Hê-lết, con trai của Ba-a-na người Nê-tô-pha;
\v 31 Y-tai, con trai Ri-bai ở Ghi-bê-a, thành của dòng dõi Bên-gia-min; Bê-na-gia người Phi-ra-thôn;
\v 32 Hu-rai thuộc trũng Na-ha-lê-Ga-ách; A-bi-ên người A-ra-ba;
\v 33 Ách-ma-vết người Ba-hu-rim; Ê-li-ác-ba người Sa-anh-bôn;
\s5
\v 34 Các con trai của Bê-nê-ha-sem người Ghi-xôn; Giô-na-than, con trai Sa-ghê người Ha-ra;
\v 35 A-hi-giam con trai Sa-ca người Ha-ra; Ê-li-pha, con trai U-rơ;
\v 36 Hê-phe người Mê-kê-ra; A-hi-gia người Pha-lôn;
\v 37 Hết-rô người Cạt-mên; Na-a-rai con trai E-bai;
\s5
\v 38 Giô-ên em của Na-than, Mi-bê-ha, con trai của Ha-gơ-ri;
\v 39 Xê-léc là người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-ê-rốt, là kẻ vác binh khí của Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia.
\v 40 Y-ra người Giê-the; Ga-rép người Giê-the;
\v 41 U-ri người Hê-tít; Xa-bát con trai Ác-lai;
\s5
\v 42 A-đi-na con trai của Si-xa người Ru-bên, trưởng tộc dòng Ru-bên, và có ba mươi chiến binh ở với người;
\v 43 Ha-nan con trai của Ma-a-ca; và Giô-sa-phát người Mê-then;
\v 44 U-xia người Ách-ta-rốt; Sa-ma và Giê-hi-ên, con trai của Hô-tam người A-rô-e;
\s5
\v 45 Giê-đi-a-ên con trai của Sim-ri; Giô-ha em người, dân Thi-sít;
\v 46 Ê-li-en người Ma-ha-vim; Giê-ri-bai và Giô-sa-via hai con trai của En-na-am; Gít-ma người Mô-áp;
\v 47 Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên, người Mết-sô-ba.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là những người đã đến với Đa-vít tại Xiếc-lác, khi ông bị trục xuất khỏi sự hiện diện của Sau-lơ, con trai của Kích. Họ có mặt giữa vòng các chiến binh, những kẻ giúp đỡ ông trong chiến trận.
\v 2 Họ được trang bị cung tên, có thể sử dụng cả hai tay ném đá bằng trành. Họ đều là người Bên-gia-min, chi phái thân tộc của Sau-lơ.
\s5
\v 3 A-hi-ê-xe làm đầu, kế đó là Giô-ách — cả hai đều là con trai của Sê-ma người Ghi-bê-a. Đã có Giê-xi-ên và Phê-lết, hai con trai của Ách-ma-vết; Bê-ra-ca, Giê-hu người A-na-tốt,
\v 4 Gít-mai-gia người Ga-ba-ôn — một chiến binh trong ba mươi chiến binh, và làm đầu họ — lại có Giê-rê-mi; Gia-ha-xi-ên; Giô-ha-nan; Giô-xa-bát người Ghê-đê-ra;
\s5
\v 5 Ê-lu-xai; Giê-ri-mốt; Bê-a-lia; Sê-ma-li-a; Sê-pha-ti-a người Ha-rốp;
\v 6 Người Cô-rê: Ên-ca-na, Di-si-gia, A-xa-rên, Giô-ê-xe, và Gia-sô-bê-am và
\v 7 Giô-ê-la và Xê-ba-đia, hai con trai của Giê-rô-ham người Ghê-đô.
\s5
\v 8 Một số người Gát hiệp với Đa-vít tại nơi đồn trong đồng vắng. Họ vốn là hạng chiến binh, được huấn luyện thuần thục để tác chiến, họ có thể cầm khiên, giáo, diện mạo như sư tử. Họ lanh lẹ như hoàng dương ở trên núi.
\s5
\v 9 Đã có Ê-xe lãnh đạo; Ô-ba-đia thứ nhì, Ê-li-áp thứ ba,
\v 10 Mích-ma-nan thứ tư, Giê-rê-mi thứ năm,
\v 11 Ạt-tai thứ sáu, Ê-li-ên thứ bảy,
\v 12 Giô-ha-nan thứ tám, Ên-xa-bát thứ chín,
\v 13 Giê-rê-mi thứ mười, Mác-ba-nai thứ mười một,
\s5
\v 14 Các con trai của Gát, làm chỉ huy trong quân đội; kẻ nhỏ cai một trăm người, kẻ lớn cai một ngàn người.
\v 15 Họ băng qua sông Giô-đanh trong tháng thứ nhứt, lúc nước tràn bờ, rồi đánh đuổi các hết thảy những kẻ sống trong đồng bằng hoặc về phía đông hay về phía tây.
\s5
\v 16 Một số người thuộc chi phái Bên-gia-min và Giu-đa đã đến với Đa-vít trong đồn người.
\v 17 Đa-vít ra đón rước họ, mà nói rằng: Nếu anh em đến cùng ta trong hòa bình để giúp đỡ ta, thì lòng ta sẽ hiệp cùng anh em; ví bằng anh em thầm mưu phản ta trước kẻ thù nghịch, nguyện Đức Chúa Trời của tổ phụ ta xem xét và quở trách anh em; một khi ta chẳng làm chi sai lầm.
\s5
\v 18 Khi ấy Đức Thánh Linh giáng trên A-ma-sai là chỉ huy của ba mươi người ấy. A-ma-sai nói rằng: Hỡi Đa-vít, chúng tôi thuộc về ông! Hỡi con trai Y-sai, chúng tôi ở về phía ông! Hãy bình yên, nguyện bình yên giáng trên kẻ giúp đỡ ông; bởi vì Đức Chúa Trời ông đang phò trợ ông! Khi ấy Đa-vít tiếp nhận các người ấy rồi lập làm chỉ huy trên người của ông.
\s5
\v 19 Cũng có một số người thuộc về Mê-na-se đến theo Đa-vít khi người cùng quân Phi-li-tin đi giao chiến với Sau-lơ. Tuy nhiên, họ chẳng giúp đỡ dân Phi-li-tin, vì các quan trưởng Phi-li-tin bàn luận nhau rồi đuổi Đa-vít đi. Họ nói: “E nó trở về cùng Sau-lơ, chủ nó, rồi gây hại cho mạng sống chúng ta chăng”.
\v 20 Khi người trở về Xiếc-lác, người của Ma-na-se đến hiệp với ông, là At-na, Giô-xa-bát, Ê-li-hu, và Xi-lê-thai, đều là cấp chỉ huy ngàn quân trong chi phái Ma-na-se.
\s5
\v 21 Họ giúp đỡ Đa-vít đối địch với quân giặc cướp, bởi vì họ đều là hạng chiến binh. Sau đó họ trở thành tướng lãnh trong quân đội.
\v 22 Hằng ngày, có nhiều người đến với Đa-vít đặng giúp đỡ người, cho đến khi có một quân đội lớn, như đội quân của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 23 Đây là tường trình về các chiến sĩ vũ trang cho chiến trường, họ đã đến với Đa-vít tại Hếp-rôn, đặng chuyển vương quốc của Sau-lơ qua cho ông, theo như lời của Đức Giê-hô-va.
\v 24 Từ chi phái Giu-đa, những kẻ cầm khiên và giáo là sáu ngàn tám trăm người, được vũ trang để giao chiến.
\v 25 Từ chi phái Si-mê-ôn, có bảy ngàn một trăm chiến binh.
\s5
\v 26 Từ chi phái Lê-vi, có 4. 600 chiến binh.
\v 27 Giê-hô-gia-đa chỉ huy dòng dõi của A-rôn, và với ông có 3. 700 người.
\v 28 Với Xa-đốc, còn trẻ, mạnh dạn, và can đảm, là 20 lãnh đạo từ gia tộc của tổ phụ ông.
\s5
\v 29 Từ chi phái Bên-gia-min, chi phái của Sau-lơ, là 3. 000 người. Hầu hết họ còn giữ lòng trung thành với Sau-lơ cho đến thời điểm nầy.
\v 30 chi phái Ép-ra-im, đã có 20. 800 chiến binh, những người nổi tiếng trong gia đình của tổ phụ họ.
\v 31 Từ nửa chi phái Ma-na-se, có 18. 000 người nổi tiếng, họ đến để lập Đa-vít làm vua.
\s5
\v 32 Từ chi phái Y-sa-ca, có 200 vị lãnh đạo, họ kẻ hiểu biết thời thế và biết rõ dân Y-sơ-ra-ên nên làm gì. Hết thảy tông tộc họ đều ở dưới quyền chỉ huy của họ.
\v 33 Từ chi phái Sa-bu-lôn, có 50. 000 chiến binh, đã sửa soạn cho chiến trường, với các thứ binh khí, và sẵn sàng lâm chiến và sẵn sàng dâng lòng trung thành không dời đổi.
\s5
\v 34 Từ chi phái Nép-ta-li, có 1. 000 quan cai, với họ có 37. 000 người với khiên và giáo.
\v 35 Từ chi phái Đan, có 28. 600 người đã chuẩn bị cho chiến trận.
\s5
\v 36 Từ chi phái A-se, đã có 40. 000 người đã chuẩn bị cho chiến trận.
\v 37 Từ phía bên kia sông Giô-đanh, từ chi phái Ru-bên, Gát, và nửa chi phái Ma-na-se, có 120. 000 người được vũ trang với đủ loại vũ khí cho chiến trận.
\s5
\v 38 Hết thảy các chiến binh nầy, đã được chuẩn bị cho chiến trận, đã đến với Hếp-rôn đặng lập Đa-vít lên làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên; Hết thảy phần còn lại trong Y-sơ-ra-ên cũng đều nhất trí muốn lập Đa-vít lên làm vua.
\v 39 Họ có mặt tại đó với vua Đa-vít ba ngày, ăn uống; vì bà con của họ gửi đến cho họ các thứ viện trợ.
\v 40 Thêm nữa, những người ở gần họ, đến tận Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, và Nép-ta-li, họ chở bánh trên lưng lừa, lạc đà, con la, và con bò, nào các thứ bánh trái vả, nho khô, rượu, dầu, cùng dẫn bò và chiên đến rất nhiều, vì Y-sơ-ra-ên có tiệc tùng.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đa-vít hội ý với các tướng lãnh ngàn quân, quan tướng trăm quân, cùng cấp lãnh đạo.
\v 2 Đa-vít nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu anh em xem là tốt lành, và nếu sự nầy đến từ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, thì chúng ta hãy sai các sứ giả đi khắp mọi nơi, đến với các anh em chúng ta còn lại trên khắp xứ Y-sơ-ra-ên, và đến cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi đang sống trong các thành của họ, để họ đến hiệp cùng chúng ta;
\v 3 Chúng ta đưa hòm giao ước của Đức Chúa Trời chúng ta về lại với chúng ta; vì chúng ta không có tìm kiếm ý chỉ của Ngài trong đời trị vì của Sau-lơ”.
\v 4 Cả hội chúng đều nhất trí làm theo những việc nầy; vì mọi sự ấy lấy làm đúng theo mắt của mọi người.
\s5
\v 5 Vì vậy Đa-vít tập trung hết thảy dân Y-sơ-ra-ên lại, từ sông Si-hô trong xứ Ai-cập cho đến Lê-bô-Ha-mát, để đưa hòm của Đức Chúa Trời về từ Ki-ri-át-Giê-a-rim.
\v 6 Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đi lên tại Ba-a-la, tức là, Ki-ri-át-Giê-a-rim, thuộc về chi phái Giu-đa, đặng rước hòm của Đức Chúa Trời lên, hòm được gọi theo danh xưng của Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va là Đấng đang ngự giữa Chê-ru-bin.
\s5
\v 7 Vì vậy họ đặt hòm giao ước của Đức Chúa Trời lên một chiếc xe bò mới. Họ thỉnh hòm ấy từ nhà của A-bi-na-đáp. U-xa và A-hi-ô thì đang dẫn dắt chiếc xe.
\v 8 Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đều hết sức tiệc tùng trước mặt trước mặt Đức Chúa Trời. Họ ca hát với đàn cầm, đàn sắt, trống cơm, chập chỏa, và các thứ kèn.
\s5
\v 9 Khi chúng đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa bèn giơ tay ra nắm lấy hòm, bởi vì con bò bị vấp chân
\v 10 Khi ấy cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng U-xa, và Đức Giê-hô-va giết người đi, bởi vì người có giơ tay ra nắm lấy hòm. Người ngã chết tại đó trước mặt Đức Chúa Trời.
\v 11 Đa-vít rất giận vì Đức Giê-hô-va đã tấn công U-xa. Chỗ ấy được gọi là Bê-rết-U-xa cho đến ngày nay.
\s5
\v 12 Trong ngày ấy, Đa-vít lấy làm sợ hãi Đức Chúa Trời. Ông nói: “Phải thỉnh hòm của Đức Chúa Trời về với ta bằng cách nào chứ? ”
\v 13 Vậy, Đa-vít không thỉnh hòm tới thành Đa-vít, nhưng đặt hòm ấy vào nhà Ô-bết-Ê-đôm, là người Gát.
\v 14 Hòm của Đức Chúa Trời ở lại ba tháng trong nhà Ô-bết-Ê-đôm; thế là Đức Giê-hô-va chúc phước cho nhà Ô-bết-Ê-đôm và mọi vật thuộc về người.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Hi-ram, vua Ty-rơ, sai sứ giả đến Đa-vít, cùng gởi gỗ bá hương, thợ hồ, thợ mộc. Họ cất cho người một cung điện.
\v 2 Đa-vít nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va đã lập mình lên làm vua trên Y-sơ-ra-ên; vì vương quốc của ông được tôn cao vì cớ dân sự Y-sơ-ra-ên của ông.
\s5
\v 3 Tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít lấy thêm mấy người vợ khác nữa, và trở thành cha của nhiều con trai con gái.
\v 4 Nầy là tên các con cái sanh cho ông tại thành Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-háp, Na-than, Sa-lô-môn,
\v 5 Gi-ba, Ê-li-sua, En-bê-lết,
\v 6 Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,
\v 7 Ê-li-sa-ma, Bê-ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.
\s5
\v 8 Bấy giờ, khi dân Phi-li-tin hay rằng Đa-vít đã được xức dầu làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên, thì hết thảy chúng đều đi lên đặng tìm người; Đa-vít hay đều đó, bèn đi ra đón đánh chúng nó.
\v 9 Dân Phi-li-tin đã loán đến, rồi mở một chiến dịch trong trũng Rê-pha-im.
\s5
\v 10 Đa-vít cầu xin sự phù trợ từ Đức Chúa Trời, ông nói: “Tôi có nên tấn công dân Phi-li-tin chăng? Liệu Chúa có ban cho tôi thắng hơn chúng không? Đức Giê-hô-va phán cùng người rằng: “Hãy tấn ông đi, vì chắc chắn ta sẽ phó chúng cho ngươi”.
\v 11 Vậy, chúng kéo lên Ba-anh-Phê-rát-sim, rồi ở đó Đa-vít đánh bại chúng nó. Ông nói rằng: “Đức Giê-hô-va có dùng tay ta đã đánh tan tác những kẻ thù nghịch ta, như nước vỡ bờ vậy”. Vậy, người ta gọi chỗ đó là Ba-anh-Phê-rát-sim.
\v 12 Người Phi-li-tin bỏ các thần tượng mình lại đó; và Đa-vít ban lệnh thiêu chúng nó trong lửa.
\s5
\v 13 Khi ấy, dân Phi-li-tin lại bủa khắp trong trũng một lần nữa.
\v 14 Đa-vít cầu vấn Đức Chúa Trời một lần nữa; Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: “Ngươi chớ tấn công chúng nó chính diện; thay vì thế hãy vòng ra phía sau chúng, rồi hãm đánh chúng nó tại nơi đối ngang rừng cây dâu.
\s5
\v 15 Vừa khi ngươi nghe tiếng bước trên ngọn cây dâu, khi ấy hãy dùng sức mà tấn công. Hãy làm theo mạng lịnh nầy vì Đức Chúa Trời đi ra trước các ngươi đặng tấn công quân đội Phi-li-tin".
\v 16 Thế là Đa-vít làm theo y như Đức Chúa Trời đã truyền ra cho ông. Họ đánh bại quân đội dân Phi-li-tin từ Ga-ba-ôn cho đến Ghê-xe.
\v 17 Thế rồi danh tiếng của Đa-vít đồn ra trong khắp các nước; và Đức Giê-hô-va khiến cho các dân đều kinh sợ ông.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đa-vít cất cho mình những cung đền tại thành Đa-vít. Ông sắm sửa một chỗ cho hòm của Đức Chúa Trời và dựng lên cái trại cho cho hòm ấy.
\v 2 Khi ấy Đa-vít bèn nói rằng: “Chỉ có người Lê-vi mới có thể khiêng hòm của Đức Chúa Trời, vì Đức Giê-hô-va đã chọn họ để khiêng nó và hầu việc Ngài cho đến đời đời”.
\v 3 Đa-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên lại tại thành Giê-ru-sa-lem, để đem hòm của Đức Giê-hô-va đến chỗ mà ông đã sắm sẵn cho nó.
\s5
\v 4 Đa-vít cũng nhóm con cháu A-rôn và người Lê-vi lại:
\v 5 Từ dòng dõi Kê-hát có U-ri-ên là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 120 người.
\v 6 Từ dòng dõi của Mê-ra-ri có A-sa-gia, là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 220 người;
\s5
\v 7 Từ dòng dõi của Ghẹt-sôn có Giô-ên là trưởng tộc cùng các thân tộc, được 130 người.
\v 8 Từ dòng dõi Ê-li-sa-phan có Sê-ma-gia là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 200 người.
\v 9 Từ dòng dõi của Hếp-rôn có Ê-li-ên là lãnh đạo, cùng các thân tộc, được 80 người.
\v 10 Từ dòng dõi của U-xi-ên có A-mi-na-đáp là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 112 người.
\s5
\v 11 Đa-vít gọi hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha, cùng những người Lê-vi như U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và A-mi-na-đáp,
\v 12 Ông nói với họ: Anh em là lãnh đạo của các gia đình người Lê-vi. Hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va, cả anh em cùng anh em các ngươi, hầu cho anh em có thể khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đến nơi mà ta đã sắm sẵn.
\s5
\v 13 Anh em không có khiêng hòm lần thứ nhứt. Đấy là lý do Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã trở nghịch cùng chúng ta vì chúng ta không tìm kiếm Ngài hoặc vâng theo mạng lịnh Ngài.
\v 14 Vậy, những thầy tế lễ và người Lê-vi dâng mình để khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Như vậy, người Lê-vi dùng đòn khiêng hòm của Đức Chúa Trời trên vai mình, y như Môi-se đã truyền — theo các luật lệ được ban ra bởi Lời của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Đa-vít truyền cho các cấp lãnh đạo người Lê-vi phải chỉ định trong anh em của họ những người hát xướng với các thứ nhạc cụ, ống quyển, các thứ đàn dây, đàn cầm, chập chỏa để cất tiếng vui mừng vang rền lên.
\v 17 Thế là người Lê-vi mới chỉ định Hê-man con trai của Giô-ên, và một trong các em người là A-sáp con trai của Bê-rê-kia. Họ cũng chỉ định anh em của họ về dòng dõi Mê-ra-ri, và Ê-than con trai của Cu-sa-gi.
\v 18 Với họ là các người bà con thuộc dòng thứ, là Xa-cha-ri, Gia-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên, là người giữ cửa.
\s5
\v 19 Những nhạc sĩ là Hê-man, A-sáp, và Ê-than, được chỉ định dùng những chập chỏa đồng, đánh vang dội lên;
\v 20 Xa-cha-ri, A-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-xê-gia, và Bê-na-gia, dùng nhạc cụ bằng dây theo điệu A-la-mốt;
\v 21 Còn Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết-Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xia, đều dùng đàn cầm đánh theo giọng Sê-mi-nít.
\s5
\v 22 Kê-na-nia, lãnh đạo người Lê-vi, ông là người chỉ đạo việc ca xướng, vì ông là giáo sư âm nhạc.
\v 23 còn Bê-rê-kia và En-ca-na là ai người canh giữ hòm giao ước.
\v 24 Sê-ba-nia, Giô-sa-phát, Nê-tha-nê-ên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-na-gia, và Ê-li-ê-se, tức là những thầy tế lễ, đều thổi kèn trước hòm của Đức Chúa Trời; Ô-bết-Ê-đôm và Giê-hi-gia đứng canh giữ hòm giao ước.
\s5
\v 25 Vậy, Đa-vít, các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, và các quan tướng ngàn quân, đều đi đưa hòm giao ước của Đức Giê-hô-va ra khỏi nhà của Ô-bết-Ê-đôm với sự vui mừng.
\v 26 Khi Đức Chúa Trời giúp người Lê-vi, là những người khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, họ tế bảy con bò đực và bảy con chiên đực.
\s5
\v 27 Đa-vít mặc áo vải gai mịn, y như các người Lê-vi nào lo khiêng hòm, kẻ ca hát, và Kê-na-nia, chỉ huy bài hát và những kẻ hát. Đa-vít cũng mặc trên mình một cái ê-phót bằng vải gai mịn.
\v 28 Như vậy cả Y-sơ-ra-ên đều thỉnh hòm giao ước của Đức Giê-hô-va lên với tiếng vui mừng, và với âm thanh của các loại sừng, với chập chỏa, và với các nhạc cụ bằng dây và đàn cầm.
\s5
\v 29 Nhưng khi hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến tại thành Đa-vít, Mi-canh, con gái của Sau-lơ, ngó ngang qua cửa sổ. Nàng thấy vua Đa-vít đang nhảy nhót vui chơi. Thì nàng xem khinh người ở trong lòng.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Chúng đem hòm của Đức Chúa Trời về, rồi đặt nó ở giữa lều trại mà Đa-vít đã dựng lên cho nó. Khi ấy, họ dâng những của lễ thiêu và của lễ chay tại trước mặt Đức Chúa Trời.
\v 2 Khi Đa-vít đã dâng xong của lễ thiêu và của lễ chay xong, ông chúc phước cho dân sự trong danh của Đức Giê-hô-va.
\v 3 Ông phân phát cho từng người Y-sơ-ra-ên, cả nam và nữ giới, một ổ bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô.
\s5
\v 4 Đa-vít chỉ định người Lê-vi phục vụ trước hòm của Đức Giê-hô-va, lo ngợi khen, cảm tạ, và chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Những người Lê-vi nầy là A-sáp, lãnh đạo, kế ông là Xa-cha-ri, Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên. Họ phải dùng đàn dây, với đàn cầm. A-sáp nổi chập chỏa vang dội lớn tiếng.
\v 6 Bê-na-gia và thầy tế lễ Gia-ha-xi-ên cần phải thổi kèn thật đều đặn ở trước hòm giao ước của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 7 Tiếp đến trong ngày đó, trước tiên Đa-vít chỉ định A-sáp và anh em người phải hát bài ca nầy, đặng cảm tạ Đức Giê-hô-va.
\v 8 Hãy dâng lời cảm tạ cho Đức Giê-hô-va, hãy kêu cầu danh Ngài; và khiến cho các dân nhìn biết mọi công việc Ngài!
\v 9 Hãy ca hát cho Ngài, hãy ca lên những lời ngợi khen Ngài! hãy nói về mọi việc làm lạ lùng của Ngài.
\s5
\v 10 Hãy khoe về danh thánh của Ngài; nguyện tấm lòng của những ai tìm cầu Đức Giê-hô-va đều được vui vẻ.
\v 11 Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va và sức lực của Ngài; hãy tìm kiếm sự hiện diện của Ngài luôn luôn.
\s5
\v 12 Hãy nhớ lại những việc lạ lùng mà Ngài đã làm, các phép lạ của Ngài và các điều răn ra từ miệng của Ngài.
\v 13 Anh em là dòng dõi của Y-sơ-ra-ên tôi tớ Ngài, anh em là dân sự của Gia-cốp, là những kẻ được chọn của Ngài.
\v 14 Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta; Điều răn Ngài bủa ra trên khắp đất.
\s5
\v 15 Hãy giữ trong trí giao ước Ngài cho đến đời đời, cùng lời lẽ Ngài đã truyền cho hàng ngàn thế hệ.
\v 16 Ngài luôn nhớ đến giao ước mà Ngài đã lập cùng Áp-ra-ham, và lời thề Ngài đã lập cùng Y-sác.
\v 17 Đây là những gì khẳng định cho Gia-cốp làm luật lệ, và cho Y-sơ-ra-ên làm giao ước đời đời.
\v 18 Ngài phán: “Ta sẽ ban cho ngươi đất Ca-na-an làm phần cơ nghiệp ngươi".
\s5
\v 19 Ta phán điều nầy khi các ngươi chỉ là một số ít người, và làm khách lạ trong xứ.
\v 20 Họ đi từ dân nầy qua dân kia, từ nước nầy đến nước khác.
\v 21 Ngài không cho ai bức hiếp chúng; Ngài trừng phạt các vua vì cớ họ.
\v 22 Ngài phán: “Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu của ta, và đừng làm hại các tiên tri của ta”.
\s5
\v 23 Hỡi cả đất, hãy hát ngợi khen cho Đức Giê-hô-va; hãy giảng ra ơn cứu rỗi của Ngài từng ngày một!
\v 24 Hãy công bố sự vinh hiển Ngài giữa vòng các dân, mọi việc làm lạ lùng của Ngài giữa vòng các nước.
\s5
\v 25 Vì Đức Giê-hô-va là lớn, và đáng được ngợi khen, và Ngài đáng kính sợ trên hết các thần.
\v 26 Vì hết thảy các thần của những dân tộc vốn là hình tượng, nhưng chính Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên các từng trời.
\v 27 Sự vinh hiển, oai nghi ở trong sự hiện diện của Ngài. Sức lực và sự vui mừng ở trong nơi ngự của Ngài.
\s5
\v 28 Hãy tôn kính Đức Giê-hô-va, hỡi các họ hàng của muôn dân, hãy quy sự vinh hiển và sức lực cho Ngài.
\v 29 Hãy quy cho Đức Giê-hô-va sự vinh hiển thích đáng với danh của Ngài. Hãy đem của lễ đến trước mặt Ngài. Hãy sấp mình xuống trước Đức Giê-hô-va trong sự rực rỡ thánh khiết của Ngài.
\s5
\v 30 Hỡi cả đất, khá run rẩy trước mặt Ngài. Thế gian cũng được vững lập; nó không bị lay động.
\v 31 Nguyện các từng trời được vui mừng, và nguyện trái đất được hỉ lạc; nguyện họ nói ra trong các nước: “Đức Giê-hô-va trị vì”!
\s5
\v 32 Nguyện biển gầm rống lên, và mọi vật trong biển hô to lên với sự vui mừng. Nguyện đồng ruộng sẽ đầy sự vui vẻ, và mọi vật đang ở trong đó!
\v 33 Khi ấy, nguyện cây cối trong rừng sẽ hô to mừng rỡ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài đến đặng xét đoán thế gian.
\s5
\v 34 Hãy dâng lời cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt lành, vì sự thành tín giao ước của Ngài còn đến đời đời.
\v 35 Hãy nói: Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng tôi, xin cứu chúng tôi! Xin hiệp chúng tôi lại, và giải cứu chúng tôi khỏi các nước, hầu cho chúng tôi dâng lời cảm tạ danh thánh Ngài, và khoe mình trong sự ngợi khen Ngài.
\s5
\v 36 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên được ngợi khen từ đời đời cho đến đời đời! Cả dân sự đều đáp: “A-men! ” và ngợi khen Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 37 Vậy, Đa-vít đặt A-sáp và anh em người ở trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, phục vụ liên tục ở trước hòm giao ước, như công việc từng ngày đòi hỏi.
\v 38 Ô-bết-Ê-đôm với sáu mươi tám thân tộc người cả thảy. Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng với Hô-sa làm người giữ cửa.
\v 39 Thầy tế lễ Xa-đốc và các thầy tế lễ đồng thời với người cần phải phục vụ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại đền thờ ở Ga-ba-ôn.
\s5
\v 40 Họ phải dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va liên tục sáng và chiều tuỳ theo mọi sự đã chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, những mạng lịnh mà Ngài đã ban ra cho Y-sơ-ra-ên;
\v 41 Hê-man, Giê-đu-thun, có mặt với họ, cùng với phần còn lại những người khác đã được chọn đích danh, dâng lời cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì sự thành tín giao ước của Ngài còn đến đời đời.
\s5
\v 42 Hê-man và Giê-đu-thun chỉ huy những người thổi kèn và chập chỏa, cùng các thứ nhạc cụ khác để trổi nhạc thánh lên. Các con trai của Giê-đu-thun đứng gác nơi cửa.
\v 43 Khi ấy, cả dân sự trở về nhà mình; còn Đa-vít trở về đặng chúc phước cho người nhà của mình.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Việc xảy ra sau khi nhà vua ở trong cung điện mình, ông nói với tiên tri Na-than rằng: “Nầy, ta ở trong nhà bằng gỗ bá hương, còn hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đang ở trong lều trại kìa”.
\v 2 Khi ấy Na-than thưa với Đa-vít rằng: “Hãy đi, làm theo điều có ở trong lòng vua, vì Đức Chúa Trời ở cùng vua”.
\s5
\v 3 Nhưng trong chính đêm đó, lời của Đức Chúa Trời đã đến cùng Na-than rằng:
\v 4 “Hãy đi thưa cùng Đa-vít, tôi tớ ta rằng: Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: Con chớ cất đền cho ta ở trong đó;
\v 5 vì ta không sống trong đền nào kể từ ngày ta dẫn Y-sơ-ra-ên lên cho đến ngày nay. Thay vì thế, ta đã ở trong lều trại, đền tạm, ở những địa điểm khác nhau.
\v 6 Trong mọi chỗ ta dời đi giữa vòng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, ta có bao giờ nói một điều gì cho bất kỳ cấp lãnh đạo nào trong Y-sơ-ra-ên, những kẻ mà ta chỉ định chăn giữ dân sự ta như sau: “Sao các ngươi không cất cho ta một cái đền bằng gỗ bá hương?”
\s5
\v 7 “Bây giờ, hãy nói cho Đa-vít tôi tớ ta như vầy: Đây là những điều Đức Giê-hô-va vạn quân truyền phán: Ta đã bắt ngươi từ đồng cỏ, từ đàng sau những con chiên, hầu cho ngươi sẽ làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên ta.
\v 8 Và ta đã ở với ngươi bất cứ đâu ngươi đi và đã trừ diệt các kẻ thù ngươi khỏi trước mặt ngươi. Và ta sẽ lập cho ngươi một danh; giống như danh của những kẻ cao trọng ở trên đất.
\s5
\v 9 Ta sẽ ấn định một nơi cho dân Y-sơ-ra-ên ta và sẽ vun trồng chúng ở đó, hầu cho chúng sẽ sống trong chính nơi thuộc riêng của chúng và không còn bị khuấy rối nữa. Dân gian ác sẽ chẳng áp bức chúng nữa, như họ đã làm khi trước.
\v 10 Như chúng đã làm từ những ngày ta đã truyền cho các quan xét cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta. Và ta sẽ bắt phục các thù nghịch ngươi. Hơn nữa, ta báo cho ngươi biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, sẽ cất cho ngươi một cái nhà.
\s5
\v 11 Xảy khi các ngày ngươi đã mãn để ngươi về với các tổ phụ ngươi, ta sẽ dấy dòng dõi ngươi lên sau ngươi, và lập một người trong chính dòng dõi của ngươi; ta sẽ thiết lập vương quốc của người.
\v 12 Người ấy sẽ cất cho ta một cái đền, và ta sẽ lập ngôi của người cho đến đời đời.
\s5
\v 13 Ta sẽ là cha của người ấy, và người ấy sẽ làm con ta. Ta sẽ không dời sự thành tín giao ước của ta khỏi người, như ta đã cất khỏi Sau-lơ, là kẻ đã cai trị trước ngươi.
\v 14 Ta sẽ đặt người trên nhà ta và trong nước ta cho đến đời đời; còn ngôi của người sẽ được thiết lập cho đến đời đời”.
\v 15 Na-than đã nói với Đa-vít và tường thuật lại cho ông nghe các lời nầy, và ông nói cho Đa-vít biết về toàn bộ khải thị nầy.
\s5
\v 16 Khi ấy Vua Đa-vít bước vào và ngồi trước mặt Đức Giê-hô-va; ông nói: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! Tôi là ai và nhà tôi là gì, mà Chúa đem tôi đến chỗ nầy?
\v 17 Và lạy Chúa, đây là một việc nhỏ ở trước mặt Ngài! Ngài đã phán về nhà của tôi tớ Ngài trong thời gian hầu đến tới đây, và có tỏ cho tôi thấy các thế hệ trong tương lai, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời!
\v 18 Chúa làm cho tôi tớ Ngài được tôn trọng như thế, thì Đa-vít còn nói gì được nữa? Ngài đã ban cho tôi tớ Ngài sự công nhận đặc biệt nầy.
\s5
\v 19 Lạy Đức Giê-hô-va, vì cớ tôi tớ Ngài, và để làm phu phỉ mục đích của Ngài, Ngài đã làm việc lớn lao nầy để tỏ ra mọi việc làm cả thể của Ngài.
\v 20 Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Thần nào ở bên cạnh Ngài, giống như chúng tôi luôn nghe nói.
\v 21 Và có dân nào trên đất giống như Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài, là dân mà Ngài, lạy Đức Chúa Trời, đã giải cứu khỏi Ai-cập làm một dân cho riêng Ngài, để lập một danh cho chính Ngài qua các việc làm cả thể đáng kính đáng sợ hay không? Ngài đánh đuổi các dân khỏi trước mặt dân sự Ngài, là dân mà Ngài đã giải cứu khỏi Ai-cập.
\s5
\v 22 Ngài đã lập Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của riêng Ngài cho đến đời đời, và Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã trở nên Đức Chúa Trời của họ.
\v 23 Vậy bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va! Nguyện lời hứa mà Ngài đã lập về tôi tớ Ngài và về nhà của nó được thiết lập cho đến đời đời, nguyện Chúa cứ làm y như Ngài đã phán.
\v 24 Nguyện danh của Ngài được thiết lập cho đến đời đời và được cả thể, để người ta nói rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trong khi nhà của tôi, là Đa-vít, là tôi tớ Chúa, được thiết lập trước mặt Ngài!
\s5
\v 25 Lạy Đức Chúa Trời! vì Ngài đã tỏ ra cho kẻ tôi tớ Chúa biết rằng Ngài sẽ xây một cái nhà cho nó. Đấy là lý do tại sao tôi, là tôi tớ Ngài, đã tìm được lòng dạn dĩ để cầu nguyện với Ngài.
\v 26 Bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va! Ngài là Đức Chúa Trời, và đã lập lời hứa tốt lành nầy với tôi tớ Ngài:
\v 27 Bây giờ, nguyện Ngài đẹp lòng chúc phước cho nhà của tôi tớ Ngài, hầu cho nó sẽ tiếp tục ở trước mặt Ngài cho đến đời đời. Lạy Đức Giê-hô-va! Ngài đã chúc phước cho nó, thì nó sẽ được phước cho đến đời đời.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Sau việc ấy, Đa-vít tấn công dân Phi-li-tin và đánh bại chúng. Ông chiếm lấy Gát cùng các làng mạc nó khỏi quyền quản trị của dân Phi-li-tin.
\v 2 Khi ấy, ông đánh bại Mô-áp; và dân Mô-áp trở thành tôi tớ cho Đa-vít, và nộp cống thuế cho người.
\s5
\v 3 Đa-vít tiếp đến đánh bại Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, tại Ha-mát, khi Ha-đa-rê-xe đi lập quyền cai trị của ông ta bên sông Ơ-phơ-rát.
\v 4 Đa-vít chiếm của người một ngàn cỗ xe, bảy ngàn lính kỵ, và hai vạn lính bộ. Đa-vít cắt nhượng của các ngựa kéo xe, nhưng chừa lại đủ số để kéo một trăm chiến xa.
\s5
\v 5 Khi dân A-ram ở Đa-mách đến cứu giúp Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, Đa-vít giết chúng hai mươi hai ngàn người.
\v 6 Rồi Đa-vít lập đồn trong xứ A-ram của Đa-mách, và dân A-ram trở thành tôi tớ ông, và nộp cống thuế cho người. Đức Giê-hô-va ban chiến thắng cho Đa-vít bất cứ đâu ông đi đến.
\s5
\v 7 Đa-vít chiếm lấy những thuẩn bằng vàng của các tôi tớ Ha-đa-rê-xe, rồi đem chúng về Giê-ru-sa-lem.
\v 8 Từ Ti-bát và Cun, hai thành của Ha-đa-rê-xe, Đa-vít chiếm lấy rất nhiều đồng. Chính với đồng nầy mà Sa-lô-môn về sau dùng làm cái biển bằng đồng, các trụ và trang thiết bị bằng đồng.
\s5
\v 9 Khi Tô-hu, vua Ha-mát, hay rằng Đa-vít đã đánh bại cả quân đội của Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba,
\v 10 Thì sai Ha-đô-ram, con trai người, đến chào mừng và ngợi khen Vua Đa-vít, vì Đa-vít đã giao chiến với Ha-đa-rê-xe, và đã đánh bại người; và vì Ha-đa-rê-xe và Tô-hu thường giao chiến với nhau luôn; Ha-đô-ram đem theo với mình các đồ vật bằng vàng, bạc, và đồng.
\v 11 Vua Đa-vít cũng dâng các đồ vật nầy cho Đức Giê-hô-va, cùng với bạc và vàng mà người đã chiếm lấy từ các nước, Ê-đôm, Mô-áp, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, và dân A-ma-léc.
\s5
\v 12 A-bi-sai, con trai của Xê-ru-gia, giết tại trong trũng Muối mười tám ngàn người Ê-đôm.
\v 13 Người dựng đồn luỹ tại Ê-đôm, và cả dân Ê-đôm đều trở thành tôi tớ của Đa-vít. Đức Giê-hô-va đã ban chiến thắng cho Da-vít bất cứ đâu người đi đến.
\s5
\v 14 Đa-vít đã trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên, và ông quản trị ngay thẳng và công bình đối với hết thảy dân sự của người.
\v 15 Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, là quan tổng binh của quân đội; Giô-sa-phát con trai của A-hi-lút, làm quan thái sử.
\v 16 Xa-đốc, con trai của A-hi-túp, và A-bi-mê-léc, con trai của A-bia-tha, làm thầy tế lễ; Sa-vê-sa làm quan ký lục.
\v 17 Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, cai quản người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, còn các con trai Đa-vít đều là tư vấn hàng đầu của nhà vua.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Sau các việc đó, Na-hách, vua dân Am-môn, qua đời, và con trai lên làm vua trong chỗ của người.
\v 2 Đa-vít nói: Ta muốn tỏ ra tử tế với Ha-nun con trai của Na-hách, vì cha người đã tỏ ra tử tế với ta. Đa-vít sai những sứ giả đến yên ủi người về việc cha người. Các đầy tớ của Đa-vít bước vào xứ của dân Am-môn, đến gặp Am-môn đặng yên ủi người.
\v 3 Nhưng các quan trưởng dân Am-môn trình với Ha-nun rằng: “Có phải vua thực sự nghĩ rằng Đa-vít tôn trọng cha vua vì ông ta sai người đến yên ủi vua chăng? Có phải các tôi tớ hắn đã đến gặp vua để dò xét xứ để rồi lật đổ nó chăng?
\s5
\v 4 Vậy Ha-nun bắt lấy các tôi tớ của Đa-vít, cạo râu họ đi, cắt áo họ từ lưng trở xuống, rồi đuổi họ về.
\v 5 Khi họ giải thích điều nầy cho Đa-vít nghe; ông sai đi đón họ về, vì họ lấy làm xấu hổ lắm. Nhà vua nói: Hãy ở lại Giê-ri-cô cho đến khi râu các ngươi khởi mọc lại, bấy giờ sẽ trở về".
\s5
\v 6 Khi dân Am-môn thấy rằng họ rất hôi thối đối với Đa-vít, Ha-nun và dân Am-môn bèn sai người đem một ngàn ta lâng bạc đến thuê xe và lính kỵ của người A-ram, Ma-a-ca, và Xô-ba
\v 7 Chúng thuê cho mình ba mươi hai ngàn chiến xa với vua xứ Ma-a-ca cùng dân của người; chúng kéo đến đóng tại trước Mê-đê-ba. Dân Am-môn tự tập trung lại từ các thành của họ đặng giao chiến.
\s5
\v 8 Khi Đa-vít hay điều đó, ông sai Giô-áp cùng cả quân đội ra đón họ.
\v 9 Dân Am-môn kéo ra, dàn trận nơi cửa thành; trong khi các vua tự họ đến đóng riêng ra trong đồng bằng.
\s5
\v 10 Khi Giô-áp thấy hàng ngũ bãi chiến trường trước và sau mình, ông chọn một số chiến binh giỏi nhất của Y-sơ-ra-ên dàn ra đối địch với người A-ram;
\v 11 Với phần quân lính còn lại, ông giao cho quan tổng binh A-bi-sai, em mình; rồi ông dàn quân giao chiến với quân độ của Am-môn.
\s5
\v 12 Giô-áp nói: Nếu người A-ram quá mạnh đối với anh, thế thì A-bi-sai, em phải giải cứu anh. Còn nếu quân Am-môn quá mạnh đối với em, thì anh sẽ đến giải cứu em.
\v 13 Khá vững lòng; và chúng ta phải mạnh mẽ lên vì dân ta, vì các thành của Đức Chúa Trời ta, vì Đức Giê-hô-va sẽ làm điều chi là tốt lành vì mục đích của Ngài.
\s5
\v 14 Vậy, Giô-áp và quân lính trong quân đội của người tiến ra trận giao chiến với người A-ram; họ buộc phải trốn chạy trước mặt quân đội Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Khi quân đội của Am-môn thấy quân A-ram đã chạy trốn, thì họ cũng chạy trốn khỏi trước mặt A-bi-sai, em của Giô-áp, mà trở vào thành. Khi ấy, Giô-áp trở về lại thành Giê-ru-sa-lem từ cuộc giao chiến với quân A-ram.
\s5
\v 16 Rồi khi quân A-ram thấy rằng họ bị dân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ sai tìm viện binh ở bên kia sông Ơ-phơ-rát, với Sô-phác, quan tổng binh quân đội của Ha-đa-rê-xe.
\v 17 Khi Đa-vít hay điều đó, liền tập trung cả Y-sơ-ra-ên lại, băng qua sông Giô-đanh, rồi đến cùng quân A-ram. Ông sắp đặt quân đội lo giao chiến với người A-ram, và họ giao chiến với ông.
\s5
\v 18 Quân Sy-ri bỏ chạy trước mặt Y-sơ-ra-ên; và Đa-vít giết bảy ngàn lính cầm xe, bốn vạn lính bộ của quân A-ram. Ông cũng giết Sô-phác, quan tổng binh của quân đội ấy.
\v 19 Khi hết thảy các vua nào là đầy tớ của Ha-đa-rê-xe nhìn thấy chúng bị dân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ lập hòa ước cùng Đa-vít và phục dịch người. Vậy dân A-ram chẳng còn muốn giúp đỡ dân Am-môn nữa.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Qua năm mới, vào thời điểm các vua thường lâm chiến, Giô-áp chỉ huy quân đội ra trận tàn phá đất của người Am-môn. Ông đến vây thành Ráp-ba; còn Đa-vít ở lại thành Giê-ru-sa-lem. Giô-áp tấn công Ráp-ba, và đánh bại nó.
\s5
\v 2 Đa-vít lấy vương miện vua của dân Am-môn khỏi đầu người, và ông thấy nó cân nặng cả ta-lâng vàng, và trên đó có nạm đá quí nữa. Vương miện được đội lên đầu của Đa-vít, và ông thu lấy chiến lợi phẩm rất nhiều với số lượng rất lớn từ trong thành.
\v 3 Ông bắt dân trong thành, buộc họ phải lao động với cưa và bừa hay rìu sắt. Đa-vít buộc các thành của dân Am-môn phải lao dịch như thế. Khi ấy, Đa-vít và cả quân đội trở về lại thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 4 Sau việc nầy, có bãi chiến trường ở Ghê-xe với dân Phi-li-tin. Si-bê-cai, người Hu-sa-tít, đánh giết Síp-bai, vốn là một trong dòng dõi những kẻ giềnh giàng, và dân Phi-li-tin bị bắt phục.
\v 5 Lại nữa, có một bãi chiến trường với dân Phi-li-tin tại Gốp, En-ha-nan, con trai của Giai-rơ người Bên-gia-min, đã giết Lác-mi, em của Gô-li-át, người Gát; cái cán giáo của hắn giống như cây trục của thợ dệt.
\s5
\v 6 Lại có một trận đánh khác tại Gát; có một người tướng tá cao lớn, mỗi bàn tay có sáu ngón và mỗi bàn chân có sáu ngón cái. Hắn cũng là dòng dõi của những người giềnh giàng ra từ Rê-pha-im.
\v 7 Khi hắn chế giễu quân đội của Y-sơ-ra-ên; Giô-na-đáp, con trai của Si-mê-a, em của Đa-vít, đã giết người đi.
\v 8 Đây là dòng dõi của Rê-pha-im xứ Gát; và chúng đều bị giết bởi tay Đa-vít và bởi tay các chiến binh người giết đi.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Một kẻ nghịch dấy lên chống lại Y-sơ-ra-ên rồi giục Đa-vít kê số Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Đa-vít nói với Giô-áp cùng các quan trưởng của quân đội rằng: Hãy đi, kê số dân Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Đan; rồi tường trình lại cho ta, để ta biết sĩ số của họ”.
\v 3 Giô-áp nói: Nguyện Đức Giê-hô-va làm cho quân đội ông tăng gấp trăm lần như đang có! Nhưng hỡi vua chúa tôi! chẳng phải hết thảy họ đều lo phục vụ chúa tôi hay sao? Tại sao chúa tôi muốn làm việc nầy chớ? Tại sao lại muốn đem tội lỗi giáng trên Y-sơ-ra-ên?”
\s5
\v 4 Nhưng lời của vua sau cùng chống lại Giô-áp. Vì vậy, Giô-áp bước ra, đi khắp Y-sơ-ra-ên. Khi ấy ông về lại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 5 Thế rồi Giô-áp tường trình tổng số chiến binh cho Đa-vít. Đã có trong cả Y-sơ-ra-ên được 1. 100. 000 người cầm gươm. Trong Giu-đa được 470. 000 chiến binh.
\s5
\v 6 Nhưng người Lê-vi và người Bên-gia-min thì không tính đến; vì lịnh của vua làm cho Giô-áp không hài lòng.
\v 7 Đức Chúa Trời buồn lòng bởi sự việc nầy; nên Ngài đã tấn công Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Đa-vít thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Tôi đã phạm tội trọng do việc làm nầy. Giờ đây, xin hãy cất lấy tội ác của kẻ tôi tớ Chúa đi; vì tôi có làm cách ngu dại”.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán với Gát, là tiên tri của Đa-vít:
\v 10 Hãy đi nói với Đa-vít: “Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ ban cho ngươi ba sự chọn lựa. Hãy chọn lấy một trong số chúng”.
\s5
\v 11 Vì vậy Gát đến gặp Đa-vít, rồi nói với ông như sau: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy chọn một trong số nầy:
\v 12 hoặc ba năm đói kém, hoặc ba tháng bị truy đuổi tại trước mặt kẻ thù ngươi, và bị hại bởi gươm của họ, hay là bị ba ngày gươm của Đức Giê-hô-va, nghĩa là ôn dịch ở trong xứ, với thiên sứ của Đức Giê-hô-va hủy diệt trong khắp xứ của Y-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ, hãy định lấy điều nào để tôi phải tâu lại cùng Đấng đã sai tôi”.
\s5
\v 13 Lúc đó Đa-vít nói với Gát rằng: Ta bối rối lắm đây. Nguyện ta sa vào tay Đức Giê-hô-va thay vì tay của người ta, vì những hành động thương xót của Ngài là rất lớn.
\v 14 Thế là Đức Giê-hô-va bèn giáng ôn dịch lên Y-sơ-ra-ên; có bảy mươi ngàn người ngã chết.
\v 15 Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem đặng hủy diệt nó. Khi thiên sứ sắp sửa huỷ diệt nó, Đức Giê-hô-va quan sát thấy rồi Ngài đổi ý về tổn hại nầy. Ngài nói với thiên sứ huỷ diệt rằng: “Đủ rồi! Bây giờ hãy rút tay ngươi lại”. Lúc đó thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng gần sân đạp lúa của Ot-nan, người Giê-bu-sít.
\s5
\v 16 Đa-vít nhìn lên, thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng giữa trời và đất, có gươm trần trong tay Ngài hướng về thành Giê-ru-sa-lem. Lúc đó, Đa-vít cùng các trưởng lão, mặc bao gai, liền sấp mình xuống đất.
\v 17 Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: “Chẳng phải là tôi đã truyền kê số dân sao? Tôi đã làm việc gian ác nầy. Còn các con chiên kia, họ đã làm gì chứ? Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! xin tay Chúa hãy sửa phạt tôi và nhà tôi; nhưng chớ trừng phạt dân sự của Chúa với dịch lệ nầy”.
\s5
\v 18 Thế là thiên sứ của Đức Giê-hô-va truyền cho Gát nói với Đa-vít, rằng Đa-vít phải đi lên rồi xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại sân đạp lúa của Ot-nan, người Giê-bu-sít.
\v 19 Đa-vít đi lên theo sự dặn dò của Gát phải làm trong danh của Đức Giê-hô-va.
\v 20 Khi Ot-nan đang đạp lúa, ông xây lại nhìn thấy thiên sứ. Ông và bốn con trai cùng với ông đều ẩn mình đi.
\s5
\v 21 Khi Đa-vít đến gặp Ot-nan, Ot-nan nhìn thấy Đa-vít. Ông rời sân đạp lúa, sấp mình xuống đất trước mặt Đa-vít.
\v 22 Lúc đó Đa-vít nói với Ot-nan rằng: Hãy bán cho ta chỗ sân đạp lúa nầy, để ta có thể xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va. Ta sẽ hãy trả giá đầy đủ, hầu cho tai vạ dừng lại trên dân sự”.
\s5
\v 23 Ot-nan thưa với Đa-vít rằng: Vua hãy lấy nó theo ý vua, hỡi vua chúa tôi. Hãy làm với nó điều gì là tốt lành trong mắt vua. Kìa, tôi dâng bò cho vua dùng làm của lễ thiêu, cộ sân đạp lúa dùng làm củi, và lúa miến để dùng làm của lễ chay; tôi dâng cả thảy cho vua”.
\v 24 Vua Đa-vít nói cùng Ot-nan rằng: “Không, ta khẳng định về việc mua nó theo đúng giá bạc. Ta chẳng muốn lấy vật gì của ngươi rồi dâng cho nó làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, nếu vật ấy không đáng giá gì với ta".
\s5
\v 25 Vậy, Đa-vít trả sáu trăm siếc-lơ vàng mua chỗ sân ấy.
\v 26 Đa-vít xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại đó và dâng những của lễ thiêu, của lễ chay. Ông cầu khẩn Đức Giê-hô-va; Ngài đáp lời ông bằng lửa từ trời giáng trên bàn thờ về của lễ thiêu.
\v 27 Khi ấy Đức Giê-hô-va truyền lịnh cho thiên sứ, và thiên sứ bèn tra gươm mình vào vỏ.
\s5
\v 28 Khi Đa-vít thấy Đức Giê-hô-va đã nhậm lời mình tại sân đạp lúa của Ot-nan, người Giê-bu-sít, ông dâng của lễ tại đó cùng lúc ấy.
\v 29 Lúc bấy giờ, đền tạm của Đức Giê-hô-va mà Môi-se đã dựng lên trong đồng vắng, và cái bàn thờ về của lễ thiêu, còn ở nơi cao tại Ga-ba-ôn.
\v 30 Tuy nhiên, Đa-vít không thể đi đến đó để cầu xin hướng dẫn của Đức Chúa Trời; bởi vì ông lấy làm kinh hãi gươm của thiên sứ Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Đa-vít nói: “Đây là chỗ sẽ đặt đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, với bàn thờ để dâng của lễ thiêu của Y-sơ-ra-ên”.
\v 2 Đa-vít truyền cho các tôi tớ ông phải tập trung người ngoại bang sống trong xứ Y-sơ-ra-ên. Ông phân công họ làm thợ đục đá, để cắt các khối đá, để cất đền của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Đa-vít cung ứng một số lượng sắt thật nhiều, để làm đinh cho các cánh cửa và bản lề nơi lối cổng vào. Ông cũng cung ứng nhiều đồng không thể cân được,
\v 4 và nhiều gỗ bá hương không tính được. (Dân Si-đôn và dân Ty-rơ mang nhiều gỗ bá hương đến đến nỗi vua Đa-vít không tính được).
\v 5 Đa-vít nói: “Sa-lô-môn, con trai ta, hãy còn nhỏ và chưa có kinh nghiệm, còn cái đền sẽ cất cho Đức Giê-hô-va phải thật đặc biệt oai nghi, hầu cho đền ấy được nổi tiếng và vinh hiển trong mọi xứ. Vì vậy, ta sẽ sắm sẵn cho việc xây dựng đền ấy. Thế thì, Đa-vít lo sắm sẵn nhiều thứ trước khi người qua đời.
\s5
\v 6 Bấy giờ, ông cho đòi Sa-lô-môn, con trai mình đến rồi truyền dặn người phải cất một cái đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Đa-vít nói với Sa-lô-môn: “Hỡi con, cất một cái cung điện cho ta là dự tính của ta, vì danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời,
\v 8 nhưng Đức Giê-hô-va đến cùng ta mà phán rằng: ngươi đã làm đổ nhiều huyết và đã tham dự nhiều trận đánh. Ngươi sẽ không xây một ngôi đền cho ta, vì ngươi đã làm đổ huyết ra quá nhiều trước mặt ta trên đất.
\s5
\v 9 Tuy nhiên, ngươi sẽ có một con trai, người ấy sẽ là người của hoà bình. Ta sẽ ban cho người yên nghỉ khỏi các thù nghịch ở bốn phía. Vì tên nó sẽ là Sa-lô-môn, và ta sẽ ban sự bình an và yên tịnh cho Y-sơ-ra-ên trong đời nó.
\v 10 Nó sẽ cất một cái đền cho danh ta. Nó sẽ làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó. Ta sẽ lập ngôi nước nó trên Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời.
\s5
\v 11 Bây giờ, hỡi con trai ta, nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng con và giúp cho con được thành công. Nguyện con sẽ cất cái đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, theo như lời Ngài đã phán con sẽ lo việc ấy.
\v 12 Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho con sự khôn ngoan thông sáng, hầu cho con vâng theo luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, khi Ngài đặt con làm vua trên Y-sơ-ra-ên.
\v 13 Khi ấy, con sẽ thành công, nếu con cẩn thận vâng theo giới mạng và lịnh lạc mà Đức Giê-hô-va đã ban cho Môi-se truyền lại cho Y-sơ-ra-ên. Khá vững lòng bền chí. Chớ sợ hãi hoặc chớ ngã lòng.
\s5
\v 14 Bây giờ, hãy xem đây, với nỗ lực lớn lao ta đã sắm sẵn cho đền của Đức Giê-hô-va 100. 000 ta lâng vàng, 1. 000. 000 ta lâng bạc; còn đồng và sắt thì với số lượng nhiều lắm. Ta cũng cung ứng gỗ và đá. Con phải thêm nhiều vào số đó.
\s5
\v 15 Con có nhiều nhân công với con: thợ đục đá, thợ hồ, thợ mộc, và nhiều thợ thạo về các thứ công việc,
\v 16 họ có thể ra công với vàng, bạc, đồng, và sắt. Vậy, hãy khởi công đi, và nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng con”.
\s5
\v 17 Đa-vít cũng truyền dặn các quan trưởng Y-sơ-ra-ên lo giúp đỡ Sa-lô-môn, con trai người, như sau:
\v 18 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở cùng các ngươi và đã ban bình an bốn phía. Ngài đã phó dân của xứ vào tay ta. Xứ đã bị bắt phục ở trước mặt Đức Giê-hô-va và trước mặt dân sự Ngài.
\v 19 Vậy bây giờ, hãy hết lòng hết linh hồn mà tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi. Hãy chổi dậy và xây cất đền thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Tiếp đến các ngươi sẽ đặt hòm giao ước của Đức Giê-hô-va cùng các khí dụng thuộc về Đức Chúa Trời trong ngôi đền dành cho danh của Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Khi Đa-vít đã già và đang ở gần cuối đời mình, ông đưa Sa-lô-môn, con trai mình, lên làm vua Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ông tập trung các quan trưởng Y-sơ-ra-ên lại, cùng với những thầy tế lễ và người Lê-vi.
\v 3 Người Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên được kê sổ. Họ đếm được 38. 000.
\s5
\v 4 Trong số nầy, có 24. 000 người lo việc giám sát công việc của đền Đức Giê-hô-va; và 6. 000 người đều làm quan cai và quan xét.
\v 5 54. 000 người làm kẻ canh cửa; và 4. 000 người ngợi khen Đức Giê-hô-va bằng nhạc cụ “mà ta làm cho sự thờ phượng”, Đa-vít nói.
\v 6 Đa-vít phân họ theo từng nhóm tương ứng với ba con trai của Lê-vi, là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
\s5
\v 7 Từ các họ hàng ra từ Ghẹt-sôn có La-ê-đan và Si-mê-i.
\v 8 Có ba con trai của La-ê-đan là Giê-hi-ên lãnh đạo, Xê-tham, và Giô-ên.
\v 9 Có ba con trai của Si-mê-i là Sê-lô-mít, Ha-xi-ên, và Ha-ran. Đây là các trưởng của họ hàng La-ê-đan.
\s5
\v 10 Có bốn con trai của Si-mê-i là Gia-hát, Xi-na, Giê-úc, và Bê-ri-a.
\v 11 Gia-hát con cả, Xi-xa con thứ; nhưng Giê-úc và Bê-ri-a không có nhiều con; nên họ bị xem là một họ với cùng bổn phận.
\s5
\v 12 Có bốn con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, U-xi-ên.
\v 13 Đây là các con trai của Am-ram là A-rôn và Môi-se. A-rôn và dòng dõi của ông được chọn theo cơ sở thường trực để dâng các thứ hoàn toàn thuộc về Đức Giê-hô-va, và xông hương cho Đức Giê-hô-va, và đời đời hầu việc Ngài, cùng nhân danh Ngài mà chúc phước cho.
\v 14 Nhưng về phần Môi-se, người của Đức Chúa Trời, các con trai người đều được kể là người Lê-vi.
\s5
\v 15 Các con trai của Môi-se là Ghẹt-sôn và Ê-li-ê-xe.
\v 16 Dòng dõi của Ghẹt-sôn là Sê-bu-ên con trưởng.
\v 17 Dòng dõi của Ê-li-ê-xe là Rê-ha-bia. Ê-li-ê-xe không có con trai nào khác; nhưng Rê-ha-bia có nhiều dòng dõi lắm.
\v 18 Con trai của Dít-sê-ha là Sê-lô-mít làm trưởng.
\s5
\v 19 Dòng dõi của Hếp-rôn là Giê-ri-gia con cả; A-ma-ria thứ nhì; Gia-ha-xi-ên thứ ba; và Giê-ca-mê-am thứ tư.
\v 20 Các con trai của U-xi-ên là Mi-ca con cả; và Di-si-gia con thứ.
\s5
\v 21 Các con trai của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Các con trai của Mác-li là Ê-lê-a-sa và Kích.
\v 22 Ê-lê-a-sa chết, không có con cái chi hết. Ông chỉ có con gái mà thôi. Các con trai của Kích cưới chúng nó làm vợ.
\v 23 Ba con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-rê-mốt.
\s5
\v 24 Có dòng dõi của Lê-vi tuỳ theo họ hàng của họ. Họ là cấp lãnh đạo, được kê số đích danh, các họ hàng đã làm công việc trong đến của Đức Giê-hô-va từ hai mươi tuổi trở lên.
\v 25 Vì Đa-vít nói: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban sự yên nghỉ cho dân sự Ngài. Ngài lập đền của Ngài ngự tại Giê-ru-sa-lem cho đến đời đời.
\v 26 Người Lê-vi cũng sẽ chẳng còn cần khiêng vác đền tạm cùng các trang thiết bị được sử dụng trong sự thờ phượng ở đó nữa.
\s5
\v 27 Vì theo lời trối của Đa-vít, người Lê-vi được kê số từ hai mươi tuổi sấp lên.
\v 28 Bổn phận của họ là trợ giúp dòng dõi của A-rôn trong sự thờ phượng ở đền Đức Giê-hô-va. Họ cần phải chăm sóc hành lang và các phòng, giữ tinh sạch các vật thánh thuộc về Đức Giê-hô-va, và công việc khác trong sự thờ lạy ở đền Đức Chúa Trời:
\v 29 Họ cũng lo về bánh trần thiết, bột nhất hạng dùng làm của lễ chay, về bánh không men, về các của lễ phải nướng trên vỉ, về các của lễ có trộn dầu, và về các dụng cụ đong đo;
\s5
\v 30 Họ cũng đứng mỗi buổi mai để cảm tạ ngợi khen Đức Giê-hô-va. Họ cũng làm như vậy lúc ban chiều
\v 31 và bất cứ khi nào của lễ thiêu được dâng lên cho Đức Giê-hô-va, vào ngày sa-bát, và vào những ngày lễ trăng mới, và ngày lễ trọng thể. Một số người, đã được phân công theo lịnh lạc, luôn luôn phải hiện diện trước mặt Đức Giê-hô-va;
\s5
\v 32 Họ chăm lo nơi nhóm lại, nơi thánh, và giúp đỡ dòng dõi của A-rôn, là anh em của họ trong sự thờ phượng ở đền Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Nhóm công tác chiếu theo dòng dõi của A-rôn là dây: Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
\v 2 Na-đáp và A-bi-hu qua đời trước cha của họ. Họ không có con cái chi hết; nên Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong vai trò thầy tế lễ.
\v 3 Đa-vít, cùng với Xa-đốc, một dòng dõi của Ê-lê-a-sa, và A-hi-mê-léc, một dòng dõi của Y-tha-ma, chia họ ra thành các nhóm vì công tác của họ trong vai trò thầy tế lễ.
\s5
\v 4 Đã có nhiều lãnh đạo giữa vòng các dòng dõi của Ê-lê-a-sa hơn trong các dòng dõi của Y-tha-ma; thế nên họ chia các dòng dõi của Ê-lê-a-sa thành 16 nhóm. Họ đã làm như vậy bỡi các trưởng tộc và bởi các dòng dõi của Y-tha-ma. Họ chia ra làm 8, tuỳ theo các họ hàng của họ.
\v 5 Họ bắt thăm chia chúng ra, vì có nhiều chức vụ thánh và nhiều người phục vụ Đức Chúa Trời, từ cả hai dòng dõi của Ê-lê-a-sa và các dòng dõi của Y-tha-ma.
\s5
\v 6 Sê-ma-gia, con trai của Na-tha-na-ên thầy thông giáo, một người Lê-vi, đã biên tên của họ trong sự hiện diện của nhà vua, các chức sắc, thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc con trai của A-bia-tha, và các cấp lãnh đạo các dòng họ thầy tế lễ và người Lê-vi. Một dòng họ được bắt thăm rút ra từ các dòng dõi của Ê-lê-a-sa, rồi kế đó sẽ bắt thăm rút ra từ các dòng dõi của Y-tha-ma.
\s5
\v 7 Cái thăm thứ nhất trúng nhằm Giê-hô-gia-ríp; cái thăm thứ nhì nhằm Giê-đa-ê-gia;
\v 8 Cái thăm thứ ba nhằm Ha-rim; cái thăm thứ tư nhằm Sê-ô-rim;
\v 9 Cái thăm thứ năm nhằm Manh-kia; cái thăm thứ sáu nhằm Mia-min;
\v 10 Cái thăm thứ bảy nhằm Cốt; cái thăm thứ tám nhằm A-bi-gia;
\s5
\v 11 Cái thăm thứ chín nhằm Giê-sua; cái thăm thứ mười nhằm Sê-ca-nia;
\v 12 Cái thăm thứ mười một nhằm Ê-li-a-síp; cái thăm thứ mười hai nhằm Gia-kim;
\v 13 Cái thăm thứ mười ba nhằm Húp-ba; cái thăm thứ mười bốn nhằm Giê-sê-báp;
\v 14 Cái thăm thứ mười lăm nhằm Binh-ga; cái thăm thứ mười sáu nhằm Y-mê;
\s5
\v 15 Cái thăm thứ mười bảy nhằm Hê-xia; cái thăm thứ mười tám nhằm Phi-xết;
\v 16 Cái thăm thứ mười chín nhằm Phê-ta-hia, cái thăm thứ hai mươi nhằm Ê-xê-chi-ên;
\v 17 Cái thăm thứ hai mươi mốt nhằm Gia-kin; cái thăm thứ hai mươi hai nhằm Ga-mun;
\v 18 Cái thăm thứ hai mươi ba nhằm Đê-la-gia; cái thăm thứ hai mươi bốn nhằm Ma-a-xia.
\s5
\v 19 Đây là ban bệ công việc của họ, khi họ vào trong đền của Đức Giê-hô-va, theo thủ tục được ban cho bởi A-rôn, tổ phụ của họ, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán dặn người.
\s5
\v 20 Đây là phần còn lại của dòng dõi Lê-vi: dòng dõi của Am-ram có Su-ba-ên. Dòng dõi của Su-ba-ên có Giê-đia.
\v 21 Dòng dõi của Am-ram có Di-si-gia làm trưởng.
\v 22 Dòng dõi của Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt; về con cháu Sê-lô-mốt có Gia-hát.
\s5
\v 23 Dòng dõi của Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con cả, A-ma-ria thứ nhì, Gia-ha-xi-ên thứ ba, và Gia-ca-mê-am thứ tư.
\v 24 Dòng dõi của U-xi-ên có Mi-ca; về dòng dõi Mi-ca có Sa-mia.
\v 25 Anh em của Mi-ca là Dít-hi-gia; về con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri.
\s5
\v 26 Dòng dõi của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Dòng dõi của Gia-a-xi-gia là Bê-nô,
\v 27 Dòng dõi của Mê-ra-ri là Gia-a-xia, Bê-nô, Sô-ham, Xác-cua, và Y-bê-ri.
\v 28 Dòng dõi của Mác-li là Ê-lê-a-sa, là người không có con cái chi hết.
\s5
\v 29 Dòng dõi của Kích có Giê-rác-mê-ên.
\v 30 Dòng dõi của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt. Đây là người Lê-vi, tùy theo họ hàng của họ
\v 31 Những người nầy cũng được bóc thăm trong sự hiện diện của Vua Đa-vít, Xa-đốc, và A-hi-mê-léc, và các cấp lãnh đạo những họ hàng của những thầy tế lễ và người Lê-vi. Các gia đình của những người con cả cũng phải bắt thăm với các gia đình của người con út. Họ bắt thăm y như các dòng dõi của A-rôn đã bắt thăm.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Đa-vít và các cấp lãnh đạo công việc đền tạm đã chọn một số con cái của của A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun làm công việc. Những người nầy đã nói tiên tri với đàn cầm, các nhạc cụ bằng dây, và chập chỏa. Đây là danh sách những kẻ làm công việc nầy:
\v 2 Về các con cái của A-sáp, có Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia, và A-sa-rê-la, đều là con trai của A-sáp, dưới sự hướng dẫn của A-sáp, họ đã nói tiên tri dưới sự giám sát của nhà vua.
\v 3 Về các con cái của Giê-đu-thun có Ghê-đa-lia, Xê-ri, Giê-sai-a, Si-mê-i, Ha-sa-bia, và Ma-ti-thia, sáu người cả thảy, đều ở dưới sự hướng dẫn của Giê-đu-thun, cha chúng, họ dùng đàn cầm dâng lời cảm tạ và ngợi khen Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Về các con cái của Hê-man: Búc-ki-gia, Ma-tha-nia, U-xi-ên, Sê-bu-ên, và Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti Ê-xe, Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt.
\v 5 Hết thảy những người đó đều là con cái của Hê-man, tiên tri của nhà vua. Đức Chúa Trời đã ban cho Hê-man mười bốn con trai và ba con gái để tôn vinh Ngài
\s5
\v 6 Hết thảy các người ấy đều ở dưới sự hướng dẫn của cha họ. Họ là những nhạc sĩ trong nhà của Đức Giê-hô-va, với chập choả và các nhạc cụ bằng dây khi họ phục vụ trong nhà của Đức Chúa Trời. A-sáp, Giê-đu-thun, và Hê-man, đều ở dưới quyền giám sát của nhà vua.
\v 7 Họ cùng các anh em mình có tài khéo và được dạy dỗ để làm nhạc cho Đức Giê-hô-va, kê số được hai trăm tám mươi tám người.
\v 8 Họ bắt thăm về bổn phận mình, bất kể lớn hay nhỏ, giáo sư cũng như học viên.
\s5
\v 9 Giờ đây, hãy xem các con trai của A-sáp: thăm thứ nhứt nhằm vào gia đình vào của Giô-sép, thăm thứ nhì nhằm vào gia đình của Ghê-đa-lia; kê số mười hai người.
\v 10 thăm thứ ba nhằm vào Xác-cua, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 11 thăm thứ tư nhằm vào Dít-sê-ri, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 12 thăm thứ năm nhằm vào Nê-tha-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\v 13 thăm thứ sáu nhằm vào Búc-ki-gia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 14 thăm thứ bảy nhằm vào Giê-sa-rê-la, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 15 thăm thứ tám nhằm vào Giê-sai, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 16 thăm thứ chín nhằm vào Ma-tha-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\v 17 thăm thứ mười nhằm vào Si-mê-i; các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 18 thăm thứ mười một nhằm vào A-xa-rên, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 19 thăm thứ mười hai nhằm vào Ha-sa-bia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 20 thăm thứ mười ba nhằm vào Su-ba-ên, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\v 21 thăm thứ mười bốn nhằm vào Ma-ti-thia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 22 thăm thứ mười lăm nhằm vào Giê-rê-mốt, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 23 thăm thừ mười sáu nhằm vào Ha-na-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 24 thăm thứ mười bảy nhằm vào Giốt-bê-ca-sa, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\v 25 thăm thứ mười tám nhằm vào Ha-na-ni, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 26 thăm thứ mười chín nhằm vào Ma-lô-thi, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 27 thăm thứ hai mươi nhằm vào Ê-li-gia-ta, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 28 thăm thứ hai mươi mốt nhằm vào Hô-thia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\v 29 thăm thứ hai mươi hai nhằm vào Ghi-đanh-thi, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 30 thăm thứ hai mươi ba nhằm vào Ma-ha-xi-ốt, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\v 31 thăm thứ hai mươi bốn nhằm vào Rô-man-ti-Ê-xe, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;
\s5
\c 26
\p
\v 1 Đây là sự phân chia những người giữ cửa: Từ họ hàng Cô-rê có Mê-sê-lê-mia con trai của Cô-rê, cháu của A-sáp.
\v 2 Mê-sê-lê-mia có các con trai, là Xa-cha-ri, con trưởng; Giê-đi-a-ên thứ nhì, Xê-ba-đia thứ ba, Giát-ni-ên thứ tư,
\v 3 Ê-lam thứ năm, Giô-ha-nan thứ sáu, và Ê-li-ô-ê-nai thứ bảy.
\s5
\v 4 Ô-bết-Ê-đôm có các con trai là Sê-ma-gia con trưởng, Giê-hô-xa-bát thứ nhì, Giô-a thứ ba, Sa-ca thứ tư, Nê-ta-nên thứ năm,
\v 5 A-mi-ên thứ sáu, Y-sa-ca thứ bảy, và Phê-u-lê-tai thứ tám; vì Đức Chúa Trời có chúc phước cho Ô-bết-Ê-đôm.
\v 6 Sê-ma-gia, con trai của ông cũng sanh những con trai, họ cai quản tông tộc mình; vì họ đều là người có nhiều khả năng.
\s5
\v 7 Các con trai của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát. Thân tộc của họ Ê-li-hu và Sê-ma-kia, cũng là những người có nhiều khả năng.
\v 8 Các người đó là dòng dõi của Ô-bết-Ê-đôm. Họ với các con trai và thân tộc của họ, đều là những người có khả năng thạo chức việc mình trong đền tạm. Có sáu mươi hai người trong số họ ra từ Ô-bết-Ê-đôm.
\v 9 Mê-sê-lê-mia có các con trai và thân tộc, đều là người có khả năng, cả thảy là mười tám người.
\s5
\v 10 Hô-sa, dòng dõi của Mê-ra-ri, có các con trai, là Sim-ri làm trưởng (dầu người không phải là con đầu lòng, cha người lập người làm con trưởng),
\v 11 Hinh-kia thứ nhì, Tê-ba-lia thứ ba, và Xa-cha-ri thứ tư. Hết thảy các con trai và bà con của Hô-sa, kê sổ là mười ba người.
\s5
\v 12 Những sự phân chia nầy về những kẻ giữ cửa; tuỳ theo cấp lãnh đạo của họ, có nhiều trách nhiệm, giống như các thân tộc họ mà hầu việc trong đền của Đức Giê-hô-va.
\v 13 Họ theo các gia đình, cả lớn như nhỏ, bắt thăm về mỗi cửa.
\v 14 Thăm về cửa đông trúng nhằm Sê-lê-mia. Tiếp đến, họ bỏ thăm về cửa bắc, thăm ấy trúng nhằm Xa-cha-ri, con trai Sê-lê-mia, một mưu sĩ thông sáng.
\s5
\v 15 Thăm về cửa nam trúng nhằm Ô-bết-Ê-đôm; và các con trai người được phân công canh giữ kho lương.
\v 16 Súp-bim và Hô-sa được phân công cửa tây, cùng với Sa-lê-kết, nơi con đường đi dốc lên. Phiên gát được phân cho từng gia đình.
\s5
\v 17 Về cửa đông có sáu người Lê-vi, cửa bắc bốn người một ngày, cửa nam bốn người một ngày, và nơi kho lương có hai cặp.
\v 18 Ở hành lang về phía tây có bốn người gát: có bốn người trên con đường, và ở hành lang có hai người.
\v 19 Đó là sự phân chia người giữ cửa. Họ đều là dòng dõi của Cô-rê và Mê-ra-ri.
\s5
\v 20 Trong số người Lê-vi, A-hi-gia quản lý kho tàng của đền Đức Chúa Trời, và kho tàng những vật thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 21 Dòng dõi của La-ê-đan, ra từ Ghẹt-sôn, và họ là cấp lãnh đạo các gia đình của La-ê-đan, người Ghẹt-sôn, là Giê-hi-ê-li cùng các gia đình người
\v 22 Xê-tham và Giô-ên, em người, họ giữ nhà kho đền Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 23 Đã có những người canh gát rút từ họ hàng Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên,
\v 24 Sê-bu-ên, con của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, làm quan cai quản kho tàng.
\v 25 Các thân tộc người ra từ họ hàng của Ê-li-ê-xe: là con trai ông, Gie-sai con trai Rê-ha-bia; Giô-ram con trai Gie-sai; Xiếc-ri, con trai Giô-ram, và Sê-lô-mít, con trai Xiếc-ri.
\s5
\v 26 Sê-lô-mít cùng các thân tộc người đứng quản lý kho các vật thuộc về Đức Giê-hô-va, Vua Đa-vít, các trưởng tộc, quan tướng cai ngàn quân và cai trăm quân, cùng các tướng đạo binh đã biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va.
\v 27 Họ biệt riêng một số chiến lợi phẩm chiếm được trong chiến tranh đặng dùng xây sửa đền của Đức Giê-hô-va.
\v 28 Họ cũng coi sóc mọi thứ đã được dâng cho Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Sa-mu-ên, Sau-lơ, con trai của Kích, Áp-ne, con trai Nê-rơ, và Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. Mọi thứ đã được dâng cho Đức Giê-hô-va ở dưới quyền coi sóc của Sê-lô-mít cùng các thân tộc người.
\s5
\v 29 Trong dòng dõi của Dít-sê-ha, Kê-na-nia và các con trai người coi sóc mọi việc nội bộ của Y-sơ-ra-ên. Họ được lập lên làm quan trưởng và quan xét.
\v 30 Trong dòng dõi của Hếp-rôn, Ha-sa-bia và anh em người, 1. 700 người có khả năng, họ coi sóc công việc của Đức Giê-hô-va và công việc của nhà vua. Họ ở bên kia sông Giô-đanh về phía tây.
\s5
\v 31 Từ dòng dõi của Hếp-rôn, Giê-ri-gia là lãnh đạo của dòng dõi ông, tính từ danh sách các gia đình của họ. Vào năm thứ bốn mươi sự trị vì của Đa-vít, họ xem xét các bản tường trình thì thấy giữa vòng họ nhiều người có khả năng tại Gia-ê-xe trong xứ Ga-la-át.
\v 32 Giê-ri-gia đã có hai ngàn bảy trăm người thân tộc, họ là cấp lãnh đạo các gia đình. Đa-vít lập họ giám sát trên người Ru-bên, và người Gát, và trên nửa chi phái Ma-na-se, cho từng vấn đề liên quan đến Đức Chúa Trời và các vụ việc của nhà vua.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Đây là danh sách những trưởng tộc của dân Y-sơ-ra-ên, tức các quan tướng cai ngàn người và cai trăm người, cũng như các tướng lãnh quân đội phục vụ vua theo nhiều cách khác nhau. Từ sự phân chia về mặt quân sự phục vụ từng tháng suốt cả năm. Mỗi đơn vị có 24. 000 người.
\v 2 Đơn vị cho tháng thứ nhứt là Gia-sô-bê-am, con trai của Xáp-đi-ên. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 3 Ông có mặt giữa dòng dõi Phê-rết, là chỉ huy các sĩ quan quân đội cho tháng thứ nhứt.
\s5
\v 4 Đơn vị cho tháng thứ nhì là Đô-đai, là dòng dõi của A-hô-ha; Mích-lô làm thứ. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 5 Đơn vị cho tháng thứ ba, là Bê-na-gia, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, là thầy tế lễ và quan trưởng. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 6 Đây là Bê-na-gia, là cấp lãnh đạo ba mươi người kia, và làm đầu ba mươi người ấy. Am-mi-xa-đáp, con trai người, cũng ở trong đơn vị của người.
\s5
\v 7 Cấp chỉ huy tháng thứ tư là A-sa-ên, em của Giô-áp. Xê-ba-đia, con trai người trở thành tướng lãnh nối theo người. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 8 Cấp chỉ huy tháng thứ năm là Sa-mê-hút, dòng dõi của Gít-ra. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 9 Cấp chỉ huy tháng thứ sáu là Y-ra, con trai Y-ke, ở Thê-cô-a. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\s5
\v 10 Cấp chỉ huy của tháng thứ bảy là Hê-lết, người Pha-lôn, ra từ dân sự Ép-ra-im. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 11 Cấp chỉ huy của tháng thứ tám là Si-bê-cai, người Hu-sa, từ họ hàng ra từ Xê-rách. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 12 Cấp chỉ huy tháng thứ chín là A-bi-ê-xe, người A-na-tốt, ra từ chi phái Bên-gia-min. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\s5
\v 13 Cấp chỉ huy của tháng thứ mười là Ma-ha-rai, ra từ thành Nê-tô-pha, họ hàng Xê-rách. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 14 Cấp chỉ huy tháng thứ mười một là Bê-na-gia, ra từ thành Phi-ra-thôn, từ chi phái Ép-ra-im. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\v 15 Cấp chỉ huy của tháng thứ mười hai là Hiên-đai, ra từ thành Nê-tô-pha, từ họ hàng Ốt-ni-ên. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
\s5
\v 16 Đây là cấp lãnh đạo các chi phái Y-sơ-ra-ên: Về chi phái Ru-bên. Ê-li-ê-xe, con trai Xiếc-ri. Về chi phái Si-mê-ôn là Sê-pha-tia, con trai Ma-a-ca;
\v 17 Về chi phái Lê-vi là Ha-sa-bia, con trai của Kê-mu-ên làm trưởng; còn Xa-đốc lãnh đạo dòng dõi của A-rôn;
\v 18 Về chi phái Giu-đa là Ê-li-hu, một trong các anh của Đa-vít, làm trưởng. Về chi phái Y-sa-ca là Ôm-ri, con trai của Mi-ca-ên, làm trưởng;
\s5
\v 19 Về chi phái Sa-bu-lôn là Dít-ma-hia, con trai của Ô-ba-đia làm trưởng. Về chi phái Nép-ta-li là Giê-ri-mốt, con trai của A-ri-ên làm trưởng;
\v 20 Về chi phái Ép-ra-im là Ô-sê, con trai của A-xa-xia, làm trưởng. Về nửa chi phái Ma-na-se là Giô-ên, con trai Phê-đa-gia, làm trưởng;
\v 21 Về nửa chi phái Ma-na-se ở Ga-la-át, là Gi-đô, con trai của Xa-cha-ri, làm trưởng. Về chi phái Bên-gia-min là Gia-a-xi-ên, con trai Ap-ne, làm trưởng;
\v 22 Về chi phái Đan là A-xa-rên, con trai của Giê-rô-ham, làm trưởng. Đây là cấp lãnh đạo của các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 23 Đa-vít không tính những người trên dưới hai mươi tuổi, bởi vì Đức Giê-hô-va đã hứa rằng làm tăng Y-sơ-ra-ên lên đông như sao trên trời.
\v 24 Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, khởi lấy số nhiều người, nhưng không hoàn tất được. Cơn thạnh nộ giáng trên Y-sơ-ra-ên vì việc nầy. Số tu bộ nầy không nhập vào sách sử ký của vua Đa-vít.
\s5
\v 25 Ách-ma-vết, con trai A-đi-ên, coi sóc kho tàng của nhà vua. Giô-na-than, con trai U-xi-gia, coi sóc các kho tàng ở đồng ruộng, trong các thành, trong các làng mạc và trong các tháp của đồn
\v 26 Ết-ri, con trai Kê-lúp, giám sát những người làm nông, những người lo cày cấy trong xứ;
\v 27 Sim-ri, ra từ Ra-ma, giám sát các vườn nho; còn Xáp-đi, ra từ Sê-pham, giám sát các vườn nho và kho rượu;
\s5
\v 28 Giám sát cây ô-li-ve và cây sung mọc trong chỗ thấp là Ba-anh-Ha-nan, ra từ Ghê-đe; còn Giô-ách giám sát các kho dầu;
\v 29 Giám sát các bầy gia súc ăn cỏ tại Sa-rôn là Sít-trai, ra từ Sa-rôn, còn giám sát các bầy gia súc trong đồng bằng là Sa-phát, con trai Át-lai.
\s5
\v 30 Giám sát bầy lạc đà là Ô-binh, người Ích-ma-ên, và giám sát bầy lừa cái là Giê-đia, ra từ Mê-rô-nốt. Giám sát các bầy chiên là Gia-xít, người Ha-ga-rít.
\v 31 Hết thảy những người nầy đều giám sát viên tài sản của Vua Đa-vít.
\s5
\v 32 Giô-na-than, cậu của Đa-vít, làm mưu sĩ, là một người thông sáng và là thầy thông giáo. Giê-hi-ên con trai của Hác-mô-ni, coi sóc các con trai của nhà vua.
\v 33 A-hi-tô-phên là mưu sĩ của nhà vua; và Hu-sai, người At-kít, là cố vấn riêng của nhà vua.
\v 34 Giê-hô-gia-đa chiếm lấy địa vị của A-hi-tô-phe, Giê-hô-gia-đa là con trai của Bê-na-gia, và bởi A-bia-tha. Giô-áp làm quan tổng binh quân đội của nhà vua.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Đa-vít tập trung các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên tại thành Giê-ru-sa-lem, các quan trưởng các chi phái, các đơn vị quân đội phục sự vua trong công tác đã vạch, các quan tướng cai ngàn quân và trăm quân, các nhà quản lý sản nghiệp của nhà vua và của các con trai người, các quan trưởng và những chiến binh, kể cả người khéo léo nhất trong số họ.
\s5
\v 2 Khi ấy Vua Đa-vít đứng dậy rồi nói: Hỡi các anh em và dân sự ta, hãy nghe! Xây dựng một đền thờ cho hòm giao ước của Đức Giê-hô-va là dự tính của ta, một bệ chơn cho Đức Chúa Trời của chúng ta, và ta đã sắm sẵn vật liệu để xây cất đền ấy.
\v 3 Nhưng Đức Chúa Trời phán cùng ta: “Ngươi chớ cất đền cho danh ta, vì ngươi là một tay chiến sĩ, đã đổ huyết ra nhiều”.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã chọn ta từ trong cả nhà cha ta lên làm vua Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời. Ngài đã chọn chi phái Giu-đa làm trưởng. Trong chi phái Giu-đa, và trong nhà cha ta; từ trong các con trai của cha ta, Ngài chọn ta để làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Từ nhiều con trai Đức Giê-hô-va đã ban cho ta; Ngài đã chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngôi của Vương quốc Đức Giê-hô-va, đặng cai trị Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Ngài phán cùng ta rằng: “Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ xây đền thờ và các hành lang ta; vì ta đã chọn nó làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó.
\v 7 Ta sẽ thiết lập nước của người cho đến đời đời, nếu người giữ cam kết vâng theo các điều răn và luật lệ của ta, như các ngươi thấy ngày nay.
\s5
\v 8 Vậy bây giờ, tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, là hội chúng của Đức Giê-hô-va, và trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời chúng ta, hết thảy các ngươi phải tuân giữ và tìm kiếm các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy làm theo điều nầy hầu cho các ngươi chiếm lấy xứ tốt tươi nầy rồi để lại như một cơ nghiệp cho con cháu các ngươi đến đời đời.
\s5
\v 9 Còn ngươi, hỡi Sa-lô-môn, con trai ta, hãy vâng theo Đức Chúa Trời của cha ngươi, hãy hết lòng và hết linh hồn mà phục sự Ngài; vì Đức Giê-hô-va dò xét mọi lòng, và hiểu hết từng động lực trong suy tưởng của con người. Nếu con tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ cho con gặp; nhưng nếu con lìa bỏ Ngài, ắt Ngài sẽ từ bỏ con cho đến đời đời.
\v 10 Hãy công nhận rằng Đức Giê-hô-va đã chọn con đặng xây cất đền thờ nầy làm nơi thánh của Ngài: khá mạnh dạn mà làm”.
\s5
\v 11 Bấy giờ, Đa-vít trao cho Sa-lô-môn, con trai người, mọi chương trình về hiên cửa, về đền thờ, về các kho tàng, về lầu gác, về phòng trong của đền thờ, và về phòng với nắp thi ân;
\v 12 Ông trao cho người mọi chương trình mà ông đã vẽ về các hành-lang của đền Đức Giê-hô-va, và về các phòng vây quanh, về các nhà kho trong đền của Đức Chúa Trời, và về các kho tàng chứa những đồ vật thuộc về Đức Giê-hô-va;
\s5
\v 13 Ông trao cho người các sự phân chia dòng thầy tế lễ và người Lê-vi, về các trách nhiệm đã phân công về sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va, và về các thứ khí dụng cho sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va;
\v 14 Ông cũng trao cho người số cân về các khí dụng bằng vàng dùng cho từng loại công việc, và về các khí dụng bằng bạc, với số cân nó, dùng về từng loại công việc;
\v 15 Các chi tiết nầy được trao theo số lượng cân, bao gồm các chi tiết các chân đèn bằng vàng, và về những thếp đèn bằng vàng của nó, các chi tiết theo số cân của từng chân đèn và thếp nó; số cân về những chân đèn bằng bạc, và chi tiết cách sử dụng thích đáng của từng chân đèn.
\s5
\v 16 Ông trao số cân vàng về các bàn để bánh trần thiết, cho từng cái bàn, và số cân bạc cho những cái bàn bằng bạc;
\v 17 Ông trao số cân về vàng ròng cho nỉa, chậu, và ly. Ông đã trao số cân về từng cái bát bằng vàng, và số cân của từng cái bát bằng bạc.
\s5
\v 18 Ông đã trao số cân bằng vàng đã thét luyện rồi về bàn thờ xông hương, và số cân bằng vàng về kiểu chê-ru-bim xoè cánh ra che trên hòm giao ước của Đức Giê-hô-va.
\v 19 Đa-vít nói: “Kiểu mẫu về các công việc nầy vẽ ra theo như Đức Giê-hô-va đã hướng dẫn ta và đã ban cho ta hiểu được về kiểu cách ấy”.
\s5
\v 20 Đa-vít lại nói với Sa-lô-môn, con trai mình rằng: “Hãy vững lòng bền chí mà làm. Chớ sợ sệt hay kinh hãi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của cha, đang ở cùng con. Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi con cho đến chừng các công việc cho sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va được hoàn tất.
\v 21 Hãy xem, đây là những sự phân chia về thầy tế lễ và người Lê-vi cho mọi công việc của đền Đức Chúa Trời. Họ sẽ ở với con, cùng với hết thảy những người vui ý, thông thạo về các nghề, đặng phụ giúp con trong công việc và hoàn thành công việc. Các quan trưởng và cả dân sự đều sẵn sàng vâng theo các mạng lịnh của con”.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Vua Đa-vít nói với cả hội chúng rằng: “Sa-lô-môn, con trai ta, chỉ một mình con đó mà Đức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ tuổi và chưa có kinh nghiệm, và công việc lại lớn lao. Vì cái đền đó không phải dành cho con người đâu, mà là cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\v 2 Ta đã chu cấp hết sức mình cho đền của Đức Chúa Trời ta. Ta đã dâng vàng dùng về đồ làm bằng vàng, bạc dùng về đồ làm bằng bạc, đồng dùng về đồ làm bằng đồng, sắt dùng về đồ làm bằng sắt, và gỗ dùng về đồ làm bằng gỗ. Ta cũng dâng ngọc bích, ngọc để khảm, ngọc chiếu sáng, ngọc đủ các màu — và các thứ đá quí — cùng đá cẩm thạch trắng rất nhiều.
\s5
\v 3 Bây giờ, vì cớ ta vui thích nơi đền của Đức Chúa Trời ta, ta dâng kho riêng của ta về vàng và bạc cho đền ấy. Ta làm mọi sự nầy thêm vào mọi thứ mà ta đã sắm sẵn cho đền thánh nầy.
\v 4 ba ngàn ta lâng vàng từ xứ Ô-phia, và bảy ngàn ta lâng bạc đã thét, đặng dùng bọc các vách đền;
\v 5 Ta dâng vàng dùng về những vật làm bằng vàng, bạc dùng về những vật bằng bạc, và các thứ dùng về các việc do thầy thợ làm. Vậy ngày nay, ai là người vui lòng đóng góp và dâng mình cho Đức Giê-hô-va?
\s5
\v 6 Bấy giờ, nhiều của dâng rời rộng được dâng lên bởi các trưởng tộc những gia đình của tổ phụ họ, các lãnh đạo những chi phái Y-sơ-ra-ên, các quan tướng cai ngàn người và trăm người, và bởi những quan chức giám sát công việc của nhà vua,
\v 7 Họ dâng về công việc đền Đức Chúa Trời, năm ngàn ta lâng và mười ngàn đa-riếc vàng, mười ngàn ta lâng bạc, mười tám ngàn ta lâng đồng, và một trăm ngàn ta lâng sắt.
\s5
\v 8 Những ai có đá quí, thì giao cho kho đền Đức Giê-hô-va, dưới quyền giám sát của Giê-hi-ên, dòng dõi của Ghẹt-sôn.
\v 9 Dân sự rất vui mừng vì cớ những của dâng trọn lòng vui ý nầy, vì họ đã hết lòng đóng góp cho Đức Giê-hô-va. Vua Đa-vít cũng lấy làm vui mừng cả thể.
\s5
\v 10 Trước mặt cả hội chúng, Đa-vít chúc tạ Đức Giê-hô-va. Ông nói: Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng tôi ôi! Nguyện Ngài được ngợi khen cho đến đời đời vô cùng!
\v 11 Hỡi Đức Giê-hô-va, thuộc về Ngài là sự cao cả, quyền năng, vinh hiển, toàn thắng, và oai nghi. Vì mọi sự ở trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Thuộc về Ngài là Vương quốc, hỡi Đức Giê-hô-va! Ngài được tôn cao làm Chúa Tể của muôn vật
\s5
\v 12 Cả hai: sự giàu có và vinh hiển đều từ Ngài mà đến, và Ngài tể trị trên mọi người. Trong tay Ngài là quyền phép và sức mạnh. Ngài có năng lực và sức mạnh để khiến cho người ta được tôn trọng và ban sức mạnh cho bất cứ ai.
\v 13 Bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! Chúng tôi cảm tạ Ngài và ngợi khen danh vinh hiển của Ngài.
\s5
\v 14 Nhưng tôi là ai, và dân sự tôi là gì, mà chúng tôi có khả năng dâng các thứ nầy cách vui lòng như vậy chứ? Thực vậy, vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến; và chúng tôi đã dâng lại cho Chúa những gì đã thuộc về Ngài.
\v 15 Vì chúng tôi vốn là khách lạ và lữ hành ở trước mặt Chúa, y như các tổ phụ chúng tôi. Các ngày chúng tôi tại trên đất, khác nào cái bóng, không mong ở lâu được.
\s5
\v 16 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ôi! Mọi sự giàu có nầy mà chúng tôi đã sắm sửa để cất đền tôn vinh danh thánh Ngài — đều đến từ Ngài, và thuộc về Ngài.
\v 17 Hỡi Đức Chúa Trời tôi! Tôi cũng biết rằng Ngài dò xét tấm lòng, và lấy làm vui về sự ngay thẳng. Về phần tôi, cứ theo sự ngay thẳng của lòng tôi mà vui lòng dâng các vật nầy, và bây giờ tôi vui mừng nhìn thấy dân sự Ngài, họ hiện diện ở đây cũng sẵn lòng dâng hiến cho Chúa.
\s5
\v 18 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên — tổ phụ của chúng tôi ôi! — xin hãy cho dân sự Chúa giữ luôn luôn một tâm ý ấy trong lòng. Xin lèo lái tấm lòng của họ hướng về Ngài.
\v 19 Xin ban cho Sa-lô-môn, con trai tôi, có một ước ao hết lòng giữ theo các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, cùng thực thi mọi công việc nầy, lo xây cất đền thờ mà tôi đã lo các khoản cung hiến nầy.
\s5
\v 20 Đa-vít nói với cả hội chúng rằng: “Bây giờ, hãy chúc phước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”. Cả hội chúng đều chúc phước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, họ cúi đầu xuống mà thờ lạy Đức Giê-hô-va, kính cẩn trước mặt nhà vua.
\v 21 Qua ngày sau, họ dâng những tế lễ cho Đức Giê-hô-va, và dâng những của lễ thiêu cho Ngài. Họ đã dâng một ngàn con bò đực, một ngàn con chiên đực, một ngàn con chiên con, với các thức uống làm của dâng, và của lễ dư dật trong cả Y-sơ-ra-ên;
\s5
\v 22 Trong ngày ấy, họ ăn uống rất vui vẻ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ lập Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, làm vua lần thứ nhì, và xức dầu cho ông làm vua với thẩm quyền của Đức Giê-hô-va. Họ cũng xức dầu cho Xa-đốc làm thầy tế lễ.
\v 23 Bấy giờ, Sa-lô-môn ngồi lên trên ngôi của Đức Giê-hô-va, làm vua thế cho Đa-vít, cha người. Người được thịnh vượng; cả Y-sơ-ra-ên đều vâng theo người.
\s5
\v 24 Các quan trưởng, những chiến binh, và các con trai của vua Đa-vít, đều dâng lòng trung thành với vua Sa-lô-môn.
\v 25 Đức Giê-hô-va tôn cao Sa-lô-môn rất long trọng tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, và ban cho người được oai nghiêm, đến đỗi trong Y-sơ-ra-ên chẳng có một vua nào trước người được như vậy.
\s5
\v 26 Đa-vít, con trai Gie-sê, cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên.
\v 27 Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm. Ông cai trị 7 năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 28 Ông băng hà tuổi cao, thỏa nguyện về đời mình, về sự giàu có, và về vinh hiển. Sa-lô-môn, con trai người, kế vị người.
\s5
\v 29 Các thành tựu của vua Đa-vít, đều được chép trong sử ký của tiên tri Sa-mu-ên, trong sử ký của tiên tri Na-than, và trong sử ký của tiên tri Gát,
\v 30 Mọi việc làm trong đời trị vì của người đều được ghi chép lại, các thành tựu của người, và các biến cố tác động đến người, Y-sơ-ra-ên, cùng hết thảy các vương quốc ở các xứ khác.

1615
14-2CH.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1615 @@
\id 2CH
\ide UTF-8
\h II SỬ KÝ
\toc1 II SỬ KÝ
\toc2 II SỬ KÝ
\toc3 2ch
\mt II SỬ KÝ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Sa-lô-môn con trai Đa-vít, được mạnh mẽ trong sự cai trị mình; và Giê-hô-va Đức Chúa Trời người ở cùng người, và làm cho người được mạnh mẽ.
\s5
\v 2 Sa-lô-môn truyền cho cả Y-sơ-ra-ên, các quan tướng ngàn người và trăm người, và các quan xét, và từng vị quan trưởng trong Y-sơ-ra-ên, là lãnh đạo nhà của các tổ phụ.
\v 3 Vậy, Sa-lô-môn và cả hội chúng cùng với ông đến đền thờ tại Ga-ba-ôn; vì ở đó có nơi nhóm lại của Đức Chúa Trời, mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã dựng lên trong đồng vắng.
\v 4 Nhưng Đa-vít đã rước hòm Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim đến chỗ mà ông đã dọn sẵn cho hòm, vì người đã dựng cho hòm ấy một cái trại trong thành Giê-ru-sa-lem.
\v 5 Thêm nữa, bàn thờ bằng đồng mà Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, đã làm, hiện diện ở đó trước mặt đền tạm của Đức Giê-hô-va; Sa-lô-môn và hội chúng đi đến nơi đó.
\s5
\v 6 Sa-lô-môn lên đến chỗ bàn thờ bằng đồng đặt ở trước mặt Đức Giê-hô-va tại nơi nhóm lại, rồi dâng một ngàn của lễ thiêu trên đó.
\v 7 Đức Chúa Trời hiện ra cùng Sa-lô-môn trong đêm đó, mà phán rằng: “Hãy xin đi! Ta sẽ ban cho con điều gì”.
\s5
\v 8 Sa-lô-môn thưa cùng Đức Chúa Trời: “Ngài đã tỏ ra sự thành tín giao ước cho Đa-vít, cha tôi, và đã khiến tôi làm vua trong chỗ của người.
\v 9 Giờ đây, Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời, nguyện lời hứa của Ngài cùng Đa-vít, cha tôi, được ứng nghiệm; vì Chúa đã lập tôi lên làm vua dân sự này đông đảo giống như bụi đất.
\v 10 Vậy, xin ban cho tôi sự khôn ngoan và tri thức, hầu cho tôi có thể lãnh đạo dân sự này; vì ai có thể xét đoán dân sự Ngài, họ vốn đông đảo dường kia?
\v 11 Đức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn: “Vì điều nầy ở trong lòng con, và vì con không cầu xin để được giàu có, hay vinh quang, cũng không xin mạng sống của những kẻ ghét con, cũng không xin sống lâu cho mình — nhưng vì con đã xin sự khôn ngoan và tri thức cho mình, hầu cho con sẽ cai trị dân sự ta, Ta đã lập con làm vua trên họ,
\s5
\v 12 Giờ đây, ta đã ban sự khôn ngoan và tri thức cho con; Ta cũng sẽ ban cho con sự giàu có, của cải, tôn vinh, nhiều hơn bất kỳ vua nào trước con, và cũng sẽ ban cho con nhiều hơn bất cứ vua nào sau con”.
\v 13 Vậy, Sa-lô-môn từ đền thờ ở trước hội mạc tại nơi cao Ga-ba-ôn trở về thành Giê-ru-sa-lem; ông cai trị trên Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 14 Sa-lô-môn tập trung xe và lính kỵ, và ông có 1. 400 cỗ xe, mười hai ngàn lính kỵ; ông đặt trong các thành chứa xe, và với chính mình ông, là vua tại Giê-ru-sa-lem.
\v 15 Nhà Vua làm cho bạc vàng trong Giê-ru-sa-lem ra thường như đá sỏi, và ông làm cho cây bá hương ra thường như cây sung nơi đồng bằng.
\v 16 Để nhập khẩu bầy ngựa từ Ai-cập và Ku-ê cho Sa-lô-môn; các lái buôn của vua đi mua chúng từng bầy từ Ku-ê với một giá.
\v 17 Họ nhập khẩu từ Ai-cập một cái xe giá sáu trăm siếc-lơ bạc, còn một con ngựa giá một trăm năm mươi siếc-lơ. Họ cũng nhập khẩu chúng cho các vua dân Hê-tít và dân A-ram.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Bấy giờ, Sa-lô-môn truyền cất một cái đền cho danh Đức Giê-hô-va, và một cung điện cho vương quốc mình.
\v 2 Sa-lô-môn phân công 70. 000 người khiêng gánh, và 80. 000 người thợ đẽo đá trên núi, và 3. 600 người giám sát họ.
\v 3 Sa-lô-môn gửi sứ điệp đến Hi-ram, vua Ty-rơ, nói rằng: “Như Vua đã làm với Đa-vít, cha tôi, cung cấp cho người cây bá hương đặng cất cái cung để người sống trong đó; xin cũng hãy làm cho tôi như thế.
\s5
\v 4 Hãy xem, tôi muốn cất một cái đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tôi, dâng đền ấy cho Ngài, đặng xông nhũ hương trước mặt Ngài, thường xuyên bày bánh trần thiết, và để dâng của lễ thiêu về ban sáng và về ban chiều, nhằm ngày Sa-bát, ngày trăng mới, hay là trong những lễ hội đã định cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Đây vốn là luật lệ cho Y-sơ-ra-ên trong mọi thời đại.
\v 5 Ngôi Nhà mà tôi định xây sẽ rất nguy nga. vì Đức Chúa Trời chúng tôi vốn cao cả hơn các thần.
\s5
\v 6 Nhưng ai có khả năng xây cho Đức Chúa Trời một cái đền; vì toàn bộ vũ trụ và thậm chí chính trời của các từng trời còn chẳng thể chứa Ngài được thay! Vậy tôi là ai, mà cất một cái đền, trừ ra dâng của lễ thiêu ở trước mặt Ngài?
\v 7 Vậy, xin hãy gửi đến cho tôi một người thạo công việc về vàng, bạc, đồng, sắt, thạo dệt bằng chỉ tím, đỏ và xanh, một người cùng biết chạm trổ trên gỗ. Người ấy sẽ làm việc với những người tài giỏi, họ đang ở với tôi trong xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, là những người mà Đa-vít, cha tôi, đã có sẵn đây.
\s5
\v 8 Xin hãy gửi cho tôi gỗ bá hương, gỗ tòng, và gỗ bạch đàn hương từ Li-ban; vì tôi biết các tôi tớ của vua đều thạo đốn gỗ trên Li-ban. Hãy xem, các tôi tớ tôi cũng sẽ cùng làm với các tôi tớ vua,
\v 9 đặng lo sắm sửa cho tôi nhiều gỗ; vì cái đền mà tôi toan cất sẽ nguy nga lạ kỳ.
\v 10 Hãy xem, tôi sẽ cấp cho các tôi tớ vua, là những kẻ thạo đốn gỗ, 20. 000 cô-rơ lúa miến giã rồi, 20. 000 cô-rơ lúa mạch, 2. 000 bát rượu, và hai vạn bát dầu”.
\s5
\v 11 Khi ấy, Hi-ram, vua Ty-rơ, bèn viết thơ phúc đáp gởi cho Sa-lô-môn như sau: “Vì Đức Giê-hô-va yêu thương dân sự Ngài, nên Ngài đã lập ông làm vua làm vua trên họ”.
\v 12 Ngoài ra, Hi-ram còn nói: “Đáng chúc phước thay là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dựng nên trời đất, Ngài đã ban cho vua Đa-vít một con trai khôn ngoan, được ơn với sự dè dặt, thông minh, là người sẽ cất một cái đền cho Đức Giê-hô-va và một cái cung cho Vương quốc người.
\s5
\v 13 Bây giờ, tôi gửi đến cho vua một người có tài khéo, được ơn với sự hiểu biết, là Hu-ram-A-bi,
\v 14 con trai của người nữ trong các con gái của chi phái Đan. Cha người là dân Ty-rơ. Người thạo công việc về chế đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, thạo dệt chỉ tím, xanh và đỏ sậm, cùng chỉ gai trắng xe mịn. Người cũng biết làm các thứ chạm trổ, và chế tạo đủ thứ vật xảo theo bất kỳ thiết kế nào. Chắc là sẽ có chỗ cho người giữa vòng những thợ khéo của ông, và với thầy thợ của chúa tôi, là Đa-vít cha vua.
\s5
\v 15 Vậy bây giờ, lúa miến, lúa mạch, dầu, và rượu, mà chúa tôi đã nói đến, xin hãy gởi cho các tôi tớ người.
\v 16 Chúng tôi sẽ đốn gỗ từ Li-ban, theo số mà vua cần dùng. Chúng tôi sẽ kết thành bè đem ra biển đến Gia-phô; và vua sẽ chở gỗ ấy lên Giê-ru-sa-lem”.
\v 17 Sa-lô-môn bèn điểm soát các người ngoại quốc ở trong nước Y-sơ-ra-ên, theo phương pháp mà Đa-vít, cha người, đã điểm soát. Có đến 153. 600 người.
\v 18 Ông phân công 70. 000 người làm kẻ khiêng gánh, 80. 000 người đẽo đá trên núi, và 3. 600 làm giám sát, đặng khiến nhân công làm việc.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Lúc ấy, Sa-lô-môn khởi cất đền Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi Đức Giê-hô-va đã hiện ra cùng Đa-vít, cha người. Ông đã sửa soạn chỗ mà Đa-vít đã hoạch định cho việc xây cất, ngay sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.
\v 2 Ông khởi xây cất nhằm ngày mồng hai tháng thứ hai, năm thứ tư sự trị vì của ông.
\v 3 Bấy giờ, đây là kích thước nền mà Sa-lô-môn đã đặt ra cho đền của Đức Chúa Trời. Khi sử dụng theo đơn vị cubit xưa [1 cubit=42, 7 cm], bề dài là sáu mươi cubits, và bề ngang hai mươi cubits.
\s5
\v 4 Bề dài hiên cửa ở phía trước đền là 20 cubits, y như bề ngang của đền vậy. Và bề cao cũng là 20 cubits; và Sa-lô-môn bọc phía trong đều bằng vàng ròng.
\v 5 Ông thiết kế trần nhà với gỗ bá hương, và bọc vàng ròng, chạm hình cây chà là và những mắc xích.
\s5
\v 6 Người trang hoàng đền với các thứ đá quí; vàng là vàng lấy từ Phạt-va-im.
\v 7 Người cũng lại bọc vàng những cây mè, ngạch cửa, vách, và các cánh cửa; người chạm hình các chê-ru-bin lên vách.
\s5
\v 8 Người cũng xây nơi chí thánh. Bề dài, cùng với bề rộng, 20 cubit. Người bọc nơi ấy bằng vàng ròng, với số lượng là 600 ta lâng.
\v 9 Số lượng đinh bằng vàng là 50 siếc-lơ. Người bọc vàng các phòng cao.
\s5
\v 10 Người chế tạo hai hình chê-ru-bin cho nơi chí thánh; thợ thủ công bọc chúng với vàng.
\v 11 Bốn cánh của hai chê-ru-bin dài 20 cubit; cánh này của chê-ru-bin bên hữu dài 5 cubit, đụng đến vách đền, còn cánh kia cũng dài năm thước, và đụng cánh của chê-ru-bin kia.
\v 12 Cánh này của chê-ru-bin kia cũng dài 5 cubit, và đụng đến vách đền, còn cánh kia cũng dài 5 cubits, tiếp giáp với cánh chê-ru-bin thứ nhứt.
\s5
\v 13 Các cánh của hai chê-ru-bên đều xoè ra, cộng dài 20 cubit. Các chê-ru-bin đứng trên chân của chúng, ngảnh mặt hướng về hành lang chính.
\v 14 Người lại chế bức màn bằng chỉ màu xanh, màu tím, màu đỏ sặm, cùng chỉ gai xe mịn, rồi thêu hình chê-ru-bin trên đó.
\v 15 Sa-lô-môn cũng làm hai cây trụ, mỗi trụ cao 35 cubit, đặt ở trước đền; đầu trụ ở trên chót hai trụ cao 5 cubit.
\v 16 Người lại làm dây xích cho mấy cây trụ rồi đặt chúng trên đầu trụ; người cũng làm 100 trái lựu rồi gắn chúng vào dây xích ấy.
\v 17 Người dựng hai trụ đó ở trước đền thờ, một cây bên phải, còn cây kia bên trái; người đặt tên cây bên phải là Gia-kin và cây bên trái là Bô-ách.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Người lại làm một cái bàn thờ đồng, bề dài hai mươi cubit, và bề ngang hai mươi cubit và bề cao mười cubit.
\v 2 Người cũng làm một cái biển tròn bằng kim loại, từ mép này qua mép kia mười cubit. Bề cao là năm cubit; một sợi dây ba mươi cubit quấn chung quanh nó.
\v 3 Ở dưới cái biển tròn đó, là những con bò, mỗi cubit mười con, đúc một lượt với cái biển đó.
\s5
\v 4 Biển tròn dựng trên mười hai con bò, ba con xây về hướng bắc, ba con xây về hướng tây, ba con xây về hướng nam, và ba con xây về hướng đông; và thân sau chúng nó đều quay vào trong.
\v 5 Bề dày biển tròn đó là một gang tay, mép nó như mép cái chén, giống như hoa huệ nở. Cái biển chứa được ba ngàn bát nước.
\v 6 Người cũng làm mười cái thùng để rửa, năm cái bên hữu và năm cái bên tả; họ rửa trong đó vật gì thuộc về của lễ thiêu. Tuy nhiên, cái biển dành cho thầy tế lễ tắm trong đó.
\s5
\v 7 Người làm mười cái chân đèn bằng vàng, được chế tạo theo kiểu đã định; người đặt nó trong đền thờ, năm cái bên hữu, năm cái bên tả.
\v 8 Người đóng mười cái bàn rồi đặt trong đền thờ, năm cái bên hữu, và năm cái bên tả. Người làm một trăm cái chậu bằng vàng.
\s5
\v 9 Người cũng làm hành lang cho dòng thầy tế lễ, và cái sân rộng, các cửa của sân, rồi người bọc đồng các cánh cửa ấy.
\v 10 Người để cái biển ở bên hữu đền, về hướng đông, đối mặt về hướng nam.
\s5
\v 11 Hu-ram lại làm những cái bình, vá, và chậu. Vậy, Hu-ram làm xong công việc người đã làm cho vua Sa-lô-môn trong đền của Đức Chúa Trời:
\v 12 tức hai cây trụ và bầu trụ, hai cái đầu trụ ở trên chót trụ; hai tấm lưới bao hai cái bầu của đầu trụ ở trên chót trụ;
\v 13 Người đã làm bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới, mỗi tấm lưới có hai hàng trái lựu, đặng bao hai cái bầu của đầu trụ ở trên chót trụ.
\s5
\v 14 Người cũng làm táng, và cái thùng ở trên táng;
\v 15 đúc một cái biển và mười hai con bò ở dưới nó;
\v 16 cũng chế những cái bình, vá, nỉa để ăn thịt, và các chi tiết nó; Hu-ram-A-bi đã làm chúng cho Sa-lô-môn, bằng đồng trơn láng, đặng dùng trong đền của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Vua truyền đúc các đồ ấy nơi đồng bằng sông Giô-đanh, trong lớp đất sét, giữa Su-cốt và Xê-rê-đa.
\v 18 Như vậy, Sa-lô-môn chế thứ bình chậu ấy thật nhiều lắm; thực vậy, số cân của đồng thì người ta không tính được.
\s5
\v 19 Sa-lô-môn làm hết thảy các trang thiết bị trong đền của Đức Chúa Trời: cái bàn thờ cũng bằng vàng, và những cái bàn dùng để sắp bánh trần thiết,
\v 20 chân đèn, và cái thếp nó bằng vàng ròng đặng thắp trước nơi thánh — các thứ nầy đều làm bằng vàng ròng;
\v 21 cũng làm các thứ hoa, ngọn đèn và nỉa bằng vàng ròng;
\v 22 Cũng làm các loại dao, chậu, chén, lư hương, hết thảy đều làm bằng vàng ròng. Còn lối vào đền, các cánh cửa trong của nó để vào nơi chí thánh và các cánh cửa của đền, nghĩa là, của đền thờ cũng đều làm bằng vàng.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Ấy vậy, các công việc mà Sa-lô-môn làm cho đền của Đức Giê-hô-va đã xong rồi. Sa-lô-môn đem đến những vật mà Đa-vít, cha người, đã dâng hiến, gồm có bạc, vàng, và các trang thiết bị, để vào kho của đền Đức Chúa Trời.
\s5
\v 2 Khi ấy Sa-lô-môn tập trung tại Giê-ru-sa-lem các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các trưởng của các chi phái, và các trưởng tộc dân Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va từ thành Đa-vít, nghĩa là Si-ôn.
\v 3 Hết thảy người nam Y-sơ-ra-ên đã đến trước mặt nhà vua tại kỳ lễ nhằm tháng thứ bảy.
\s5
\v 4 Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, và người Lê-vi nhấc hòm lên.
\v 5 Họ nhấc hòm lên, nơi nhóm lại, và các đồ thiết bị thánh còn ở trong lều. Dòng thầy tế lễ đều thuộc chi phái Lê-vi đem các đồ đạt nầy đi.
\v 6 Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã nhóm lại trước hòm, dâng những chiên và bò làm của lễ, nhiều vô số không thể đếm được.
\s5
\v 7 Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va vào đúng vị trí của nó, vào phòng trong của đền, tức nơi chí thánh, dưới mấy cánh của chê-ru-bin.
\v 8 Hai chê-ru-bin xòe cánh ra trên chỗ hòm, chúng che hòm và các đòn khiêng.
\s5
\v 9 Đòn khiêng thì dài đến nỗi hai đầu của chúng được thấy ló ra từ nơi thánh, trước phòng trong, nhưng ở ngoài đền thì chẳng thấy; hòm vẫn ở đó cho đến ngày nay.
\v 10 Chẳng có gì trong hòm, trừ ra hai bảng luật pháp mà Môi-se đã để vào tại Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
\s5
\v 11 Khi những thầy tế lễ ra khỏi nơi thánh. Hết thảy các thầy tế lễ nào có mặt đều đã dọn mình ra thánh sạch cho Đức Giê-hô-va, họ nhóm lại theo ban bệ của mình,
\v 12 và các người ca hát trong dân Lê-vi, hết thảy họ, gồm có A-sáp, Hê-nan, Giê-đu-thun, cùng con trai và anh em họ, họ mặc quần áo bằng vải gai mịn, cầm chập chỏa, đàn sắt, và đàn cầm, đều đứng ở đầu phía đông của bàn thờ. Với một trăm hai mươi thầy tế lễ thổi kèn.
\v 13 Khi kẻ thổi kèn và kẻ ca hát hoà thanh như một người, mà khen ngợi cảm tạ Đức Giê-hô-va. Họ trổi tiếng mình lên cùng với tiếng kèn, chập chỏa, nhạc khí lên khen ngợi Đức Giê-hô-va. Họ hát: “Vì Ngài từ thiện, lòng thành tín giao ước Ngài hằng có đời đời”. Khi ấy thì đền, nhà của Đức Giê-hô-va, bị mây lấp đầy;
\v 14 Dòng thầy tế lễ vì cớ mây không thể đứng đó phục vụ, vì sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền Ngài.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Khi ấy, Sa-lô-môn nói: “Đức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong nơi tối thẳm,
\v 2 nhưng tôi đã cất một nơi ngự cho Chúa, một chỗ để Ngài ngự cho đến đời đời”.
\v 3 Tiếp đến, nhà vua xoay lại rồi chúc phước cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng.
\s5
\v 4 Người nói: “Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, được ngợi khen, Ngài đã phán cùng Đa-vít, cha tôi, và đã làm ứng nghiệm lời hứa ấy với tay Ngài; rằng:
\v 5 Từ ngày ta đem dân ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, ta chưa chọn một thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, đặng cất một cái đền tại đó, để đặt danh ta. Ta cũng chẳng chọn người nào để làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên ta;
\v 6 Tuy nhiên, ta đã chọn Giê-ru-sa-lem, hầu cho danh ta đặt tại đó, và ta đã chọn Đa-vít đặng cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta.
\s5
\v 7 Bây giờ, Đa-vít, cha tôi, trong lòng người muốn xây đền cho danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng Đa-vít, cha tôi: “Chính trong lòng ngươi muốn cất cho danh ta một cái đền, ngươi đã làm đúng cái điều có ở trong lòng ngươi;
\v 9 Tuy nhiên, ngươi không được cất cái đền; thay vì thế, con trai ngươi, là đứa ra từ lòng ngươi sẽ cất cái đền cho danh ta.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán, vì tôi được dấy lên trong chỗ của Đa-vít, cha tôi, và tôi ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa. Tôi đã cất đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
\v 11 Tôi đặt cái hòm giao ước ở đó, trong đó là giao ước của Đức Giê-hô-va, mà Ngài lập với dân Y-sơ-ra-ên”.
\s5
\v 12 Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va trong sự hiện diện của cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay mình ra
\v 13 Vì người đã đóng một cái sạp bằng đồng, bề dài năm cubit, bề ngang năm cubit, bề cao ba cubit. Người đặt nó tại giữa hành lang. Người đứng trên sạp ấy, rồi quì gối xuống trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, và người giơ hai tay mình lên trên trời,
\s5
\v 14 Người nói: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Trên trời và dưới đất, chẳng có thần nào giống như Chúa, là Đấng gìn giữ giao ước và lòng thành tín giao ước đối với các tôi tớ Chúa nào hết lòng đi trước mặt Chúa;
\v 15 Ngài là Đấng đã gìn giữ Đa-vít tôi tớ Chúa, là cha tôi, mọi điều Ngài đã hứa với người. Phải, Ngài đã hứa bằng môi miệng của Ngài, thì tay Chúa đã làm cho điều đó được hoàn thành, y như đã có ngày nay.
\s5
\v 16 Vậy, bây giờ, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi, xin thực hiện những điều Ngài đã hứa cùng Đa-vít tôi tớ Chúa, là Đa-vít cha tôi, khi Ngài phán: Ngươi sẽ không thiếu người ngồi trước mặt ta trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, nếu dòng dõi ngươi cẩn thận ăn ở theo luật pháp của ta, y như ngươi đã ăn ở trước mặt ta.
\v 17 Giờ đây, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tôi cầu xin lời hứa Ngài đã lập với Đa-vít, tôi tớ Chúa, sẽ thành ra sự thật.
\s5
\v 18 Nhưng liệu Đức Chúa Trời có thực sự sống với loài người ở trên đất không? Kìa, toàn bộ vũ trụ và chính trời cao kia không thể chứa được Ngài — huống hồ gì cái đền nầy mà tôi đã cất!
\v 19 Tuy nhiên, làm ơn xem trọng lời cầu xin nầy của tôi tớ Ngài và lời thỉnh cầu của nó, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi; xin hãy lắng nghe tiếng kêu cầu và lời nài xin mà tôi tớ Chúa dâng lên trước mặt Ngài.
\v 20 Nguyện mắt Chúa ngày và đêm đoái xem nhà này, nơi mà về nơi ấy Chúa đã phán rằng Ngài sẽ đặt danh Ngài tại đó — để nghe những lời cầu xin mà tôi tớ Ngài sẽ hướng tới địa điểm nầy dâng lên.
\s5
\v 21 Vậy, hãy lắng nghe những lời thỉnh cầu của tôi tớ Ngài và dân sự Y-sơ-ra-ên của Chúa khi chúng tôi hướng về địa điểm nầy mà cầu nguyện. Phải, hãy lắng nghe từ vị trí Ngài đang ngự; từ các từng trời; và khi Ngài lắng nghe, hãy tha thứ.
\s5
\v 22 Nếu một người phạm tội nghịch cùng kẻ lân cận mình và bị buộc phải đưa ra một lời thề, nếu nó đến đưa ra lời thề ở trước bàn thờ của Chúa tại trong đền này,
\v 23 thì từ trên trời hãy lắng nghe, thi hành, và xét đoán các tôi tớ Chúa, báo trả kẻ ác, khiến tội nó đổ lại trên đầu nó. Và xưng công bình cho kẻ vô tội, và ban cho người phần thưởng vì sự công bình của người.
\s5
\v 24 Khi dân Y-sơ-re-ên của Chúa, vì phạm tội với Chúa, bị quân thù nghịch đánh bại, nếu họ trở lại cùng Ngài, xưng ra danh của Ngài, cầu nguyện nài xin ơn tha thứ trước mặt Chúa trong đền này,
\v 25 khi ấy làm ơn hãy lắng nghe từ trên trời và tha thứ tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên Ngài; đem họ trở về xứ mà Chúa đã ban cho họ và cho các tổ phụ của họ.
\s5
\v 26 Khi bầu trời đóng chặt lại và không có mưa chi hết, vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội nghịch cùng Ngài — nếu họ hướng về nơi nầy, xưng ra danh của Ngài, và xây khỏi tội lỗi của họ khi Ngài đã đoán phạt họ,
\v 27 thì ở trên trời hãy lắng nghe và tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Chúa và của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, khi Ngài đã hướng họ vào đường nhơn đức mà họ phải noi theo. Làm ơn giáng mưa xuống trên đất của Ngài, mà Chúa đã ban cho dân sự Ngài làm sản nghiệp.
\s5
\v 28 Giả sử trong xứ có đói kém, hay giả sử có bệnh tật, tai vạ hay nấm mốc, cào cào, hay châu chấu; hoặc giả sử kẻ thù nghịch tấn công các cổng thành trong địa phận họ, hay bất kỳ dịch lệ, tật bịnh gì —
\v 29 và giả sử có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa giơ tay ra hướng về nhà này, cầu nguyện và khẩn xin vô luận điều gì, đã nhận biết tai vạ và buồn rầu trong chính tấm lòng mình,
\v 30 thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa; hãy tha thứ cho, và báo lại cho mỗi người tùy theo công việc họ; Ngài biết rõ tấm lòng của họ, vì Ngài và duy có Ngài mới nhìn biết tấm lòng của con cái loài người.
\v 31 Hãy làm điều nầy để khiến họ biết kính sợ Ngài, hầu cho họ ăn ở theo đường lối Ngài trọn những ngày họ sống trên đất mà Chúa đã ban cho các tổ phụ chúng tôi.
\s5
\v 32 Ngoài ra, về người ngoại bang, họ chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Ngài: khi họ đến từ một xứ xa vì cớ danh cả thể của Ngài, bàn tay quyền năng, và cánh tay giơ cao của Ngài; khi họ sẽ đến và cầu xin hướng về đền này, —
\v 33 thì làm ơn hãy lắng nghe từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, và làm cho bất cứ điều gì người ngoại bang ấy cầu xin Ngài, hầu cho các nhóm dân trên đất sẽ nhận biết danh Ngài, hầu cho họ biết kính sợ Ngài, giống như Ngài làm cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài, và nhơn đó họ nhận biết cái đền này mà tôi đã xây cất được gọi bằng danh Chúa.
\s5
\v 34 Giả sử dân sự Ngài đi giao chiến với các kẻ thù mình, theo đường nào mà Chúa sẽ sai họ đi, và giả sử họ hướng về thành nầy mà Chúa đã chọn đặng cầu xin, và hướng về đền nầy mà tôi đã xây cất cho danh Chúa,
\v 35 thì từ trên trời hãy lắng nghe lời cầu nài xin của họ, và vùa giúp cho lý tưởng của họ.
\s5
\v 36 Giả sử họ phạm tội với Ngài — vì chẳng có người nào mà không phạm tội — và giả sử Ngài nổi giận với chúng và phó chúng cho kẻ thù nghịch, và kẻ thù nghịch bắt họ làm phu tù trong đất của họ, dù xa hay gần;
\v 37 khi ấy giả sử họ nhìn biết họ đang sống trong xứ mà họ phải làm phu tù, và giả sử họ ăn năn và tìm kiếm ơn phước từ Ngài trong đất họ làm phu tù. Giả sử họ nói: “Chúng tôi đã ăn ở ngược ngạo và phạm tội”,
\v 38 Giả sử là họ hết lòng hết linh hồn xây lại cùng Ngài trong xứ họ làm phu tù, và giả sử họ cầu nguyện hướng về xứ mà Chúa đã ban cho các tổ phụ họ, và hướng về thành mà Chúa đã chọn, và hướng về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa,
\v 39 thì từ trời, là nơi ngự của Chúa, hãy lắng nghe lời cầu xin, thỉnh nguyện của họ, và vùa giúp cho lý tưởng của họ. Hãy tha thứ cho dân sự Ngài, họ đã phạm tội nghịch cùng Ngài.
\v 40 Vậy, hỡi Đức Chúa Trời tôi ôi! Bây giờ nài xin Ngài, nguyện mắt Chúa mở ra, và nguyện tai Ngài chú ý đến lời cầu nguyện được thốt ra trong chỗ nầy.
\v 41 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy dấy lên từ chỗ yên nghỉ của Ngài, Ngài và hòm năng lực Ngài! Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! nguyện những thầy tế lễ của Ngài được mặc lấy ơn cứu rỗi, và nguyện các thánh đồ Ngài được mừng rỡ trong sự nhân từ Ngài!
\v 42 Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời! xin chớ xây khỏi Ngài mặt kẻ đã được xức dầu của Ngài. Xin giữ trong trí mọi hành động thành tín giao ước của Chúa đối cùng Đa-vít, là tôi tớ Ngài.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Bấy giờ, khi Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống và thiêu đốt của lễ thiêu và các con sinh, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy ngôi đền.
\v 2 Những thầy tế lễ không thể vào được trong đền của Đức Giê-hô-va, vì sự vinh hiển của Ngài đầy dẫy đền của Ngài.
\v 3 Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều nhìn lên khi lửa giáng xuống và sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi đền. Họ sấp mặt xuống nền đất, thờ lạy và dâng lời cảm tạ Đức Giê-hô-va. Họ nói: “Vì Chúa là nhân từ, vì sự thành tín giao ước của Ngài còn mãi cho đến đời đời!”
\s5
\v 4 Bấy giờ vua và cả dân sự dâng lên các thứ của lễ cho Đức Giê-hô-va.
\v 5 Vua Sa-lô-môn đã dâng 22. 000 con bò và 120. 000 chiên và dê đực. Rồi vua và cả dân sự làm lễ cung hiến đền của Đức Chúa Trời.
\v 6 Các thầy tế lễ đều đứng, mỗi người đứng ở nơi họ phục vụ; còn người Lê-vi thì cầm nhạc cụ của Đức Giê-hô-va, mà vua Đa-vít đã sắm đặng dâng sự cảm tạ Đức Giê-hô-va bằng bài ca: “Vì sự thành tín giao ước của Ngài còn mãi đời đời”. Hết thảy những thầy tế lễ thổi kèn ở trước mặt chúng; và cả Y-sơ-ra-ên đều đứng.
\s5
\v 7 Sa-lô-môn biệt riêng ra thánh phần chính giữa hành lang ở trước đền của Đức Giê-hô-va. Ở đó, ông dâng của lễ thiêu và mỡ về của lễ tương giao, vì cái bàn thờ bằng đồng mà ông đã làm không thể đựng hết của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ được.
\s5
\v 8 Vì thế, Sa-lô-môn và cả Y-sơ-ra-ên, đã giữ lễ trong thời gian bảy ngày, một hội chúng đông đảo đến từ Lê-bô Ha-mát cho tới khe Ê-díp-tô.
\v 9 Qua ngày thứ tám, họ tổ chức một hội chúng đông đảo, vì họ dự lễ cung hiến bàn thờ trong bảy ngày, và giữ lễ trong bảy ngày.
\v 10 Ngày hai mươi ba tháng bảy, Vua Sa-lô-môn cho dân sự trở về nhà mình với sự vui vẻ và mừng rỡ, vì sự nhân từ mà Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cho Đa-vít, cho Sa-lô-môn, và cho Y-sơ-ra-ên, là dân sự của Ngài.
\s5
\v 11 Như vậy, Sa-lô-môn làm xong đền Đức Giê-hô-va và cung của riêng mình. Mọi sự có trong lòng Sa-lô-môn phải thực hiện trong đền Đức Giê-hô-va và trong cung vua, ông đã làm rất thành công.
\v 12 Đức Giê-hô-va ban đêm hiện đến cùng Sa-lô-môn, rồi phán cùng người rằng: “Ta có nghe lời cầu nguyện ngươi, và đã chọn nơi này làm một nhà tế lễ cho chính Ta.
\s5
\v 13 Giả sử ta đóng các từng trời lại, không cho mưa xuống, hoặc nếu ta khiến cào cào cắn nuốt xứ sở, hay nếu ta giáng bệnh tật giữa dân sự ta.
\v 14 khi ấy nếu dân sự ta, họ được gọi bằng danh ta, chịu hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và xây khỏi các đường lối gian ác, ta sẽ nghe từ trời, tha thứ tội lỗi chúng nó, và chữa lành xứ của họ.
\v 15 Bấy giờ, mắt ta sẽ mở ra và tai ta chăm chú nghe những lời cầu nguyện được thốt ra tại nơi này.
\s5
\v 16 Vì giờ đây ta đã chọn và khiến cho đền này ra thánh, hầu cho danh ta ngự ở đó cho đến đời đời; mắt cùng lòng ta sẽ ở đó luôn luôn.
\v 17 Còn ngươi, nếu ngươi ăn ở trước mặt ta giống như Đa-vít, cha ngươi đã ăn ở, vâng theo mọi điều ta đã truyền dặn ngươi và gìn giữ luật lệ và giới mạng ta,
\v 18 Khi ấy, ta sẽ lập ngôi nước ngươi được bền vững, như ta đã phán trong một giao ước với Đa-vít, cha ngươi, khi ta phán: “Một dòng dõi trong số dòng dõi của ngươi sẽ chẳng hề thiếu người cai trị trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 19 Nhưng nếu các ngươi xây trở, và bỏ các luật lệ và giới mạng mà ta đã đặt trước mặt các ngươi, và nếu ngươi đi thờ lạy các tà thần và sấp mình xuống trước mặt chúng nó,
\v 20 thì ta sẽ rứt nhổ các ngươi khỏi đất mà ta đã ban cho các ngươi; và cái đền này mà ta đã biệt riêng ra thánh cho danh ta — ta sẽ quăng nó khỏi mặt ta, làm cho nó nên một câu tục ngữ và một việc nhạo cười ở giữa các dân tộc.
\v 21 Cái nhà này dẫu cao dường nào, người nào đi ngang qua nó cũng sẽ bị sốc. Họ sẽ thắc mắc: “Tại sao Đức Giê-hô-va đã làm vậy với xứ nầy và với đền nầy như thế chứ?'”
\v 22 Nhiều người khác sẽ trả lời: Bởi vì họ lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem các tổ phụ họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô, và vì họ đeo đuổi theo các tà thần, sấp mình xuống trước chúng và thờ lạy chúng. Đấy là lý do tại sao Đức Giê-hô-va đã giáng mọi tai vạ nầy trên họ.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Cuối hai mươi năm, trong thời gian đó Sa-lô-môn đã xây cất xong cái đền của Đức Giê-hô-va và cái cung mình,
\v 2 thì Sa-lô-môn cũng tái thiết lại các thành mà vua Hu-ram đã giao cho người, và người đưa dân Y-sơ-ra-ên đến ở đó.
\s5
\v 3 Sa-lô-môn tấn công Ha-mát-Xô-ba và đánh bại nó.
\v 4 Người xây thành Tát-mốt trong đồng vắng, và xây các thành dùng làm kho tàng tại xứ Ha-mát.
\s5
\v 5 Người cũng xây Thượng Bết-Hô-rôn và Hạ Bết-Hô-rôn, là những thành kiên cố, có tường bao quanh, cổng và then gài;
\v 6 Người xây thành Ba-lát và các thành làm kho tàng mà người đã chiếm lấy, các thành để chứa xe, và các thành cho kỵ binh người ở; và bất cứ điều gì Sa-lô-môn ước ao xây cất cho sự khoái lạc mình tại Giê-ru-sa-lem, ở Li-ban, hay là trong khắp xứ phục dưới quyền người.
\s5
\v 7 Hết thảy những dân sót lại trong dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, họ không thuộc về Y-sơ-ra-ên,
\v 8 dòng dõi của họ còn sót lại trong xứ, mà dân Y-sơ-ra-ên không diệt hết — Sa-lô-môn khiến chúng trở thành loại công nhân bắt buộc, là điều họ phải làm cho đến ngày nay.
\s5
\v 9 Tuy nhiên, Sa-lô-môn không buộc dân Y-sơ-ra-ên phải là loại công nhân đó. Thay vì thế, họ làm quân lính, cấp chỉ huy, quan trưởng, và quan chỉ huy xe chiến và ngựa chiến của người.
\v 10 Còn về các quan chỉ huy quản lý những viên giám sát thuộc về Vua Sa-lô-môn, số là 250 người.
\s5
\v 11 Sa-lô-môn đưa con gái của Pha-ra-ôn ra khỏi thành Đa-vít đến cung mà người đã cất cho nàng; vì người nói rằng: “Vợ ta chẳng nên ở trong cung của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, vì nơi nào hòm của Đức Giê-hô-va đến, thì đã nên thánh rồi.
\s5
\v 12 Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va tại trên bàn thờ mà người đã đóng trước hiên cửa;
\v 13 Người dâng các thứ của lễ y như sự sắp đặt hàng ngày; người đã dâng chúng, tùy theo những hướng dẫn có trong luật pháp Môi-se, vào các ngày sa-bát, ngày trăng mới, và hằng năm nhằm ba lễ trọng thể: lễ bánh không men, lễ của các tuần lễ, và lễ lều tạm.
\s5
\v 14 Tùy theo chiếu chỉ của Đa-vít, cha mình, Sa-lô-môn ấn định các ban bệ của dòng thầy tế lễ trong phần việc họ, và người Lê-vi đúng theo chức năng của họ, để ngợi khen Đức Chúa Trời và phục vụ tại trước mặt những thầy tế lễ, cứ theo sự sắp đặt công việc đòi hỏi. Người cũng ấn định những người gác cửa theo ban bệ cho từng cổng, vì Đa-vít, người của Đức Chúa Trời, cũng đã truyền lịnh nầy.
\v 15 Những người nầy không dám thờ ơ đối với các mạng lịnh của nhà vua truyền cho dòng thầy tế lễ và người Lê-vi, hoặc về kho tàng hay là về bất cứ việc gì khác.
\s5
\v 16 Bấy giờ, mọi công việc của Sa-lô-môn đều được thành tựu, từ ngày đặt nền của đền Đức Giê-hô-va, cho tới chừng hoàn công. Đền của Đức Giê-hô-va đã cất xong rồi đưa vào sử dụng là như vậy.
\v 17 Khi ấy Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn-Ghê-be và Ê-lát, trên mé biển trong xứ của Ê-đôm.
\v 18 Hu-ram gởi đến cho người nhiều tàu bè do những người thạo đi biển điều khiển; chúng đi đến Ô-phia với các tôi tớ của Sa-lô-môn. Từ đó họ đem về 450 ta lâng vàng cho vua Sa-lô-môn.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Khi nữ vương nước Sê-ba nghe nói về tiếng tăm của Sa-lô-môn, bà đến thành Giê-ru-sa-lem thử người bằng những câu hỏi khó. Bà có đoàn tuỳ tùng rất đông, với những con lạc đà chở thuốc thơm, rất nhiều vàng, và đá quí. Khi bà đến cùng Sa-lô-môn, bà nói với người mọi điều có ở trong lòng mình.
\v 2 Sa-lô-môn đáp các câu hỏi của bà; chẳng có câu nào là quá khó cho Sa-lô-môn; chẳng có câu hỏi nào mà người không đáp trả cho bà.
\s5
\v 3 Khi nữ vương Sê-ba nhìn thấy sự khôn ngoan của Sa-lô-môn và cung điện mà người đã xây cất,
\v 4 thức ăn trên bàn, tư thế tôi tớ, công việc của các tôi tớ, và trang phục của họ, các quan chước tửu và trang phục họ, và tư thế trong đó người dâng các của lễ thiêu trong đền Đức Giê-hô-va, thì mất vía,
\s5
\v 5 Bà nói với nhà vua: “Thật đấy, tường trình mà tôi đã nghe trong chính xứ sở tôi về lời lẽ và sự khôn ngoan của vua,
\v 6 Tôi không tin mọi điều mình đã nghe cho tới chừng tôi đã đến tận đây và bây giờ mắt tôi đã thấy điều đó. Chưa được phân nửa những gì tôi đã nghe nói về sự khôn ngoan và giàu có của vua! Vua còn trổi hơn tiếng đồn mà tôi đã nghe nữa là.
\s5
\v 7 Dân sự của vua thật có phước thay, và phước thay là các tôi tớ vua, những người hằng đứng chầu trước mặt vua, vì họ nghe được sự khôn ngoan của vua.
\v 8 Đáng chúc phước thay là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua, là Đấng vui thích vua, Ngài đặt vua ngồi trên ngôi của Ngài, đặng làm vua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua! Bởi vì Đức Chúa Trời của vua vốn yêu mến Y-sơ-ra-ên, đặng làm cho chúng vững bền đến đời đời, nên Ngài đã lập vua làm vua trên họ, vì vua làm ra sự công bình và chánh trực".
\s5
\v 9 Bà dâng cho vua một trăm hai mươi ta lâng vàng, và rất nhiều thuốc thơm, cùng đá quí. Chẳng hề có thuốc thơm nào giống như thuốc thơm của nữ vương nước Sê-ba đã từng dâng cho vua Sa-lô-môn.
\s5
\v 10 Các tôi tớ của Hu-ram và tôi tớ của Sa-lô-môn, họ đem vàng từ Ô-phia về, cũng có đem về gỗ bạch đàn hương và đá quí.
\v 11 Với gỗ bạch đàn hương, nhà vua làm bậc thang trong đền của Đức Giê-hô-va, và cho cung điện vua, cũng làm đàn đàn cầm đàn sắt cho các nhạc sĩ. Không một loại gỗ nào được thấy có trước đây trong xứ Giu-đa.
\v 12 Vua Sa-lô-môn tặng cho nữ vương nước Sê-ba mọi thứ bà ước muốn có, bất kỳ thứ gì, ngoài các thứ bà đem dâng cho nhà vua. Vậy, bà rời đi và trở về lại xứ sở của mình, bà và các tôi tớ mình.
\s5
\v 13 Bấy giờ, số lượng vàng đem về cho Sa-lô-môn mỗi năm là 666 ta-lâng vàng,
\v 14 ngoài số vàng mà các thương buôn đem về. Tất cả các vua xứ A-ra-bi và quan tổng trấn của xứ đem nộp vàng và bạc cho Sa-lô-môn.
\s5
\v 15 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn giát vàng. Sáu trăm siếc lơ vàng giát cho từng cái,
\v 16 Người cũng làm ba trăm cái khiên nhỏ giát vàng, ba trăm siếc lơ vàng cho từng cái khiên; nhà vua đặt các khiên ấy nơi cung rừng Li-ban.
\s5
\v 17 Khi ấy, nhà Vua cũng làm một cái ngai lớn bằng ngà voi, và bọc bằng vàng ròng.
\v 18 Có sáu nấc bước lên ngai, và một cái bệ của ngai ấy vòng ở phía sau. Có thanh nâng tay hai bên của chỗ ngồi, có hai con sư tử đứng gần hai thanh nâng tay đó.
\s5
\v 19 Có mười hai con sư tử đứng trên các nấc thang, từng con trên từng nấc hai bên: chẳng có cái ngai nào giống như vậy trong bất kỳ xứ sở nào khác.
\v 20 Tất cả đồ dùng để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và mọi đồ dùng để uống trong cung rừng Li-ban cũng đều bằng vàng ròng. Không một thứ gì bằng bạc vì bạc không được xem là có giá trị trong đời Sa-lô-môn.
\v 21 Nhà vua có đoàn tàu vượt biển, cùng với đoàn tàu của, mỗi ba năm một lần đoàn tàu chở về vàng, bạc, ngà voi, cũng như loài khỉ và con công.
\s5
\v 22 Vậy, vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua thế gian về sự giàu có và về sự khôn ngoan.
\v 23 Cả đất đều tìm cách gặp mặt Sa-lô-môn, để nghe sự khôn ngoan của ông, là điều mà Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng người.
\v 24 Người nào đến viếng mang theo cống thuế, những cái bình bằng bạc và bằng vàng, và quần áo, binh khí, cũng như thuốc thơm, ngựa và la, hết năm nầy đến năm khác.
\s5
\v 25 Vua Sa-lô-môn có 4. 000 tàu ngựa và xe, cùng 12. 000 lính kỵ, mà người để trong các thành chứa xe và với chính mình ông trong thành Giê-ru-sa-lem.
\v 26 Người quản trị trên các vua, từ sông Ơ-phơ-rát cho đến xứ Phi-li-tin, và cho đến bờ cõi Ê-díp-tô.
\s5
\v 27 Nhà vua có bạc tại Giê-ru-sa-lem, nhiều như đá sỏi trên đất. Người làm cho cây bá hương nhiều như cây vả cây sung mọc ở nơi đồng bằng.
\v 28 Họ đem cho Sa-lô-môn nhiều ngựa từ xứ Ê-díp-tô và từ các nước khác. Sa-lô-môn qua đời.
\v 29 Các công việc khác liên quan đến Sa-lô-môn, từ đầu đến cuối, đều chép trong quyển Lịch Sử của tiên tri Na-than, trong Sách Tiên Tri của A-hi-gia, người Si-lô, cùng trong sách Các Khải Thị của Giê-đô, đấng tiên kiến, liên quan đến Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát.
\v 30 Sa-lô-môn trị vì tại Giê-ru-sa-lem trên Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm.
\v 31 Người an giấc với các tổ phụ mình, và dân sự chôn trong thành của Đa-vít cha người; Rô-bô-am, con trai người, trở thành vua trong chỗ của người.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Rô-bô-am đi đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đều đến Si-chem đặng lập người làm vua.
\v 2 Xảy ra Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, hay được việc nầy, (vì ông còn ở Ê-díp-tô, là nơi người đã trốn khỏi mặt Vua Sa-lô-môn; nhưng Giê-rô-bô-am từ Ê-díp-tô trở về).
\s5
\v 3 Người ta sai kẻ đi gọi người về; và Giê-rô-bô-am và cả Y-sơ-ra-ên đều đến; họ nói với Rô-bô-am như sau:
\v 4 Cha vua đã gán ách nặng cho chúng tôi. Vậy bây giờ, hãy giảm nhẹ sự phục dịch khó nhọc này và cái ách nặng nề mà ông ấy đã gán trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục sự vua”.
\v 5 Rô-bô-am nói với họ: “Sau ba ngày, hãy trở lại cùng ta”. Vậy, dân sự lui về.
\s5
\v 6 Vua Rô-bô-am bàn nghị với những người cao tuổi đứng trước mặt Sa-lô-môn, cha người, trong lúc Sa-lô-môn còn sống; người nói: “Các ông khuyên ta phải đáp trả với dân sự này như thế nào đây? ”
\v 7 Họ nói với ông rằng: “Nếu vua nhân từ với dân này và khiến cho họ vừa lòng, và lấy lời lành nói với họ, khi ấy họ sẽ luôn là tôi tớ của vua”.
\s5
\v 8 Nhưng Rô-bô-am bất chấp lời khuyên của mấy người cao tuổi đưa ra cho mình, rồi lấy ý kiến với những người trẻ tuổi đồng lớn lên với mình, họ đứng trước mặt người.
\v 9 Người nói với họ: “Anh em có ý gì hiến cho ta, hầu cho ta có thể trả lời cho dân chúng, những kẻ đến nói với ta như sau: Hãy giảm nhẹ cái ách mà cha vua đã gán cho chúng tôi”.
\s5
\v 10 Các gã trai trẻ đồng lớn lên với Rô-bô-am bàn với người như vầy: Hãy nói với những kẻ nói với vua rằng Sa-lô-môn cha vua khiến cho ách chúng tôi ra nặng nề, nhưng vua hãy làm cho nó ra nhẹ đi. Vua phải đáp lại cùng chúng như vầy: “Ngón tay út ta lớn hơn cái lưng của cha ta”.
\v 11 Vậy, bây giờ, mặc dù cha ta đã gán một cái ách nặng trên các ngươi, ta sẽ thêm vào ách các ngươi. Cha ta đã sửa phạt các ngươi bằng roi thường, còn ta sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bò cạp”.
\s5
\v 12 Ngày thứ ba, Giê-rô-bô-am và cả dân sự đều đến cùng Rô-bô-am y như vua đã dặn khi người nói: Hãy trở lại cùng ta vào ngày thứ ba”.
\v 13 Nhà Vua đáp với dân sự cách xẳng xớm; Vua Rô-bô-am bất chấp lời khuyên của những người cao tuổi.
\v 14 Người nói với họ theo lời bàn của những gã trẻ tuổi kia; người nói: “Ta sẽ làm cho ách các ngươi nặng nề thêm; ta sẽ thêm nặng hơn. Cha ta phạt các ngươi bằng roi thường, ta sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bò cạp”.
\s5
\v 15 Như vậy, vua không nghe theo lời dân sự, vì đó là điểm xoay chiều trong các biến cố do Đức Chúa Trời bày ra, mà Đức Giê-hô-va làm ứng nghiệm lời của Ngài đã nhờ A-hi-gia, người Si-lô, mà phán cùng Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát.
\s5
\v 16 Khi cả Y-sơ-ra-ên thấy vua không nghe theo họ, dân sự đáp cùng người như sau: “Chúng ta có phần gì với Đa-vít chứ? Chúng ta chẳng có cơ nghiệp gì nơi con trai Gie-sê. Hỡi Y-sơ-ra-ên! mỗi người hãy trở về lều mình đi. Bây giờ, hỡi Đa-vít! Từ rày khá coi chừng nhà của ngươi”. Vậy cả Y-sơ-ra-ên đều trở về trại mình.
\v 17 Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên sống trong các thành Giu-đa thì Rô-bô-am cai trị trên chúng.
\v 18 Khi ấy, vua Rô-bô-am sai A-đô-ni-ram, là người cai quản nhân công bắt buộc, nhưng dân Y-sơ-ra-ên ném đá người cho đến chết. Vua Rô-bô-am lật đật lên xe về lại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 19 Vậy, Y-sơ-ra-ên sống trong sự loạn nghịch với nhà Đa-vít cho đến ngày nay.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Khi Rô-bô-am đến tại thành Giê-ru-sa-lem, ông tập trung nhà Giu-đa và Bên-gia-min lại, 180. 000 người được chọn làm chiến binh, để giao chiến với Y-sơ-ra-ên, để phục hồi vương quốc cho Rô-bô-am.
\s5
\v 2 Nhưng lời của Đức Giê-hô-va đến cùng Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời như sau:
\v 3 Hãy nói với Rô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn, vua Giu-đa, và với cả Y-sơ-ra-ên trong Giu-đa, cùng Bên-gia-min, như sau:
\v 4 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi không được tấn công hay giao chiến với anh em mình. Mỗi người hãy trở về nhà mình, vì việc này xảy đến do nơi ta. Vậy, họ nghe theo lời của Đức Giê-hô-va, và trở về không giao chiến với Giê-rô-bô-am.
\s5
\v 5 Rô-bô-am ở tại Giê-ru-sa-lem và xây các thành trong đất Giu-đa để phòng thủ.
\v 6 Người xây Bết-lê-hem, Ê-tam, Thê-cô-a,
\v 7 Bết-xu-rơ, Sô-cô, A-đu-lam,
\v 8 Gát, Ma-rê-sa, Xíp,
\v 9 A-đô-ra-im, La-ki, A-xê-ka,
\v 10 Xô-rê-a A-gia-lôn, và Hếp-rôn. Đây là các thành có phòng thủ trong đất Giu-đa và đất Bên-gia-min.
\s5
\v 11 Người lo phòng thủ các đồn lũy rồi đặt những quan tướng trong đó, với những kho chứa lương thực, dầu, và rượu.
\v 12 Người đặt nhiều khiên và giáo trong mỗi thành và làm cho các thành ấy rất bền vững. Đất Giu-đa và đất Bên-gia-min đều thuộc về người.
\s5
\v 13 Những thầy tế lễ và người Lê-vi nào sống trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên đều đến với người từ các miền họ ở.
\v 14 Vì các người Lê-vi lìa bỏ đồng cỏ và sản nghiệp mình để đến đất Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem; vì Giê-rô-bô-am và các con trai người đuổi họ đi, hầu cho họ không còn thi hành các bổn phận tế lễ cho Đức Giê-hô-va nữa.
\v 15 Giê-rô-bô-am ấn định cho mình các thầy tế lễ trong các chùa miễu và các hình tượng dê đực, và bò con mà người đã làm.
\s5
\v 16 Người ta từ các chi phái Y-sơ-ra-ên đều đến theo họ, người nào rắp lòng tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; họ đến tại Giê-ru-sa-lem đặng tế lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ.
\v 17 Vậy, họ làm vững chắc vương quốc Giu-đa, vùa giúp Rô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn trở nên cường thạnh trong ba năm — vì họ đi theo con đường của Đa-vít và Sa-lô-môn trong ba năm.
\s5
\v 18 Rô-bô-am lấy vợ cho mình là Ma-ha-lát, con gái của Giê-ri-mốt, cháu của Đa-vít, làm vợ, và lấy A-bi-hai, con gái Ê-li-áp, cháu của Gie-sê.
\v 19 Nàng sanh cho người các con trai: Giê-úc, Sê-ma-ri-a, và Xa-ham.
\s5
\v 20 Sau Ma-ha-lát, Rô-bô-am cưới Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm; nàng sanh cho người: A-bi-gia, Át-thai Xi-xa, và Sê-lô-mít.
\v 21 Rô-bô-am yêu mến Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm nhiều hơn các hậu phi khác (người lấy mười tám hoàng hậu và sáu mươi cung phi, rồi trở thành cha của hai mươi tám con trai và sáu mươi con gái).
\s5
\v 22 Rô-bô-am lập A-bi-gia, con trai Ma-a-ca, làm trưởng, làm lãnh đạo giữa các anh em mình; người suy nghĩ muốn lập con ấy làm vua.
\v 23 Rô-bô-am cai trị cách khôn ngoan; người rải các con trai mình đi ở khắp đất Giu-đa và Bên-gia-min trong các thành có phòng thủ chắc chắn. Người cũng cấp cho chúng lương thực dư dật, và cưới nhiều vợ cho.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Khi sự trị vì của Rô-bô-am đã được thiết lập, và người được cường thạnh, thì ông từ bỏ luật pháp của Đức Giê-hô-va — ông cùng với cả Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 2 Sự việc xảy ra vào năm thứ năm của Vua Rô-bô-am, thì Si-sắc, vua Ê-díp-tô, kéo lên hãm đánh Giê-ru-sa-lem, vì dân sự có phạm tội cùng Đức Giê-hô-va.
\v 3 Ông ta đến cùng với một ngàn hai trăm cỗ xe và sáu mươi ngàn lính kỵ. Nhiều binh lính không đếm xiết đến cùng với ông ta từ Ai-cập, dân Li-by, dân Su-ri, và dân Ê-thi-ô-bi.
\v 4 Ông ta chiếm lấy các thành có phòng thủ thuộc về Giu-đa, rồi đến tận Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 5 Bấy giờ Tiên tri Sê-ma-gia đến cùng Rô-bô-am và các lãnh đạo của Giu-đa, họ đang nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem vì cớ Si-sắc. Sê-ma-gia nói với họ như sau: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi đã bỏ ta, nên ta cũng sẽ bỏ các ngươi vào tay Si-sắc”.
\v 6 Khi ấy các quan trưởng Y-sơ-ra-ên và vua đều hạ mình xuống mà nói rằng: “Đức Giê-hô-va là công bình”.
\s5
\v 7 Khi Đức Giê-hô-va thấy họ hạ mình xuống, thì có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Sê-ma-gia như sau: “Họ đã hạ mình xuống, ta sẽ không hủy diệt họ; song sẽ giải cứu họ có chừng mực, và cơn giận của ta sẽ chẳng cậy tay Si-sắc mà đổ ra trên Giê-ru-sa-lem.
\v 8 Tuy nhiên, họ sẽ trở làm tôi tớ cho hắn, hầu cho họ biết phục sự ta và phục dịch vua chúa nước khác phân biệt là thể nào”.
\s5
\v 9 Vậy Si-sắc, vua Ê-díp-tô, kéo lên giao chiến nghịch cùng thành Giê-ru-sa-lem, đoạt lấy các báu vật trong đền của Đức Giê-hô-va và các báu vật trong cung vua. Hắn đoạt lấy hết thảy; hắn cũng chiếm luôn những khiên bằng vàng mà Sa-lô-môn đã làm.
\v 10 Vua Rô-bô-am bèn làm những khiên bằng đồng tthay vào đó và giao chúng nơi tay các quan thị vệ, những người giữ cửa của cung điện vua.
\s5
\v 11 Hễ khi nào vua vào trong đền của Đức Giê-hô-va, thì người giữ cửa sẽ mang theo khiêng; khi ấy đem nó chúng trở lại vào kho của quan thị vệ.
\v 12 Khi Rô-bô-am hạ mình xuống, cơn giận của Đức Giê-hô-va lánh khỏi người, vì thế nên không diệt hết thảy; hơn nữa, vẫn có sự lành trong Giu-đa.
\s5
\v 13 Vậy vua Rô-bô-am lập lại địa vị vua của mình tại Giê-ru-sa-lem, và rồi ông cứ cai trị. Rô-bô-am được 41 tuổi khi khởi sự trị vì, ông cai trị mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành mà Đức Giê-hô-va đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, đặng đặt danh Ngài tại đó. Mẹ ông tên là Na-a-ma, người xứ Am-môn.
\v 14 Ông đã làm điều ác, vì ông không rắp lòng tìm kiếm Đức Giê-hô-va.
\v 15 Các công việc liên quan đến Rô-bô-am từ đầu đến cuối, đều đã chép trong các tác phẩm của tiên tri Sê-ma-gia và trong sách của Y-đô, đấng tiên kiến, cũng có những bản ghi chép về gia phổ và các cuộc chiến thường xuyên giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am.
\v 16 Rô-bô-am đã ngủ với các tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít; A-bi-gia, con trai người lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Năm thứ mười tám đời vua Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên ngôi trị vì trên Giu-đa.
\v 2 Người cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem; tên mẹ người là Ma-a-ca, con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a. Đã có chiến tranh giữa A-bi-gia và Giê-rô-bô-am.
\v 3 A-bi-gia ra trận với một đạo quân hùng mạnh, 400. 000 người được chọn. Giê-rô-bô-am cùng 800. 000 quân dàn trận giao chiến với ông, là lính chiến mạnh dạn.
\s5
\v 4 A-bi-gia đứng trên núi Xê-ma-ra-im, trong miền núi Ép-ra-im mà nói như sau: Hãy nghe, hỡi Giê-rô-bô-am và cả Y-sơ-ra-ên!
\v 5 Há các ngươi không biết Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban quyền cai trị Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít đời đời, cho người và cho các con trai người bởi một giao ước hiển nhiên sao?
\s5
\v 6 Tuy nhiên, Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát, tôi tớ của Sa-lô-môn con trai của Đa-vít, chổi dậy phản nghịch cùng chủ mình;
\v 7 những kẻ du đãng, đồ phàm hèn, đã tụ tập lại với hắn. Chúng nó đến nghịch cùng Rô-bô-am con trai của Sa-lô-môn, khi Rô-bô-am còn trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm và không thể đương cự hắn.
\s5
\v 8 Vậy bây giờ, các ngươi nói rằng các ngươi sẽ kháng cự sức mạnh tể trị của Đức Giê-hô-va trong tay của dòng dõi của Đa-vít. Các ngươi là một đội quân đông đảo, và với các ngươi là con bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc làm thần của các ngươi.
\v 9 Các ngươi há chẳng có đuổi các thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va, là dòng dõi của A-rôn, và người Lê-vi sao? Các ngươi đã tự lập các thầy tế lễ theo tập tục của các dân thuộc những xứ khác? Hễ ai đem đến một con bò đực tơ và bảy con chiên đực đặng dâng làm lễ, thì được làm thầy tế lễ của thứ chẳng phải là thần chi hết.
\s5
\v 10 Nhưng về phần chúng ta, Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của chúng ta, chúng ta chẳng có lìa bỏ Ngài. Chúng ta có những thầy tế lễ, là dòng dõi của A-rôn, phục vụ Đức Giê-hô-va, và người Lê-vi, họ lo giữ công việc của họ;
\v 11 Mỗi buổi sớm mai và buổi chiều, họ xông của lễ thiêu và thuốc thơm cho Đức Giê-hô-va. Họ cũng sắp bánh trần thiết trên bàn sạch sẽ; họ cũng thắp các tim của ngọn đèn vàng để nó cháy, họ lo liệu công việc nầy mỗi buổi chiều tối. Chúng ta vâng giữ các mạng lịnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, còn các ngươi thì từ bỏ Ngài.
\s5
\v 12 Hãy xem, Đức Chúa Trời ngự ở tuyến đầu cùng chúng ta, và những thầy tế lễ của Ngài cầm những kèn tiếng vang đặng thổi lên nghịch cùng các ngươi. Hỡi dân sự Y-sơ-ra-ên! chớ giao chiến nghịch cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, vì các ngươi chẳng thắng được đâu!”
\s5
\v 13 Nhưng Giê-rô-bô-am truyền binh phục đi vòng đặng đến phía sau họ; còn đội quân của ông ở đằng trước quân Giu-đa, còn binh phục ở đằng sau họ.
\v 14 Khi Giu-đa ngó lại sau lưng, kìa, cuộc giao chiến ở phía trước và phía sau họ. Họ kêu la cùng Đức Giê-hô-va, và dòng thầy tế lễ thổi kèn lên.
\v 15 Khi ấy người Giu-đa hô lên lớn tiếng; khi họ hô to lên, thì Đức Giê-hô-va đánh Giê-rô-bô-am và cả Y-sơ-ra-ên tại trước mặt A-bi-gia và dân Giu-đa.
\s5
\v 16 Dân Y-sơ-ra-ên chạy trốn trước mặt dân Giu-đa, và Đức Chúa Trời phó chúng nó vào tay dân Giu-đa.
\v 17 A-bi-gia và quân đội người đã giết họ một trận thật là lớn, có 500. 000 người được chọn của Y-sơ-ra-ên đã ngã chết.
\v 18 Theo cách nầy, dân Y-sơ-ra-ên bị bắt phục lúc bấy giờ; dân Giu-đa thắng hơn vì họ nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ.
\v 19 A-bi-gia đuổi theo Giê-rô-bô-am; ông chiếm lấy nhiều thành từ ông ta: Bê-tên cùng các làng mạc nó; Giê-sa-na cùng các làng mạc nó; Ép-rôn cùng các làng mạc nó.
\v 20 Giê-rô-bô-am chẳng được cường thạnh trong đời A-bi-gia; Đức Giê-hô-va hành hại người, thì người chết.
\v 21 Nhưng A-bi-gia trở nên cường thạnh; ông cưới mười bốn người vợ cho mình, và trở thành cha của hai mươi hai con trai và mười sáu con gái.
\v 22 Phần còn lại mọi công việc khác của A-bi-gia và cách ăn ở cùng lời lẽ của người đều được ghi chép lại trong sách giải nghĩa của tiên tri Y-đô.
\s5
\c 14
\p
\v 1 A-bi-gia ngủ với các tổ phụ mình, và họ chôn người trong thành Đa-vít. A-sa, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người. Trong đời người, xứ được hòa bình mười năm.
\v 2 A-sa làm điều thiện và ngay thẳng trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người;
\v 3 vì người cất bỏ các bàn thờ và chùa miễu của dân ngoại; người đập bể các trụ thờ, và đánh đổ những tượng A-sê-ra.
\v 4 Người truyền xứ Giu-đa phải tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ, cùng làm theo luật pháp và điều răn.
\s5
\v 5 Người cũng trừ bỏ khỏi các thành của Giu-đa những chùa miễu và các bàn thờ xông hương. Nước được bình tịnh dưới quyền người.
\v 6 Người xây những thành có phòng thủ trong xứ Giu-đa, vì xứ được bình tịnh, và người không có chiến tranh trong các năm đó, vì Đức Giê-hô-va đã ban cho người được bình an.
\s5
\v 7 Vì A-sa nói với dân Giu-đa như vầy: “Chúng ta hãy xây cất các thành này, đắp vách tường chung quanh, dựng tháp, làm cửa và then gài; xứ thật bình tịnh thuộc về chúng ta vì chúng ta có tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta. Chúng ta đã tìm được Ngài, còn Ngài đã ban cho chúng ta bình an bốn phía”. Vậy, họ lo xây cất và được thành công.
\v 8 A-sa có một đạo binh mang khiên và giáo từ chi phái Giu-đa ông có 300. 000 quân, và từ chi phái Bên-gia-min, 280. 000 người cầm khiên và giương cung. Hết thảy những người nầy đều là người mạnh dạn.
\s5
\v 9 Xê-rách, người Ê-thi-ô-bi kéo đến 1. 000. 000 quân, và ba trăm cỗ xe giao chiến với họ; hắn đã đến tại Ma-rê-sa.
\v 10 A-sa ra đón hắn, và họ dàn trận tại trong đồng bằng Xê-pha-ta, gần Ma-rê-sa.
\v 11 A-sa kêu van với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như sau: Lạy Đức Giê-hô-va, trừ ra Chúa chẳng có ai giúp đỡ cho người chẳng có sức khi người đối diện với nhiều quân; hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi, xin hãy cứu giúp chúng tôi, vì chúng tôi nương cậy nơi Ngài, và trong danh Chúa chúng tôi đến giao chiến với đội quân đông đảo nầy. Lạy Đức Giê-hô-va! Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi; chớ để loài người đánh bại Ngài”.
\s5
\v 12 Thế là Đức Giê-hô-va đánh dân Ê-thi-ô-bi tại trước mặt dân Giu-đa và vua A-sa; quân Ê-thi-ô-bi chạy trốn.
\v 13 A-sa và quân lính theo người đánh đuổi chúng cho đến Ghê-ra. Quân Ê-thi-ô-bi ngã chết nhiều đến đỗi chẳng còn gượng lại được, vì chúng bị huỷ diệt hoàn toàn trước mặt Đức Giê-hô-va và đạo binh của Ngài. Quân đội đoạt được nhiều chiến lợi phẩm.
\v 14 Quân đội cũng huỷ diệt các làng mạc chung quanh Ghê-ra, vì sự kinh khiếp của Đức Giê-hô-va giáng trên các dân cư. Quân đội chiếm hết các làng mạc, và vì trong đó có của cải rất nhiều.
\v 15 Quân đội cũng huỷ diệt các chuồng súc vật; họ chiếm lấy nhiều bầy chiên cũng như bầy lạc đà, và họ trở về lại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Thần Đức Chúa Trời cảm động A-xa-ria, con trai của Ô-đết.
\v 2 Người đi ra đón A-sa, mà nói với người rằng: “Hãy nghe ta, hỡi A-sa, cả Giu-đa, và Bên-gia-min. Đức Giê-hô-va ở với các ngươi đang khi các ngươi bước theo Đức Giê-hô-va. Nếu các ngươi tìm Ngài, ắt sẽ gặp được Ngài; nếu các ngươi lìa bỏ Ngài, thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi.
\s5
\v 3 Bây giờ, đã lâu nay, Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời chơn thật, không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng chẳng có luật pháp.
\v 4 Nhưng trong lúc khốn khó, họ xây trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và tìm cầu Ngài, thì họ sẽ gặp được Ngài.
\v 5 Trong thì ấy, chẳng có bình yên cho người nào bỏ đi, cũng chẳng có bình yên cho người nào đến đây; thay vì thế nhiều rối rắm giáng trên cư dân của đất.
\s5
\v 6 Họ bị phân ra, nước nầy nghịch cùng nước kia, thành này nghịch cùng thành nọ, vì Đức Chúa Trời làm cho họ khổ sở với đủ thứ rối loạn.
\v 7 Song các ngươi hãy vững lòng, tay các ngươi chớ yếu đuối, vì việc các ngươi làm sẽ được ban thưởng”.
\s5
\v 8 Khi A-sa nghe thấy mấy lời này, lời tiên tri của tiên tri Ô-đết, thì giục lòng mạnh mẽ, rồi gạt bỏ hết những hình tượng gớm ghiếc khỏi cả đất Giu-đa và Bên-gia-min, cùng khỏi các thành người đã chiếm lấy từ miền núi Ép-ra-im; người xây lại bàn thờ của Đức Giê-hô-va ở trước hiên cửa đền của Đức Giê-hô-va.
\v 9 Người nhóm hiệp hết thảy người Giu-đa, người Bên-gia-min, và những ai ở với họ — các dân từ Ép-ra-im đến Ma-na-se, và từ Si-mê-ôn. Vì họ đã đến từ Y-sơ-ra-ên cùng với ông với số lượng rất đông, khi họ thấy rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của A-sa ở cùng người.
\s5
\v 10 Vậy họ nhóm lại tại thành Giê-ru-sa-lem vào tháng thứ ba, năm thứ mười lăm sự trị vì của A-sa.
\v 11 Họ dâng cho Đức Giê-hô-va nhằm ngày ấy một số chiến lợi phẩm mà họ đã chiếm được: 700 con bò đực và bảy ngàn chiên và dê.
\s5
\v 12 Họ bước vào một giao ước hết lòng và hết linh hồn tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tổ phụ mình.
\v 13 Họ đồng ý rằng hễ ai từ chối không tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì sẽ bị xử tử, bất luận người đó nhỏ hay lớn, dù là nam hay nữ.
\s5
\v 14 Họ lớn tiếng mà thề cùng Đức Giê-hô-va, reo mừng, thổi kèn, thổi còi.
\v 15 Cả xứ Giu-đa đều vui mừng về lời thề ấy, vì họ hết lòng mà thề, và hết ý tìm cầu Đức Chúa Trời; và họ gặp được Ngài. Đức Giê-hô-va đã ban cho họ hoà bình bốn phía.
\s5
\v 16 Ông cũng cất bỏ Ma-a-ca, là bà nội ông, không cho làm thái hậu nữa, vì bà đã làm một hình tượng gớm ghê cho thần A-sê-ra. A-sa đánh đổ hình tượng ấy và nghiền nát thành tro bụi, rồi đốt nó trong trũng Kít-rôn.
\v 17 Nhưng các chùa miễu chưa được cất bỏ khỏi Y-sơ-ra-ên; lòng A-sa vẫn trọn lành suốt cả đời người.
\v 18 Người đem vào đền của Đức Giê-hô-va mọi vật của cha người, và những vật riêng của người thuộc về Đức Giê-hô-va: những đồ vật bằng vàng và bằng bạc.
\v 19 Chẳng có chiến tranh chi hết đến năm thứ ba mươi lăm đời trị vì của A-sa.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Năm thứ ba mươi sáu sự trị vì của A-sa, Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, muốn nghịch cùng Giu-đa, xây cất đồn lũy Ra-ma, hầu cho ông không cho phép bất kỳ ai ra hay vào xứ của A-sa, vua Giu-đa.
\s5
\v 2 Khi ấy A-sa lấy bạc vàng ở trong kho của đền Đức Giê-hô-va và trong kho của cung vua, rồi gửi đến Bên-Ha-đát, vua A-ram, đương ở tại thành Đa-mách, ông nói:
\v 3 Cần phải có một hiệp ước giữa tôi và ông, như đã có giữa cha tôi và cha ông. Kìa, tôi có gởi dâng cho ông bạc và vàng. Hãy hủy bỏ hiệp ước của ông với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, hầu cho người để tôi yên”.
\s5
\v 4 Bên-Ha-đát nghe theo lời vua A-sa rồi sai các quan tướng quân đội mình chống lại các thành của Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm lấy Y-giôn, Đan, A-bên-Ma-im, cùng các thành kho tàng trong đất Nép-ta-li.
\v 5 Khi Ba-ê-ba hay điều đó, liền thôi không xây đồn Ra-ma và tạm đình chỉ công việc.
\v 6 Khi ấy Vua A-sa đem cả Giu-đa theo với mình. Họ lấy đi đá và gỗ ở Ra-ma mà Ba-ê-sa đã dùng xây cất. Rồi A-sa dùng các thứ vật liệu đó xây dựng Ghê-ba và Mích-ba.
\s5
\v 7 Lúc bấy giờ, đấng tiên kiến Ha-na-ni đến cùng A-sa, vua Giu-đa, mà nói rằng: “Bởi vì vua nương cậy vua A-ram, không nương cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, nên đạo quân vua A-ram đã thoát khỏi tay ông.
\v 8 Há người Ê-thi-ô-bi và người Li-by chẳng phải một đạo quân đông đảo, với nhiều xe cộ và kỵ binh chăng? Tuy nhiên, vì vua nhờ cậy Đức Giê-hô-va, nên Ngài ban cho vua thắng hơn chúng.
\s5
\v 9 Vì con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp cả đất, hầu cho Ngài tỏ mình ra mạnh mẽ vì ích cho những người mà tấm lòng của họ trọn lành đối với Ngài. Nhưng vua đã hành động dại dột trong vấn đề nầy, nên từ này về sau vua sẽ có giặc giã.
\v 10 Khi ấy A-sa giận dữ với đấng tiên kiến; ông cầm tù người, vì ông giận dữ với người về vấn đề nầy. Đồng thời, A-sa cũng hà hiếp mấy người của dân sự.
\s5
\v 11 Nầy, các việc làm của A-sa, từ đầu đến cuối, đều đã chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
\v 12 Năm thứ ba mươi chín đời trị vì của A-sa, A-sa bị đau chân, đến đỗi nặng lắm. Dầu đến đỗi vậy, người không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, nhưng chỉ tìm kiếm từ các thầy thuốc.
\s5
\v 13 A-sa ngủ với các tổ phụ người, ông qua đời vào năm thứ bốn mươi mốt đời người trị vì.
\v 14 Họ chôn ông nơi mồ mả chính người đã đào cho mình trong thành Đa-vít. Họ đặt người nằm trên một cái giường đầy thuốc thơm, chế theo phép hòa hương. Khi ấy họ xông hương cho người rất nhiều.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Giô-sa-phát, con trai người lên làm vua trong chỗ của người và tự làm cho mình ra mạnh để nghịch cùng Y-sơ-ra-ên,
\v 2 người đặt lực lượng ở các thành có phòng thủ của Giu-đa, lập các tiền đồn trong xứ Giu-đa và trong các thành Ép-ra-im, mà A-sa, cha người, đã chiếm lấy.
\s5
\v 3 Đức Giê-hô-va ở cùng Giô-sa-phát vì người đi theo đường lối đầu tiên của Đa-vít, tổ phụ mình, và không xây qua thần Ba-anh.
\v 4 Thay vì thế, người nương cậy nơi Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, và ăn ở trong các điều răn của Ngài, chớ chẳng theo cách xử sự của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 5 Vậy Đức Giê-hô-va lập sự cai trị trong tay người; cả Giu-đa nộp cống thuế cho Giô-sa-phát. Người rất giàu có và sự vinh hiển rất lớn.
\v 6 Lòng người cứ đi theo đường lối của Đức Giê-hô-va. Người cũng cất bỏ các chùa miễu và các hình tượng A-sê-ra khỏi Giu-đa.
\s5
\v 7 Năm thứ ba đời người trị vì, người sai các quan trưởng mình, là Bên-Hai, Ô-ba-đia, Xa-cha-ri, Na-tha-na-ên, và Mi-ca-gia đi dạy dỗ trong các thành xứ Giu-đa.
\v 8 Cùng với họ là người Lê-vi: Sê-ma-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giô-na-than, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia, và Tô-ba-đô-ni-gia; cùng với họ là các thầy tế lễ Ê-li-sa-ma và Giô-ram.
\v 9 Họ đã dạy dỗ trong xứ Giu-đa, có đem theo sách luật pháp của Đức Giê-hô-va. Họ đi tuần tự các thành xứ Giu-đa mà dạy dỗ dân sự.
\s5
\v 10 Sự kinh hãi của Đức Giê-hô-va giáng trên các vua ở chung quanh Giu-đa, hầu cho họ chẳng dám chinh chiến với Giô-sa-phát.
\v 11 Một số dân Phi-li-tin đem dâng cho Giô-sa-phát những lễ vật và bạc cống thuế; người Ả-rập cũng dẫn đến cho người những bầy súc vật: 7. 700 con chiên đực, và 7. 700 con dê đực.
\s5
\v 12 Giô-sa-phát càng ngày càng cường thạnh. Người xây cất các đồn luỹ và các thành kho tàng trong xứ Giu-đa.
\v 13 Người có nhiều trang thiết bị chứa trong các thành Giu-đa, và có nhiều tinh binh tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 14 Đây là danh sách kể về họ, với thứ tự bằng danh tánh theo nhà tổ phụ họ: từ Giu-đa, có những quan tướng ngàn người, là Át-na làm đầu, và với ông có 300. 000 tinh binh;
\v 15 kế người có Giô-ha-nan làm đầu, với ông có 280. 000 tinh binh;
\v 16 sau người này có A-ma-sia con trai của Xiếc-ri, là người vui lòng dâng mình phục vụ Đức Giê-hô-va, và với người 200. 000 tinh binh.
\v 17 Từ chi phái Bên-gia-min: Ê-li-a-đa, là người mạnh dạn, và với người 200. 000 binh sĩ vũ trang với cung tên và khiên;
\v 18 kế người có Giê-hô-xa-bát, và với người 180. 000 người sẵn sàng ra trận.
\v 19 Đây là những người phục vụ nhà vua, bên cạnh những người mà vua đã đặt trong các thành có phòng thủ ở khắp xứ Giu-đa.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Bấy giờ, Giô-sa-phát đã được giàu có nhiều và sự vinh hiển; ông tự mình liên kết với A-háp bằng cách lấy con gái người làm vợ.
\v 2 Cách một vài năm, người đi xuống gặp A-háp tại Sa-ma-ri. A-háp giết nhiều chiên bò ăn mừng Giô-sa-phát và dân sự theo người. A-háp cũng khuyên người đi tấn công Ra-mốt tại Ga-la-át với ông ta.
\v 3 A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, nói với Giô-sa-phát, vua Giu-đa như sau: Vua có muốn đến cùng tôi tấn công Ra-mốt tại Ga-la-át chăng? Người đáp: Tôi cũng như vua; dân sự tôi cũng như dân sự vua; tôi sẽ cùng vua đi chinh chiến”.
\s5
\v 4 Giô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: “Trước hết, hãy tìm kiếm Lời của Đức Giê-hô-va để có câu trả lời”.
\v 5 Khi ấy vua Y-sơ-ra-ên tập trung các tiên tri lại, số là bốn trăm người, rồi nói với họ: Chúng ta có nên đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là ta chẳng nên? ” Họ đáp rằng: “Hãy tấn công đi; vì Đức Chúa Trời sẽ ban chiến thắng cho nhà vua”.
\s5
\v 6 Nhưng Giô-sa-phát nói: “Ở đây, còn có một đấng tiên tri nào khác của Đức Giê-hô-va, để chúng ta hỏi ý kiến người? ”
\v 7 Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: “Còn có một người mà chúng ta có thể tìm kiếm lời dạy của Đức Giê-hô-va, Mi-chê con trai của Giêm-la; nhưng tôi ghét người vì người không hề nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ luôn”. Giô-sa-phát nói: “Xin vua chớ nói như vậy! ”
\v 8 Vua Y-sơ-ra-ên bèn gọi một quan trưởng đến mà truyền rằng: “Hãy đem Mi-chê con trai Giêm-la, đến ngay lập tức”.
\s5
\v 9 Bấy giờ, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều phục, đang ngồi trên ngai mình, ở nơi rộng rãi tại cửa thành Sa-ma-ri, còn hết thảy các tiên tri đều nói tiên tri ở trước mặt họ.
\v 10 Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, tự làm cho mình những sừng bằng sắt, và nói: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Với các sừng nầy, vua sẽ báng dân A-ram cho đến khi diệt hết chúng nó”.
\v 11 Các tiên tri đều nói cùng một cách ấy như sau: “Hãy tấn công Ra-mốt tại Ga-la-át và thắng trận, vì Đức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua.
\s5
\v 12 Sứ giả đã đi mời Mi-chê, nói với người rằng: “Nầy, lời lẽ của các tiên tri đều công bố những việc lành cho nhà vua. Làm ơn hãy thốt ra lời lẽ giống như lời của họ mà rao ra sự lành”.
\v 13 Mi-chê đáp: “Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, ta sẽ nói ra những gì Đức Chúa Trời phán dặn”.
\v 14 Khi người đến cùng vua, nhà vua bèn hỏi rằng: “Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên tấn công Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là không? Người đáp: “Hãy tấn công đi và được thắng! Vì chiến thắng ấy sẽ là một chiến thắng rất lớn”.
\s5
\v 15 Khi ấy nhà vua nói với người: “Biết bao lần ta buộc ngươi phải thề đừng nói gì với ta hết trừ ra sự thật trong danh của Đức Giê-hô-va? ”
\v 16 Mi-chê đáp: “Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên tản lạc trên các núi, giống như bầy chiên không có người chăn, và Đức Giê-hô-va đã phán: “Bầy chiên nầy không có người chăn. Hãy khiến cho mỗi người trở về nhà mình trong sự bình an”.
\s5
\v 17 Vậy vua Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sa-phát: “Có phải tôi chẳng có nói với vua hắn không nói tiên tri lành về tôi, mà chỉ là tai vạ sao? ”
\v 18 Mi-chê nói: “Vậy, hết thảy hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Tôi thấy Đức Giê-hô-va ngự trên ngôi Ngài, và cả đạo binh trên trời đứng chầu bên phải và bên trái.
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ai sẽ đi dụ A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, để người đi lên Ra-mốt tại Ga-la-át mà ngã chết ở đó? Rồi người nầy nói theo cách này, người kia nói theo cách khác.
\s5
\v 20 Bấy giờ, có một thần đi ra, đứng trước mặt Đức Giê-hô-va, mà thưa rằng: Tôi sẽ đi dụ người. Đức Giê-hô-va phán hỏi: Bằng cách nào?
\v 21 Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi ra làm một thần nói dối trong miệng các tiên tri của người. Đức Giê-hô-va phán: Phải, ngươi sẽ dụ người, và ngươi cũng sẽ thành công. Hãy đi, làm như lời.
\s5
\v 22 Vậy bây giờ, hãy xem Đức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri của vua, và Đức Giê-hô-va đã phán sẽ giáng họa trên vua.
\s5
\v 23 Lúc đó, Sê-đê-kia con trai của Kê-na-na, đi đến gần, vả Mi-chê nơi má, rồi nói: “Thần Đức Giê-hô-va lấy đường nào mà đi từ ta đến phán cùng ngươi vậy? ”
\v 24 Mi-chê nói: “Kìa, ngươi sẽ biết điều đó, trong ngày ngươi chạy từ phòng này qua phòng kia đặng trốn tránh”.
\s5
\v 25 Vua Y-sơ-ra-ên nói với các tôi tớ: “Các ngươi hãy bắt Mi-chê dẫn đến A-môn, là quan cai thành, và đến với Giô-ách, con trai của ta.
\v 26 Các ngươi, hỡi dân sự, hãy nói với hắn: Nhà vua nói: Hãy bỏ tù người này, và cho hắn ăn một chút bánh và chỉ một chút nước, cho đến khi ta trở về bình an.
\v 27 Khi ấy Mi-chê nói: “Nếu vua trở về bình an, thế thì Đức Giê-hô-va không có cậy tôi phán”. Người lại nói: “Hỡi các ngươi, là dân sự, hết thảy hãy nghe điều đó!”
\s5
\v 28 Vậy, A-háp vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đồng đi lên Ra-mốt giao chiến tại Ga-la-át.
\v 29 Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sa-phát: “Tôi sẽ cải dạng rồi ra trận; còn vua hãy mặc áo của vua”. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên bèn cải dạng, rồi họ cùng đi ra trận.
\v 30 Bấy giờ, vua A-ram truyền lịnh cho các quan cai xe mình rằng: “Chớ tấn công các binh lính không quan trọng hay quan trọng. Thay vì thế, chỉ tấn công vua Y-sơ-ra-ên mà thôi”.
\s5
\v 31 Khi các quan cai xe nhìn thấy Giô-sa-phát, họ nói rằng: “Ấy là vua Y-sơ-ra-ên”. Chúng bèn xây lại tấn công ông, nhưng Giô-sa-phát hô lên lớn tiếng, và Đức Giê-hô-va tiếp cứu người. Đức Chúa Trời khiến chúng dang xa khỏi người.
\v 32 Vậy, khi các quan cai xe thấy đấy chẳng phải là vua Y-sơ-ra-ên, họ lui lại không truy kích nữa.
\s5
\v 33 Nhưng có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên trúng nhằm vua nơi mối giáp đâu lại. Khi ấy A-háp nói với người đánh xe mình rằng: “Hãy quay cương lại đưa ta ra khỏi trận, vì ta bị thương nặng”.
\v 34 Thế trận càng thêm dữ dội trong ngày ấy; và vua Y-sơ-ra-ên đứng tì lên chiến xe của mình, đối mặt cùng dân A-ram, cho đến xế chiều. Khoảng mặt trời vừa lặn xuống, thì người qua đời.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Giô-sa-phát, vua Giu-đa, trở về bình an nơi cung mình tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Khi ấy Giê-hu, con trai của Ha-na-ni, đấng tiên kiến, đi ra đón ông và nói với vua Giô-sa-phát: “Có phải vua trợ giúp cho kẻ ác không? Có phải vua yêu mến những kẻ thù ghét Đức Giê-hô-va không? Vì việc làm nầy, cơn thạnh nộ từ Đức Giê-hô-va giáng trên vua.
\v 3 Tuy nhiên, có một việc lành được thấy nơi vua, trong đó vua có trừ diệt khỏi xứ các trụ thần A-sê-ra, và rắp lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời”.
\s5
\v 4 Giô-sa-phát sống tại Giê-ru-sa-lem; và người lại đi ra giữa vòng dân sự từ Bê-e-Sê-ba cho đến miền núi Ép-ra-im, và đưa họ trở về cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ.
\v 5 Người lập các quan xét trong khắp xứ, trong hết thảy các thành có phòng thủ của Giu-đa, từng thành một.
\s5
\v 6 Người bảo các quan xét: “Hãy xem xét điều các ngươi sẽ làm, vì các ngươi chẳng xét đoán vì loài người, mà là vì Đức Giê-hô-va; Ngài sẽ ở cùng các ngươi trong việc xét đoán.
\v 7 Vậy bây giờ, hãy để cho sự kính sợ Đức Giê-hô-va phủ lên các ngươi, vì chẳng có tội lỗi gì nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, chẳng chút thiên vị ai, chẳng nhận của hối lộ”.
\s5
\v 8 Hơn nữa, tại Jerusalem, Giô-sa-phát ấn định mấy người Lê-vi, các thầy tế lễ và một số trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, đặng vì Đức Giê-hô-va mà đoán xét và phân xử việc kiện cáo. Họ đều trở về Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Người căn dặn họ rằng: “Các ngươi phải kính sợ Đức Giê-hô-va, rồi với lòng trọn lành trung tín, đây là việc mà các ngươi sẽ làm.
\s5
\v 10 Bất cứ khi nào, bất kỳ tranh chấp nào anh em các ngươi sống trong các thành, đem đến trước mặt các ngươi việc tranh tụng nào, hoặc vì sự đổ huyết, hoặc vì phạm luật lệ và điều răn, giới mạng và pháp độ, thì các ngươi phải cảnh cáo họ chớ phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, hầu cho cơn giận không giáng xuống trên các ngươi và anh em các ngươi. Nếu các ngươi làm theo như vậy, ắt các ngươi sẽ không bị phạm tội.
\s5
\v 11 Hãy xem, thầy tế lễ cả A-ma-ria, sẽ quản lý những vụ việc thuộc về Đức Giê-hô-va. Xê-ba-đia, con trai Ích-ma-ên, trưởng tộc chi phái Giu-đa, đang quản lý mọi vụ việc thuộc về vua. Người Lê-vi cũng sẽ là quan trưởng phục vụ các ngươi, và nguyện Đức Giê-hô-va sẽ ở cùng người thiện”.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Sau các việc này, dân Mô-áp và dân Am-môn, và những người Mao-nít ở cùng họ, kéo đến giao chiến với Giô-sa-phát.
\v 2 Bấy giờ, có người đến nói cho Giô-sa-phát biết như sau: “Một đám quân rất đông tiến đến nghịch cùng vua từ bên bờ kia Biển Chết, từ xứ A-ram. Hãy xem, chúng đang ở tại Hát-sát-son-Tha-ma”, (cũng gọi là Ên-ghê-đi).
\s5
\v 3 Giô-sa-phát bắt sợ hãi, chính ông tìm kiếm Đức Giê-hô-va. Ông rao khắp xứ Giu-đa phải kiêng ăn một ngày.
\v 4 Giu-đa nhóm lại tìm kiếm Đức Giê-hô-va; họ đến để tìm kiếm Đức Giê-hô-va từ các thành Giu-đa.
\s5
\v 5 Giô-sa-phát đứng trong hội chúng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tại trong đền của Đức Giê-hô-va, trước hành lang mới.
\v 6 Ông nói: “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi, há Ngài chẳng phải là Đức Chúa Trời ở trên trời sao? Và có phải Ngài là Vua trên các vua của các nước sao? Quyền thế và năng lực ở nơi tay Ngài, vì vậy chẳng một ai có khả năng kháng cự Ngài.
\v 7 Lạy Đức Chúa Trời của chúng tôi, có phải Ngài đã đuổi dân ở xứ này khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, mà ban xứ ấy đời đời cho dòng dõi Áp-ra-ham?
\s5
\v 8 Họ đã sống trong xứ ấy và đã cất cho danh Chúa một đền thánh mà rằng:
\v 9 Nếu tai họa đến giáng trên chúng tôi —gươm của sự phán xét, hoặc bịnh tật, hay là nạn đói — thì chúng tôi sẽ đứng trước đền này và trước mặt Ngài (vì danh Chúa ngự trong đền này), và chúng tôi kêu cầu với Ngài Chúa trong sự khổ nạn của chúng tôi, thì Ngài sẽ lắng nghe và giải cứu chúng tôi.
\s5
\v 10 Hãy xem kìa, đây là dân Am-môn, Mô-áp, và Núi Sê-i-rơ; là các dân mà Ngài không cho phép dân Y-sơ-ra-ên vây hãm chúng nó, khi họ ra khỏi xứ Ai-cập; thay vì thế, Y-sơ-ra-ên xây khỏi chúng và không huỷ diệt chúng.
\v 11 Hãy xem, chúng nó báo lại chúng tôi là dường nào, chúng loán đến toan đuổi chúng tôi khỏi xứ mà Ngài ban cho chúng tôi làm sản nghiệp.
\s5
\v 12 Hỡi Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi, chớ thì Ngài sẽ không xét đoán chúng nó sao? Vì chúng tôi chẳng có sức đối địch với đám quân đông đảo này đang đến nghịch cùng chúng tôi. Chúng tôi cũng không biết phải làm gì; nhưng con mắt chúng tôi ngửa trông Chúa!
\v 13 Cả Giu-đa đều đứng tại trước mặt Đức Giê-hô-va với các con nhỏ, vợ, và con cái mình.
\s5
\v 14 Bấy giờ, tại giữa hội chúng, Thần Đức Giê-hô-va đến trên Gia-ha-xi-ên, con trai Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-hi-ên, chít Ma-tha-nia, là người Lê-vi thuộc về dòng A-sáp,
\v 15 Gia-ha-xi-ên nói: “Hãy nghe, hết thảy Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem, cùng vua Giô-sa-phát! Đây là điều Đức Giê-hô-va phán cho các ngươi: Chớ sợ, chớ ngã lòng vì cớ đám quân đông đảo này. Vì trận chiến nầy chẳng thuộc về các ngươi, bèn là về Đức Chúa Trời.
\s5
\v 16 Các ngươi phải đi xuống đón chúng nó ngày mai. Hãy xem, chúng nó đi lên dốc Xít. Các ngươi sẽ gặp chúng nó ở cuối đồng bằng, trước mặt đồng vắng Giê-ru-ên.
\v 17 Các ngươi sẽ chẳng cần dự vào chiến trận. Hãy ở tại chỗ của các ngươi, đứng yên lặng và nhìn xem sự giải cứu của Đức Giê-hô-va với các ngươi, hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Chớ sợ, chớ ngã lòng. Ngày mai, hãy đi ra giao chiến với chúng nó, vì Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi”.
\s5
\v 18 Giô-sa-phát gập đầu với mặt mình xuống đất. Cả Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem đều sấp mặt xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, mà thờ lạy Ngài.
\v 19 Người Lê-vi, những người thuộc dòng dõi Kê-hát và dòng Cô-rê đều đứng dậy cất tiếng lớn mà khen ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 20 Sớm mai, họ thức dậy, kéo ra đồng vắng Thê-cô-a. Khi họ đi ra, Giô-sa-phát đứng tại đó, mà nói như vầy: “Hãy lắng nghe ta, hỡi Giu-đa và các ngươi dân cư thành Giê-ru-sa-lem! Khá tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các ngươi sẽ được hỗ trợ. Hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được thành công”.
\v 21 Khi người đã trao đổi với dân sự, người lập những người ca hát cho Đức Giê-hô-va và dâng lên Ngài sự ngợi khen, khi họ đi trước quân đội, và nói: “Hãy dâng lời cảm tạ cho Đức Giê-hô-va, vì sự thành tín giao ước của Ngài hằng có đời đời”.
\s5
\v 22 Khi họ khởi sự ca hát và ngợi khen, Đức Giê-hô-va đặt phục binh giao chiến với dân Am-môn, Mô-áp và Núi Sê-i-rơ, họ đã đến nghịch cùng Giu-đa. Họ bị thất bại.
\v 23 Vì dân Am-môn và Mô-áp dấy lên giao chiến với cư dân núi Sê-i-rơ, đặng tiêu diệt hoàn toàn chúng nó đi. Khi đã diệt dân ở Sê-i-rơ rồi, thì chúng lại trở giết lẫn nhau.
\s5
\v 24 Khi dân Giu-đa đến một vị trí quan sát đồng vắng, họ nhìn thấy đám quân ấy. Kìa, chúng đã chết, nằm sãi trên đất; chẳng có một ai thoát khỏi được.
\s5
\v 25 Khi Giô-sa-phát và dân sự người đến chiếm lấy chiến lợi phẩm từ chúng, họ thấy có nhiều của cải, họ lột các thứ khỏi thây chúng, rất nhiều thứ cho đến chừng đem đi không đặng. Họ lấy đi mọi thứ trong ba ngày, vì là rất nhiều.
\v 26 Qua ngày thứ tư, họ tập trung lại tại trũng Bê-ra-ca. Ở đó họ ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì thế tên của địa điểm đó là “trũng Bê-ra-ca” cho đến ngày nay.
\s5
\v 27 Thế rồi họ trở về, từng người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và Giô-sa-phát đi đầu, họ về lại Giê-ru-sa-lem với sự vui mừng; vì Đức Giê-hô-va đã làm cho họ phải vui mừng, vì quân thù nghịch của họ bị đánh bại.
\v 28 Họ đến tại Giê-ru-sa-lem và đến tại đền của Đức Giê-hô-va với đàn cầm, đàn sắt, và các thứ kèn.
\s5
\v 29 Nỗi kinh khiếp Đức Chúa Trời giáng trên các vua khi họ nghe nói rằng Đức Giê-hô-va đã đánh bại các kẻ thù nghịch của Y-sơ-ra-ên.
\v 30 Vậy, nước của Giô-sa-phát được yên bình, vì Đức Chúa Trời người ban cho người sự bình an bốn phía.
\s5
\v 31 Giô-sa-phát đã trị vì trên xứ Giu-đa: người ba mươi lăm tuổi khi khởi trị vì, và người cai trị tại Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Tên mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-li.
\v 32 Người đi theo các đường lối của A-sa, cha người; người không xây khỏi các đường lối ấy; người làm điều ngay thẳng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 33 Tuy nhiên, các chùa miễu vẫn chưa bị dứt bỏ, dân sự cũng chưa dốc lòng tìm cầu Đức Chúa Trời của tổ phụ mình.
\s5
\v 34 Các công việc khác của Giô-sa-phát từ đầu đến cuối, kìa, chúng được chép trong lịch sử của Giê-hu con trai Ha-na-ni, và được ghi lại trong sách các vua Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 35 Sau việc nầy, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, liên minh với A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên, là người ăn ở rất gian ác.
\v 36 Hai vua hội hiệp nhau đặng đóng tàu vượt biển. Họ đóng tàu tại Ê-xi-ôn-Ghê-be.
\v 37 Khi ấy, Ê-li-ê-xe con trai Đô-đa-va-hu ở Ma-rê-sa, nói tiên tri về vua Giô-sa-phát; ông nói: “Vì vua liên minh với A-cha-xia, Đức Giê-hô-va đã hủy phá các dự án của vua”. Những tàu bị đắm hết hầu cho không ra biển được.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Giô-sa-phát ngủ với các tổ phụ mình và được chôn với họ trong thành Đa-vít; Giô-ram con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\v 2 Giô-ram có nhiều anh em, là những con trai của Giô-sa-phát: A-xa-ria, Giê-hi-ên, Xa-cha-ri, A-xa-ria, Mi-ca-ên, và Sê-pha-ti-a. Các người này đều là con trai của Giô-sa-phát, vua Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Cha của họ đã ban cho họ nhiều của cải bằng bạc và vàng, những vật quí báu khác, và cũng ban cho các thành có phòng thủ trong xứ Giu-đa; tuy nhiên, người ban ngôi nước cho Giô-ram, vì người là con trưởng.
\s5
\v 4 Giờ đây, khi Giô-ram lên ngôi vua trong nước của cha mình và tự làm cho mình ra mạnh trong vai trò là vua, ông ta dùng gươm giết các em mình và cũng giết nhiều cấp lãnh đạo khác của Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Giô-ram được ba mươi hai tuổi khi ông ta lên ngôi làm vua, và người cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 6 Ông ta ăn ở theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, như nhà A-háp đã làm; vì đã lấy con gái A-háp làm vợ; ông ta làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 7 Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va không muốn huỷ diệt nhà Đa-vít, vì cớ giao ước mà Ngài đã lập với Đa-vít; Ngài đã hứa rằng Ngài sẽ luôn luôn ban sự sống cho ông và dòng dõi của ông.
\s5
\v 8 Trong đời Giô-ram, Ê-đôm nỗi loạn nghịch cùng quyền lực của xứ Giu-đa, và họ lập một vua cho mình.
\v 9 Khi ấy, Giô-ram cùng với các quan tướng và hết thảy xe cộ của mình chổi dậy. Khi ông kéo quân ra lúc ban đêm đánh Ê-đôm, chúng đến bao vây ông và các quan cai xe.
\v 10 Vậy Ê-đôm nổi loạn chống lại quyền lực của xứ Giu-đa cho đến ngày nay. Đồng thời, Líp-na cũng loạn nghịch chống lại Giô-ram, bởi vì ông ta đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ người.
\s5
\v 11 Thêm nữa, Giô-ram cũng xây các chùa miễu trong vùng núi xứ Giu-đa; ông ta khiến dân cư thành Giê-ru-sa-lem hành động giống như gái điếm vậy. Trong việc làm nầy, ông ta dẫn dân Giu-đa vào chỗ lầm lạc.
\s5
\v 12 Một bức thư gửi đến từ tiên tri Ê-li cho Giô-ram. Thư viết: “Đây là những gì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ông, phán như vầy: bởi ngươi không đi theo đường lối của Giô-sa-phát, cha ngươi, lại cũng chẳng đi theo đường lối của A-sa, vua Giu-đa,
\v 13 mà đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, xui cho người Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem phải hành động như gái điếm, như nhà A-háp đã làm vậy — và ngươi cũng đã giết các anh em ngươi trong gia đình của cha ngươi, họ là những người tốt hơn ngươi —
\v 14 hãy xem, Đức Giê-hô-va sẽ giáng dịch lệ lớn lao trên dân sự ngươi, trên con cái ngươi, trên các vợ ngươi, cùng trên các tài vật của ngươi;
\v 15 Chính mình ngươi có nhiều bịnh tật nơi gan ruột ngươi, cho tới chừng gan ruột ngươi rớt ra ngoài”.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va khuấy khuất nghịch lại Giô-ram, tâm linh dân Phi-li-tin và dân Ả-rập ở gần bên dân Ê-thi-ô-bi.
\v 17 Chúng tấn công Giu-đa, bao vây xứ, rồi lấy đem đi mọi của cải tìm gặp trong cung điện vua. Chúng cũng bắt đem đi các con trai cùng mấy người vợ của người. Không người con nào được chừa lại trừ ra Giô-a-cha con trai út người.
\s5
\v 18 Sau mọi sự nầy, Đức Giê-hô-va đánh người nơi gan ruột với một chứng bịnh bất trị.
\v 19 Theo thời gian, cuối hai năm, thì ruột gan người rớt ra ngoài vì cớ chứng bịnh, và người chết vì căn bịnh nghiệt ngã. Dân sự người không xông thuốc thơm cho người như đã xông cho tổ phụ người.
\v 20 Người khởi trị vì khi được ba mươi hai tuổi; người cai trị tám năm tại Giê-ru-sa-lem, rồi người qua đời chẳng ai thương tiếc. Họ chôn người trong thành Đa-vít, song chẳng phải ở nghĩa trang hoàng tộc.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Dân cư thành Giê-ru-sa-lem lập A-cha-xia, con út của Giô-ram, làm vua trong chỗ của người; vì đạo quân cùng với dân Ả-rập xông vào trại quân, đã giết các con trai của ông lớn hơn người. Vì vậy, A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua Giu-đa, lên ngôi làm vua.
\v 2 A-cha-xia được bốn mươi hai tuổi khi người lên ngôi; người cai trị một năm tại Giê-ru-sa-lem. Tên mẹ người là A-tha-li, con gái của Ôm-ri.
\v 3 Người cũng ăn ở theo đường lối của nhà A-háp; vì mẹ người là cố vấn cho người trong việc làm ra những điều gian ác.
\s5
\v 4 A-cha-xia đã làm những điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, giống như nhà A-háp đã làm, vì họ là các cố vấn của người sau cái chết của cha người, cho đến sự huỷ diệt người.
\v 5 Người cũng theo mưu chước của họ; người đến với Giô-ram, con trai A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, giao chiến chống lại Ha-xa-ên, vua A-ram ở Ra-mốt tại Ga-la-át. Dân A-ram làm cho Giô-ram bị thương.
\s5
\v 6 Giô-ram trở về Gít-rê-ên, đặng chữa lành các vết thương người đã bị tại Ra-ma, khi người giao chiến với Ha-xa-ên, vua A-ram. Vậy A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua Giu-đa đi xuống Gít-rê-ên để thăm Giô-ram, con trai A-háp vì bị thương.
\s5
\v 7 Giờ đây, sự huỷ diệt của A-cha-xia do Đức Chúa Trời đưa đến qua sự thăm viếng của Giô-ram. Khi người đến tận nơi, người đến với Giô-ram tấn công Giê-hu, con trai Nim-si, là người Đức Giê-hô-va đã chọn đặng trừ diệt nhà A-háp.
\v 8 Khi Giê-hu bày ra sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên nhà A-háp, ông ta gặp các trưởng lão xứ Giu-đa và các con trai của anh em A-cha-xia đang phục vụ người, Giê-hu giết hết thảy chúng.
\s5
\v 9 Giê-hu cũng truy tìm A-cha-xia; họ bắt lấy người đang trốn trong xứ Sa-ma-ri, dẫn đến Giê-hu, rồi giết người đi. Khi ấy, họ chôn người, vì nói rằng: “Hắn là con trai của Giô-sa-phát, là người hết lòng tìm kiếm Đức Giê-hô-va”. Vậy, nhà A-cha-xia chẳng còn có quyền để trị vì vương quốc được nữa.
\s5
\v 10 Bấy giờ, khi A-tha-li, mẹ của A-cha-xia, thấy con mình đã chết, bà ta chổi dậy giết hết mọi con cái hoàng tộc trong nhà Giu-đa.
\v 11 Nhưng Giô-sa-bát, con gái của vua, ẳm lấy Giô-ách, một người con của A-cha-xia, đem khỏi vòng các con trai vua đã bị giết. Nàng để nó và vú của nó trong phòng ngủ. Như vậy, Giô-sa-bát, con gái của vua Giô-ram, vợ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, (vì nàng là em của A-cha-xia) giấu Giô-ách khỏi A-tha-li, và A-tha-li không giết nó được.
\v 12 Giô-ách ở với họ, được giấu trong nhà của Đức Chúa Trời trong sáu năm; đang khi A-tha-li trị vì trên xứ.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa hành động một cách mạnh mẽ. Ông vời các quan tướng cai trăm người, là A-xa-ria, con trai của Giê-rô-ham, Ích-ma-ên, con trai của Giô-ha-nan, A-xa-ria, con trai của Ô-bết, Ma-a-xê-gia, con trai của A-đa-gia, và Ê-li-sa-phát, con trai của Xiếc-ri — ông khiến họ phải lập giao ước với ông.
\v 2 Họ trải khắp xứ Giu-đa và nhóm lại những người Lê-vi từ các thành của Giu-đa, cũng như các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên; rồi họ đều đến Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Cả hội chúng lập giao ước với vua tại trong đền thờ của Đức Chúa Trời. Giê-hô-gia-đa nói với chúng rằng: “Hãy xem, con trai của vua sẽ trị vì theo lời Đức Giê-hô-va đã phán về dòng dõi của Đa-vít.
\s5
\v 4 Đây là điều các ngươi phải làm: một phần ba trong các ngươi, những thầy tế lễ và người Lê-vi nào đến phiên phục vụ nhằm ngày sa-bát, sẽ là những người giữ cửa.
\v 5 Một phần ba sẽ vào trong cung vua; và một phần ba khác nữa ở nơi Cổng Nền. Hết thảy dân sự sẽ ở nơi hành lang của đền Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Chớ để ai vào trong đền của Đức Giê-hô-va, ngoại trừ những thầy tế lễ và các người Lê-vi nào đang phục sự: họ phải vào bên trong, vì họ thánh sạch cho phần việc của họ hôm nay. Hết thảy họ sẽ giữ theo các mạng lịnh của Đức Giê-hô-va.
\v 7 Những người Lê-vi sẽ vây chung quanh vua, ai nấy đều cầm binh khí nơi tay. Hễ ai vào đền thờ, người ấy sẽ bị giết. Hãy ở lại với nhà vua khi người đi vào hay khi người đi ra”.
\s5
\v 8 Vậy, người Lê-vi và cả Giu-đa đều phục vụ với tư thế thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã dặn bảo. Mỗi người đều đem theo người của mình, những ai cần phải vào phục vụ nhơn ngày Sa-bát, và người nào mãn phiên phục vụ ngày Sa-bát; vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa không xét theo ban bệ nào hết.
\v 9 Khi ấy, thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phát cho các quan tướng những giáo, khiên nhỏ và lớn, thuộc về vua Đa-vít, cất trong đền Đức Chúa Trời.
\s5
\v 10 Giê-hô-gia-đa sắp đặt hết thảy các binh sĩ, ai nấy cầm binh khí mình, từ bên phải của đền thờ cho đến bên trái của đền thờ, cùng bên bàn thờ và đền thờ, bao chung quanh nhà vua.
\v 11 Khi ấy, họ đem con trai của vua ra, đội mão triều thiên trên đầu người, và trao các chiếu chỉ giao ước cho người. Họ tôn người làm vua. và Giê-hô-gia-đa và các con trai ông xức dầu cho người. Thế rồi họ nói: Chúa vua sống đời đời!
\s5
\v 12 Khi A-tha-li nghe tiếng dân sự chạy và chúc tụng vua, bà ta đến với dân sự tại trong đền Đức Giê-hô-va.
\v 13 Và bà ta nhìn xem, và kìa, nhà vua đứng bên cây cột tại lối vào, và các quan tướng cùng những kẻ thổi kèn đứng bên cạnh vua. Hết thảy dân sự trong xứ đều vui mừng và thổi kèn; và những người ca hát đang sử dụng các thứ nhạc cụ đi đầu ca tụng Đức Chúa Trời. Lúc đó, A-tha-li xé áo mình rồi hô lên: “Phản bội! Phản bội!”
\s5
\v 14 Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, đến với các quan tướng cai trăm người được đặt chỉ huy quân đội, ông nói với họ như sau: “Hãy dẫn bà ra ngoài khỏi hàng quân; hễ ai theo bà ta, khá giết nó bằng gươm”. Vì thầy tế lễ đã dạy rằng: “Chớ giết bà ta trong đền của Đức Giê-hô-va”.
\v 15 Vậy, chúng cho bà ta ra ngoài, và bà ta theo nơi Cổng Ngựa mà vào lại cung vua, rồi chúng giết bà ta tại đó.
\s5
\v 16 Giê-hô-gia-đa lập một giao ước giữa ông ta, cả dân sự, và nhà vua, để chúng trở thành dân sự của Đức Giê-hô-va.
\v 17 Thế là cả dân sự đều đi đến miễu Ba-anh rồi phá dỡ nó. Họ đập bể bàn thờ của Ba-anh và hình tượng nó tan tành, rồi họ giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, tại trước bàn thờ đó.
\s5
\v 18 Giê-hô-gia-đa ấn định các chức sắc trong đền của Đức Giê-hô-va dưới quyền của các thầy tế lễ, họ là người Lê-vi, mà Đa-vít đã ấn định họ trong đền của Đức Giê-hô-va, để dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, y theo điều đã chép trong luật pháp của Môi-se, và theo lệ Đa-vít đã định, cùng nhau ca xướng vui mừng.
\v 19 Giê-hô-gia-đa đặt những kẻ canh cửa trong đền Đức Giê-hô-va, hầu cho không một người nào ô uế vô luận lý do gì, đều chẳng được vào đó.
\s5
\v 20 Giê-hô-gia-đa đem theo với ông những quan cai trăm người, người quí tộc và các quan trưởng trong dân sự, cùng cả dân trong xứ. Ông rước vua từ đền Đức Giê-hô-va xuống; dân sự đi ngang qua Cổng Thượng đến cung vua, rồi đặt vua ngồi trên ngôi nước.
\v 21 Vậy, hết thảy dân sự của xứ đều vui mừng, và thành được bình tịnh. Còn về phần A-tha-li, họ giết bà ta bằng gươm.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Giô-ách được bảy tuổi khi người lên làm vua; người cai trị bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Xi-bia, ở Bê-e-Sê-ba.
\v 2 Giô-ách làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va trọn đời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa.
\v 3 Giê-hô-gia-đa cưới hai vợ cho Giô-ách; và người trở thành cha của nhiều con trai và con gái.
\s5
\v 4 Sau việc này, Giô-ách quyết định tu bổ đền của Đức Giê-hô-va,
\v 5 Người nhóm các thầy tế lễ và người Lê-vi lại, rồi nói với họ: “Hãy đến với từng thành trong xứ Giu-đa và thâu lấy tiền bạc của cả Y-sơ-ra-ên để sửa chữa lại đền của Đức Chúa Trời các ngươi. Các ngươi phải lo liệu công việc nầy”. Lúc đầu, người Lê-vi không làm chi hết.
\s5
\v 6 Vậy, nhà Vua cho đòi thầy tế lễ thượng phẩm Giê-hô-gia-đa, rồi nói với ông rằng: Cớ sao ông không buộc người Lê-vi từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đem nộp thuế do Môi-se định, là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, và bởi hội chúng Y-sơ-ra-ên phải dâng cho trại chứng cớ giao ước? ”
\v 7 Vì các con trai của A-tha-li, người đàn bà gian ác kia, đã phá hủy đền của Đức Chúa Trời và đã dâng hết thảy các vật thánh của đền Đức Giê-hô-va cho thần Ba-anh.
\s5
\v 8 Vì vậy, nhà Vua truyền lịnh, và họ đóng một cái rương rồi để phía ngoài lối vào đền Đức Giê-hô-va.
\v 9 Khi ấy, họ rao cho khắp xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, để dân sự phải đem nộp cho Đức Giê-hô-va thuế mà Môi-se, tôi tớ của Đức Chúa Trời, đã định về Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng.
\v 10 Hết thảy các cấp lãnh đạo và cả dân sự đều vui mừng rồi đem bạc đến bỏ vào trong hòm cho đến chừng họ bỏ đầy hòm.
\s5
\v 11 Việc xảy ra, bất cứ khi nào cái hòm được mang đến cho các quan chức của nhà vua bởi tay người Lê-vi, và bất cứ khi nào họ thấy có nhiều tiền ở trong hòm, thơ ký của nhà vua và người của thầy tế lễ thượng phẩm sẽ đến, trút tiền bạc trong hòm ra, rồi đem để lại chỗ cũ. Hết ngày này sang ngày khác họ đều làm như vậy, và thâu được nhiều bạc.
\v 12 Nhà vua và Giê-hô-gia-đa giao bạc ấy cho những kẻ lo liệu công việc trong đền Đức Giê-hô-va. Những người nầy mướn thợ đẽo đá, và thợ mộc lo tu bổ đền Đức Giê-hô-va, và họ cũng mướn những người chuyên về sắt và đồng.
\s5
\v 13 Vậy, các thợ làm công việc, và nhờ tay họ công việc tu bổ được thành; họ sắp đặt lại đền của Đức Chúa Trời như trước, và làm cho cho đền được vững chắc.
\v 14 Khi họ đã làm xong, họ đem giao số tiền còn lại cho nhà vua và Giê-hô-gia-đa. Số tiền nầy đã được dùng làm trang thiết bị trong đền của Đức Giê-hô-va, các thứ để phục vụ và để dâng của lễ — những cái thìa, cùng những đồ dùng bằng vàng bằng bạc. Họ đã dâng của lễ thiêu trong đền của Đức Giê-hô-va trọn đời của Giê-hô-gia-đa.
\s5
\v 15 Giê-hô-gia-đa đã cao tuổi và sống thọ, rồi qua đời; ông được 130 tuổi khi ông qua đời.
\v 16 Họ chôn ông trong thành Đa-vít giữa vòng các vì vua, vì ông đã làm lành trong Y-sơ-ra-ên, đối với Đức Chúa Trời, và với đền của Ngài.
\s5
\v 17 Sau khi Giê-hô-gia-đa đã qua đời, các quan trưởng Giu-đa đến và chúc tụng nhà vua. Khi ấy nhà vua nghe theo lời của họ.
\v 18 Họ lìa bỏ đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, rồi thờ lạy các thần A-sê-ra và hình tượng. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng trên xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vì việc làm sai trái của họ.
\v 19 Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va sai các đấng tiên tri đến cùng chúng đem chúng trở lại cùng chính mình Ngài, là Đức Giê-hô-va; nhưng chúng từ chối không chịu nghe.
\s5
\v 20 Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng trên Xa-cha-ri con trai của thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa; Xa-cha-ri đứng dậy trước mặt dân sự, mà nói cùng họ như sau: “Đức Chúa Trời phán như vầy: Cớ sao các ngươi phạm các điều răn của Đức Giê-hô-va, vì vậy các ngươi sẽ chẳng may mắn được? Một khi các ngươi lìa bỏ Đức Giê-hô-va, và Ngài cũng đã lìa bỏ các ngươi”.
\v 21 Nhưng họ bèn phản nghịch với người; với mạng lịnh của vua, họ ném đá người tại trong hành lang đền của Đức Giê-hô-va.
\v 22 Với tình trạng nầy, vua Giô-ách đã bất chấp sự tử tế của Giê-hô-gia-đa, cha của Xa-cha-ri, đã làm cho mình. Thay vì thế, vua giết con của Giê-hô-gia-đa đi. Khi Xa-cha-ri sắp chết, ông nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va xem xét việc nầy và buộc các ngươi phải trình sổ!”
\s5
\v 23 Khi đến cuối năm, quân Sy-ri kéo lên giao chiến với Giô-ách. Chúng đến xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem; chúng giết các quan trưởng của dân sự rồi đem hết những của cướp từ đây về cho nhà vua ở Đa-mách.
\v 24 Đội quân nhỏ của A-ram kéo đến, nhưng Đức Giê-hô-va lại ban cho họ thắng hơn một đạo binh rất đông, vì xứ đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Theo cách thức nầy, người A-ram giáng sự sửa phạt trên Giô-ách.
\s5
\v 25 Lúc bấy giờ, người A-ram bỏ đi rồi Giô-ách bị thương trầm trọng. Các tôi tớ người mưu phản chống lại người, vì cớ sự tàn sát các con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Họ giết người tại trên giường, và người chết; họ chôn người tại trong thành Đa-vít, song không phải trong nghĩa trang của các vua.
\v 26 Đây là những kẻ đã mưu phản cùng người: Xa-bát con trai của Si-mê-át, là đàn bà Am-môn; và Giô-xa-bát, con trai Sim-rít, là đàn bà Mô-áp.
\s5
\v 27 Bây giờ, câu chuyện nói tới các con trai người, lời tiên tri quan trọng đã nói về người, và sự tái thiết đền của Đức Chúa Trời, hãy xem, chúng đã được chép trong quyển sách truyện nói tới các vua. Và A-ma-xia, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 25
\p
\v 1 A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Giô-a-đan, quê ở Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Người làm điều thiện tại trước mặt Đức Giê-hô-va, song không với tấm lòng tin kính trọn vẹn.
\s5
\v 3 Khi quyền cai trị nước người được lập vững rồi, người giết hết các tôi tớ nào đã giết vua cha mình.
\v 4 Nhưng người không xử tử con cái của những sát thủ đó, nhưng đã hành xử theo điều đã chép theo luật pháp, trong sách của Môi-se, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn: “Cha chẳng phải chết vì con, con cũng chẳng phải chết vì cha. Thay vì thế, mỗi người phải chết vì chính tội mình”.
\s5
\v 5 Hơn nữa, A-ma-xia nhóm xứ Giu-đa lại, đăng ký theo nhà của tổ phụ họ, dưới quyền các quan tướng cai ngàn người và cai trăm người — hết thảy Giu-đa và Bên-gia-min. Người kê sổ họ từ hai mươi tuổi sấp lên, và tính được 300. 000 người được chọn, có khả năng giao chiến, họ cũng sử dụng giáo và khiên.
\v 6 Người cũng thuê 100. 000 chiến binh từ Y-sơ-ra-ên, giá một trăm ta lâng bạc.
\s5
\v 7 Nhưng người của Đức Chúa Trời đến nói với người rằng: “Hỡi vua! chớ kéo đạo binh Y-sơ-ra-ên cùng đi với vua, vì Đức Giê-hô-va chẳng ở cùng Y-sơ-ra-ên, — chẳng ở cùng với dân sự của Ép-ra-im.
\v 8 Còn nếu vua muốn đi và hãy làm cho mình mạnh mẽ can đảm trong chiến trận, Đức Chúa Trời sẽ khiến vua vấp ngã trước mặt kẻ thù; vì Đức Chúa Trời có quyền giúp cho thắng và cũng có quyền làm cho sa bại”.
\s5
\v 9 A-ma-xia nói với người của Đức Chúa Trời rằng: “Nhưng chúng ta phải làm gì với một trăm ta lâng bạc kia, mà ta đã phát cho đạo binh Y-sơ-ra-ên? Người của Đức Chúa Trời đáp: “Đức Giê-hô-va có thể ban cho vua nhiều hơn số ấy”.
\v 10 Vậy, A-ma-xia tách ra khỏi số binh lính đến với người từ Ép-ra-im; người cho chúng trở về nhà. Vậy, cơn giận của chúng nhen lên cùng Giu-đa, và chúng trở về nhà trong cơn giận phừng.
\s5
\v 11 A-ma-xia được lòng dạn dĩ và để cho dân sự đi ra đến trũng Muối; ở đó người đánh bại 10. 000 người của Sê-i-rơ.
\v 12 Quân của Giu-đa bắt sống 10. 000 người khác. Họ đưa chúng lên trên đỉnh bờ vực, rồi ném chúng xuống từ đó, hầu cho hết thảy chúng bị giập chết hết.
\s5
\v 13 Nhưng người của quân đội mà A-ma-xia khiến phải trở về, hầu cho họ không ra trận với người, đã tấn công các thành Giu-đa, từ Sa-ma-ri cho đến Bết-Hô-rôn. Họ đánh giết ba ngàn người trong dân sự tại đó, và cướp lấy nhiều chiến lợi phẩm.
\s5
\v 14 Bấy giờ, sau khi A-ma-xia đánh giết dân Ê-đôm trở về, người đem các thần của dân Sê-i-rơ về, lập lên làm thần của mình. Người sấp mình xuống trước mặt chúng nó, và đốt hương cho chúng.
\v 15 Vì vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng A-ma-xia. Ngài sai một đấng tiên tri đến nói với người rằng: Tại sao ngươi tìm cầu các thần của một dân, các thần đó chẳng cứu được chính dân sự của chúng khỏi tay ngươi?
\s5
\v 16 Sau khi đấng tiên tri đang nói với người, thì vua bảo người rằng: “Chúng ta có lập ngươi làm mưu sĩ cho nhà vua sao? Hãy thôi đi. Sao ta phải giết ngươi chứ? ” Khi ấy, đấng tiên tri dừng lại, rồi nói: “Tôi biết rằng Đức Giê-hô-va đã quyết định hủy diệt vua, bởi vì vua đã làm việc nầy, và không nghe lời khuyên của tôi”.
\s5
\v 17 Lúc đó, A-ma-xia, vua Giu-đa, tham khảo với các cố vấn rồi thì sai sứ giả đến Giô-ách con trai Giô-a-cha, cháu Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên, mà nói rằng: “Hãy đến, để chúng ta gặp nhau mặt đối mặt trong chiến trận”.
\s5
\v 18 Nhưng Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, sai sứ giả đến gặp A-ma-xia, vua Giu-đa, mà nói rằng: “Cây gai ở Li-ban gửi sứ điệp đến với cây bá hương ở Li-ban rằng: Hãy gả con gái ngươi cho con trai ta làm vợ, song có một thú đồng ở Li-ban đi ngang qua rồi giày đạp cây gai đi.
\v 19 Ngươi nói: Nầy ta đã đánh hạ Ê-đôm! và lòng ngươi lại tự nhắc ngươi lên. Hãy tự hào trong chiến thắng của ngươi, khá ở trong nhà ngươi, vì tại sao lại làm cho mình mắc họa và sụp đổ, cả hai: ngươi và Giu-đa với ngươi chứ?”
\s5
\v 20 Nhưng A-ma-xia không nghe theo, vì việc nầy đến từ Đức Chúa Trời, để Ngài phó dân Giu-đa vào tay kẻ thù của họ, bởi vì họ có tìm cầu các thần của xứ Ê-đôm.
\v 21 Vậy, Giô-ách, vua của Y-sơ-ra-ên, tấn công; người và A-ma-xia, vua Giu-đa, gặp nhau mặt đối mặt tại Bết-Sê-mết thuộc về xứ Giu-đa.
\v 22 Giu-đa bị đuổi bởi quân Y-sơ-ra-ên, và từng người đều trốn về nhà.
\s5
\v 23 Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên, bắt A-ma-xia, vua Giu-đa, con trai Giô-ách, cháu Giô-a-cha, tại Bết- Sê-mết. Người bị đưa về Giê-ru-sa-lem và Giô-ách người phá vách thành từ cửa Ép-ra-im cho đến cửa Góc, một khoảng dài 400 cubit.
\v 24 Người lấy hết vàng và bạc, hết thảy các thứ tìm gặp được trong đền của Đức Chúa Trời, với Ô-bết-Ê-đôm, cùng các vật có giá trị của cung vua, với nhiều con tin, rồi trở về lại Sa-ma-ri.
\s5
\v 25 A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa, đã sống mười lăm năm nữa sau cái chết của Giô-ách, con trai Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên.
\v 26 Các công việc khác liên quan đến A-ma-xia từ đầu đến cuối, kìa, đều được chép trong Sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 27 Bấy giờ, từ thời điểm A-ma-xia xây bỏ Đức Giê-hô-va trở đi, họ bắt đầu phản nghịch cùng người tại Giê-ru-sa-lem. Người trốn đến La-ki; nhưng họ sai người đuổi theo người đến La-ki rồi giết người tại đó.
\v 28 Họ đưa người trở lại trên lưng ngựa và chôn người tại trong thành Giu-đa cùng các tổ phụ người.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Cả dân Giu-đa đều lập Ô-xia, mới được mười sáu tuổi, lên làm vua trong chỗ của A-ma-xia, cha người;
\v 2 Chính ông là người xây cất Ê-lốt, và khôi phục nó cho Giu-đa. Sau khi nhà vua đã ngủ với các tổ phụ mình,
\v 3 Ô-xia được mười sáu tuổi, khi người khởi trị vì. Người cai trị năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lam. Mẹ người tên là Giê-cô-lia, quê ở Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 4 Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi theo tấm gương của cha người là A-ma-xia trong mọi sự.
\v 5 Người lo tìm kiếm Đức Chúa Trời trong đời Xa-cha-ri, là nhân vật cung ứng cho người những huấn thị về việc vâng theo Đức Chúa Trời. Bao lâu người tìm kiếm Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời khiến cho người đặng may mắn bấy lâu.
\s5
\v 6 Người ra trận giao chiến với dân Phi-li-tin, vua đánh sập các tường thành của Gát, Giáp-nê, và Ách-đốt; người xây các thành trong xứ Ách-đốt và giữa vòng dân Phi-li-tin.
\v 7 Đức Chúa Trời vùa giúp người chống lại dân Phi-li-tin, dân Ả-rập sống trong Gu-rơ-Ba-anh, và chống dân Ma-ôn.
\v 8 Dân Am-môn nộp cống thuế cho Ô-xia; và danh tiếng người đồn khắp các xứ khác, thậm chí đến tận biên giới xứ Ê-díp-tô, vì người đã trở nên rất cường thạnh.
\s5
\v 9 Thêm nữa, Ô-xia cũng xây những tháp tại Giê-ru-sa-lem ngay cửa Góc, cửa Trũng, và chỗ góc tường, cắt lính gát ở các chỗ đó.
\v 10 Người cũng cất nh-ững tháp trong đồng vắng và đào nhiều giếng, vì người có nhiều súc vật, trong đồng bằng và trên đồng cao. Người có nhiều nông dân, kẻ trồng nho trong vùng núi và trong đồng ruộng phì nhiêu, vì người thích việc canh nông.
\s5
\v 11 Thêm nữa, Ô-xia có một đạo quân thuần thục, họ kéo ra trận từ tốp, tùy số tu bộ mà thơ ký Giê-hi-ên, và quan giám thị Ma-a-xê-gia đã làm, dưới quyền của Ha-na-nia, một trong các tướng lãnh của vua.
\v 12 Trọn số các trưởng tộc, các chiến binh, là 2. 600 người.
\v 13 Dưới tay họ là một đạo quân 307. 500, thuần thục chiến trận, giúp vua chống cự với các kẻ thù.
\s5
\v 14 Ô-xia sắm sửa cho họ — hết thảy đạo quân, những khiên, giáo, mũ, giáp, cung, và đá dùng cho trành.
\v 15 Ở Giê-ru-sa-lem, người đốc thúc các kỹ sư chế tạo những máy dùng đặt trên các tháp, và trên chót đồn lũy, đặng bắn tên và đá lớn. Danh tiếng người đồn ra các xứ xa, vì người được vùa giúp cách lạ thường, cho đến trở nên cường thạnh.
\s5
\v 16 Song khi Ô-xia trở nên cường thạnh, lòng bèn kiêu ngạo, đến đỗi phạm những điều đồi bại; người phạm tội cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người; vì người vào trong đền thờ Đức Giê-hô-va xông hương trên bàn thờ xông hương.
\v 17 Thầy tế lễ A-xa-ria vào sau người, và với ông có tám mươi thầy tế lễ của Đức Giê-hô-va, họ là người mạnh dạn.
\v 18 Họ kháng cự vua Ô-xia mà, họ nói với vua: “Hỡi vua Ô-xia, việc nầy không thuộc về nhà vua khi xông hương cho Đức Giê-hô-va, mà là việc của dòng thầy tế lễ, con cháu A-rôn, họ đã được biệt riêng ra thánh để lo phần việc xông hương. Hãy ra khỏi đền thánh, vì vua đã phạm tội. Chẳng có vinh quang gì cho vua trong việc nầy từ Giê-hô-va Đức Chúa Trời”.
\s5
\v 19 Khi ấy Ô-xia trở giận. Người cầm nơi tay một cái bình hương sắp xông hương. Đang khi người nổi giận cùng những thầy tế lễ, phung bèn nổi lên nơi trán người trước mặt những thầy tế lễ, tại trong đền của Đức Giê-hô-va ở gần bên bàn thờ xông hương.
\v 20 A-xa-ria, thầy tế lễ thượng phẩm, và hết thảy thầy tế lễ khác nhìn thấy, và kìa, người bị phung nơi trán. Họ mau mau đuổi người ra khỏi đó. Thật vậy, người cũng lật đật đi ra, vì Đức Giê-hô-va đã hành hại người.
\s5
\v 21 Vua Ô-xia là một người phung cho đến ngày chết của ông; và sống trong một nhà riêng, kể từ khi ông là một người phung; vì ông bị dứt khỏi đền của Đức Giê-hô-va. Giô-tham, con trai người, quản lý cung vua, và xét đoán dân sự trong xứ.
\s5
\v 22 Về một việc khác của Ô-xia từ đầu đến cuối, đều được Ê-sai, con trai A-mốt ghi chép.
\v 23 Vậy, Ô-xia ngủ với các tổ phụ mình; họ chôn người với các tổ phụ người tại nghĩa trang thuộc về các vua; vì họ nói: “Vua là người phung”. Giô-tham, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi người khởi trị vì; và người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc.
\v 2 Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi theo tấm gương của cha mình là Ô-xia, trong mọi sự. Người cũng kềm chế không vào đền thờ của Đức Giê-hô-va. Nhưng dân sự vẫn luông tuồng trong các đường lối gian ác.
\s5
\v 3 Người xây cửa trên của đền Đức Giê-hô-va, và người xây dựng nhiều trên vùng núi Ô-phên.
\v 4 Người cũng xây nhiều thành trong miền núi Giu-đa, và nhiều đền đài cùng những tháp ở trên rừng.
\s5
\v 5 Người giao chiến với vua dân Am-môn, và đánh bại chúng. Trong cùng năm ấy, dân Am-môn nộp cho người một trăm ta lâng bạc một vạn cô-rơ lúa miến, và một vạn cô-rơ lúa mạch. Dân Am-môn cũng tiến cống người số ấy trong năm thứ nhì và thứ ba.
\s5
\v 6 Vậy, Giô-tham trở nên cường thạnh, bởi vì người ăn ở cách vững vàng trước mặt Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời mình.
\v 7 Các công việc khác liên quan đến Giô-tham, mọi chiến trận và đường lối của người, chúng được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
\s5
\v 8 Người được hai mươi lăm tuổi khi khởi trị vì; người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Giô-tham ngủ với các tổ phụ mình, và họ chôn người tại trong thành Đa-vít. A-cha, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 28
\p
\v 1 A-cha được hai mươi tuổi khi người khởi trị vì, và người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Người chẳng làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, như Đa-vít, tổ phụ người đã làm;
\v 2 thay vì thế, người đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên; người cũng làm những hình tượng đúc cho thần Ba-anh,
\s5
\v 3 thêm nữa, người đốt hương trong trũng Bên Hi-nôm và đặt con cái mình trong lửa làm của lễ thiêu, theo những sự gớm ghiếc của các nhóm dân mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Người dâng của lễ và xông hương ở các chúa miễu, trên vùng đồi núi, và dưới các cây rậm.
\s5
\v 5 Vì vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của A-cha, phó người vào tay vua A-ram. Người A-ram đánh bại người và bắt trong dân người rất nhiều tù binh, rồi dẫn về thành Đa-mách. A-cha cũng bị phó vào tay vua Y-sơ-ra-ên, vua nầy đánh bại người trong một cuộc tàn sát rất lớn.
\v 6 Vì Phê-ca con trai của Rê-ma-lia, đã giết trong xứ Giu-đa một ngày 120. 000 lính chiến, thảy đều là binh lính thuần thục, vì họ đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình.
\s5
\v 7 Xiếc-ri, một người rất mạnh sức xuất thân từ Ép-ra-im, giết Ma-a-xê-gia, con trai của vua, A-ri-kham, quan cai cung vua, và Ên-ca-na, quan tể tướng.
\v 8 Quân đội Y-sơ-ra-ên bắt tù trong anh em mình 200. 000 người, cả những người vợ, con trai, và con gái. Họ cũng tước lấy nhiều chiến lợi phẩm mà đem về Sa-ma-ri.
\s5
\v 9 Nhưng một vị tiên tri của Đức Giê-hô-va, tên người là Ô-đết. Ông đi ra đón đạo binh đang trở về Sa-ma-ri. Ông nói rằng: “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi nổi giận cùng Giu-đa, nên Ngài đã phó họ vào tay các ngươi. Các ngươi có giết chúng trong cơn thạnh nộ đã thấu đến trời.
\v 10 Bây giờ, các ngươi lại tính bắt người nam người nữ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm nô lệ cho các ngươi sao? Nhưng có phải các ngươi chẳng có phạm tội cùng Giê-hô-va Đức Chúa trời của các ngươi sao?
\v 11 Vậy bây giờ, hãy nghe ta nói đây: hãy thả phu tù về, những kẻ các ngươi đã bắt trong anh em của chính các ngươi, vì cơn giận phừng của Đức Giê-hô-va đang giáng trên các ngươi”.
\s5
\v 12 Khi ấy, có mấy quan trưởng của dân Ép-ra-im —là A-xa-ria, con trai của Giô-ha-nan, Bê-rê-kia, con trai của Mê-si-lê-mốt, Ê-xê-chia, con trai của Sa-lum, và A-ma-sa con trai của Hát-lai, đều đứng dậy nghịch cùng những kẻ trở về từ chiến trường;
\v 13 họ nói: “Các ngươi chớ đem những phu tù vào đây, vì các ngươi tính một việc khiến cho chúng ta phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, đặng thêm vào tội lỗi và quá phạm của chúng ta; vì tội lỗi chúng ta thật là lớn và cơn thạnh nộ phừng lên cùng Y-sơ-ra-ên”.
\s5
\v 14 Vậy, những kẻ vũ trang thả hết các phu tù và để chiến lợi phẩm lại tại trước mặt các quan trưởng và cả hội chúng.
\v 15 Những người đã kể tên trên đây, bèn chổi dậy, dẫn các phu tù ra, lấy quần áo mặc cho các người trong họ bị trần truồng với chiến lợi phẩm. Họ mặc quần áo và mang giày cho chúng. Họ cho chúng đồ ăn, thức uống. Họ xử lý các vết thương rồi đặt những kẻ yếu lên lưng lừa. Họ đưa chúng về lại với gia đình họ ở thành Giê-ri-cô, (được gọi là thành cây chà là). Khi ấy chúng trở về thành Sa-ma-ri.
\s5
\v 16 Lúc bấy giờ, vua A-cha sai sứ đi cầu vua A-si-ri xin họ trợ giúp cho ông.
\v 17 Vì một lần nữa, dân Ê-đôm đã tới đến và tấn công Giu-đa rồi bắt dẫn tù nhiều người.
\v 18 Dân Phi-li-tin cũng bao vây các thành thuộc vùng đồng bằng và thuộc Nê-giép xứ Giu-đa. Họ chiếm lấy Bết-Sê-mết, A-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô, và các làng mạc nó, Thim-na và các làng mạc nó, Ghim-xô và các làng mạc nó. Họ đến sống tại các chỗ đó.
\s5
\v 19 Vì Đức Giê-hô-va hạ thấp Giu-đa xuống vì cớ A-cha, vua Y-sơ-ra-ên; vì người đã hành động gian ác trong xứ và đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va rất nặng.
\v 20 Tiếc-lát Phin-nê-se, vua A-si-ri, đến cùng người, và gây rối cho người thay vì nâng đỡ người.
\v 21 Vì A-cha cướp lấy đền của Đức Giê-hô-va và cung vua, và các quan trưởng, rồi giao các vật có giá trị cho vua A-si-ri — nhưng điều nầy chưa vừa lòng người.
\s5
\v 22 Chính vua A-cha nầy đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va thậm chí trong lúc ông ta khổ sở nữa kìa;
\v 23 người dâng của lễ cho các thần của dân Đa-mách, là các thần đã đánh bại mình. Người nói: “Bởi vì các thần của vua Sy-ri đã trợ giúp họ, nên ta sẽ dâng của lễ cho các thần ấy, hầu cho họ cũng vùa giúp ta nữa”. Nhưng họ khiến cho vua và cả Y-sơ-ra-ên phải sụp đổ.
\s5
\v 24 A-cha thâu thập các trang thiết bị của đền Đức Chúa Trời, đập bể chúng ra thành từng mảnh. Người đóng các cửa đền của Đức Giê-hô-va và làm cho mình những bàn thờ trong mỗi nơi xó góc của thành Giê-ru-sa-lem.
\v 25 Trong các thành phố xứ Giu-đa, người dựng lên các chùa miễu đặng dâng của lễ cho các thần khác, và trong việc làm nầy đã chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ người.
\s5
\v 26 Giờ đây, các việc làm khác của người, và mọi cách ăn ở của người, từ đầu đến cuối, hãy xem, chúng đều được ghi chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
\v 27 A-cha ngủ với các tổ phụ mình, và họ chôn người trong thành, trong Giê-ru-sa-lem; song không đặt người trong nghĩa trang các vua Y-sơ-ra-ên. Ê-xê-chia, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Ê-xê-chia khởi trị vì khi người được hai mươi lăm tuổi; người cai trị hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Tên của mẹ người tên là A-bi-gia; bà là con gái của Xa-cha-ri.
\v 2 Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, noi theo gương của Đa-vít, tổ phụ người, đã làm, trong mọi sự.
\s5
\v 3 Tháng giêng năm đầu người trị vì, Ê-xê-chia mở các cửa đền của Đức Giê-hô-va, và sửa sang lại.
\v 4 Người đòi những thầy tế lễ và người Lê-vi đến, hiệp chúng lại tại nơi hành lang phía đông.
\v 5 Người nói với họ: “Hãy nghe đây, hỡi người Lê-vi! Hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va, và dọn dẹp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, cùng cất những điều dơ dáy khỏi nơi đền thánh đi.
\s5
\v 6 Vì các tổ phụ chúng ta đã phạm tội và làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; họ đã lìa bỏ Ngài, ngảnh mặt khỏi nơi ngự của Đức Giê-hô-va, và xây lưng lại cùng Ngài.
\v 7 Họ cũng đóng các cửa lại, tắt đèn; họ không xông hương và không dâng của lễ thiêu tại nơi thánh cho Đức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Vì vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va đã giáng trên xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và Ngài khiến chúng thành thứ kinh khiếp, thứ bị gớm ghiếc, thứ bị xem khinh, như các ngươi đã thấy tận mắt mình.
\v 9 Đây là lý do tại sao các tổ phụ chúng ta bị gươm ngã chết, và các con trai, con gái, và vợ của chúng ta, bị bắt dẫn đi làm phu tù vì cớ điều nầy.
\s5
\v 10 Bây giờ, ở trong lòng ta muốn lập giao ước với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, hầu cho cơn giận phừng của Ngài lìa khỏi chúng ta.
\v 11 Hỡi các con ta, chớ có trì hoãn nữa, vì Đức Giê-hô-va đã chọn các ngươi đứng trước mặt Ngài, để thờ lạy Ngài, và khiến các ngươi thành tôi tớ Ngài và xông hương cho Ngài”.
\s5
\v 12 Khi ấy, những người Lê-vi chổi dậy; về dòng Kê-hát có Ma-hát, con của A-ma-sai, và Giô-ên, con trai của A-xa-ria; về dòng Mê-ra-ri có Kích, con trai Áp-đi, và A-xa-ria, con trai Giê-ha-lê-le; về dòng Ghẹt-sôn có Giô-a con trai của Xim-ma, và Ê-đen, con trai của Giô-a;
\v 13 về dòng Ê-lít-sa-phan có Sim-ri và Giê-i-ên; và về dòng A-sáp có Xa-cha-ri và Ma-tha-nia;
\v 14 về các con trai của Hê-man có Giê-hi-ên và Si-mê-i; và về các con trai của Giê-đu-thun có Sê-ma-gia và U-xi-ên.
\s5
\v 15 Chúng hiệp anh em mình lại, dâng mình cho Đức Giê-hô-va, rồi bước vào, như lịnh vua truyền ra, bước theo Lời của Đức Giê-hô-va, làm sạch đền của Đức Giê-hô-va.
\v 16 Những thầy tế lễ đi vào trong phần phía trong đền của Đức Giê-hô-va lo dọn dẹp ở đó; mọi thứ dơ dáy họ tìm gặp trong đền của Đức Giê-hô-va, họ lấy liệng ra ngoài ở nơi hành lang của đền. Người Lê-vi lấy đem quăng ra ngoài tại trong khe Xết-rôn.
\v 17 Bấy giờ, họ khởi sự ngày thứ nhứt của tháng thứ nhứt dâng đền cho Đức Giê-hô-va, rồi nhằm ngày thứ tám tháng ấy, họ đến nơi hiên cửa của Đức Giê-hô-va. Họ dâng đền của Đức Giê-hô-va trong tám ngày. Nhằm ngày thứ mười sáu tháng thứ nhứt họ đã hoàn tất công việc.
\s5
\v 18 Khi ấy, họ đến với vua Ê-xê-chia, ở trong cung điện rồi nói: “Chúng tôi đã dọn sạch cả đền Đức Giê-hô-va, bàn thờ dùng về của lễ thiêu cùng các đồ dùng nó, và cái bàn sắp bánh trần thiết và các đồ dùng nó.
\v 19 Thêm nữa, chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ mà vua A-cha quăng bỏ khi người phạm tội trong đời người trị vì, chúng tôi đã dâng cho Đức Giê-hô-va. Hãy xem, các thứ ấy đang ở trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va”.
\s5
\v 20 Vua Ê-xê-chia dậy sớm, nhóm hiệp các quan trưởng trong thành; người đi lên đền của Đức Giê-hô-va;
\v 21 Họ đem theo bảy con bò đực, bảy con chiên đực, bảy con chiên con, và bảy con dê đực đặng làm của lễ chuộc tội cho nước, cho đền thánh, và cho Giu-đa. Người truyền cho các thầy tế lễ, con cháu của A-rôn, phải dâng chúng trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 22 Vậy, họ giết các con bò đực, và các thầy tế lễ hứng lấy huyết rồi rảy huyết lên bàn thờ. Họ giết các con chiên đực rồi rảy huyết lên bàn thờ; và họ cũng giết các con chiên con, rồi rảy huyết lên bàn thờ.
\v 23 Họ đem các con dê đực dùng về của lễ chuộc tội đến trước mặt vua và hội chúng; họ đặt tay mình lên trên chúng.
\v 24 Các thầy tế lễ giết chúng, và họ làm thành của lễ chuộc tội với huyết của chúng rảy trên bàn thờ, đặng làm sự chuộc tội cho cả Y-sơ-ra-ên; vì vua có truyền rằng của lễ thiêu và của lễ chuộc tội phải dâng lên vì cả Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 25 Ê-xê-chia đặt người Lê-vi ở trong đền Đức Giê-hô-va cầm chập chỏa, đàn cầm, đàn sắt, sắp đặt họ theo mạng lịnh của Đa-vít, Gát, là đấng tiên kiến của vua, và của tiên tri Na-than; vì mạng lịnh do nơi Đức Giê-hô-va cậy các tiên tri Ngài mà dạy biểu.
\v 26 Các người Lê-vi đứng với các thứ nhạc cụ của Đa-vít, còn những thầy tế lễ đứng với những cây kèn.
\s5
\v 27 Ê-xê-chia truyền cho họ phải dâng của lễ thiêu trên bàn thờ. Khi của lễ thiêu bắt đầu, bài ca về Đức Giê-hô-va cũng khởi sự, với tiếng kèn cùng với các nhạc cụ Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên.
\v 28 Cả hội chúng đều thờ lạy, người ca hát đã cất tiếng hát, và kẻ thổi kèn đều thổi kèn; mọi sự nầy cứ tiếp tục cho đến khi của lễ thiêu được hoàn tất.
\s5
\v 29 Khi họ dâng các thứ của lễ xong, nhà vua và hết thảy những ai có mặt với người đều sấp mình xuống mà thờ lạy.
\v 30 Hơn nữa, vua Ê-xê-chia và các quan trưởng truyền cho người Lê-vi phải hát ngợi khen Đức Giê-hô-va bằng lời của Đa-vít và của A-sáp, là đấng tiên kiến. Họ cất tiếng hát ngợi khen cách vui mừng, rồi họ sấp mình xuống mà thờ lạy.
\s5
\v 31 Khi ấy, Ê-xê-chia nói: “Bây giờ, các ngươi đã biệt mình riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va. Hãy đến đây và đem các thứ của lễ và của lễ cảm tạ vào trong đền của Đức Giê-hô-va”. Hội chúng đem của lễ đến và của lễ cảm tạ; hết thảy những ai có tấm lòng sẵn sàng đều mang của lễ thiêu đến.
\s5
\v 32 Số của lễ thiêu mà hội chúng đem đến là bảy mươi con bò đực, một trăm con chiên đực, và hai trăm con chiên con. Hết thảy các con thú nầy đều dùng làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\v 33 Các con thú được dâng cho Đức Giê-hô-va là sáu trăm con bò đực và ba ngàn con chiên.
\s5
\v 34 Song thầy tế lễ chỉ có ít người không đủ lột da các con sinh dùng về của lễ thiêu, vì vậy anh em của họ, là người Lê-vi, đến phụ giúp họ cho đến khi xong công việc, và cho đến chừng những thầy tế lễ đã dâng mình cho Đức Giê-hô-va; vì người Lê-vi rất cẩn thận dâng mình hơn những thầy tế lễ.
\s5
\v 35 Thêm nữa, đã có nhiều của lễ thiêu; chúng được làm với mỡ của của lễ tương giao, và của lễ dùng làm thức uống cho từng của lễ thiêu. Vậy, sự thờ phượng trong đền Đức Giê-hô-va đã lập lại theo trình tự rồi.
\v 36 Ê-xê-chia và cả dân sự đều vui mừng vì cớ mọi điều Đức Chúa Trời đã sắm sửa cho dân sự; vì công việc đã được thực hiện cách mau mắn.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Ê-xê-chia sai sứ đến cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và cũng viết thơ cho người Ép-ra-im và người Ma-na-se, rằng họ phải đến đền của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, đặng giữ lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Vì nhà Vua, các quan trưởng cùng cả hội chúng ở Giê-ru-sa-lem đã bàn bạc với nhau, quyết định tổ chức lễ Vượt qua trong tháng thứ hai.
\v 3 Họ không thể tổ chức lễ trong lúc ấy, vì các thầy tế lễ chưa dọn mình cho Đức Giê-hô-va với số lượng đầy đủ, dân sự cũng chưa tập trung lại tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 4 Chương trình nầy đều đẹp mắt nhà vua và cả hội chúng.
\v 5 Vậy, họ lập một chiếu chỉ truyền khắp xứ Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Đan, đặng người ta đến tổ chức lễ Vượt qua của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tại Giê-ru-sa-lem. Thực vậy, họ đã không giữ lễ ấy với số lượng lớn lao như có chép.
\s5
\v 6 Vậy, các lính trạm đem thơ từ nhà vua và của các quan trưởng người đi khắp xứ Y-sơ-ra-ên và xứ Giu-đa, theo lịnh của nhà vua: Họ nói: “Hỡi dân sự Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác và của Y-sơ-ra-ên, hầu cho Ngài sẽ trở lại cùng dân sót lại trong các ngươi, là những người thoát khỏi tay các vua A-si-ri.
\s5
\v 7 Chớ nên giống như các tổ phụ hay anh em các ngươi, họ đã phạm tội nghịch cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, đến đỗi Ngài phó chúng vào sự huỷ diệt, như các ngươi đã thấy.
\v 8 Bây giờ, chớ cứng cổ nữa, như tổ phụ các ngươi; thay vì thế, hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va rồi vào trong nơi thánh của Ngài, mà Ngài đã biệt riêng ra thánh đời đời cho Đức Giê-hô-va, và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, hầu cho cơn giận phừng của Ngài xây khỏi các ngươi.
\v 9 Vì nếu các ngươi trở lại cùng Đức Giê-hô-va, thì anh em và con cái các ngươi sẽ tìm được ơn thương xót trước mặt những kẻ bắt họ đi làm phu tù, và họ sẽ được trở về trong xứ này. Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi có lòng nhân từ và hay thương xót, sẽ không xây mặt Ngài khỏi các ngươi, nếu các ngươi trở lại cùng Ngài”.
\s5
\v 10 Vậy, các lính trạm trải đi từ thành này qua thành kia, trong khắp xứ Ép-ra-im, Ma-na-xe, và cho đến đất Sa-bu-lôn; song người ta chê cười nhạo báng chúng.
\v 11 Dầu vậy, cũng có người trong A-se, Ma-na-se, và Sa-bu-lôn chịu hạ mình xuống, và đến Giê-ru-sa-lem.
\v 12 Tay của Đức Chúa Trời cũng giáng trên người Giu-đa, ban cho họ một lòng, làm theo mạng lịnh của vua và các quan trưởng, chiếu theo lời của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Nhiều người nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem, một hội chúng rất đông đảo, đặng giữ lễ bánh không men trong tháng thứ hai.
\v 14 Họ chổi dậy, cất hết các bàn thờ ở trong Giê-ru-sa-lem, và hết thảy các bàn thờ dùng đốt hương; họ quăng chúng vào khe Kít-rôn.
\v 15 Khi ấy, họ giết chiên con Lễ Vượt Qua nhằm ngày mười bốn tháng hai. Các thầy tế lễ và người Lê-vi, thì lấy làm hổ thẹn, rồi dâng mình cho Đức Giê-hô-va, rồi đem của lễ thiêu vào trong đền Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Họ đứng trong chỗ mình theo ban thứ của họ, theo hướng dẫn đã định trong luật pháp Môi-se, là người của Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ rải huyết mà họ nhận nơi tay các người Lê-vi.
\v 17 Vì có nhiều người trong hội chúng chưa dâng mình cho Đức Giê-hô-va, vì vậy người Lê-vi phải thực hiện việc giết chiên con Lễ Vượt Qua thế cho người nào chưa được sạch, để dâng chiên con cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Vì có nhiều người trong dân sự, phần nhiều trong số họ từ Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca, và Sa-bu-lôn, chưa dọn mình thanh sạch, tuy nhiên họ ăn tiệc Vượt qua, ngược lại với mọi huấn thị đã chép. Vì Ê-xê-chia đã cầu thay cho họ như sau: “Nguyện Đức Giê-hô-va nhân từ tha thứ cho họ
\v 19 là những người để lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, mặc dầu người chưa được sạch theo các tiêu chuẩn thanh sạch của nơi thánh”.
\v 20 Vậy, Đức Giê-hô-va lắng nghe theo Ê-xê-chia và chữa lành cho dân sự.
\s5
\v 21 Dân Y-sơ-ra-ên có mặt tại Giê-ru-sa-lem giữ lễ bánh không men trong bảy ngày với sự vui mừng rất lớn. Người Lê-vi và những thầy tế lễ hết ngày này sang ngày kia, ca hát lớn tiếng với các thứ nhạc cụ ngợi khen Đức Giê-hô-va.
\v 22 Ê-xê-chia nói khích lệ những người Lê-vi nào hiểu rõ sự thờ phượng Đức Giê-hô-va. Vậy, họ đã ăn lễ trong bảy ngày, dâng các thứ con sinh thuộc của lễ tương giao, và đưa ra lời xưng tội với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình.
\s5
\v 23 Cả hội chúng mới quyết định tổ chức thêm bảy ngày khác, rồi chúng vui vẻ giữ thêm bảy ngày nữa.
\v 24 Vì Ê-xê-chia, vua Giu-đa đã ban cho hội chúng một ngàn con bò đực và bảy ngàn con chiên làm của lễ; và các quan trưởng cũng ban cho hội chúng một ngàn con bò đực và mười ngàn con chiên và dê. Một số đông các thầy tế lễ đã dâng mình cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 25 Cả hội chúng Giu-đa, với những thầy tế lễ và người Lê-vi, và cả dân sự đến từ Y-sơ-ra-ên, cũng như những người ngoại nào đến từ xứ Y-sơ-ra-ên, và người nào sống trong xứ Giu-đa, — thảy đều vui mừng.
\v 26 Ấy vậy, có sự vui mừng rất lớn ở Giê-ru-sa-lem; vì từ thời Sa-lô-môn con trai Đa-vít, vua của Y-sơ-ra-ên, chẳng có sự gì như vậy tại thành Giê-ru-sa-lem.
\v 27 Khi ấy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, đứng dậy chúc phước cho dân sự. Tiếng của chúng được nhậm, và lời cầu nguyện của họ thấu lên trời, đến nơi thánh mà Đức Chúa Trời đang ngự.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Bấy giờ, khi các việc ấy đã xong, hết thảy dân sự Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó đi ra các thành Giu-đa và đập bể những trụ thờ, đánh đổ các trụ thờ thần A-sê-ra, phá dỡ những chùa miễu và các bàn thờ trong khắp đất Giu-đa, Bên-gia-min. Họ cũng làm như vậy ở Ép-ra-im, và Ma-na-se, cho đến khi đã phá hủy chúng hết thảy. Thế rồi, hết thảy dân Y-sơ-ra-ên trở về thành mình, mỗi người với sản nghiệp mình và với thành mình.
\s5
\v 2 Ê-xê-chia phân lại ban thứ của những thầy tế lễ và của người Lê-vi, tổ chức theo ban thứ của họ; mỗi người ấn định công việc của mình, cả hai: thầy tế lễ và người Lê-vi. Ông phân công cho họ lo thực hiện của lễ thiêu và của lễ tương giao, lo phụng sự, dâng lời cảm tạ, và ngợi khen Chúa tại nơi các cửa đền thờ của Đức Giê-hô-va.
\v 3 Người cũng định phần của vua về việc lấy trong tài sản mình đặng dùng làm của lễ thiêu, nghĩa là, về của lễ thiêu buổi mai và buổi chiều, và của lễ thiêu cho ngày Sa-bát, ngày trăng mới, và trong các ngày lễ lớn, như đã được chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Thêm nữa, người truyền cho những ai sống ở tại Giê-ru-sa-lem phải cung cấp phần của những thầy tế lễ và người Lê-vi, hầu cho họ sẽ tập trung vào việc tuân theo luật pháp của Đức Giê-hô-va.
\v 5 Khi mạng lịnh của vua đã truyền ra, dân Y-sơ-ra-ên đem đến rất nhiều hoa quả đầu mùa về ngũ cốc, rượu mới, dầu, mật ong, và những thổ sản khác; và họ cũng đem đến phần mười của mọi vật với sự dư dật.
\s5
\v 6 Dân Y-sơ-ra-ên và người Giu-đa sống trong các thành xứ Giu-đa cũng đem đến phần mười về bò và chiên, cùng phần mười về các vật đã biệt riêng ra thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ, rồi chất chúng thành từng đống.
\v 7 Họ chất thành từng đống, từ tháng ba và đến tháng bảy mới xong.
\v 8 Khi Ê-xê-chia và các quan trưởng đến thì thấy các đống ấy, họ ngợi khen Đức Giê-hô-va, và chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.
\s5
\v 9 Khi ấy, Ê-xê-chia hỏi thăm những thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống ấy.
\v 10 A-xa-ria, thầy tế lễ cả thuộc về dòng Xa-đốc, đáp lại cùng người như sau: “Từ khi dân sự khởi đem lễ vật vào trong đền Đức Giê-hô-va, thì chúng tôi có ăn được đầy đủ, và còn dư lại nhiều, vì Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho dân sự Ngài. Còn số nhiều này, ấy là phần dư lại”.
\v 11 Thế rồi Ê-xê-chia truyền dọn dẹp các phòng trong đền Đức Giê-hô-va, và họ liền dọn dẹp.
\v 12 Khi ấy, họ trung tín đem vào các lễ vật, thuế một phần mười và những thứ thuộc về Đức Giê-hô-va. Cô-na-nia, người Lê-vi, là quyền quản lý những vật ấy, và Si-mê-i, em người, làm phó.
\v 13 Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-sa-ên, Giê-ri-mốt, Giô-sa-bát, Ê-li-ên, Gít-ma-kia, Ma-hát, và Bê-na-gia, đều là quản lý dưới quyền Cô-na-nia và Si-mê-i, em người, cứ theo sự ấn định của vua Ê-xê-chia, và A-xa-ria, là người chịu trách nhiệm về đền Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Cô-rê con trai của Dim-na, người Lê-vi, là kẻ giữ cửa phía đông, cai quản các lễ vật lạc ý dâng cho Đức Chúa Trời, lo phân phát các của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va và những của lễ nào đem dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 15 Dưới quyền người là Ê-đen, Min-gia-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ria, và Sê-ca-nia, ở trong các thành thầy tế lễ. Họ có chức sắc đáng tin cậy, lo phân phát các lễ vật ấy cho anh em mình, từng ban thứ một, dù quan trọng hay không quan trọng.
\s5
\v 16 Họ cũng ban cho những người nam từ ba tuổi sắp lên, chúng được tính theo các bản gia phổ — mọi người đã bước vào đền Đức Giê-hô-va, như bó buộc theo kế hoạch hàng ngày đặng phụng sự trong chức mình, làm việc ngày nào theo ngày nấy;
\s5
\v 17 Họ phân phát cho những người được tính trong các bản gia phổ theo các tổ phụ họ, và cho người Lê-vi từ hai mươi tuổi sắp lên, tùy theo chức phận và ban thứ của họ.
\v 18 Họ cũng phân phát cho những người — được tính theo bản gia phổ — hết thảy con nhỏ, vợ, con trai và con gái của họ, tức cả hội chúng dân sự — vì họ dâng mình cho Đức Giê-hô-va để được nên thánh theo địa vị đáng tin cậy của họ.
\v 19 Còn về những thầy tế lễ, con cháu A-rôn, những người sống trong đồng ruộng của các làng mạc thuộc các thành của họ, hoặc trong mỗi thành, đã có những người được phân công đích danh, đặng giao chức phận cho hết thảy những người nam giữa vòng các thầy tế lễ, và cho hết thảy những người được tính đến trong các bản gia phổ sống giữa vòng người Lê-vi.
\s5
\v 20 Ê-xê-chia làm như vậy trong khắp Giu-đa. Người làm những điều lành, ngay thẳng và trung tín trước mặt Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của người.
\v 21 Người khởi sự từng dự án trong sự thờ phượng của đền Đức Chúa Trời, luật pháp hay là điều răn đặng tìm kiếm Đức Chúa Trời, thì người hết lòng mà làm, và được thành công.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Sau các việc này và những hành động thành tín này, thì San-chê-ríp, vua A-si-ri, tới đến rồi vào trong xứ Giu-đa; ông ta đóng trại tấn công các thành có phòng thủ, làm vậy ông ta dự tính chiếm lấy cho mình.
\s5
\v 2 Khi Ê-xê-chia thấy San-chê-ríp đã đến và ông ta dự tính giao chiến với Giê-ru-sa-lem,
\v 3 thì người bàn bạc với các quan trưởng và những người mạnh dạn đặng ngăn nước suối ở ngoài thành; họ bèn giúp đỡ người làm công việc nầy.
\v 4 Vậy, có nhiều người nhóm lại và chận các suối và các khe chảy ở giữa xứ. Họ nói: “Sao vua A-si-ri dám đến mà thấy có nước nhiều?”
\s5
\v 5 Ê-xê-chia được lòng dạn dĩ và xây đắp các tường thành đã bị hư lủng; người xây nó lên đến tận tháp, rồi cũng xây một cái vách khác ở phía ngoài. Người làm cho cho thành Mi-lô thật kiên cố trong thành Đa-vít, và chế tạo nhiều thứ vũ khí cùng khiên.
\s5
\v 6 Người lập những cấp chỉ huy quân đội trên dân sự. Người tập trung họ lại với người ở chỗ rộng rãi tại cổng thành, rồi dùng lời khích lệ họ. Người nói:
\v 7 Khá vững lòng bền chí. Chớ sợ, chớ ngã lòng vì vua A-si-ri và đám quân đông đảo theo hắn; vì có một Đấng ở cùng chúng ta lớn hơn những kẻ ở với hắn.
\v 8 Với hắn chỉ là một cánh tay xác thịt, nhưng với chúng ta có Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, vùa giúp chúng ta, và đánh trận thay cho chúng ta. Khi ấy, dân sự tự yên ủi mình với lời lẽ của Ê-xê-chia, vua Giu-đa.
\s5
\v 9 Sau điều nầy, San-chê-ríp, vua A-si-ri, sai tôi tớ hắn đến tại Giê-ru-sa-lem (bấy giờ hắn còn ở trước thành La-ki cùng với cả đạo binh của hắn) đến cùng Ê-xê-chia và với cả dân Giu-đa. Hắn nói:
\v 10 Đây là San-chê-ríp, vua A-si-ri, nói như vầy: Các ngươi nương cậy vào điều gì, mà chịu bị vây trong thành Giê-ru-sa-lem như thế chứ?
\s5
\v 11 Há chẳng phải Ê-xê-chia nói khoác với các ngươi, rằng hắn có thể chu cấp cho các ngươi đến chết do đói khát, khi hắn nói với các ngươi: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-si-ri” sao?
\v 12 Há cũng chính Ê-xê-chia này đã phá dỡ các chùa miễu và các bàn thờ của Ngài, rồi truyền cho dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi khá thờ lạy trước một bàn thờ, và chỉ xông hương các của lễ tại trên đó mà thôi sao?”
\s5
\v 13 Có phải các ngươi không biết điều ta và tổ phụ ta đã làm cho các dân thuộc những xứ khác sao? Có phải các thần của những dân tộc trong các xứ có quyền giải cứu xứ chúng nó được khỏi tay ta ư?
\v 14 Giữa vòng các thần của những dân tộc mà tổ phụ ta đã diệt hết đi, có thần nào giải cứu dân mình cho khỏi tay ta chăng? Sao Đức Chúa Trời của các ngươi có khả năng giải cứu các ngươi tránh khỏi quyền lực của ta được chứ!
\v 15 Vậy bây giờ, đừng để cho Ê-xê-chia phỉnh gạt hay khuyên dụ các ngươi như thế. Đừng tin theo hắn, vì chẳng có thần nào của bất kỳ dân nào nước nào có khả năng giải cứu dân mình tránh khỏi tay ta hay là khỏi tay các tổ phụ ta. Huống hồ chi Đức Chúa Trời của các ngươi giải cứu các ngươi khỏi tay ta?”
\s5
\v 16 Các tôi tớ San-chê-ríp đã nói nghịch cùng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và nghịch cùng Ê-xê-chia, là tôi tớ Ngài.
\v 17 San-chê-ríp cũng viết thơ sỉ nhục Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và nói nghịch cùng Ngài. Hắn nói: “Khi các thần linh của các dân tộc của các xứ chẳng giải cứu dân mình khỏi tay ta thế nào, thì Đức Chúa Trời của Ê-xê-chia sẽ chẳng cứu được dân sự hắn khỏi tay ta thế ấy”.
\s5
\v 18 Chúng la lớn lên, chúng nói bằng tiếng Giu-đa cho dân Giê-ru-sa-lem đang đứng trên vách thành, đặng làm cho chúng sợ hoảng, hầu cho chúng chiếm lấy thành.
\v 19 Chúng nói Đức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem giống như chúng đã nói về các thần của những dân khác trên đất, đều là công việc của tay người ta làm ra.
\s5
\v 20 Vua Ê-xê-chia, và tiên tri Ê-sai con trai A-mốt, cầu nguyện vì cớ vấn đề này, và kêu la thấu đến trời.
\v 21 Đức Giê-hô-va sai một thiên sứ, là đấng tiêu diệt những chiến binh, các quan trưởng và các quan tướng của nhà vua trong trại quân A-si-ri. Vậy, hắn trở về trong xứ mình với bộ mặt xấu hổ. Rồi khi người vào trong miễu thần của mình, có một số con cái hắn lấy gươm giết hắn tại đó.
\s5
\v 22 Với cách thức nầy, Đức Giê-hô-va giải cứu Ê-xê-chia và dân cư thành Giê-ru-sa-lem khỏi tay San-chê-ríp, vua xứ A-si-ri, và khỏi tay mọi người khác, cùng phù hộ cho chúng bốn phía.
\v 23 Có nhiều người đem lễ vật đến dâng cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, và những vật quí báu cho Ê-xê-chia, vua xứ Giu-đa; nên từ khi ấy về sau, người được tôn cao trước mặt các nước.
\s5
\v 24 Trong thời ấy, Ê-xê-chia bị đau hòng chết. Ông cầu xin Đức Giê-hô-va, Ngài phán cùng người, và ban cho người một dấu cho biết rằng ông sẽ được lành.
\v 25 Nhưng Ê-xê-chia chẳng báo đáp lại Đức Giê-hô-va vì sự cứu giúp đã ban cho người, vì lòng người tự cao. Vì thế cơn thạnh nộ giáng trên người, cùng trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 26 Tuy nhiên, sau đó Ê-xê-chia hạ mình xuống vì sự tự cao trong lòng người, cả hai: người và dân cư Giê-ru-sa-lem cũng vậy, nên trong đời Ê-xê-chia, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va không giáng trên chúng.
\s5
\v 27 Ê-xê-chia được rất giàu và nhiều vinh dự. Người tự cất những kho để trữ bạc, vàng, đá quí, và thuốc thơm, cũng như kho dành cho khiên, và đủ loại đồ vật có giá trị.
\v 28 Người cũng có những nhà kho đặng chứa ngũ cốc, rượu mới, và dầu; những chuồng để nhốt đủ loại thú vật; người cũng có nhiều bầy trong các đồn điền nữa.
\v 29 Thêm nữa, người cũng lo liệu cho mình với các thành, và của cải gồm nhiều bầy chiên và bò, vì Đức Chúa Trời đã ban cho người rất nhiều của cải.
\s5
\v 30 Chính Ê-xê-chia này là người lo lấp nguồn trên của nước sông Ghi-hôn, rồi dẫn nó chảy ngầm dưới đất qua phía tây của thành Đa-vít. Ê-xê-chia được thành công trong mọi dự án của người.
\v 31 Tuy nhiên, trong vấn đề các sứ giả của vua Ba-by-lôn sai đến người đặng hỏi thăm những ai biết rõ về các dấu lạ đã xảy ra trong xứ, thì Đức Chúa Trời tạm lìa khỏi người, đặng thử người, để cho biết mọi sự có ở trong lòng người.
\s5
\v 32 Mọi vấn đề khác có liên quan đến Ê-xê-chia, bao gồm mọi hành động trung thành với giao ước, đều được ghi chép trong sách khải thị của tiên tri Ê-sai con trai của A-mốt, và trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
\v 33 Ê-xê-chia ngủ với các tổ phụ mình, người ta chôn người trong vùng cao có lăng tẩm của dòng dõi Đa-vít. Cả Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem đều tôn kính người khi người qua đời. Ma-na-se con trai người lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Ma-na-se được mười hai tuổi khi người khởi trị vì; người cai trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, theo những sự gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Người cất lại các chùa miễu mà Ê-xê-chia, cha người, đã phá dỡ, và người dựng lên các bàn thờ cho thần Ba-anh, làm các trụ tượng A-sê-ra, và sấp mình xuống trong các ngôi sao trên trời, và thờ lạy chúng.
\s5
\v 4 Ma-na-se xây những bàn thờ tà giáo tại trong đền Đức Giê-hô-va, mặc dù Đức Giê-hô-va đã truyền rằng: “Danh ta sẽ ngự nơi Giê-ru-sa-lem cho đến đời đời”.
\v 5 Người cũng xây những bàn thờ cho các ngôi sao trên trời tại trong hai hành lang của đền Đức Giê-hô-va.
\v 6 Người đã dâng con cái mình qua lửa làm của lễ thiêu tại trong trũng Bên Hin-nôm; người xem bói và ếm chú, dùng pháp thuật, trao đổi với kẻ chết và giao du với những kẻ trao đổi với linh hồn. Người làm điều ác thái quá tại trước mặt Đức Giê-hô-va, và người chọc giận Ngài.
\s5
\v 7 Hình chạm A-sê-ra mà người đã làm, người đem đặt nó vào trong đền của Đức Chúa Trời. Về đền ấy Đức Chúa Trời đã phán với Đa-vít và Sa-lô-môn con trai người; Ngài phán như sau: “Chính trong đền này và tại Giê-ru-sa-lem, là thành ta đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đặt danh ta cho đến đời đời.
\v 8 Ta sẽ không dời người Y-sơ-ra-ên nào nữa ra khỏi xứ mà ta đã ban cho các tổ phụ họ, nếu họ chỉ cẩn thận gìn giữ mọi điều mà ta đã truyền cho họ, làm theo các luật pháp, điều răn, và mạng lịnh, mà ta đã ban cho họ qua Môi-se”.
\v 9 Ma-na-se quyến dụ Giu-đa và dân sự Giê-ru-sa-lem làm điều ác còn nhiều hơn các dân mà Đức Giê-hô-va đã hủy diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán cùng Ma-na-se, và với dân sự người; song chúng chẳng chú ý đến.
\v 11 Vì cớ ấy, Đức Giê-hô-va khiến các quan tướng đạo binh của vua A-si-ri đến hãm đánh chúng; họ bắt đóng cùm Ma-na-se, xiềng người lại, rồi dẫn về Ba-by-lôn.
\s5
\v 12 Khi Ma-na-se ở trong chỗ khổ nạn, người cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời, rồi và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của các tổ phụ người.
\v 13 Người cầu xin Ngài; và người nài xin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời lắng nghe lời nài xin của người rồi đưa người về Giê-ru-sa-lem, trong địa vị vua của người. Khi ấy Ma-na-se nhìn biết Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Sau việc nầy, người xây vách ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn trong đồng bằng, đến lối vào Cửa Cá. Người xây tường quanh Ô-phên, xây tường rất cao. Người đặt những quan tướng can đảm trong các thành có phòng thủ xứ Giu-đa.
\v 15 Người dẹp bỏ các thần ngoại bang, hình tượng ra khỏi đền của Đức Giê-hô-va, và tất cả các ngôi sao mà người đã dựng lên trên núi của đền Đức Giê-hô-va và tại Giê-ru-sa-lem, rồi quăng chúng ra ngoài thành.
\s5
\v 16 Người xây dựng lại bàn thờ của Đức Giê-hô-va rồi dâng trên đó các của lễ tương giao và của lễ cảm tạ; người truyền cho dân Giu-đa phải phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 17 Dầu vậy, dân sự vẫn còn dâng tế lễ ở các chùa miễu, song chỉ dâng tế lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình mà thôi.
\s5
\v 18 Các vấn đề khác liên quan đến Ma-na-se, lời người cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời người, và lời lẽ của đấng tiên kiến nói cùng người trong danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, kìa, thảy đều đã chép giữa vòng các việc làm của các vua Y-sơ-ra-ên.
\v 19 Lời cầu nguyện của người, và người nài xin Đức Chúa Trời làm sao, mọi tội lỗi và các quá phạm của người, và những chỗ người xây dựng các chùa miễu và dựng lên các trụ A-sê-ra và tượng chạm, trước khi người hạ mình xuống — chúng đều được chép trong Sử ký của các Đấng Tiên kiến.
\v 20 Vậy, Ma-na-xe ngủ với các tổ phụ mình, và họ chôn người trong chính cung điện người. A-môn con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\v 21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi người khởi trị vì; người trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 22 Người làm điều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va y như Ma-na-se, cha người, đã làm. A-môn dâng tế lễ cho các tượng chạm mà Ma-na-se, cha người, đã làm, và người thờ lạy chúng.
\v 23 Người không hạ mình xuống trước mặt Đức Giê-hô-va như Ma-na-se, cha người đã làm. Thay vì thế, chính A-môn nầy càng thêm phạm tội.
\s5
\v 24 Các tôi tớ người mưu phản và giết người tại trong cung điện người.
\v 25 Nhưng dân trong xứ đã giết các kẻ đã mưu phản nghịch cùng vua A-môn, và họ lập Giô-si-a, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Giô-si-a được tám tuổi khi người khởi trị vì; người cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, và đi theo con đường của Đa-vít, tổ phụ người, và không xây về qua phải hay qua trái.
\v 3 Năm thứ tám đời người trị vì, khi người hãy còn trẻ tuổi, thì người khởi tìm kiếm Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ người. Năm thứ mười hai, người khởi dọn sạch các chùa miễu khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các trụ thờ A-sê-ra, các tượng chạm và tượng đúc.
\s5
\v 4 Dân sự phá dỡ các bàn thờ Ba-anh trong sự hiện diện của người; người đập phá các bàn thờ xông hương. Người đập bỏ các trụ thờ A-sê-ra, tượng chạm và tượng đúc, nghiền nát nó ra cho tới khi thành bụi. Người rải bụi ấy trên mồ mả của những kẻ đã dâng tế lễ cho nó.
\v 5 Người cũng thiêu hài cốt của những thầy tế lễ tại trên bàn thờ các thần ấy. Bằng cách nầy, người dọn sạch Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 6 Người làm y như thế trong các thành của Ma-na-se, của Ép-ra-im, và của Si-mê-ôn, suốt con đường đến Nép-ta-li, trong các đống đổ nát chung quanh họ.
\v 7 Người phá dỡ các bàn thờ và nghiền nát ra bụi các trụ thờ A-sê-ra, đập bỏ các bàn thờ xông hương trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên; rồi người trở về Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 8 Bấy giờ, năm thứ mười tám đời người trị vì, sau khi Giô-sia đã dọn sạch xứ và đền thờ rồi, người sai Sa-phan, con trai A-sa-lia, Ma-a-xê-gia, quan tổng trấn thành, và Giô-a, con trai Giô-a-cha, quan thái sử, lo tu sửa đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời người.
\v 9 Họ đến gặp Hinh-kia, thầy tế lễ thượng phẩm, giao cho người tiền bạc đã đem vào đền Đức Chúa Trời, mà người Lê-vi, những kẻ giữ cửa, đã thâu lấy từ Ma-na-se và Ép-ra-im, từ hết thảy dân sót của Y-sơ-ra-ên, từ khắp xứ Giu-đa và Bên-gia-min và những dân cư thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 10 Họ giao bạc ấy cho những người coi sóc công việc của đền Đức Giê-hô-va. Những người nầy chi trả công cán cho thầy thợ, những người làm công việc tu bổ và sửa sang đền thờ.
\v 11 Họ trả công cho thợ mộc, thợ xây, mua đá đẽo, và cây gỗ để ráp nối, và làm đòn tay cho các cấu trúc mà các vua Giu-đa đã phá hủy.
\s5
\v 12 Các thợ ấy đều làm công việc cách thành tâm. Những viên quản đốc các thợ ấy là Gia-hát và Ô-ba-đia, người Lê-vi thuộc về dòng Mê-ra-ri; và Xa-cha-ri và Mê-su-lam từ các con trai của Kê-hát. Những người Lê-vi khác, hết thảy họ đều là những nhạc sĩ có tài, điều hành tốt về thầy thợ.
\v 13 Những người Lê-vi nầy cũng lo đốc thúc kẻ khiêng gánh vật liệu xây dựng và coi sóc những người làm đủ mọi thứ công việc. Cũng có người Lê-vi là quan ký lục, nhân viên quản lý cùng những người gát cửa.
\s5
\v 14 Khi họ đem bạc đã được đem vào đền Đức Giê-hô-va ra, thì Hinh-kia, thầy tế lễ, tìm được Quyển Sách luật pháp của Đức Giê-hô-va truyền lại qua Môi-se.
\v 15 Hinh-kia nói với thơ ký Sa-phan rằng: “Ta đã tìm được Quyển Sách Luật Pháp ở trong đền của Đức Giê-hô-va”. Hinh-kia giao sách ấy cho Sa-phan.
\v 16 Sa-phan đem sách đó cho nhà vua, rồi người cũng tâu với vua rằng: “Các tôi tớ ông đã làm mọi việc đã giao phó cho họ”.
\s5
\v 17 Họ chi hết tiền bạc tìm được trong đền Đức Giê-hô-va ra, và họ đã giao số tiền ấy nơi tay các đốc công và các thầy thợ.
\v 18 Thơ ký Sa-phan lại nói cho vua biết rằng: “Thầy tế lễ Hinh-kia có trao cho tôi một quyển sách”. Thế rồi Sa-phan đọc sách ấy tại trước mặt vua.
\v 19 Khi nhà vua đã nghe các lời luật pháp rồi, người xé áo mình.
\s5
\v 20 Vua truyền lịnh cho Hinh-kia, A-hi-cam con trai của Sa-phan, Áp-đôn con trai của Mi-ca, Sa-phan, thơ ký, và A-sa-gia, tôi tớ riêng của vua, như sau:
\v 21 Hãy đi và cầu xin Đức Giê-hô-va thay cho ta, vì những người còn ở lại trong Y-sơ-ra-ên và trong Giu-đa, vì cớ lời lẽ của quyển sách mới được tìm thấy. Vì điều nầy là quan trọng, cơn giận của Đức Giê-hô-va đã giáng trên chúng ta. Điều nầy là quan trọng, bởi các tổ phụ ta không nghe theo lời lẽ của quyển sách nầy, và để vâng theo mọi điều đã được chép trong đó.
\s5
\v 22 Vậy, Hinh-kia và các kẻ vua đã truyền, họ đến gặp Hun-đa, nữ tiên tri, vợ của Sa-lum, là người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu Hát-ra, (bà sống tại Giê-ru-sa-lem trong quận thứ nhì), và họ nói với bà theo cách nầy:
\s5
\v 23 Bà nói với họ rằng: “Đây là điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: “Hãy nói cùng người đã sai các ngươi đến cùng ta,
\v 24 Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: Hãy xem, ta sẽ giáng tai vạ trên chỗ này và trên cư dân của nó, mọi sự rủa sả đã chép trong quyển sách mà họ đã đọc trước mặt vua Giu-đa.
\v 25 Bởi vì họ đã lìa bỏ ta và xông hương cho các thần khác, hầu cho họ chọc giận ta với mọi việc làm mà họ đã phạm; — vì cơn giận ta sẽ đổ ra tại chỗ này, và cơn giận ấy sẽ không tắt ngúm đi”.
\s5
\v 26 Nhưng đối với vua Giu-đa, là người đã sai các ngươi đi tìm biết ý muốn của Đức Giê-hô-va, đây là điều mà các ngươi sẽ trình với người: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: về các lời ngươi đã nghe:
\v 27 vì lòng ngươi mềm mại, và ngươi hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời khi ngươi nghe lời ta nghịch cùng chỗ nầy và cư dân nó, và vì ngươi tự hạ mình xuống trước mặt ta, xé áo ngươi, khóc lóc trước mặt ta, ta cũng đã lắng nghe ngươi — đây là lời công bố của Đức Giê-hô-va.
\v 28 Hãy xem, ta sẽ thâu ngươi về cùng các tổ phụ ngươi, ngươi sẽ được vào trong mồ mả ngươi bình an, mắt ngươi sẽ không nhìn bất kỳ tai vạ nào ta sẽ giáng xuống chỗ nầy cùng các cư dân nó”. Vậy, những người ấy đem sứ điệp nầy trình lại với nhà vua.
\s5
\v 29 Thế là nhà vua sai các sứ giả đi lo tập trung hết các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lại.
\v 30 Khi ấy, nhà vua đi lên đền Đức Giê-hô-va, và hết thảy người Giu-đa cùng dân cư Giê-ru-sa-lem, và những thầy tế lễ, người Lê-vi, và cả dân sự, từ nhỏ đến lớn đều đi theo. Khi ấy người đọc cho chúng nghe mọi lời lẽ trong Sách Giao Ước đã tìm được trong đền của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Nhà vua đứng tại chỗ mình rồi lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, ăn ở theo Đức Giê-hô-va, và hết lòng hết linh hồn giữ theo các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, vâng theo lời lẽ của giao ước đã chép trong sách ấy.
\v 32 Người cũng khiến mọi người gặp được trong Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min được vững vàng theo giao ước ấy. Dân cư Giê-ru-sa-lem đã hành động trong sự vâng phục đối với giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ.
\s5
\v 33 Giô-si-a cất bỏ mọi thứ gớm ghiếc khỏi các xứ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên. Và người buộc hết thảy những người ở xứ Y-sơ-ra-ên phải thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời Giô-si-a, họ không xây trở đối với việc bước theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Giô-si-a giữ lễ Vượt Qua cho Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem; họ giết chiên con về lễ Vượt Qua nhằm ngày thứ mười bốn của tháng thứ nhứt.
\v 2 Người đặt các thầy tế lễ theo địa vị của họ và khuyên giục chúng trong sự thờ phượng của đền Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Người nói với những người Lê-vi dạy dỗ cả Y-sơ-ra-ên, những người đã dâng mình riêng cho Đức Giê-hô-va: “Hãy đặt hòm thánh trong đền mà Sa-lô-môn, con trai của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã xây cất. Chớ khiêng hòm ấy trên vai các ngươi nữa. Bây giờ, hãy thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi và phục vụ Y-sơ-ra-ên là dân sự của Ngài.
\v 4 Hãy sắp đặt theo danh tánh tổ phụ và ban thứ các ngươi, chiếu theo các huấn thị đã ghi chép của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, và các huấn thị của Sa-lô-môn, con trai người.
\s5
\v 5 Hãy đứng trong nơi thánh, theo địa vị và ban thứ trong nhà tổ phụ của anh em các ngươi, dòng dõi của dân sự, và ở đúng vị trí theo ban thứ tổ phụ các ngươi thuộc nhà của người Lê-vi.
\v 6 Hãy giết con sinh về lễ Vượt qua và dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Hãy nhận lấy chiên con vì anh em Y-sơ-ra-ên các ngươi; hãy làm thế trong sự vâng theo lời của Đức Giê-hô-va, đã được ban ra qua Môi-se.
\s5
\v 7 Giô-si-a cung ứng cho dân sự những súc vật nhỏ, số là ba mươi ngàn chiên con và dê con từ các bầy, dùng làm con sinh lễ Vượt Qua cho hết thảy những ai hiện diện tại đó. Người cũng cung ứng ba ngàn con bò đực; đây là những con thú bắt nơi tài sản của nhà vua.
\v 8 Các quan trưởng người cũng cung ứng một của lễ tự ý cho dân sự, các thầy tế lễ và người Lê-vi. Hinh-kia, Xa-cha-ri, và Giê-hi-ên, là những viên quản trị đền của Đức Chúa Trời, cung ứng cho những thầy tế lễ, 2. 600 gia súc nhỏ, và ba trăm con bò đực.
\v 9 Cô-na-nia, Sê-ma-gia, Na-tha-na-ên, và các anh em người, Ha-sa-bia, Giê-i-ên, và Giô-xa-bát, là các quan trưởng của người Lê-vi, cũng cung ứng cho người Lê-vi 5. 000 con sinh Lễ Vượt Qua, và năm trăm con bò đực.
\s5
\v 10 Vậy, sự thờ phượng đã được sắp đặt, và các thầy tế lễ đều đứng tại chỗ mình, với người Lê-vi theo ban thứ của họ, ứng với mạng lịnh của nhà vua.
\v 11 Họ giết con sinh về lễ Vượt Qua, và các thầy tế lễ rảy huyết mà họ đã nhận nơi tay người Lê-vi, còn người Lê-vi thì lo lột da con sinh.
\v 12 Họ dời đi các của lễ thiêu, để phân phát chúng cho họ theo ban thứ nhà các tổ phụ họ trong dân sự, để dâng họ cho Đức Giê-hô-va, như có chép trong Sách của Môi-se. Họ cũng làm y như vậy về các con bò đực.
\s5
\v 13 Họ nướng chiên con Lễ Vượt Qua theo các sự hướng dẫn. Còn các thứ của lễ khác, họ luộc chúng trong mấy cái nồi, cái vạc, và chảo, rồi mau mau đem phân phát cho hết thảy dân sự.
\v 14 Họ chuẩn bị các con sinh dành cho họ và cho các thầy tế lễ; vì những thầy tế lễ, là dòng dõi của A-rôn, họ mắc dâng của lễ thiêu và mỡ cho đến chiều tối, vậy người Lê-vi sắm sửa các con sinh dùng cho mình và cho những thầy tế lễ, là con cháu của A-rôn.
\s5
\v 15 Những người ca hát, là dòng dõi của A-sáp, đều ở tại chỗ mình, theo như Đa-vít sắp đặt, A-sáp, Hê-man, và Giê-đu-thun, đấng tiên kiến của vua đã định. Những người canh cửa đều đứng tại mỗi cổng; họ không cần rời khỏi trạm của mình, vì anh em của họ, là người Lê-vi, đã sắm sửa của lễ dùng cho họ.
\s5
\v 16 Vậy, vào thời điểm toàn bộ sự thờ phượng Đức Giê-hô-va đã được sắp đặt rồi để giữ lễ Vượt Qua và dâng những của lễ thiêu trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va, như vua Giô-si-a đã truyền.
\v 17 Những người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó đều giữ lễ Vượt qua trong lúc ấy, và rồi giữ lễ bánh không men trong bảy ngày.
\s5
\v 18 Một lễ Vượt Qua như vậy kể từ đời tiên tri Sa-mu-ên, trong Y-sơ-ra-ên, không được tổ chức giống như vậy; cũng chẳng có vua nào trong các vua Y-sơ-ra-ên tổ chức giữ lễ Vượt Qua giống như lễ Vượt qua mà Giô-si-a đã tổ chức cùng với những thầy tế lễ, người Lê-vi, cả dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó, và dân cư thành Giê-ru-sa-lem.
\v 19 Lễ Vượt Qua này được tổ chức nhằm năm thứ mười tám đời trị vì của Giô-si-a.
\s5
\v 20 Sau các việc ấy, khi Giô-si-a đã sửa sang đền thờ đâu đó rồi, Nê-cô, vua xứ Ai-cập, kéo lên giao chiến tại Cạt-kê-mít, trên bờ sông Ơ-phơ-rát, và Giô-si-a kéo ra đón giao chiến với hắn.
\v 21 Nhưng Nê-cô sai sứ đến nói với người rằng: “Hỡi vua Giu-đa, ta làm gì với ngươi chăng? Ngày nay ta chẳng đến giao chiến với ngươi đâu, nhưng giao chiến với nhà mà ta tuyên chiến. Đức Chúa Trời đã truyền cho ta phải vội vã, vậy, hãy thôi, chớ chống cự Đức Chúa Trời, là Đấng ở cùng ta, hoặc Ngài hủy diệt ngươi chăng?”
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Giô-si-a đã từ chối không chịu lui lại. Bản thân người giả vờ muốn giao chiến với hắn. Người chẳng chịu nghe lời của Đức Chúa Trời là ra từ miệng Nê-cô mà phán ra; vậy người ra giao chiến tại trũng Mê-ghi-đô.
\s5
\v 23 Các cung thủ bắn nhằm vua Giô-si-a, và vua nói với đầy tớ mình rằng: “Hãy đem ta khỏi đây; vì ta bị thương nặng”.
\v 24 Vậy, các tôi tớ người đem người xuống khỏi xe, để người trong một cái xe thứ nhì của người. Họ đem người về Giê-ru-sa-lem, người chết ở đó. Người được chôn tại trong nghĩa trang của các tổ phụ người. Hết thảy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều thương khóc người.
\s5
\v 25 Giê-rê-mi than khóc Giô-si-a; hết thảy các kẻ ca xướng, nam và nữ, than khóc về Giô-si-a cho đến ngày nay. Bài ca nầy trở thành thông lệ trong Y-sơ-ra-ên; kìa, các chuyện ấy đã chép trong sách ca thương.
\v 26 Các vấn đề khác liên quan đến Giô-si-a, và mọi việc lành người làm cứ theo điều đã chép trong sách luật pháp của Đức Giê-hô-va —
\v 27 và các việc làm của người, từ đầu đến cuối, đã ghi chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
\s5
\c 36
\p
\v 1 Khi ấy, dân sự của xứ lập Giô-a-cha con trai Giô-si-a, lên làm vua trong chỗ của cha người tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi người khởi trị vì, và người cai trị ba tháng tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Vua xứ Ai-cập truất ngôi người tại Giê-ru-sa-lem, rồi bắt vạ xứ một trăm ta lâng bạc và một ta lâng vàng.
\v 4 Đoạn, vua Ai-cập lập Ê-li-a-kim, em người, làm vua trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, rồi đổi tên người ra là Giê-hô-gia-kim. Khi ấy, Nê-cô bắt Giô-a-cha, anh của Giê-hô-gia-kim, đem người về xứ Ai-cập.
\s5
\v 5 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi người khởi trị vì, và người cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Người làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người.
\v 6 Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, giao chiến với người rồi xiềng người lại, và dẫn người qua Ba-by-lôn.
\v 7 Nê-bu-cát-nết-sa cũng đoạt lấy nhiều đồ vật trong đền Đức Giê-hô-va đem về Ba-by-lôn, rồi để vào trong cung điện người tại Ba-by-lôn.
\s5
\v 8 Các vấn đề khác liên quan đến Giê-hô-gia-kim, những sự gớm ghiếc người đã làm, và mọi sự tìm được nghịch cùng người, kìa, thảy đều chép trong Sách Các Vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Khi đó Giê-hô-gia-kin, con trai người, lên làm vua trong chỗ của người.
\s5
\v 9 Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi người khởi trị vì; người cai trị ba tháng mười ngày tại Giê-ru-sa-lem. Người làm điều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 10 Đến mùa xuân, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai quân đến bắt người dẫn về Ba-by-lôn, cùng chiếm lấy nhiều thứ có giá trị từ đền của Đức Giê-hô-va, rồi lập Sê-đê-kia, bà con người, lên làm vua Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 11 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi người khởi trị vì; người cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem.
\v 12 Người làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người. Người không hạ mình xuống trước mặt tiên tri Giê-rê-mi, là người vâng mạng Đức Giê-hô-va mà khuyên bảo người.
\s5
\v 13 Sê-đê-kia cũng nổi loạn nghịch cùng vua Nê-bu-cát-nết-sa, là kẻ đã buộc người thề bởi Đức Chúa Trời mà trung thành với hắn. Nhưng người lại cứng cổ rắn lòng không khứng trở về cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 14 Hơn nữa, các cấp lãnh đạo của dòng thầy tế lễ, và dân sự đều phạm tội nhiều, theo những sự gớm ghiếc của các dân tộc khác. Họ làm cho ô uế đền của Đức Giê-hô-va, là đền mà Ngài đã biệt riêng ra thánh cho chính mình Ngài tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, gửi lời cho họ qua các sứ giả thật nhiều lần, vì Ngài có lòng thương xót dân sự và nơi ngự của Ngài.
\v 16 Nhưng chúng báng bổ các sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh bỉ lời lẽ của Ngài, và chế nhạo các tiên tri của Ngài, cho đến đỗi cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên nghịch cùng dân sự Ngài, chẳng còn phương chữa được.
\s5
\v 17 Vì vậy, Đức Chúa Trời đã giáng trên họ vua dân Canh-đê, là người dùng gươm giết những trai trẻ của họ tại nơi thánh, và chẳng chút thương xót đến hoặc trai trẻ, hay nữ đồng trinh, người đứng tuổi, hay là kẻ bạc đầu. Đức Chúa Trời phó hết thảy họ vào tay của vua Canh-đê.
\s5
\v 18 Tất cả các đồ đạt trong đền của Đức Chúa Trời lớn và nhỏ, các nhà kho của đền Đức Giê-hô-va, những đồ quí giá của vua và của các quan trưởng người — thảy đều bị người đem qua Ba-by-lôn.
\v 19 Chúng đốt sập đền của Đức Chúa Trời, đánh hạ bức tường thành Giê-ru-sa-lem, đốt hết các cung điện, rồi hủy diệt mọi thứ tốt đẹp của nó.
\s5
\v 20 Nhà vua bắt đem qua xứ Ba-by-lôn những ai thoát khỏi gươm. Chúng làm tôi tớ cho người và cho các con trai người cho đến khi nước Ba-tư khởi trị vì.
\v 21 Điều nầy đã xảy ra làm ứng nghiệm lời của Đức Giê-hô-va bởi miệng của Giê-rê-mi, cho đến khi xứ được hưởng những ngày yên nghỉ Sa-bát của nó. Xứ tuân giữ ngày Sa-bát của nó đúng kỳ xứ bị bỏ hoang, cứ theo cách nầy cho đến khi mãn hạn bảy mươi năm.
\s5
\v 22 Năm thứ nhất đời Si-ru, vua xứ Ba-tư, có lời của Đức Giê-hô-va bởi miệng của Giê-rê-mi mà phán ra, Đức Giê-hô-va cảm động lòng Si-ru, vua xứ Ba-tư, ông ta công bố khắp nước mình, và cũng ra chiếu chỉ nữa. Ông ta nói:
\v 23 Si-ru, vua xứ Ba-tư, truyền như sau: Giê-hô-va Đức Chúa Trời trên trời, đã ban cho ta các nước thế gian. Ngài truyền cho ta phải xây cho Ngài một cái đền ở tại Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. Hễ ai trong các ngươi, từ dân sự của Ngài, nguyện người ấy trở về xứ; nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người ấy ở cùng người!”

531
15-EZR.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,531 @@
\id EZR
\ide UTF-8
\h E-XƠ-RA
\toc1 E-XƠ-RA
\toc2 E-XƠ-RA
\toc3 ezr
\mt E-XƠ-RA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Năm thứ nhất trong đời Si-ru, vua Ba-tư, Đức Giê-hô-va làm trọn lời Ngài phán qua Giê-rê-mi, và cảm động lòng Si-ru. Si-ru loan báo khắp vương quốc của ông. Này là lời được chép và được truyền:
\v 2 “Si-ru, vua Ba-tư, nói rằng: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các từng trời, đã ban cho ta các vương quốc trên thế gian và bảo ta xây cho Ngài một cái nhà tại Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đê.
\s5
\v 3 Ai trong các ngươi là dân của Ngài, nguyện Đức Chúa Trời của người ấy ở cùng các ngươi, để các ngươi lên Giê-ru-sa-lem và xây một cái nhà cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem.
\v 4 Dân từ bất kỳ nơi nào trong nước là những kẻ sống sót của xứ đó sẽ cung cấp cho họ bạc và vàng, tài sản và súc vật, cũng như của lễ lạc ý cho nhà Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\v 5 Sau đó, các trưởng tộc Giu-đa và Ben-gia-min, các thầy tế lễ và người Lê-vi, và những ai được thần của Đức Chúa Trời cảm động đều đứng dậy trở về xây một cái nhà cho Ngài.
\v 6 Những người láng giềng hỗ trợ họ bằng những vật dụng bằng bạc và vàng, của cải, thú vật, trang sức, và các của lễ lạc ý.
\s5
\v 7 Vua Si-ru cũng trả các vật dụng trong nhà Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi Giê-ru-sa-lem đặng để trong các miếu thờ các thần của mình.
\v 8 Si-ru trao cho thủ quỹ Mít-rê-đát, để đếm cho Sết-ba-xa, lãnh đạo của xứ Giu-đê.
\s5
\v 9 Đây là số đồ vật: Ba mươi chậu vàng, một ngàn chậu bạc, hai mươi chín chậu khác,
\v 10 ba mươi chén vàng, 410 chén bạc nhỏ, và một ngàn vật dụng khác.
\v 11 Tổng cộng là 5. 400 món bằng vàng và các vật dụng bằng bạc. Sê-ba-xa đem tất cả những thứ ấy theo khi đoàn dân lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đây là những người trong tỉnh trở về sau khi bị Vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt làm phu tù và lưu đày tại Ba-by-lôn, họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đê, ai nấy đều trở về thành mình.
\v 2 Họ đi cùng Xê-ru-ba-bên, Giô-suê, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-pa, Bích-vai, Rê-hum, và Ba-a-na. Đây là danh sách những người nam trong dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 3 Con cháu Pa-rốt: 2. 172 người.
\v 4 Con cháu Sê-pha-tia: 372 người.
\v 5 Con cháu A-rách: 775 người.
\v 6 Con cháu Pa-hát Mô-áp, tức con cháu của Giê-sua và Giô-áp: 2. 812 người.
\s5
\v 7 Con cháu Ê-lam: 1. 254 người.
\v 8 Con cháu Xát-tu: 945 người.
\v 9 Con cháu Xác-cai: 760 người.
\v 10 Con cháu Ba-ni: 642 người.
\s5
\v 11 Con cháu Bê-bai: 623 người.
\v 12 Con cháu A-xơ-gát: 1. 222 người.
\v 13 Con cháu A-đô-ni-cam: 666 người.
\v 14 Con cháu Bích-vai: 2. 056 người.
\s5
\v 15 Con cháu A-đin: 454 người.
\v 16 Con cháu A-te, tức con cháu của Ê-xê-chia: 98 người.
\v 17 Con cháu Bê-xai: 323 người.
\v 18 Con cháu Giô-ra: 112 người.
\s5
\v 19 Con cháu Ha-sum: 223 người.
\v 20 Con cháu Ghíp-ba: 95 người.
\v 21 Con cháu Bết-lê-hem: 123 người.
\v 22 Con cháu Nê-tô-pha: 56 người.
\s5
\v 23 Con cháu A-na-tốt: 128 người.
\v 24 Con cháu A-ma-vết: 42 người.
\v 25 Con cháu Ki-ri-át A-rim, Chê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người.
\v 26 Con cháu Ra-ma và Ghê-ba: 621 người
\s5
\v 27 Con cháu Mích-ma: 122 người.
\v 28 Con cháu Bê-tên và A-hi: 223 người.
\v 29 Con cháu Nê-bô: 52 người.
\v 30 Con cháu Mạt-bích: 156 người.
\s5
\v 31 Con cháu của Ê-lam khác: 1. 254 người.
\v 32 Con cháu Ha-rim: 320 người.
\v 33 Con cháu Lốt, Ha-đít, và Ô-nô: 725 người.
\s5
\v 34 Con cháu Giê-ri-cô: 345 người.
\v 35 Con cháu Sê-na-a: 3. 630 người.
\s5
\v 36 Các thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia thuộc nhà Giê-sua: 973 người.
\v 37 Con cháu Y-mê: 1. 052 người.
\v 38 Con cháu Pa-su-rơ: 1. 247 người.
\v 39 Con cháu Ha-rim: 1. 017 người.
\s5
\v 40 Người Lê-vi: con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên, con cháu Hô-đa-via: 74 người.
\v 41 Các ca sĩ trong đền thờ: Con cháu A-sáp: 128 người.
\v 42 Con cháu những người gác cổng: Con cháu Sa-lum, A-te, Tanh-môn, Ạc-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai: tổng cộng là 139 người.
\s5
\v 43 Những người phục vụ trong đền thờ: Con cháu Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt,
\v 44 Kê-rô, Si-a-ha, Pa-đôn,
\v 45 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Ạc-cúp,
\v 46 Ha-gáp, Sanh-mai, và Ha-nan;
\s5
\v 47 con cháu Ghít-đên, Ga-ha, Rê-a-gia,
\v 48 Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-zam,
\v 49 U-xa, Pa-sê-a, Bê-sai,
\v 50 Ách-na, Mê-u-nim, và Nê-phi-sim;
\s5
\v 51 con cháu Bác-búc, Ha-cu-pha, Ha-hu-rơ,
\v 52 Ba-xơ-lút, Mê-hi-đa, Ha-sa,
\v 53 Bạc-cô, Si-sê-ra, Tê-ma,
\v 54 Nê-xi-a, và Ha-ti-pha.
\s5
\v 55 Con cháu các tôi tớ của Sa-lô-môn: Con cháu Sô-tai, Ha-sô-phê-rết, Phê-ru-đa,
\v 56 Gia-a-la, Đác-côn, Ghít-đên,
\v 57 Sê-pha-tia, Hát-tin, Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và A-mi.
\v 58 Có tổng cộng 392 con cháu của những người phục vụ đền thờ và con cháu các tôi tớ của Sa-lô-môn.
\s5
\v 59 Những người rời khỏi Tên Mê-la, Tên Cha-sa, Kê-rúp, At-đan, và Y-mê nhưng không thể chứng minh tổ phụ mình là người Y-sơ-ra-ên bao gồm
\v 60 652 con cháu Đê-la-gia, Tô-bi-a, và Nê-cô-đa.
\s5
\v 61 Về con cháu các thầy tế lễ: Con cháu Ha-ba-gia, Hạc-cô, và Ba-xi-lai (ông đã cưới vợ là con gái của Ba-xi-lai người Ga-la-át và đổi họ theo bên vợ.)
\v 62 Họ cố tra trìm gia phả của mình trong bảng gia phả nhưng không thể tìm được vì họ đã làm ô uế chức tế lễ của mình.
\v 63 Quan thống đốc bảo họ không được ăn bất cứ của lễ thánh nào cho đến khi có một thầy tế lễ dùng Urim và Thu-mim chấp thuận.
\s5
\v 64 Cả nhóm có tổng cộng 42. 360 người,
\v 65 không bao gồm các tôi trai tớ gái của họ (khoảng 7. 337) và các ca sĩ nam nữ trong đền thờ (hai trăm).
\s5
\v 66 Họ có 736 con ngựa, 245 con la,
\v 67 435 con lạc đà, và 6. 720 con lừa.
\s5
\v 68 Khi họ đến đền thờ Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng tộc tự nguyện dâng hiến lễ vật để xây đền thờ.
\v 69 Họ dâng tùy theo khả năng: 61. 000 đa-riếc vàng, 5. 000 mi-na bạc, và 100 bộ lễ phục tế lễ.
\s5
\v 70 Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi, dân sự, các ca sĩ trong đền thờ và người gác cổng, cùng những người phục vụ định cư trong các thành của họ. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều định cư trong thành mình.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Đến tháng bảy, sau khi dân Y-sơ-ra-ên trở về các thành mình, toàn dân nhóm họp như một người tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Giê-sua con Giô-xa-đác cùng các thầy tế lễ trong dòng họ, và Xê-ru-ba-bên con Sê-an-ti-ên, với các anh em ông đứng dậy xây cất bàn thờ cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để dâng của lễ thiêu theo luật pháp Môi-se, người của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Sau đó họ dựng bàn thờ trên vị trí cũ, vì họ sợ dân trong xứ. Họ dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va vào buổi sớm mai và chiều tối.
\v 4 Họ cũng giữ Lễ Lều tạm như đã chép, và dâng của lễ thiêu hàng ngày theo quy định, bổn phận hàng ngày.
\v 5 Do đó, có của lễ thiêu hàng ngày và hàng tháng, và những của lễ dành cho mọi kỳ lễ đã định của Đức Giê-hô-va, cùng với của lễ lạc ý.
\s5
\v 6 Họ bắt đầu dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va vào ngày mồng một tháng bảy, dù đền thờ chưa được xây.
\v 7 Vậy họ giao bạc cho thợ đá và thợ thủ công; thức ăn, thức uống, và dầu cho dân Si-đôn và Ty-rơ, để họ gửi gỗ tuyết tùng theo đường biển từ Li-băng đến Giốp-ba, như theo sắc lệnh của Si-ru vua Ba-tư.
\s5
\v 8 Tháng hai năm thứ hai, sau khi về đến nhà Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, Xê-ru-ba-bên, Giê-sua con Giô-xa-đác, những thầy tế lễ còn lại, người Lê-vi, và những người phu tù trở về Giê-ru-sa-lem bắt đầu công việc. Họ giao những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên coi sóc công việc trong nhà Đức Giê-hô-va.
\v 9 Giê-sua giao các con trai và anh em ông, Cạt-mi-ên và các con trai ông, cùng con cháu Giu-đa giám sát thợ thi công nhà Đức Chúa Trời. Cùng làm việc với họ là con cháu Hê-na-đát, bà con của họ, và những người Lê-vi trong dòng họ.
\s5
\v 10 Các thợ xây làm một cái nền cho đền thờ Đức Giê-hô-va. Cái nền này là chỗ các thầy tế lễ mặc áo đứng cầm kèn, người Lê-vi, con cháu A-sáp, cầm chập chỏa ngợi khen Đức Giê-hô-va, theo lệnh của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã truyền.
\v 11 Họ hát khen và cảm tạ Đức Giê-hô-va, “Ngài thật tốt lành! Sự thành tín của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên còn lại đời đời. ” Cả dân sự lớn tiếng vui mừng ngợi khen Đức Giê-hô-va vì nền đền thờ đã được xây xong.
\s5
\v 12 Nhưng nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, các tộc trưởng, và người già thì khóc lớn tiếng vì họ là người đã thấy đền thờ thứ nhất trên nền cũ. Trong khi nhiều người khác vui mừng reo lớn và phấn khởi.
\v 13 Vì vậy, dân sự không thể phân biệt được tiếng vui hay tiếng khóc của dân sự, vì người ta vui mừng reo lớn, và từ đàng xa có thể nghe tiếng ấy.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ, một số kẻ thù của người Giu-đa và Ben-gia-min hay rằng dân từng bị lưu đày hiện đang xây một cái nhà cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Vì vậy, họ đến gặp Xê-ru-ba-bên và các trưởng tộc. Họ nói, “Xin cho chúng tôi xây chung với các ông, vì chúng tôi cũng như các ông, chúng tôi tìm kiếm Đức Chúa Trời của các ông và đã dâng lễ vật cho Ngài từ thời Ê-sa-hát-đôn, vua A-sy-ri đem chúng tôi đến đây.”
\s5
\v 3 Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng tộc đáp, “Không phải các ông, mà là chúng tôi là những người phải xây nhà Đức Chúa Trời chúng tôi, vì chỉ riêng chúng tôi là người sẽ xây cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, theo lệnh của Si-ru, vua Ba-tư.”
\s5
\v 4 Vậy dân trong xứ khiến tay người Giu-đa trở nên yếu đuối; họ gây cho người Giu-đa sợ hãi không dám xây dựng.
\v 5 Chúng cũng hối lộ các cố vấn vô hiệu hóa kế hoạch của họ. Chúng tiến hành việc này trong suốt thời của Si-ru cho đến triều đại của Đa-ri-út vua Ba-tư.
\v 6 Sau đó, vào đầu kỳ cai trị của A-ha-suê-ru, chúng viết một bản cáo trạng về cư dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 7 Trong thời của A-ha-suê-ru, Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và các đồng sự của chúng viết thư gửi cho A-ha-suê-ru. Bức thư được viết bằng tiếng A-ram và được dịch.
\v 8 Quan chỉ huy Rê-hum và thầy thông giáo Sim-sai viết thư tố cáo Giê-ru-sa-lem cho Ạt-ta-xét-xe.
\s5
\v 9 Sau đó, Rê-hum, Sim-sai và các đồng sự là những thẩm phán và các quan chức khác trong chính phủ, từ Ê-rết, Ba-by-lôn, và Su-sa ở Ê-lam viết một bức thư
\v 10 và gồm những kẻ mà A-su-ba-ni-pan vĩ đại và lừng danh đã buộc phải định cư tại Sa-ma-ri, cùng với số người còn lại ở Tỉnh Bên kia Sông.
\s5
\v 11 Đây là bản sao của bức thư chúng gửi cho Ạt-ta-xét-xe: “Các tôi tớ của bệ hạ ở bên kia sông có lời tâu như sau:
\v 12 Chúng thần xin tâu bệ hạ rằng người Do Thái từ nơi bệ hạ đã đến nghịch lại chúng tôi ở Giê-ru-sa-lem đặng xây một cái thành phản loạn. Chúng đã xây xong vách thành và sửa xong nền móng.
\s5
\v 13 Xin tâu với bệ hạ rằng nếu thành này được xây và vách thành được hoàn tất, chúng sẽ không cống nạp và nộp thuế, chúng sẽ gây thiệt hại cho bệ hạ.
\s5
\v 14 Vì chúng thần đã ăn muối của cung điện, chúng thần không muốn thấy bệ hạ bị bất kính. Bởi đó chúng thần trình tâuđể bệ hạ
\v 15 tìm trong văn kiện của các tiên vương và thấy rằng đây là một thành phản loạn, thành ấy sẽ gây thiệt hại cho bệ hạ và các tỉnh. Nó đã gây nhiều rắc rối cho các vua và các tỉnh. Nó là trung tâm phản loạn từ xưa. Chính vì lý do này mà thành ấy đã bị hủy diệt.
\v 16 Chúng thần xin báo bệ hạ rằng nếu thành này và vách thành được xây xong, bệ hạ sẽ chẳng còn lại thứ gì bên kia sông lớn, là sông Ơ-phơ-rát.”
\s5
\v 17 Vậy vua trả lời Rê-hum và Sim-sai cùng các đồng bọn của chúng ở Sa-ma-ri và những người còn lại bên kia Sông: “Nguyện các ngươi được bình yên.
\v 18 Thư các ngươi gửi ta đã được dịch và đọc trước mặt ta.
\v 19 Ta đã ra lệnh điều tra và phát hiện rằng ngày trước, chúng đã nổi loạn và phản nghịch các vua.
\s5
\v 20 Các vua hùng mạnh đã cai trị Giê-ru-sa-lem và mọi thứ bên kia Sông. Chúng cống nạp và đóng thuế cho các vua ấy.
\v 21 Bây giờ, hãy ra lệnh những kẻ này ngưng việc xây thành này cho đến khi có lệnh của ta.
\v 22 Hãy cẩn thận chớ bỏ qua việc này. Tại sao cứ thêm thiệt hại cho các vua?”
\s5
\v 23 Khi sắc lệnh của Vua Ạt-ta-xét-xe được đọc trước mặt Rê-hum, Sim-sai và các đồng sự của chúng, chúng mau chóng đến Giê-ru-sa-lem và buộc người Do Thái đình chỉ việc xây dựng.
\v 24 Do đó, công tác xây nhà Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem bị đình trệ cho đến năm thứ hai đời Đa-ri-út vua Ba-tư.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Khi ấy, tiên tri A-ghê và tiên tri Xa-cha-ri con Y-đô nhân danh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà nói tiên tri cho người Do Thái tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-ti-ên, và Giê-sua con Giô-xa-đác đứng dậy và bắt đầu xây dựng nhà Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem cùng với các tiên tri là những người khuyến khích họ.
\s5
\v 3 Sau đó, quan thống đốc Tát-tê-nai của Tỉnh Bên kia Sông, Sê-tha Bô-xê-nai, và các đồng sự của chúng đến gặp họ, “Ai ra lệnh cho các ông xây cái đền và các vách thành này? ”
\v 4 Họ cũng hỏi, “Mấy người xây tòa nhà này tên gì? ”
\v 5 Nhưng mắt Đức Chúa Trời đoái trên các trưởng lão Do Thái, và kẻ thù của họ không ngăn họ được. Chúng đợi gửi thư cho vua để nhận được lệnh của vua về việc này.
\s5
\v 6 Đây là thư của Tát-tê-nai, Sê-tha Bô-xê-nai, và các quan chức của chúng gửi vua Đa-ri-út.
\v 7 Chúng viết một báo cáo gửi cho Vua Đa-ri-út, “Nguyện bệ hạ được bình an.
\s5
\v 8 Kính tâu bệ hạ là chúng thần đã đến Giu-đa, đến cái đền của Đức Chúa Trời vĩ đại. Đền ấy đang được xây bằng đá tảng và các cây xà được đặt trong vách thành. Công trình này đang được thực hiện hoàn hảo và sẽ tiến triển.
\v 9 Chúng thần đã hỏi các trưởng lão, Ai ra lệnh cho các ông xây cái nhà và các vách thành này?
\v 10 Chúng thần cũng hỏi tên của chúng để biết rõ ai là kẻ lãnh đạo.
\s5
\v 11 Chúng trả lời rằng, Chúng tôi là tôi tớ của Đức Chúa Trời, Chúa của trời và đất, chúng tôi đang xây lại nhà này, đây là công trình đã được xây cất bởi một vua Y-sơ-ra-ên vĩ đại nhiều năm trước.
\s5
\v 12 Tuy nhiên, khi tổ phụ chúng tôi chọc giận Chúa trên trời, Ngài đã phó họ vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, vua ấy đã hủy diệt nhà này và bắt dân lưu đày qua Ba-by-lôn.
\v 13 Tuy nhiên, vào năm thứ nhất trong thời Si-ru vua Ba-by-lôn, Si-ru đã ra chiếu chỉ xây lại nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Vua Si-ru cũng trả lại các đồ dùng bằng vàng và bạc của nhà Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem đem về đền thờ ở Ba-by-lôn. Ông trao lại cho Sết-ba-xa, là người được lập làm quan thống đốc.
\v 15 Vua bảo ông ấy, “Hãy lấy các vật dụng này đi vàđặt trong đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Hãy xây lại nhà của Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 16 Sau đó, Sết-ba-xa đến đặt nền cho nhà Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem; nhà ấy đang được xây cất nhưng chưa hoàn thành.
\s5
\v 17 Bây giờ nếu bệ hạ hài lòng, xin bệ hạ tra khảo các tài liệu trong văn khố ở Ba-by-lôn để xem có quyết định của Vua Si-ru cho phép xây nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem không. Sau đó bệ hạ có thể cho chúng thần biết quyết định.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Vậy Vua Đa-ri-út ra lệnh tra khảo trong kho văn khố ở Ba-by-lôn.
\v 2 Người ta tìm thấy một cuộn giấy trong thành lũy Éc-ba-ta-na ở xứ Mê-đi; đây là phần ghi chép trong cuộn giấy ấy:
\s5
\v 3 ”Năm thứ nhất thuộc triều đại Vua Si-ru, Si-ru ra sắc lệnh về nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem: Hãy xây một nơi dâng lễ vật. Nhà ấy có tường cao sáu mươi cu-bít và rộng ba mươi cu-bít,
\v 4 có ba hàng đá tảng và một hàng cây xà mới. Phí tổn do ngân khố triều đình chi trả.
\v 5 Ngoài ra, hãy trả lại các vật dùng bằng vàng và bạc trong nhà Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy ra khỏi đền thờ ở Giê-ru-sa-lem để trong đền ở Ba-by-lôn. Hãy đem về đền thờ ở Giê-ru-sa-lem và đặt trong nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 6 Bây giờ, hỡi Tát-tê-nai, Sê-tha Bô-xê-nai, và các quan chức của ở bên kia Sông, hãy tránh xa.
\v 7 Hãy để yên công tác xây nhà của Đức Chúa Trời. Quan thống đốc và các trưởng lão Do Thái sẽ xây nhà Đức Chúa Trời tại nơi đó.
\s5
\v 8 Ta ra lệnh cho các ngươi phải làm những việc sau đây cho các trưởng lão Do Thái là những người xây nhà của Đức Chúa Trời: Tiền do dân bên kia Sông cống nạp cho vua sẽ được dùng để thanh toán cho những người này để ông trình không bị đình trệ.
\v 9 Bất cứ món gì cần thiết bò đực con, chiên đực, hay chiên con dùng để làm của lễ thiêu cho Chúa trên Trời, lúa mì, muối, rượu, hoặc dầu theo yêu cầu của các thầy tế lễ tại Giê-ru-sa-lem hãy chu cấp cho họ mỗi ngày, chớ để thiếu.
\v 10 Hãy làm vậy để họ đem của lễ đến cho Chúa trên Trời và cầu nguyện cho ta, là vua, cùng các con trai ta.
\s5
\v 11 Ta ban lệnh rằng nếu ai vi phạm sắc lệnh này, hãy lấy một cây xà khỏi nhà hắn và đâm xiên qua hắn. Nhà của hắn sẽ trở thành đống rác rưởi vì cớ đó.
\v 12 Nguyện Đức Chúa Trời ngự tại đó lật đổ vua nào và dân nào xâm phạm nhà của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta, Đa-ri-út, ra lệnh này. Hãy thực thi!”
\s5
\v 13 Sau đó, Tát-tê-nai, Sê-tha Bô-xê-nai, và các đồng sự của chúng tuân lệnh Vua Đa-ri-út.
\v 14 Vậy các trưởng lão Do Thái xây dựng theo lời giảng dạy tiên tri của A-ghê và Xa-cha-ri. Họ xây theo lệnh của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và Si-ru, Đa-ri-út, và Ạt-ta-xét-xe vua Ba-tư.
\v 15 Nhà được xây xong vào ngày ba tháng A-đa, tức năm thứ sáu thuộc triều đại Vua Đa-ri-út.
\s5
\v 16 Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, người Lê-vi, và những phu tù còn lại vui mừng cung hiến nhà của Đức Chúa Trời.
\v 17 Họ dâng một trăm con bò đực, một trăm con chiên đực, và bốn trăm con chiên con để cung hiến nhà của Đức Chúa Trời. Mười hai con dê đực cũng được dâng làm của lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái ở Y-sơ-ra-ên là một con.
\v 18 Họ cũng chia việc phục vụ Đức Chúa Trời cho các thầy tế lễ và người Lê-vi tại Giê-ru-sa-lem, như đã chép trong Sách của Môi-se.
\s5
\v 19 Vậy những người từng bị lưu đày tổ chức Lễ Vượt qua vào ngày mười bốn tháng giêng.
\v 20 Các thầy tế lễ và người Lê-vi cũng tự dọn mình tinh sạch và giết các con sinh tế trong Lễ Vượt qua dành cho tất cả những ai từng bị lưu đày, bao gồm chính họ.
\s5
\v 21 Dân Y-sơ-ra-ên ăn một số thịt trong Lễ Vượt qua, họ là những người trở về sau khi bị bắt đi lưu đày, họ tự biệt riêng họ khỏi sự ô uế của dân địa phương và tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Họ vui mừng tổ chức Lễ Bánh không men trong bảy ngày, vì Đức Giê-hô-va đã khiến họ vui mừng và chạm lòng vua A-sy-ri để giúp họ trong việc xây nhà của Ngài, là nhà Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Sau những việc này, trong đời Vua Ạt-ta-xét-xe, E-xơ-ra, có tổ phụ là Sê-ra-gia, A-xa-ria, Hinh-kia,
\v 2 Sanh-lum, Xa-đốc, A-hi-túp,
\v 3 A-ma-ria, A-xa-ria, Mê-ra-giốt,
\v 4 Xê-ra-hia, U-xi, Búc-ki,
\v 5 A-bi-sua, Phi-nê-a, Ê-lê-a-xa, và thầy tế lễ thượng phẩm A-rôn.
\s5
\v 6 E-xơ-ra rời khỏi Ba-by-lôn. Ông là một thầy thông giáo am hiểu luật Môi-se mà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền. Vua chấp thuận mọi điều ông xin vì tay của Đức Giê-hô-va ở trên ông.
\v 7 Một số con cháu Y-sơ-ra-ên và các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ trong đền thờ, người giữ cổng, và những người phục vụ đền thờ cũng đi lên Giê-ru-sa-lem vào năm thứ bảy đời Vua Ạt-ta-xét-xe.
\s5
\v 8 Ông về đến Giê-ru-sa-lem vào tháng năm của năm đó.
\v 9 Ông khởi hành từ Ba-by-lôn vào ngày một tháng giêng. Ông về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày một tháng năm, vì tay tốt lành của Đức Chúa Trời ở cùng ông.
\v 10 E-xơ-ra hết lòng chuyên tâm học hỏi, thực hành, và dạy dỗ các luật thánh và mạng lệnh trong luật pháp của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Đây là chiếu chỉ mà Vua Ạt-ta-xét-xe trao cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và thầy thông giáo chuyên về những mạng lệnh và luật thánh của Đức Giê-hô-va dành cho Y-sơ-ra-ên:
\v 12 “Ạt-ta-xét-xe, Vua các vua, gửi cho thầy tế lễ E-xơ-ra, thầy thông giáo am hiểu luật pháp của Chúa trên trời:
\v 13 Ta truyền lệnh rằng bất cứ người Y-sơ-ra-ên nào trong vương quốc ta, cùng với các thầy tế lễ và người Lê-vi nào muốn về Giê-ru-sa-lem, có thể đi với ngươi.
\s5
\v 14 Ta, là vua, và bảy cố vấn, sai các ngươi đi thăm dò Giu-đa và Giê-ru-sa-lem theo luật pháp của Đức Chúa Trời mà các ngươi thông hiểu,
\v 15 và đem bạc và vàng mà họ đã dâng hiến rộng rãi cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem, là nơi có nhà của Ngài.
\v 16 Hãy dâng hiến rộng rãi tất cả bạc và vàng thu được ở Ba-by-lôn cùng với phần của dân chúng và các thầy tế lễ dâng cho nhà Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 17 Hãy dùng khoản đó mua bò đực, chiên đực và chiên con, của lễ chay và của lễ quán. Hãy dâng trên bàn thờ trong nhà Đức Chúa Trời các ngươi ở Giê-ru-sa-lem.
\v 18 Về số bạc và vàng còn lại, hãy sử dụng cho bất cứ việc gì tùy ý các ngươi và anh em các ngươi, để làm vui lòng Đức Chúa Trời các ngươi.
\s5
\v 19 Hãy để các đồ dùng được giao cho ngươi trước mặt Ngài để phục vụ nhà Đức Chúa Trời các ngươi tại Giê-ru-sa-lem.
\v 20 Nếu các ngươi cần gì cho nhà Đức Chúa Trời của các ngươi, hãy dùng ngân khố của ta mà đài thọ chi phí.
\s5
\v 21 Ta, Vua Ạt-ta-xét-xe, lập một chiếu chỉ cho tất cả các thủ quỹ ở bên kia Sông, rằng bất cứ thứ gì E-xơ-ra yêu cầu các ngươi cũng phải được cung cấp đầy đủ,
\v 22 đến một trăm ta-lâng bạc, một trăm bao lúa mì, một trăm thùng rượu, và một trăm thùngdầu, và muối thì không hạn chế.
\v 23 Hãy hết lòng thực hiện bất cứ việc gì Chúa trên Trời đã truyền cho nhà của Ngài. Vì tại sao Ngài phải giáng cơn thạnh nộ trên vương quốc của ta và các con trai ta?
\s5
\v 24 Chúng ta sẽ báo cho họ biết rằng các ngươi không được thu vật cống hoặc thuế từ bất cứ thầy tế lễ nào, người Lê-vi, các nhạc sĩ, người giữ cổng, hoặc người phục vụ trong đền thờ và các tôi tớ trong nhà này của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 25 Còn E-xơ-ra, theo sự thông sáng mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi, hãy chọn các thẩm phán và những người thông biết phục vụ dân bên kia Sông để họ phục vụ những ai thông biết luật pháp của Đức Chúa Trời ngươi. Ngươi cũng phải dạy những ai không biết luật.
\v 26 Ai không trọn vẹn vâng giữ luật pháp của Đức Chúa Trời hoặc luật của vua sẽ bị trừng phạt bằng cách xử tử, trục xuất, tịch biên gia sản, hoặc bỏ tù.”
\s5
\v 27 E-xơ-ra nói, “Ngợi khen Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi, Đấng đã đặt mọi điều này vào lòng vua để đem vinh quanh đến cho nhà của Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem,
\v 28 và là Đấng bày tỏ sự thành tín cho tôi trước mặt vua, các quan cố vấn của người, và các quan chức quyền thế của người. Tôi đã được thêm sức bởi tay của Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, và tôi đã tập hợp các lãnh đạo từ Y-sơ-ra-ên để đi với tôi.”
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đây là các trưởng tộc cùng tôi rời khỏi Ba-by-lôn trong đời Vua Ạt-ta-xét-xe.
\v 2 Con cháu Phi-nê-ha: Ghẹt-sôm. Con cháu Y-tha-ma: Đa-ni-ên. Con cháu Đa-vít: Hát-tút.
\v 3 Con cháu Sê-ca-nia, con cháu Pa-rốt: Xa-cha-ri. Đi cùng ông là 150 người nam.
\s5
\v 4 Con cháu Pa-hát Mô-áp: Ê-li-ê-hô-ê-nai con Xê-ra-hia. Đi cùng ông là 200 người nam.
\v 5 Con cháu Sê-ca-nia: Ben Gia-ha-xi-ên. Đi cùng ông là 300 người nam.
\v 6 Con cháu A-đin: Ê-bết con Giô-na-than. Đi cùng ông là 50 người nam.
\v 7 Con cháu Ê-lam: Giê-sa-gia con A-tha-lia. Đi cùng ông là 70 người nam.
\s5
\v 8 Con cháu Sê-pha-tia: Xê-ba-đia con Mi-ca-ên. Đi cùng ông là 80 người nam.
\v 9 Con cháu Giô-áp: Áp-đia con Giê-hi-ên. Đi cùng ông là 218 người nam.
\v 10 Con cháu Ba-ni: Sê-lô-mít con Giô-si-phia. Đi cùng ông là 160 người nam.
\v 11 Con cháu Bê-bai: Xa-cha-ri con Bê-bai. Đi cùng ông là 28 người nam.
\s5
\v 12 Con cháu A-xơ-gát: Giô-ha-nan con Hác-ca-tan. Đi cùng ông là 110 người nam.
\v 13 Con cháu của A-đô-ni-kham đi sau cùng. Đây là tên của họ: Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-ma-gia. Đi cùng họ là 60 người nam.
\v 14 Con cháu Bích-vai: U-thai và Xác-cua. Đi cùng ông là 70 người nam.
\s5
\v 15 E-xơ-ra nói, “Tôi tập hợp họ bên bờ kênh chảy về A-ha-va, chúng tôi cắm trại tại đó ba ngày. Tôi xem xét dân chúng và các thầy tế lễ, nhưng không tìm ra ai là con cháu Lê-vi.
\v 16 Vậy tôi sai gọi Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-ma-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than và Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam là các lãnh đạo và Giô-a-ríp và Ên Na-than là hai giáo sư.
\s5
\v 17 Kế đó, tôi cử họ đến gặp Y-đô, lãnh tụ ở Ca-si-phia. Tôi bảo họ nói với Y-đô và thân nhân ông ấy, là những người phục vụ đền thờ ở Ca-si-phia, gửi cho chúng tôi những người phục vụ nhà của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 18 Vậy bởi tay nhân lành của Đức Chúa Trời, họ gửi cho chúng tôi một người rất khôn ngoan tên là Sê-rê-bia. Ông là con cháu của Ma-li con Lê-vi, cháu Y-sơ-ra-ên. Ông đến cùng với mười tám con trai và anh em.
\v 19 Đi cùng ông là Ha-sa-bia. Cũng có Giê-sa-gia, một trong các con trai của Mê-ra-ri, cùng với các anh em và con trai của họ đi cùng, tổng cộng 20 người.
\v 20 Về những người phục vụ trong đền thờ, do Đa-vít và các quần thần đã lập nên đặng phục vụ người Lê-vi: có 220 người, mỗi người được chỉ định đích danh.
\s5
\v 21 Sau đó, tôi rao truyền một cuộc kiêng ăn bên Kênh A-ha-va để hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời, tìm kiếm con đường ngay thẳng của Ngài cho chúng tôi, con cháu chúng tôi, và gia tài chúng tôi.
\v 22 Tôi cảm thấy ngượng khi phải xin vua cấp một đội quân hoặc lính kỵ để bảo vệ chúng tôi trước kẻ thù trên đường, vì chúng tôi có tâu với vua, Tay của Đức Chúa Trời chúng tôi phù hộ những ai tìm kiếm Ngài mãi mãi, nhưng sức mạnh và cơn thạnh nộ của Ngài giáng trên những ai quên Ngài.
\v 23 Vậy chúng tôi kiêng ăn và tìm kiếm Đức Chúa Trời về việc này, chúng tôi nài xin Ngài.
\s5
\v 24 Tiếp theo, tôi chọn hai mươi người nam từ các trưởng tế lễ: Sê-rê-bia, Ha-sa-bia, và mười anh em của họ.
\v 25 Tôi cân cho họ số bạc, vàng, các vật dụng và của lễ dâng cho nhà Đức Chúa Trời mà vua, các cố vấn và quan chức, cùng toàn thể Y-sơ-ra-ên đã rộng rãi dâng hiến.
\s5
\v 26 Vậy tôi cân cho họ 650 ta-lâng bạc, 100 ta-lâng vật dụng bằng bạc, 100 ta-lâng vàng,
\v 27 20 cái tô vàng trị giá một ngàn đa-riếc, và hai món đồ đồng được đánh bóng quý như vàng.
\s5
\v 28 Tôi bảo họ, Các ông đã được dâng cho Đức Giê-hô-va, và các vật dụng này cũng vậy. Bạc và vàng này là lễ vật lạc ý dâng cho Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ông.
\v 29 Hãy giữ cẩn thận cho đến khi các ông cân trước mặt các quan chức tế lễ, người Lê-vi, và các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem, trong các phòng ở nhà của Đức Chúa Trời.
\v 30 Các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận số bạc, vàng, và vật dụng được cân để đem về Giê-ru-sa-lem, để vào nhà Đức Chúa Trời chúng tôi.
\s5
\v 31 Chúng tôi khởi hành từ Kênh A-va-na vào ngày hai mươi tháng giêng để về Giê-ru-sa-lem. Tay của Đức Chúa Trời ở cùng chúng tôi; Ngài bảo vệ chúng tôi khỏi tay của kẻ thù và những kẻ muốn mai phục chúng tôi dọc đường.
\v 32 Chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem và ở tại đó ba ngày.
\s5
\v 33 Sau đó, vào ngày bốn, bạc, vàng, và các vật dụng được cân trong nhà Đức Giê-hô-va và giao cho Mê-rê-mốt, con thầy tế lễ U-ri. Đi cùng ông là Ê-lê-a-xa con Phi-nê-a, Giô-xa-bát con Giê-sua, và Nô-a-đia con Bin-nui, người Lê-vi.
\v 34 Khi đó các vật dụng được cân để xác định số lượng và trọng lượng rồi được ghi xuống.
\s5
\v 35 Những người trở về từ chốn phu tù, dân bị lưu đày, dâng của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên: hai mươi con bò đực cho toàn thể Y-sơ-ra-ên, chín mươi sáu chiên đực, bảy mươi bảy chiên con, và mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội. Tất cả đều là của lễ thiêu dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 36 Sau đó họ trao chiếu chỉ của vua cho các quan chức cấp cao và các quan thống đốc bên kia Sông, họ hỗ trợ dân sự và nhà của Đức Chúa Trời.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 “Khi các việc này đã xong rồi, các quan chức đến gặp tôi và nói, Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, và người Lê-vi không tách mình ra khỏi dân địa phương và những việc làm ghê tởm của chúng, như dân: Ca-na-an, Hê-tít, Phê-ri-sít, Giê-bu-sít, Am-môn, Mô-áp, Ai Cập, và A-mô-rít.
\v 2 Họ cưới con trai và con gái của chúng, làm ô hợp dân thánh với dân địa phương. Các quan chức cùng những nhà lãnh đạo là những người phạm tội bất trung đầu tiên.
\s5
\v 3 Khi nghe điều này, tôi xé áo trong và áo choàng, bứt tóc và râu mình. Tôi bàng hoàng ngồi xuống.
\v 4 Hết thảy những ai run sợ trước lời của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên về sự bất trung này đến tập họp quanh tôi khi tôi đang hổ thẹn ngồi đến giờ dâng của lễ buổi chiều.
\s5
\v 5 Nhưng đến giờ dâng của lễ buổi chiều, tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi bẽ mặt, áo và áo choàng trên người tôi vẫn còn bị rách, tôi quỳ gối và giơ tay hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi.
\v 6 Tôi nói, Lạy Đức Chúa Trời của con, con thật xấu hổ và quá nhục nhã khi hướng mặt về Ngài, vì tội lỗi gia tăng ngập đầu chúng con, và tội lỗi chúng con cao đến tận trời.
\s5
\v 7 Từ thời tổ phụ chúng con đến nay, chúng con đã phạm tội rất nhiều. Vì cớ tội lỗi chúng con, chúng con, các vua, và thầy tế lễ của chúng con bị phó vào tay các vua trên thế gian này, họ bị phó mặc cho gươm, bị bắt làm phu tù, bị cướp bóc và làm nhục, như hôm nay.
\s5
\v 8 Tuy nhiên bây giờ trong một thời gian ngắn, Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con đã tỏ lòng thương xót để lại cho chúng con một số người còn sống sót và ban cho chúng con một chỗ đứng trong nơi thánh này. Đức Chúa Trời chúng con đã mở sáng mắt chúng con và giúp chúng con khi chúng con làm nô lệ.
\v 9 Vì chúng con là nô lệ, nhưng Đức Chúa Trời chúng con không quên chúng con, Ngài đã tỏ thêm sự thành tín theo giao ước với chúng con. Ngài làm việc này trước mặt vua Ba-tư để thêm sức cho chúng con, hầu cho chúng con có thể tái xây dựng nhà của Đức Chúa Trời và sửa lại những nơi đổ nát. Ngài làm vậy để ban cho chúng con một bức tường bảo vệ ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 10 Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của chúng con, sau những việc này chúng con có thể nói gì? Chúng con đã quên các mạng lệnh Ngài,
\v 11 là những mạng lệnh mà Ngài đã ban cho các tôi tớ và tiên tri của Ngài, khi Ngài phán rằng, “Xứ mà các ngươi vào hưởng là một xứ ô uế. Dân trong các xứ đã làm ô uế bằng những việc gớm ghiếc của chúng. Chúng làm ô uế từ nơi này đến nơi kia.
\v 12 Vậy bây giờ, chớ gả con gái các ngươi cho con trai chúng nó; chớ gả con trai các ngươi cho con gái chúng nó, và chớ tìm kiếm sự hòa bình và hạnh phúc của chúng, hầu cho các ngươi sẽ được mạnh mẽ và ăn những thứ tốt lành trong xứ, các ngươi sẽ cho con cái các ngươi hưởng xứ đó đời đời.”
\s5
\v 13 Tuy nhiên sau mọi việc xảy ra trên chúng con vì những việc làm ác và tội lỗi to lớn của chúng con Ngài, là Đức Chúa Trời của chúng con, đã bỏ qua tội lỗi chúng con và để lại cho chúng con những người sống sót
\v 14 lẽ nào chúng con lại vi phạm điều răn Ngài và kết thông gia với các dân gớm ghiếc này sao? Ngài há không giận và tiêu diệt chúng con đến nỗi không một ai sống sót, không một ai trốn thoát sao?
\s5
\v 15 Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Ngài là Đấng công bình, vì hôm nay chúng con là những người còn sống sót. Kìa! Chúng con đứng trước mặt Ngài đầy tội lỗi, dù không ai có thể đứng trước mặt Ngài trong tình trạng như thế này. ’”
\s5
\c 10
\p
\v 1 Khi E-xơ-ra cầu nguyện và xưng nhận, khóc lóc và sấp mình xuống trước nhà của Đức Giê-hô-va, đông đảo người Y-sơ-ra-ên gồm người nam, người nữ, và trẻ con đến tụ họp quanh ông, vì dân sự khóc thảm thiết.
\v 2 Sê-ca-nia con Giê-hi-ên, thuộc nhà Ê-lam, nói với E-xơ-ra, “Bản thân chúng tôi đã mưu phản nghịch Đức Chúa Trời chúng tôi và sống với những người nữ ngoại quốc của các dân địa phương. Nhưng bây giờ hãy còn sự hy vọng cho Y-sơ-ra-ên về việc này.
\s5
\v 3 Chúng ta hãy lập một giao ước với Đức Chúa Trời chúng ta mà đuổi hết thảy người nữ và con cái họ theo lời dạy của Đức Chúa Trời và của những người run sợ trước mạng lệnh của Đức Chúa Trời chúng ta, hãy làm theo luật pháp.
\v 4 Ông hãy đứng dậy vì đây là việc ông phải làm, chúng tôi đứng về phía ông. Ông hãy mạnh mẽ làm việc này.”
\s5
\v 5 Vậy E-xơ-ra trỗi dậy và yêu cầu các trưởng tế lễ, người Lê-vi, và toàn thể Y-sơ-ra-ên hứa làm theo như vậy. Họ hứa.
\v 6 Sau đó, E-xơ-ra rời khỏi nhà Đức Chúa Trời và đến phòng của Giê-hô-ha-nan con Ê-li-a-síp. Ông chẳng ăn bánh hoặc uống nước, vì ông than khóc về sự bất trung của những người từng bị bắt làm phu tù.
\s5
\v 7 Họ rao truyền cho tất cả những người ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đã trở về từ chốn lưu đày, yêu cầu phải tập họp tại Giê-ru-sa-lem.
\v 8 Ai không đến trong vòng ba ngày theo lệnh của các quan chức và trưởng lão sẽ bị tịch biên tài sản và bị loại khỏi cộng đồng những người hồi hương.
\s5
\v 9 Vậy tất cả người Giu-đa và Ben-gia-min nhóm họp tại Giê-ru-sa-lem trong ba ngày. Khi đó là ngày hai mươi tháng chín. Toàn thể dân sự đứng ở quảng trường trước nhà Đức Chúa Trời và run sợ vì cớ lời ấy và vì trời mưa.
\v 10 Thầy tế lễ E-xơ-ra đứng dậy nói, “Quý vị đã phản nghịch. Quý vị sống chung với người nữ ngoại quốc, gia tăng thêm tội của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Nhưng bây giờ hãy ngợi khen Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ quý vị, hãy làm theo ý muốn Ngài. Hãy tách ra khỏi dân địa phương và những người nữ ngoại quốc.”
\s5
\v 12 Cả dân sự đồng thanh trả lời lớn tiếng, “Chúng tôi sẽ làm y như ông nói.
\v 13 Tuy nhiên, có nhiều người lắm và hiện nay đang là mùa mưa. Chúng tôi không đủ sức để đứng bên ngoài, và việc này không phải mất một hay hai ngày mới giải quyết xong, vì rất nhiều người trong chúng tôi đã vi phạm vấn đề.
\s5
\v 14 Vậy hãy để các quan chức của chúng tôi đại diện cho cả hội chúng. Những ai cho phép những người nữ ngoại quốc sống trong các thành của chúng ta sẽ đồng được giải quyết bởi các trưởng lão và thẩm phán trong thành cho đến khi cơn giận phừng phừng của Đức Chúa Trời xoay khỏi chúng ta. ”
\v 15 Giô-na-than con A-sa-hên và Gia-xê-gia con Tích-va phản đối việc này, Mê-su-lam và Sa-bê-thai, người Lê-vi, ủng hộ họ.
\s5
\v 16 Vậy những người hồi hương sau khi lưu đày thì thi hành việc ấy. Thầy tế lễ E-xơ-ra chọn những người nam là trưởng tộc ông chọn theo tên, và họ cùng xem xét vấn đề vào ngày một tháng mười.
\v 17 Ngày một tháng giêng, họ hoàn tất điều tra xong việc những người nam nào cưới vợ ngoại giáo.
\s5
\v 18 Trong số các con cháu của các thầy tế lễ, có những người sống với những người phụ nữ ngoại quốc. Trong số con cháu của Giê-sua con Giô-xa-đác và các anh em người có Mê-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia.
\v 19 Họ quyết định sẽ đuổi vợ của họ đi. Vì họ có tội, họ dâng một con chiên đực trong bầy mình làm của lễ chuộc tội.
\s5
\v 20 Trong các con cháu của Y-mê: có Ha-na-ni và Xê-ba-đia.
\v 21 Trong số con cháu Ha-rim: có Ma-a-sê-gia, Ê-li-gia, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xi-gia.
\v 22 Trong số con cháu của Pát-hua: có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-sa.
\s5
\v 23 Trong số người Lê-vi: có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (hay còn gọi), Pê-tha-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.
\v 24 Trong số các ca sĩ: có Ê-li-a-síp. Trong số người giữ cổng: có Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.
\v 25 Trong số những người Y-sơ-ra-ên khác về con cháu của Pa-rốt: có Ra-mia, Y-xi-a, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-xa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia.
\s5
\v 26 Trong số con cháu của Ê-lam: có Mát-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li.
\v 27 Trong số con cháu của Xát-tu: có Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Mát-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-gia.
\v 28 Trong số con cháu Bê-bai: có Giê-hô-cha-nan, Ha-na-nia, Xáp-bai, và Át-lai.
\v 29 Trong số con cháu Ba-ni: có Mê-su-lam, Manh-lúc, A-đa-gia, Gia-húp, và Sê-an Giê-rê-mốt.
\s5
\v 30 Trong số con cháu Pa-hát Mô-áp: có Át-na, Chê-lan, Bê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-ta-nia, Bê-xa-lên, Bin-nui, và Ma-na-se.
\v 31 Trong số con cháu Ha-rim: có Ê-li-ê-xe, Ích-si-gia, Manh-chi-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn,
\v 32 Ben-gia-min, Manh-lúc, và Sê-ma-ria.
\s5
\v 33 Trong số con cháu Ha-sum: có Mát-tê-nai, Mát-ta-na, Xa-bát, Ê-li-phê-lét, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i.
\v 34 Trong số con cháu Ba-ni: có Ba-a-đai, Am-ram, U-ên,
\v 35 Bê-na-gia, Bê-đê-gia, Chê-lu-hi,
\v 36 Va-ni-a, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp,
\s5
\v 37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, Gia-a-su,
\v 38 Ba-ni, Binh-nui, Si-mê-i,
\v 39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đa-gia,
\v 40 Mách-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai,
\s5
\v 41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ri-gia,
\v 42 Sanh-lum, A-ma-ria, và Giô-sép.
\v 43 Trong số con cháu của Nê-bô: có Giê-i-ên, Mát-ta-nia, Xa-bát, Xê-bi-na, Y-đô, Giô-ên, và Bê-na-gia.
\v 44 Tất cả những người này đã cưới vợ ngoại quốc và có con với những người nữ ấy.

767
16-NEH.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,767 @@
\id NEH
\ide UTF-8
\h NÊ-HÊ-MI
\toc1 NÊ-HÊ-MI
\toc2 NÊ-HÊ-MI
\toc3 neh
\mt NÊ-HÊ-MI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Lời của Nê-hê-mi con trai Ha-ca-lia: Bấy giờ nhằm tháng Kít-lơ, năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở tại thành Su-sơ,
\v 2 một trong những anh em tôi, là Ha-na-ni, cùng với vài người khác từ Giu-đa đến gặp tôi, và tôi hỏi họ về những người Giu-đa đã trốn thoát, tức những người Giu-đa còn sót lại, và cũng hỏi về tình hình Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Họ nói với tôi, “Những người trong tỉnh còn sống sót từ vụ bắt làm phu tù hiện đang khốn khổ và hổ thẹn lắm vì tường thành Giê-ru-sa-lem đã bị đổ và cổng thành đã bị phóng hỏa.”
\s5
\v 4 Ngay khi nghe những lời này, tôi ngồi xuống và khóc, tôi cứ buồn rầu, kiêng ăn và cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời của các từng trời trong nhiều ngày.
\v 5 Tôi nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời của các từng trời, Đức Chúa Trời lớn lao và vĩ đại, Đấng giữ giao ước và tỏ lòng thương những ai yêu mến và giữ điều răn Ngài.
\s5
\v 6 Xin nghe lời cầu nguyện của con và xin Ngài mở mắt nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài, giờ đây con đứng trước mặt Ngài cầu thay ngày và đêm cho dân Y-sơ-ra-ên, là các tôi tớ Ngài. Con thú nhận tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên, là những tội chúng con đã phạm đối với Ngài. Con và nhà tổ phụ con đã phạm tội.
\v 7 Chúng con đã hành động rất gian ác đối cùng Ngài, chúng con không giữ điều răn, luật pháp và sắc lệnh mà Ngài đã truyền cho tôi tớ Ngài là Môi-se.
\s5
\v 8 Xin Chúa nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài, Nếu các ngươi không trung tín, Ta sẽ rải các ngươi ra giữa các nước,
\v 9 nhưng nếu các ngươi quay về cùng Ta, tuân giữ điều răn Ta và làm theo, thì dù dân tộc ngươi bị tản lạc ở khắp các phương trời, Ta cũng sẽ nhóm họ về và đem đến nơi mà Ta đã chọn để danh Ta ngự tại đó.
\s5
\v 10 Hiện nay họ là tôi tớ và dân sự Ngài, là dân mà Ngài đã dùng quyền năng lớn lao và cánh tay mạnh mẽ của Ngài để giải cứu.
\v 11 Đức Giê-hô-va ơi, con khẩn cầu xin Ngài giờ đây lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài, là những người vui vẻ tôn kính danh Ngài. Xin ban sự thành công cho tôi tớ Ngài hôm nay, và cho con được thương xót trước mặt người này. ” Tôi, quan tửu chánh của vua.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Vào tháng Ni-san, năm thứ hai mươi trong đời vua Ạt-ta-xét-xe, vua chọn rượu, còn tôi lấy rượu rồi dâng cho vua. Bấy giờ, tôi chưa bao giờ buồn rầu khi đứng chầu trước mặt vua.
\v 2 Nhưng vua hỏi tôi, “Sao mặt ngươi buồn rầu vậy? Có vẻ như ngươi không bị bệnh. Ắt hẳn là ngươi đang buồn trong lòng. ” Tôi cảm thấy sợ hãi lắm.
\s5
\v 3 Tôi tâu cùng vua, “Bệ hạ vạn tuế! Sao nét mặt hạ thần không buồn được? Thành phố là nơi có mồ mả của tổ phụ hạ thần, đang đổ nát, các cổng thành đã bị phóng hỏa.”
\s5
\v 4 Vua phán cùng tôi, “Ngươi muốn ta làm gì? ” Vậy tôi cầu nguyện lên Chúa trên trời cao.
\v 5 Tôi trả lời vua, “Nếu bệ hạ thấy điều này là tốt, và nếu tôi tớ của bệ hạ đã làm vừa ý bệ hạ, xin bệ hạ sai hạ thần đi Giu-đa, đến thành có mồ mả của tổ phụ hạ thần, đặng hạ thần xây dựng lại thành ấy. ”
\v 6 Vua trả lời tôi (và hoàng hậu cũng đang ngồi kế bên vua): “Ngươi sẽ đi bao lâu và chừng nào sẽ quay về? ” Vua vui lòng sai tôi đi khi tôi trình cho người biết ngày đi ngày về.
\s5
\v 7 Sau đó tôi tâu với vua, “Nếu điều này đẹp lòng bệ hạ, xin bệ hạ đưa thư cho hạ thần để hạ thần trao cho các quan thống đốc bên kia sông, đặng họ cho phép hạ thần băng qua lãnh thổ họ trên đường đến Giu-đa.
\v 8 Xin bệ hạ cũng gửi một thư cho A-sáp là quan giữ rừng của vua, để người cấp gỗ cho hạ thần làm các cây xà của cổng đồn lũy kế bên đền thờ, và cho tường thành, và nhà mà hạ thần sẽ ở. ” Vậy vì cớ tay tốt lành của Đức Chúa Trời trên tôi, vua chấp thuận yêu cầu của tôi.
\s5
\v 9 Tôi đến gặp các quan thống đốc bên kia sông, và trao cho họ các thư của vua. Bấy giờ, vua có sai các tướng quân và kỵ binh cùng đi với tôi.
\v 10 Khi San-ba-lát người Hô-rô-ni và Tô-bi-a, triều thần người Am-môn, nghe điều này, họ rất khó chịu vì có người đã đến tìm sự giúp đỡ cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Do đó, tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở đó ba ngày.
\v 12 Ban đêm tôi và vài người đi với tôi trở dậy. Tôi không kể cho ai biết về điều Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng tôi để làm cho Giê-ru-sa-lem. Không có con vật nào đi với tôi, ngoại trừ con vật tôi đang cưỡi.
\s5
\v 13 Tôi ra ngoài vào ban đên theo lối Cổng Thung Lũng, đến Suối Chó rừng và Cổng Phân, rồi thăm dò các tường thành Giê-ru-sa-lem bị đổ nát, và các cổng gỗ bị thiêu cháy.
\v 14 Sau đó tôi tiếp tục đến Cổng Giếng và hồ của vua. Chỗ ấy quá hẹp để con vật tôi đang cưỡi vượt qua.
\s5
\v 15 Vì vậy, đêm đó chúng tôi đi lên theo lối thung lũng và kiểm tra bức tường thành, tôi quay lại và đi vào theo lối cửa Trũng, rồi trở về.
\v 16 Các quan không biết tôi đi đâu hoặc làm gì, khi đó tôi chưa thông báo cho người Giu-đa, các thầy tế lễ, các quý tộc, các quan, hoặc những người tham gia khác.
\s5
\v 17 Tôi bảo họ, “Các ông thấy sự khó khăn của chúng ta, thành Giê-ru-sa-lem hoang tàn và cổng thành bị phóng hỏa rồi. Nào, chúng ta hãy tái xây dựng tường thành Giê-ru-sa-lem, để chúng ta không còn ô nhục nữa. ”
\v 18 Tôi nói với họ rằng tay tốt lành của Đức Chúa Trời đang đặt trên tôi và cũng nói cho họ nghe về những lời vua đã phán với tôi. Họ nói, “Chúng ta hãy đứng lên xây dựng. ” Vậy họ bắt tay vào làm việc.
\s5
\v 19 Nhưng khi San-ba-lát người Hô-rô-nít, và Tô-bi-a triều thần người Am-môn, cùng Ghê-sem người Ả-rập nghe tin đó, họ nhạo báng và giễu cợt chúng tôi, hỏi rằng, “Các ngươi đang làm gì vậy? Các ngươi nổi loạn chống nghịch vua chăng? ”
\v 20 Tôi trả lời họ, “Đức Chúa Trời của các từng trời sẽ cho chúng tôi thành công. Chúng tôi là tôi tớ Ngài, chúng tôi sẽ trỗi dậy và xây dựng. Còn các ông không có phần, không có quyền và không có kỷ niệm gì ở Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Khi ấy thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp cùng các thầy tế lễ anh em của ông trỗi dậy và xây dựng cổng Chiên. Họ biệt riêng nó ra thánh và lắp hai cánh cửa. Họ cũng biệt riêng đến tháp Mê-a và tháp Ha-na-nê-ên.
\v 2 Kế tiếp, người Giê-ri-cô xây dựng, và kế tiếp, Xác-cua con Im-ri lại xây dựng.
\s5
\v 3 Các con trai của Ha-sên-na xây Cổng Cá. Họ gắn cây đà, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 4 Mê-rê-mốt sửa phần tiếp theo. Ông là con của U-ri, cháu Hác-cô. Kế tiếp, Mê-su-lam tu sửa. Ông là con của Bê-rê-kia, cháu Mê-sê-xa-bên. Kế tiếp, Xa-đốc tu sửa. Ông là con của Ba-a-na.
\v 5 Kế tiếp, người Tê-cô-a tu sửa, nhưng các lãnh đạo của họ không chịu làm việc do các đốc công giao.
\s5
\v 6 Giô-gia-đa, con Pa-sê-a, và Mê-su-lam, con Bê-sô-đê-gia tu sửa cổng cũ. Họ gắn cây đà, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 7 Kế tiếp, Mê-la-tia người Ghi-bê-ôn cùng với Gia-đôn người Mê-rôn-nô-thi tu sửa. Họ là những quan lãnh đạo ở Ghi-bê-ôn và Mích-pa. Mích-pa là nơi ở của quan thống đốc tỉnh bên kia Sông.
\s5
\v 8 Kế tiếp, U-xi-ên con trai Hạc-hai-a, một trong những thợ vàng, tu sửa, và sau ông là Ha-na-nia, thợ làm nước hoa. Họ xây lại Giê-ru-sa-lem cho đến tận Tường Rộng.
\v 9 Kế tiếp, Rê-pha-gia con Hu-rơ tu sửa. Ông là quan cai trị nửa quận Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Kế tiếp, Giê-đa-gia con Ha-ru-máp tu sửa đối diện nhà ông. Kế tiếp, Hát-tút con trai Ha-sáp-nia tu sửa.
\s5
\v 11 Manh-ki-gia, con Ha-rim, và Hát-súp, con Pa-hát Mô-áp tu sửa phần khác với Tháp Lò.
\v 12 Kế tiếp, Sa-lum con Ha-lô-he, quan cai trị nửa quận Giê-ru-sa-lem cùng với các con gái của ông tu sửa.
\s5
\v 13 Ha-nun và cư dân Xa-nô-a tu sửa Cổng Thung lũng. Họ xây cổng và lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa. Họ sửa chữa được một ngàn cu-bít đến tận Cổng Phân.
\s5
\v 14 Manh-ki-gia con trai Rê-cáp, quan cai trị quận Bết Hác-kê-rem, tu sửa Cổng Phân. Ông xây cổng, và lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 15 Sa-lun con Côn Hô-xê, quan cai trị quận Mích-pa, xây lại Cổng Suối. Ông xây cổng, lợp mái, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa. Ông cũng xây lại tường Ao Si-lô-ê kế bên vườn ngự uyển, cho đến tận bậc thang dẫn xuống từ thành Đa-vít.
\s5
\v 16 Nê-hê-mi con A-búc, quan cai trị nửa quận Bết Xu-rơ, tu sửa nơi phần đối diện Đa-vít đến hồ nhân tạo và nhà của các dũng sĩ.
\v 17 Kế tiếp, người Lê-vi tu sửa, bao gồm Rê-hum con Ba-ni và kế tiếp, Ha-sa-bia, quan cai trị nửa quận Kê-la, tu sửa cho quận của ông.
\s5
\v 18 Kế tiếp, những người Lê-vi khác tu sửa, gồm Ba-vai con Hê-na-đát, quan cai trị nửa quận Kê-la.
\v 19 Kế tiếp, Ê-xe sửa chữa. Ông là con của Giê-sua, quan cai trị Mích-pa, ông tu sửa khu vực đối diện lối đi lên kho binh khí nằm ở góc thành.
\s5
\v 20 Kế tiếp, Ba-rúc con Xáp-bai tận tụy tu sửa một khu vực khác, từ chỗ góc thành đến cửa nhà thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp.
\v 21 Kế tiếp, Mê-rê-mốt con U-ri, cháu Hát-cô, tu sửa một khu vực khác, từ cửa nhà Ê-li-a-síp đến cuối nhà của ông.
\s5
\v 22 Kế tiếp, các thầy tế lễ từ khu vực xung quanh Giê-ru-sa-lem tu sửa.
\v 23 Kế tiếp, Bên-gia-min và Hát-súp sửa chữa phần đối diện nhà của họ. Kế tiếp, A-xa-ria con Ma-a-sê-gia, cháu A-na-nia, tu sửa bên cạnh nhà ông.
\v 24 Kế tiếp, Bin-nui con Hê-na-đát tu sửa một khu vực khác, từ nhà của A-xa-ria đến góc thành.
\s5
\v 25 Pa-lan con U-xai tu sửa chỗ đối ngang góc thành và tháp nhô ra từ thượng cung của vua ở sân vệ binh. Kế tiếp, Phê-đa-gia con Pa-rốt tu sửa.
\v 26 Bấy giờ, những người phục vụ đền thờ sống ở Ô-phên tu sửa cho đến điểm đối diện Cổng Nước về phía đông của tháp nhô cao.
\v 27 Kế tiếp, người Tê-cô-a tu sửa một khu vực khác, đối diện tháp lớn nhô cao cho đến vách tường tại Ô-phên.
\s5
\v 28 Các thầy tế lễ tu sửa phía trên Cổng Ngựa, mỗi người tu sửa đối diện nhà mình.
\v 29 Kế tiếp, Xa-đốc con Im-mê tu sửa khu vực đối diện nhà ông. Và kế tiếp, Sê-ma-gia con Sê-ca-nia, người giữ cổng phía đông tu sửa.
\v 30 Kế tiếp, Ha-na-nia con Sê-lê-mia, và Ha-nun con thứ sáu của Xa-láp, tu sửa một khu vực khác. Kế tiếp, Mê-su-lam con Bê-rê-kia tu sửa chỗ đối diện nơi ông ở.
\s5
\v 31 Kế tiếp, Manh-ki-gia, một trong các thợ vàng, tu sửa nhà của những người phục vụ đền thờ và các lái buôn ở đối diện Cổng Khám xét và phòng cao ở góc thành.
\v 32 Các thợ vàng và lái buôn tu sửa phần nằm giữa phòng cao ở góc thành và Cổng Chiên.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ, khi San-ba-lát hay tin chúng tôi đang xây sửa tường thành, ông tức giận và cáu gắt lắm, ông nhạo báng người Do Thái.
\v 2 Trước mặt các anh em của ông và quân Sa-ma-ri, ông nói, “Bọn Do Thái nhu nhược này đang làm gì vậy? Chúng đang phục hồi lại thành phố của chúng sao? Chúng sẽ dâng tế lễ sao? Chúng sẽ làm xong việc đó trong một ngày sao? Chúng sẽ phục hồi đống đá vụn bị cháy đó sao? ’”
\v 3 Tô-bi-a người Am-môn đứng bên cạnh ông cũng nói, “Nếu có một con chồn leo lên chỗ bọn chúng đang xây, bức tường ấy cũng sẽ bị sụp đổ.”
\s5
\v 4 Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe vì chúng con bị xem thường. Xin Chúa đổ lời nhạo báng của chúng lên đầu chúng và cho chúng làm của cướp trong xứ chúng bị bắt làm tù binh.
\v 5 Xin đừng bỏ qua tội lỗi của chúng và đừng xóa sạch tội của chúng trước mặt Ngài, vì chúng đã khiêu khích các thợ xây nổi giận. ”
\v 6 Vậy chúng tôi xây vách thành và cả vách thành được liền nhau đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng hang hái làm việc.
\s5
\v 7 Nhưng khi San-ba-lát, Tô-bi-a, dân Ả-rập, dân Am-môn, và dân Ách-đốt hay rằng công trình sửa chữa vách thành Giê-ru-sa-lem đang tiến triển, và rằng những chỗ đổ nát trong vách đang được trám, họ rất tức giận.
\v 8 Họ lập mưu, rồi kéo đến đánh Giê-ru-sa-lem và gây hỗn loạn.
\v 9 Nhưng chúng tôi nguyện cầu lên Đức Chúa Trời chúng tôi và đặt người canh gác ngày đêm vì cớ lời đe dọa của chúng.
\s5
\v 10 Sau đó, người Giu-đa nói, “Những người khuân vác đang kiệt sức. Quá nhiều đống đổ nát, và chúng tôi không thể xây lại vách. ”
\v 11 Quân thù của chúng tôi nói, “Chúng sẽ không biết hoặc thấy cho đến khi chúng ta xâm nhập vào giữa chúng và giết chúng, làm ngưng công trình của chúng.”
\s5
\v 12 Khi đó, những người Do Thái sống gần họ từ bốn phương đến nói thuật lại cho chúng tôi chục lần, cảnh báo chúng tôi về âm mưu mà bọn chúng đang lập để chống lại chúng tôi.
\v 13 Vậy tôi đặt người đứng gác ở những chỗ thấp nhất của vách thành và những nơi trống trải. Tôi giao cho mỗi gia đình một vị trí. Họ có gươm, giáo, và cung.
\v 14 Tôi xem xét, đứng lên, nói với những nhà quý tộc, quan cai trị, và những người còn lại trong dân, “Chớ sợ hãi chúng. Hãy nhớ Chúa là Đấng lớn lao và tuyệt vời. Hãy chiến đấu cho gia đình anh em, con trai và con gái anh em, vợ và nhà cửa anh em.”
\s5
\v 15 Khi quân thù hay rằng chúng tôi đã biết kế hoạch của chúng, và Đức Chúa Trời đã làm hỏng kế hoạch của chúng, tất cả chúng tôi trở về vách thành, mỗi người làm công việc mình.
\v 16 Kể từ đó, phân nửa các tôi tớ của tôi chỉ làm việc tái xây dựng vách thành, phân nửa còn lại cầm gươm, giáo, cung, mặc áo giáp, trong khi các lãnh đạo đứng đằng sau toàn dân Giu-đa.
\s5
\v 17 Những người xây vách thành và khuân vác cũng canh giữ vị trí của họ. Ai nấy đều một tay làm việc, một tay cầm vũ khí.
\v 18 Mỗi thợ xây đều đeo gươm bên hông khi làm việc. Người thổi kèn đứng bên cạnh tôi.
\s5
\v 19 Tôi nói với các quý tộc, quan chức và những người dân còn sót lại, “Công trình này lớn và rộng, chúng ta thì tách biệt trên vách, và xa nhau.
\v 20 Quý vị phải vội chạy đến nơi mình nghe tiếng kèn và nhóm họp tại đó. Đức Chúa Trời của chúng ta sẽ đánh trận thay cho chúng ta.”
\s5
\v 21 Vậy họ làm việc. Phân nửa trong số họ đeo giáo từ lúc bình minh cho đến khi mọc sao trên trời.
\v 22 Tôi cũng nói với dân chúng khi ấy, “Mỗi người và mỗi tôi tớ hãy dành thời gian nghỉ ngơi ở Giê-ru-sa-lem, để ban đêm chúng ta có người canh giữ và ban ngày có người làm việc. ”
\v 23 Cứ như vậy, tôi, anh em tôi, tôi tớ tôi, và người hộ vệ đi theo tôi, không ai trong chúng tôi cởi quần áo mình, mỗi người trong chúng tôi đều đem theo vũ khí này. Ngay cả nếu người đó đi lấy nước.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Khi ấy những người đàn ông và các bà vợ kịch liệt phản đối các đồng hương Do Thái.
\v 2 Vì có người nói, “Chúng tôi đông người, gồm các con trai và con gái. Hãy cho chúng tôi lấy lúa để ăn và sống. ”
\v 3 Cũng có một số người nói, “Chúng tôi phải thế chấp đồng ruộng, vườn nho, và nhà cửa của chúng tôi để có lúa ăn trong lúc đói kém.”
\s5
\v 4 Một số khác lại nói, “Chúng tôi đã vay tiền để đóng thuế đồng ruộng và vườn nho của chúng tôi cho vua.
\v 5 Nhưng bây giờ chúng tôi cũng cùng máu mủ như các anh em chúng tôi, và con cháu chúng tôi cũng như con cháu họ. Chúng tôi buộc phải bán con trai và con gái của mình làm nô lệ. Một số đứa con gái của chúng tôi đã làm nô lệ rồi. Nhưng chúng tôi không có quyền gì vì đồng ruộng và vườn nho của chúng tôi đang bị người khác giữ.”
\s5
\v 6 Tôi rất giận khi nghe lời kêu ca và phản đối của họ.
\v 7 Sau đó tôi nghĩ về chuyện này và trách những nhà quý tộc và quan lại. Tôi bảo họ, “Các ông cho vay ăn lời. ” Tôi tổ chức một buổi họp lớn
\v 8 và nói với họ, “Chúng ta, tùy khả năng mình, đã chuộc lại những anh em Do Thái bị bán qua các nước khác làm nô lệ, nhưng các ông thậm chí lại bán anh chị em mình để người ta bán lại cho chúng ta! ” Họ im lặng và chẳng nói lời nào.
\s5
\v 9 Tôi cũng nói, “Việc các ông đang làm là không đúng. Các ông không kính sợ Đức Chúa Trời để không bị dân ngoại là kẻ thù chúng ta chế giễu sao?
\v 10 Tôi, các anh em tôi, và tôi tớ của tôi sẽ cho họ mượn tiền và lúa. Nhưng chúng ta phải ngưng ngay việc cho vay lấy lãi này.
\v 11 Hôm nay hãy trả lại cho họ ruộng đồng, vườn nho, rẫy ô-liu, nhà cửa và phần trăm tiền, lúa, rượu mới, và dầu mà các ông đã thu từ họ.”
\s5
\v 12 Họ nói, “Chúng tôi sẽ hoàn trả lại cho họ những gì chúng tôi đã thu từ họ, và sẽ không bắt họ nộp gì nữa. Chúng tôi sẽ làm như ông nói. ” Sau đó, tôi gọi các thầy tế lễ, yêu cầu họ thề như họ đã hứa.
\v 13 Tôi giũ vạt áo của mình và nói, “Nguyện Đức Chúa Trời giũ sạch nhà cửa và tài sản của người nào không giữ lời hứa. Nguyện Ngài khiến người đó bị giũ sạch và trắng tay. ” Cả hội chúng nói, “Amen, ” và họ ngợi khen Đức Giê-hô-va. Dân sự làm y như họ đã hứa.
\s5
\v 14 Vậy kể từ lúc tôi được chỉ định làm quan thống đốc trong xứ Giu-đa, từ năm thứ hai mươi đến năm thứ ba mươi hai trong đời vua Ạt-ta-xét-xe, là mười hai năm, cả tôi và anh em tôi đều không nhận phụ cấp lương thực dành cho quan thống đốc.
\v 15 Nhưng các quan thống đốc trước tôi đã đặt nặng gánh trên dân, bắt họ nộp bốn mươi siếc-lơ bạc ngoài thức ăn và rượu. Ngay cả các đầy tớ của họ cũng áp bức dân sự. Nhưng tôi không làm vậy vì tôi kính sợ Đức Chúa Trời.
\s5
\v 16 Tôi cũng đã tiếp tục tu sửa vách thành, và chúng tôi không mua đất đai. Tất cả các tôi tớ của tôi đều tập trung lại để làm việc.
\v 17 Ngồi cùng bàn tôi có người Do Thái và các quan chức, là một trăm năm mươi người, ngoài những người từ các nước lân bang đến gặp chúng tôi.
\s5
\v 18 Bấy giờ, mỗi ngày người ta chuẩn bị một con bò đực, sáu con chiên mập béo, họ cũng chọn gà vịt, và cứ mỗi mười ngày thì đãi nhiều rượu. Tuy vậy, tôi không đòi phần trợ cấp lương thực dành cho quan thống đốc, vì các yêu cầu đó quá nặng nề đối với dân chúng.
\v 19 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin Ngài luôn nhớ đến con, vì tất cả những điều con đã làm cho dân này.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Bấy giờ, khi San-ba-lát, Tô-bi-gia và Ghê-sem người Ả-rập cùng những kẻ thù còn lại của chúng tôi hay tin rằng tôi đã xây lại vách thành và rằng các khu vực đổ nát đã được sửa chữa, mặc dù tôi chưa gắn cửa vào các cổng thành,
\v 2 San-ba-lát và Ghê-sem sai người đến nói với tôi, “Nào, chúng ta hãy gặp nhau ở nơi nào đó trong đồng bằng Ô-nô. ” Nhưng họ có ý định hại tôi.
\s5
\v 3 Tôi sai sứ giả đến trả lời họ, “Tôi đang làm một việc lớn, tôi không thể xuống đó được. Tại sao phải bỏ dở việc để xuống gặp các ông? ”
\v 4 Họ sai sứ giả đến nói với tôi bốn lần như thế, và cứ mỗi lần như vậy tôi đều trả lời họ y như nhau.
\s5
\v 5 San-ba-lát sai tôi tớ đến gặp tôi thêm lần thứ năm, tay cầm theo một lá thư không niêm yết.
\v 6 Thư có nội dung như sau, “Trong vòng các nước có lời đồn, và Ghê-sem cũng có nói, rằng ông và người Do Thái đang âm mưu phản loạn, vì vậy nên các ông mới xây lại vách thành. Theo lời người ta đồn, ông sẽ làm vua của họ.
\s5
\v 7 Ông cũng đã chỉ định các tiên tri loan tin về ông tại Giê-ru-sa-lem, rằng, Có một vua ở Giu-đa! Ông có thể biết chắc rằng vua sẽ nghe những lời đồn này. Vậy hãy đến, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau.”
\s5
\v 8 Tôi trả lời ông ấy, “Những điều ông nói chưa từng xảy ra, vì tự lòng ông bịa ra điều đó. ”
\v 9 Do tất cả bọn chúng muốn hù dọa chúng tôi và nghĩ rằng, “Chúng sẽ buông tay, việc đó sẽ chẳng hoàn thành. ” Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời, xin thêm sức cho tay của con.
\s5
\v 10 Tôi đến nhà của Sê-ma-gia con Đê-la-gia, cháu Mê-hê-ta-bên, là người đang ở ẩn trong nhà. Ông nói, “Chúng ta hãy gặp nhau trong nhà Đức Chúa Trời, ngay trong đền thờ, chúng ta hãy đóng cửa đền thờ, vì chúng sẽ đến giết ông. Chúng sẽ đến giết ông vào ban đêm. ”
\v 11 Tôi trả lời, “Một người như tôi sẽ chạy trốn sao? Một người như tôi sẽ vào trong đền thờ đặng giữ mạng mình chăng? Tôi sẽ không vào đó đâu.”
\s5
\v 12 Tôi nhận thấy là Đức Chúa Trời không sai ông ta đến, nhưng ông ấy đã nói tiên tri nghịch lại tôi. Tô-bi-gia và San-ba-lát đã mướn ông ấy.
\v 13 Họ mướn ông ta để hù dọa tôi, hầu cho tôi nghe theo ông ta và phạm tội, để rồi họ bêu xấu danh tôi và hạ nhục tôi.
\v 14 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin hãy nhớ đến Tô-bi-gia và San-ba-lát và những việc chúng đã làm. Xin Ngài cũng nhớ đến nữ tiên tri Nô-a-đia và các tiên tri khác là những kẻ cố tình khiến con khiếp sợ.
\s5
\v 15 Vậy, vách thành được hoàn tất vào ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, sau năm mươi hai ngày.
\v 16 Khi tất cả kẻ thù chúng tôi hay tin đó, tức là tất cả các dân xung quanh chúng tôi, họ khiếp sợ và ngã lòng. Vì họ biết công trình được hoàn thành là do sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời chúng tôi.
\s5
\v 17 Vào thời điểm này, giới quý tộc Giu-đa gửi nhiều thư cho Tô-bi-gia, và Tô-bi-gia cũng gửi thư lại cho họ.
\v 18 Vì có nhiều người ở Giu-đa đã trót thề với ông ấy, vì ông ấy là con rể của Sê-ca-nia con A-ra. Con trai ông là Giê-hô-ha-nan đã cưới con gái của Mê-su-lam con Bê-rê-kia làm vợ.
\v 19 Họ cũng nói cho tôi biết những việc tốt của ông ấy và tâu với ông ấy những lời tôi nói. Tô-bi-gia đã gửi thư cho tôi đặng hăm dọa tôi.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Khi vách thành đã được xây xong, và tôi đã lắp xong các cánh cửa, và những người giữ cổng, ca sĩ và người Lê-vi được phân nhiệm vụ,
\v 2 tôi giao em tôi là Ha-na-ni việc cai quản Giê-ru-sa-lem, cùng với Ha-na-nia là người giám sát thành lũy, vì ông ấy là một người trung tín và kính sợ Đức Chúa Trời hơn bao người khác.
\s5
\v 3 Tôi bảo họ, “Đừng mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc những người giữ cổng đang canh gác, các ông có thể đóng cửa và cài then. Hãy cử dân cư Giê-ru-sa-lem làm lính canh, một số đứng gác ở trạm canh, và một số đứng gác trước nhà họ. ”
\v 4 Bấy giờ thành phố thì rộng lớn, dân cư thưa thớt, và nhà cửa chưa được xây lại.
\s5
\v 5 Đức Chúa Trời giục lòng tôi tập hợp các quý tộc, quan chức, và dân chúng để đăng ký theo gia phả. Tôi tìm thấy Sách Gia phả của những người hồi hương đợt đầu và thấy có tên như sau.
\s5
\v 6 “Đây là những người trong tỉnh từ chốn phu tù trở về sau khi bị Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bắt lưu đày. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình.
\v 7 Họ đi cùng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-pê-rết, Bích-vai, Nê-hum và Ba-a-na. Số dân Y-sơ-ra-ên gồm những người sau đây.
\s5
\v 8 Con cháu Pa-rốt, 2. 172người.
\v 9 Con cháu Sê-pha-tia, 372người.
\v 10 Con cháu A-ra, 652người.
\s5
\v 11 Con cháu Pa-hát Mô-áp, qua dòng dõi của Giê-sua và Giô-áp, 2. 818người.
\v 12 Con cháu Ê-lam, 1. 254người.
\v 13 Con cháu Xát-tu, 845người.
\v 14 Con cháu Xác-cai, 760người.
\s5
\v 15 Con cháu Binh-nui, 648người.
\v 16 Con cháu Bê-bai, 628người.
\v 17 Con cháu A-gát, 2. 322người.
\v 18 Con cháu A-đô-ni-cam, 667người.
\s5
\v 19 Con cháu Bích-vai, 2. 067người.
\v 20 Con cháu A-đin, 655người.
\v 21 Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, 98người.
\v 22 Con cháu Ha-sum, 328người.
\s5
\v 23 Con cháu Bê-xai, 324người.
\v 24 Con cháu Ha-ríp, 112người.
\v 25 Con cháu Ghi-bê-ôn, 95người.
\v 26 Dân Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, 188người.
\s5
\v 27 Dân A-na-tốt, 128người.
\v 28 Dân Bết A-ma-vết, 42người.
\v 29 Dân Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, 743người.
\v 30 Dân Ra-ma và Ghê-ba, 621người.
\s5
\v 31 Dân Mích-ma, 122người.
\v 32 Dân Bê-tên và Ai, 123người.
\v 33 Dân Nê-bô khác, 52người.
\v 34 Dân Ê-lam khác, 1. 254người.
\s5
\v 35 Dân Ha-rim, 320người.
\v 36 Dân Giê-ri-cô, 345người.
\v 37 Dân Lốt, Ha-đít, và Ô-nô, 721người.
\v 38 Dân Sê-na-a, 3. 930người.
\s5
\v 39 Các thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia (nhà Giê-sua), 973người.
\v 40 Con cháu Y-mê, 1. 052người.
\v 41 Con cháu Pha-su-rơ, 1. 247người.
\v 42 Con cháu Ha-rim, 1. 017người.
\s5
\v 43 Người Lê-vi: con cháu Giê-sua, thuộc gia tộc Cát-mi-ên, về con cháu Hô-đê-va, 74người.
\v 44 Các ca sĩ: con cháu A-sáp, 148người.
\v 45 Những người giữ cổng thuộc con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu Ác-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, 138người.
\s5
\v 46 Những người phục vụ trong đền thờ: Con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
\v 47 con cháu Kê-rô, con cháu Si-a, con cháu Pa-đôn,
\v 48 con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
\v 49 con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha.
\s5
\v 50 Con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Ê-cô-đa,
\v 51 con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pa-sê-a,
\v 52 con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim.
\s5
\v 53 Con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
\v 54 con cháu Ba-xơ-lít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Ha-sa,
\v 55 con cháu Bác-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tê-ma,
\v 56 con cháu Nê-xi-a, con cháu Ha-ti-pha,
\s5
\v 57 Con cháu các tôi tớ của Sa-lô-môn: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Pê-ri-đa,
\v 58 con cháu Gia-a-la, con cháu Đác-côn, con cháu Ghi-đên,
\v 59 con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.
\v 60 Tất cả những người phục vụ trong đền thờ, và con cháu của tôi tớ Sa-lô-môn là 392người.
\s5
\v 61 Và đây là những người đi lên từ Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Y-mê; nhưng họ không thể chứng minh rằng họ hoặc gia tộc của họ là con cháu Y-sơ-ra-ên:
\v 62 Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, và con cháu Nê-cô-đa, 642người.
\v 63 Về phía các thầy tế lễ: con cháu Hô-ba-gia, con cháu Hác-cô, con cháu Bạc-xi-lai là những người cưới các con gái của Bạc-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ và được đổi họ theo họ vợ.
\s5
\v 64 Những người này tìm gia phổ của họ theo phả hệ, nhưng không thể tìm thấy, vì vậy họ bị loại khỏi chức tế lễ, bị xem là ô uế.
\v 65 Quan thống đốc bảo họ rằng họ không được phép ăn phần thức ăn của thầy tế lễ được lấy từ của lễ cho đến khi có một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim.
\s5
\v 66 Tổng cộng cả hội chúng có 42. 360người,
\v 67 không kể số tôi tớ trai và gái là 7. 337người. Trong đó có 245ca sĩ nam và nữ.
\s5
\v 68 Họ có 736con ngựa, 245con lừa,
\v 69 435con lạc đà, và 6. 720con khỉ.
\s5
\v 70 Một số trưởng tộc dâng vào công việc. Quan thống đốc đem vào kho một ngàn đa-riếc vàng, 50cái chậu, và 530lễ phục tế lễ.
\v 71 Một số trưởng tộc dâng vào kho cho công việc là 20. 000đa-riếc vàng và 2. 200mi-na bạc.
\v 72 Những người còn lại dâng 20. 000đa-riếc vàng, 2. 000mi-na bạc, và sáu mươi bảy áo tế lễ.
\s5
\v 73 Vậy các thầy tế lễ, người Lê-vi, người giữ cổng, ca sĩ, một số người trong dân, những người phục vụ đền thờ, và toàn thể Y-sơ-ra-ên đều sống trong thành của họ. Dân Y-sơ-ra-ên đã ở trong thành của họ khi đến tháng thứ bảy.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Toàn thể dân sự nhất trí nhóm lại ở khu vực phía trước Cổng Nước. Họ xin thầy thông giáo E-xơ-ra đem theo Sách Luật pháp Môi-se mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ngày một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem sách luật pháp ra đọc trước hội chúng, gồm cả nam và nữ, cùng tất cả những ai có thể nghe và hiểu.
\v 3 Ông đứng ở sân đối diện Cổng Nước, ông đọc từ sáng sớm đến giữa ngày, trước mặt nam và nữ, cùng những ai có thể nghe và hiểu. Cả dân sự chăm chú nghe lời trong Sách Luật pháp.
\s5
\v 4 Thầy thông giáo E-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao mà dân chúng đã đóng cho việc đó. Bên phải ông là Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri, Hinh-kia, và Ma-a-sê-gia; Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hát-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam đứng bên trái.
\v 5 E-xơ-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn họ, và toàn dân đứng lên khi ông mở quyển sách ấy.
\s5
\v 6 E-xơ-ra tạ ơn Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vĩ đại, cả dân sự giơ tay lên và đáp rằng, “Amen! Amen! ” Sau đó họ cúi đầu và sấp mặt xuống đất tôn thờ Đức Giê-hô-va.
\v 7 Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, Ác-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-a, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, Phê-la-gia, và người Lê-vi cũng giúp dân sự hiểu luật pháp khi họ vẫn đứng đó.
\v 8 Họ đọc sách luật pháp của Đức Chúa Trời, diễn dịch rõ ràng và giải nghĩa để dân sự hiểu.
\s5
\v 9 Quan thống đốc Nê-hê-mi, thầy tế lễ và thầy thông giáo E-xơ-ra, cùng người Lê-vi, là những người diễn giải cho dân sự bảo họ rằng, “Hôm nay là ngày thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị. Đừng để tang hay khóc lóc. ” Vì cả dân sự đều khóc khi nghe đọc lời luật pháp.
\v 10 Nê-hê-mi bảo họ, “Hãy trở về, ăn đồ béo, uống đồ ngọt, và gửi một phần cho những người không sắm sửa gì cả, vì hôm nay là ngày thánh cho Chúa chúng ta. Chớ buồn rầu, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức mạnh của chúng ta.”
\s5
\v 11 Vậy người Lê-vi trấn an dân sự, nói rằng, “Xin yên lặng! Vì hôm nay là ngày thánh. Chớ buồn rầu. ”
\v 12 Toàn dân trở về nhà ăn uống, chia sẻ đồ ăn và hớn hở lắm vì họ đã hiểu những lời được công bố cho họ.
\s5
\v 13 Ngày thứ nhì, các tộc trưởng trong dân chúng, thầy tế lễ và người Lê-vi, đến gặp thầy thông giáo E-xơ-ra để học hỏi những lời luật pháp.
\v 14 Họ thấy trong luật pháp có chép rằng Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se là dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong lều vào dịp lễ tháng bảy.
\v 15 Họ phải rao báo trong tất cả các thành phố và Giê-ru-sa-lem rằng, “Hãy lên vùng cao nguyên, đem về những nhánh cây ô-liu và ô-liu hoang, nhánh cây sim, cây cọ và nhánh cây rậm, đặng làm lều tạm, như đã chép.”
\s5
\v 16 Vậy dân sự đi ra và đem về các nhánh cây rồi dựng lều, người thì dựng trên mái nhà mình, người thì dựng trong sân, trong sân nhà Đức Chúa Trời, ở quảng trường của Cổng Nước, và ở quảng trường Cổng Ép-ra-im.
\v 17 Toàn thể hội chúng gồm những người trở về từ chốn làm phu tù đã dựng lều và ở trong đó. Vì từ ngày của Giô-suê con trai Nun cho đến hôm đó, dân Y-sơ-ra-ên chưa từng tổ chức lễ này. Dân sự đều rất hớn hở.
\s5
\v 18 Bên cạnh đó, mỗi ngày, từ ngày đầu đến ngày cuối, E-xơ-ra đọc Sách Luật pháp Đức Chúa Trời. Họ giữ lễ trong bảy ngày, và ngày thứ tám là ngày bế mạc trọng thể, theo quy định.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Bấy giờ, cũng trong tháng ấy, nhằm ngày hai mươi bốn, dân Y-sơ-ra-ên nhóm họp, kiêng ăn, mặc vải bố, và rải tro lên đầu.
\v 2 Con cháu Y-sơ-ra-ên phân rẽ khỏi những người ngoại quốc. Họ đứng dậy xưng tội mình và những việc ác của tổ phụ họ.
\s5
\v 3 Họ đứng ngay tại chỗ của họ, và đọc Sách Luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời suốt một phần tư ngày. Một phần tư ngày còn lại, họ xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\v 4 Người Lê-vi, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng trên các bậc thang và lớn tiếng kêu cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 5 Sau đó người Lê-vi, Giê-sua, và Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Pê-tha-hia nói, “Hãy đứng dậy dâng lời ngợi khen cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của quý vị đời đời. ” “Chúc tán danh vinh hiển của Ngài, nguyện danh Ngài được tôn cao hơn mọi lời chúc tụng và ngợi khen.
\v 6 Ngài là Giê-hô-va. Đấng duy nhất. Ngài đã dựng nên trời, các từng trời cao ngất, với toàn thể thiên binh, và trái đất cùng mọi vật trong nó, biển cả và mọi vật dưới biển. Ngài ban sự sống cho muôn loài, và các thiên binh trên trời tôn thờ phượng.
\s5
\v 7 Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời, Đấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ xứ Canh-đê, và đặt tên ông là Áp-ra-ham.
\v 8 Ngài thấy ông trọn lòng trung tín trước mặt Ngài, và Ngài đã lập giao ước cùng ông để ban cho con cháu ông xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-ga-sít. Ngài đã giữ lời hứa Ngài vì Ngài là Đấng công bình.
\s5
\v 9 Ngài thấy hoạn nạn của cha ông chúng con ở Ai Cập, và Ngài nghe tiếng than khóc của họ ở biển Đỏ.
\v 10 Ngài làm các dấu kỳ và phép lạ nghịch lại Pha-ra-ôn, các quần thần, và trên cả dân trong xứ ông ấy, vì Ngài biết rằng người Ai Cập đã cư xử ngạo mạn với họ. Nhưng Ngài đã lập cho Ngài một danh đứng vững đến hôm nay.
\s5
\v 11 Ngài đã rẽ biển trước mặt họ, để họ đi qua biển như trên đất khô; và Ngài quăng những kẻ rượt đuổi họ vào vực sâu, như hòn đá rớt xuống nước sâu.
\s5
\v 12 Ngài dẫn họ bằng một trụ mây ban ngày, và một trụ lửa ban đêm, đặng soi đường cho họ đi.
\v 13 Ngài ngự xuống trên Núi Si-nai và phán với họ từ trời, ban cho họ những luật lệ công chính và luật pháp chân thật, các đạo luật và điều răn tốt lành.
\s5
\v 14 Ngài tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và ban cho họ điều răn, đạo luật và luật pháp qua Môi-se tôi tớ Ngài.
\v 15 Ngài ban bánh từ trời khi họ đói, và nước chảy từ vầng đá khi họ khát, và Ngài bảo họ vào chiếm xứ mà Ngài đã thề ban cho họ.
\s5
\v 16 Nhưng họ, tổ phụ chúng con đã không tôn kính Ngài, họ cứng đầu, không nghe theo điều răn Ngài.
\v 17 Họ không chịu lắng nghe, và không nghĩ đến những phép lạ mà Ngài đã làm ở giữa họ, họ cứng cổ, và trong cơn phản nghịch họ đã lập một người lãnh đạo để đưa họ trở lại kiếp nô lệ. Nhưng Ngài là Đức Chúa Trời hay tha thứ, nhân từ và có lòng thương xót, chậm nóng giận, và đầy dẫy tình thương vững bền. Ngài không từ bỏ họ.
\s5
\v 18 Ngài đã không từ bỏ họ ngay cả khi họ nấu chảy kim loại dựng nên một con bê và nói rằng, Đây là Đức Chúa Trời của các người, đấng đã đem các người ra khỏi Ai Cập, trong khi họ phạm tội báng bổ quá đáng.
\v 19 Vì lòng thương xót của Ngài, Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc. Trụ mây dẫn đường ban ngày không rời khỏi họ, và trụ lửa ban đêm soi sáng cũng không lìa khỏi họ.
\s5
\v 20 Ngài ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ, và không giữ ma-na khỏi miệng họ, Ngài ban nước cho họ khi khát.
\v 21 Ngài chu cấp cho họ trong hoang mạc suốt bốn mươi năm, họ chẳng thiếu thốn gì. Quần áo họ không mòn và chân họ không sưng phồng.
\s5
\v 22 Ngài ban cho họ các vương quốc và các dân, Ngài ban cho họ đất ở mọi nơi. Họ chiếm xứ của Si-hôn, vua Hẹt-bôn, và xứ của Óc, vua Ba-san.
\s5
\v 23 Ngài khiến con cái họ đông như sao trên trời, và Ngài đem họ vào xứ. Ngài bảo tổ phụ họ đi vào chiếm xứ đó.
\v 24 Vậy dân sự ra đi và chiếm lấy xứ, Ngài đuổi cư dân của xứ khuất mắt họ, tức dân Ca-na-an. Ngài phó vào tay họ, tức là các vua và các dân trong xứ, để Y-sơ-ra-ên muốn làm gì với chúng tùy ý họ.
\s5
\v 25 Họ chiếm các thành trì kiên cố và xứ màu mỡ, họ chiếm nhà cửa đầy những vật tốt đẹp, bể chứa nước đã được làm sẵn, vườn nho và rẫy ô-liu, cùng vô số cây ăn trái. Vậy họ ăn uống no nê và thỏa mãn, họ vui mừng trong sự tốt lành của Ngài.
\s5
\v 26 Sau đó họ bất tuân và chống nghịch Ngài. Họ bỏ luật pháp của Ngài sau lưng. Họ giết các tiên tri của Ngài là những người đã cảnh cáo họ phải quay trở lại với Ngài, họ phạm tội báng bổ ghê gớm.
\v 27 Vì vậy Ngài phó họ vào tay những kẻ thù nghịch, tức là những kẻ khiến họ đau khổ. Rồi khi đang bị đau khổ, họ kêu cầu lên Ngài và từ trời cao Ngài nghe họ, Ngài đã nhiều lần giải cứu họ khỏi tay kẻ thù nghịch vì cớ lòng thương xót lớn lao của Ngài.
\s5
\v 28 Nhưng sau khi họ được yên nghỉ, họ lại làm điều ác trước mặt Ngài, Ngài phó họ vào tay quân thù, để quân thù cai trị họ. Nhưng khi họ quay trở lại và kêu cầu Ngài, từ trời Ngài nghe họ, và Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài.
\v 29 Ngài cảnh cáo họ để họ quay trở lại với luật pháp Ngài. Tuy nhiên họ cư xử ngạo mạn và không nghe theo mệnh lệnh Ngài. Họ chống lại luật lệ Ngài, là luật lệ ban sự sống cho những ai vâng giữ. Họ không vâng giữ, họ không để tâm và thậm chí từ chối nghe theo những điều đó.
\s5
\v 30 Trong nhiều năm, Ngài chịu đựng họ và dùng Thần Linh Ngài cảnh cáo họ qua các tiên tri. Nhưng họ không lắng nghe. Vậy Ngài phó họ vào tay các dân tộc lân bang.
\v 31 Tuy vậy, bởi lòng thương xót lớn lao của Ngài, Ngài không tiêu diệt hoặc bỏ rơi họ, vì Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ và hay thương xót.
\s5
\v 32 Vậy bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của chúng con, là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng và đáng kinh sợ, Đấng giữ giao ước và tình yêu bền vững, xin đừng xem sự gian khổ này là chuyện nhỏ trên chúng con, các vua chúng con, các hoàng tử chúng con, các thầy tế lễ chúng con, các tiên tri của chúng con, tổ phụ của chúng con, và dân tộc của chúng con, từ thời các vua A-sy-ri cho đến hôm nay.
\v 33 Ngài là Đấng công bình trong mọi sự chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử một cách thành tín, còn chúng con thì lại hành động gian tà.
\v 34 Các vua, hoàng tử, thầy tế lễ, và tổ phụ chúng con không giữ luật pháp Ngài, cũng không chú tâm đến điều răn Ngài hoặc những điều luật giao ước mà Ngài đã cảnh cáo họ.
\s5
\v 35 Ngay cả trong vương quốc của họ, trong khi họ đang vui hưởng sự tốt lành lớn lao của ngài trên họ, trong xứ rộng lớn và màu mỡ mà Ngài đặt trước mặt họ, họ cũng không phục vụ Ngài hoặc từ bỏ những con đường xấu xa.
\s5
\v 36 Bây giờ chúng con làm nô lệ trong xứ Ngài đã ban cho tổ phụ chúng con được hưởng, là xứ có đầy hoa quả và vật tốt tươi, và kìa, chúng con làm nô lệ!
\v 37 Hoa lợi màu mỡ của xứ chúng con rơi vào tay các vua mà Ngài đã lập trên chúng con vì cớ tội lỗi chúng con. Họ cai trị thân thể chúng con và gia súc chúng con tùy ý họ. Chúng con thật đang trong cảnh khốn cùng quá.
\s5
\v 38 Vì cớ những điều này, chúng con lập một giao ước chắc chắn bằng cách viết xuống. Trên các văn kiện niêm yết này có tên các hoàng tử, người Lê-vi, và các thầy tế lễ của chúng con.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Những người ký tên trên các văn kiệm niêm yết là: quan thống đốc Nê-hê-mi con Ha-ca-lia, và các thầy tế lễ đã ký tên là Xê-đêkia,
\v 2 Sê-ra-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi,
\v 3 Pha-su-rơ, A-ma-ria, Manh-ki-gia,
\s5
\v 4 Hát-tút, Sê-ba-nia, Manh-lúc,
\v 5 Ha-rim, Mê-rê-mốt, Áp-đia,
\v 6 Đa-ni-ên, Ghin-nê-thôn, Ba-rúc,
\v 7 Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min,
\v 8 Ma-a-xia, Binh-gai, và Sê-ma-gia. Những người này là các thầy tế lễ.
\s5
\v 9 Những người Lê-vi là: Giê-sua con A-xa-nia, Binh-nui thuộc gia đình của Hê-na-đát, Cát-mi-ên,
\v 10 và những anh em Lê-vi của họ, Sê-ba-nia, Hô-đia, Kê-li-ta, Phê-la-gia, Ha-nan,
\v 11 Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bia,
\v 12 Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia,
\v 13 Hô-đia, Ba-ni, và Bê-ni-nu.
\v 14 Những người lãnh đạo dân sự là: Pha-rốt, Pa-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni,
\s5
\v 15 Bun-ni, A-xơ-gát, Bê-bai,
\v 16 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đin,
\v 17 A-te, Ê-xê-chia, A-xu-rơ,
\v 18 Hô-đia, Ha-sum, Bê-xai,
\v 19 Ha-ríp, A-na-tốt, Nê-bai,
\v 20 Mách-pi-át, Mê-su-lam, Hê-xi-rơ,
\v 21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Giát-đua,
\s5
\v 22 Phê-la-tia, Ha-nan, A-na-gia,
\v 23 Ô-sê, Ha-na-nia, Hát-súp,
\v 24 Ha-lô-hết, Pin-ha, Sô-béc,
\v 25 Rê-hum, Ha-sáp-na, Ma-a-sê-gia,
\v 26 A-hi-a, Ha-nan, A_nan,
\v 27 Manh-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na.
\s5
\v 28 Những người còn lại trong dân là các thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cổng, ca sĩ, những người phục vụ trong đền thờ, và những người tách mình ra khỏi dân của các xứ lân bang và cam kết tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời, bao gồm vợ, con trai và con gái của họ, là những người có sự thông biết và hiểu biết,
\v 29 họ cùng hiệp với anh em mình, giới quý tộc, lập một lời nguyền và lời thề nguyện bước theo luật pháp của Đức Chúa Trời, là luật đã được ban ra bởi Môi-se tôi tớ Đức Chúa Trời, và vâng theo mọi điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, cùng các điều luật và đạo luật của Ngài.
\s5
\v 30 Chúng con hứa sẽ không gả con gái chúng tôi cho dân trong xứ hoặc cho con trai chúng con cưới con gái của họ.
\v 31 Chúng con cũng hứa rằng nếu dân trong xứ đem hàng hóa hoặc lúa bán trong ngày Sa-bát, chúng con sẽ không mua trong ngày Sa-bát hoặc trong bất kỳ ngày thánh nào. Cứ mỗi khi đến năm thứ bảy, chúng con sẽ để đồng ruộng nghỉ ngơi, chúng con sẽ xóa nợ.
\s5
\v 32 Chúng con sẽ dâng một phần ba siếc-lơ hàng năm cho việc phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời,
\v 33 đặng có chi phí làm bánh trần thiết, của lễ chay thường kỳ, của lễ thiêu vào ngày Sa-bát, các lễ hội trăng mới và các ngày lễ theo hạn định, các của lễ thánh, và của lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, cũng như cho mọi công việc trong nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 34 Các thầy tế lễ, người Lê-vi và dân sự bốc thăm để dâng củi. Thăm sẽ quyết định gia đình nào dâng củi vào nhà Đức Chúa Trời theo hạn định hàng năm. Củi sẽ được đốt trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, như có chép trong luật pháp.
\v 35 Chúng con hứa đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va những hoa quả đầu mùa từ đất đai ccủa chúng con, tức hoa quả của cây cối mỗi năm.
\v 36 Và như đã chép trong luật pháp, chúng con hứa dâng vào nhà Đức Chúa Trời và trình thầy tế lễ tại đó các con trai đầu lòng và con đầu lòng trong bầy súc vật của chúng tôi.
\s5
\v 37 Chúng con sẽ dâng phần bột nhào đầu tiên và của lễ chay của chúng con, hoa quả của cây cối, rượu mới và dầu mới cho thầy tế lễ, cho kho của nhà Đức Chúa Trời. Chúng con sẽ nộp cho người Lê-vi phần mười huê lợi của chúng con vì người Lê-vi thâu phần mười ở tất cả các thành phố chúng con làm việc.
\v 38 Phải có một thầy tế lễ là con cháu của A-rôn có mặt với người Lê-vi khi họ thu phần mười. Người Lê-vi phải đem một phần mười trong số phần thu vào nhà Đức Chúa trời, tức là phòng chứa trong kho.
\s5
\v 39 Vì dân Y-sơ-ra-ên và con cháu Lê-vi phải đóng góp lúa, rượu mới và dầu vào phòng chứa là nơi có chứa các vật dụng trong đền thánh và có thầy tế lễ phục vụ, người gác cổng và ca sĩ phục vụ. Chúng con sẽ không lơ là nhà của Đức Chúa Trời chúng con.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Các lãnh đạo của dân sống tại Giê-ru-sa-lem, và những người còn lại đã bắt thăm để đem một phần mười dân đến sống ở thành thánh Giê-ru-sa-lem, còn chín phần kia vẫn ở lại trong các thành khác.
\v 2 Dân sự chúc phước cho tất cả những ai sẵn sàng đến định cư tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Đây là các quan chức cấp tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, trong các thành ở Giu-đa, ai nấy đều ở trên đất của mình, bao gồm một số người Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, người Lê-vi, người phục vụ đền thờ, và con cháu của các tôi tớ vua Sa-lô-môn.
\v 4 Một số người thuộc con cháu Giu-đa và một số người thuộc con cháu Ben-gia-min sống tại Giê-ru-sa-lem. Về phía người Giu-đa gồm: A-tha-gia con U-xia, cháu Xa-cha-ri, chắt A-ma-ria, chút Sê-pha-tia, chít Ma-ha-la-ên, thuộc con cháu Phê-rê.
\s5
\v 5 Ma-a-sê-gia con Ba-rúc, cháu Côn Hô-xê, chắt Ha-xa-gia, chút A-đa-gia, chít Giô-gia-ríp con Xa-cha-ri, thuộc con cháu Si-lô-ni.
\v 6 Tổng số con trai của Phê-rê sống tại Giê-ru-sa-lem là 468người. Họ là những người nổi tiếng.
\s5
\v 7 Sau đây là con cháu Ben-gia-min: San-lu con Mê-su-lam, cháu Giô-ết, chắt Phê-đa-gia, chút Cô-la-gia, chít Ma-a-sê-gia con Y-thi-ên, cháu Giê-sa-gia.
\v 8 Kế ông là Gáp-bai và Sanh-lai, tổng cộng 928người.
\v 9 Giô-ên con Xích-ri là chỉ huy, và Giu-đa con Ha-sê-nu-a là phó thị trưởng trong thành phố.
\s5
\v 10 Trong hàng tế lễ có: Giê-đa-gia con Giô-gia-ríp, Gia-kin,
\v 11 Sê-ra-gia con Hinh-kia, cháu Mê-su-lam, chắt Xa-đốc, chút Mê-ra-giốt, chít A-hi-túp, người quản lý nhà của Đức Chúa Trời,
\v 12 và các anh em của họ làm công việc trong đền thờ, tổng là 822người, cùng với A-đa-gia con Giê-rô-ham, cháu Phê-la-gia, chắt Am-xi, chút Xa-cha-ri, chít Pha-su-rơ - cháu Manh-ki-gia.
\s5
\v 13 Các tộc trưởng cùng làm với họ, tổng cộng 242người, cùng với A-ma-sai con A-xa-rên, cháu A-xai, chắt Mê-si-lê-mốt, chút Y-mê,
\v 14 và các anh em của họ, là những lính chiến can đảm, tổng 128người; lãnh đạo của họ là Xáp-đi-ên con Ha-ghê-đô-lim.
\s5
\v 15 Trong nhóm người Lê-vi có: Sê-ma-gia con Hát-súp, cháu A-ri-cam, chắt Ha-sa-bia, chút Bun-ni,
\v 16 cùng Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, là những lãnh đạo của người Lê-vi và phụ trách công việc bên ngoài nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 17 Có Mát-ta-nia con Mi-ca, cháu Xáp-đi, chắt A-sáp, là người hướng dẫn việc dâng lời cầu nguyện tạ ơn, và Bác-búc-kia, là phó ban trong bà con của ông, cùng Áp-đa con Sam-mua, cháu Ga-lan, chắt Giê-đu-thun.
\v 18 Có 284người Lê-vi trong thành thánh.
\s5
\v 19 Về những người gác cổng có: Ạc-cúp, Tanh-môn, và các anh em của họ, là người gác cổng, tổng cộng 172người.
\v 20 Số còn lại trong dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ và người Lê-vi đều sống trong các thị trấn ở Giu-đa. Mọi người sống trên phần sản nghiệp của mình.
\v 21 Những người phục vụ đền thờ sống tại Ô-phên, Xi-ha và Ghích-pa là chỉ huy của họ.
\s5
\v 22 Các lãnh đạo của người Lê-vi tại Giê-ru-sa-lem là U-xi con Ba-ni, cháu Ha-sa-bia, chắt Mát-ta-nia, chút Mi-ca, thuộc con cháu A-sáp, là những ca sĩ làm việc ca hát trong nhà Đức Chúa Trời.
\v 23 Vua có ra lệnh cho họ và cũng ra lệnh cấp lương cho họ theo hạn định mỗi ngày.
\v 24 Phê-tha-hia con Mê-sê-xa-bên, thuộc dòng dõi của Xê-ra, con cháu Giu-đa, làm cố vấn cho vua về mọi vấn đề liên quan đến dân chúng.
\s5
\v 25 Về các làng mạc và đồng ruộng của họ, một số người Giu-đa định cư tại Ki-ri-át Ạc-ba và các làng phụ cận, tại Đi-bôn và các làng phụ cận, tại Giê-cáp-xê-ên và các làng phụ cận.
\v 26 Họ cũng định cư tại Giê-sua, Mô-la-đa, Bết Pê-lết,
\v 27 Ha-xa Su-an, và Bê-e-sê-ba và các làng phụ cận.
\s5
\v 28 Họ định cư tại Xích-lác, Mê-cô-na và các làng phụ cận,
\v 29 En-rim-môn, Xô-ra, Gia-mút,
\v 30 Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng phụ cận, tại La-kích và các đồng ruộng phụ cận và A-xê-kha và các làng phụ cận. Vậy họ định cư từ Bê-e-sê-ba đến thung lũng Hin-nôm.
\v 31 Dân Ben-gia-min cũng định cư từ Ghê-ba trở đi, tại Mích-mát và Ai-gia, tại Bê-tên và các làng phụ cận.
\v 32 Họ cũng định cư tại A-na-tốt, Nốp, A-na-nia,
\v 33 Ha-xơ, Ra-ma, Ghít-ta-im,
\v 34 Ha-đít, Xê-bô-im, Nê-ba-lát,
\v 35 Lốt, và Ô-nô, thung lũng của thợ thủ công.
\v 36 Một sống người Lê-vi ở Giu-đa được cho định cư với người Ben-gia-min.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là những thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương với Xê-ru-ba-bên con Sê-an-ti-ên và với Giê-sua: Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra,
\v 2 A-ma-ria, Manh-lúc, Hát-tút,
\v 3 Sê-ca-nia, Rê-hum, và Mê-rê-mốt.
\s5
\v 4 Y-đô, Ghin-nê-thôi, A-bi-gia,
\v 5 Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga,
\v 6 Sê-ma-gia, và Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia,
\v 7 Sanh-lu, A-mốc, Hinh-kia, và Giê-đa-gia. Họ là các lãnh đạo và cộng sự của các thầy tế lễ trong thời Giê-sua.
\s5
\v 8 Những người Lê-vi gồm có Giê-sua, Binh-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa và Mát-ta-nia, họ phụ trách các bài ca cảm tạ cùng với các cộng sự.
\v 9 Bác-búc-kia và Un-ni, cùng các cộng sự, đứng đối diện nhau khi hành lễ.
\s5
\v 10 Giê-sua là cha của Giô-gia-kim, Giô-gia-kim là cha của Ê-li-a-síp, Ê-li-a-síp là cha của Giô-gia-đa,
\v 11 Giô-gia-đa là cha của Giô-na-than, và Giô-na-than là cha của Giát-đua.
\s5
\v 12 Trong thời Giô-gia-ki, đây là các thầy tế lễ làm trưởng tộc: Mê-ra-gia là lãnh đạo của Sê-ra-gia, Ha-na-nia là lãnh đạo của Giê-rê-mi,
\v 13 Mê-su-lam là lãnh đạo của E-xơ-ra, Giê-hô-ha-nan là lãnh đạo của A-ma-ria,
\v 14 Giô-na-than là lãnh đạo của Manh-lu-chi, và Giô-sép là lãnh đạo của Sê-ba-nia.
\s5
\v 15 Tiếp theo, Át-na là lãnh đạo của Ha-rim, Hên-cai là lãnh đạo của Mê-ra-giốt,
\v 16 Xa-cha-ri là lãnh đạo của Y-đô, Mê-su-lam là lãnh đạo của Ghin-nê-thôn, và
\v 17 Xích-ri là lãnh đạo của A-bi-gia. Cũng có một lãnh đạo của Mi-ni-a-min. Pin-tai là lãnh đạo của Mô-a-đia.
\v 18 Sam-mua là lãnh đạo của Binh-ga, Giê-hô-na-than là lãnh đạo của Sê-ma-gia,
\v 19 Mát-tê-nai là lãnh đạo của Giô-gia-ríp, U-xi là lãnh đạo của Giê-đa-gia,
\v 20 Canh-lai là lãnh đạo của Sanh-lai, Ê-be là lãnh đạo của A-mốc,
\v 21 Ha-sa-bia là lãnh đạo của Hinh-kia, và Nê-tha-nên là lãnh đạo của Giê-đa-gia.
\s5
\v 22 Trong thời của Ê-li-a-síp, về người Lê-vi, Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Xát-đua được ghi trong sổ là trưởng tộc, và các thầy tế lễ cũng được ghi sổ trong thời của Đa-ri-út vua Ba-tư.
\v 23 Con cháu Lê-vi và các trưởng tộc của họ được ghi trong Sách Sử biên niên cho đến đời Giô-ha-nan con Ê-li-a-síp.
\s5
\v 24 Các lãnh đạo của người Lê-vi là Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua con Cát-mi-ên, cùng các cộng sự đứng đối diện nhau ngợi khen và dâng lời tạ ơn, đối đáp theo từng ban, theo lệnh của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.
\v 25 Mát-ta-nia, Bác-búc-kia, Áp-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và Ạc-cúp là những người gác cổng canh giữ các nhà kho của cổng.
\v 26 Họ phục vụ trong thời Giô-gia-kim con Giê-sua, cháu Giô-xa-đác, và trong thời quan thống đốc Nê-hê-mi và thầy tế lễ và thông giáo E-xơ-ra.
\s5
\v 27 Khi khánh thành vách thành Giê-ru-sa-lem, dân sự tìm những người Lê-vi khắp mọi nơi đặng đưa họ đến Giê-ru-sa-lem hân hoan làm lễ khánh thành với lòng tạ ơn và dùng chập chỏa, đàn cầm và đàn lia mà ca hát.
\v 28 Nhóm ca sĩ tập hợp lại từ vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và từ các làng mạc của người Nê-tô-pha.
\s5
\v 29 Họ cũng đến từ Bết-Ghinh-ganh và từ các đồng ruộng ở Ghê-ba và A-ma-vết, vì các ca sĩ đã xây làng định cư quanh Giê-ru-sa-lem.
\v 30 Thầy tế lễ và người Lê-vi tự mình thanh tẩy, sau đó họ thanh tẩy dân sự, các cổng và vách thành.
\s5
\v 31 Sau đó, tôi đưa các lãnh đạo của Giu-đa lên trên vách thành, và tôi chọn hai ca đoàn lớn để dâng lời tạ ơn. Nhóm thứ nhất rẽ qua bên phải vách thành về phía Cổng Phân.
\s5
\v 32 Hô-sa-gia và một nửa lãnh đạo của Giu-đa theo sau họ,
\v 33 cùng với A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam,
\v 34 Giu-đa, Ben-gia-min, Sê-ma-gia, Giê-rê-mi,
\v 35 và một số con trai thầy tế lễ thổi kèn, cùng Xa-cha-ri con Giô-na-than, cháu Sê-ma-gia, chắt Mát-ta-nia, chút Mi-ca-gia, chít Xác-cua, thuộc dòng dõi A-sáp.
\s5
\v 36 Cũng có các họ hàng của Xa-cha-ri, gồm Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, Ha-na-ni, sử dụng nhạc khí của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. Thầy thông giáo E-xơ-ra dẫn đầu họ.
\v 37 Tại Cổng Suối, họ theo bậc thang của thành Đa-vít đi thẳng lên dốc của vách thành, phía trên cung Đa-vít, đến Cổng Nước ở phía đông.
\s5
\v 38 Ca đoàn thứ nhì gồm những người tạ ơn đi theo hướng khác. Tôi và nửa dân sự đi theo họ trên vách thành, phía trên Tháp Lò, đến Tường Rộng,
\v 39 ngang qua Cổng Ép-ra-im, Cổng Cũ, Cổng Cá, Cổng Ha-na-nên và Cổng Trăm, đến Cổng Chiên, rồi dừng lại tại Cổng Bảo vệ.
\s5
\v 40 Vậy cả hai ca đoàn cảm tạ đứng trong nhà Đức Chúa Trời, tôi cũng đứng với một nửa các quan chức đi cùng tôi.
\v 41 Các thầy tế lễ đứng đó là: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Mi-ni-a-mim, Mi-ca-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia, những người thổi kèn,
\v 42 Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. Các ca sĩ hát theo sự hướng dẫn của Giê-ra-hi-a.
\s5
\v 43 Hôm đó họ dâng nhiều của lễ và vui mừng, vì Đức Chúa Trời đã ban cho họ niềm vu hớn hở. Phụ nữ và trẻ con cũng vui mừng. Tiếng vui mừng của Giê-ru-sa-lem vang đến tận xa.
\s5
\v 44 Trong ngày đó, một số người được cử phụ trách các nhà kho để nhận các khoản dâng, huê lợi đầu mùa, các khoản phần mười, họ phải gom theo tỷ lệ dành cho các thầy tế lễ và người Lê-vi theo luật định. Mỗi người phải làm việc ở ngoài đồng gần các thành. Người Giu-đa hài lòng về sự phục vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi.
\v 45 Họ thi hành trách nhiệm phục vụ Đức Chúa Trời, giữ mình tinh sạch, tuân giữ mệnh lệnh của Đa-vít và Sa-lô-môn, các ca sĩ và người gác cổng cũng vậy.
\s5
\v 46 Từ xa xưa, trong thời của Đa-vít và A-sáp, đã có những người hướng dẫn ca hát, có các bài hát ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời.
\v 47 Trong thời Xê-ru-ba-bên và Nê-hê-mi, toàn dân Y-sơ-ra-ên chu cấp hàng ngày cho các ca sĩ và người gác cổng. Họ để riêng phần dành cho người Lê-vi, và người Lê-vi để riêng phần dành cho con cháu A-rôn.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Hôm đó, họ đọc Sách của Môi-se cho dân sự nghe. Trong đó chép rằng dân A-môn hoặc dân Mô-áp muôn đời không được phép vào hội của Đức Chúa Trời.
\v 2 Đó là bởi vì họ đã không đem bánh và nước đến gặp dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ thuê Ba-la-am đi rủa sả Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời chúng tôi đã biến lời rủa sả thành một phước lành.
\v 3 Ngay khi họ nghe luật pháp, họ tách rời khỏi những người ngoại quốc ở giữa họ.
\s5
\v 4 Bấy giờ, trước khi việc này xảy ra, thầy tế lễ Ê-li-a-síp được chỉ định quản lý các nhà kho trong nhà Đức Chúa Trời của chúng tôi. Ông ấy có mối liên hệ với Tô-bi-a.
\v 5 Ê-li-a-síp chuẩn bị cho Tô-bi-a một nhà kho lớn, là nơi mà trước đó họ trữ của lễ chay, hương, vật phẩm, các khoản phần mười lúa mì, rượu mới, và dầu, là những thứ phải dành cho người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cổng, và các khoản đóng góp cho các thầy tế lễ.
\s5
\v 6 Nhưng trong thời gian này tôi không có ở tại Giê-ru-sa-lem. Vì vào năm thứ ba mươi hai trong đời Ạt-ta-xét-xe vua Ba-by-lôn, tôi đã trở về chầu vua. Sau một thời gian, tôi xin vua cho phép ra đi,
\v 7 và tôi trở về Giê-ru-sa-lem. Tôi hiểu việc ác mà Ê-li-a-síp đã làm khi cho Tô-bi-a một nhà kho trong sân nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 8 Tôi rất giận và ném tất cả vật dụng trong nhà của Tô-bi-a ra khỏi nhà kho.
\v 9 Tôi ra lệnh cho họ thanh tẩy nhà kho, và đem vào lại trong các phòng ấy những vật dụng của nhà Đức Chúa Trời, của lễ chay, và hương.
\s5
\v 10 Và tôi phát hiện là những phần được dành cho người Lê-vi đã không được phân phát cho họ, đến nỗi họ nhanh chóng rời khỏi đền thờ, trở về ruộng vườn mình, như các ca sĩ cũng đã từng làm.
\v 11 Do đó, tôi đối chất với các quan chức rằng, “Tại sao nhà Đức Chúa Trời bị bỏ bê? ” Tôi tập họp họ lại và giao cho họ các chức vụ.
\s5
\v 12 Sau đó, cả Giu-đa đem phần mười lúa mì, rượu mới, và dầu vào kho.
\v 13 Tôi chỉnh định thầy tế lễ Sê-lê-mia và thầy thông giáo Xa-đốc và Phê-đa-gia người Lê-vi làm thủ quỹ các nhà kho. Kế tiếp là Ha-nan con Xác-cua, cháu Mát-ta-nia, vì họ là những người đáng tin cậy. Họ có nhiệm vụ phân phát của dâng cho những người cùng làm việc với họ.
\v 14 Lạy Đức Chúa Trời, xin nhớ đến con vì việc này, và đừng xóa bỏ những việc tốt lành con đã làm cho nhà của Đức Chúa Trời và sự phục vụ tại đó.
\s5
\v 15 Trong những ngày đó, tôi thấy dân Giu-đa đạp máy ép nho vào ngày Sa-bát và đem đến nhiều lúa mì, chất đống trên lừa, họ cũng đem rượu, nho, trái vả, và mọi thứ nặng nề đến Giê-ru-sa-lem vào ngày Sa-bát. Tôi phản đối họ trong ngày họ bán lương thực.
\s5
\v 16 Dân Ty-rơ sống ở Giê-ru-sa-lem đem đến cá và mọi loại hàng hóa, và họ bán cho dân Giu-đa vào ngày Sa-bát và trong thành phố!
\v 17 Khi đó, tôi đối chất các lãnh đạo của người Giu-đa, “Các ông đang làm việc ác gì vậy, làm ô uế ngày Sa-bát ư?
\v 18 Chẳng phải tổ phụ chúng ta đã làm điều này sao? Và chẳng phải Đức Chúa Trời chúng ta đã không giáng sự ác này trên chúng ta và thành này sao? Bây giờ các ông đang đem đến nhiều cơn thịnh nộ hơn trên Y-sơ-ra-ên khi làm ô uế ngày Sa-bát.”
\s5
\v 19 Khi trời tối ở cổng thành Giê-ru-sa-lem trước ngày Sa-bát, tôi ra lệnh phải đóng cửa và không được mở cửa cho đến hết ngày Sa-bát. Tôi đặt một số tôi tớ của tôi đứng canh ở cổng để không có hàng hóa nào được đem đến thành trong ngày Sa-bát.
\v 20 Các lái buôn và người bán hàng đã cắm trại ngoài thành Giê-ru-sa-lem một hoặc hai lần.
\s5
\v 21 Nhưng tôi cảnh báo họ: “Tại sao các ông cắm trại ngoài thành? Nếu các ông còn tái phạm, tôi sẽ ra tay phạt các ông! ” Kể từ đó trở đi, họ không đến vào ngày Sa-bát.
\v 22 Tôi lệnh cho người Lê-vi phải thanh tẩy chính họ, đến và bảo vệ các cổng, đặng làm cho ngày Sa-bát được nên thánh. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin cũng hãy nhớ con trong ngày này, và thương xót con vì lòng trung thành với giao ước mà Ngài đã giao cho con.
\s5
\v 23 Trong những ngày đó, tôi cũng thấy người Giu-đa cưới vợ người Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp.
\v 24 Một nửa con cái của họ nói tiếng Ách-đốt, nhưng họ chẳng thể nói được tiếng Giu-đa, họ chỉ nói được tiếng của một trong các dân khác.
\s5
\v 25 Khi tôi đối chất họ, tôi rủa họ, đánh một vài người và bứt tóc họ. Tôi bắt họ chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề rằng: “Quý vị không được gả con gái mình cho con trai chúng, hoặc cưới con gái chúng cho con trai mình, hoặc cho chính quý vị.
\v 26 Chẳng phải Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã phạm tội vì những người nữ này sao? Trong vòng các dân chẳng có vua nào như ông, vì ông được Đức Chúa Trời mình yêu mến. Và Đức Chúa Trời lập ông làm vua cai trị Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, các bà vợ ngoại quốc đã khiến ông phạm tội.
\v 27 Chúng tôi có nên lắng nghe các ông và làm việc ác này và hành động phản bội Đức Chúa trời chúng tôi bằng cách cưới dân ngoại quốc không?”
\s5
\v 28 Một trong những lý do mà Giô-gia-đa, con thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp là con rể của San-ba-lát người Hô-rôn. Vì lẽ đó, tôi loại bỏ ông ấy khuất mắt tôi.
\v 29 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin hãy nhớ chúng, vì chúng đã làm ô uế chức tế lễ, giao ước của chức tế lễ và người Lê-vi.
\s5
\v 30 Do đó, tôi tẩy sạch họ khỏi những việc ngoại quốc, và thiết lập nhiệm vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi, mỗi người có nhiệm vụ riêng.
\v 31 Tôi cung cấp thêm của lễ gỗ vào thời điểm thích hợp và huê lợi đầu mùa. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con đời đời.

344
17-EST.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,344 @@
\id EST
\ide UTF-8
\h Ê-xơ-tê
\toc1 Ê-xơ-tê
\toc2 Ê-xơ-tê
\toc3 est
\mt Ê-xơ-tê
\s5
\c 1
\p
\v 1 Trong thời A-ha-suê-ru (A-ha-suê-ru này là người cai trị hơn 127 tỉnh từ Ấn Độ đến tận Ê-thi-ô-pi),
\v 2 thuở đó, Vua A-ha-suê-ru ngồi trên ngai vàng ở kinh đô Su-sa.
\s5
\v 3 Vào năm thứ ba trong triều đại, ông mở một đại tiệc đãi tất cả các quan và quần thần. Tướng lãnh quân Ba-tư và Mê-đi, các quý tộc, quan thống đốc các tỉnh đều đến tề tựu.
\v 4 Ông phô bày sự giàu có lộng lẫy của vương quốc quyền cao chức trọng huy hoàng vĩ đại của ông trong nhiều ngày, tức 180 ngày.
\s5
\v 5 Khi các ngày này đã qua rồi, vua mở tiệc thêm bảy ngày khác nữa. Tiệc này dành cho tất cả những người trong cung điện Su-sa, từ người cao trọng nhất cho đến người thấp kém nhất. Tiệc được tổ chức ở vườn thượng uyển trong hoàng cung.
\v 6 Vườn thượng uyển được trang trí bằng những tấm màn vải trắng và tím, có dây bằng vải mịn và màu tía móc vào các vòng bạc trên các trụ đá cẩm thạch. Có những chiếc trường kỷ bằng vàng và bạc trên nền khảm đá pofia, cẩm thạch, xà cừ, và đá màu.
\s5
\v 7 Thức uống được phục vụ trong những ly vàng. Mỗi ly đều độc đáo, vua đãi rượu dồi dào xứng với sự hào phóng của vua.
\v 8 Rượu được phục vụ theo lệnh vua, “Không có sự ép buộc nào cả. ” Vua đã ra lệnh tất cả những người phục vụ trong cung phải chiều ý khách.
\s5
\v 9 Ngoài ra, Hoàng hậu Vả-thi cũng đãi một bữa tiệc cho các phụ nữ trong hoàng cung Vua A-ha-suê-ru.
\v 10 Vào ngày thứ bảy, khi vua cảm thấy lâng lâng vì rượu, ông bảo Mê-hu-man, Bi-xơ-tha, Ha-bô-na, Bích-tha, A-bát-tha, Xê-tha, và Cạt-ca (bảy quan phục vụ trước mặt vua),
\v 11 đem Hoàng hậu Vả-thi, đầu đội mão triều đến diện kiến ông. Ông muốn khoe cho dân chúng và các quan thấy vẻ đẹp của bà, vì bà là người có nhan sắc.
\s5
\v 12 Nhưng Hoàng hậu Vả-thi từ chối đến theo lệnh vua đã truyền cho các quan mời bà đến. Vua rất tức giận; cơn giận thiêu đốt trong lòng ông.
\s5
\v 13 Do đó, vua hội ý với những người khôn ngoan, là những người am hiểu tình hình (vì vua có thủ tục tham khảo tất cả những chuyên gia về luật và xử trí).
\v 14 Bấy giờ, những cận thần của ông là Ca-sê-na, Sê-tha, Át-ma-tha, Tạt-si, Mê-rê, Ma-sê-na, và Mê-mu-can, bảy thượng thư của Mê-đi Ba-tư. Họ được yết kiến vua và giữ những chức vụ cao nhất trong vương quốc.
\v 15 “Theo luật, phải làm gì với Hoàng hậu Vả-thi vì nàng không tuân lệnh Vua A-ha-suê-ru đã truyền cho các quan?”
\s5
\v 16 Mê-mu-can nói trước mặt vua và các quan chức, “Vả-thi không chỉ đắc tội với bệ hạ mà còn đắc tội với các quan và toàn dân trong tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru.
\v 17 Vì hết thảy những người phụ nữ đều sẽ biết hành động của hoàng hậu. Việc ấy sẽ khiến họ coi thường chồng. Họ sẽ nói, Vua A-ha-suê-ru đã ra lệnh đem hoàng hậu Vả-thi đến yết kiến nhưng bà ấy từ chối.
\v 18 Ngay hôm nay, những phu nhân của Mê-đi Ba-tư nghe chuyện của hoàng hậu sẽ thuật lại với các quan chức của bệ hạ. Sẽ có lắm chuyện coi thường và giận dữ.
\s5
\v 19 Nếu bệ hạ đẹp lòng, xin ban một chiếu chỉ, chép vào luật của người Ba-tư và Mê-đi để không thể nào bị hủy bỏ, rằng Vả-thi không được diện kiến vua nữa. Bệ hạ hãy trao vị trí hoàng hậu cho một người khác xứng đáng hơn.
\v 20 Khi chiếu chỉ của bệ hạ được công bố trong khắp vương quốc, tất cả những người vợ sẽ tôn trọng chồng mình, từ người cao trọng nhất cho đến người thấp kém nhất.”
\s5
\v 21 Vua và các quý tộc cảm thấy hài lòng với lời khuyên này, và ông làm theo đề xuất của Mê-mu-can.
\v 22 Ông gửi thư cho tất cả các tỉnh, thư được viết theo chữ viết của từng tỉnh và gửi cho từng nhóm dân theo ngôn ngữ của họ. Ông ra lệnh rằng người nam phải là chủ trong gia đình. Chiếu chỉ này được truyền bằng ngôn ngữ của từng dân trong đế quốc.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Sau những việc này, khi cơn giận của Vua A-ha-suê-ru đã nguôi ngoai, vua nhớ Vả-thi và những việc bà đã làm. Vua cũng nhớ chiếu chỉ mà vua đã ban ra để chống lại bà.
\v 2 Khi đó, các quan hầu cận vua nói rằng, “Phải tìm cho bệ hạ những trinh nữ trẻ đẹp.
\s5
\v 3 Bệ hạ hãy chỉ định các quan trong tất cả các tỉnh của vương quốc tập hợp tất cả những trinh nữ trẻ đẹp đến hậu cung ở Su-sa. Xin bệ hạ giao cho Hê-gai, quan thái giám của bệ hạ chịu trách nhiệm về những người nữ và cung cấp cho họ mỹ phẩm.
\v 4 Thiếu nữ nào đẹp lòng bệ hạ sẽ trở thành hoàng hậu thay cho Vả-thi. ” Vua hài lòng với lời khuyên này, và ông làm y như vậy.
\s5
\v 5 Có một người Do Thái ở kinh đô Su-sa tên là Mạc-đô-chê, con Giai-rơ, cháu Si-mê-i, chắt Kích, thuộc chi phái Bên-gia-min.
\v 6 Ông bị bắt rời khỏi Giê-ru-sa-lem cùng các phu tù và Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, là người mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bắt lưu đày.
\s5
\v 7 Ông nuôi nấng Ha-đa-sa, hay còn gọi là Ê-xơ-tê, con gái của chú ông, vì nàng mồ côi cha mẹ. Thiếu nữ ấy có một hình dáng xinh đẹp và diện mạo dễ thương. Mạc-đô-chê xem nàng như con gái mình.
\s5
\v 8 Khi lệnh và chiếu chỉ của vua được ban ra, nhiều thiếu nữ được đem đến kinh đô Su-sa. Họ ở dưới quyền quản lý của Hê-gai. Ê-xơ-tê cũng được đem vào cung vua và ở được Hê-gai quản lý, ông là người trông coi những người nữ.
\v 9 Người thiếu nữ này đẹp lòng ông, và khiến ông có cảm tình. Ngay lập tức ông cung cấp cho nàng các mỹ phẩm và phần thức ăn. Ông giao cho nàng bảy cung nữ trong hoàng cung, ông chuyển nàng và các cung nữ đến chỗ tốt nhất dành cho phụ nữ.
\s5
\v 10 Ê-xơ-tê không tiết lộ cho bất kỳ ai về gốc gác dân tộc hay họ hàng của nàng, vì Mạc-đô-chê đã dặn nàng không được nói.
\v 11 Hàng ngày Mạc-đô-chê lui tới trước sân bên ngoài hậu cung đặng dò la tình hình của Ê-xơ-rê và những việc sẽ được thực hiện liên quan đến nàng.
\s5
\v 12 Khi đến lượt các cô gái phải đến ra mắt Vua A-ha-suê-ru chiếu theo quy định dành cho phụ nữ, mỗi cô phải trải qua mười hai tháng làm đẹp, sáu tháng xức dầu mộc dược, và sáu tháng xức dầu thơm và mỹ phẩm
\v 13 khi một thiếu nữ đến ra mắt vua, bất cứ điều gì nàng muốn cũng được hậu cung chu cấp để đem theo khi đến cung điện.
\s5
\v 14 Nàng sẽ vào cung vào buổi chiều, và sáng hôm sau nàng sẽ trở về hậu cung, và ở dưới sự coi sóc của Sa-ách-ga, quan thái giám của vua, người phụ trách các nàng hầu. Nàng sẽ không được trở lại gặp vua nếu vua không ưng nàng và gọi nàng nữa.
\s5
\v 15 Bấy giờ khi đến lượt Ê-xơ-tê (con gái A-bi-ha-in, chú Mạc-đô-chê, là người xem nàng như con gái mình) vào cung để ra mắt vua, nàng không yêu cầu thứ gì cả ngoại trừ những gì mà Hê-gai, quan chức của vua, người phụ trách các phụ nữ, đã đề nghị. Ê-xơ-tê đã giành được cảm tình của tất cả những ai thấy nàng.
\v 16 Ê-xơ-tê được đem đến Vua A-ha-suê-ru trong hoàng cung vào tháng mười, là tháng Tê-bết, năm thứ bảy trong triều đại của ông.
\s5
\v 17 Vua yêu thương Ê-xơ-tê hơn tất cả những người nữ khác, và nàng sủng ái trước mặt ông, hơn tất cả những trinh nữ khác, đến nỗi ông đội mão triều cho nàng và lập nàng làm hoàng hậu thay cho Vả-thi.
\v 18 Vua đãi một bữa tiệc lớn cho tất cả các quan và quần thần, gọi là “tiệc của Ê-xơ-tê”, và cho các tỉnh được miễn thuế. Ông cũng tặng quà xứng với sự hào phóng của hoàng gia.
\s5
\v 19 Bấy giờ khi các trinh nữ được tập hợp lần thứ nhì, khi đó Mạc-đô-chê đang ngồi ở cổng vua.
\v 20 Ê-xơ-tê chưa cho ai biết về bà con hay gốc gác dân tộc của nàng, như Mạc-đô-chê đã dặn nàng. Nàng cứ làm theo lời khuyên của Mạc-đô-chê như lúc được ông nuôi nấng.
\v 21 Trong những ngày ấy, đang khi Mạc-đô-chê ngồi ở cổng vua, hai quan của vua là Bích-than và Tê-rết, là những người canh cửa, trở nên giận dữ và muốn hại Vua A-ha-suê-ru.
\s5
\v 22 Khi Mạc-đô-chê biết chuyện, ông kể cho Hoàng hậu Ê-xơ-tê nghe, và Ê-xơ-tê thay mặt Mạc-đô-chê thuật lại cho vua nghe.
\v 23 Lời kể được điều tra và xác nhận, sau đó cả hai người đều bị treo cổ trên cây mộc hình. Sự việc này được ghi lại trong Sách Sử ký trước mặt vua.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Sau những việc này, Vua A-ha-suê-ru thăng chức cho Ha-man, con Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghít, và trao cho ông chiếc ghế quyền lực cao hơn tất cả các quan hầu cận vua.
\v 2 Hết thảy các quần thần của vua ở cổng hoàng cung luôn quỳ gối và phủ phục trước mặt Ha-man, theo lệnh vua truyền. Nhưng Mạc-đô-chê không quỳ cũng không phủ phục.
\s5
\v 3 Các quần thần của vua ở cổng hoàng cung hỏi Mạc-đô-chê, “Sao ông bất tuân lệnh vua? ”
\v 4 Ngày nào họ cũng hỏi ông, nhưng ông từ chối làm theo yêu cầu của họ. Vậy họ nói với Ha-man để xem Mạc-đô-chê còn dám như thế không, vì ông đã bảo họ rằng ông là người Do Thái.
\s5
\v 5 Khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê không quỳ lạy ông, Ha-man tức giận.
\v 6 Ông coi chuyện ra tay giết Mạc-đô-chê là tầm thường, vì các quần thần của vua đã cho ông biết dân tộc của Mạc-đô-chê là dân nào. Ha-man muốn diệt hết thảy người Do Thái, là dân tộc của Mạc-đô-chê, tức những người sống trong khắp vương quốc của A-ha-suê-ru.
\s5
\v 7 Vào tháng giêng (tức tháng Ni-san), năm thứ mười hai trong đời Vua A-ha-suê-ru, họ thảy Phu-rơ nghĩa là, họ thảy thăm trước mặt Ha-man thăm định ngày và tháng, đặng chọn một ngày và tháng cho đến khi họ chọn tháng mười hai (tức tháng A-đa).
\s5
\v 8 Khi đó, Ha-man tâu với Vua A-ha-suê-ru, “Có một dân sống tản lạc đây đó khắp các tỉnh trong vương quốc của bệ hạ. Luật của họ khác với luật của các dân khác, họ không giữ luật của bệ hạ, vì vậy nếu bệ hạ để họ sống thì quả là không phù hợp.
\v 9 Nếu đẹp ý bệ hạ, xin ban lệnh giết họ, thần sẽ cân mười ngàn ta-lâng bạc vào tay những người phụ trách công việc của bệ hạ, để họ đưa vào ngân khố của bệ hạ.”
\s5
\v 10 Vua tháo chiếc nhẫn ấn ra khỏi tay và trao cho Ha-man con Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghít, kẻ thù của dân Do Thái.
\v 11 Vua bảo Ha-man, “Tiền sẽ được trao cho ngươi và người của ngươi. Hãy sử dụng số tiền đó tùy ý ngươi.”
\s5
\v 12 Các thầy thông giáo của vua được triệu tập vào ngày mười ba tháng giêng, và một chiếu chỉ về lệnh của Ha-man được viết gửi cho các quan thống đốc tỉnh của vua, là các quan cai trị tỉnh, đến các quan thống đốc của những dân khác, và các quan cai trị dân, tỉnh nào theo tỉnh nấy và dân nào theo ngôn ngữ nấy. Chiếu chỉ được viết nhân danh Vua A-ha-suê-ru và được đóng ấn bằng nhẫn của vua.
\v 13 Các chiếu chỉ đó được những người đưa tin đem đến các tỉnh của vua, để tiêu diệt, giết, và hủy diệt tất cả người Do Thái, từ nhỏ tới lớn, trẻ con và phụ nữ - trong một ngày là ngày mười ba tháng mười hai (tức tháng A-đa) và tịch biên tài sản của họ.
\s5
\v 14 Một bản sao của thư được lập thành luật ở mỗi tỉnh. Tại mỗi tỉnh, dân chúng đều biết là họ phải chuẩn bị cho ngày này.
\v 15 Người đưa tin nhanh chóng ra đi công bố lệnh của vua. Chiếu chỉ cũng được ban tại kinh đô Su-sa. Vua và Ha-man ngồi uống rượu, còn kinh đô Su-sa thì náo động.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Khi Mạc-đô-chê hay tin về mọi việc đã được thực hiện, ông xé quần áo rồi mặc áo vải gai và đội tro. Ông đi vào giữa thành, khóc lón lớn tiếng và cay đắng.
\v 2 Ông chỉ đi lên cổng vua, vì không ai mặc vải gai được phép vào trong.
\v 3 Trong mỗi tỉnh, ở bất cứ nơi nào lệnh và chiếu chỉ của vua được ban ra, thì nơi đó dân Do Thái buồn rầu lắm, họ kiêng ăn, khóc lóc, và kêu than. Nhiều người nằm trên vải gai và tro.
\s5
\v 4 Khi các nàng hầu và tôi tớ của hoàng hậu đến thuật lại cho nàng, nàng rất đau buồn. Nàng gửi quần áo cho Mạc-đô-chê (để ông cởi bỏ áo vải gai), nhưng ông không chịu nhận.
\v 5 Vậy Ê-xơ-tê gọi Ha-thách, một trong các quan của vua được giao phục vụ nàng. Nàng sai ông đến gặp Mạc-đô-chê để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra và ý nghĩa của việc đó.
\s5
\v 6 Ha-thách đi gặp Mạc-đô-chê ở quảng trường trước cổng vua.
\v 7 Mạc-đô-chê thuật lại cho ông nghe mọi điều đã xảy đến với mình, và tổng số bạc mà Ha-man đã hứa sẽ cân và đem vào ngân khố của vua để diệt người Do Thái.
\v 8 Ông cũng trao cho Ha-thách một bản sao chiếu chỉ đã được ban hành ở Su-sa về việc tiêu diệt người Do Thái. Ông làm vậy để Ha-thách có thể cho Ê-xơ-tê xem, và trao cho nàng trách nhiệm đến gặp vua để cầu xin vua chiếu cố, và thay mặt dân tộc nàng nài xin vua.
\s5
\v 9 Vậy Ha-thách trở về kể cho Ê-xơ-tê nghe điều Mạc-đô-chê đã nói.
\v 10 nói với Ha-thách và bảo ông trở lại gặp Mạc-đô-chê.
\v 11 Nàng nói, “Tất cả quần thần và dân của vua trong các tỉnh đều biết rằng nếu bất kỳ người nam hay người nữ nào đến gặp vua ở nội điện mà không có lệnh triệu tập, thì chỉ có một luật: người đó sẽ bị xử tử - ngoại trừ người nào được vua giơ trượng vàng ra thì có thể sống. Vua đã không gọi con đến gặp suốt ba mươi ngày rồi. ”
\v 12 Vậy Ha-thách thuật lại cho Mạc-đô-chê nghe lời Ê-xơ-tê nói.
\s5
\v 13 Mạc-đô-chê trả lời: “Con không được nghĩ rằng ở trong cung vua, con sẽ an toàn hơn những người Do Thái khác.
\v 14 Nếu lúc này con giữ im lặng, thì sự cứu viện và giải cứu người Do Thái sẽ đến từ nơi khác, còn con và nhà cha con sẽ tàn lụi. Ai biết được phải chăng vì thời điểm này mà con đã đạt đến vị trí sang trọng này?”
\s5
\v 15 Sau đó Ê-xơ-tê sai người nhắn với Mạc-đô-chê,
\v 16 “Chú hãy đi, tập hợp tất cả người Do Thái ở Su-sa, rồi kiêng ăn vì con. Chớ ăn hoặc uống trong ba ngày, dù là đêm hay ngày. Các nàng hầu và con sẽ kiêng ăn như vậy. Sau đó con sẽ đến gặp vua, dù điều này trái luật. Và nếu con bỏ mạng, con sẽ bỏ mạng. ”
\v 17 Mạc-đô-chê rời khỏi và làm mọi điều Ê-xơ-tê đã nói với ông.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Sau ba ngày, Ê-xơ-tê mặc triều phục và đứng ở nội điện trong cung, trước hoàng cung. Vua đang ngồi trên ngai trong cung điện, đối diện lối vào cung.
\v 2 Khi vua thấy hoàng hậu Ê-xơ-tê đang đứng trong sân, nàng chiếm được cảm tình của vua. Vua cầm cây trượng vàng trong tay giơ ra phía nàng. Ê-xơ-tê tiến đến và sờ vào đầu cây trượng.
\s5
\v 3 Vua hỏi nàng, “Hỡi Hoàng hậu Ê-xơ-tê, nàng muốn điều chi? Nàng yêu cầu điều gì? Dù đến nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho nàng. ”
\v 4 Ê-xơ-tê nói, “Nếu điều này đẹp lòng bệ hạ, xin mời bệ hạ và Ha-man hôm nay đến dự tiệc mà thiếp đã chuẩn bị.”
\s5
\v 5 Vua đáp, “Hãy nhanh chóng mời Ha-man, làm theo lời Ê-xơ-tê đã nói. ” Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc Ê-xơ-tê đã dọn sẵn.
\v 6 Khi rượu được đưa ra phục vụ trong buổi tiệc, vua hỏi Ê-xơ-tê, “Nàng xin điều chi? Nàng sẽ được đáp ứng. Nàng yêu cầu điều gì? Dù đến nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho nàng.”
\s5
\v 7 trả lời, “Điều thiếp cầu xin và yêu cầu là như thế này,
\v 8 nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, và nếu bệ hạ vừa ý muốn đáp ứng lời cầu xin của thiếp và làm theo điều thiếp thỉnh cầu. Xin mời bệ hạ và Ha-man đến dự tiệc mà thiếp sẽ dọn sẵn vào ngày mai, rồi thiếp sẽ trả lời câu hỏi của bệ hạ.”
\s5
\v 9 Hôm đó Ha-man ra ngoài, lòng vui mừng và hớn hở. Nhưng khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê ở cổng vua, Mạc-đô-chê ấy chẳng đứng dậy cũng chẳng run sợ trước mặt ông, ông giận Mạc-đô-chê lắm.
\v 10 Tuy nhiên, Ha-man nén giận và về nhà. Ông sai người đi mời các bạn ông đến gặp nhau, với Xê-rết là vợ ông.
\v 11 Ha-man thuật lại cho họ nghe vẻ chói lọi về sự giàu sang phú quý và số con trai của ông, làm thể nào ông đã thăng quan tiến chức hơn tất cả các quan và quần thần của vua.
\s5
\v 12 Ha-man nói, “Ngay cả Hoàng hậu Ê-xơ-tê chẳng mời ai khác ngoại trừ mời tôi đi với vua đến dự tiệc bà ấy dọn sẵn. Và thậm chí ngày mai tôi lại được bà mời đến dự tiệc với vua.
\v 13 Nhưng tất cả những việc tôi đang trải nghiệm đây chẳng là gì cả, chừng nào tôi còn thấy cái tên Mạc-đô-chê người Do Thái ngồi ở cổng vua.”
\s5
\v 14 Vậy Xê-rết, vợ Ha-man nói với ông và các bạn ông, “Hãy cho người dựng một mộc hình cao năm mươi cu-bít. Sáng hôm sau hãy xin vua cho treo tên Mạc-đô-chê lên đó. Sau đó hãy vui vẻ đi với vua đến dự tiệc. ” Lời này đẹp lòng Ha-man, và ông cho người dựng cây mộc hình.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Đêm đó vua không thể ngủ. Vua truyền cho các tôi tớ đem những bản ghi chép sự kiện trong triều đại đến đọc cho vua nghe.
\v 2 Người ta thấy có ghi lại rằng Mạc-đô-chê đã thuật về chuyện Bích-than và Tê-rết, hai quan giữ cửa của vua, đã âm mưu hãm hại Vua A-ha-suê-ru.
\v 3 Vua hỏi, “Mạc-đô-chê đã được chức tước hay là công nhận gì vì công lao ấy không? ” Các tôi tớ của vua tâu, “Ông ấy chẳng nhận được gì cả.”
\s5
\v 4 Vua bảo, “Ai đang ở ngoài sân? ” Bấy giờ Ha-man đã bước vào sân ngoài hoàng cung đặng tâu với vua về việc treo Mạc-đô-chê lên cây mộc hình mà ông đã dựng sẵn.
\v 5 Các tôi tớ của vua tâu, “Ha-man đang đứng ở ngoài sân. ” Vua bảo, “Hãy mời ông ấy vào. ”
\v 6 Khi Ha-man bước vào, vua hỏi, “Nên làm gì cho người mà trẫm muốn tôn trọng? ” Ha-man thầm nghĩ, “Vua muốn tôn trọng ai ngoài ta chứ?”
\s5
\v 7 Ha-man tâu với vua, “Với người mà bệ hạ muốn tôn trọng,
\v 8 xin bệ hạ sai người đem đến bộ áo triều, là vương bào mà bệ hạ đã mặc, ngựa mà bệ hạ đã cưỡi và mão triều của bệ hạ trên đầu.
\v 9 Sau đó, xin bệ hạ giao cho một trong các quan cao cấp nhất của bệ hạ chiếc vương bào và ngựa. Rồi để họ mặc cho người mà bệ hạ muốn tôn trọng, và dẫn người đó cưỡi ngựa khắp các đường phố trong thành. Họ sẽ hô trước mặt người rằng, Đây là sự đãi ngộ cho người mà vua muốn tôn trọng! ’”
\s5
\v 10 Sau đó, vua bảo Ha-man, “Hãy mau chóng lấy vương bào và ngựa, như ngươi đã nói, rồi làm như vậy cho Mạc-đô-chê người Do Thái ngồi ở cổng vua. Chớ bỏ sót điều nào trong lời ngươi vừa nói. ”
\v 11 Vậy Ha-man lấy vương bào và ngựa. Ông mặc cho Mạc-đô-chê rồi dẫn ông ấy cưỡi ngựa đi khắp các đường phố trong thành. Ông hô to trước mặc Mạc-đô-chê, “Đây là sự đãi ngộ cho người mà vua muốn tôn trọng!”
\s5
\v 12 Mạc-đô-chê trở lại cổng vua. Nhưng Ha-man thì vội vã về nhà, đau buồn và trùm đầu.
\v 13 Ha-man kể cho Xê-rết vợ ông và tất cả bạn bè của ông về mọi việc đã xảy đến với ông. Những người bạn khôn ngoan của ông và vợ ông nói, “Nếu Mạc-đô-chê, người mà ông đã bắt đầu thất bại, là một tên Do Thái, thì ông sẽ không thắng nổi hắn, chắc chắn ông sẽ thất bại trước mặt hắn. ”
\v 14 Đang khi họ còn đang nói chuyện với ông, các quan của vua đến. Họ nhanh chóng đưa Ha-man đến dự tiệc mà Ê-xơ-tê đã dọn sẵn.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc với Hoàng hậu Ê-xơ-tê.
\v 2 Vào ngày thứ nhì, trong khi đang dùng rượu, vua hỏi Ê-xơ-tê, “Hoàng hậu Ê-xơ-tê, nàng xin điều gì? Ta sẽ ban cho nàng. Nàng thỉnh cầu điều chi? Dầu đến nửa vương quốc, ta cũng sẽ ban cho nàng.”
\s5
\v 3 Hoàng hậu Ê-xơ-tê trả lời, “Nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, và nếu bệ hạ đẹp lòng, xin bệ hạ giữ mạng sống của thiếp đây là lời thỉnh cầu của thiếp, và thiếp cũng thỉnh cầu cho dân tộc của thiếp.
\v 4 Vì thiếp và dân tộc của thiếp đã bị bán để bị hủy diệt, giết, và thủ tiêu. Nếu thiếp và dân tộc của thiếp chỉ bị bán làm nô lệ, làm nam nô và nữ nô, thì thiếp sẽ giữ im lặng, vì không có nỗi khổ nào như nỗi khổ này đáng để làm bệ hạ bối rối. ”
\v 5 Vua A-ha-suê-ru hỏi hoàng hậu Ê-xơ-tê, “Hắn là ai? Ta phải tìm kẻ dã tâm làm điều đó ở đâu?”
\s5
\v 6 Ê-xơ-tê trả lời, “Kẻ thù địch, kẻ thù ấy, chính là tên Ha-man gian ác! ” Khi đó Ha-man run sợ trước mặt vua và hoàng hậu.
\v 7 Vua giận dữ đứng dậy bỏ tiệc rượu và đi vào vườn thượng uyển, còn Ha-man ở lại van xin Hoàng hậu Ê-xơ-tê tha mạng. Ông thấy vua đã ra quyết định diệt ông.
\s5
\v 8 Sau đó vua từ vườn thượng uyển trở lại phòng tiệc rượu. Ha-man đang ngã mình trên chiếc trường kỷ mà Ê-xơ-tê đang ngồi. Vua hỏi, “Hắn sẽ ám sát hoàng hậu trước mặt ta trong cung ta sao? ” Ngay khi vua vừa nói lời này, các quần thần đến trùm mặt Ha-man.
\s5
\v 9 Hạc-bô-na, một trong các quan phục vụ vua, nói, “Có một cây mộc hình cao năm mươi cu-bít bên cạnh nhà Ha-man. Hắn đã dựng sẵn cho Mạc-đô-chê, là người đã lên tiếng bảo vệ bệ hạ. ” Vua truyền, “Hãy treo hắn lên đó. ”
\v 10 Vậy họ treo Ha-man lên cây mộc hình mà ông đã dựng sẵn cho Mạc-đô-chê. Sau đó vua nguôi giận.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Hôm đó, Vua A-ha-suê-ru trao cho Hoàng hậu Ê-xơ-tê tài sản của Ha-man, tức kẻ thù của người Do Thái, và Mạc-đô-chê bắt đầu vào chầu vua, vì Ê-xơ-tê đã cho vua biết mối quan hệ giữa nàng và Mạc-đô-chê.
\v 2 Vua tháo nhẫn ấn, là nhẫn vua đã lấy lại từ Ha-man, và trao cho Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê bổ nhiệm Mạc-đô-chê làm người quản lý tài sản của Ha-man.
\s5
\v 3 Sau đó, Ê-xơ-tê lại tâu với vua. Nàng sấp mặt xuống đất và khóc khi nài xin vua chấm dứt kế hoạch gian ác của Ha-man người A-ga-ghít, là âm mưu mà hắn đã lập đặng chống lại người Do Thái.
\v 4 Vua giơ cây trượng vàng về phía Ê-xơ-tê, nàng đứng dậy và đứng trước mặt vua.
\s5
\v 5 Nàng tâu, “Nếu bệ hạ đẹp lòng, và nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu việc này là phải lẽ, và bệ hạ đẹp lòng thiếp, xin bệ hạ ban chiếu chỉ hủy bỏ các thư do Ha-man, con Ham-mê-đa-tha người A-ga-ghít đã viết, là các thư mà hắn đã viết để diệt người Do Thái trong các tỉnh của bệ hạ.
\v 6 Vì làm sao thiếp có thể chịu nổi khi thấy tai họa giáng trên dân tộc của thiếp? Làm sao thiếp có thể chịu nổi khi thấy người thân của thiếp bị giết?”
\s5
\v 7 Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê người Do Thái, “Kìa, ta đã ban cho Ê-xơ-tê nhà của Ha-man, họ đã treo hắn trên cây mộc hình, vì hắn có ý định hại người Do Thái.
\v 8 Hãy nhân danh vua mà viết một chiếu chỉ khác cho người Do Thái và đóng ấn bằng nhẫn của vua. Vì chiếu chỉ nào được nhân danh vua viết và được đóng ấn bằng nhẫn của vua thì không thể bị thu hồi.”
\s5
\v 9 Sau đó, các thư ký của vua được gọi đến, vào ngày hai mươi ba tháng ba, là tháng Si-van. Mạc-đô-chê sai người viết chiếu chỉ ra lệnh thực hiện những việc liên quan đến người Do Thái. Chiếu chỉ được gửi cho các quan thống đốc tỉnh, các thống đốc và quan chức trong tỉnh từ Ấn Độ đến Ê-thi-ô-pi, tức 127 tỉnh, thư gửi cho mỗi tỉnh theo chữ viết và ngôn ngữ của dân trong tỉnh ấy, và gửi cho người Do Thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ.
\s5
\v 10 Mạc-đô-chê nhân danh Vua A-ha-suê-ru viết chiếu chỉ và dùng nhẫn ấn của vua mà đóng dấu và niêm phong. Ông giao chiếu chỉ cho những lính trạm cưỡi ngựa của hoàng gia, là ngựa nòi ở trại nuôi ngựa.
\v 11 Vua cho phép người Do Thái trong mỗi tỉnh được nhóm họp và đứng lên bảo vệ mạng sống mình: họ được phép thủ tiêu, giết, và tiêu diệt bất kỳ nhóm vũ trang nào từ bất kỳ dân hay tỉnh nào muốn tấn công họ, gồm cả trẻ con và phụ nữ, hoặc cướp đoạt tài sản của chúng.
\v 12 Lệnh này được thực thi ở tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, vào ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa.
\s5
\v 13 Một bản sao của chiếu chỉ được ban thành luật và được công bố rộng rãi đến tất cả các dân. Hôm đó người Do Thái sẵn sàng chống trả quân thù mình.
\v 14 Vậy các lính trạm cưỡi ngựa hoàng gia ngay lập tức đi ra theo lệnh. Chiếu chỉ của vua cũng được ban hành ở kinh đô Su-sa.
\s5
\v 15 Sau đó, Mạc-đô-chê rời khỏi cung vua, ông mặc áo triều xanh và trắng, đầu đội mão triều vàng và mặc một chiếc áo choàng màu tím bằng vải gai mịn, cả kinh đô Su-sa vui mừng hô vang.
\v 16 Người Do Thái có sự sáng và niềm vui, lòng hớn hở và danh dự.
\v 17 Trong mỗi tỉnh thành, bất cứ nơi nào chiếu chỉ của vua được ban ra, thì nơi đó có sự vui mừng và niềm vui giữa người Do Thái, họ tổ chức tiệc và ngày lễ. Nhiều dân bản xứ trở thành người Do Thái, vì họ sợ người Do Thái.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Bấy giờ vào tháng mười hai, tức tháng A-đa, ngày mười ba, khi luật và chiếu chỉ của vua đến lúc phải thi hành, ngày mà kẻ thù của người Do Thái mong sẽ áp quyền trên họ đã bị đảo ngược. Người Do Thái giành được uy quyền trên những kẻ ghét họ.
\v 2 Người Do Thái nhóm họp trong các thành phố khắp các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, đặng tra tay trên những kẻ cố ý gây họa trên họ. Không ai có thể chống lại họ, vì ai nấy đều sợ họ.
\s5
\v 3 Tất cả các quan chức trong tỉnh, quan thống đốc tỉnh, quan tổng trấn, và những người cai trị của vua, đều giúp người Do Thái vì họ sợ Mạc-đô-chê.
\v 4 Vì Mạc-đô-chê giữ chức lớn trong cung vua, danh tiếng của ông lan khắp các tỉnh, Mạc-đô-chê trở thành một người ngày càng có nhiều quyền lực.
\v 5 Dân Do Thái đánh kẻ thù của họ bằng gươm, giết và tiêu diệt chúng, và đối xử với những kẻ ghét họ tùy theo ý mình.
\s5
\v 6 Trong kinh đô Su-sa, người Do Thái giết và tiêu diệt năm trăm người.
\v 7 Họ giết Pạc-san-đa-tha, Đanh-phôn, Át-pa-tha,
\v 8 Pô-ra-tha, A-đa-lia, A-ri-đa-tha,
\v 9 Pạc-mách-ta, A-ri-sai, A-ri-đai, Vai-xa-tha,
\v 10 và mười con trai của Ha-man con Ham-mê-đa-tha, kẻ thù của người Do Thái. Nhưng họ không cướp đoạt.
\s5
\v 11 Trong ngày đó, người ta báo cáo cho vua về số người bị giết ở kinh đô Su-sa.
\v 12 Vua nói với Hoàng hậu Ê-xơ-tê, “Người Do Thái đã giết năm trăm người trong kinh đô Su-sa, gồm mười con trai của Ha-man. Vậy họ đã làm gì trong các tỉnh còn lại của ta? Bây giờ nàng thỉnh nguyện điều chi? Ta sẽ ban cho nàng. Nàng cầu xin điều chi? Ta cũng sẽ ban cho nàng.”
\s5
\v 13 Ê-xơ-tê tâu, “Nếu đẹp ý bệ hạ, xin bệ hạ cho phép người Do Thái ở Su-sa ngày mai cũng thực hiện chiếu chỉ của ngày hôm nay, và cho treo thi thể của mười con trai Ha-man lên cây mộc hình. ”
\v 14 Vậy vua truyền lệnh thực thi việc này. Chiếu chỉ được ban ra trong Su-sa, và người ta treo cổ mười con trai của Ha-man.
\s5
\v 15 Người Do Thái tại Su-sa tập họp lại vào ngày mười bốn tháng A-đa, và giết thêm ba trăm người ở Su-sa, nhưng họ không cướp đoạt.
\v 16 Số người Do Thái còn lại ở các tỉnh của vua cùng tập hợp lại để tự vệ, họ thoát khỏi kẻ thù và giết bảy mươi lăm ngàn người ghét họ, nhưng họ không tra tay vào tài sản quý giá của những kẻ bị họ giết.
\s5
\v 17 Sự việc này xảy ra vào ngày mười ba tháng A-đa. Ngày mười bốn, họ nghỉ ngơi và lập ngày đó thành ngày tiệc tùng vui vẻ.
\v 18 Nhưng người Do Thái ở Su-sa tập họp lại vào ngày mười ba và mười bốn. Ngày mười lăm, họ nghỉ ngơi và lập ngày đó là ngày tiệc tùng vui vẻ.
\v 19 Do đó người Do Thái ở các làng, tức những người dựng nhà ở các phố thôn dã, lấy ngày mười bốn tháng A-đa làm ngày tiệc tùng vui vẻ, và là ngày mà họ tặng quà thực phẩm cho nhau.
\s5
\v 20 Mạc-đô-chê ghi lại những việc này và gửi thư cho tất cả người Do Thái ở tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru cả gần lẫn xa,
\v 21 dặn họ phải giữ ngày mười bốn và mười lăm tháng A-đa hàng năm.
\v 22 Đây là những ngày mà người Do Thái được giải thoát khỏi kẻ thù, và là tháng mà nỗi sầu khổ của họ biến thành niềm vui, và ngày than khóc biến thành ngày vui mừng. Họ phải tổ chức những ngày đó thành ngày tiệc tùng vui vẻ, và tặng quà thực phẩm cho nhau cũng như tặng quà cho người nghèo.
\s5
\v 23 Vậy người Do Thái tiếp tục giữ lễ ăn mừng mà họ đã khởi lập, làm theo điều Mạc-đô-chê đã viết cho họ.
\v 24 Khi đó, Ha-man con Ham-mê-đa-tha người A-ga-ghít, kẻ thù của mọi người Do Thái, có âm mưu chống lại người Do Thái và tiêu diệt họ, hắn gieo Phu-rơ (nghĩa là gieo thăm) để chà đạp và hủy diệt họ.
\v 25 Nhưng khi sự việc đến tai vua, vua ra lệnh bằng văn thư rằng kế hoạch gian ác mà Ha-man đã lập chống lại người Do Thái phải đổ lại trên đầu hắn, hắn và các con trai hắn phải bị treo trên cây mộc hình.
\s5
\v 26 Do đó, họ gọi những ngày này là Phu-rim, theo từ Phu-rơ. Vì mọi việc đã được chép trong thư này, và những việc họ đã thấy và đã xảy ra trên họ,
\v 27 người Do Thái một phong tục và nhiệm vụ mới. Phong tục này dành cho chính họ, con cháu của họ, và những ai tham gia với họ. Hàng năm họ sẽ tổ chức mừng hai ngày này. Họ sẽ ăn mừng như vậy vào thời điểm này hàng năm.
\v 28 Mỗi thế hệ, gia đình, mỗi tỉnh, và thành phố phải giữ các ngày lễ này. Người Do Thái này và con cháu của họ sẽ không bao giờ ngưng giữ lễ Phu-rim, để họ sẽ không bao giờ quên những ngày ấy.
\s5
\v 29 Hoàng hậu Ê-xơ-tê, con gái của A-bi-ha-in, và Mạc-đô-chê, là người Do Thái, với đủ thẩm quyền đã viết thư thứ hai xác nhận lễ Phu-rim.
\s5
\v 30 Những bức thư này được gửi đến tất cả người Do Thái trong 127 tỉnh của vương quốc A-ha-suê-ru, chúc cho người Do Thái được an ninh và chân thật.
\v 31 Những bức thư này xác nhận thời điểm được định cho những ngày lễ Phu-rim, như Mạc-đô-chê, người Do Thái và hoàng hậu Ê-xơ-tê đã chỉ thị cho người Do Thái. Người Do Thái ưng thuận chỉ thị cho bản thân và cho con cháu họ, y như họ đã ưng thuận việc kiêng ăn và than khóc.
\v 32 Mạng lệnh của Ê-xơ-tê xác nhận những luật lệ này về ngày lễ Phu-rim và nó được ghi chép vào sách.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Sau đó, Vua A-ha-suê-ru áp thuế trong xứ và những miền duyên hải dọc theo bờ biển.
\v 2 Tất cả các thành tích của vua về quyền lực và sức mạnh, cùng với toàn bộ uy quyền mà vua đã ban cho Mạc-đô-chê, đều được chép trong sách sử ký của các vua Mê-đi Ba-tư.
\s5
\v 3 Mạc-đô-chê người Do Thái đứng hàng thứ nhì sau Vua A-ha-suê-ru. Ông là người tôn trọng giữa người Do Thái và nổi tiếng với những anh em Do Thái của ông, vì ông đã tìm phúc lợi cho dân và có tiếng nói để bảo vệ hòa bình cho dân tộc.

2028
18-JOB.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2028 @@
\id JOB
\ide UTF-8
\h GIÓP
\toc1 GIÓP
\toc2 GIÓP
\toc3 job
\mt GIÓP
\s5
\c 1
\p
\v 1 Tại xứ U-xơ có một người tên là Gióp; Gióp vốn là người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.
\v 2 Ông có bảy con trai và ba con gái.
\v 3 Ông sở hữu bảy ngàn con chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm cặp bò đực, và năm trăm con lừa cùng rất nhiều tôi tớ. Ông là người giàu sang nhất trong tất cả các dân ở Phương Đông.
\s5
\v 4 Hàng ngày, các con trai ông thay phiên nhau đãi tiệc trong nhà mình và họ sai người đi mời ba chị em gái cùng đến ăn uống với họ.
\v 5 Khi các ngày tiệc tùng đã qua rồi, Gióp sai người kêu họ đến và dâng họ cho Đức Chúa Trời. Ông thức dậy sớm vào buổi sáng và dâng của lễ thiêu cho từng người con, vì ông nghĩ, “Có thể các con ta đã phạm tội và lòng chúng nó báng bổ Đức Chúa Trời. ” Gióp luôn làm như vậy.
\s5
\v 6 Một ngày nọ, các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt Đức Giê-hô-va, và Sa-tan cũng đến trong số đó.
\v 7 Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi từ đâu đến? ” Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng, “Tôi đi lang thang và tới lui đây đó trên đất. ”
\v 8 Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.”
\s5
\v 9 Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Gióp kính sợ Đức Chúa Trời chẳng phải vì điều gì sao?
\v 10 Ngài há không dựng hàng rào xung quanh người, gia đình và mọi thứ tứ bề sao? Ngài đã ban phước cho công việc của tay người, và tài sản của người trên đất đã thêm lên.
\v 11 Nhưng xin Chúa giơ tay Ngài ra đánh trên mọi thứ của người, rồi người sẽ từ bỏ Ngài. ”
\v 12 Đức Giê-hô-va bảo Sa-tan, “Kìa, mọi vật của người đều tùy vào quyền trong tay ngươi; chớ tra tay ngươi trên người. ” Vậy Sa-tan lui khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Một ngày kia, khi các con trai và con gái ông đang ăn và uống rượu trong nhà người anh cả,
\v 14 một sứ giả đến gặp Gióp và nói, “Bò đực đang cày và lừa đang ăn bên cạnh;
\v 15 thì dân Sa-bê xông vào và cướp hết. Thật vậy, chúng giết các tôi tớ bằng gươm; chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\s5
\v 16 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Lửa của Đức Chúa Trời giáng từ trời và thiêu đốt chiên cùng các tôi tớ; chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông. ”
\v 17 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Dân Canh-đê lập thành ba đạo quân, xông vào lạc đà và cướp đi mất. Vâng, chúng đã giết các tôi tớ bằng gươm, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\s5
\v 18 Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy về báo, “Các con trai và con gái ông đang ăn và uống rượu trong nhà cậu cả.
\v 19 Một cơn gió lớn từ hoang mạc nổi lên và đánh sập bốn góc nhà, đè lên những người trẻ, tất cả đều tử vong, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”
\s5
\v 20 Gióp đứng dậy, xé áo choàng, cạo đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ lạy Đức Chúa Trời.
\v 21 Ông nói, “Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ tôi, tôi cũng trần truồng trở về lại đó thôi. Đức Giê-hô-va ban cho, và Đức Giê-hô-va cất đi; nguyện chúc tán danh Đức Giê-hô-va. ”
\v 22 Trong mọi việc này, Gióp không phạm tội, cũng không ngu xuẩn báng bổ Đức Chúa Trời.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Lại một ngày kia, khi các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt trước mặt Đức Giê-hô-va, và Sa-tan cũng đến trong số đó.
\v 2 Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi từ đâu đến? ” Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng, “Tôi đi lang thang và tới lui đây đó trên đất.”
\s5
\v 3 Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh điều dữ. Gióp vẫn giữ lòng liêm chính, dù ngươi đã xúi Ta ra tay hại nó vô cớ.”
\s5
\v 4 Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Thật vậy, da đền da; người sẽ từ bỏ hết mọi thứ người có để giữ mạng sống.
\v 5 Nhưng xin Ngài giơ tay Ngài ra đụng đến xương cốt và thân thể người, người sẽ báng bổ Ngài. ”
\v 6 Đức Giê-hô-va nói với Sa-tan, “Kìa, Gióp ở trong tay ngươi; chớ đụng đến mạng sống của nó.”
\s5
\v 7 Vậy Sa-tan lui khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va và hành Gióp đau đớn bằng bệnh ung nhọt từ dưới bàn chân đến đỉnh đầu.
\v 8 Gióp lấy một miếng sành để gãi và ngồi trong tro bụi.
\s5
\v 9 Vợ ông bảo, “Ông vẫn còn giữ lòng liêm chính sao? Hãy rủa Đức Chúa Trời rồi chết quách đi. ”
\v 10 Nhưng ông nói với bà, “Bà nói y như đàn bà dại dột. Bà thật nghĩ rằng chúng ta nên nhận điều tốt lành từ tay Chúa mà không nhận điều dữ sao? ” Trong việc này, Gióp không phạm tội bởi môi miệng mình.
\s5
\v 11 Bấy giờ khi ba bạn của Gióp hay tin về tất cả những việc dữ đã xảy đến trên ông, mỗi người từ nơi mình đến gặp ông: Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Xô-pha người Na-a-ma. Họ hẹn ngày đến than khóc với ông và an ủi ông.
\s5
\v 12 Khi thấy ông từ đàng xa, họ không thể nhận ra ông; họ lớn tiếng khóc; mỗi người xé áo choàng mình và tung bụi đất lên trời và lên đầu mình.
\v 13 Họ ngồi xuống đất với ông suốt bảy ngày và bảy đêm, không ai nói với nhau một lời nào, vì họ thấy nỗi sầu khổ của ông là quá lớn.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Sau việc này, Gióp mở miệng rủa sả ngày sinh của ông.
\v 2 Ông nói:
\v 3 “Ước gì ngày tôi sinh ra tàn lụi, đêm nói rằng, Một bé trai được thụ thai.
\s5
\v 4 Ước gì ngày đó tối tăm; ước gì Đức Chúa Trời từ trên cao không nhớ đến nó, ánh mặt trời cũng không chiếu trên nó.
\v 5 Ước gì bóng đêm và bóng sự chết cứ bao trùm nó; ước gì mây che phủ nó; ước gì mọi thứ làm cho ngày ấy đen tối thật khiến kinh hãi.
\s5
\v 6 Ước gì bóng tối hãm đêm ấy: ước gì nó đừng hoan hỉ giữa các ngày trong năm; ước gì nó không được tính trong số các tháng.
\v 7 Kìa, ước gì đêm đó tĩnh mịch; ước gì đêm ấy không có tiếng reo vui.
\s5
\v 8 Hãy để họ rủa sả ngày đó, là những người biết đánh thức Lê-vi-a-than.
\v 9 Hãy để những ngôi sao chạng vạng trong ngày đó trở nên tối tăm. Hãy để ngày đó tìm ánh sáng nhưng chẳng thấy ánh sáng; nó cũng chẳng thấy bình minh ló dạng,
\v 10 vì ngày ấy không đóng cửa tử cung mẹ tôi, cũng không giấu sự khó khăn khỏi mắt tôi.
\s5
\v 11 Sao tôi không chết ngay khi vừa lọt lòng mẹ? Sao tôi không trút linh hồn khi mẹ tôi sanh tôi ra?
\v 12 Sao đầu gối của mẹ đỡ lấy tôi? Hay tại sao có bầu sữa mẹ cho tôi bú?
\s5
\v 13 Vì bấy giờ tôi ắt sẽ nằm yên; tôi hẳn sẽ ngủ và an nghỉ
\v 14 cùng các vua và cố vấn trên đất, là những người đã xây lăng mộ cho mình mà nay đã đổ nát.
\s5
\v 15 Hoặc tôi hẳn sẽ nằm cùng các hoàng thân giàu có, họ chứa vàng bạc đầy nhà.
\v 16 Hay tôi có thể bị chết non, như hài nhi không hề thấy ánh sáng.
\s5
\v 17 Kẻ ác thôi quấy phá; người mệt mỏi được yên nghỉ.
\v 18 Tù nhân chung sống thư thái; họ không nghe tiếng của chủ nô.
\v 19 Người thấp bé và người giàu sang đều ở đó; tôi tớ được tự do khỏi chủ mình.
\s5
\v 20 Sao người khốn khổ được thấy ánh sáng; sao người cay đắng trong lòng lại được sống;
\v 21 người nào muốn chết thì cũng không chết được; họ tìm sự chết nhiều hơn những người tìm kho tàng?
\v 22 Sao người hớn hở vui mừng được thấy ánh sáng trong khi người có thể tìm mộ?
\s5
\v 23 Sao người chẳng biết đường lối mình lại được thấy ánh sáng, tức là người được Đức Chúa Trời bảo vệ?
\v 24 Tôi thở dài thay vì ăn; tôi rên rỉ như nước tràn tuôn
\s5
\v 25 Vì điều tôi sợ đã đến trên tôi; điều tôi khinh khiếp đã xảy đến với tôi.
\v 26 Tôi không thoải mái, tôi không yên tịnh, tôi không được nghỉ ngơi; gian khó đã đến.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ Ê-li-pha người Tê-man đáp rằng,
\v 2 Nếu có ai tìm cách nói với ông, ông có mất lòng không? Nhưng ai có thể lặng thinh?
\v 3 Kìa, ông đã dạy dỗ nhiều người; ông đã làm cho tay yếu đuối trở nên mạnh mẽ.
\s5
\v 4 Lời của ông đã khích lệ người vấp ngã, ông làm cho đầu gối yếu đuối trở nên vững vàng.
\v 5 Nhưng bây giờ ông mang họa, ông nản lòng; tai họa đến với ông, ông bồn chồn.
\v 6 Lòng kính sợ Đức Chúa Trời của ông không giúp ông tự tin sao? Đường lối liêm chính của ông không đem lại cho ông niềm hy vọng sao?
\s5
\v 7 Xin ông hãy xét lại: có người vô tội nào hư vong không? Hoặc có khi nào người ngay thẳng bị diệt không?
\v 8 Theo những gì tôi thấy, kẻ vun xới tội lỗi và gieo phiền muộn đều gặt như nhau.
\v 9 Hơi thở của Đức Chúa Trời khiến họ hư mất; cơn thạnh nộ của Ngài thiêu đốt họ.
\s5
\v 10 Tiếng gầm của sư tử, tiếng của sư tử hung dữ, răng của sư tử con chúng bị bẻ gãy.
\v 11 Sư tử già chết vì thiếu con mồi; con của sư tử cái bị tản lạc khắp nơi.
\s5
\v 12 Bấy giờ, có một chuyện đến với tôi cách bí mật; có tiếng thì thầm bên tai tôi về điều đó.
\v 13 Giữa các tư tưởng từ những khải tượng trong đêm, khi mọi người đang say giấc.
\s5
\v 14 Nỗi sợ hãi và run sợ đến trên tôi, khiến xương cốt tôi lung lay.
\v 15 Sau đó, có một thần lướt ngang qua tôi; lông tôi dựng đứng.
\s5
\v 16 Thần đó đứng yên, nhưng tôi không thấy rõ hình dạng. Một hình thể đứng trước mặt tôi; xung quanh yên ắng, và tôi nghe có tiếng nói,
\v 17 “Người phàm có thể công bình hơn Đức Chúa Trời sao? Loài người có thể trong sạch hơn Đấng Tạo hóa của nó sao?”
\s5
\v 18 Kìa, nếu Đức Chúa Trời không đặt sự tin cậy trong các tôi tớ Ngài; nếu Ngài trách các thiên sứ của Ngài về lầm lỗi,
\v 19 thì huống chi những kẻ sống trong nhà bằng đất sét, trên nền đất bụi, bị chà nát như sâu bướm?
\s5
\v 20 Giữa sáng và tối, chúng bị diệt; chúng biến mất mà không ai để ý.
\v 21 Dây lều của chúng không bị đứt sao? Chúng chết; chúng chết mà chẳng khôn ngoan.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hãy kêu la; ai sẽ trả lời ông? Ông sẽ trở lại đấng nào trong các thánh?
\v 2 Lòng căm giận giết kẻ ngu ngốc; sự ghen tỵ giết kẻ khờ dại.
\v 3 Tôi đã thấy người ngu dại đâm rễ, nhưng bỗng nhiên tôi rủa sả nhà của hắn.
\s5
\v 4 Con cái hắn không được an toàn; chúng bị chà đạp ở cổng thành. Không ai giải cứu chúng
\v 5 người đói ăn hết mùa màng, thậm chí lấy ra khỏi gai góc; kẻ khát thèm muốn của cải của chúng.
\s5
\v 6 Vì hoạn nạn không đến từ cát bụi; sự phiền muộn không nảy lên từ đất;
\v 7 Nhưng nhân loại tạo nên sự phiền muộn cho mình, như chớp lửa bay lên.
\s5
\v 8 Nhưng về phần tôi, tôi sẽ quay sang Đức Chúa Trời; tôi sẽ giao phó duyên cớ tôi cho Ngài
\v 9 Ngài làm việc lớn không sao hiểu được, những việc kỳ diệu vô kể.
\v 10 Ngài ban mưa xuống đất, cho nước chảy khắp đồng ruộng.
\s5
\v 11 Ngài nâng người thấp kém lên cao; ban sự an toàn cho người than khóc trong tro.
\v 12 Ngài làm hỏng mưu chước của kẻ xảo trá, để tay chúng không thể thực hiện âm mưu của chúng.
\v 13 Ngài bẫy kẻ khôn trong mánh khóe của chính họ; kế hoạch của kẻ quỷ quái sẽ sớm chấm dứt.
\s5
\v 14 Chúng gặp bóng tối giữa ban ngày, và rên rỉ vào buổi trưa như thể ban đêm.
\v 15 Nhưng Ngài cứu người nghèo khỏi gươm của miệng chúng và người thiếu thốn khỏi tay kẻ mạnh bạo.
\v 16 Người nghèo có niềm hy vọng, kẻ bất công ngậm miệng lại.
\s5
\v 17 Kìa, phước cho người nào được Đức Chúa Trời chỉnh sửa; vì vậy, chớ khinh thường sự uốn nắn của Đấng Toàn năng.
\v 18 Ngài làm bị thương rồi rịt lành; Ngài làm bị thương rồi tay Ngài chữa lành.
\v 19 Ngài sẽ giải cứu ông khỏi sáu điều phiền muộn; thật sự, trong bảy điều phiền muộn, sẽ không có tai họa nào trên ông.
\s5
\v 20 Trong cơn đói, Ngài sẽ cứu ông khỏi chết; và trong chiến tranh, Ngài sẽ cứu ông khỏi sức mạnh của gươm giáo.
\v 21 Ông sẽ được che chở khỏi tai họa của lưỡi; ông sẽ chẳng sợ gì khi sự hủy phá đến.
\v 22 Ông sẽ cười vào sự hủy phá và đói kém, ông sẽ chẳng sợ loài dã thú.
\s5
\v 23 Vì ông sẽ lập giao ước với đá trong đồng ruộng ông; ông sẽ ở bình hòa với dã thú.
\v 24 Ông sẽ biết rằng lều của ông được an toàn; ông sẽ kiểm tra ràn chiên và thấy chẳng thiếu gì.
\v 25 Ông cũng sẽ biết rằng con cháu của ông sẽ đông đúc, con cháu của ông sẽ như cỏ trên đất.
\s5
\v 26 Ông sẽ xuống mồ khi tuổi cao, như bó lúa được đem đến sân đạp lúa.
\v 27 Kìa, chúng tôi đã xem xét điều này; và quả là như vậy; hãy nghe và nhận biết.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Gióp trả lời và nói,
\v 2 “Ồ, giá mà nỗi thống khổ của tôi được cân; giá mà mọi tai họa của tôi được để trên bàn cân!
\v 3 Vì bấy giờ nó sẽ nặng hơn cát biển. Do đó tôi không để ý lời nói.
\s5
\v 4 Vì các mũi tên của Đấng Toàn năng ghim trúng tôi, tâm thần tôi uống hết chất độc; nỗi kinh hãi của Đức Chúa Trời dàn trận chống lại tôi.
\v 5 Con lừa rừng kêu inh ỏi khi có cỏ? Hay con bò đực đói rống bên đám cỏ khô?
\v 6 Đồ ăn lạt lẽo không cần muối? Tròng trắng trứng có mùi vị không?
\s5
\v 7 Tôi chẳng màng đụng đến chúng; chúng như thức ăn gớm ghiếc đối với tôi.
\v 8 Ồ, ước gì tôi được yêu cầu; ồ, ước gì Đức Chúa Trời ban cho tôi điều lòng tôi mong mỏi:
\v 9 ước gì Đức Chúa Trời chà nát tôi, Ngài buông tay và chặt tôi khỏi cuộc đời này!
\s5
\v 10 Nguyện đây là niềm an ủi của tôi thậm chí nếu tôi hân hoan trong sự đau khổ khôn nguôi: tôi không từ chối lời của Đấng Thánh.
\v 11 Sao tôi đủ sức chờ đợi? Kết cục của tôi là gì mà tôi phải kéo dài cuộc đời?
\s5
\v 12 Có phải sức tôi là sức của đá? Có phải da thịt tôi bằng đồng?
\v 13 Chẳng phải là trong tôi không còn sự giúp đỡ nào, và nguồn cứu trợ đó đã bị lấy ra khỏi tôi?
\s5
\v 14 Với người nản lòng, bạn bè sẽ chứng tỏ sự trung tín; ngay cả với người bỏ lòng kính sợ Đấng Toàn năng.
\v 15 Nhưng anh em tôi lừa dối tôi như hoang mạc có nước chảy, như kênh dẫn nước đến chỗ khô hạn,
\v 16 là nơi tối đen vì băng tuyết phía trên, và tuyết bao phủ chúng.
\v 17 Khi chúng tan, chúng biến mất; khi trời nóng, chúng ta chảy ra khỏi nơi mình.
\s5
\v 18 Các đoàn lái buôn rẽ khỏi đường cái tìm nước; họ lang thang trong vùng khô cằn rồi chết.
\v 19 Các đoàn lái buôn từ Tê-ma nhìn quanh tìm kiếm, trong khi các đoàn từ Sê-ba hy vọng ở chúng.
\v 20 Họ thất vọng vì quá tin vào việc tìm nước; họ đến đó nhưng bàng hoàng.
\s5
\v 21 Bây giờ, các bạn chẳng là gì đối với tôi; các bạn thấy hoàn cảnh đáng thương của tôi và sợ hãi.
\v 22 Có bao giờ tôi xin các bạn, Xin bố thí tôi? ” hoặc, Xin lấy của cải các bạn cho tôi?
\v 23 hoặc, Xin cứu tôi khỏi tay kẻ thù nghịch tôi? hoặc, Xin cứu tôi khỏi tay kẻ đàn áp tôi?
\s5
\v 24 Xin dạy tôi, tôi sẽ lặng thinh; xin cho tôi biết tôi đã sai ở đâu.
\v 25 Lời chân thật thật làm đau lòng thay! Nhưng sự tranh luận của các bạn khiển trách được gì tôi?
\s5
\v 26 Các bạn muốn bỏ qua lời nói của tôi, xem lời nói của người tuyệt vọng như cơn gió?
\v 27 Thật sự, các bạn bốc thăm giành trẻ mồ côi cha, và mặc cả với bạn bè mình như con buôn.
\s5
\v 28 Vậy bây giờ, xin hãy xem tôi, vì chắc chắn tôi không nói dối trước mặt các bạn.
\v 29 Xin các bạn hãy rộng lòng thương; mong là các bạn đừng bất công; thật sự, xin hãy mủi lòng, vì duyên cớ của tôi là chính đáng.
\v 30 Lưỡi tôi có nói điều dữ nào chưa? Miệng tôi không phân biệt điều xấu sao?
\s5
\c 7
\p
\v 1 Chẳng có sự lao khổ cực nhọc cho loài người trên đất sao? Những ngày của người không giống với những ngày của người làm công sao?
\v 2 Như một nô lệ nghiêm túc ao ước bóng chiều tàn, như người làm công tìm kiếm tiền lương mình
\v 3 tôi đã được dựng nên để chịu đựng những tháng khổ cực; tôi đã nhận những đêm đầy phiền muộn.
\s5
\v 4 Khi tôi nằm xuống, tôi tự nhủ, Chừng nào ta sẽ thức dậy và khi nào đêm sẽ qua đi? Tôi trằn trọc lăn qua lăn lại cho đến bình minh.
\v 5 Thịt tôi bị bao bọc bằng sâu và lấp đất; những vết lở loét trong da tôi cứng lại, phân hủy và lại chảy mủ.
\s5
\v 6 Các ngày của tôi qua nhanh hơn con thoi của thợ dệt; chúng qua mà không có hy vọng.
\v 7 Đức Chúa Trời ơi, xin hãy nhớ lại rằng mạng sống tôi chỉ là hơi thở; mắt tôi sẽ không còn thấy điều lành nữa.
\s5
\v 8 Mắt của Đức Chúa Trời, là Đấng thấy tôi, sẽ không còn thấy tôi nữa; mắt Đức Chúa Trời sẽ trông xem tôi, nhưng tôi sẽ không tồn tại.
\v 9 Như mây tan ra và biến mất, người xuống âm phủ sẽ không trở lên nữa.
\v 10 Người sẽ không còn trở về nhà; địa phương của người sẽ chẳng biết người.
\s5
\v 11 Vậy tôi sẽ không cầm giữ miệng tôi; tôi sẽ nói trong nỗi thống khổ của tâm thần tôi; tôi sẽ than phiền trong sự cay đắng của linh hồn tôi.
\v 12 Có phải tôi là biển hay là con quái vật biển mà Ngài đặt một kẻ canh giữ tôi?
\s5
\v 13 Khi tôi nói, Giường tôi sẽ an ủi tôi, chiếc trường kỷ tôi sẽ làm thanh thản nỗi đau phiền của tôi,
\v 14 thì Ngài làm tôi kinh hãi bằng những giấc mơ và khiến tôi khiếp sợ qua những khải tượng,
\v 15 để tôi sẽ chọn sự rời rạc và chết còn hơn là giữ xương cốt tôi.
\s5
\v 16 Tôi ghê tởm cuộc đời tôi; tôi sẽ không ước gì mình còn sống; xin hãy để tôi yên vì các ngày tôi là vô ích.
\v 17 Loài người là gì mà Chúa chú ý đến người, lưu ý đến người,
\v 18 quan sát người mỗi buổi sáng và thử thách người từng lúc?
\s5
\v 19 Sẽ còn bao lâu nữa trước khi Ngài xây mắt khỏi tôi, trước khi Ngài để tôi yên thân cho đến khi tôi nuốt nước bọt?
\v 20 Thậm chí nếu tôi phạm tội, thì điều đó can hệ gì đến Ngài, là Đấng quan sát loài người? Sao Ngài biến tôi thành mục tiêu, để tôi là gánh nặng cho Ngài?
\s5
\v 21 Sao Ngài không tha thứ sự vi phạm tôi và cất tội lỗi tôi đi? Vì bây giờ tôi sẽ nằm trong bụi đất; Ngài sẽ cẩn thận tìm tôi, nhưng tôi sẽ không tồn tại.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Binh-đát người Su-a trả lời,
\v 2 “Ông sẽ còn nói những điều này đến bao giờ nữa? Lời từ miệng ông sẽ như gió lốc đến chừng nào?
\v 3 Đức Chúa Trời bẻ cong chân lý sao? Đấng Toàn năng bẻ cong sự công bình sao?
\s5
\v 4 Con cái của ông đã phạm tội trước mặt Ngài; chúng ta biết điều này, vì Ngài đã phó chúng vào tội lỗi của chúng.
\v 5 Nhưng giả sử ông sốt sắng tìm kiếm Đức Chúa Trời và trình lời cầu xin của ông cho Đấng Toàn năng.
\s5
\v 6 Giả sử ông trong sạch và ngay thẳng; thì chắc chắn Ngài sẽ giải cứu ông và ban thưởng cho ông một gia đình thật sự thuộc về ông.
\v 7 Thậm chí dù khởi đầu của ông là nhỏ, nhưng tương lai ông vẫn sẽ rạng rỡ.
\s5
\v 8 Xin ông hãy học hỏi thế hệ xưa; tìm hiểu những gì tổ phụ chúng ta đã khám phá.
\v 9 (Hôm qua chúng ta mới sinh ra và chẳng biết gì, những ngày của chúng ta trên đất như bóng tối).
\v 10 Họ không dạy ông và nói cho ông nghe sao? Họ không nói những lời trong lòng sao?
\s5
\v 11 Cây lau có thể mọc nơi không phải đầm lầy sao? Cây sậy có thể lớn lên mà không cần nước sao?
\v 12 Khi chúng vẫn còn xanh tươi và chưa bị chặt, chúng tàn héo trước mọi thực vật khác.
\s5
\v 13 Số phận của kẻ quên Đức Chúa Trời cũng sẽ như vậy, niềm hy vọng của kẻ vô đạo sẽ tàn lụi
\v 14 lòng tin cậy của họ sẽ tan vỡ, lòng trông cậy của họ yếu như mạng nhện.
\v 15 Người ấy dựa vào nhà mình, nhưng không đứng vững; họ bám giữ nó, nhưng không bền lâu.
\s5
\v 16 Dưới ánh mặt trời, nó xanh tươi, nó đâm chồi trong khắp vườn.
\v 17 Rễ nó quấn trên đống đá; chúng len lỏi giữa đá sỏi.
\v 18 Nhưng nếu cây bị bứng khỏi chỗ của nó, nơi đó sẽ từ chối nó và nói, Ta chưa bao giờ gặp ngươi.
\s5
\v 19 Kìa, đây là “niềm vui” của người có hành vi đó; cây khác sẽ đâm chồi từ đất của nó.
\v 20 Kìa, Đức Chúa Trời sẽ không bỏ người trọn vẹn; Ngài sẽ không phù hộ tay của kẻ làm ác.
\s5
\v 21 Nhưng Ngài sẽ khiến miệng ông đầy tiếng cười, môi ông vang tiếng reo mừng.
\v 22 Những kẻ ghét ông sẽ mặc lấy sự xấu hổ; lều của kẻ ác sẽ tiêu tan.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 Gióp trả lời rằng,
\v 2 “Phải, tôi biết là vậy. Nhưng làm sao loài người có thể công bình trước mặt Đức Chúa Trời?
\v 3 Nếu người muốn tranh luận với Đức Chúa Trời, người cũng không thể đáp lại Ngài một ngàn lần.
\s5
\v 4 Đức Chúa Trời có trí khôn và sức mạnh; ai cứng cỏi trước mặt Ngài để thành công?
\v 5 Ngài dời núi mà không cảnh báo bất kỳ ai, trong cơn giận Ngài lật đổ chúng
\v 6 Ngài là Đấng làm rúng động trái đất khỏi chỗ nó và các trụ nó rung rinh.
\s5
\v 7 Chính Đức Chúa Trời truyền mặt trời không mọc, nó không mọc, Đấng bao phủ các ngôi sao,
\v 8 một mình Ngài giương các từng trời, giẫm lên sóng biển,
\v 9 Ngài dựng nên Sao Bắc đẩu, Sao Cày, và Sao Rua, cùng những chòm sao phương nam.
\s5
\v 10 Chính Đức Chúa Trời là Đấng làm những việc lớn lao, khó hiểu thật vô số những việc phi thường.
\v 11 Kìa, Ngài đi cạnh tôi, tôi không thấy Ngài; Ngài lướt ngang qua, tôi cũng không thấy Ngài.
\v 12 Nếu Ngài cất mạng ai, ai có thể ngăn nổi Ngài? Ai dám hỏi Ngài, Chúa làm gì vậy?
\s5
\v 13 Chúa Trời sẽ không rút cơn giận của Ngài; những người giúp đỡ Ra-háp quỳ dưới chân Ngài.
\v 14 Làm sao tôi có thể trả lời Ngài, tôi có thể lựa lời biện luận với Ngài không?
\v 15 Thậm chí nếu tôi công bình, tôi cũng không thể trả lời Ngài; tôi chỉ có thể nài xin sự thương xót của Đấng phán xét tôi.
\s5
\v 16 Thậm chí nếu tôi kêu cầu và Ngài đáp lời tôi, tôi sẽ không tin là Ngài nghe tiếng tôi.
\v 17 Vì Ngài vùi dập tôi bằng giông tố và vô cớ gia tăng vết thương tôi.
\v 18 Ngài thậm chí không cho phép tôi thở; trái lại, Ngài lấp đầy tôi bằng sự đắng cay.
\s5
\v 19 Nếu chúng ta nói về sức lực, kìa, Ngài là Đấng hùng mạnh! Và nếu nói đến công lý? Thì Ngài hỏi, Ai dám chất vấn Ta?
\v 20 Dù tôi là người công bình, thì miệng tôi sẽ lên án tôi; dù tôi vô tội, nó sẽ chứng minh là tôi có tội.
\s5
\v 21 Tôi vô tội, nhưng tôi không bận tâm nữa; tôi khinh miệt cuộc đời tôi.
\v 22 Tất cả đều như nhau; do đó tôi nói rằng Ngài diệt người vô tội cũng như người gian ác.
\v 23 Nếu tai họa bỗng dưng giết chết, Ngài sẽ nhạo cười nỗi ưu phiền của người vô tội.
\v 24 Trái đất bị phó vào tay của kẻ ác; Đức Chúa Trời che mắt các quan tòa. Nếu chẳng phải Ngài, thì là ai?
\s5
\v 25 Những ngày của tôi qua nhanh hơn kẻ trạm; chúng biến mất; chẳng thấy điều gì tốt lành cả.
\v 26 Chúng lướt qua nhanh như chiếc thuyền nan, và nhanh như đại bàng sà vào con mồi.
\s5
\v 27 Nếu tôi nói rằng tôi sẽ không quên lời than phiền của tôi, rằng tôi sẽ bỏ mặt buồn thảm và tươi cười,
\v 28 tôi sẽ sợ mọi nỗi khổ của tôi vì tôi biết rằng Ngài sẽ không kể tôi là vô tội.
\v 29 Tôi bị lên án; vậy thì sao tôi phải cố gắng một cách vô ích?
\s5
\v 30 Nếu tôi tắm trong tuyết và rửa tay cho sạch,
\v 31 Đức Chúa Trời sẽ dìm tôi xuống mương, quần áo tôi trở nên dơ bẩn.
\s5
\v 32 Vì Đức Chúa Trời chẳng phải là người phàm như tôi, để tôi có thể đối đáp Ngài, để chúng tôi cùng nhau ra tòa.
\v 33 Chẳng có thẩm phán nào giữa chúng ta để đặt tay lên cả hai chúng ta.
\s5
\v 34 Chẳng có quan tòa nào có thể cất cây gậy của Đức Chúa Trời khỏi tôi, Đấng có thể ngăn sự kinh khiếp làm tôi hoảng loạn.
\v 35 Tôi sẽ lên tiếng và không sợ Ngài. Nhưng như hiện nay, tôi không thể làm vậy được.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Tôi chán đời rồi; tôi sẽ tha hồ phàn nàn; tôi sẽ nói trong sự cay đắng của lòng tôi.
\v 2 Tôi sẽ thưa với Đức Chúa Trời, Xin đừng kết án con; xin cho con biết vì sao Ngài lên án con.
\v 3 Ngài đè nặng con là tốt sao, khinh thường công việc của tay Ngài trong khi Ngài mỉm cười trên kế hoạch của kẻ ác sao?
\s5
\v 4 Ngài có mắt xác thịt chăng? Ngài thấy như người phàm thấy chăng?
\v 5 Các ngày của Ngài giống với ngày của nhân loại hoặc các năm của Ngài giống với năm của loài người chăng,
\v 6 đến nỗi Ngài thẩm tra lỗi của con và tìm kiếm tội lỗi con,
\v 7 dù Ngài biết là con vô tội và chẳng ai có thể cứu con khỏi tay Ngài?
\s5
\v 8 Tay Chúa đã dựng và nắn nên con, nhưng nay Ngài diệt con.
\v 9 Cầu xin Chúa nhớ lại rằng Ngài đã nắn con như đất sét; lẽ nào Ngài sẽ đem con trở về tro bụi?
\s5
\v 10 Chẳng phải Ngài đã đổ con ra như sữa và làm con đông đặc như phô-mai sao?
\v 11 Ngài đã mặc cho con bằng da và thịt và kết chặt con bằng xương và gân.
\s5
\v 12 Ngài đã ban cho con sự sống và sự thành tín; Ngài giúp đỡ, bảo vệ tâm hồn con.
\v 13 Nhưng Ngài giấu những điều này trong lòng con biết rằng đây là Ngài suy nghĩ của Ngài:
\v 14 rằng nếu con phạm tội, Ngài sẽ để ý; Ngài sẽ không dung thứ tội lỗi của con.
\s5
\v 15 Nếu con gian ác, thì thật khốn nạn cho con; thậm chí nếu con công bình, con cũng không dám ngẩng cao đầu, vì con nhục nhã và đầy khổ đau.
\v 16 Nếu con ngẩng đầu lên, Ngài sẽ săn lùng con như sư tử; Ngài lại tỏ ra quyền năng đối với con.
\s5
\v 17 Ngài đem đến những nhân chứng mới để chống lại con và gia tăng cơn thạnh nộ của Ngài trên con; Ngài đánh con bằng những quân đội xác thịt.
\s5
\v 18 Vậy tại sao Ngài đem con ra khỏi lòng mẹ? Ước gì con đã tắt hơi và chẳng mắt nào có thể thấy con.
\v 19 Ước gì con chưa bao giờ tồn tại; ước gì con được đem từ lòng mẹ đến mồ mả.
\s5
\v 20 Chẳng phải các ngay của con ít ỏi sao? Xin Chúa ngừng tay, để con yên thân, nghỉ ngơi một chút
\v 21 trước khi con rời khỏi nơi con sẽ không trở về, đến xứ của bóng tối và bóng sự chết,
\v 22 xứ tối tăm như đêm đen, xứ của bóng sự chết, không có trật tự, và ánh sáng chẳng khác gì đêm đen. ’”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Sau đó, Xô-pha người Na-a-mát trả lời rằng,
\v 2 “Chẳng lẽ không nên trả lời những lời đó sao? Chẳng lẽ nên tin người nói nhiều này sao?
\v 3 Lời khoe khoang của ông sẽ khiến người ta im lặng sao? Khi ông chế giễu lời dạy của chúng tôi, sẽ không ai khiến ông cảm thấy xấu hổ sao?
\s5
\v 4 Vì ông nói với Đức Chúa Trời, Lòng tin của con là trong sạch, con trọn vẹn trước mặt Ngài.
\v 5 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ mở miệng phán với ông;
\v 6 ước gì Ngài tỏ cho ông thấy những điều kín nhiệm của sự khôn ngoan! Vì Ngài thông hiểu tường tận. Vậy hãy biết rằng điều Đức Chúa Trời bắt ông phải chịu thật ít hơn tội của ông đáng bị phạt là bao.
\s5
\v 7 Ông có thể nào hiểu Đức Chúa Trời bằng cách tìm kiếm Ngài không? Ông có thể hiểu Đấng Toàn năng tường tận không?
\v 8 Vấn đề này cao hơn thiên đàng; ông có thể làm gì? Nó sâu hơn âm phủ; ông có thể biết gì?
\v 9 Phạm vi của nó dài hơn trái đất, và rộng hơn biển cả.
\s5
\v 10 Nếu Ngài đi qua và bắt giam ai đó, nếu Ngài đoán xét bất kỳ ai, thì ai có thể ngăn Ngài lại?
\v 11 Vì Ngài biết người giả dối; khi Ngài nhìn thấy tội lỗi, lẽ nào Ngài không để ý chăng?
\v 12 Nhưng người dại dột không hiểu; họ sẽ hiểu khi con lừa rừng đẻ ra người.
\s5
\v 13 Nhưng giả sử ông đã để lòng ngay thẳng và giơ tay ra hướng về Đức Chúa Trời;
\v 14 giả sử tội lỗi ở trong tay ông, nhưng sau đó ông bỏ xa khỏi ông quăng xa đi, và không để sự trái lẽ cư ngụ trong lều ông.
\s5
\v 15 Chắc chắn ông sẽ ngẩng mặt lên mà không thấy xấu hổ; thật vậy, ông sẽ vững vàng và không sợ hãi.
\v 16 Ông sẽ quên sự khổ sở của mình; ông sẽ nhớ nó như nước đã chảy qua.
\v 17 Cuộc đời ông sẽ tươi sáng hơn ban trưa; dù có bóng tối, nó vẫn sẽ như ban ngày.
\s5
\v 18 Ông sẽ được yên ninh vì có hy vọng; thật vậy, ông sẽ thấy mình được an toàn và nghỉ ngơi trong sự yên ninh.
\v 19 Ông cũng sẽ nằm xuống yên nghỉ, và không ai khiến ông sợ hãi; thật vậy, nhiều người sẽ tìm ơn của ông.
\s5
\v 20 Nhưng mắt của kẻ ác sẽ yếu dần; chúng sẽ không còn lối nào để chạy thoát; niềm hy vọng duy nhất của chúng sẽ là hơi thở cuối cùng.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Gióp trả lời rằng,
\v 2 “Các ông đúng là phàm nhân; sự khôn ngoan sẽ chết với các ông.
\v 3 Nhưng tôi cũng có sự thông hiểu như các ông; tôi chẳng hề kém hơn các ông. Thật vậy, ai không biết những việc này chứ?
\s5
\v 4 Tôi trở thành trò cười cho bạn bè tôi tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài trả lời! Tôi, một người công chính và trọn vẹn bây giờ trở thành trò cười.
\v 5 Người thanh thản khinh bỉ điều tai họa; người cho rằng tai họa giáng xuống ai trượt chân.
\v 6 Lều của kẻ trộm cướp thịnh vượng, kẻ trêu chọc Đức Chúa Trời thì cảm thấy an toàn; tay của chúng là thần của chúng.
\s5
\v 7 Nhưng bây giờ hãy hỏi loài thú, chúng sẽ dạy các ông; hãy hỏi loài chim trời, chúng sẽ cho các ông biết.
\v 8 Hoặc hãy nói với trái đất, nó sẽ dạy các ông; cá biển sẽ tỏ cho các ông biết.
\s5
\v 9 Có loài nào trong số những loài này không biết rằng tay của Đức Giê-hô-va đã làm việc này tức là ban sự sống cho chúng
\v 10 Đức Giê-hô-va, là Đấng nắm trong tay sự sống của mọi loài vật và hơi thở của con người?
\s5
\v 11 Tai không kiểm chứng lời như miệng nếm thức ăn sao?
\v 12 Người cao tuổi có sự khôn ngoan; sự thông hiểu nằm trong bề dài các ngày ấy.
\s5
\v 13 Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan và sức mạnh; Ngài có tư tưởng và sự thông biết tốt lành.
\v 14 Kìa, điều gì Ngài bẻ thì không thể được dựng lại; nếu Ngài bỏ tù ai, thì người đó không thể được giải cứu.
\v 15 Kìa, nếu Ngài giữ nước lại, đất sẽ khô hạn; nếu Ngài thả nước ra, nước sẽ tràn khắp đất.
\s5
\v 16 Ngài có sức mạnh và mưu trí; kẻ bị lừa dối và kẻ lừa dối đều ở dưới quyền Ngài.
\v 17 Ngài dẫn các cố vấn đi tù đày bằng chân không trong sự ưu sầu; Ngài biến các quan tòa thành người ngu dại.
\v 18 Ngài tháo đai quyền lực khỏi các vua; Ngài quấn vải quanh eo họ.
\s5
\v 19 Ngài dẫn các thầy tế lễ đi tù đày chân không trong sự ưu sầu và ném kẻ mạnh sức.
\v 20 Ngài loại bỏ lời nói của những người đáng tin và cất đi sự thông hiểu của các trưởng lão.
\v 21 Ngài đổ sự khinh miệt trên các vương tử và tháo dây lưng của người mạnh sức.
\s5
\v 22 Ngài bày tỏ những điều sâu nhiệm từ bóng tối và phơi bày dưới ánh sáng bóng của tử thần.
\v 23 Ngài làm cho các nước mạnh mẽ, Ngài cũng hủy diệt chúng; Ngài nới rộng các nước, rồi Ngài cũng bắt chúng lưu vong.
\s5
\v 24 Ngài cất sự thông hiểu khỏi những nhà lãnh đạo dân tộc trên thế gian; Ngài khiến họ lang thang trong hoang mạc không lối thoát.
\v 25 Họ mò mẫm trong bóng tối mà chẳng có ánh sáng; Ngài khiến họ đi loạng choạng như kẻ say.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Kìa, mắt tôi đã thấy điều ấy; tai tôi đã nghe và hiểu.
\v 2 Điều các ông biết, tôi cũng biết; tôi chẳng thua kém gì các ông.
\s5
\v 3 Tuy nhiên, tôi thà thưa với Đấng Toàn năng; tôi ước gì mình có thể lý luận với Đức Chúa Trời.
\v 4 Nhưng các ông thanh minh sự thật bằng lời dối trá; các ông là những thầy thuốc vô dụng.
\v 5 Ôi, ước gì các ông cứ nín lặng! Đó mới là sự khôn ngoan của các ông.
\s5
\v 6 Bây giờ hãy nghe lập luận của tôi; hãy nghe lời bào chữa của môi tôi.
\v 7 Các ông sẽ nói lời bất công với Đức Chúa Trời, và bịa chuyện về Ngài sao?
\v 8 Các ông muốn thiên vị Ngài sao? Các ông muốn làm luật sư bào chữa cho Đức Chúa Trời tại tòa sao?
\s5
\v 9 Nếu Ngài làm quan tòa dò xét các ông thì việc đó tốt cho các ông chứ? Hay các ông sẽ xuyên tạc Ngài tại tòa như người ta lừa dối lẫn nhau sao?
\v 10 Chắc chắn Ngài sẽ trách phạt các ông nếu các ông âm thầm thiên vị Ngài.
\s5
\v 11 Sự oai nghi của Ngài không khiến các ông sợ hãi sao? Sự kinh sợ Ngài sẽ không giáng trên các ông sao?
\v 12 Châm ngôn của các ông như tục ngữ bằng tro bụi; lời biện hộ của các ông như là lời biện hộ làm bằng đất sét.
\s5
\v 13 Hãy yên lặng, hãy để tôi yên, để mặc tôi nói, rồi điều gì đến cũng sẽ đến.
\v 14 Tôi sẽ lấy răng cắn thịt mình; tôi sẽ giữ mạng sống trong tay tôi.
\v 15 Kìa, nếu Ngài giết tôi, tôi sẽ chẳng còn hy vọng gì nữa; tuy nhiên, tôi sẽ bảo vệ đường lối tôi trước mặt Ngài.
\s5
\v 16 Đây sẽ là lý do cho sự tha tội tôi, rằng tôi không đến trước mặt Ngài như một người vô đạo.
\v 17 Lạy Đức Chúa Trời, xin cẩn thận lắng nghe lời con; xin nghe lời tuyên bố của con.
\s5
\v 18 Bây giờ, tôi đã chuẩn bị sẵn lời biện hộ; tôi biết mình vô tội.
\v 19 Ai dám tranh luận với tôi trước tòa? Nếu Ngài đến tranh luận, và nếu Ngài chứng minh là tôi sai, thì tôi sẽ im lặng và giao phó mạng sống tôi cho Ngài.
\s5
\v 20 Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chỉ làm hai điều cho con, sau đó con sẽ không ẩn mặt khỏi Ngài;
\v 21 xin Chúa rút tay nặng trĩu của Ngài khỏi con, và xin đừng để sự khiếp sợ Ngài khiến con sợ hãi.
\v 22 Xin Chúa gọi con, con sẽ trả lời; hoặc cho con nói với Ngài, rồi Ngài trả lời con.
\s5
\v 23 Con đã phạm bao nhiêu lỗi lầm và tội lỗi? Xin cho con biết sự vi phạm và tội lỗi con.
\v 24 Sao Chúa ẩn mặt khỏi con và xem con như kẻ thù của Ngài?
\v 25 Ngài sẽ hành hạ chiếc lá bị gió đưa đi? Ngài sẽ đuổi theo cọng rơm khô?
\s5
\v 26 Vì Ngài ghi lại những điều con cay đắng; Ngài bắt con gánh những tội lỗi của thời thơ ấu.
\v 27 Ngài cũng đặt chân con vào cùm; Ngài cẩn thận xem xét đường lối con; Ngài ghi dấu nơi chân con đến
\v 28 dù con giống như thứ mục nát tan tành, như chiếc áo bị sâu ăn.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Loài người do người nữ sinh ra, chỉ sống tạm vài ngày và lòng đầy phiền muộn.
\v 2 Người như hoa nảy mầm từ đất rồi bị chặt đi; người như bóng tối và chẳng ở lại lâu.
\v 3 Ngài có xem những điều này không? Ngài có đem con ra để xét xử không?
\s5
\v 4 Ai có thể đem đến thứ gì trong sạch từ trong sự ô uế? Chẳng ai cả.
\v 5 Các ngày của loài người đã được định đoạt; Ngài biết rõ số các tháng trong đời người; Ngài đã lập giới hạn để người không thể vượt qua.
\v 6 Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi người để người nghỉ ngơi, tận hưởng ngày của mình như người làm công nếu có thể được.
\s5
\v 7 Cây cối có thể hy vọng; nếu bị chặt, nó có thể lại đâm chồi, nhánh non của nó sẽ chẳng ngừng vươn ra.
\v 8 Dù rễ cây già cỗi dưới đất, và gốc cây chết trong cát bụi,
\v 9 nhưng nếu có ít nước, cây sẽ nảy chồi và đâm nhánh như cây non.
\s5
\v 10 Nhưng loài người chết; tan biến; thật vậy, người tắt thở, rồi người về đâu?
\v 11 Như nước bốc hơi khỏi hồ, sông cạn nước và khô queo,
\v 12 loài người cũng nằm xuống và không thức dậy nữa. Cho đến khi các từng trời chẳng còn nữa, họ sẽ không thức dậy cũng không được kêu dậy.
\s5
\v 13 Ôi, ước gì Chúa giấu con khỏi những điều phiền muộn ở âm phủ, ước gì Ngài giữ con khuất nẻo cho đến khi Ngài nguôi giận, ước gì Ngài định hạn cho con rồi hãy nhớ đến con!
\v 14 Nếu người phàm chết thì làm sao sống lại? Nếu vậy, con vẫn đợi chờ thời gian mệt nhọc đến khi con được giải cứu.
\s5
\v 15 Chúa sẽ gọi, con sẽ trả lời. Ngài mong chờ công việc của tay Ngài.
\v 16 Ngài sẽ đếm và quan tâm những bước chân của con; Ngài sẽ không ghi nhớ tội lỗi con.
\v 17 Sự vi phạm của con sẽ được niêm phong trong một cái túi; Ngài sẽ khỏa lấp tội lỗi con.
\s5
\v 18 Nhưng thậm chí núi non sụp đổ và chẳng còn lại gì; ngay cả đá bị dời khỏi chỗ nó;
\v 19 nước chảy đá mòn; nước lụt cuốn đi bụi đất trên thế gian. Cũng vậy, Ngài phá hủy niềm hy vọng của con người.
\s5
\v 20 Ngài luôn đánh bại người, người qua đời; Ngài biến đổi diện mạo người và đuổi người đi.
\v 21 Các con trai người được tôn kính, nhưng người chẳng biết; họ có thể bị hạ xuống, nhưng người không hay.
\v 22 Người chỉ cảm biết nỗi đau của thân mình, và người than khóc cho chính mình.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Ê-li-pha người Tê-man trả lời,
\v 2 “Người khôn ngoan nên trả lời bằng tri thức vô dụng và lấp đầy mình bằng gió đông sao?
\v 3 Người lý luận bằng lời vô bổ hay bằng cách nói vô giá trị sao?
\s5
\v 4 Thật vậy, ông giảm lòng tôn trọng Đức Chúa Trời; ông cản trở người ta tỏ lòng thành tâm với Ngài,
\v 5 vì tội lỗi ông xui miệng ông; ông chọn lưỡi của người xảo trá.
\v 6 Miệng ông lên án ông, chứ không phải miệng tôi; thật vậy, môi ông làm chứng nghịch lại ông.
\s5
\v 7 Ông là người đầu tiên được sinh ra sao? Ông đã hiện hữu trước khi có núi đồi sao?
\v 8 Ông đã nghe về tri thức kín nhiệm của Đức Chúa Trời chưa? Chỉ một mình ông khôn ngoan sao?
\v 9 Có điều gì ông biết mà chúng tôi không biết? Có điều gì ông hiểu mà chúng tôi không hiểu?
\s5
\v 10 Trong số chúng tôi có người tóc bạc và người già cả, tuổi tác lớn hơn cha của ông.
\v 11 Có phải lời an ủi của Đức Chúa Trời quá nhỏ đối với ông, tức là những lời lẽ nhẹ nhàng đối với ông?
\s5
\v 12 Sao lòng ông bấn loạn? Tại sao mắt ông long lên sòng sọc,
\v 13 đến nỗi ông xây lòng khỏi Chúa và thốt ra những lời ấy?
\v 14 Loài người là chi mà Ngài phải làm cho thanh sạch? Người phàm được người nữ sinh ra là chi mà lại công bình?
\s5
\v 15 Kìa, Đức Chúa Trời thậm chí không tin các thánh của Ngài; thật vậy, các từng trời không trong sạch trước mặt Ngài;
\v 16 huống chi người xấu xa và đồi bại, là người uống tội lỗi như uống nước, thì làm sao trong sạch được!
\s5
\v 17 Tôi sẽ dạy ông; hãy nghe tôi; tôi sẽ nói với ông về những việc tôi đã thấy,
\v 18 những việc mà người khôn ngoan đã truyền lại từ tổ phụ họ, những việc mà tổ phụ họ không giấu giếm.
\s5
\v 19 Các tổ phụ ấy là người đã được ban đất đai, và không có khách lạ nào ở giữa họ.
\v 20 Kẻ gian ác dằn vặt đau đớn trọn đời mình, số các năm được dành cho kẻ đàn áp.
\v 21 Tai nó nghe tiếng kinh hãi đang khi nó sống thịnh vượng, kẻ hủy diệt sẽ đến trên nó.
\s5
\v 22 Nó không nghĩ rằng nó thoát khỏi sự tối tăm; gươm giáo chờ nó.
\v 23 Nó đi khắp nơi để tìm bánh, hỏi rằng, Bánh đâu? Nó biết rằng ngày tối tăm đang gần kề.
\v 24 Tai họa và nỗi thống khổ khiến nó sợ hãi; chúng lấn át nó, như vua sẵn sàng ra trận.
\s5
\v 25 Vì nó đã giơ tay nghịch lại Đức Chúa Trời và cư xử ngạo mạn với Đấng Toàn năng,
\v 26 kẻ gian ác ấy xông vào Đức Chúa Trời, cổ ngước thẳng và tay cầm khiên dày.
\s5
\v 27 Đúng vậy, dù nó lấy mỡ che mặt và làm căng hông,
\v 28 nó sẽ sống trong các thành hoang phế; trong nhà cửa bỏ hoang và sắp đổ nát.
\s5
\v 29 Nó sẽ không giàu; sự giàu sang của nó sẽ chẳng còn bao lâu; ngay cả bóng của nó cũng sẽ không kéo dài trên đất.
\v 30 Nó sẽ không thoát khỏi bóng tối; lửa sẽ thiêu rụi nhánh của nó; hơi thở từ miệng Chúa sẽ cuốn nó đi xa.
\s5
\v 31 Ước gì nó đừng tin cậy vào sự vô ích, tự lừa dối mình; vì sự vô ích sẽ là phần thưởng của nó.
\v 32 Việc đó sẽ xảy đến trước khi nó hết kỳ hạn; nhánh nó sẽ không xanh tươi.
\v 33 Nó sẽ như trái nho non bị rụng; nó sẽ không ra hoa như cây ô-liu.
\s5
\v 34 Vì hội của kẻ vô đạo sẽ không sinh sản; lửa sẽ thiêu đốt lều của bọn hối lộ.
\v 35 Chúng thụ thai việc ác và sinh ra điều tàn bạo; lòng dạ chúng thai nghén sự giả dối.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Tôi đã nghe những lời như vậy rồi; tất cả các ông đều là những người an ủi đáng thương.
\v 3 Bao giờ mới dứt lời vô dụng? Các ông gặp chuyện gì đến nỗi trả lời tôi như vậy?
\s5
\v 4 Tôi cũng có thể nói như các ông, nếu các ông ở trong hoàn cảnh tôi; tôi có thể suy luận và dùng lời lẽ để nói nghịch các ông và lắc đầu nhạo báng các ông.
\v 5 Ôi, ước gì tôi dùng miệng mình mà khuyến khích các ông! Ước gì lời an ủi từ môi tôi sẽ làm nhẹ nỗi sầu khổ của các ông!
\s5
\v 6 Nếu tôi nói, nỗi sầu khổ của tôi chẳng giảm đi; nếu tôi cứ nói, làm sao tôi được giúp đỡ?
\v 7 Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã khiến con mệt mỏi; Ngài đã khiến cả gia đình con tan hoang.
\v 8 Ngài đã khiến con khô cằn, việc này làm chứng nghịch lại con; thân thể gầy còm tố cáo con.
\s5
\v 9 Đức Chúa Trời xâu xé tôi trong cơn thạnh nộ và nghịch tôi; Ngài nghiến răng nghịch tôi; kẻ thù tôi trừng mắt nhìn tôi khi Ngài xé xác tôi.
\v 10 Người ta há miệng nghịch tôi; họ vả má tôi một cách khinh thị; họ tụ họp nghịch lại tôi.
\s5
\v 11 Chúa Trời phó tôi vào tay người vô đạo; Ngài quăng tôi vào tay kẻ gian ác.
\v 12 Tôi đang sống thanh thản, Ngài bẻ tôi. Thật vậy, Ngài túm cổ tôi và đập tôi tan nát; Ngài cũng biến tôi thành bia đỡ đạn.
\s5
\v 13 Các cung thủ của Ngài vây quanh tôi; Chúa đâm thận tôi và không tha tôi; Ngài đổ mặt tôi xuống đất.
\v 14 Ngài đập tôi tơi tả; Ngài xông đánh tôi như một chiến binh.
\s5
\v 15 Tôi đã may áo tang trên da tôi; tôi ấn sừng tôi xuống đất.
\v 16 Mặt tôi sưng đỏ vì khóc; trên mi mắt tôi là bóng của sự chết
\v 17 dù tay tôi chẳng làm điều bạo lực, lời cầu nguyện của tôi tinh sạch.
\s5
\v 18 Hỡi trái đất, chớ lấp huyết tôi; chớ để lời kêu than của tôi được ngưng lại.
\v 19 Ngay cả bây giờ, kìa, Đấng làm chứng của tôi ở trên thiên đàng; Đấng bào chữa tôi ngự trên cao.
\s5
\v 20 Bạn bè tôi chế nhạo tôi, nhưng tôi hướng về Chúa mà khóc.
\v 21 Ước gì Ngài làm chứng tôi với Đức Chúa Trời như loài người làm chứng với nhau!
\v 22 Vì sau một vài năm nữa, tôi sẽ đến nơi mà tôi sẽ chẳng trở về.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Tinh thần con hao mòn, các ngày con qua đi; mồ mả đang đợi con.
\v 2 Chắc chắn bọn chế nhạo vây quanh con; mắt con luôn thấy sự khiêu khích của chúng.
\v 3 Xin ban cho con chứng cớ, xin Ngài bảo lãnh con; còn ai sẽ giúp đỡ con nữa?
\s5
\v 4 Lạy Chúa, vì Ngài đã ngăn lòng họ khỏi sự hiểu biết; vì vậy, Ngài sẽ không nhấc họ lên cao hơn con.
\v 5 Kẻ nào tố giác bạn bè mình để nhận thưởng, mắt của con cái hắn sẽ hao mòn.
\s5
\v 6 Nhưng Ngài khiến con trở thành tục ngữ của thiên hạ, chúng nhổ vào mặt con.
\v 7 Mắt con cũng đã lờ đờ vì buồn thảm; toàn thân con rã rời như bóng đêm.
\v 8 Người ngay thẳng sẽ sửng sốt về việc này; người vô tội sẽ phẫn nộ kẻ vô đạo.
\s5
\v 9 Người công bình sẽ giữ vững đường lối mình; ai có tay trong sạch sẽ càng thêm mạnh mẽ.
\v 10 Nhưng các ông hãy đến đây; tôi sẽ không tìm được một ai khôn ngoan trong số các ông.
\s5
\v 11 Các ngày của tôi đã qua, kế hoạch của tôi đổ vỡ, ngay cả ước muốn trong lòng tôi cũng vậy.
\v 12 Những người này, những kẻ chế giễu, biến đêm thành ngày; họ nói ánh sáng gần với bóng tối.
\s5
\v 13 Bởi chưng tôi xem âm phủ như nhà mình; vì tôi trải giường trong bóng tối;
\v 14 vì tôi đã nói với cái huyệt, Ngươi là cha ta, và với giòi bọ, Ngươi là mẹ ta và chị ta,
\v 15 vậy niềm hy vọng của tôi ở đâu? Ai có thể thấy niềm hy vọng của tôi?
\v 16 Sự hy vọng sẽ cùng tôi xuống cổng âm phủ khi chúng ta trở về với bụi đất?
\s5
\c 18
\p
\v 1 Binh-đát người Su-a trả lời,
\v 2 “Khi nào ông ngưng nói? Hãy xem xét, rồi chúng tôi sẽ nói.
\s5
\v 3 Sao ông xem chúng tôi như loài thú; sao ông coi chúng tôi như kẻ ngốc?
\v 4 Ông giận dữ xé toạc mình, chẳng lẽ trái đất phải rúng động vì ông hay đá phải bị dời khỏi chỗ nó sao?
\s5
\v 5 Thật vậy, ánh sáng của kẻ ác sẽ vụt tắt; tia lửa của hắn sẽ chẳng cháy sáng.
\v 6 Ánh sáng trong lều hắn sẽ trở nên tối tăm; ngọn đèn trên đầu hắn sẽ tắt.
\s5
\v 7 Các bước chân mạnh mẽ của hắn trở nên ngắn ngủi; mưu kế của hắn sẽ hạ gục hắn.
\v 8 Vì hắn đưa chân mình vào lưới; hắn sẽ rơi vào cạm bẫy.
\s5
\v 9 Bẫy sẽ nắm gót chân nó; lưới bẫy sẽ sa trên hắn.
\v 10 Thòng lọng chờ chực hắn dưới đất; bẫy chờ sẵn hắn trên đường.
\v 11 Nỗi khiếp sợ sẽ khiến hắn hãi hùng tứ phía; chúng sẽ theo đuổi gót chân hắn.
\s5
\v 12 Của cải của hắn sẽ thành cơn đói, tai họa chực sẵn bên cạnh hắn.
\v 13 Các chi thể hắn sẽ bị cắn xé; thật vậy, con đầu lòng của thần chết sẽ ăn tươi nuốt sống thân thể hắn.
\s5
\v 14 Hắn sẽ bị kéo ra khỏi lều, là nơi hắn nương dựa; hắn sẽ bị lôi đến thần chết, vua của sự kinh hoảng.
\v 15 Kẻ chẳng thuộc về hắn sẽ sống trong lều hắn sau khi chúng thấy lưu huỳnh vương vãi trong nhà hắn.
\s5
\v 16 Rễ của hắn dưới đất sẽ khô cằn; nhánh của hắn sẽ bị chặt.
\v 17 Kỷ niệm của hắn dưới đất sẽ phai tàn; tên hắn sẽ không còn được nhắc ở ngoài đường.
\s5
\v 18 Hắn sẽ bị đuổi từ nơi có ánh sáng vào vùng tối tăm và bị trục xuất khỏi thế giới này.
\v 19 Hắn sẽ không có con cháu trong dòng tộc, trong nhà hắn cũng sẽ chẳng còn bà con.
\v 20 Người sống ở phương tây sẽ sững sờ về điều xảy ra với hắn; người sống ở phương đông sẽ khiếp hãi.
\s5
\v 21 Chắc chắn đó là số phận của người không công bình, là chỗ của những người không biết Đức Chúa Trời.”
\s5
\c 19
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Các ông dày vò tôi và dùng lời nói nghiền nát tôi đến khi nào?
\s5
\v 3 Đã mười lần các ông quở trách tôi; các ông bạc đãi tôi mà chẳng xấu hổ.
\v 4 Nếu đúng là tôi có lỗi, thì lỗi ấy vẫn là do tôi.
\s5
\v 5 Nếu thật các ông lên mặt với tôi và thuyết phục mọi người rằng tôi bị ghét bỏ,
\v 6 thì các ông nên biết rằng Đức Chúa Trời đã gây thiệt hại cho tôi và giăng lưới Ngài bắt tôi.
\s5
\v 7 Kìa, tôi kêu la rằng tôi bị ngược đãi, nhưng chẳng ai nghe tôi; tôi kêu cứu, nhưng chẳng thấy công lý.
\v 8 Ngài đã chặn đường để tôi không thể vượt qua, Ngài khiến tối tăm vây phủ lối đi của tôi.
\v 9 Ngài tước đoạt sự vinh quang tôi, Ngài lấy vương miện trên đầu tôi.
\s5
\v 10 Ngài đập tôi tan nát tứ phía, tôi chẳng còn nữa; Ngài lấy hết hy vọng của tôi như cái cây.
\v 11 Ngài cũng nhen cơn giận Ngài trên tôi; Ngài xem tôi như một trong các kẻ thù của Ngài.
\v 12 Các đạo quân của Ngài kéo tới; chúng đắp gò bao vây tôi và dựng trại quanh lều tôi.
\s5
\v 13 Ngài khiến anh em tôi lìa xa tôi; người quen của tôi hoàn toàn trở nên xa lạ với tôi.
\v 14 Bà con thân thích của tôi lìa bỏ tôi; bạn bè thân thiết quên tôi.
\s5
\v 15 Khách khứa từng ở trong nhà tôi và đứa tớ gái tôi xem tôi như người lạ; trước mặt họ tôi là người xa lạ.
\v 16 Tôi gọi đầy tớ, nhưng nó không trả lời dù miệng tôi nài xin nó.
\s5
\v 17 Hơi thở của tôi khiến vợ tôi khó chịu; lời tôi nài xin trở nên ghê tởm với anh chị em tôi.
\v 18 Ngay cả trẻ con cũng khinh thị tôi; nếu tôi đứng dậy nói, chúng cũng nói nghịch lại tôi.
\v 19 Tất cả bạn bè quen thuộc của tôi đều ghê tởm tôi; những người tôi yêu thương cũng trở mặt nghịch tôi.
\s5
\v 20 Xương cốt tôi bám vào da thịt tôi; tôi còn sống chỉ còn da bọc răng.
\v 21 Xin thương xót tôi, xin thương xót tôi, hỡi các bạn của tôi, vì tay của Đức Chúa Trời đã rờ đến tôi.
\v 22 Sao các ông bắt bớ tôi như thể các ông là Đức Chúa Trời? Sao các ông không thỏa mãn khi thiêu nuốt thịt tôi?
\s5
\v 23 Ôi, ước gì lời tôi nói được viết xuống! Ôi, ước gì chúng được viết trong sách!
\v 24 Ôi, ước gì chúng được viết bằng bút sắt và chì lên đá mãi mãi!
\s5
\v 25 Còn về phần tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu chuộc tôi vẫn sống, cuối cùng Ngài sẽ đứng vững trên đất;
\v 26 sau khi da tôi, thân xác này, bị tiêu hủy, tôi sẽ xem Chúa trong xác thịt tôi.
\v 27 Tôi sẽ thấy Ngài, chính tôi sẽ thấy Ngài bên cạnh tôi; mắt tôi sẽ thấy Ngài, chứ không xem Ngài là người lạ. Thận tôi hao mòn trong tôi.
\s5
\v 28 Nếu các ông nói, Chúng ta quấy rối ông ấy thế nào! Cội rễ tai họa của ông ấy đều nằm ở ông ấy,
\v 29 vậy các ông hãy sợ gươm, vì cơn thạnh nộ đem theo sự đoán phạt của gươm, để các ông biết là có sự đoán xét.”
\s5
\c 20
\p
\v 1 Bấy giờ, Xô-pha người Na-a-ma trả lời,
\v 2 “Các tư tưởng tôi giục tôi trả lời vì tôi lo lắng.
\v 3 Tôi có nghe một lời quở trách của ông khiến tôi xấu hổ, nhưng tinh thần hiểu biết của tôi đáp lại.
\s5
\v 4 có biết rằng từ thời xa xưa, khi Đức Chúa Trời đặt loài người trên đất này:
\v 5 thì niềm hân hoan của kẻ ác là ngắn ngủi, và niềm vui của kẻ vô đạo chỉ kéo dài trong chốc lát?
\s5
\v 6 Dù hắn vươn đến tận trời, và đầu hắn đụng đến mây,
\v 7 nhưng hắn sẽ hư vong mãi mãi như phân của hắn; ai từng thấy hắn sẽ hỏi, Người đó ở đâu?
\s5
\v 8 Hắn sẽ tan biến như giấc mơ và không ai tìm được; thật vậy, hắn sẽ bị rượt đuổi như dị tượng trong đêm.
\v 9 Mắt từng thấy hắn sẽ không còn thấy hắn nữa; nơi hắn ở sẽ chẳng thấy hắn nữa.
\s5
\v 10 Con cái hắn sẽ xin lỗi người nghèo; tay hắn sẽ phải trả lại sự giàu sang của hắn.
\v 11 Xương cốt hắn đầy sinh lực của tuổi trẻ, nhưng sinh lực ấy sẽ nằm xuống với hắn trong bụi đất.
\s5
\v 12 Dù sự gian ác là ngọt ngào trong miệng hắn, dù hắn giấu sự gian ác dưới lưỡi,
\v 13 dù hắn không nhả ra nhưng vẫn ngậm trong miệng
\v 14 thì thức ăn trong bụng hắn sẽ đắng hơn; chúng như nọc rắn trong người hắn.
\s5
\v 15 Hắn nuốt của cải, nhưng rồi lại mửa ra; Đức Chúa Trời sẽ tống chúng ra khỏi bụng hắn.
\v 16 Hắn sẽ mút nọc của rắn hổ; lưỡi rắn lục sẽ giết hắn.
\s5
\v 17 Hắn sẽ không còn sống để nhìn những con sông và dòng suối tràn mật và bơ.
\v 18 Điều hắn đã nhọc công, hắn sẽ phải trả lại; hắn sẽ không nuốt nổi; hắn sẽ không hưởng được sự giàu có của hắn.
\v 19 Vì hắn đã áp bức và khinh khi người nghèo; hắn đã chiếm đoạt nhà cửa mà hắn không xây.
\s5
\v 20 Vì hắn không thỏa mãn, nên hắn sẽ không thể giữ lấy bất cứ thứ gì mà hắn thích.
\v 21 Chẳng còn lại thứ gì mà hắn không cắn xé; vì vậy, sự thịnh vượng của hắn sẽ chẳng bền.
\v 22 Hắn sẽ gặp khó khăn đang khi giàu sang; tay của người nghèo sẽ tra trên hắn.
\s5
\v 23 Khi hắn sắp làm căng bụng mình, Chúa sẽ trút cơn thạnh nộ dữ dội của Ngài trên hắn; Chúa sẽ giáng mưa trên hắn khi hắn đang ăn.
\v 24 Dù hắn trốn thoát vũ khí bằng sắt, nhưng cây cung đồng sẽ bắn hắn.
\v 25 Mũi tên ấy sẽ đâm xuyên lưng hắn ra đằng trước; thật vậy, đầu tên lấp lánh sẽ lòi ra khỏi gan hắn; sự kinh khiếp giáng trên hắn.
\s5
\v 26 Sự tối tăm mù mịt bao trùm kho tàng của hắn; lửa không ai thổi sẽ thiêu rụi hắn; nó sẽ thiêu đốt những gì còn lại trong lều của hắn.
\v 27 Các từng trời sẽ tỏ bày tội lỗi của hắn, đất sẽ nổi dậy làm chứng chống lại hắn.
\s5
\v 28 Sự giàu có trong nhà hắn sẽ tan biến; của cải hắn sẽ biến mất trong ngày Đức Chúa Trời nổi cơn thạnh nộ.
\v 29 Đây là số phận của kẻ ác mà Đức Chúa Trời đem đến, là di sản Ngài dành cho hắn.”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Gióp trả lời rằng,
\v 2 “Xin nghe kỹ lời tôi nói, hãy để lời ấy an ủi các ông.
\v 3 Xin chịu đựng tôi, tôi cũng sẽ nói; sau khi tôi nói, hãy cứ chế giễu tôi.
\s5
\v 4 Còn về phần tôi, lời than phiền của tôi hướng về người khác sao? Sao tôi không nên nóng vội?
\v 5 Hãy nhìn tôi và kinh ngạc, hãy lấy tay che miệng các ông.
\v 6 Khi nghĩ đến sự đau khổ của mình, tôi băn khoăn, sự kinh khiếp làm tôi rởn thịt.
\s5
\v 7 Sao kẻ ác vẫn sống, già đi, và sức mạnh quyền thế cứ thêm lên?
\v 8 Dòng dõi của chúng được lập trước mặt chúng, con cái chúng được lập trước mắt chúng.
\v 9 Nhà của chúng yên ổn, không có sự sợ hãi; roi của Chúa cũng không giáng trên chúng.
\s5
\v 10 Bò đực của chúng sanh sản không thôi; bò cái của chúng sanh sản và không bao giờ bị sẩy thai.
\v 11 Chúng sanh ra một bầy, con cái của chúng chạy nhảy như đàn chiên.
\v 12 Chúng hát theo tiếng trống cơm và đàn hạc, vui đùa với tiếng nhạc của cây sáo.
\s5
\v 13 Chúng sống những ngày thịnh vượng, rồi chúng nhanh chóng xuống âm phủ.
\v 14 Chúng nói với Đức Chúa Trời, Hãy lìa khỏi chúng tôi, vì chúng tôi không muốn biết đường lối Ngài.
\v 15 Đấng Toàn năng là chi mà chúng tôi phải tôn thờ? Chúng tôi được lợi gì nếu cầu khẩn Ngài?
\s5
\v 16 Kìa, chẳng phải sự thịnh vượng của chúng ở trong tay chúng sao? Tôi chẳng liên quan gì với lời khuyên của kẻ ác.
\v 17 Có bao lần đèn của kẻ ác bị dập tắt, hay là tai họa của chúng giáng trên chúng? Có mấy khi Chúa giận dữ giáng sự sầu khổ trên chúng?
\v 18 Có bao giờ chúng như rơm rạ trước cơn gió hay như trấu bão lùa đi?
\s5
\v 19 Các ông nói, Chúa để con cái của hắn trả thay cho tội lỗi của hắn. Hãy để hắn tự trả giá, để hắn biết tội lỗi mình.
\v 20 Mắt hắn phải thấy sự hủy diệt của hắn và hắn phải uống cơn thạnh nộ của Đấng Toàn năng.
\v 21 Hắn quan tâm gì đến gia đình hắn khi mà số các tháng của hắn bị cắt bớt?
\s5
\v 22 Ai có thể dạy Đức Chúa Trời về sự hiểu biết vì Ngài đoán xét người ở nơi cao?
\v 23 Có người chết khi còn mạnh khỏe, thanh thản và hoàn toàn bình lặng.
\v 24 Thân thể người đầy sữa, và tủy xương cốt người đầy nhựa sống và mạnh mẽ.
\s5
\v 25 Có người chết khi lòng cay đắng, đó là người chưa bao giờ trải nghiệm điều tốt lành nào cả.
\v 26 Cả hai đều nằm xuống trong bụi đất; giòi bọ bao phủ họ.
\s5
\v 27 Kìa, tôi biết tư tưởng của các ông, và cách các ông muốn hại tôi.
\v 28 Vì các ông nói, Nhà của ông hoàng ở đâu? Lều của kẻ ác ở đâu?
\s5
\v 29 Các ông chưa bao giờ hỏi khách lữ hành sao? Các ông không biết lời chứng của họ,
\v 30 rằng kẻ gian ác được miễn trừ khỏi ngày tai họa, nó được thoát trong ngày thạnh nộ sao?
\s5
\v 31 Ai sẽ tố cáo đường lối kẻ ác? Ai sẽ báo trả vì những việc nó làm?
\v 32 Khi hắn được đưa mồ mả; người ta vẫn sẽ canh giữ phần mộ đó.
\v 33 Những cục đất trong thung lũng sẽ êm dịu với nó; mọi người sẽ theo sau nó, trước mặt nó thì nhiều người vô kể.
\s5
\v 34 Vậy các ông sẽ an ủi tôi với những lời vô bổ, vì câu trả lời của các ông có sự sai trái?”
\s5
\c 22
\p
\v 1 Ê-li-pha người Tê-man trả lời,
\v 2 “Người phàm có ích cho Đức Chúa Trời không? Người khôn ngoan có ích cho Ngài không?
\v 3 Đấng Toàn năng có vui nếu ông công bình không? Ngài được lợi gì nếu ông làm cho đường lối ông trọn vẹn?
\s5
\v 4 Có phải vì ông tôn kính Ngài nên Ngài quở trách ông và đoán xét ông?
\v 5 Sự yếu đuối của ông chẳng lớn sao? Tội lỗi ông không có giới hạn sao?
\s5
\v 6 Vì ông đã lấy của cầm của anh em mình một cách vô cớ; ông đã lột trần người ta.
\v 7 Ông không cho người mệt nhoài có nước uống; ông đòi bánh khỏi tay người nghèo
\v 8 dù ông, một cường thạnh, sở hữu đất đai, dù ông, một người được tôn trọng, sống tại đó.
\s5
\v 9 Ông đuổi góa phụ đi tay không; tay của người mồ côi cha bị gãy.
\v 10 Vậy, bẫy giăng quanh ông, nỗi kinh hoàng bất thần quấy rầy ông.
\v 11 Sự tối tăm bao trùm làm ông không thể thấy; nước nhấn chìm ông.
\s5
\v 12 Đức Chúa Trời không ngự ở nơi cao trên trời sao? Hãy nhìn xem bề cao của các vì sao, chúng thật cao biết mấy!
\v 13 Ông nói, Đức Chúa Trời có thể biết gì? Ngài có thể xét xử qua bóng tối mịt mùng sao?
\v 14 Các đám mây mù che mắt Ngài nên Ngài không thấy chúng ta; Ngài bước trên vòm trời.
\s5
\v 15 Ông sẽ giữ lối cũ mà kẻ ác đã đi
\v 16 những kẻ bị lôi đi trước giờ định, nền tảng của chúng trôi theo sông,
\v 17 chúng thưa với Chúa, Xin rời khỏi chúng con; chúng nói, Đấng Toàn năng có thể làm gì cho chúng tôi?
\s5
\v 18 Tuy nhiên Ngài ban cho nhà chúng đầy những vật tốt; mưu của kẻ ác xa với tôi lắm.
\v 19 Người công bình thấy sự hủy diệt của chúng và cảm thấy vui; người vô tội nhạo báng chúng.
\v 20 Họ nói, “Chắc chắn kẻ thù nghịch chúng ta sẽ chết; lửa thiêu nuốt gia tài của chúng.
\s5
\v 21 Bây giờ, hãy hòa thuận với Đức Chúa Trời và sống yên ổn với Ngài; như vậy, sự tốt lành sẽ lại đến với ông.
\v 22 Tôi xin ông hãy nghe lời dạy dỗ từ miệng Ngài; hãy giấu lời Ngài trong lòng ông.
\s5
\v 23 Nếu ông trở lại cùng Đấng Toàn năng, ông sẽ được phục hồi, nếu ông đem sự bất chính ra khỏi lều mình.
\v 24 Hãy để báu vật của ông xuống bụi đất, và vàng Ô-phia giữa các hòn đá ở khe,
\v 25 thì Đấng Toàn năng sẽ là kho báu của ông, là bạc quý của ông.
\s5
\v 26 Bấy giờ ông sẽ vui mừng nơi Đấng Toàn năng; ông sẽ ngẩng mặt nhìn lên Đức Chúa Trời.
\v 27 Ông sẽ khẩn nguyện Ngài, Ngài sẽ nghe ông; ông sẽ làm trọn lời thề ước với Ngài.
\v 28 Ông cũng sẽ quyết định bất cứ điều gì, điều đó sẽ được ban cho ông; ánh sáng sẽ chiếu trên đường lối ông.
\s5
\v 29 Đức Chúa Trời hạ thấp người kiêu ngạo, Ngài cứu những người khiêm nhường.
\v 30 Ngài sẽ cứu người vô tội; ông sẽ được cứu bởi tay tinh sạch của ông.”
\s5
\c 23
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Ngay cả hôm nay lời than phiền của tôi cay đắng; sự đau khổ của tôi nặng hơn tiếng tôi rên rỉ.
\s5
\v 3 Ôi, ước gì tôi biết phải tìm Ngài ở đâu! Ôi, ước gì tôi đến nơi ở của Ngài!
\v 4 Tôi sẽ trình duyên cớ của tôi trước mặt Ngài và tranh luận với Ngài.
\v 5 Tôi sẽ biết những lời Ngài trả lời tôi và hiểu lời Ngài nói với tôi.
\s5
\v 6 Ngài sẽ tranh luận với tôi bằng quyền năng lớn lao của Ngài sao? Không, Ngài sẽ để ý đến tôi.
\v 7 Người ngay thẳng có thể tranh luận với Ngài. Như vậy, tôi sẽ được thoát khỏi tay người đoán xét tôi đời đời.
\s5
\v 8 Kìa, tôi tới phía đông, nhưng Ngài không có ở đó, tôi đi về phía tây, nhưng chẳng thấy Ngài.
\v 9 Tôi tới phía bắc, là nơi Ngài đang làm việc, nhưng không gặp Ngài, và về phía nam, là nơi Ngài ẩn mình nhưng tôi cũng chẳng thấy Ngài.
\s5
\v 10 Tuy nhiên Ngài biết đường tôi đi; khi Ngài thử tôi, tôi sẽ ra như vàng.
\v 11 Chân tôi bám theo bước Ngài; tôi đi theo đường lối Ngài và chẳng đi sai lệch.
\v 12 Tôi không từ bỏ điều răn từ môi Ngài; tôi đã giấu lời Ngài trong lòng tôi.
\s5
\v 13 Nhưng Ngài đã quyết định, ai có thể lay chuyển Ngài? Điều Ngài muốn, Ngài sẽ làm.
\v 14 Vì Ngài thực hiện những gì Ngài định cho tôi; với nhiều điều tương tự.
\s5
\v 15 Do đó, tôi kinh sợ trước mặt Ngài; khi nghĩ về Ngài, tôi khiếp sợ Ngài.
\v 16 Vì Đức Chúa Trời khiến lòng tôi bủn rủn; Đấng Toàn năng làm tôi khiếp sợ.
\v 17 Tôi không bị bóng tối che khuất, bóng đêm dày đặc cũng không che phủ mặt tôi.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Sao Đấng Toàn năng không định thời hạn đoán xét kẻ ác? Sao những người trung tín với Đức Chúa Trời không thấy ngày đoán xét ấy?
\s5
\v 2 Có những kẻ ác dời mốc địa giới; có những kẻ ác cướp bầy súc vật và dẫn vào đồng cỏ của chúng.
\v 3 Chúng đuổi lừa của người mồ côi cha; chúng lấy bò đực của góa phụ làm của cầm.
\v 4 Chúng đuổi người thiếu thốn ra khỏi đường lối chính đáng; người nghèo trong xứ ẩn tránh chúng.
\s5
\v 5 Kìa, người nghèo nai lưng làm lụng như lừa hoang nơi hoang mạc, cẩn thận tìm thức ăn; có lẽ hoang mạc A-ra-ba sẽ cung cấp thức ăn cho họ và con cái họ.
\v 6 Người nghèo gặt ở đồng ruộng người khác vào ban đêm; họ mót nho từ vụ thu hoạch của kẻ ác.
\v 7 Họ nằm mình trần suốt đêm không quần áo; họ không có mền đắp khi trời lạnh.
\s5
\v 8 Họ bị ướt vì mưa trên núi; họ núp bên những tảng đá lớn vì họ không có chỗ trú.
\v 9 Có kẻ ác giật trẻ mồ côi khỏi bầu sữa của mẹ, và kẻ ác bắt con thơ của người nghèo làm tin.
\v 10 Nhưng người nghèo đi khắp nơi mình trần không quần áo; dù họ đói nhưng phải vác những bó lúa của người khác.
\s5
\v 11 Người nghèo ép dầu trong vựa của kẻ ác; họ đạp nho trong của kẻ ác nhưng chính họ khổ vì khát.
\v 12 Trong thành, người ta rên rỉ; kẻ bị thương kêu la, nhưng Đức Chúa Trời chẳng ngó ngàng gì đến lời cầu nguyện của họ.
\s5
\v 13 Một số kẻ ác chống lại ánh sáng; chúng không biết lối đi, cũng không ở trong đường lối ấy.
\v 14 Kẻ ám sát thức dậy từ sáng; hắn giết người nghèo và người khốn cùng; ban đêm hắn như kẻ trộm.
\s5
\v 15 Ngoài ra, mắt của kẻ ngoại tình trông chờ chạng vạng; hắn nói, Sẽ không ai thấy ta. Hắn cải trang khuôn mặt.
\v 16 Trong đêm tối, kẻ ác khoét vách vào nhà; nhưng ban ngày chúng ẩn nấp, chúng không quan tâm đến ánh sáng.
\v 17 Vì đối với chúng nó, buổi sáng cũng như đêm tối mịt; chúng quen thuộc với nỗi kinh hãi của bóng tối.
\s5
\v 18 Tuy nhiên, chúng nhanh chóng tan biến như bọt tan trên mặt nước; phần đất của chúng bị rủa sả; không ai làm việc trong vườn nho của chúng.
\v 19 Hạn hán và sức nóng làm tan nước tuyết; âm phủ cũng thiêu nuốt những kẻ phạm tội.
\s5
\v 20 Tử cung đã sanh nó sẽ quên nó; giòi bọ sẽ ăn thịt nó; nó sẽ chẳng còn được ai nhớ nữa; như vậy, sự gian ác sẽ đổ như cây cối.
\v 21 Kẻ ác cắn xé phụ nữ hiếm muộn; nó đối xử tệ với góa phụ.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Đức Chúa Trời dùng sức mạnh Ngài tiêu diệt kẻ cường thạnh; Ngài trỗi dậy và chẳng ban thêm sức mạnh cho chúng.
\v 23 Chúa cho chúng an toàn, và chúng vui về điều đó, nhưng mắt Ngài dõi theo con đường của chúng.
\s5
\v 24 Những kẻ này được tôn lên; chỉ trong chốc lát chúng sẽ tan biến; thật vậy, chúng sẽ bị hạ thấp; chúng sẽ bị gom lại như bao kẻ khác; chúng sẽ bị cắt như ngọn gié lúa.
\v 25 Nếu chẳng phải vậy, ai có thể chứng minh tôi là người dối trá; ai có thể khiến lời nói của tôi ra vô ích?”
\s5
\c 25
\p
\v 1 Binh-đát người Su-a trả lời,
\v 2 “Quyền thế và sự sợ hãi thuộc về Ngài; Ngài thiết lập trật tự ở các nơi cao trên trời.
\v 3 Ai đếm được số đạo quân của Ngài? Ai tránh được ánh sáng của Ngài?
\s5
\v 4 Vậy làm sao người phàm có thể được Đức Chúa Trời xưng công bình? Làm sao con người do người nữ sanh ra có thể trong sạch, được Ngài chấp nhận?
\v 5 Kìa, ngay cả mặt trăng cũng không đủ sáng; các ngôi sao cũng không trong sạch trước mặt Ngài.
\v 6 Huống hồ gì con người, là loài sâu bọ - con cái loài người, một loài sâu bọ!”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Gióp trả lời,
\v 2 “Các ông thật khéo giúp người cô thế! Các ông thật khéo giải cứu cánh tay không có sức mạnh!
\v 3 Các ông thật khéo khuyên giải người thiếu sự khôn ngoan và công bố tri thức đúng đắn!
\v 4 Nhờ sự giúp đỡ của ai mà các ông nói những lời này? Thần khí nào đã ra từ các ông?”
\s5
\v 5 Binh-đát trả lời, “Những người đã chết, những vong hồn, đều run rẩy, những cư dân dưới nước.
\v 6 Âm phủ trơ trụi trước mặt Đức Chúa Trời; sự diệt vong không được che phủ trước mặt Ngài.
\s5
\v 7 Ngài trải phương bắc trên vùng trống và treo trái đất trên cõi không trung.
\v 8 Ngài ngăn nước trong những đám mây dày đặc, nhưng mây không bị xé toạc bởi nước.
\s5
\v 9 Ngài bao phủ mặt trăng và trải mây của Ngài trên nó.
\v 10 Ngài khắc một vòm tròn trên bề mặt nước như đường ranh giữa ánh sáng và bóng tối.
\s5
\v 11 Các trụ trên trời rúng động và kinh ngạc trước sự quở trách của Ngài.
\v 12 Bởi quyền năng Ngài, Ngài khiến biển yên lặng; bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài đánh vỡ Ra-háp.
\s5
\v 13 Bởi hơi thở Ngài, Ngài xóa những cơn bão khỏi bầu trời; các từng trời không còn bóng dáng của bão; tay Ngài đâm thủng con rắn đang bỏ chạy.
\v 14 Kìa, đây chỉ là cái nhìn thoáng qua về đường lối Ngài; tiếng thì thầm chúng ta nghe về Ngài thật nhỏ bé! Ai có thể hiểu tiếng sấm quyền năng Ngài?
\s5
\c 27
\p
\v 1 Gióp lại nói,
\v 2 “Thật như Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng đã tước công lý của tôi, Đấng Toàn năng, Ngài đã khiến cuộc đời tôi trở nên cay đắng,
\v 3 vì hễ tôi còn sống chừng nào và hơi thở từ Đức Chúa Trời ở trong lỗ mũi tôi,
\s5
\v 4 chắc chắn môi tôi sẽ không nói điều bất chính, lưỡi tôi cũng sẽ không nói lời giả dối.
\v 5 Chẳng bao giờ tôi cho rằng các ông đúng; cho đến khi tôi chết, tôi sẽ không bao giờ phủ nhận sự liêm chính của tôi.
\s5
\v 6 Tôi nắm chặt sự công bình của tôi và sẽ không rời bỏ nó; các tư tưởng tôi sẽ không quở tôi chừng nào tôi còn sống.
\v 7 Nguyện kẻ thù tôi như người gian ác; ước gì kẻ chống nghịch tôi trở nên như kẻ bất chính.
\s5
\v 8 Vì người vô đạo có hy vọng gì khi bị Đức Chúa Trời cắt đứt, khi hắn bị Ngài cất mạng sống?
\v 9 Liệu Chúa sẽ nghe tiếng kêu la của hắn khi sự khó nhọc ập đến không?
\v 10 Hắn sẽ vui mừng trong Đấng Toàn năng và luôn kêu cầu Đức Chúa Trời không?
\s5
\v 11 Tôi sẽ chỉ dạy các ông về tay của Đức Chúa Trời; tôi sẽ không giấu các tư tưởng của Đấng Toàn năng.
\v 12 Kìa, chính tất cả các ông đã thấy điều này; vậy tại sao các ông nói những lời vô nghĩa này?
\s5
\v 13 là vận mệnh của kẻ gian ác trước mặt Đức Chúa Trời, là di sản của kẻ đàn áp mà Đấng Toàn năng dành cho hắn:
\v 14 Nếu con cái hắn đông đảo, chúng sẽ được dành cho gươm giáo; con cháu hắn sẽ không bao giờ có đủ thức ăn.
\s5
\v 15 Những người sống sót sẽ bị chôn vùi bởi bệnh dịch, các góa phụ của chúng sẽ không than khóc vì chúng.
\v 16 Dù kẻ ác tích lũy bạc như bụi đất, và chất đầy quần áo như đất sét,
\v 17 hắn có thể chất đầy quần áo, nhưng người công bình sẽ mặc, người vô tội sẽ chia bạc với nhau.
\s5
\v 18 Hắn xây nhà như mạng nhện, như túp lều do người canh gác dựng lên.
\v 19 Hắn nằm xuống trên giường giàu sang, nhưng hắn sẽ chẳng luôn được hưởng; hắn mở mắt ra, và mọi thứ đều biến mất.
\s5
\v 20 Sự kinh hãi bắt kịp hắn như nước; bão cuốn hắn đi trong đêm.
\v 21 Gió đông thổi hắn bay mất, hắn biến mất; gió ấy quét sạch hắn khỏi chỗ hắn ở.
\s5
\v 22 Gió thổi xoáy vào hắn không ngớt; hắn cố chạy thoát khỏi sức mạnh của gió.
\v 23 Gió vỗ tay nhạo báng hắn; gió rít thổi hắn ra khỏi chỗ mình.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Chắc chắn phải có mỏ bạc, là nơi người ta luyện vàng.
\v 2 Sắt được lấy khỏi đất; đồng tan chảy khỏi đá.
\s5
\v 3 Người ta xua tan bóng tối và dò tìm đá trong sự tối tăm và mờ mịt đến tận cuối hang.
\v 4 Họ đào một cái hầm cách xa nơi dân chúng sinh sống, là nơi không ai đặt chân đến. Họ treo mình cách xa nơi người ta ở; đu đưa qua lại.
\s5
\v 5 sanh ra miếng ăn, dưới lòng đất như bị lửa xáo trộn.
\v 6 Trong đá có ngọc bích, và trong bụi đất có vàng.
\s5
\v 7 Không chim săn mồi nào biết đường đến đó, mắt chim ưng cũng chẳng thấy được.
\v 8 Các mãnh thú không đi theo con đường đó, sư tử hung dữ cũng không đi ngang đó.
\s5
\v 9 Người ta tra tay trên đá lửa; họ lật đổ núi từ tận chân núi.
\v 10 Họ đục đá mở đường hầm; mắt họ thấy mọi vật quý.
\v 11 Họ ngăn dòng suối; họ đem mọi thứ ẩn giấu ra ánh sáng.
\s5
\v 12 Sự khôn ngoan sẽ được tìm ở đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
\v 13 Loài người không biết giá trị của nó; nó cũng không được tìm thấy giữa xứ của người sống.
\v 14 Nước sâu dưới lòng đất nói, Nó không có ở trong tôi; biển cả nói, Nó không có ở với tôi.
\s5
\v 15 Không thể đổi sự khôn ngoan để lấy vàng; cũng không thể cân bạc để định giá.
\v 16 Sự khôn ngoan không thể được định giá với vàng Ô-phia, với ngọc hồng mã não hay ngọc bích.
\v 17 Vàng và đồ pha lê không thể có giá trị tương đương với sự khôn ngoan; cũng không thể đổi sự khôn ngoan để lấy trang sức bằng vàng ròng.
\s5
\v 18 San hô hay ngọc thạch anh cũng chẳng đáng đề cập đến; thật vậy, sự khôn ngoan có giá trị hơn cả ngọc đỏ.
\v 19 Hoàng ngọc xứ Ê-thi-ô-pi không có giá trị ngang với sự khôn ngoan; sự khôn ngoan cũng không thể nào được định giá bằng vàng ròng.
\s5
\v 20 Vậy sự khôn ngoan đến từ đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
\v 21 Sự khôn ngoan bị che khuất khỏi mắt của những loài sống và bị che khỏi mắt của chim trời.
\v 22 Sự hủy diệt và Tử thần nói, Chính tai chúng ta có nghe tin đồn về điều đó.
\s5
\v 23 Chúa Trời hiểu con đường dẫn đến đó; Ngài biết chỗ đó.
\v 24 Vì Ngài nhìn khắp tận phương trời và thấy mọi thứ dưới trời.
\v 25 Từ xa xưa, Ngài đã ban sức mạnh cho gió và đo lường phân chia nước.
\s5
\v 26 Ngài ra lệnh cho gió và vạch đường cho sấm sét.
\v 27 Ngài thấy sự khôn ngoan và công bố; thật vậy, Ngài lập nên sự khôn ngoan và dò xét nó.
\v 28 Ngài phán với loài người, Kìa, kính sợ Chúa là khôn ngoan; tránh khỏi điều dữ là thông minh.”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Gióp lại trả lời,
\v 2 “Ồ, ước gì tôi ở trong những tháng ngày xa xưa khi Chúa chăm sóc tôi,
\v 3 khi ngọn đèn Ngài soi trên đầu tôi, và khi tôi bước đi trong bóng đêm bằng ánh sáng Ngài.
\s5
\v 4 Ôi, ước gì tôi ở trong những ngày chín muồi khi Đức Chúa Trời là bạn thân thiết che chở lều tôi,
\v 5 khi Đấng Toàn năng còn ở với tôi, và con cái tôi ở quanh tôi,
\v 6 khi đường lối tôi bị sữa cuốn đi, và đá tuôn đổ trên tôi những dòng suối dầu!
\s5
\v 7 Khi tôi ra khỏi cổng thành, khi tôi ngồi ở quảng trường của thành phố,
\v 8 các thanh niên thấy tôi và tránh qua một bên, người già đứng dậy và bênh vực tôi.
\s5
\v 9 Các vương tử từng kìm chế không nói khi tôi đến; họ lấy tay che miệng mình.
\v 10 Người quý tộc im lặng, lưỡi họ dính chặt vào vòm miệng.
\s5
\v 11 Vì sau khi tai họ đã nghe tôi, họ sẽ chúc phước cho tôi; sau khi mắt họ đã thấy tôi, họ sẽ làm chứng cho tôi và chấp thuận tôi
\v 12 vì tôi từng cứu người nghèo khi họ kêu la, và tôi cũng cứu người mồ côi cha, khi họ không có ai để giúp đỡ.
\v 13 Người sắp chết chúc phước cho tôi; tôi khiến cho người góa phụ vui mừng ca hát.
\s5
\v 14 Tôi mặc sự công bình, và nó che phủ tôi; công lý của tôi như chiếc áo choàng và khăn xếp.
\v 15 Tôi là mắt của người mù; tôi là đôi chân của người què.
\v 16 Tôi là cha của người thiếu thốn; tôi thậm chí sẽ xem xét cảnh ngộ của người mà tôi chẳng biết.
\s5
\v 17 Tôi bẻ hàm của kẻ bất chính; tôi lấy nạn nhân ra khỏi răng của nó.
\v 18 Sau đó tôi nói, Tôi sẽ chết trong tổ của mình; tôi sẽ thêm lên các ngày như hạt cát.
\v 19 Rễ của tôi ăn sâu xuống tới nước, sương móc rơi trên các nhánh của ta suốt đêm.
\s5
\v 20 Sự tôn kính trong tôi luôn luôn tươi mới, cây cung sức mạnh trong tay tôi luôn mới.
\v 21 Người ta lắng nghe tôi, họ chờ tôi; họ im lặng nghe lời khuyên của tôi.
\v 22 Sau khi tôi đã nói xong, họ không nói gì nữa; lời nói của tôi như nước rơi trên họ.
\s5
\v 23 Họ luôn chờ đợi tôi như người ta trông chờ mưa; họ há miệng uống lời tôi, như người ta há miệng hứng nước mưa.
\v 24 Tôi mỉm cười khi họ không kỳ vọng; họ không từ chối ánh sáng của mặt tôi.
\s5
\v 25 Tôi chọn đường lối cho họ và chỉ huy họ; tôi sống như vua giữa quân đội, như người an ủi người than khóc ở đám tang.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Bấy giờ những người trẻ hơn tôi chẳng có gì ngoại trừ lời nhạo báng tôi những người trẻ mà cha của họ là người mà tôi hẳn sẽ từ chối không cho làm việc bên cạnh đàn chó chăn bầy của tôi.
\v 2 Thật vậy, sức mạnh của tay cha họ, làm sao có thể giúp đỡ tôi những người mà sức lực trong tuổi trưởng thành đã tàn lụi?
\v 3 Họ gầy còm vì nghèo đói; họ gặm nhắm trên đất khô trong bóng của hoang mạc và cảnh tan hoang.
\s5
\v 4 Họ nhổ cỏ lông lợn và lá của bụi cây; rễ của cây đậu chổi là thức ăn của họ.
\v 5 Họ bị đuổi khỏi những người la hét họ như thể la hét đuổi một tên trộm.
\v 6 Vì vậy họ phải sống trong các khe sông, trong các hang dưới đất và hang đá.
\s5
\v 7 Họ kêu inh tai giữa các bụi cây như con lừa; họ tập trung lại dưới bụi cây.
\v 8 Thật vậy, họ là con cháu của kẻ ngốc, của người vô dụng; họ bị đuổi ra khỏi xứ bằng roi.
\s5
\v 9 Nhưng bây giờ, vì con của họ, tôi trở thành đối tượng trong bài hát chế giễu của họ; thật vậy, tôi trở thành trò cười của họ.
\v 10 Họ ghét cay ghét đắng tôi và đứng tránh xa tôi; họ không ngại nhổ vào mặt tôi.
\v 11 Vì Chúa đã tháo dây cung của tôi và khiến tôi đau đớn, và do đó những người này không tự chủ trước mặt tôi.
\s5
\v 12 Bên phải tôi, một đám đông nổi lên; họ xua đuổi tôi và đắp lũy bao vây tôi.
\v 13 Họ hủy phá đường lối tôi; họ đẩy tai họa đến với tôi, họ không có ai để kiềm chế họ.
\s5
\v 14 Họ xông đến tôi như một đoàn quân tràn vào lỗ hổng lớn của tường thành; khi tận diệt, họ xâm chiếm tôi.
\v 15 Nỗi kinh hãi giáng trên tôi; danh dự tôi bị gió cuốn bay xa; sự thịnh vượng của tôi như mây tan biến.
\s5
\v 16 Bấy giờ mạng sống tôi đổ ra từ trong tôi; nhiều ngày đau khổ bám lấy tôi.
\v 17 Ban đêm, xương tôi bị đâm; những cơn đau không ngừng gặm nhắm tôi.
\s5
\v 18 Sức mạnh lớn lao của Chúa nắm lấy quần áo tôi; nó túm lấy tôi như cổ áo.
\v 19 Ngài đã ném tôi vào vũng bùn; tôi trở nên như tro bụi.
\s5
\v 20 Chúa Trời ơi, con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không trả lời con; con đứng dậy, Ngài chỉ nhìn con.
\v 21 Ngài đã thay đổi và trở nên tàn nhẫn với con; Ngài hành hạ con bằng quyền năng trong tay Ngài.
\s5
\v 22 Ngài nâng con lên cơn gió và khiến nó chở con đi khắp nơi; Ngài khiến con tan biến trong bão.
\v 23 Vì con biết rằng Ngài sẽ khiến con chết, là nơi gặp mặt của mọi người sống.
\s5
\v 24 Tuy nhiên, chẳng phải người ta giơ tay ra để xin được giúp đỡ khi vấp ngã sao? Chẳng có ai gặp khó khăn mà không kêu xin giúp đỡ sao?
\v 25 Chẳng phải tôi không than khóc cho người gặp phiền muộn sao? Chẳng phải tôi không đau buồn vì người nghèo túng sao?
\v 26 Khi tôi tìm điều lành thì điều dữ đến; khi tôi trông đợi ánh sáng thì bóng tối đến.
\s5
\v 27 Lòng tôi phiền muộn và không an nghỉ; những ngày tai họa đến trên tôi.
\v 28 Tôi đi tới đi lui với làn da nám đen chẳng phải vì mặt trời; tôi đứng lên giữa hội chúng và kêu cầu giúp đỡ.
\v 29 Tôi là anh em của chó rừng, là bạn của đà điểu.
\s5
\v 30 Da tôi đen và rớt khỏi tôi; xương cốt tôi bị thiêu vì sức nóng.
\v 31 Vì vậy, đàn hạc tôi được lên dây để khảy những bài tang chế, sáo tôi thổi tiếng rên rỉ.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Tôi đã lập giao ước với mắt tôi; vậy thì làm sao tôi thèm muốn nhìn gái đồng trinh?
\v 2 Chúa trên trời cao ban phần gì, gia sản từ Đấng Toàn năng trên cao là gì?
\s5
\v 3 Tôi từng nghĩ rằng tai họa là dành cho người bất chính, và thảm họa là dành cho người làm điều ác.
\v 4 Đức Chúa Trời không thấy đường lối tôi và đếm bước chân tôi sao?
\s5
\v 5 Nếu tôi đi với phường gian dối, nếu chân tôi vội vàng chạy đến mưu gian,
\v 6 (nguyện tôi được đặt trên cái cân chính xác để Chúa biết sự liêm chính của tôi)
\s5
\v 7 nếu tôi đã bước chân ra khỏi con đường chính đáng, nếu lòng tôi theo sau mắt tôi, nếu tay tôi dính bất kỳ chất bẩn nào,
\v 8 thì nguyện kẻ khác sẽ ăn những gì tôi gieo; thật vậy, nguyện mùa gặt bị nhổ khỏi ruộng tôi.
\s5
\v 9 Nếu lòng tôi tham muốn một người nữ khác, nếu tôi nằm chờ vợ hàng xóm tôi ở cửa của người,
\v 10 thì nguyện vợ tôi sẽ xay thóc cho người khác, và để người khác ngủ với nàng.
\s5
\v 11 Vì đó sẽ là một tội ác khủng khiếp; thật vậy, các quan tòa sẽ trừng trị tội ác đó.
\v 12 Vì đó là ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ thuộc âm phủ và đốt cháy mùa gặt của tôi.
\s5
\v 13 Nếu tôi phớt lờ lời cầu xin công lý của tôi trai tớ gái tôi khi họ đến tranh luận cùng tôi,
\v 14 tôi sẽ làm gì khi Chúa trỗi dậy kết tội tôi? Khi Ngài đến đoán xét tôi, tôi sẽ trả lời Ngài thế nào?
\v 15 Phải chăng Đấng đã dựng nên tôi trong lòng mẹ cũng không dựng nên họ sao? Chẳng phải Đấng đó đã nắn nên tất cả chúng ta trong lòng mẹ?
\s5
\v 16 Nếu tôi từ chối không đáp ứng mong ước của người nghèo, hoặc nếu tôi để cho mắt của góa phụ hao mòn vì khóc,
\v 17 hoặc nếu tôi ăn riêng phần của mình và không cho người mồ côi cha ăn
\v 18 trái lại, từ lúc cô nhi của tôi lớn lên, tôi nuôi họ như một người cha, tôi hướng dẫn mẹ của họ, là một góa phụ, từ lòng mẹ của tôi
\s5
\v 19 nếu tôi thấy ai bỏ mạng vì không có quần áo, hoặc nếu tôi thấy người thiếu thốn không có quần áo;
\v 20 nếu lòng của người không chúc phước cho tôi vì người không nhờ lông chiên của tôi mà được ấm,
\v 21 nếu tôi giơ tay lên nghịch lại người mồ côi cha, vì tôi thấy mình được hỗ trợ tại cửa thành
\s5
\v 22 nguyện vai tôi lìa khỏi xương vai, và cánh tay tôi lìa khỏi khớp.
\v 23 Vì tai ương từ Chúa sẽ là nỗi kinh hãi với tôi; vì cớ sự oai nghi Ngài, tôi không thể làm được điều gì trong số này.
\s5
\v 24 Nếu tôi xem vàng là niềm hy vọng của tôi, và nếu tôi nói với vàng ròng, Ngươi là thứ mà ta tin tưởng;
\v 25 nếu tôi vui mừng vì tôi giàu có, vì tay tôi nắm nhiều của cải;
\s5
\v 26 nếu tôi thấy mặt trời chiếu sáng, hoặc mặt trăng nhô lên rạng ngời;
\v 27 và nếu lòng tôi thầm bị thu hút, đến nỗi miệng tôi hôn tay tôi một cách sùng bái
\v 28 thì đây là tội đáng bị quan tòa xét xử, vì tôi dám từ chối Chúa trên trời cao.
\s5
\v 29 Nếu tôi vui mừng khi kẻ ghét tôi bị diệt hoặc hăm hở khi họ tai họa -
\v 30 thật vậy, tôi không cho phép miệng tôi phạm tội bằng cách hại mạng sống người khác bằng lời rủa sả
\s5
\v 31 nếu người trong lều tôi chưa bao giờ nói, Ai có thể tìm người chưa từng ăn no nê đồ ăn của Gióp?
\v 32 người ngoại quốc chưa bao giờ ở lại quảng trường thành phố; trái lại, tôi luôn mở cửa đón lữ khách
\s5
\v 33 nếu như người khác, tôi giấu tội lỗi mình bằng cách giấu tội của tôi trong lòng
\v 34 (vì tôi sợ đám đông, vì sự coi thường của gia đình tôi khiến tôi kinh hãi, đến nỗi tôi giữ im lặng và không ra khỏi nhà).
\s5
\v 35 Ôi, ước gì có ai đó nghe tôi! kìa, đây là chữ ký của tôi; hãy để Đấng Toàn năng trả lời tôi! Ước gì tôi có bản cáo trạng mà kẻ thù tôi đã viết!
\v 36 Chắc chắn tôi sẽ công khai mang nó trên vai; tôi sẽ đội nó như vương miện.
\v 37 Tôi sẽ trình lên Ngài mọi điều tôi làm; tôi sẽ bước đến chầu Ngài như một vương tử hiên ngang.
\s5
\v 38 Nếu đất của tôi kêu la nghịch lại tôi, và các luống cày của nó khóc với nhau,
\v 39 nếu tôi hưởng vụ mùa mà không trả tiền hoặc khiến chủ của nó mất mạng,
\v 40 nguyện gai góc mọc lên thay vì lúa mì và cỏ dại thay vì lúa mạch. ” Đây là các lời của Gióp.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Vậy cả ba người này thôi trả lời Gióp vì ông tự thấy mình là công bình.
\v 2 Sau đó, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, dòng họ Ram, nổi giận; ông nổi giận Gióp vì Gióp tự cho mình là đúng hơn Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Ê-li-hu cũng nổi giận ba bạn của mình vì họ không tìm được câu trả lời nào để đáp lại Gióp, họ chỉ buộc tội Gióp.
\v 4 Bấy giờ, Ê-li-hu đã chờ để nói với Gióp vì những người kia lớn tuổi hơn ông.
\v 5 Tuy nhiên, khi Ê-li-hu thấy không ai trong số ba người này trả lời, ông nổi giận.
\s5
\v 6 Vậy, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, nói rằng, “Tôi còn trẻ, còn các anh thì già rồi. Đó là lý do tôi ngại và không dám nói cho các anh nghe quan điểm của tôi.
\v 7 Tôi nói, “Người cao tuổi nên nói; các bậc cao niên nên dạy sự khôn ngoan.
\s5
\v 8 Nhưng có thần linh trong loài người; hơi thở của Đấng Toàn năng cho người có sự hiểu biết.
\v 9 Chẳng phải người cao trọng là khôn ngoan, hay người cao niên là người hiểu công lý.
\v 10 Vậy tôi nói với các anh, Hãy nghe tôi; tôi cũng sẽ nói cho các anh biết về kiến thức của tôi.
\s5
\v 11 Kìa, tôi đã chờ các anh nói; tôi nghe những lời tranh luận của các anh khi các anh suy nghĩ về điều phải nói.
\v 12 Thật vậy, tôi tập trung nghe các anh, nhưng, kìa, không ai trong số các anh có thể thuyết phục Gióp hoặc trả lời ông ấy.
\s5
\v 13 Hãy cẩn thận đừng nói, Chúng tôi đã tìm được sự khôn ngoan! Đức Chúa Trời sẽ phải thắng Gióp; người phàm không thể làm được.
\v 14 Vì Gióp không nói lời nào nghịch lại tôi, nên tôi sẽ không dùng lời của các anh để trả lời ông ấy.
\s5
\v 15 Cả ba người này đều sững sờ; họ không thể trả lời Gióp được nữa; họ không tìm được thêm lời nào để nói nữa.
\v 16 Chẳng lẽ tôi nên đợi vì họ không nói, vì họ đứng đó im lặng và không trả lời sao?
\s5
\v 17 Không, tôi cũng sẽ trả lời về phần tôi; tôi cũng sẽ cho họ biết tri thức của tôi.
\v 18 Vì tôi đầy ắp lời nói; thần linh trong tôi thúc ép tôi nói.
\v 19 Kìa, ngực tôi như rượu lên men không ngõ thoát hơi; như bầu rượu mới sẵn sàng vỡ tung.
\s5
\v 20 Tôi sẽ nói để tôi được nhẹ nhàng; tôi sẽ mở môi và trả lời.
\v 21 Tôi sẽ không thiên vị; tôi cũng sẽ không nịnh bợ bất kỳ người nào.
\v 22 Vì tôi không biết cách nịnh bợ; nếu tôi làm vậy, Đấng Tạo hóa sẽ diệt tôi ngay.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Gióp ơi, vậy bây giờ, tôi xin ông hãy nghe lời tôi nói; xin lắng nghe mọi lời tôi nói.
\v 2 Nay tôi đã mở miệng; lưỡi tôi đã nói trong miệng tôi.
\v 3 Lời nói của tôi sẽ nói điều ngay thẳng trong lòng tôi; điều môi tôi biết sẽ nói cách thành thật.
\s5
\v 4 Thần Linh của Đức Chúa Trời đã dựng nên tôi; hơi thở của Đấng Toàn năng đã ban cho tôi sự sống.
\v 5 Nếu có thể được, hãy trả lời tôi; hãy sắp đặt các lời của ông theo thứ tự trước mặt tôi và giữ vững lập trường.
\s5
\v 6 Kìa, tôi với ông đều như nhau trước mặt Đức Chúa Trời; tôi cũng được dựng nên bằng đất sét.
\v 7 Kìa, sự kinh hãi của tôi sẽ không làm ông sợ; áp lực của tôi sẽ không đè nặng ông.
\s5
\v 8 Chắc chắn tai tôi đã nghe ông nói; tôi nghe văng vẳng lời ông nói rằng,
\v 9 Tôi trong sạch và không vi phạm gì; tôi vô tội, tôi nào có phạm tội gì đâu.
\s5
\v 10 Kìa, Đức Chúa Trời tìm dịp đánh tôi; Ngài coi tôi như kẻ thù nghịch Ngài.
\v 11 Ngài cùm chân tôi; Ngài canh giữ đường lối tôi.
\v 12 Này, tôi sẽ trả lời ông: ông không đúng khi nói vậy, vì Đức Chúa Trời lớn hơn loài người.
\s5
\v 13 Sao ông chống lại Ngài? Ngài không có nhiệm vụ phải giải thích hành động của Ngài.
\v 14 Vì Chúa nói một lần rồi hai lần, dù loài người không để ý.
\v 15 Trong giấc mộng, trong sự hiện thấy ban đêm, khi loài người ngủ say, trong giấc ngủ trên giường
\s5
\v 16 Chúa mở tai loài người, khiến họ hoảng sợ vì những lời cảnh cáo,
\v 17 để kéo loài người ra khỏi những ý định đầy tội lỗi, và dẹp bỏ thói kiêu ngạo.
\v 18 Chúa giữ mạng sống con người khỏi huyệt mả, khỏi sa vào sự chết.
\s5
\v 19 Loài người cũng bị trừng phạt bằng sự đau đớn trên giường, sự đau đớn không ngớt trong xương cốt,
\v 20 đến nỗi người sống mà gớm ghê thức ăn, linh hồn người gớm ghê đồ ăn ngon.
\s5
\v 21 Xác thịt người bị tiêu hao đến nỗi không thể thấy được; chỉ còn da bọc xương.
\v 22 Thật vậy, linh hồn người đến gần miệng hố, mạng sống người đến gần kẻ muốn hủy diệt.
\s5
\v 23 Nhưng nếu có một thiên sứ điều đình cho người, tức là một người dàn xếp, đến từ một trong hàng ngàn các thiên sứ, để chỉ bảo người điều gì đúng,
\v 24 và nếu thiên sứ đó thương xót người và xin Đức Chúa Trời, Xin Chúa cứu người này khỏi sa vào miệng hố; tôi đã tìm được giá chuộc người,
\s5
\v 25 thì khi đó da thịt người sẽ trở nên tươi đẹp hơn da thịt của đứa trẻ; người sẽ trở lại những ngày xuân xanh.
\v 26 Người sẽ cầu nguyện với Chúa, và Chúa sẽ thương xót người, người sẽ vui mừng thấy mặt Ngài. Chúa sẽ ban cho người niềm hân hoan.
\s5
\v 27 Người đó sẽ hát trước mặt người ta và nói rằng, Tôi đã phạm tội và xuyên tạc điều thiện, nhưng tôi không bị báo ứng xứng với tội lỗi tôi.
\v 28 Đức Chúa Trời đã giải cứu linh hồn tôi khỏi sa vào miệng hố; mạng sống tôi sẽ tiếp tục thấy sự sáng.
\s5
\v 29 Kìa, Đức Chúa Trời làm tất cả những việc này cho loài người, hai lần, thậm chí là ba lần,
\v 30 để giữ linh hồn người khỏi sa vào miệng hố, để người được tỏa sáng bằng ánh sáng của sự sống.
\s5
\v 31 Gióp ơi, xin chú ý, và lắng nghe tôi; xin yên lặng để tôi nói.
\v 32 Nếu ông có điều gì muốn nói, hãy trả lời tôi; xin hãy nói, vì tôi muốn chứng minh là ông đúng.
\v 33 Nếu không, xin hãy nghe tôi; xin giữ yên lặng, rồi tôi sẽ dạy ông điều khôn ngoan.”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Hơn nữa, Ê-li-hu nói tiếp:
\v 2 “Hãy nghe lời tôi nói, hỡi các ông là những người khôn ngoan; xin nghe tôi, hỡi các ông là người có tri thức.
\v 3 Vì tai nghe lời lẽ như miệng nếm thức ăn.
\s5
\v 4 Chúng ta hãy cùng chọn cho mình điều chính đáng: chúng ta hãy cùng nhau khám phá điều lành.
\v 5 Vì Gióp có nói, Tôi là người công bình, nhưng Đức Chúa Trời đã truất quyền của tôi.
\v 6 Bất chấp những điều ngay thẳng của tôi, tôi bị xem là kẻ nói dối. Vết thương tôi vô phương cứu chữa, dù tôi không có tội.
\s5
\v 7 Ai là người như Gióp, uống hết sự nhạo báng như nước lã,
\v 8 ai nhập bọn với phường lưu manh, và ai đi chung với phường gian ác?
\v 9 Vì ông ấy nói, Thật vô ích khi người ta khoái lạc trong việc làm điều Đức Chúa Trời muốn.
\s5
\v 10 Vậy hãy nghe tôi, hỡi những người thông hiểu: không đời nào Đức Chúa Trời làm điều ác; không đời nào Đấng Toàn năng phạm tội.
\v 11 Vì Ngài báo ứng việc làm của loài người; Ngài khiến mỗi người nhận lấy sự báo đáp về đường lối của họ.
\v 12 Thật vậy, Đức Chúa Trời không làm điều ác, Đấng Toàn năng không xuyên tạc công lý.
\s5
\v 13 Ai trao cho Ngài trách nhiệm cai quản trái đất? Ai trao cả thế giới cho Ngài?
\v 14 Nếu Ngài chỉ có ý định về chính mình Ngài, và nếu Ngài lấy lại thần linh và sinh khí của Ngài,
\v 15 thì mọi loài xác thịt đều chết hết; nhân loại sẽ lại trở về cát bụi.
\s5
\v 16 Nếu bây giờ các ông hiểu, hãy nghe; hãy nghe lời tôi nói.
\v 17 Có người nào ghét công lý mà cai trị được chăng? Các ông sẽ lên án Chúa, là Đấng công bình và toàn năng?
\s5
\v 18 Chúa, Đấng phán với vua, Ngươi thật đê hèn, hoặc phán với giới quý tộc, Các ngươi thật gian ác?
\v 19 Chúa, là Đấng không thiên vị với các lãnh đạo và không trọng người giàu hơn người nghèo, vì hết thảy họ đều là công việc của tay Ngài.
\v 20 Trong chốc lát, họ sẽ chết; vào nửa đêm, họ sẽ bị rúng động và qua đời; kẻ cường quyền sẽ bị cất đi, nhưng chẳng phải bởi tay loài người.
\s5
\v 21 Vì con mắt Đức Chúa Trời dò xét đường lối người; Ngài thấy mọi bước chân của người.
\v 22 Chẳng có bóng tối, chẳng có sự tối tăm mù mịt nào mà kẻ làm ác có thể ẩn nấp.
\v 23 Vì Đức Chúa Trời không cần xem xét loài người thêm nữa; Ngài không cần bất kỳ ai đến trước mặt Ngài để được đoán xét.
\s5
\v 24 Ngài bẻ gãy kẻ cường quyền ra từng mảnh vì đường lối họ không cần được điều tra thêm; Ngài đặt người khác thế chỗ họ.
\v 25 Như vậy, Ngài biết việc làm của họ; Ngài quăng những người này trong đêm tối; họ bị hủy diệt.
\s5
\v 26 Trước mặt người khác, Ngài giết họ vì những việc làm gian ác tội lỗi của họ
\v 27 vì họ ngoảnh mặt không theo Ngài và từ chối nhận biết đường lối Ngài.
\v 28 Như vậy, họ khiến tiếng kêu la của người nghèo thấu đến tai Ngài; Ngài nghe tiếng kêu la của người khốn cùng.
\s5
\v 29 Khi Ngài im lặng, ai có thể lên án Ngài? Nếu Ngài giấu mặt, ai có thể nhìn thấy Ngài. Ngài cai trị các nước và từng người như nhau,
\v 30 để người vô đạo không thể cai trị, để không có ai đặt bẫy người khác.
\s5
\v 31 Giả sử có người nói với Chúa, Chắc chắn con có tội, nhưng con sẽ không phạm tội nữa,
\v 32 xin Chúa dạy con điều con không thể thấy; con đã phạm tội, nhưng con sẽ không phạm việc ấy nữa.
\v 33 Các ông có nghĩ rằng Chúa sẽ trừng phạt tội lỗi của người đó, vì các ông không thích điều Ngài làm? Các ông phải chọn, chứ không phải tôi. Vậy hãy nói điều các ông biết.
\s5
\v 34 Những người hiểu biết sẽ nói với tôi thật vậy, người khôn ngoan lắng nghe tôi sẽ nói,
\v 35 Gióp nói mà chẳng biết gì; lời nói của ông ấy thật thiếu khôn ngoan.
\s5
\v 36 Giá mà Gióp bị thử thách đến cùng vì lời nói của ông ấy như người gian ác.
\v 37 Vì ông ấy thêm sự chống đối vào tội lỗi mình; ông ấy vỗ tay nhạo báng giữa chúng ta; ông ấy nói những lời nghịch cùng Đức Chúa Trời.”
\s5
\c 35
\p
\v 1 Hơn nữa, Ê-li-hu nói tiếp,
\v 2 “Ông nghĩ ông vô tội sao? Ông nghĩ rằng, Tôi công bình hơn Đức Chúa Trời sao?
\v 3 Vì ông nói, Tôi được ích lợi gì khi tôi công bình? Tôi được ích lợi gì nếu tôi chẳng phạm tội?
\s5
\v 4 Tôi sẽ trả lời ông, cả ông và các bạn của ông.
\v 5 Hãy nhìn lên trời, và nhìn xem nó; hãy xem bầu trời, nó vốn cao hơn ông.
\s5
\v 6 Nếu ông phạm tội, thì việc ấy làm hại chi cho Đức Chúa Trời? Nếu sự vi phạm của ông chất thành đống, thì ông làm gì được Ngài?
\v 7 Nếu ông công bình, ông có thể cho Ngài điều gì? Ngài sẽ nhận gì từ tay ông?
\v 8 Sự gian ác của ông có thể làm tổn thương con người, vì ông là con người, và sự công bình của ông có thể đem đến ích lợi cho người khác.
\s5
\v 9 Vì cớ những sự áp bức, dân chúng kêu la; họ kêu cầu người quyền thế giúp đỡ.
\v 10 Nhưng không ai nói, Đức Chúa Trời, Đấng Tạo hóa của tôi, Đấng ban những bài hát trong đêm,
\v 11 Đấng dạy dỗ chúng tôi nhiều hơn các loài thú trên đất, và Đấng khiến chúng tôi khôn ngoan hơn các loài chim trời đâu rồi?
\s5
\v 12 Họ kêu la, nhưng Đức Chúa Trời không trả lời vì cớ sự kiêu ngạo của người gian ác.
\v 13 Chúa chắc chắn sẽ không nghe tiếng kêu la của kẻ dại dột; Đấng Toàn năng sẽ không đoái đến.
\v 14 Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng ông không thấy Ngài, rằng duyên cớ của ông ở trước mặt Ngài, và rằng ông đang đợi Ngài!
\s5
\v 15 Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng Ngài không bao giờ giận dữ phạt bất cứ ai, và rằng Ngài không ngó ngàng gì đến sự kiêu ngạo của loài người.
\v 16 Vậy Gióp mở miệng mình chỉ để nói lời dại dột; ông ấy nói những lời thiếu hiểu biết.
\s5
\c 36
\p
\v 1 Ê-li-hu nói tiếp,
\v 2 “Cho phép tôi nói thêm một chút, rồi tôi sẽ cho ông biết đôi điều vì tôi còn những lời muốn nói biện hộ thêm cho Đức Chúa Trời.
\v 3 Tôi sẽ đạt được kiến thức từ nơi xa; tôi sẽ biết rằng sự công bình của tôi thuộc về Đấng Tạo hóa.
\s5
\v 4 Vì thật sự, lời nói của tôi sẽ không sai; một người trưởng thành trong sự hiểu biết đang ở bên ông.
\v 5 Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng và không khinh dể ai; Ngài có quyền năng trong sức mạnh của sự hiểu biết.
\s5
\v 6 Ngài không bảo vệ mạng sống của kẻ ác nhưng trái lại, Ngài làm điều đúng đắn cho người đau khổ.
\v 7 Ngài không dời mắt khỏi người công bình nhưng Ngài đặt họ ngồi trên ngai như vua đời đời, và họ được nhấc lên.
\s5
\v 8 Tuy nhiên, nếu họ bị xiềng xích, và bị trói buộc trong dây đau khổ,
\v 9 rồi Ngài tỏ cho họ biết việc họ làm tức là những sự vi phạm của họ và thể nào họ đã cư xử ngạo mạn.
\s5
\v 10 Ngài cũng mở tai họ để họ nghe lời hướng dẫn của Ngài, và Ngài ra lệnh cho họ từ bỏ tội lỗi.
\v 11 Nếu họ nghe Ngài và thờ phượng Ngài, họ sẽ sống những ngày thịnh vượng, có những năm an lạc.
\v 12 Tuy nhiên, nếu họ không nghe, họ sẽ bị gươm giết chết; họ sẽ chết vì thiếu hiểu biết.
\s5
\v 13 Những kẻ vô đạo trong lòng ấp ủ cơn giận; họ không kêu cầu xin được giúp đỡ ngay cả khi Chúa trói họ.
\v 14 Họ chết khi còn trẻ; cuộc đời họ chấm dứt giữa bọn mại dâm ở đền miếu.
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời giải cứu người khốn cùng bằng sự hoạn nạn của họ; Ngài mở tai họ bằng sự áp bức của họ.
\v 16 Thật vậy, Ngài muốn kéo ông ra khỏi tai họa bước vào một nơi rộng rãi, là nơi chẳng có gian khó và bàn của ông sẽ đầy cao lương mỹ vị.
\s5
\v 17 Nhưng ông đầy dẫy sự đoán xét kẻ ác; sự đoán xét và công lý đã bắt lấy ông.
\v 18 Chớ để sự giàu sang quyến rũ ông đến sự lừa dối; chớ để của hối lộ lớn khiến ông làm sai công lý.
\s5
\v 19 Của cải ông có thể đem lại ích lợi cho ông không, để ông không gặp tai họa, hoặc quyền lực của ông có thể giúp ông không?
\v 20 Đừng ao ước ban đêm để phạm tội đối với người khác, khi họ bị cô lập trong nhà mình.
\v 21 Hãy cẩn thận chớ chú vào tội lỗi vì ông đang được thử thách qua hoạn nạn để ông tránh xa khỏi tội lỗi.
\s5
\v 22 Kìa, Đức Chúa Trời được tôn cao trong quyền năng Ngài; ai là thầy giáo như Ngài?
\v 23 Ai từng dạy Ngài về đường lối Ngài? Ai có thể nói với Ngài, Ngài đã phạm điều bất chính?
\v 24 Hãy nhớ ngợi khen các việc của Ngài, mà loài người đã ca ngợi.
\s5
\v 25 Tất cả mọi người đều đã nhìn xem những việc ấy, nhưng họ chỉ nhìn thấy từ đàng xa.
\v 26 Kìa, Đức Chúa Trời thật lớn lao, nhưng chúng ta không hiểu rõ Ngài; số năm của Ngài thật chẳng đếm được.
\s5
\v 27 Vì Ngài hút các giọt nước lên thành hơi nước làm mưa,
\v 28 các đám mây đổ mưa xuống và rơi tầm tã trên loài người.
\v 29 Thật vậy, có ai hiểu sự giăng bủa của mây và tiếng sấm từ lều Ngài?
\s5
\v 30 Kìa, Ngài bủa sấm chớp quanh Ngài; Ngài bao phủ biển cả bằng sự tối tăm.
\v 31 Như vậy Ngài nuôi các dân và ban thức ăn dư dật.
\s5
\v 32 Ngài giấu sấm sét trong tay Ngài cho đến khi Ngài ra lệnh chúng đánh vào mục tiêu.
\v 33 Mũi của chúng cho người ta biết cơn bão sắp đến; gia súc cũng biết bão tố sẽ đến.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Thật vậy, lòng tôi run sợ vì sự này; nó bị dời ra khỏi chỗ nó.
\v 2 Hãy nghe, ôi, hãy nghe tiếng huyên náo của tiếng nói Ngài, là tiếng phát ra từ miệng Ngài.
\v 3 Ngài phát ra tiếng vang dội dưới cả bầu trời, và Ngài phát ra chớp nhoáng đến tận các bờ cõi của trái đất.
\s5
\v 4 Sau đó có một tiếng gầm; Ngài nổi sấm bằng tiếng oai nghi của Ngài; Ngài không giữ lại tia chớp khi người ta nghe tiếng Ngài.
\v 5 Đức Chúa Trời nổi sấm một cách kỳ diệu bằng tiếng của Ngài; Ngài làm những việc mà chúng ta không thể hiểu thấu.
\v 6 Vì Ngài bảo tuyết, Hãy rơi xuống đất; Ngài cũng phán như vậy với mưa, Mưa hãy rơi thật tầm tã.
\s5
\v 7 Ngài ngưng tay loài người khỏi công việc, để tất cả những người được Ngài dựng nên đều thấy việc Ngài làm.
\v 8 Muông thú ẩn náu và ở trong hang.
\v 9 Bão tố kéo đến từ nơi phương nam và giá buốt kéo đến từ gió ở phương bắc.
\s5
\v 10 Bởi hơi thở của Đức Chúa Trời thì có băng giá; sông nước mênh mông đóng băng như kim loại.
\v 11 Thật vậy, Ngài khiến mây trở nên nặng vì hơi ẩm; Ngài tỏa chớp nhoáng qua mây.
\s5
\v 12 Ngài cuốn mây vòng vòng theo chỉ đạo của Ngài, để chúng làm bất cứ điều gì Ngài sai khiến trên khắp mặt đất.
\v 13 Ngài khiến việc này xảy ra; khi thì để sửa phạt, khi thì tưới nhuần đất của Ngài, và khi thì tỏ ra sự thành tín theo giao ước.
\s5
\v 14 Gióp, hãy nghe đây; hãy dừng lại và nghĩ đến những việc lạ lùng của Đức Chúa Trời.
\v 15 Ông có biết Chúa sắp đặt ý Ngài trên các đám mây và khiến chớp nhoáng lóe ra trong chúng như thế nào không?
\s5
\v 16 Ông có hiểu mây trôi ra sao, những việc phi thường của Đức Chúa Trời, là Đấng có tri thức trọn vẹn không?
\v 17 Ông có hiểu làm sao mà quần áo ông nóng khi đất tĩnh mịch vì gió nam không?
\s5
\v 18 Ông có thể giương bầu trời ra như Ngài làm như một tấm gương cứng cáp đúc bằng kim loại không?
\v 19 Hãy dạy chúng tôi điều chúng tôi nên nói với Ngài, vì chúng tôi không thể sắp đặt ý tranh luận vì tâm trí chúng tôi u mê.
\v 20 Lẽ nào nên nói với Ngài rằng tôi muốn thưa chuyện cùng Ngài? Có ai ước muốn bị nuốt chửng không?
\s5
\v 21 Bây giờ, không ai có thể nhìn mặt trời khi nó tỏa sáng trên bầu trời sau khi gió thổi thoảng qua và làm tan mây trên trời.
\v 22 Ánh chói lọi vàng tỏa ra từ phương bắc nơi Đức Chúa Trời có vẻ uy nghi đáng sợ.
\s5
\v 23 Về Đấng Toàn năng, chúng ta không thể tìm được Ngài; Ngài có quyền năng lớn lao và công bình. Ngài không áp bức loài người.
\v 24 Vậy, loài người sợ Ngài. Ngài không ngó ngàng gì đến những kẻ khôn ngoan theo tâm trí mình.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Khi ấy, Đức Giê-hô-va từ trong cơn bão cuồng phong gọi Gióp và phán,
\v 2 “Ngươi là ai mà làm cho các kế hoạch của Ta trở nên mơ hồ bằng những lời thiếu tri thức?
\v 3 Bây giờ hãy thắt lưng ngươi như một nam nhi, vì Ta sẽ hỏi ngươi, và ngươi phải trả lời Ta.
\s5
\v 4 Ngươi đã ở đâu khi Ta lập các nền móng của trái đất? Hãy nói đi, nếu ngươi biết.
\v 5 Ai đã định kích thước cho nó? Hãy nói đi, nếu ngươi biết. Ai đã giăng dây đo trên đất?
\s5
\v 6 Nền móng địa cầu được đặt trên gì? Ai đặt hòn đá góc của nó
\v 7 khi các sao mai cùng hát và các con trai của Đức Chúa Trời reo mừng?
\s5
\v 8 Ai đóng cửa ngăn biển cả khi nó tuôn trào, như thể tuôn ra từ lòng đất
\v 9 khi Ta làm y phục cho mây, và bọc cho bóng tối mù mịt?
\s5
\v 10 Đó là khi Ta định ranh giới cho biển cả, khi Ta đặt các then và cửa,
\v 11 và khi Ta bảo nó, Ngươi có thể đến đây, nhưng không đi xa hơn; đây là nơi Ta sẽ đặt giới hạn cho những con sóng kiêu căng của ngươi.
\s5
\v 12 Kể từ khi ngươi sinh ra, có bao giờ ngươi ra lệnh cho buổi sáng xuất hiện, và khiến bình minh biết chỗ của nó theo nguyên tắc của sự vật,
\v 13 để nó phủ khắp bốn bề trái đất, đến nỗi kẻ ác bị giũ sạch khỏi đất không?
\s5
\v 14 Trái đất thay đổi hình dạng như đất sét thay đổi dưới cái ấn; vạn vật hiện ra rõ ràng như lằn xếp trên quần áo.
\v 15 Ánh sáng của kẻ ác bị tước khỏi chúng; tay giơ cao của chúng bị bẻ gãy.
\s5
\v 16 Ngươi đã đến các nguồn đại dương chưa? Ngươi đã đi trong những nơi sâu thẳm nhất chưa?
\v 17 Ngươi đã thấy các cổng sự chết chưa? Ngươi có thấy các cổng của bóng sự chết chưa?
\v 18 Ngươi có hiểu sự mênh mông của địa cầu không? Hãy nói đi, nếu ngươi biết tất cả.
\s5
\v 19 Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là ở đâu nơi ở của bóng tối đâu?
\v 20 Ngươi có thể dẫn ánh sáng và bóng tối đến nơi hoạt động của chúng không? Ngươi có thể tìm đường về nhà cho chúng không?
\v 21 Rõ ràng là ngươi biết, vì khi đó ngươi đã được sinh ra rồi; số các ngày của ngươi thật nhiều thay!
\s5
\v 22 Ngươi có bao giờ bước vào các kho trữ tuyết chưa, hoặc có bao giờ ngươi thấy các kho trữ mưa đá chưa,
\v 23 là những thứ mà Ta đã để dành trong những kỳ hoạn nạn, cho những ngày chiến tranh và giặc giã?
\v 24 Chớp nhoáng tỏa ra từ hướng nào hoặc gió đông được thổi lan ra đến đâu trên khắp đất?
\s5
\v 25 Ai đã làm nên các kênh dẫn nước mưa, hoặc ai đã vạch đường cho sấm chớp,
\v 26 hoặc khiến mưa rơi trên những nơi không có người ở, và trên hoang mạc, là nơi hoang vu,
\v 27 để đáp ứng nhu cầu của những vùng khô cằn và hiu quạnh, khiến cỏ mọc um tùm?
\s5
\v 28 Mưa có cha không? Ai đã sanh ra các giọt sương?
\v 29 Băng đá ra từ lòng ai? Ai sanh ra sương giá từ trời?
\v 30 Nước ẩn giấu và đông lại như đá; mặt vực sâu đóng băng.
\s5
\v 31 Ngươi có thể buộc dây trói chòm sao Thất tinh không, hoặc cởi trói cho sao Thiên lang không?
\v 32 Ngươi có thể hướng dẫn các chòm sao mọc vào đúng thời điểm của chúng không? Ngươi có thể hướng dẫn sao Bắc đẩu và con cái của chúng không?
\v 33 Ngươi có biết các quy định của bầu trời không? Ngươi có thể lập quy định của bầu trời trên đất không?
\s5
\v 34 Ngươi có thể cất tiếng ra lệnh cho mây, để mưa rơi tầm tã trên ngươi không?
\v 35 Ngươi có thể truyền cho sấm chớp phát ra không, để chúng nói với ngươi, Có chúng tôi đây?
\s5
\v 36 Ai đã ban sự khôn ngoan cho mây hoặc sự thông hiểu cho sương móc?
\v 37 Ai có tài đếm mây? Ai có thể đổ các bầu nước trên trời
\v 38 khi bụi đất kết dính và những cục đất dính chặt với nhau?
\s5
\v 39 Ngươi có thể săn mồi cho sư tử cái hoặc khiến sư tử con no nê thỏa dạ
\v 40 khi chúng co mình trong hang và nằm rình mồi không?
\s5
\v 41 Ai ban mồi cho quạ khi quạ con kêu la lên Đức Chúa Trời và đi loạng choạng vì thiếu thức ăn?
\s5
\c 39
\p
\v 1 Ngươi biết khi nào sơn dương sinh nở? Ngươi có thể quan sát lúc nai cái sinh con không?
\v 2 Ngươi có thể đếm số tháng chúng mang thai không? Ngươi biết gấu sinh con khi nào không?
\s5
\v 3 Chúng khom mình xuống và sinh con nhỏ, sau đó chúng hết cơn đau đẻ.
\v 4 Các con nhỏ của chúng lớn lên mạnh mẽ ỡ những cánh đồng hoang dã; chúng ra ngoài và chẳng trở về.
\s5
\v 5 Ai để lừa hoang tự do chạy nhảy? Ai tháo dây buộc con lừa nhanh nhẹ,
\v 6 Ta ban cho nó có nhà ở A-ra-ba, nhà của nó ở nơi đất mặn?
\s5
\v 7 Nó cười nhạo tiếng ồn nơi thành phố; nó không nghe tiếng quát tháo của người đánh xe.
\v 8 Nó lang thang khắp các dãy núi là đồng cỏ của nó; tại đó nó tìm cỏ cây xanh tươi để ăn.
\s5
\v 9 Liệu con bò rừng sẽ vui vẻ phục vụ ngươi không? Nó sẽ đồng ý ở trong máng của ngươi chứ?
\v 10 Với sợi dây, ngươi có thể điều khiển con bò rừng để nó cày trên các luống cày không? Nó sẽ bừa các thung lũng cho ngươi không?
\s5
\v 11 Ngươi sẽ tin nó vì sức mạnh to lớn của nó không? Ngươi sẽ để nó làm công việc của ngươi chứ?
\v 12 Ngươi sẽ phụ thuộc vào nó để đem lúa về nhà, gom lúa vào sân đạp lúa của ngươi chứ?
\s5
\v 13 Đôi cánh đà điểu vỗ đầy tự hào, nhưng có phải chúng là đầu cánh và bộ lông đầy yêu thương không?
\v 14 Vì nó đẻ trứng dưới đất, và nó để trứng được ấp dưới đất;
\v 15 nó quên rằng chân có thể giẫm lên chúng hoặc một con thú nào đó có thể đạp lên chúng.
\s5
\v 16 Nó cư xử thô bạo với con của nó như thể chúng chẳng phải là con nó; nó không sợ rằng việc sinh nở của nó có thể trở nên vô ích,
\v 17 vì Đức Chúa Trời đã cất sự khôn ngoan khỏi nó và không cho nó có sự hiểu biết nào cả.
\v 18 Khi nó nhanh nhảu chạy nhảy, nó cười nhạo loài ngựa và kỵ mã.
\s5
\v 19 Ngươi có ban sức mạnh cho ngựa không? Ngươi có đặt cái bờm trên cổ nó không?
\v 20 Ngươi có bao giờ khiến nó nhảy như con châu chấu không? Vẻ oai vệ của tiếng hí nó thật đáng sợ.
\s5
\v 21 Nó mạnh mẽ giậm chân và hí hửng trong sức mạnh của nó; nó xông ra đương đầu các loại vũ khí.
\v 22 Nó chế nhạo sự sợ hãi và không khiếp đảm; nó không bỏ chạy trước lưỡi gươm.
\v 23 Bao tên kêu lách cách bên hông nó, cùng với giáo và lao lóng lánh.
\s5
\v 24 Nó giận dữ giẫm vó lên đất; khi kèn vang tiếng, nó không thể đứng yên một chỗ.
\v 25 Bất cứ khi nào có tiếng kèn, nó hí, ‘À há! Nó gửi mùi chiến trận từ đàng xa tiếng quát ầm ầm của người chỉ huy và tiếng hò la xung trận.
\s5
\v 26 Có phải nhờ sự khôn ngoan của ngươi mà chim ưng bay bổng, sải cánh bay về phương nam?
\s5
\v 27 Có phải nhờ lệnh của ngươi mà đại bàng bay vút lên và làm tổ ở nơi cao?
\v 28 Nó sống trên các vách đá và làm nhà trên đỉnh vách đá, một thành trì kiên cố.
\s5
\v 29 Từ đó, nó săn mồi; mắt nó nhìn thấy chúng từ đàng xa.
\v 30 Con nhỏ của nó cũng uống huyết; nơi nào có người chết, nơi đó có nó.”
\s5
\c 40
\p
\v 1 Giê-hô-va phán tiếp với Gióp; Ngài phán,
\v 2 “Có ai dám phê bình chỉnh sửa Đấng Toàn năng? Người nào tranh luận với Đức Chúa Trời, hãy để người trả lời.”
\s5
\v 3 Gióp thưa với Đức Giê-hô-va,
\v 4 “Kìa, con không ra chi; làm sao con có thể trả lời Ngài? Con lấy tay che miệng con.
\v 5 Con đã nói một lần rồi, và con sẽ không trả lời nữa; thật vậy, đã hai lần rồi, nhưng con sẽ không nói thêm.”
\s5
\v 6 Sau đó, Đức Giê-hô-va trả lời Gióp qua một cơn bão dữ dội,
\v 7 “Bây giờ hãy thắt lưng ngươi như nam nhi, vì Ta sẽ hỏi ngươi, rồi ngươi phải trả lời Ta.
\s5
\v 8 Thật ngươi sẽ cho rằng Ta bất công sao? Ngươi sẽ lên án Ta để cho là mình đúng sao?
\v 9 Ngươi có tay như tay của Đức Chúa Trời không? Ngươi có phát ra tiếng sấm như Ngài không?
\s5
\v 10 Bây giờ, hãy mặc lấy vinh quang và phẩm cách của ngươi; hãy trang điểm bằng danh giá và vẻ uy nghi.
\v 11 Hãy rải cơn giận dữ quá mức của ngươi ra xung quanh; hãy xem những kẻ kiêu ngạo và hạ chúng xuống.
\s5
\v 12 Hãy nhìn những kẻ kiêu ngạo và hạ bệ chúng; hãy chà đạp kẻ ác nhân ngay tại chỗ.
\v 13 Hãy chôn chúng dưới đất với nhau; tống giam mặt chúng trong nơi kín giấu.
\v 14 Rồi Ta cũng sẽ công nhận rằng tay phải của ngươi có thể cứu ngươi.
\s5
\v 15 Bây giờ hãy xem con vật kếch xù, là loài mà Ta đã dựng nên như Ta đã dựng ngươi; nó ăn cỏ như bò đực.
\v 16 Hãy xem, sức mạnh nó nằm nơi thắt lưng; năng lực nó nằm trong các cơ bụng.
\s5
\v 17 Nó vẫy đuôi như cây tuyết tùng; các cơ đùi của nó được kết lại với nhau.
\v 18 Xương nó như ống đồng; chân nó như thanh sắt.
\s5
\v 19 Nó là tạo vật hàng đầu của Đức Chúa Trời. Chỉ có Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên nó, có thể đánh bại nó.
\v 20 Vì núi đồi cho nó có đồ ăn; các loài thú ngoài đồng chơi đùa gần đó.
\v 21 Nó nằm dưới hoa sen ẩn mình trong đám sậy, trong đầm lầy.
\s5
\v 22 Bóng hoa sen bao phủ nó; cây liễu ven suối bao bọc nó.
\v 23 Kìa, nếu sông chảy tràn bờ, nó không run sợ; nó tự tin, dù Sông Giô-đanh chảy tràn qua mũi nó.
\v 24 Ai có thể bắt nó bằng cái móc, hoặc xỏ mũi nó?
\s5
\c 41
\p
\v 1 Ngươi có thể câu con thủy quái bằng lưỡi câu không? Hoặc dùng dây buộc chặt hàm nó?
\v 2 Ngươi có thể xỏ dây vào mũi nó, hoặc dùng móc xoi qua hàm nó không?
\v 3 Nó sẽ khẩn thiết van xin ngươi không? Nó sẽ nói những lời ngọt ngào với ngươi không?
?
\s5
\v 4 Nó sẽ thỏa thuận với ngươi để ngươi bắt nó làm nô lệ đời đời không?
\v 5 Ngươi sẽ chơi với nó như ngươi chơi với chim không? Ngươi sẽ cột nó lại cho các tớ gái của ngươi vui đùa không?
\v 6 Nhóm dân chài sẽ thương lượng với ngươi để mua nó không? Họ sẽ xẻ thịt nó bán cho các lái buôn không?
\s5
\v 7 Ngươi có thể lấy lao đâm vào da sống của nó hoặc dùng lao phóng cá đâm vào đầu nó không?
\v 8 Hãy tra tay ngươi trên mình nó chỉ một lần thôi, rồi ngươi sẽ nhớ trận chiến đó và không dám làm như vậy nữa.
\v 9 Kìa, niềm hy vọng của những ai làm vậy chỉ là hão huyền; chẳng phải bất kỳ ai thấy nó đều sẽ ngã lăn ra đất sao?
\s5
\v 10 Không ai gan dạ đến nỗi dám khiêu khích con thủy quái; vậy thì ai có thể đứng trước mặt Ta?
\v 11 Ai cho Ta trước điều chi để Ta phải trả lại? Mọi vật dưới trời đều thuộc về Ta.
\v 12 Ta sẽ không giữ im lặng về các chân của con thủy quái, hoặc sức mạnh của nó, hoặc thân hình cân đối của nó.
\s5
\v 13 Ai có thể lột da nó? Ai có thể đâm thủng áo giáp kép của nó?
\v 14 Ai có thể mở banh miệng nó răng đầy hàm thật khiếp sợ?
\v 15 Trên lưng nó là những dãy khiên, san sát nhau như dấu niêm phong chi chít.
\s5
\v 16 Mỗi cái đều khít với nhau đến nỗi gió không lọt qua được.
\v 17 Chúng ăn khớp với nhau; chúng gắn chặt nhau, đến nỗi không thể tách rời được.
\v 18 Chớp lóe ra từ tiếng khịt mũi của nó; mắt nó như mi mắt của rạng đông.
\s5
\v 19 Từ miệng nó phun ra những ngọn đuốc cháy bừng, tia lửa bắn ra.
\v 20 Khói bay ra từ mũi nó như nồi đun nóng trên ngọn lửa hực.
\v 21 Hơi thở của nó khiến than bùng cháy; lửa ra từ miệng nó.
\s5
\v 22 Trong cổ nó có sức mạnh, và sự kinh hãi nhảy múa trước mặt nó.
\v 23 Các lớp thịt của nó dính vào nhau; chúng rắn chắc; không thể nào tách rời được.
\v 24 Tim nó cứng như đá thật vậy, cứng như thớt dưới của cối xay.
\s5
\v 25 Khi nó trỗi dậy, ngay cả các thần cũng hoảng sợ; vì sợ nó, họ lùi lại.
\v 26 Nếu gươm đâm nó, nó cũng chẳng hề hấn gì ngay cả giáo, tên, hoặc bất cứ vũ khí sắc nhọn nào khác.
\v 27 Nó coi sắt như rơm rạ, và đồng như gỗ mục.
\s5
\v 28 Mũi tên không thể khiến nó bỏ chạy; đối với nó, đá như trấu.
\v 29 Nó xem dùi cui như rơm; nó cười nhạo tiếng ngọn lao phóng vun vút.
\v 30 Bụng nó như những miếng sành sắc bén; nó để lại dấu vết trên bùn lầy như thể dấu xe kéo trượt trên bàn đạp lúa.
\s5
\v 31 Nó lặn sâu khiến sủi bọt như bọt trong nồi nước sôi; nó khiến biển sôi sục như nồi thuốc mỡ.
\v 32 Nó để lại một đường sáng phía sau nó; người ta sẽ nghĩ biển sâu trắng xóa.
\s5
\v 33 Không có loài nào trên đất sánh với nó, nó là tạo vật không biết sợ.
\v 34 Nó xem thường mọi vật kiêu ngạo; nó là vua trên các sinh vật tự phụ.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Gióp thưa với Đức Giê-hô-va,
\v 2 “Con biết Ngài có thể làm được mọi sự, ý định của Ngài không thể bị ngăn trở.
\v 3 Ngài hỏi con, Kẻ thiếu tri thức này là ai mà dám làm lu mờ kế hoạch của Ta? Vậy, con đã nói những điều mà con không hiểu, những điều vượt tầm hiểu biết của con, là những điều con không biết.
\s5
\v 4 Ngài phán với con, Bây giờ, hãy nghe, Ta sẽ nói; Ta sẽ hỏi ngươi, rồi ngươi sẽ trả lời Ta.
\v 5 Tai con đã nghe Ngài, nhưng giờ đây mắt con thấy Ngài.
\v 6 Vì vậy, con ghê tởm chính mình; con ăn năn trong bụi đất và tro.”
\s5
\v 7 Sau khi Đức Giê-hô-va đã phán những lời này với Gióp, Ngài phán với Ê-li-pha người Tê-man, “Cơn thạnh nộ của Ta bùng cháy nghịch với ngươi và hai bạn ngươi vì các ngươi chẳng nói đúng về Ta như tôi tớ Ta là Gióp đã nói.
\v 8 Vậy bây giờ, các ngươi hãy lấy bảy con bò đực và bảy con chiên đực, đi đến tôi tớ Ta là Gióp, và dâng làm của lễ thiêu vì chính các ngươi. Gióp, tôi tớ Ta, sẽ cầu nguyện cho các ngươi, và Ta sẽ nhậm lời cầu nguyện của người, hầu cho Ta không phạt các ngươi vì lời nói dại dột của các ngươi. Các ngươi không nói đúng sự thật về Ta, như Gióp, tôi tớ Ta đã nói. ”
\v 9 Vậy Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Sô-pha người Na-a-ma đi và làm y như Đức Giê-hô-va đã tryền, và Đức Giê-hô-va đoái đến Gióp.
\s5
\v 10 Khi Gióp cầu thay cho các bạn mình, Đức Giê-hô-va phục hồi lại sự thịnh vượng của ông. Đức Giê-hô-va ban cho ông nhiều gấp đôi hơn so với trước đó.
\v 11 Khi ấy, tất cả anh chị em của Gióp, những người từng quen biết với ông trước đây họ đến thăm và cùng ăn tại nhà ông. Họ chia buồn và an ủi ông về mọi tai họa mà Đức Giê-hô-va đã giáng trên ông. Mỗi người cho Gióp một miếng bạc và một nhẫn vàng.
\s5
\v 12 Trong những năm cuối đời của Gióp, Đức Giê-hô-va ban phước cho ông nhiều hơn lúc trước; ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò đực, và một ngàn lừa cái.
\v 13 Ông cũng có bảy con trai và ba con gái.
\v 14 Ông đặt tên cho con gái đầu là Giê-mi-ma, con gái thứ nhì là Kê-xi-a, và con gái thứ ba là Kê-ren-ha-búc.
\s5
\v 15 Trong khắp xứ, không có phụ nữ nào xinh đẹp như các con gái của Gióp. Họ được cha chia gia tài cùng với các anh mình.
\v 16 Sau đó, Gióp sống năm; ông được thấy các con trai và cháu chắt mình, đến tận đời thứ tư.
\v 17 Rồi Gióp qua đời, hưởng thọ và sống lâu.

5043
19-PSA.usfm Normal file

File diff suppressed because it is too large Load Diff

1869
20-PRO.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,1869 @@
\id PRO
\ide UTF-8
\h CHÂM NGÔN
\toc1 CHÂM NGÔN
\toc2 CHÂM NGÔN
\toc3 pro
\mt CHÂM NGÔN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Châm ngôn của Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, Vua Y-sơ-ra-ên:
\v 2 Những câu châm ngôn nầy chép ở đây để dạy sự khôn ngoan, truyền bá kiến thức, và dạy dỗ các lời thông sáng;
\v 3 để độc giả nhận lãnh sự chỉnh sửa để sống bằng cách làm theo điều phải, công bình, lý đoán, và chánh trực;
\s5
\v 4 Những câu châm ngôn nầy cũng ban cho người nào chưa được dạy dỗ biết khôn khéo, ban tri thức và sự suy xét cho lứa tuổi thanh thiếu niên.
\v 5 Nguyện người khôn lắng nghe và thêm lên sự học hỏi, và nguyện người nào biết phân biệt sẽ nhận được sự dẫn dắt,
\v 6 để hiểu biết châm ngôn, thí dụ, và lời lẽ của hạng người khôn ngoan, cùng câu đố bí ẩn của họ.
\s5
\v 7 Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức — còn kẻ ngu muội xem khinh sự khôn ngoan và sự kỷ luật.
\v 8 Con ơi, hãy nghe sự dạy dỗ của cha, và đừng bỏ phép tắc của mẹ con;
\v 9 chúng sẽ như một vòng hoa đội trên đầu con và như sợi dây chuyền đeo quanh cổ con.
\s5
\v 10 Con ơi, nếu hạng tội nhân kiếm tìm cách dụ dỗ con bước theo tội lỗi của họ, hãy từ chối đừng theo họ.
\v 11 Nếu họ nói: "Hãy đến cùng chúng ta, chúng ta sẽ rình rập để giết người, chúng ta núp đợi rồi tấn công kẻ vô tội dù chẳng vì lý do nào hết;
\s5
\v 12 Chúng ta sẽ nuốt sống họ, y như âm phủ cuốn lấy những kẻ nào mạnh khoẻ, rồi khiến họ cứ thế mà xuống mồ mả;
\v 13 Chúng ta sẽ tìm kiếm các thứ có giá trị; chúng ta sẽ chất đầy nhà chúng ta mọi thứ chúng ta cướp của người khác.
\v 14 Hãy dự phần với chúng ta; hết thảy chúng ta có một túi bạc mà thôi".
\s5
\v 15 Con ơi, đừng đi chung đường với chúng; đừng để cho chân con chạm vào lối chúng đang đi;
\v 16 chân chúng nó chạy đến sự ác và chúng lật đật làm đổ huyết ra.
\v 17 Vì thật là vô ích khi giăng lưới ra bẫy một con chim đang khi nó cảnh giác.
\s5
\v 18 Hạng người nầy đang phục chờ để giết người ta, và giăng một cái bẫy để hại họ.
\v 19 Đó là đường của những kẻ chuyên làm giàu bằng sự bất công; lợi bất nghĩa tước đi mạng sống của những ai đang nắm giữ nó.
\s5
\v 20 Khôn ngoan kêu la lớn tiếng ở ngoài đường, nó cất tiếng vang dội ở những nơi rộng rãi;
\v 21 ở đầu những con đường lúc nào cũng náo nhiệt, nó cất tiếng nơi lối vào thành,
\v 22 “Các ngươi là kẻ chẳng chút khôn ngoan, các ngươi ưa thích những điều các ngươi không hiểu cho đến bao giờ? Hỡi các ngươi là kẻ nhạo báng sẽ ưa sự nhạo báng, và hỡi kẻ dại dột, các ngươi sẽ ghét sự tri thức cho đến chừng nào?
\s5
\v 23 Hãy chú ý vì ta trách các ngươi; Ta sẽ dốc đổ mọi tư tưởng của ta cho các ngươi; Ta sẽ làm cho các ngươi biết những lời của ta.
\v 24 Ta đã kêu gọi, mà các ngươi từ chối không chịu nghe; Ta giơ tay ra, mà chẳng có ai chịu chú ý.
\v 25 Nhưng các ngươi đã bất chấp sự dạy dỗ của ta không chú ý đến lời quở trách ta.
\s5
\v 26 Ta sẽ chê cười nơi hoạn nạn của các ngươi, ta sẽ chế giễu các ngươi khi kinh khủng đến —
\v 27 khi sự sợ hãi các ngươi xảy đến như giông bão và tai vạ xông vào các ngươi như cơn trốt, khi tai hoạ, đau khổ giáng trên các ngươi.
\s5
\v 28 Khi ấy họ sẽ kêu cầu ta, và ta chẳng đáp lời; họ kêu cầu ta trong nổi thất vọng, nhưng họ sẽ không tìm gặp ta được.
\v 29 Vì họ ghét tri thức và không chọn sự kính sợ Đức Giê-hô-va,
\v 30 họ không làm theo sự dạy dỗ của ta, và họ xem khinh sự chỉnh sửa của ta.
\s5
\v 31 Họ sẽ ăn bông trái của đường lối mình, và được no nê hậu quả toan tính của họ.
\v 32 Người nào chưa được dạy dỗ bị giết khi họ xây đi, và sự dửng dưng của kẻ dại sẽ huỷ diệt họ
\v 33 Nhưng ai chịu nghe theo ta sẽ sống trong sự an ninh và sẽ yên nghỉ mà chẳng sợ tai họa nào".
\s5
\c 2
\p
\v 1 Con ơi, nếu con tiếp nhận lời ta và dành chứa các mạng lịnh ta với con,
\v 2 lắng nghe theo sự khôn ngoan và lòng con xu hướng về sự thông sáng.
\s5
\v 3 Nếu con cầu xin để có sự hiểu biết và cất tiếng lên kêu xin sự thông sáng,
\v 4 Nếu con tìm nó giống như con tìm bạc và tìm cách để có được sự hiểu biết giống như con tìm kiếm báu vật chôn kín,
\v 5 khi ấy con sẽ hiểu biết sự kính sợ Đức Giê-hô-va và tìm được tri thức về Đức Chúa Trời.
\s5
\v 6 Vì Đức Giê-hô-va ban ra sự khôn ngoan, từ miệng Ngài ra điều tri thức và sự thông sáng.
\v 7 Ngài chất chứa lời lẽ khôn ngoan cho người nào đẹp lòng Ngài, Ngài là thuẫn đỡ của người nào ăn ở trong sự ngay thẳng,
\v 8 Ngài canh chừng các lối công bình và Ngài sẽ giữ gìn đường lối của người nào trung tín với Ngài.
\s5
\v 9 Khi ấy con sẽ hiểu biết sự ngay thẳng, sự công bình, và sự chánh trực, cùng từng nẻo tốt lành.
\v 10 Vì sự khôn ngoan sẽ ngự vào trong lòng con, và tri thức sẽ làm vui thích cho linh hồn con.
\s5
\v 11 Sự thận trọng sẽ canh chừng con, sự hiểu biết sẽ gìn giữ con.
\v 12 Chúng sẽ cứu con khỏi con đường dữ, khỏi kẻ nói ra những việc gian tà,
\v 13 khỏi kẻ từ bỏ đường ngay thẳng mà đi theo các lối tối tăm.
\s5
\v 14 Họ vui mừng khi họ làm dữ và ưa thích sự ngoan cố của kẻ ác.
\v 15 Chúng nó lương lẹo trong đường lối mình, và dùng sự lừa đảo chúng nó che giấu mưu mẹo của mình.
\s5
\v 16 Sự khôn ngoan và sự thận trọng sẽ cứu con khỏi người đàn bà phi đạo đức, khỏi người nữ tìm cách phiêu lưu và khỏi lời nói vui tai của nàng.
\v 17 Nàng lìa bỏ bạn lúc đang thì mình và quên sự giao ước của Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 18 Vì nhà nàng xiêu qua sự chết và các lối nàng sẽ dẫn con đến với những kẻ ở trong mồ mả.
\v 19 Hết thảy ai vào nhà nàng sẽ chẳng trở về được và họ sẽ không tìm được con đường sự sống.
\s5
\v 20 Vậy, con nên ăn ở theo con đường của người thiện và bước theo các lối của người nào làm phải.
\v 21 Vì người nào làm sự ngay thẳng sẽ lập nhà cửa trên đất, và người nào ăn ở ngay thẳng sẽ còn trong đó luôn luôn.
\v 22 Nhưng kẻ gian ác sẽ bị dứt khỏi đất, và kẻ bất trung sẽ bị rứt ra khỏi đó.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Con ơi, chớ quên các mạng lịnh ta và hãy giữ các sự dạy của ta,
\v 2 vì chúng sẽ thêm cho con lâu ngày và nhiều năm sống, và sự bình an.
\s5
\v 3 Chớ để sự trung tín và sự đáng tin mang tính giao ước lìa khỏi con, hãy đeo cả hai thứ ấy vào cổ, ghi nó nơi bảng lòng con.
\v 4 Khi ấy, con sẽ tìm được ơn và có tiếng tốt trước mặt Đức Chúa Trời và loài người.
\s5
\v 5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va và chớ nương cậy vào sự thông sáng của riêng con;
\v 6 trong mọi đường lối của con khá công nhận Ngài thì Ngài sẽ ban bằng các nẻo của con.
\s5
\v 7 Chớ khôn ngoan theo mắt mình; hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, và xây khỏi sự ác.
\v 8 Điều đó sẽ là sự chữa lành khoan khoái cho thân thể con.
\s5
\v 9 Hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va với tài vật của con và hoa quả đầu mùa của con,
\v 10 và các kho chứa của con sẽ được dư dật và những thùng của con sẽ tràn đầy rượu mới.
\s5
\v 11 Con ơi, chớ xem thường kỷ luật của Đức Giê-hô-va và chớ ghét bỏ sự quở trách của Ngài,
\v 12 vì Đức Giê-hô-va kỷ luật kẻ Ngài yêu, như một người cha đối xử với con cái nào làm đẹp lòng Ngài.
.
\s5
\v 13 Người nào tìm kiếm sự khôn ngoan có phước thay, người cũng nhận lấy sự thông sáng nữa.
\v 14 Những gì con nhận được từ sự khôn ngoan thì tốt hơn những gì bạc cung ứng cho, ích lợi của nó thì tốt hơn cả vàng.
\s5
\v 15 Sự khôn ngoan quí báu hơn châu ngọc và chẳng một thứ chi con ao ước có thể sánh với nó được.
\v 16 Nó cầm sự lâu ngày nơi tay hữu; còn trong tay tả nó là sự giàu có và vinh hiển.
\s5
\v 17 Các đường nẻo nó đều là sự nhân từ và các lối nó thảy đều bình an.
\v 18 Nó là cây sự sống cho những ai nắm chặt lấy nó, người nào nắm giữ nó đều có phước.
\s5
\v 19 Bởi sự khôn ngoan Đức Giê-hô-va đã lập nên trái đất, bởi sự thông sáng mà lập nên các từng trời.
\v 20 Bởi sự thông sáng của Ngài, các vực sâu mở ra và các đám mây nhỏ sương móc xuống.
\s5
\v 21 Con ơi, hãy xét đoán và phân biện sao cho đúng đắn, và đừng lệch khỏi chúng.
\v 22 Chúng sẽ là sự sống cho linh hồn con và là đồ trang sức quấn quanh cổ con.
.
\s5
\v 23 Khi ấy con sẽ bước đi an toàn trong đường lối của con và chân con không vấp ngã;
\v 24 khi con nằm, con sẽ chẳng phải lo sợ; khi con nằm xuống, giấc ngủ con sẽ được ngọt ngào.
\s5
\v 25 Chớ sợ sự kinh khiếp xảy đến thình lình hoặc sự tàn hại do kẻ ác gây ra, khi nó đến,
\v 26 vì Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh con và sẽ gìn giữ chân con khỏi sa vào bẫy rập.
\s5
\v 27 Chớ rút sự làm lành lại đối với người kẻ nào xứng đáng khi con có quyền làm việc ấy.
\v 28 Chớ nói cùng kẻ lân cận con: “Hãy đi, rồi trở lại, thì ta sẽ trao cho”, khi con có tiền bạc bên mình.
\s5
\v 29 Chớ lập mưu hại kẻ lân cận con — những ai sống gần gũi và tin cậy con.
\v 30 Đừng tranh luận với ai mà không có lý do, khi người ấy chẳng làm gì hại con.
\s5
\v 31 Chớ ganh tỵ với kẻ hung dữ hay cũng đừng chọn lối nào của hắn.
\v 32 Vì kẻ đáng tởm bị gớm ghiếc đối với Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài đưa người ngay thẳng vào trong sự tin cậy Ngài.
\s5
\v 33 Sự rủa sả của Đức Giê-hô-va giáng trên nhà kẻ ác, song Ngài chúc phước cho nhà cửa của người công bình.
\v 34 Ngài nhạo báng kẻ hay nhạo báng, nhưng Ngài ban sự ưu ái của Ngài cho người khiêm nhường.
\s5
\v 35 Người khôn ngoan sẽ hưởng được tiếng tốt, còn kẻ dại sẽ được nhấc lên trong sự xấu hổ của hắn.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Hỡi các con, hãy nghe lời khuyên dạy của một người cha, và hãy chú ý hầu cho con biết đâu là sự thông sáng.
\v 2 Ta ban cho các con những sự dạy dỗ tốt lành; chớ quên lời dạy dỗ của ta.
\s5
\v 3 Khi ta là con trai của cha ta, đứa con một của mẹ ta yêu mến.
\v 4 cha ta có dạy ta rằng: “Nguyện lòng ghi chặt lấy các lời ta; hãy giữ lấy các mạng lịnh ta và sống theo.
\s5
\v 5 Khá cầu lấy sự khôn ngoan và sự thông sáng; chớ quên và chớ chối bỏ các lời của miệng ta;
\v 6 đừng lìa bỏ sự khôn ngoan thì nó sẽ quan phòng con; hãy yêu mến người, thì người sẽ giữ con được an toàn.
\s5
\v 7 Sự khôn ngoan là việc quan trọng nhất, vậy, khá cầu lấy sự khôn ngoan và hãy dùng hết của con đã được mà mua sự thông sáng.
\v 8 Hãy ấp ủ sự khôn ngoan và sự khôn ngoan sẽ tôn con lên; sự khôn ngoan sẽ tôn vinh con khi con vòng tay ôm lấy sự khôn ngoan.
\v 9 Sự khôn ngoan sẽ đội trên đầu con một vòng hoa vinh dự; sự khôn ngoan sẽ ban cho con một mão triều thật đẹp”.
\s5
\v 10 Con ơi, hãy nghe và chú ý đến các lời ta, thì con sẽ có nhiều năm trong đời sống con.
\v 11 Ta dẫn dắt con trong đường khôn ngoan; ta dẫn con vào các lối ngay thẳng.
\v 12 Khi con bước đi, không một ai dám đứng cản lối con và nếu con chạy, con sẽ không vấp ngã.
\s5
\v 13 Hãy nắm chắc phần kỷ luật, chớ buông ra; khá gìn giữ nó, vì đó là sự sống của con.
\v 14 Chớ bước theo lối của kẻ ác và đừng đi theo đường của kẻ làm ác.
\v 15 Hãy tránh đường ấy, chớ dẫm lên nó; hãy xây khỏi nó và cứ đi đường khác.
\s5
\v 16 Vì họ không thể ngủ cho đến khi họ làm ác và giấc ngủ bị tước khỏi họ cho đến khi họ gây cho ai đó phải vấp ngã.
\v 17 Vì họ ăn bánh của sự gian ác và uống rượu của sự hung bạo.
\s5
\v 18 Nhưng đường người làm việc ngay thẳng giống như tia sáng đầu tiên chiếu rạng, nó càng sáng thêm lên cho đến giữa trưa.
\v 19 Còn nẻo kẻ gian ác giống như bóng tối — họ chẳng biết mình vấp ngã vì đâu.
\s5
\v 20 Con ơi, hãy chú ý đến các lời ta; hãy lắng nghe lời giảng luận của ta.
\v 21 Chớ để các lời ấy xa khỏi mắt con, hãy giữ chúng trong tấm lòng của con.
\s5
\v 22 Vì các lời ta đều là sự sống cho người nào tìm được nó và sự khỏe mạnh cho toàn thân thể của họ.
\v 23 Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con được an toàn và cẩn thận coi chừng nó, vì từ đó các nguồn sự sống sẽ tuôn tràn ra
\s5
\v 24 Hãy bỏ đi lối nói quanh co khỏi miệng con và bỏ lối nói hủ bại khỏi con.
\v 25 Nguyện mắt con hãy ngó thẳng về đàng trước và mí mắt con khá nhìn thẳng trước mặt con.
\s5
\v 26 Hãy ban bằng cái nẻo của chân con; rồi mọi đường lối con sẽ được an ninh.
\v 27 Chớ xây qua bên phải hay bên trái; hãy dời chân con khỏi sự ác.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Con ơi, hãy chú ý đến sự khôn ngoan ta; hãy cẩn thận lắng nghe sự thông sáng ta,
\v 2 con biết thận trọng, và môi miệng con bảo tồn sự tri thức.
\s5
\v 3 Vì môi kẻ dâm phụ nhỏ ra mật, và miệng nó dịu hơn dầu,
\v 4 nhưng đến cuối cùng nàng ta đắng như ngải cứu, bén như gươm hai lưỡi.
\s5
\v 5 Chân nàng ta bước xuống chỗ chết; bước nàng ta nhắm suốt con đường dẫn tới âm phủ.
\v 6 Nàng ta không chút nghĩ suy gì đến đường sự sống. Các bước chân của nàng ta phiêu bạt, nàng ta chẳng biết mình đi về đâu.
\s5
\v 7 Vậy bây giờ, hỡi các con, hãy nghe theo ta; chớ xây khỏi việc nghe theo các lời của miệng ta.
\v 8 Hãy dời đường các con tránh xa nàng ta, và đừng lại gần cửa nhà nó.
\s5
\v 9 Trong đường đó các con sẽ không nhường danh dự mình cho kẻ khác hoặc số năm mạng sống các con cho kẻ hung bạo.
\v 10 những người lạ sẽ chẳng tiệc tùng nơi sự giàu có của con; mọi điều con làm lụng được sẽ chẳng chạy vào nhà kẻ ngoại.
\s5
\v 11 cuối đời các con sẽ rên siết khi xác thịt và thân thể các con đã bị hao mòn.
\v 12 Các con sẽ nói: “Cớ sao tôi ghét sự kỷ luật và lòng tôi khinh bỉ sự sửa phạt chớ?
\s5
\v 13 Tôi sẽ không vâng theo tiếng giáo sư tôi hoặc lắng nghe theo những người dưỡng dục tôi?
\v 14 Gần như là tôi bị sụp đổ hoàn toàn giữa hội chúng, giữa sự nhóm lại của dân sự".
\s5
\v 15 Hãy uống nước hồ con chứa, và hãy uống nước chảy ra trong giếng của chính con.
\v 16 Các suối của con nên tràn ra khắp mọi nơi, và sông nước của con nên tràn ra nơi phố chợ sao?
\v 17 Nguyện nó khá về một mình con, và chớ đừng về các dân Ngoại ở với con.
\s5
\v 18 Nguyện dòng suối của con được chúc phước cho và nguyện con vui vẻ nơi vợ con cưới buổi đang thì.
\v 19 Vì nàng như nai cái dễ thương, và hoàng dương có duyên dáng. Nguyện ngực nàng làm thỏa lòng con luôn luôn, và ái tình nàng khiến cho con say mê mãi mãi.
\s5
\v 20 Con ơi, cớ sao con mê mệt người dâm phụ; cớ sao con cứ mãi ôm lấy ngực của người đàn bà lạ chứ?
\v 21 Vì Đức Giê-hô-va nhìn thấy mọi sự một người làm và nhìn thấy mọi nẻo đường người đang bước đi.
\s5
\v 22 Kẻ gian ác sẽ bị mọi lầm lỗi của hắn bắt lấy; các sợi dây tội lỗi của hắn vấn buộc lấy.
\v 23 Hắn sẽ chết vì thiếu kỷ luật; hắn lạc sai do sự dại dột quá quắt của hắn.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Con ơi, nếu con biệt riêng tiền bạc như sự bảo đảm món nợ của kẻ lân cận mình, nếu con đưa ra lời hứa về món nợ của ai đó mà con không quen biết,
\v 2 khi ấy con đã tự mình lọt vào bẫy do lời hứa của mình, và con mắc phải lời của miệng con.
\s5
\v 3 Con ơi, trong trường hợp đó, hãy làm điều nầy và giải cứu mình, bởi vì con đang ở trong sự thương xót của kẻ lân cận con, hãy đi hạ mình xuống rồi nài kẻ lân cận xin tha cho con.
\s5
\v 4 Đừng nhắm mắt ngủ và mí mắt con đừng chợp lại.
\v 5 Hãy tự cứu mình giống như con hoàng dương thoát khỏi tay thợ săn, như con chim thoát khỏi tay kẻ đánh rập.
\s5
\v 6 Hãy nhìn xem loài kiến, hỡi con là kẻ biếng nhác, hãy xem xét cách ăn ở nó mà học khôn ngoan.
\v 7 Nó chẳng có hoặc quan tướng, hoặc cai đốc, hay là quan cai trị nào hết,
\v 8 tuy nhiên, nó sắm sửa thực phẩm cho mình lúc mùa hè, và trong mùa gặt nó chất chứa mọi thứ nó ăn được.
\s5
\v 9 Hỡi kẻ biếng nhác, con sẽ nằm ngủ cho đến chừng nào? Khi nào thì con trở mình dậy khỏi giấc ngủ?
\v 10 Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nghỉ một chút”—
\v 11 thì sự nghèo khổ của con sẽ đến như kẻ trộm, và mọi nhu cầu của con giống kẻ cầm binh khí vậy.
\s5
\v 12 Một người không có giá trị — một kẻ gian ác — sống bởi miệng giả dối của hắn,
\v 13 con mắt láo liên, ra dấu bằng chân, và chỉ bằng ngón tay mình.
\s5
\v 14 Hắn mưu ác với sự gian dối ở trong lòng; hắn luôn gieo ra sự tranh cạnh.
\v 15 Bởi cớ ấy, tai họa sẽ liền bắt lấy hắn; trong khoảnh khắc hắn bị bại hoại, không phương thế chữa được.
\s5
\v 16 Có sáu điều Đức Giê-hô-va thù ghét, và bảy điều Ngài lấy làm gớm ghiếc:
\s5
\v 17 Con mắt của kẻ kiêu ngạo, lưỡi hay nói dối, tay làm đổ huyết người vô tội,
\v 18 lòng toan những mưu ác, chân chạy mau để làm ác,
\v 19 kẻ làm chứng hà ra sự dối trá, và kẻ nào gieo sự tranh cạnh trong vòng các anh em.
\s5
\v 20 Con ơi, hãy vâng theo mạng lịnh của cha, và chớ lìa bỏ sự dạy của mẹ con.
\v 21 Luôn luôn cột nó nơi lòng con, đeo nó quanh cổ con.
\s5
\v 22 Khi con đi, chúng sẽ dẫn dắt con; lúc con ngủ, chúng sẽ gìn giữ con; và khi con thức dậy, thì chúng sẽ dạy dỗ con.
\v 23 Vì điều răn là một cái đèn, và sự dạy dỗ là ánh sáng, các sự quở trách kỷ luật là con đường sự sống.
\s5
\v 24 Nó giữ con khỏi người đàn bà không có đạo đức, khỏi lời lẽ ngọt xớt của dâm phụ.
\v 25 Đừng nổi tư dục ở trong lòng theo sắc đẹp nó, và đừng để mí mắt nó bắt lấy con.
\s5
\v 26 Ngủ với gái điếm có thể trả cái giá của một miếng bánh; nhưng vợ của người khác có thể khiến con trả giá bằng chính mạng sống của con.
\v 27 Có người nào để lửa trước ngực mà không làm cháy áo của mình?
\s5
\v 28 Có ai đi trên than lửa hực mà chân mình lại chẳng bị phồng chăng?
\v 29 Cũng vậy, kẻ nào ngủ với vợ kẻ lân cận mình; người nào ngủ với nàng sẽ chẳng khỏi bị phạt.
\s5
\v 30 Người ta chẳng xem khinh kẻ trộm nếu nó ăn cắp đặng làm thoả mãn nhu cần mình khi nó đói khát.
\v 31 Tuy nhiên, nếu nó bị bắt, nó sẽ trả lại gấp bảy lần những gì nó lấy cắp; nó sẽ nộp hết tài sản của nhà nó.
\s5
\v 32 Kẻ nào phạm tội tà dâm mà chẳng biết chi hết; người nào làm vậy đang tự huỷ diệt mình.
\v 33 Nhiều thương tích và xấu hổ là những thứ hắn phải chịu, và tình trạng xấu hổ ấy sẽ chẳng được bôi xoá đi;
\s5
\v 34 Vì sự ghen ghét làm cho người ta giận dữ; người chẳng tỏ ra chút thương xót nào hết khi người có quyền báo thù.
\v 35 Người sẽ chẳng nhận một sự bồi thường nào hết, và không thể mua chuộc được, dù con dâng cho người nhiều lễ vật.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Con ơi, hãy giữ các lời ta và chất chứa ở trong con các mạng lịnh ta.
\v 2 Hãy giữ lấy các mạng lịnh ta, hãy sống và giữ theo sự dạy dỗ của ta như con ngươi của mắt con.
\v 3 Hãy cột nó nơi các ngón tay con; hãy ghi nó trên bảng lòng con.
\s5
\v 4 Hãy nói với sự khôn ngoan rằng: “Ngươi là chị em ta”, và gọi sự thông sáng là bà con của con,
\v 5 để giữ con khỏi người nữ có sức cám dỗ kia, khỏi dâm phụ có lời ngọt xớt kia.
\s5
\v 6 Nơi cửa sổ của nhà ta, Ta nhìn ngang qua lưới mắt cáo
\v 7 thì ta thấy nhiều thanh niên, chúng không được dạy dỗ. Ta nhìn thấy giữa vòng những thanh thiếu niên ấy có một thanh niên không trí hiểu.
\s5
\v 8 Thanh niên ấy đi qua đường gần góc nhà nàng và anh ta đi hướng về nhà nàng —
\v 9 trời đã chạng vạng, vào lối chiều, vào thời điểm của ban đêm và trời tối.
\s5
\v 10 Rồi ở đó một người nữ bước ra đón hắn, ăn mặc như gái điếm, và nàng biết lý do tại sao nàng có mặt ở đó.
\v 11 Nàng nói năng lớn tiếng, ngang ngạnh, hai chân nàng không ở trong nhà —
\v 12 lúc trên đường phố, lúc nơi phố chợ, nàng giả vờ chờ đợi tại các góc hẻm.
\s5
\v 13 Thế là nàng chụp lấy hắn mà hôn, với mặt chai mày đá, nàng ta nói cùng hắn rằng:
\v 14 "Tôi có của lễ thù ân hôm nay, tôi đã trả xong các lời khấn nguyện tôi,
\v 15 vậy tôi ra đây đón anh, muốn thấy mặt anh, và tôi đã tìm được.
\s5
\v 16 Tôi đã trải ra bằng chỉ đủ màu của người Ai-cập trên giường.
\v 17 Tôi xức dầu thơm cho giường mình với một dược, lư hội, và quế bì.
\v 18 Hãy đến, chúng ta sẽ ân ái yêu đương cho đến sáng, chúng ta lấy làm khoái lạc với các kiểu làm tình khác nhau.
\s5
\v 19 Chồng tôi không có ở nhà; người luôn luôn có chuyến đi dài ngày,
\v 20 Người đem túi bạc theo với người; người sẽ trở về đúng vào ngày rằm".
\v 21 Với cách ăn nói có tính dụ dỗ nàng khích hắn, và với lối nói năng ngọt xớt ấy nàng thúc ép hắn.
\s5
\v 22 Hắn liền đi theo nàng giống như con bò đến với người làm thịt, hoặc như con nai bị lọt vào bẫy
\v 23 cho đến khi mũi tên xoi ngang qua gan nó — hay như con chim ùa vào lưới bẫy, mà không biết mình phải trả giá bằng mạng sống mình.
\s5
\v 24 Vậy bây giờ, con ơi, hãy nghe ta; hãy chú ý những điều ta đang nói.
\v 25 Chớ để lòng con chớ xây vào đường nẻo của nàng ta; chớ đi lạc vào các lối của nàng.
\s5
\v 26 Nàng đã làm cho nhiều nạn nhân phải vấp ngã; họ chẳng còn được kể đến nữa.
\v 27 Nhà nàng nằm trên con đường dẫn đến âm phủ; nó dẫn xuống những gian phòng của sự chết.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Có phải sự khôn ngoan không kêu lên sao? Có phải sự thông sáng không cất tiếng mình lên ư?
\v 2 Sự khôn ngoan chiếm chỗ đứng ở nơi cao, bên ngã tư đường.
\v 3 Bên lối vào thành, gần cổng thành, sự khôn ngoan kêu lên.
\s5
\v 4 Hỡi mọi người, ta kêu gọi các ngươi và cất giọng nhắm vào con cái loài người!
\v 5 Hỡi các ngươi, những người không được dạy dỗ, các ngươi phải hiểu sự khôn ngoan và các ngươi những kẻ thù ghét tri thức, các ngươi phải có một tấm lòng thông sáng.
\s5
\v 6 Hãy lắng nghe và ta sẽ nói những điều cao thượng và khi môi miệng ta mở ra, ta sẽ dạy dỗ điều phải —
\v 7 vì miệng ta nói ra điều đáng tin, và môi ta ghét sự ác.
\s5
\v 8 Mọi lời lẽ của miệng ta đều là công bình; chẳng có điều chi cong vạy hoặc gian tà trong đó.
\v 9 Mọi lời lẽ của ta đều là ngay thẳng cho người nào hiểu biết; lời lẽ của ta là ngay thẳng cho người nào tìm kiếm tri thức.
\s5
\v 10 Hãy chọn sự dạy dỗ của ta hơn chọn bạc và tri thức hơn là vàng ròng.
\v 11 Vì Ta, Đấng khôn ngoan, tốt hơn châu ngọc; chẳng có gì các ngươi ao ước có thể sánh với ta được.
\s5
\v 12 Ta, Đấng khôn ngoan, sống với sự thông sáng, và ta có tri thức và sự thận trọng.
\v 13 Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là thù ghét điều ác — Ta ghét sự ngạo mạn và kiêu căng, đường lối gian ác, và miệng gian tà.
\s5
\v 14 Ta có lời khuyên tốt và sự khôn ngoan thật; Ta có sự thông sáng, năng lực vốn thuộc về ta.
\v 15 Bởi Ta, các vua cùng các quí tộc cai trị — và hết thảy những ai cai quản cách công bình.
\v 16 Bởi Ta, các vua cai trị, người tước vị và hết thảy những ai cai trị với sự công bình.
\s5
\v 17 Ta yêu mến những người nào yêu mến ta, và người nào tìm kiếm ta, ắt sẽ gặp ta.
\v 18 Sự giàu có, vinh dự, của cải bền lâu, và sự công bình, đều ở với ta.
\s5
\v 19 Bông trái ta tốt hơn vàng, thậm chí hơn vàng ròng; những thứ ta tạo ra tốt hơn bạc cao.
\v 20 Ta đi trong con đường ngay thẳng, trong các nẻo dẫn tới sự công bình,
\v 21 nhơn đó ta sẽ ban cơ nghiệp cho người nào yêu mến ta và làm cho các kho tàng họ được đầy dẫy.
\s5
\v 22 Giê-hô-va đã dựng nên ta từ lúc sáng thế —việc thứ nhứt trong mọi việc làm của Ngài từ ngàn xưa.
\v 23 Ta đã được lập từ trước vô cùng — trong chỗ thứ nhứt, từ lúc dựng nên thế gian.
\s5
\v 24 Trước khi có đại dương, ta đã được sanh ra — trước khi có sông suối đầy tràn nước.
\v 25 Trước khi núi non được lập nên, và trước khi có đồi núi, ta đã sanh ra rồi.
\s5
\v 26 Ta đã sanh ra trước khi Đức Giê-hô-va dựng nên đất hay đồng ruộng, hoặc ngay cả bụi đất đầu tiên trong thế gian.
\v 27 Ta có mặt ở đó khi Ngài dựng nên các từng trời, khi Ngài rút đường chân trời lên khỏi mặt vực.
\s5
\v 28 Ta có mặt ở đó khi Ngài dựng nên các từng trời trên cao và khi Ngài dựng nên các dòng suối ở vực sâu.
\v 29 Ta có mặt ở đó khi Ngài định các giới hạn cho đại dương, để nước không tràn qua chỗ mà Ngài đã truyền cho chúng, và khi Ngài lập chỗ để làm nền của địa cầu.
\s5
\v 30 Ta ở bên cạnh Ngài, làm thợ cái, và Ta là sự khoái lạc Ngài mỗi ngày, luôn luôn vui vẻ trước mặt Ngài.
\v 31 Ta lấy làm vui vẻ trong cả thế giới của Ngài, và sự vui thích của ta đặt nơi con người.
\s5
\v 32 Rồi bây giờ, các con ơi, hãy lắng nghe ta, vì người nào giữ các đường lối của ta sẽ được phước.
\v 33 Hãy nghe theo sự dạy dỗ của ta và sống khôn ngoan; đừng chễnh mãng nó.
\v 34 Người nào nghe theo ta sẽ được phước — mỗi ngày canh chừng tại nơi cửa ta, chờ đợi ta bên cửa nhà ta.
\s5
\v 35 Vì hễ ai tìm được ta, tìm được sự sống, và người ấy sẽ được ơn của Đức Giê-hô-va.
\v 36 Nhưng ai không tìm được ta, tự làm hại cho mình; còn kẻ nào ghét ta, ắt ưa thích sự chết".
\s5
\c 9
\p
\v 1 Sự khôn ngoan đã xây dựng nhà riêng mình; từ đá người tạc thành bảy cây trụ.
\v 2 Sự khôn ngoan sắm sẵn vật thực dọn cho bữa tối; người pha rượu nho mình; và dọn bàn tiệc mình.
\s5
\v 3 Người đã gửi lời mời đi cùng các tớ gái mình và người kêu la từ chỗ cao của thành:
\v 4 “Nguyện người nào chưa được dạy dỗ, hãy đến đây! ” người nói với kẻ thiếu trí hiểu.
\s5
\v 5 “Hãy đến, hãy ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha.
\v 6 Hãy để các lối ngây dại lại sau lưng, và hãy sống; hãy ăn ở trong con đường thông sáng.
\s5
\v 7 Hễ ai chỉnh sửa kẻ hay nhạo báng mời gọi điều sỉ nhục, còn ai quở trách kẻ gian ác bị tổn thương.
\v 8 Chớ quở trách kẻ nhạo báng, hoặc nó sẽ thù ghét con; hãy quở trách người khôn ngoan, thì người sẽ yêu mến con.
\v 9 Hãy cung ứng các sự dạy dỗ cho người khôn ngoan, thì người sẽ được nên khôn ngoan hơn; hãy dạy dỗ người công bình, thì người sẽ thêm lên sự học hỏi.
\s5
\v 10 Kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự khôn ngoan, và sự hiểu biết Đấng Thánh là sự thông sáng.
\v 11 Vì nhờ ta, các ngày con sẽ được thêm nhiều lên, và đời sống sẽ được gia thêm nhiều năm nữa.
\v 12 Nếu con khôn ngoan, con sống khôn ngoan cho bản thân mình, nhưng nếu con nhạo báng, một mình con sẽ gánh lấy nó”.
\s5
\v 13 Một người đàn bà dại dột hay ồn ào — người chưa được dạy dỗ và chẳng biết chi cả.
\v 14 Người ngồi nơi cửa nhà mình, trên chỗ ngồi tại các nơi cao của thành.
\v 15 Người kêu gọi những kẻ nào đi đường, những kẻ đi thẳng lối của họ.
\s5
\v 16 Nguyện kẻ nào chưa được dạy dỗ hãy vào đây! ” người nói với kẻ thiếu trí hiểu.
\v 17 “Nước ăn cắp rất là ngọt ngào, và bánh ăn vụng là ngon thay”.
\v 18 Nhưng người chẳng biết rằng kẻ chết đang ở đó, những người khách của người đang ở dưới chốn sâu của âm phủ.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Châm ngôn của Sa-lô-môn. Con trai khôn ngoan làm vui cha mình; Nhưng đứa con dại dột gây buồn cho mẹ nó.
\v 2 Của cải tích luỹ bởi sự gian ác chẳng có chút giá trị nào cả, nhưng làm phải giữ con khỏi chết.
\v 3 Đức Giê-hô-va không để cho người làm phải bị đói khát, nhưng Ngài gạt bỏ sự ước ao của kẻ ác đi.
\s5
\v 4 Tay kẻ biếng nhác khiến cho một người phải nghèo khổ, còn tay người siêng năng kiếm được sự giàu có.
\v 5 Con khôn ngoan thâu trữ lương thực lúc mùa hè, nhưng kẻ ngủ lúc mùa gặt là đứa con làm cho xấu hổ.
\s5
\v 6 Có nhiều ơn phước giáng trên đầu người biết làm phải, nhưng miệng kẻ ác che đậy sự bạo lực.
\v 7 Người làm phải khiến cho chúng ta lấy làm vui khi nghĩ đến người, nhưng tên kẻ ác thì mục rửa đi.
\s5
\v 8 Người biết phải trái tiếp nhận những điều răn, nhưng kẻ dại có miệng bép xép phải bị sa ngã.
\v 9 Người nào theo sự ngay thẳng bước đi an toàn, còn kẻ nào làm cong vẹo đường lối mình, người ta sẽ nhận ra.
\s5
\v 10 Người nào nheo mắt tạo ra đau khổ, còn ai có miệng bép xép sẽ bị sa ngã.
\v 11 Miệng của người làm điều phải là một nguồn sự sống, nhưng miệng kẻ hung ác che giấu sự bạo lực.
\s5
\v 12 Sự ghen ghét dẫn tới đánh lộn, nhưng lòng thương yêu lấp hết các lỗi lầm.
\v 13 Khôn ngoan được thấy nơi môi miệng người biết phân biện, nhưng cây roi dành cho lưng kẻ không có ý thức.
\s5
\v 14 Người khôn ngoan chất chứa tri thức, nhưng miệng kẻ ngu muội đem sự huỷ diệt đến gần.
\v 15 Sự giàu có của người giàu là cái thành kiên cố của người; sự khốn khổ của người nghèo là sự huỷ diệt của họ.
\s5
\v 16 Tiền công của người nào làm phải dẫn đến sự sống; hoa lợi của kẻ hung ác dẫn họ đến với tội lỗi.
\v 17 Có một con đường dẫn đến sự sống cho người nào bước theo kỷ luật, nhưng ai chối bỏ sự quở trách phải lầm lạc.
\s5
\v 18 Hễ ai giấu sự ghen ghét có môi miệng dối trá, và ai rải điều nói hành là kẻ ngu dại.
\v 19 Hễ lắm lời, vi phạm nào có thiếu, nhưng ai cẩn thận trong điều mình nói là khôn ngoan.
\s5
\v 20 Lưỡi của người làm phải giống như bạc cao; có ít giá trị trong lòng của kẻ gian ác.
\v 21 Môi miệng của người làm phải giúp đỡ cho nhiều người, nhưng kẻ ngu dại chết vì thiếu trí hiểu.
\s5
\v 22 Phước lành của Đức Giê-hô-va đem lại sự giàu có và Ngài chẳng thêm đau khổ vào đó.
\v 23 Sự gian ác là trò chơi của kẻ dại, nhưng khôn ngoan là khoái lạc cho người có trí hiểu.
\s5
\v 24 kẻ gian ác lo sợ sẽ xảy đến cho nó, nhưng ước ao của người công bình sẽ được nhậm.
\v 25 Kẻ ác giống như giông bão thổi ngang qua, và chúng không còn nữa, nhưng người làm phải là cái nền còn đến đời đời.
\s5
\v 26 Như giấm làm ghê răng và khói làm cay mắt, cũng vậy, kẻ biếng nhác cũng một thể ấy đối với người nào sai khiến nó.
\v 27 Sự kính sợ Đức Giê-hô-va làm cho sống lâu, còn năm tuổi của kẻ ác sẽ bị rút ngắn đi.
\s5
\v 28 Sự trông mong của người làm phải là niềm vui của họ, nhưng năm tuổi của kẻ ác sẽ bị rút ngắn đi.
\v 29 Đường lối của Đức Giê-hô-va bảo hộ cho người nào sống ngay thẳng, nhưng sự bại hoại thì dành cho cho kẻ làm ác.
\v 30 Người nào làm phải chẳng hề bị rúng động, nhưng kẻ ác sẽ không tồn tại trên đất.
\s5
\v 31 Miệng người công bình toát ra bông trái của sự khôn ngoan, nhưng lưỡi của kẻ gian tà sẽ bị cắt mất.
\v 32 Môi miệng của người làm phải biết điều chi đáng nhận, nhưng miệng kẻ gian ác, chúng biết điều chi là gian tà.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Giê-hô-va rất ghét thứ cân nào không chính xác, nhưng Ngài vui thích trái cân đúng.
\v 2 Khi kiêu ngạo đến, thì sỉ nhục cũng đến nữa, nhưng sự khôn ngoan đến cùng với sự khiêm nhường.
\s5
\v 3 Sự thanh liêm của người ngay thẳng dẫn dắt họ, nhưng đường lối gian tà của kẻ bất trung hủy diệt chúng.
\v 4 Sự giàu có chẳng ích chi trong ngày thạnh nộ, nhưng làm phải giữ người khỏi chết.
\s5
\v 5 Cách cư xử phải lẽ của người trọn vẹn làm cho đường lối người ra ngay thẳng, nhưng kẻ ác sẽ sa ngã vì tánh gian ác mình.
\v 6 Cách ăn ở phải lẽ của người nào đẹp lòng Đức Chúa Trời giữ họ được an toàn, nhưng kẻ bất trung bị mắc trong mưu tính của chúng.
\s5
\v 7 Khi kẻ ác chết, sự trông mong nó mất đi, còn sự trông đợi vốn là sức lực của hắn đi đến chỗ hư vong.
\v 8 Người nào làm phải được giữ gìn khỏi hoạn nạn, còn kẻ ác sa vào đó thế cho người.
\s5
\v 9 Với cái miệng kẻ bất kỉnh huỷ diệt người lân cận mình, nhưng nhờ tri thức người nào làm phải được giữ cho an toàn.
\v 10 Khi người làm phải được hanh thông, cả thành đều vui mừng; khi kẻ ác bị hư mất, có nhiều tiếng reo mừng.
\v 11 Nhờ các ơn lành của người đẹp lòng Đức Chúa Trời, cả thành được cao trọng; bởi miệng kẻ ác, cả thành bị đánh đổ.
\s5
\v 12 Kẻ nào khinh dể người lân cận mình thiếu trí hiểu, nhưng người khôn sáng thì làm thinh.
\v 13 Hễ ai đi lòng vòng tỏ ra điều kín đáo, nhưng người có lòng trung tín giữ kín sự việc.
\s5
\v 14 Khi chẳng có chỉ đạo khôn ngoan nào hết, một nước sa ngã, nhưng chiến thắng đến do cầu kiến các mưu sĩ.
\s5
\v 15 Hễ ai bảo lãnh nợ cho người ngoại chắc chắn sẽ bị hại, nhưng người nào ghét việc đưa ra lời thề thuộc loại hứa hẹn ấy được bình an vô sự.
\v 16 Người đàn bà có duyên được sự tôn trọng, nhưng người hung bạo chụp lấy sự giàu có.
\s5
\v 17 Một người tử tế làm ích cho bản thân mình, nhưng kẻ nào dữ dằn làm tổn thương mình.
\v 18 Kẻ dữ nằm đó để nhận lấy tiền công mình, nhưng người nào gieo ra điều phải nhận lấy tiền công đích thực.
\s5
\v 19 Một người chơn thật chuyên làm phải sẽ sống, nhưng kẻ nào đuổi theo điều ác sẽ chết.
\v 20 Đức Giê-hô-va ghét kẻ nào có lòng gian tà, nhưng Ngài vui thích người nào mà đường lối người không có tì vít chi hết.
\s5
\v 21 Phải biết chắc về việc nầy — kẻ ác chẳng hề khỏi bị phạt, nhưng dòng dõi người làm điều phải sẽ được giữ an toàn.
\v 22 Giống như chiếc nhẫn vàng đeo nơi mũi heo là người đàn bà đẹp đẽ mà thiếu thận trọng.
\s5
\v 23 Sự ao ước của người làm điều phải kết quả nơi điều thiện, nhưng kẻ ác chỉ có trông đợi cơn thạnh nộ mà thôi.
\v 24 Có người rải của mình ra — người ấy lại càng thêm nhiều lên; người kia không gieo ra — nghèo khổ sẽ đến với người ấy.
\s5
\v 25 Người có lòng rộng rãi sẽ được hanh thông, còn ai trao nước cho người khác sẽ có nước cho chính mình.
\v 26 Dân sự rủa sã kẻ nào từ chối không bán lúa ra; nhưng các ơn lành đội trên đầu người nào bán lúa ra.
\s5
\v 27 Người nào cẩn thận tìm kiếm sự lành cũng tìm kiếm ân điển, nhưng người nào tìm kiếm điều ác sẽ gặp nó.
\v 28 Người nào tin cậy nơi sự giàu có mình sẽ sa ngã, nhưng giống như chiếc lá kia, người nào làm điều phải sẽ được sum suê.
\s5
\v 29 Người nào đem rắc rối cho nhà mình sẽ được gió làm cơ nghiệp, còn kẻ dại dột làm tôi tớ cho người có lòng khôn ngoan.
\s5
\v 30 Người nào làm phải thì giống như cây sự sống, nhưng bạo lực tước đi nhiều sinh mạng.
\v 31 Nếu người nào làm phải nhận lãnh điều họ đáng được, huống hồ gì kẻ ác và tội nhân!
\s5
\c 12
\p
\v 1 Hễ ai thích kỷ luật ưa tri thức, nhưng kẻ nào ghét sự quở trách là ngu dại.
\v 2 Đức Giê-hô-va ban ơn cho người nhơn đức, nhưng Ngài xét đoán người toan mưu ác.
\s5
\v 3 Một người không thể đứng vững do tánh gian ác, nhưng người nào làm phải không thể bị dứt bỏ.
\v 4 Người đàn bà nết na là mão triều thiên cho chồng nàng, còn vợ làm xấu hổ khác nào chứng mục trong xương cốt người.
\s5
\v 5 Mọi chương trình của người làm đều là công bình, nhưng mưu luận kẻ ác đều là giả dối.
\v 6 Các lời của kẻ ác rình rập chờ cơ hội để giết chóc, nhưng lời lẽ của người ngay thẳng giữ người được an toàn.
\s5
\v 7 Kẻ ác bị đánh đổ và hắn chẳng còn nữa, nhưng nhà của người chuyên làm phải sẽ đứng vững vàng.
\v 8 Một người được khen ngợi do có nhiều sự khôn sáng, nhưng kẻ đưa ra nhiều sự lựa chọn không tốt sẽ bị xem khinh.
\s5
\v 9 Thà có một địa vị không quan trọng — chỉ là tôi tớ — còn hơn khoe mình quan trọng mà lại thiếu ăn.
\v 10 Người nào làm phải quan tâm đến nhu cần của súc vật mình, nhưng dù là lòng thương xót của kẻ ác vẫn là hung bạo.
\s5
\v 11 Người nào cày đất mình sẽ có vật thực dư dật, nhưng ai theo đuổi các dự án vô giá trị đều thiếu trí hiểu.
\v 12 Kẻ hung ác ham muốn những thứ cướp đoạt của người khác, nhưng bông trái của người làm phải ra từ bản thân họ.
\s5
\v 13 Kẻ ác bị mắc kẹt bởi lối ăn nói gian tà, nhưng người làm phải thoát khỏi mọi rối rắm.
\v 14 Nhờ bông trái của lời lẽ mình, một người sẽ được no đầy những vật tốt, giống như công việc của tay người ban thưởng cho người.
\s5
\v 15 lối kẻ ngu muội vốn ngay thẳng theo mắt nó, nhưng người khôn ngoan lắng nghe lời khuyên dạy.
\v 16 Kẻ dại tỏ ra ngay cơn giận, nhưng người nào bất chấp sự sỉ nhục là khôn ngoan.
\s5
\v 17 Kẻ nào nói ra lẽ chơn thật đang nói ra điều phải, nhưng kẻ làm chứng gian đang nói ra những lời giả dối.
\v 18 Lời lẽ của một người ăn nói vô độ đâm như lưỡi gươm, nhưng lưỡi người khôn ngoan đem lại sự chữa lành.
\s5
\v 19 Môi miệng chân thật còn cho đến đời đời, nhưng cái lưỡi chuyên nói dối chỉ có trong một lúc mà thôi.
\v 20 Có sự dối gạt ở trong lòng kẻ nào toan làm điều ác, nhưng sự vui vẻ đến với hạng người mưu cầu sự hòa bình.
\s5
\v 21 Chẳng một điều xấu nào xảy đến cho người biết làm phải, nhưng kẻ ác sẽ gặp phải nhiều khó khăn.
\v 22 Giê-hô-va vốn ghét môi dối trá, nhưng người nào sống trung tín là sự vui thích của Ngài.
\s5
\v 23 Người khôn ngoan giấu tri thức mình, nhưng lòng kẻ ngu muội xưng ra sự điên dại mình.
\v 24 Tay người siêng năng sẽ cai trị, nhưng kẻ biếng nhác sẽ là đối tượng cho lao động bắt buộc.
\s5
\v 25 Sự lo sợ trong lòng người nhận người xuống, nhưng một lời lành khiến cho người vui vẻ.
\v 26 Người nào làm phải là hướng dẫn viên cho bạn hữu mình, nhưng đường lối kẻ ác làm cho họ phải sai lạc.
\s5
\v 27 Kẻ biếng nhác không nung nấu với trò chơi của mình, nhưng người siêng năng sẽ nhận được của cải quí báu.
\v 28 Người nào ăn ở trong đường đúng đắn tìm được sự sống, và trong con đường ấy chẳng có sự chết.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Con khôn ngoan nghe sự giáo huấn của cha, nhưng kẻ nhạo báng không nghe lời quở trách.
\v 2 Nhờ bông trái của miệng mình, một người thưởng thức nhiều vật tốt, nhưng thứ kẻ gian ác sẽ ăn lấy là bạo lực.
\s5
\v 3 Kẻ nào canh giữ môi miệng bảo tồn được mạng sống mình, nhưng kẻ nào hở môi quá làm bại hoại cho thân mình.
\v 4 Kẻ biếng nhác mong ước song chẳng nhận được chi hết, nhưng ước ao của người siêng năng sẽ được thoả mãn.
\s5
\v 5 Người nào làm phải ghét lời dối trá, nhưng kẻ ác tự làm cho mình ra gớm và người làm điều xấu hổ.
\v 6 Sự công bình bảo hộ người nào không vít trong đường lối của họ, nhưng sự gian ác xây sang kẻ nào phạm tội.
\s5
\v 7 Có kẻ làm bộ giàu, song chẳng có gì hết, nhưng có người làm bộ nghèo, lại là người thực sự giàu có.
\v 8 Một người giàu có phải chuộc mạng sống mình với của cải mình, nhưng kẻ nghèo khó chẳng hề tiếp lấy lời hăm dọa đó.
\s5
\v 9 Sự sáng của người làm phải được rực rỡ, nhưng đèn kẻ ác lại bị tắt đi.
\v 10 Kiêu ngạo chỉ sanh ra xung đột, nhưng đối với người nào chịu nghe theo lời khuyên dạy có sự khôn ngoan.
\s5
\v 11 Của cải hao bớt khi có quá nhiều sự kiêu căng, nhưng người nào kiếm tiền bằng việc tay mình làm sẽ được thêm nhiều tiền bạc.
\v 12 Khi sự trông cậy bị trì hoãn, nó làm tan nát lòng, nhưng khi sự ước ao được thành, thì giống như một cây sự sống.
\s5
\v 13 Kẻ nào khinh dễ sự giáo huấn vẫn sẽ là đối tượng cho nó, nhưng người nào tôn trọng sự dạy sẽ được ban thưởng.
\v 14 Sự dạy của người khôn ngoan là một nguồn sự sống, khiến người ta tránh khỏi bẫy sự chết.
\s5
\v 15 Sự sáng suốt kiếm được ân điển, nhưng đường kẻ phạm tội không có chỗ kết thúc.
\v 16 Người khôn ngoan cứ theo sự hiểu biết mà hành động, nhưng kẻ dại tỏ ra sự dốt nát của mình.
\s5
\v 17 Sứ giả gian ác sa vào tai họa, nhưng khâm sai trung tín đem lại sự phục hoà.
\v 18 Người nào bất chấp kỷ luật sẽ gặp phải nghèo khổ và xấu hổ, nhưng vinh dự sẽ đến với người nào tiếp thu từ sự quở trách.
\s5
\v 19 Ước ao được thành lấy làm êm dịu cho linh hồn, nhưng kẻ dại ghét không muốn lìa bỏ điều dữ.
\v 20 Đồng đi với người khôn ngoan thì trở nên khôn ngoan, nhưng làm bạn với bọn điên dại sẽ gánh lấy thiệt hại.
\s5
\v 21 Tai họa đuổi theo kẻ có tội, nhưng người nào làm phải được phần thưởng với phước lành.
\v 22 Người nhơn đức để gia sản cho con cháu mình, nhưng của cải kẻ có tội được chất chứa cho người chuyên làm phải.
\s5
\v 23 Một thửa ruộng không cày cấy do người nghèo làm chủ có thể sanh nhiều lương thực, nhưng nó có thể bị quét sạch do sự bất công.
\v 24 Người nào không kỷ luật con cái mình là ghét nó, nhưng ai thương con mình cần phải cẩn thận kỷ luật nó.
\s5
\v 25 Người nào làm phải ăn cho tới khi phỉ dạ mình, nhưng bao tử của kẻ ác luôn luôn bị đói.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Người nữ khôn ngoan xây cất nhà mình, nhưng người nữ dại dột lấy tay mình mà đập đổ nó.
\v 2 Người nào ăn ở cách ngay thẳng kính sợ Đức Giê-hô-va, nhưng kẻ nào ăn ở không thành thật trong đường lối Ngài khinh bỉ Ngài.
\s5
\v 3 Từ miệng kẻ dại ra cây roi đánh phạt sự kiêu ngạo nó, nhưng môi người khôn ngoan giữ gìn người.
\v 4 Đâu không có bò, đó máng cỏ trống không, nhưng hoa lợi dư dật do nơi sức bò đực mà ra.
\s5
\v 5 Người chứng trung thành không nói dối, nhưng kẻ làm chứng gian buông ra lời dối trá.
\v 6 Kẻ nhạo báng tìm kiếm sự khôn ngoan, song chẳng gặp, nhưng tri thức dễ đến với người nào biết phân biệt.
\s5
\v 7 Hãy dan xa khỏi kẻ dại dột, vì con sẽ chẳng tìm được sự khôn ngoan nơi môi miệng nó.
\v 8 Sự khôn khéo của người khôn ngoan là hiểu rõ chính đường lối mình, nhưng sự dại dột của kẻ ngu muội là sự phỉnh gạt.
\s5
\v 9 Kẻ ngu dại chế giễu khi của lễ chuộc tội được dâng lên, nhưng giữa vòng người ngay thẳng ơn phước được chia sẻ.
\v 10 Tấm lòng biết sự cay đắng của chính nó, và không một người ngoại nào chia vui với nó được.
\s5
\v 11 Nhà kẻ ác sẽ bị huỷ diệt, nhưng trại người ngay thẳng sẽ được hưng thạnh.
\v 12 Có một con đường coi dường chánh đáng cho con người, nhưng cứu cánh của nó dẫn đến sự chết.
\s5
\v 13 Tấm lòng có thể cười cợt song vẫn buồn thảm, và sự vui mừng sẽ kết thúc chỗ buồn thảm đó.
\v 14 Người nào sống không trung tín sẽ nhận lấy những điều xứng đáng với đường lối mình, nhưng người nhơn đức sẽ nhận lấy mọi điều thuộc về người.
\s5
\v 15 Người nào chưa được truyền dạy tin hết mọi điều, nhưng người khôn ngoan xem xét các bước mình.
\v 16 Người khôn ngoan e sợ và tránh khỏi điều ác, nhưng kẻ ngu muội gạt bỏ lời cảnh cáo.
\s5
\v 17 Người nào mau giận làm ra những việc dại dột, và kẻ nào toan mưu ác sẽ bị ghét.
\v 18 Kẻ không được dạy dỗ hưởng lấy sự dại dột, nhưng người khôn ngoan có tri thức bao quanh.
\s5
\v 19 Người nào sống gian ác sẽ sấp mình xuống trước mặt người nhơn đức, và người nào sống gian ác sẽ sấp mình xuống nơi cửa nhà người công bình.
\v 20 Người nghèo khó bị ghét bỏ bởi bạn hữu mình, nhưng người giàu có rất nhiều bạn bè.
\s5
\v 21 Người nào tỏ ra khinh khi kẻ lân cận mình là phạm tội, nhưng người nào tỏ ra lòng thương xót đối với kẻ nghèo có phước thay.
\v 22 Có phải kẻ chuyên mưu ác há chẳng lầm lạc sao? Những người nào muốn làm điều lành sẽ nhận được sự thành tín của giao ước và sự được tin cậy.
\s5
\v 23 Công việc khó nhọc nào cũng có ích lợi, nhưng chỉ có nói thôi, nó sẽ dẫn đến sự nghèo khó.
\v 24 Mão triều thiên của người khôn ngoan là sự giàu có của họ, nhưng sự dốt nát của kẻ dại chỉ là thêm sự điên cuồng.
\s5
\v 25 Một nhân chứng chân thật giải cứu nhiều sanh mạng, nhưng kẻ làm chứng dối thốt ra sự phỉnh gạt.
\s5
\v 26 Khi một người kính sợ Đức Giê-hô-va, người ấy đặt nhiều sự tin cậy nơi Ngài; những việc đó sẽ giống như một nơi bảo hộ cho con cái của người nầy.
\v 27 Sự kính sợ Đức Giê-hô-va vốn một nguồn sự sống, đặng khiến một người xây khỏi bẫy sự chết.
\s5
\v 28 Sự vinh hiển của một vị vua là số đông dân sự người, nhưng dân sự ít, nhà vua sẽ bị sụp đổ.
\v 29 Một người kiên nhẫn có sự thông sáng rất lớn, nhưng người mau nóng nảy tôn sự điên cuồng lên.
\s5
\v 30 Lòng bình tịnh là sự sống cho thân thể, nhưng sự ganh tỵ làm mục cho xương cốt.
\v 31 Người nào bức hiếp người nghèo làm nhục Đấng Tạo Hóa mình, nhưng ai tỏ ra ưu ái với người khốn cùng tôn vinh Ngài.
\s5
\v 32 Kẻ ác bị đánh hạ bởi mọi việc làm gian ác của mình, nhưng người công bình có nơi nương náu, ngay cả trong sự chết.
\v 33 Sự khôn ngoan ngự ở trong lòng người biết phân biệt, nhưng ở giữa vòng những kẻ dại lại lộ ra sự dại dột đó.
\s5
\v 34 Làm theo điều phải tôn cao một quốc gia, nhưng tội lỗi là sự hổ thẹn cho bất kỳ dân tộc nào.
\v 35 Sự ưu ái của nhà vua có cho tôi tớ nào ăn ở khôn khéo, nhưng cơn thạnh nộ của vua nổi nghịch cùng kẻ nào hành động cách xấu hổ.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Lời đáp dịu dàng làm cho cơn giận nguôi đi, nhưng lời xẳng xớm chọc giận thêm.
\v 2 Lưỡi của người khôn ngoan gợi ra tri thức, nhưng miệng kẻ ngu dại thốt ra điều điên cuồng.
\s5
\v 3 Con mắt của Đức Giê-hô-va nhìn khắp mọi nơi, xem xét kẻ ác và người lành.
\v 4 Lưỡi hiền lành giống như một cây sự sống, nhưng lưỡi gian tà làm cho hư nát tâm thần.
\s5
\v 5 Kẻ ngu dại coi thường kỷ luật của cha mình, nhưng người nào học tập từ sự chỉnh sửa là khôn ngoan.
\v 6 Trong nhà người nào làm phải, có của cải quí báu, nhưng huê lợi kẻ ác làm cho họ phải bối rối.
\s5
\v 7 Môi miệng người khôn ngoan rải tri thức ra, nhưng lòng kẻ ngu muội chẳng làm được vậy.
\v 8 Đức Giê-hô-va ghét sinh tế của kẻ ác, nhưng lời cầu nguyện của người ngay thẳng là sự vui thích của Ngài.
\s5
\v 9 Giê-hô-va ghét đường lối của kẻ ác, nhưng Ngài thương mến người nào theo đuổi điều chi là phải.
\v 10 Kỷ luật nặng nề dành cho kẻ bỏ đường ngay, và kẻ nào ghét sự chỉnh sửa sẽ chết.
\s5
\v 11 âm phủ và sự huỷ diệt còn mở ra trước mặt Đức Giê-hô-va, huống hồ gì tấm lòng của con cái loài người?
\v 12 Kẻ nhạo báng bực tức sự chỉnh sửa; hắn không muốn đến cùng người khôn ngoan.
\s5
\v 13 Lòng khoái lạc làm cho mặt mày vui vẻ, nhưng chứng nhức đầu đang chà nát tâm linh.
\v 14 Tấm lòng của người biết phân biệt tìm kiếm sự tri thức, nhưng cái miệng kẻ dại nuôi lấy mình bằng sự điên cuồng.
\s5
\v 15 Các ngày kẻ bị hoạn nạn đều rất nhọc nhằn, nhưng lòng vui mừng dự yến tiệc không dứt.
\v 16 Thà có ít của mà kính sợ Đức Giê-hô-va hơn là giàu có lớn gặp bối rối cặp theo.
\s5
\v 17 Thà một bữa rau ở chỗ có tình yêu thương hơn là ăn bò mập béo với sự ganh ghét cặp theo.
\v 18 Người hay giận tạo ra tranh cãi, nhưng người chậm giận làm cho tranh cãi phải thôi đi.
\s5
\v 19 Đường kẻ biếng nhác như một chỗ có hàng rào gai, nhưng nẻo người ngay thẳng là xa lộ thẳng tắp.
\v 20 Con khôn ngoan làm vui vẻ cho cha mình, nhưng đứa ngu muội làm cho mẹ mình bị xem khinh.
\s5
\v 21 Sự dại dột làm vui vẻ cho kẻ thiếu trí hiểu, nhưng người hiểu biết bước đi trong con đường ngay thẳng.
\v 22 Mọi toan tính rơi vào chỗ sai lầm khi chẳng có bàn bạc, nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành.
\s5
\v 23 Một người tìm gặp vui mừng khi người đưa ra lời đáp giỏi; lời nói phải thì lấy làm tốt biết bao!
\v 24 Con đường sự sống khiến người khôn ngoan luôn hướng thượng, để người tránh khỏi âm phủ ở bên dưới.
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va phá đổ di sản kẻ kiêu ngạo, nhưng Ngài bảo hộ tài sản của người góa bụa.
\v 26 Đức Giê-hô-va ghét tư tưởng của kẻ ác, nhưng lời lẽ của người tử tế đều là trong sạch.
\s5
\v 27 Kẻ trộm gây rối cho nhà mình, nhưng ai ghét của hối lộ sẽ được sống.
\v 28 Lòng người nào làm lành suy nghĩ trước khi đáp trả, nhưng miệng kẻ ác thốt ra sự ác của nó.
\s5
\v 29 Đức Giê-hô-va ở cách xa kẻ ác, nhưng Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của người làm điều phải.
\v 30 Sự sáng con mắt đem sự vui vẻ cho tấm lòng; và những tin tức tốt lành là sức khoẻ cho thân thể.
\s5
\v 31 Kẻ nào chú ý khi có người chỉnh sửa cách mình sống, sẽ được ở giữa hạng người khôn ngoan.
\v 32 Người nào từ chối kỷ luật xem khinh bản thân mình, nhưng người nào nghe lời quở trách kiếm được sự thông sáng.
\s5
\v 33 Sự kính sợ Đức Giê-hô-va dạy dỗ điều khôn ngoan, và sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Toan tính ở trong lòng thuộc về một người, nhưng sự đáp trả đến từ lưỡi của Đức Giê-hô-va.
\v 2 Mọi đường lối của người đều là trong sạch theo mắt mình, nhưng Đức Giê-hô-va cân nhắc cái lòng.
\s5
\v 3 Hãy phó thác mọi việc làm cho Đức Giê-hô-va, thì những toan tính mình sẽ được thành công.
\v 4 Đức Giê-hô-va đã dựng nên muôn vật để dùng cho mục đích của Ngài, ngay cả kẻ ác dành cho ngày tai họa.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va ghét người nào có lòng kiêu ngạo, dù có đoàn kết lại thì họ sẽ chẳng được khỏi bị phạt.
\v 6 Bởi sự thành tín với giao ước và sự đáng tin cậy tội lỗi mới được chuộc, và bởi sự kính sợ Đức Giê-hô-va người ta xây bỏ điều ác.
\s5
\v 7 Khi đường lối của một người đẹp lòng Đức Giê-hô-va, Ngài cũng khiến kẻ thù người ở hòa thuận với người.
\v 8 Thà ít của mà làm điều phải, hơn là thu nhập cao với sự bất công.
\s5
\v 9 Trong lòng của một người toan định đường lối mình, nhưng Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người.
\v 10 Lời Chúa trên môi miệng của một vị vua, trong sự xét đoán, miệng người không nói ra cách giả dối.
\s5
\v 11 Cây cân thật đến từ Đức Giê-hô-va; các trái cân trong bao là công việc của Ngài.
\v 12 Khi các vua làm điều gian ác, việc ấy bị xem khinh, ngôi nước được lập vững bền bởi việc làm theo điều phải.
\s5
\v 13 Một vị vua vui thích nơi môi miệng nói ra điều phải và người ưa kẻ nào nói thẳng.
\v 14 Cơn thạnh nộ của vua khác nào sứ giả sự chết nhưng người khôn ngoan sẽ tìm cách làm cho cơn giận người nguôi đi.
\s5
\v 15 Mặt vua sáng láng thì đấy là sự sống, và sự ưu ái của người khác nào đám mây đem lại cơn mưa vào mùa xuân.
\v 16 Thà là được sự khôn ngoan quí hơn vàng ròng. Cần phải chọn được sự thông sáng, đáng hơn bạc biết bao!
\s5
\v 17 Con đường của người ngay thẳng xây khỏi điều ác; người nào bảo hộ sự sống mình canh giữ đường lối mình.
\v 18 Sự kiêu ngạo đi trước sự huỷ diệt, và tánh tự cao đi trước sự sụp đổ
\s5
\v 19 Thà khiêm nhượng mà ở giữa người nghèo hơn là chia của cướp với kẻ kiêu ngạo.
\v 20 Ai giữ lấy điều họ được truyền dạy tìm được ích, và người nào tin cậy nơi Đức Giê-hô-va sẽ được phước.
\s5
\v 21 Người nào có sự khôn ngoan ở trong lòng được gọi là biết phân biệt, và sự dịu dàng trong lời nói trau dồi khả năng truyền đạt.
\v 22 Thông sáng là dòng sông sự sống cho người nào có nó, nhưng sự trừng phạt kẻ dại là sự dại dột của họ.
\s5
\v 23 Lòng người khôn ngoan cung ứng khẫu tài cho miệng mình và thêm sức thuyết phục cho môi miệng người.
\v 24 Lời lành giống như tàng ong — ngọt ngào cho linh hồn và chữa lành cho xương cốt.
\s5
\v 25 Có một con đường dường chánh đáng cho một người, song cứu cánh của nó là con đường dẫn đến sự chết.
\v 26 Sự thèm ăn của người lao động tác động người; sự đói khát thúc giục người phải chịu khổ.
\s5
\v 27 Một gã chẳng ra gì hết đào sâu thứ quỉ quái, và lời nói nó giống như ngọn lửa hừng.
\v 28 Kẻ gian tà tạo ra xung đột, và kẻ thèo lẻo làm chia rẽ bạn bè thân thiết.
\s5
\v 29 Kẻ hay bạo lực nói dối với bạn bè mình khiến người đi xuống con đường không được tốt.
\v 30 Kẻ nào nháy mắt toan việc gian tà; kẻ nào bặm môi mình đang muốn làm thành việc ác.
\s5
\v 31 Tóc bạc là chiếc mão vinh hiển; có được mão ấy do sống theo đường phải.
\v 32 Thà là chậm giận hơn là làm một chiến binh, và ai nắm chắc tinh thần mình thì mạnh hơn kẻ chiếm lấy thành.
\s5
\v 33 Có nhiều thăm trong vạt áo, nhưng quyết định ra từ Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Thà yên ắng với một miếng bánh khô hơn là nhà đầy tiệc tùng với sự tranh cạnh.
\v 2 Tôi tớ khôn ngoan sẽ quản trị con trai làm xấu hổ và được hưởng phần cơ nghiệp như một trong các anh em.
\s5
\v 3 Lò nung để luyện bạc và lò lửa để luyện vàng, nhưng Đức Giê-hô-va luyện lọc tấm lòng.
\v 4 Kẻ nào làm ác nghe theo người nói năng cách gian ác; kẻ nói dối chú ý nghe người nói ra những việc phỉnh gạt.
\s5
\v 5 Ai chế nhạo người nghèo sỉ nhục Đấng Tạo Hóa mình, và người nào lấy làm vui về tai họa sẽ chẳng thoát khỏi bị phạt.
\v 6 Con cháu là vương miện của người cao tuổi, và cha mẹ là vinh quang cho con cái của họ.
\s5
\v 7 Tài hùng biện không xứng với kẻ ngu; môi miệng dối trá chẳng xứng cho hoàng gia.
\v 8 Của hối lộ giống như viên ngọc quí cho người ban nó ra; dầu người xây trở phía nào, người thành công ngay.
\s5
\v 9 Kẻ nào bỏ qua sự xúc phạm tìm kiếm tình cảm, nhưng người nào lặp đi lặp lại một việc gây chia rẽ bạn bè thân thiết.
\v 10 Lời quở trách thấm sâu vào người nào có sự hiểu biết hơn là trăm roi đánh vào kẻ ngu dại.
\s5
\v 11 Kẻ gian ác chỉ tìm điều phản nghịch, vì vậy một sứ giả dữ tợn sẽ được sai đi nghịch cùng nó.
\v 12 Thà là gặp gấu cái bị cướp con nó hơn là gặp kẻ dại trong sự dốt nát nó.
\s5
\v 13 Khi ai đó lấy ác báo thiện, điều ác sẽ không hề lìa khỏi nhà nó.
\v 14 Khởi đầu tranh cạnh giống như người ta mở đường nước chảy, vậy đừng cãi lẫy nữa trước nó nổ ra.
\s5
\v 15 Người nào tha thứ cho kẻ ác hoặc xét đoán người làm phải, — cả hai người nầy đều gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va.
\v 16 Tại sao kẻ ngu muội trả tiền để học sự khôn ngoan, khi hắn chẳng có khả năng để tiếp thu sự ấy?
\s5
\v 17 Bạn hữu thương cảm mọi lúc mọi khi, và anh em sanh ra để giúp đỡ trong lúc hoạn nạn.
\v 18 Một người thiếu trí hiểu lập các lời hứa bắt buộc rồi chịu trách nhiệm các món nợ của kẻ lân cận mình.
\s5
\v 19 Hễ ai thích tranh cạnh ưa tội lỗi; người nào xây nền cửa mình quá cao khiến cho xương cốt phải gãy.
\v 20 Kẻ nào có lòng không thật thà chẳng tìm được điều gì là phước hạnh; người nào có lưỡi gian tà sẽ sa vào trong tai vạ.
\s5
\v 21 Hễ ai sanh con dốt nát đem lại buồn khổ cho bản thân mình; cha của kẻ dốt ấy chẳng được vui vẻ.
\v 22 Lòng vui mừng là một phương thuốc hay, song một tâm linh nao sờn làm khô héo xương cốt.
\s5
\v 23 Kẻ gian ác tiếp lấy của hối lộ để làm sai lệch các lối công bình.
\v 24 Người nào có sự hiểu biết chường mặt mình ra hướng tới sự khôn ngoan, nhưng con mắt kẻ ngu muội đặt ở các đầu cùng đất.
\s5
\v 25 Con ngu muội là một điều buồn rầu cho cha nó và sự cay đắng cho người đàn bà đã sanh ra nó.
\v 26 Chẳng có gì là hay cả khi phạt người làm điều phải; cũng chẳng tốt đẹp gì khi đánh người tước vị vì họ có lòng ngay thẳng.
\s5
\v 27 Người nào có tri thức sử dụng ít lời, và người nào có sự hiểu biết thì tỏ ra điềm đạm.
\v 28 Dầu người dại, được kể là khôn ngoan nếu người giữ im lặng; khi người ngậm miệng lại, người được kể là thông sáng.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Kẻ nào cô lập mình tìm kiếm sở thích riêng của mình, và nó hay tranh cãi với sự xét đoán chân thật.
\v 2 Kẻ ngu muội không lấy làm vui nơi sự hiểu biết, nhưng chỉ muốn tỏ ra điều có ở trong lòng nó.
\s5
\v 3 Khi kẻ ác đến, sự khinh bỉ cùng đến với nó — cùng với sự xấu hổ và sự quở trách.
\v 4 Lời lẽ trong miệng của một người giống như chỗ nước sâu; suối khôn ngoan là dòng nước đang tuôn chảy.
\s5
\v 5 Thật chẳng hay ho gì khi thiên vị kẻ ác, cũng chẳng hay ho gì khi chối bỏ sự công bình cho người làm điều phải.
\v 6 Môi kẻ dại đưa người vào cuộc tranh cạnh, và miệng nó mời mọc sự đánh đập.
\s5
\v 7 Miệng kẻ dại là sự bại hoại của nó, và nó gài bẫy bản thân nó với môi miệng của mình.
\v 8 Lời kẻ ngồi lê đôi mách vốn là vật thực ngon, và chúng thấu xuống đến các chi thể trong thân.
\s5
\v 9 Kẻ thả trôi trong công việc mình cũng là anh em của người nào phá hại nhiều nhất.
\v 10 Danh Đức Giê-hô-va là ngọn tháp kiên cố; người nào làm phải chạy vào trong đó và được an ninh.
\s5
\v 11 Của cải người giàu có là cái thành kiên cố của người, và trong suy tưởng của người, đó là một bức tường cao.
\v 12 Trước sự bại hoại, lòng người vẫn tự cao, nhưng sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng.
\s5
\v 13 Người nào trả lời trước khi nghe — ấy là sự điên dại và hổ thẹn của người.
\v 14 Tâm linh của một người sẽ làm cho cơn bịnh vơi đi, nhưng tâm linh đỗ vỡ ai có thể chịu được?
\s5
\v 15 Lòng người khôn khéo có được tri thức, và việc nghe của người khôn ngoan tìm kiếm tri thức đó.
\v 16 Quà tặng của một người nào mở lối đưa người đến trước mặt một nhân vật quan trọng.
\s5
\v 17 Người đứng bào chữa vụ việc mình nghe như đúng đắn cho đến khi đối tác người đến và tra hỏi người.
\v 18 Sự bắt thăm ổn định mọi tranh tụng và biệt những kẻ có quyền thế riêng ra.
\s5
\v 19 Một anh em bị mích lòng khó lấy lòng lại hơn là đánh chiếm một thành kiên cố, và sự tranh cãi dường ấy khác nào các chấn song của một cái ngục.
\v 20 Từ bông trái của cái miệng bụng người sẽ được no đầy; với hoa lợi của môi miệng mình, người được no nê.
\s5
\v 21 Sống và chết nằm ở nơi quyền của lưỡi, và người nào ưa thích nó sẽ ăn bông trái của nó.
\v 22 Người nào tìm được một người vợ tức là tìm được một việc tốt lành và lãnh lấy sự ưu ái đến từ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 23 Người nghèo nài xin sự thương xót, nhưng kẻ giàu đáp lại cách xẳng xớm.
\v 24 Người nào xưng mình có nhiều bạn bè bị họ làm hại cho, nhưng có một người bạn thân cận hơn anh em ruột.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Thà người nghèo khổ ăn ở thanh liêm hơn là kẻ có môi miệng gian tà và là một kẻ ngu dại.
\v 2 Chẳng hay ho gì khi mong muốn mà chẳng có tri thức, và kẻ nào chạy quá nhanh sẽ quên đường.
\s5
\v 3 Sự ngu dại của một người làm bại hoại đời sống mình, và lòng người cưu giận nghịch cùng Đức Giê-hô-va.
\v 4 Người giàu có kết nhiều bạn hữu, nhưng người nghèo bị tách ra khỏi bạn hữu mình.
\s5
\v 5 Kẻ làm chứng dối sẽ chẳng khỏi bị phạt, và kẻ buông điều giả dối không sao thoát khỏi được.
\v 6 Có nhiều kẻ tìm sự ưu ái nơi người có tánh rộng rãi, và mỗi người đều là bạn hữu của kẻ hay ban bố lễ vật.
\s5
\v 7 Hết thảy anh em ruột của kẻ nghèo đều ghét người; huống hồ chi bạn bè sẽ lìa xa khỏi người! Người gọi mời họ, song họ đã lánh đi khỏi rồi!
\v 8 Người nào có sự khôn ngoan yêu mến chính sự sống mình; người nào giữ lấy sự hiểu biết tìm được điều tốt lành.
\s5
\v 9 Kẻ làm chứng dối sẽ chẳng khỏi bị phạt, nhưng kẻ nào thốt ra sự dối trá sẽ bị hư mất.
\v 10 Chẳng thích hợp cho kẻ ngu dại sống trong xa hoa — huống chi kẻ nô lệ lên cai trị các vương tử!
\s5
\v 11 Sự khôn ngoan khiến cho một người chậm giận, và bỏ qua tội phạm ấy là sự vinh hiển của người.
\v 12 Cơn giận của vua giống như sư tử tơ gầm thét, nhưng sự ưu ái của người giống như sương móc sa xuống trên cỏ.
\s5
\v 13 Con trai ngu muội là bại hoại cho cha nó, và người vợ hay tranh cãi là một máng xối hằng chảy luôn.
\v 14 Nhà cửa và tài sản được hưởng từ cha mẹ, nhưng một người vợ khôn ngoan thì đến từ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Sự biếng nhác khiến cho một người rơi vào giấc ngủ mê, nhưng người không chịu lao động sẽ bị đói khát.
\v 16 Người nào vâng theo điều răn gìn giữ lấy sự sống của mình, nhưng kẻ nào không suy nghĩ về đường lối mình sẽ chết.
\s5
\v 17 Ai đối đãi tử tế với kẻ nghèo cho Đức Giê-hô-va mượn, và Ngài sẽ báo lại cho người về những gì người đã làm.
\v 18 Hãy kỷ luật con cái ngươi đang khi còn có hy vọng, và đừng ước ao muốn nó phải chết.
\s5
\v 19 Người có tánh nóng giận sẽ phải trả giá án phạt; nếu con giải cứu hắn, ắt con sẽ phải làm lại lần thứ nhì.
\v 20 Hãy nghe lời khuyên dạy và tiếp nhận sự giáo huấn, để con được khôn ngoan lúc cuối đời.
\s5
\v 21 Có nhiều việc trong lòng của một người, nhưng chính ý đồ của Đức Giê-hô-va mới được thành.
\v 22 Lòng trung thành là thứ một người ao ước, và người nghèo thì tốt hơn là kẻ nói dối.
\s5
\v 23 Sự tôn kính dành cho Đức Giê-hô-va dẫn người ta đến với sự sống; còn người nào có sự ấy sẽ được thỏa lòng và không bị tai vạ lâm đến.
\v 24 Kẻ biếng nhác thò tay mình vào dĩa; hắn sẽ không đưa nó lên miệng mình nữa.
\s5
\v 25 Nếu con đánh kẻ hay chế giễu, thì người không học vấn sẽ trở nên khôn khéo; hãy chỉnh sửa người biết phân biệt, thì người sẽ có được tri thức.
\s5
\v 26 Kẻ nào moi móc cha mình rồi xô đuổi mẹ mình là một đứa con đem lại sự xấu hổ và sỉ nhục.
\v 27 Nếu con thôi không nghe sự giáo huấn, con sẽ lầm lạc cách xa các lời tri thức.
\s5
\v 28 Kẻ làm chứng gian chế giễu sự công bình, và miệng kẻ ác nuốt lấy tội ác.
\v 29 Sự xét đoán sẵn có cho kẻ nhạo báng, và roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Rượu là kẻ nhạo báng và đồ uống say là kẻ hay tranh cãi; hễ ai loay hoay bởi rượu chẳng phải là khôn ngoan.
\v 2 Sự kinh sợ của nhà vua giống như sư tử tơ gầm hét; người nào chọc giận người sẽ nguy cho mạng sống mình.
\s5
\v 3 Người nào tránh sự tranh cạnh là đáng tôn trọng, nhưng chỉ kẻ điên cuồng mới nhảy vào đó thôi.
\v 4 Kẻ biếng nhác chẳng cày đất vào mùa thu; hắn kiếm cơm lúc mùa gặt nhưng chẳng được gì.
\s5
\v 5 Ý đồ ở trong một người giống như nước sâu, nhưng người thông sáng sẽ múc lấy nước tại đó.
\v 6 Phần nhiều người xưng mình là trung thành, nhưng ai sẽ tìm được người trung thành?
\s5
\v 7 Người nào làm điều phải ăn ở trong sự thanh liêm mình, và con cháu noi theo người lấy làm có phước thay!
\v 8 Một vị vua ngồi trên ngôi thì hành vai trò quan xét với mắt mình phân biệt mọi sự ác ở trước mặt mình.
\s5
\v 9 Ai dám nói: “Ta đã luyện sạch lòng mình; ta đã trong sạch tội ta rồi?
\v 10 Trái cân khác nhau, và thước đo không bằng nhau — Đức Giê-hô-va ghét cả hai.
\s5
\v 11 Người ta nhận ra một thanh niên theo hành vi, theo cách ứng xử của người là trong sạch hoặc chánh đáng.
\v 12 Tai để nghe và mắt để thấy — Đức Giê-hô-va đã dựng nên cả hai.
\s5
\v 13 Chớ ưa ngủ hoặc con sẽ trở nên nghèo khổ; hãy mở mắt con ra thì con sẽ có nhiều thứ để mà ăn.
\v 14 Kẻ mua nói rằng: “Không tốt, không tốt”, nhưng khi hắn đi hắn lại lên tiếng khoe.
\s5
\v 15 Có vàng và nhiều châu ngọc đắt tiền, nhưng môi miệng tri thức là bửu vật quí giá.
\v 16 Hãy cầm lấy áo hắn nếu chủ áo đó đặt tiền bảo lãnh nợ cho người lạ, và hãy cầm lấy áo đó nếu hắn bảo lãnh cho người đàn bà tà dâm.
\s5
\v 17 Bánh kiếm được nhờ dối gạt nếm thật ngọt ngào, nhưng kế sau miệng người sẽ đầy sạn.
\v 18 Ý đồ được lập nên do bàn bạc, và chỉ với sự dẫn dắt khôn ngoan con hãy tuyên chiến.
\s5
\v 19 Kẻ ngồi lê đôi mách tỏ ra điều kín đáo, và vì thế, con chớ hiệp với kẻ nào nói quá nhiều.
\v 20 Nếu một người rủa sã cha hay mẹ mình, đèn nó sẽ tắt ngúm đi giữa chỗ tăm tối.
\s5
\v 21 Sản nghiệp kiếm được nhanh chóng lúc ban đầu sẽ chẳng ích chi lúc sau cùng.
\v 22 Chớ nói: “Ta sẽ lấy ác trả ác”. Hãy chờ đợi Đức Giê-hô-va thì Ngài sẽ giải cứu con.
\s5
\v 23 Giê-hô-va ghét hai trái cân, và cây cân giả đúng là chẳng tốt gì cả.
\v 24 Các bước của một người được dẫn dắt bởi Đức Giê-hô-va; làm sao người hiểu được đường lối mình?
\s5
\v 25 Nói năng hấp tấp là cái bẫy cho một người: “Vật nầy là vật thánh”, rồi khởi sự suy nghĩ về vật ấy sau khi đưa ra lời thề.
\v 26 Một vị vua khôn ngoan xua kẻ ác đi, và người điều khiển xe đạp lúa cán lên chúng.
\s5
\v 27 Tâm linh của một người là ngọn đèn của Đức Giê-hô-va, nó dò thấu các nơi sâu kín nhất của lòng.
\v 28 Sự thành tín theo giao ước và sự đáng tin cậy giữ gìn nhà vua; ngôi của người được lập lên chắc chắn bởi sự nhân từ.
\s5
\v 29 Sự vinh hiển của người tuổi trẻ là sức lực của người, và sự tôn trọng của ông già là mái tóc bạc.
\v 30 Những cú đấm gây ra thương tích, rửa sạch đi điều ác, và sự đánh đập khiến cho các chi thể bên trong được sạch.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Lòng của vua là dòng nước ở trong tay Đức Giê-hô-va; Ngài điều khiển nó chảy vào chỗ nào Ngài muốn.
\v 2 Đường lối của mỗi người đều đúng trong mắt họ, nhưng chính Đức Giê-hô-va là Đấng cân nhắc cái lòng.
\s5
\v 3 Làm theo điều phải và công bình được Đức Giê-hô-va chấp nhận hơn là của tế lễ.
\v 4 Mắt cao ngạo và lòng kiêu căng — ngọn đèn của kẻ ác — đều là tội lỗi.
\s5
\v 5 Mọi việc làm của người siêng năng dẫn đến sự thịnh vượng, nhưng kẻ nào hành động quá nhanh chỉ dẫn đến sự nghèo khổ.
\v 6 Giàu có do cái lưỡi nói dối là thứ hơi nước phù du và là cái bẫy chết chóc.
\s5
\v 7 Tánh bạo lực của kẻ dữ sẽ đùa chúng nó đi, vì chúng từ chối không chịu làm theo điều phải.
\v 8 Con đường của kẻ hay phạm tội là quanh quẹo, nhưng người nào trong sạch làm theo điều phải.
\s5
\v 9 Thà ở nơi xó góc nhà còn hơn là ở trong một ngôi nhà chung với một người đàn bà hay tranh cạnh.
\v 10 Tánh kẻ dữ hướng vào điều ác; mắt nó chẳng chút tử tế gì với người lân cận nó.
\s5
\v 11 Khi kẻ nhạo báng bị phạt, người không có học vấn trở nên khôn ngoan, và khi người khôn ngoan được hướng dẫn, người thêm lên sự tri thức.
\v 12 Người nào làm theo điều phải quan sát nhà của kẻ ác; người thấy kẻ ác bị hư hoại.
\s5
\v 13 Người nào không khứng nghe tiếng kêu la của kẻ nghèo, khi người kêu la, chẳng có ai đáp lại.
\v 14 Quà cáp trao kín nhiệm làm nguôi cơn giận, và quà biếu kín đáo gạt bỏ cơn giận dữ tợn.
\s5
\v 15 Khi người ta làm điều công bình, nó đem lại sự vui vẻ cho người làm phải, nhưng nó đem sự kinh khiếp đến cho những kẻ làm ác.
\v 16 Người nào phiêu bạt xa khỏi con đường của sự hiểu biết, hắn sẽ yên nghỉ trong hội của kẻ chết.
\s5
\v 17 Ai ưa vui chơi ắt sẽ bị nghèo khó; người nào ưa rượu với dầu sẽ chẳng được giàu.
\v 18 Kẻ ác là giá chuộc cho người làm theo điều phải, và kẻ dối gạt là giá chuộc cho người ngay thẳng.
\s5
\v 19 Thà ở nơi vắng vẻ hơn là ở với một người đàn bà hay tranh cạnh và cứ than vãn mãi.
\v 20 Có bửu vật và dầu trong nhà của người khôn ngoan, nhưng kẻ ngu muội phung phí nó.
\s5
\v 21 Người nào biết làm phải và sống tử tế — người nầy sẽ tìm được sự sống, sự công bình, và sự tôn trọng.
\v 22 Người khôn ngoan đi lên nghịch cùng thành của kẻ mạnh sức, và người đánh hạ đồn luỹ che chở cho nó.
\s5
\v 23 Ai canh giữ miệng lưỡi mình, người giữ thân mình khỏi rối rắm.
\v 24 Kẻ kiêu ngạo và cao kỳ cư xử với sự kiêu ngạo và cao kỳ — “nhạo báng” là tên của hắn.
\s5
\v 25 Sự ước ao của kẻ biếng nhác giết nó chết, vì hai tay nó từ chối không chịu lao động.
\v 26 Có người suốt ngày càng ham muốn nhiều thứ, nhưng người nào làm phải cứ bố thí mà không cầm lại.
\s5
\v 27 Sinh tế của kẻ ác là một vật gớm ghiếc; còn gớm ghiếc hơn nữa khi hắn đem dâng sinh tế ấy với động lực gian ác.
\v 28 Kẻ làm chứng dối sẽ hư mất đi, nhưng người nào nghe theo sẽ nói suốt cả đời.
\s5
\v 29 Kẻ ác tự cho mình ra mạnh, nhưng người ngay thẳng cẩn thận về mọi hành động của mình.
\s5
\v 30 Chẳng có sự khôn ngoan nào, sự hiểu biết nào, hay mưu kế nào có thể đứng nghịch cùng Đức Giê-hô-va cho được.
\v 31 Ngựa sắm sửa về ngày chiến trận, nhưng chiến thắng thuộc về Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Thà chọn danh tiếng tốt còn hơn chọn giàu có lớn, và sự ưu ái quí hơn bạc và vàng.
\v 2 Kẻ giàu và người nghèo có điểm nầy chung — Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên cả hai.
\s5
\v 3 Người khôn ngoan thấy điều tai vạ, rồi ẩn mình, nhưng kẻ thiếu kinh nghiệm cứ đi tới rồi chịu khổ vì cớ nó.
\v 4 Phần thưởng của sự hạ mình và sự kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là sự giàu có, sự tôn trọng, và sự sống.
\s5
\v 5 Gai chông và bẫy rập nằm trên đường của kẻ ngoan cố; ai giữ lấy mạng sống mình sẽ tránh xa nó.
\v 6 Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, rồi khi nó trở về già sẽ không xây khỏi sự dạy đó.
\s5
\v 7 Người giàu cai trị trên kẻ nghèo, và kẻ đi mượn là tôi tớ của người cho mượn.
\v 8 Người nào gieo sự bất công sẽ gặt rắc rối, và cây roi thạnh nộ nó sẽ ra vô dụng.
\s5
\v 9 Người nào có con mắt từ bi sẽ được phước, vì người chia bánh mình cho kẻ nghèo.
\v 10 Hãy đuổi kẻ chế nhạo ra, thì tranh cạnh sẽ thôi; cãi cọ và sỉ nhục sẽ dứt.
\s5
\v 11 Người nào ưa thích tấm lòng thanh sạch và lời nói người giàu ơn, sẽ được vua làm bạn hữu mình.
\v 12 Mắt của Đức Giê-hô-va canh giữ người có tri thức, nhưng Ngài đánh đổ lời kẻ gian tà.
\s5
\v 13 Kẻ làm biếng nói: “Có sư tử ở ngoài đường! Tôi sẽ bị giết ở chỗ trống trải.
\v 14 Miệng của dâm phụ vốn là một cái hố sâu; cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ dấy lên nghịch cùng ai sa ngã vào đó.
\s5
\v 15 Sự dại dột bó quanh tấm lòng con trẻ, nhưng cây roi kỷ luật sẽ gỡ nó xa khỏi.
\v 16 Kẻ nào ức hiếp người nghèo sẽ thêm sự giàu có cho nó, hay nghèo khổ sẽ được dành cho người giàu.
\s5
\v 17 Hãy chú ý và lắng nghe lời lẽ của kẻ khôn ngoan, và áp dụng tri thức của ta cho tấm lòng của con.
\v 18 vì nếu con muốn được khen ngợi, hãy giữ nó trong lòng con, nếu hết thảy chúng sẵn sàng trên môi miệng con.
\v 19 Vậy, con hãy đặt sự tin cậy mình nơi Đức Giê-hô-va, ngày nay ta đã dạy chúng cho con — thậm chí dạy dỗ con.
\s5
\v 20 Phải chăng ta chẳng có chép cho con ba mươi câu dạy về tri thức và dặn dò sao,
\v 21 dạy cho con biết lẽ thật trong những lời đáng tin cậy nầy, đặng con có thể đưa ra những câu trả lời đúng đắn với những kẻ hay thắc mắc kia?
\s5
\v 22 Chớ tước đoạt kẻ nghèo, bởi vì họ nghèo, hay đừng hà hiếp người khốn khổ nơi cửa thành,
\v 23 vì Đức Giê-hô-va sẽ binh vực duyên cớ của họ, và Ngài sẽ tước lấy mạng sống của kẻ có cướp lột họ.
\s5
\v 24 Chớ làm bạn với người bị cơn giận cai trị, và con chớ qua lại với kẻ có tánh cường bạo,
\v 25 hoặc con sẽ học theo đường lối nó, và con sẽ bị sa vào bẫy dò chăng.
\s5
\v 26 Chớ hiệp cùng kẻ đưa ra lời thề về tiền bạc, hoặc đừng đưa ra lời bảo đảm các món nợ của người khác.
\v 27 Nếu con không có phương tiện để chi trả, điều gì ngăn ai đó đoạt lấy cái giường dưới lưng con chớ?
\s5
\v 28 Chớ dời đi các mộc giới cũ mà tổ phụ con đã dựng.
\v 29 Con có thấy người nào siêng năng trong công việc mình chăng? Người ấy hẳn sẽ đứng ở trước mặt các vua, chớ chẳng phải ở trước mặt dân thường đâu.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Khi con ngồi ăn bữa với một vị quan, hãy quan sát cẩn thận điều chi có ở trước mặt con,
\v 2 và hãy kề con dao nơi cổ họng con nếu con thích ăn nhiều thứ đồ ăn.
\v 3 Chớ thèm các món ngon của người, vì đó là đồ ăn của sự dối gạt.
\s5
\v 4 Con chớ chịu khổ quá đặng con được giàu có; hãy khôn ngoan đủ để nhìn biết lúc nào phải dừng lại.
\v 5 Khi mắt con chiếu theo tiền bạc, nó đi mất rồi, và thình lình nó chắp cánh rồi bay lên trên trời như chim ưng vậy.
\s5
\v 6 Chớ ăn thứ đồ ăn của kẻ gian ác — là kẻ nhìn chăm vào thức ăn của con — và thèm muốn thứ cao lương mỹ vị của hắn,
\v 7 vì hắn là loại người lượng tính cái giá của thức ăn. Hắn nói với con rằng: “Hãy ăn uống đi”, nhưng trong lòng hắn chẳng hiệp cùng con.
\v 8 Con sẽ mửa ra một chút thứ con đã ăn, và con sẽ phí mất những lời khen tặng của con.
\s5
\v 9 Chớ nói vào lỗ tai kẻ dại dột, vì nó sẽ khinh dể sự khôn ngoan trong lời nói của con.
\v 10 Chớ dời đi hòn đá xưa làm mộc giới hay vào trong đồng ruộng của kẻ mồ côi,
\v 11 vì Đấng cứu chuộc của họ vốn mạnh sức, và Ngài sẽ binh vực duyên cớ của họ nghịch cùng con.
\s5
\v 12 Hãy áp dụng sự khuyên dạy vào tấm lòng con và tai con hãy lắng nghe lời lẽ có tri thức.
\s5
\v 13 Chớ cầm sự sửa phạt đối với trẻ thơ, vì nếu con đánh nó bằng roi, nó chẳng chết đâu.
\v 14 Nếu con đánh nó bằng roi, con sẽ giải cứu linh hồn nó khỏi âm phủ.
\s5
\v 15 Con ơi, nếu lòng con khôn ngoan, thì lòng ta cũng sẽ được vui mừng;
\v 16 lòng ta sẽ hớn hở khi môi miệng con thốt ra điều chi là ngay thẳng.
\s5
\v 17 Chớ để lòng con ganh tỵ với hạng tội nhân, nhưng cả ngày hãy kính sợ Đức Giê-hô-va.
\v 18 Vì chắc chắn có một tương lai và sự trông cậy của con sẽ chẳng luống công đâu.
\s5
\v 19 Con ơi, hãy lắng nghe và sống khôn ngoan, hãy hướng lòng con vào đấy.
\v 20 Chớ hiệp với những kẻ say xỉn, hoặc với những kẻ ham ăn thịt,
\v 21 vì kẻ say xỉn và ham ăn sẽ trở nên nghèo, và kẻ ham ngủ sẽ quấn mình bằng giẻ rách.
\s5
\v 22 Hãy nghe lời cha đã sanh ra con và chớ coi thường mẹ con khi người trở nên già yếu.
\v 23 Hãy mua lẽ thật, đừng bán nó đi; hãy mua sự khôn ngoan, kỷ luật, và sự thông sáng.
\s5
\v 24 Cha của người làm theo điều phải sẽ có sự vui vẻ lớn, và người nào sanh con khôn ngoan sẽ khoái lạc nơi nó.
\v 25 Nguyện cha mẹ của con được hớn hở và nguyện người đã sanh ra con được vui vẻ.
\s5
\v 26 Con ơi, hãy dâng lòng con cho cha, và nguyện mắt con luôn theo đuổi đường lối của cha.
\v 27 Vì gái điếm là một cái hố sâu, và vợ của người khác là một cái hầm hẹp.
\v 28 Nàng rình đợi như kẻ trộm, và nàng gia thêm số kẻ phản bội giữa vòng loài người.
\s5
\v 29 Ai bị sự khốn khổ? Ai phải buồn thảm? Ai có sự tranh cạnh? Ai than xiết? Ai bị thương tích vô cớ? Ai có con mắt đỏ?
\v 30 Người nào bám lấy chai rượu, những kẻ nếm thứ rượu pha.
\s5
\v 31 Chớ xem ngó rượu khi nó đỏ hồng, lúc nó chiếu sao trong ly, và tuôn chảy dễ dàng.
\v 32 Đến cuối cùng, nó cắn như rắn, chích như rắn lục.
\v 33 Hai mắt con sẽ nhìn những vật lạ, và lòng con sẽ nói điều gian tà.
\s5
\v 34 Con sẽ như người nằm giữa đáy biển hoặc nằm trên chót cột buồm vậy.
\v 35 Con sẽ nói rằng: “Họ đánh tôi, nhưng tôi không đau. Họ đập tôi, nhưng tôi không cảm nhận được gì hết. Khi tôi tỉnh dậy, tôi sẽ tìm uống thứ khác”.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Chớ ganh ghét kẻ làm ác cũng đừng ước ao hiệp cùng chúng nó,
\v 2 vì lòng chúng nó toan sự bạo lực, và môi miệng chúng nói ra điều rối rắm.
\s5
\v 3 Nhờ sự khôn ngoan, cửa nhà được xây cất nên và do hiểu biết nhà ấy được vững bền.
\v 4 Nhờ sự tri thức, phòng ốc đầy ắp các thứ tài vật quí báu và đẹp đẽ.
\s5
\v 5 Người khôn ngoan có sức mạnh, và người nào hiểu biết thì tốt hơn người có sức mạnh.
\v 6 vì nhờ mưu khôn ngoan con mới lượng được chiến trận, và với nhiều mưu sĩ thì mới có chiến thắng.
\s5
\v 7 Sự khôn ngoan quá cao đối với kẻ dại; nơi cửa thành nó không dám mở miệng mình ra.
\s5
\v 8 Có kẻ toan làm điều ác — người ta sẽ gọi hắn là kẻ sắp xếp bậc thầy.
\v 9 Toan tính của kẻ dại là tội lỗi, và người ta xem khinh kẻ hay chế giễu.
\s5
\v 10 Nếu con ngã lòng trong ngày hoạn nạn, thế thì sức lực con nhỏ mọn thay.
\s5
\v 11 Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết, và chớ níu lại kẻ đi xiêu tó tới chỗ khổ hình.
\v 12 Nếu con nói: “Chúng tôi chẳng biết gì về việc nầy”. Có phải Đấng chuyên cân nhắc tấm lòng hiết biết con đang nói điều gì sao? Và Đấng gìn giữ sanh mạng con, có phải Ngài không biết đến nó sao? Và có phải Ngài sẽ chẳng báo cho mỗi người những gì họ đáng được sao?
\s5
\v 13 Con ơi, hãy ăn mật, vì nó ngon lành, vì tàng ong lấy làm ngọt ngào cho miệng con.
\v 14 Đấy là sự khôn ngoan cho linh hồn con — nếu con tìm được nó, sẽ có một tương lai và sự trông cậy của con sẽ chẳng hề luống công đâu.
\s5
\v 15 Đừng có nằm đó mà đợi giống như kẻ ác tấn công nhà của người làm theo điều phải. Đừng huỷ diệt nhà người ấy.
\v 16 Vì người công bình dầu sa ngã bảy lần, người cũng chổi dậy, nhưng kẻ hung ác bị tai vạ đánh đổ.
\s5
\v 17 khoái chí khi kẻ thù con sa ngã, và nguyện lòng con chớ vui mừng khi nó vấp ngã,
\v 18 kẻo e Đức Giê-hô-va nhìn thấy và chẳng đẹp lòng rồi cất cơn thạnh nộ Ngài ra khỏi nó.
\s5
\v 19 Chớ lo lắng vì cớ kẻ làm ác, và đừng ganh tỵ với nó,
\v 20 vì kẻ làm ác sẽ chẳng có tương lai chi hết, và ngọn đèn kẻ dữ sẽ tắt đi.
\s5
\v 21 Con ơi, hãy kính sợ Đức Giê-hô-va và tôn kính vua; chớ hiệp cùng kẻ nào phản nghịch với họ,
\v 22 vì tai họa của chúng xảy đến thình lình và ai biết phạm vi sự huỷ diệt sẽ xảy đến cho cả hai kẻ ấy?
\s5
\v 23 Đây cũng là lời lẽ của người khôn ngoan: Thiên vị trong sự xét đoán một vụ án chẳng phải tốt lành.
\s5
\v 24 Ai nói với kẻ ác rằng: “Ngươi làm phải”, sẽ bị dân sự rủa sả, và các nước lấy làm gớm ghiếc.
\v 25 Còn người nào quở trách kẻ ác ắt sẽ được sự vui thích, và nhiều ơn phước sẽ giáng trên họ.
\s5
\v 26 Người nào đưa ra câu trả lời thành thật cung ứng nụ hôn nơi môi miệng vậy.
\v 27 Hãy sửa soạn công việc ở ngoài của con, và sắm sẵn cho mình trong đồng ruộng của con; sau đó hãy cất nhà của con.
\s5
\v 28 Chớ làm chứng vô cớ nghịch kẻ lân cận, và chớ dùng môi miệng mình mà nói dối.
\v 29 Chớ nói: “Tôi sẽ làm cho hắn những gì hắn đã làm cho tôi; tôi sẽ báo người tùy việc người đã làm”.
\s5
\v 30 Ta có đi ngang qua gần ruộng kẻ biếng nhác, ngang qua gần vườn nho của kẻ thiếu trí hiểu.
\v 31 Gai góc mọc lên khắp chỗ, cỏ khô che khuất mặt đất, và tường đá của nó bị phá hư rồi.
\s5
\v 32 Khi ấy, ta thấy rồi xem xét nó; ta thấy và nhận được sự dạy dỗ.
\v 33 Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay ngủ một chút, —
\v 34 thì sự nghèo khổ đến trên con như kẻ trộm, và mọi nhu cần của con sẽ áp tới như một kẻ cầm binh khí.
\s5
\c 25
\p
\v 1 cũng là châm ngôn của Sa-lô-môn, người của Ê-xê-chia, vua Giu-đa sao chép.
\v 2 Chính sự vinh hiển của Đức Chúa Trời khi che giấu một việc nào đó, nhưng tìm tòi việc ấy là vinh quang của các vị vua.
\v 3 Giống như các từng trời thì thật cao và đất thì thật thấp, người ta không thể dò được tấm lòng của các vị vua.
\s5
\v 4 Hãy tách cáu cặn khỏi bạc, và thợ bạc có thể sử dụng bạc ấy tạo ra đồ đáng dùng.
\v 5 Cũng một thể ấy, hãy dẹp bỏ kẻ ác ra khỏi sự hiện diện của nhà vua, và ngôi người sẽ được lập bền vững do làm theo điều phải.
\s5
\v 6 Chớ tự cao trong sự hiện diện của nhà vua, và chớ đứng ngay chỗ dành cho hạng người cao trọng.
\s5
\v 7 Vì thà người ta nói cùng con rằng: “Hãy lên đây”, hơn là con bị hạ xuống trong sự hiện diện của một nhà quí tộc. Là điều con đã chứng kiến.
\v 8 Chớ vội đưa ra toà. Vì rốt cuộc con sẽ làm gì, khi kẻ lân cận con khiến con phải xấu hổ?
\s5
\v 9 Hãy bàn bạc trường hợp của con giữa con và kẻ lân cận, song chớ tỏ ra sự kín đáo của kẻ khác,
\v 10 hoặc khi có ai nghe con nói sẽ khiến con phải xấu hổ và một báo cáo xấu về con không thể im bặt được.
\s5
\v 11 Thốt ra lời lẽ đã được chọn lọc, khác nào khuôn vàng có cẩn bạc.
\v 12 Giống như chiếc nhẫn hay đồ trang sức được làm bằng vàng ròng là một lời quở trách khôn ngoan cho lỗ tai biết lắng nghe.
\s5
\v 13 Giống như tuyết giá lạnh vào lúc mùa gặt là một sứ giả trung tín cho người sai đi; người lo làm ích cho chủ mình.
\v 14 Giống như các đám mây và gió mà không có mưa là kẻ khoe khoang về ân tứ mà mình không ban ra được.
\s5
\v 15 Với sự kiên nhẫn có thể khuyên dỗ một vị quan trưởng, và cái lưỡi mềm dịu có thể bẻ gãy xương cốt.
\s5
\v 16 Nếu con tìm được mật, hãy ăn vừa phải — nếu không, sau khi ăn mật quá nhiều, con mửa nó ra.
\v 17 Chớ thường xuyên tra chân con vào nhà kẻ lân cận, người sẽ lấy làm mệt vì con, rồi đâm ghét con chăng.
\s5
\v 18 Một người làm chứng dối nghịch cùng kẻ lân cận mình thì khác nào một cái dùi cui, hay gươm, hoặc mũi tên nhọn dùng trong chiến trận.
\v 19 Một kẻ bất trung mà con tin cậy trong thời hoạn nạn thì giống như cái răng hư hay cái chân bị trặt.
\s5
\v 20 Giống như người nào lột áo mình ra khi trời lạnh, hoặc giống như giấm đổ trên diêm tiêu là kẻ hát lên những bài ca cho tấm lòng nặng nề nghe vậy.
\s5
\v 21 v 21 Nếu kẻ thù con có đói, hãy cho nó ăn, và nếu hắn có khát, hãy cho hắn uống,
\v 22 vì con sẽ chất than cháy đỏ trên đầu hắn, và Đức Giê-hô-va sẽ thưởng cho con.
\s5
\v 23 Gió bắc chắc chắn đem mưa đến, người nào nói ra điều kín nhiệm tạo nét giận dữ trên nhiều khuôn mặt.
\v 24 Thà là sống trong xó nóc nhà hơn là ở chung nhà với người đàn bà hay tranh cạnh.
\s5
\v 25 Giống như nước lạnh cho kẻ nào khát, cũng một thể ấy, tin lành đến từ xứ xa.
\v 26 Giống như dòng suối có nhiều rong rêu hay nước sông bị đục là người nhơn đức chao đảo trước mặt kẻ ác.
\s5
\v 27 Chẳng tốt lành chi khi ăn quá nhiều mật; giống như tìm kiếm hết vinh quang nầy đến vinh quang khác.
\v 28 Một người không kiểm soát mình được giống như một cái thành có những bức tường hư lũng không có chỗ kín vậy.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Giống như tuyết rơi vào mùa hè hay mưa trong lúc mùa gặt, cũng vậy, sự vinh hiển không xứng cho kẻ ngu muội
\v 2 Giống như chim sẻ bay liệng và chim én lượn lờ khi chúng bay, cũng một thể ấy lời rủa sả vô cớ chẳng hề xảy đến bao giờ.
\s5
\v 3 Cây roi dùng cho ngựa, hàm thiết dùng cho lừa, và roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.
\v 4 Chớ đáp lời với kẻ dại và chớ hiệp vào sự ngu dại nó, hoặc con sẽ trở nên giống như nó.
\s5
\v 5 Hãy đáp trả kẻ dại rồi hiệp vào sự ngu dại nó, thế là nó sẽ không được khôn ngoan theo mắt nó.
\v 6 Kẻ nào gửi sứ điệp do tay kẻ dại chặt chính chân mình và uống lấy bạo lực.
\s5
\v 7 Hai chân người bị tê liệt đòng đưa vô đụng giống như câu châm ngôn ở trong miệng kẻ dại.
\v 8 Buộc hòn đá vào cái trành thì y như trao vinh dự cho kẻ dại.
\s5
\v 9 Cái gai đâm vào tay kẻ say xỉn thì giống như câu châm ngôn trong miệng kẻ dại.
\v 10 Một cung thủ gây thương tích cho mọi người thì giống như người thuê kẻ dại hay khách qua đường.
\s5
\v 11 Giống như con chó mửa ra rồi liếm lại, cũng vậy kẻ dại làm lại việc ngu dại mình.
\v 12 Có phải con thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho người ấy.
\s5
\v 13 Kẻ biếng nhác nói: “Có con sư tử ở ngoài đường! Có con sư tử ở giữa nơi khoảng khoát! ”
\v 14 Giống như cánh cửa xoay quanh bản lề, cũng vậy kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình.
\s5
\v 15 Kẻ biếng nhác thò tay mình vào trong dĩa, dù vậy hắn chẳng có chút sức lực gì để nhấc đưa bánh lên miệng mình.
\v 16 Kẻ biếng nhác là người khôn ngoan trong mắt mình hơn bảy người biết phân biệt.
\s5
\v 17 Giống như người nào nắm lấy tai con chó, khác nào kẻ qua đường nổi giận về cuộc cãi lẫy không can đến mình.
\s5
\v 18 Giống như kẻ dại chuyên bắn tên lửa,
\v 19 là kẻ nói dối với người lân cận mình như sau: “Có phải tôi không nói đùa sao?"
\s5
\v 20 Vì thiếu củi nên lửa tắt, rồi ở chỗ nào chẳng có kẻ thèo lẻo nào hết, cuộc tranh cạnh bèn nguôi.
\v 21 Giống như than mồi cho than đỏ lên và củi để chụm lửa, cũng vậy đối với kẻ hay tranh cạnh nhen lên sự tranh cạnh.
\s5
\v 22 Lời lẽ của kẻ thèo lẻo giống như vật thực ngon; chúng xuống đến các chi thể tận cùng của thân.
\v 23 Môi miệng sôi sụt và tấm lòng độc ác, khác nào bình gốm bọc vàng bạc pha.
\s5
\v 24 Kẻ nào ghen ghét người ta, môi miệng nó tỏ ra cảm xúc giả trá, và sự dối gạt chất chứa trong người nó.
\v 25 Người nào nói năng ngọt ngào, đừng tin hắn, vì có bảy sự gớm ghiếc ở trong lòng hắn.
\v 26 Dầu sự thù hận của hắn được che đậy với sự giả trá, sự gian ác hắn sẽ bị lộ ra nơi chỗ đông người.
\s5
\v 27 Ai đào hầm sẽ lọt xuống đó, và hòn đá sẽ trở đè lên kẻ đã xô nó.
\v 28 Lưỡi giả dối ghét những kẻ nó đã chà nát, và cái miệng dua nịnh gây ra bại hoại.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Chớ khoe khoang về ngày mai, vì con chẳng biết ngày mai sẽ đưa đến việc gì.
\v 2 Hãy để cho người khác khen ngợi con, chớ chẳng phải chính miệng con; người lạ chớ không phải chính môi con.
\s5
\v 3 Đá thì nặng, cát cũng nặng; Nhưng cơn tức giận của kẻ ngu dại còn nặng hơn cả hai.
\v 4 Có sự tàn nhẫn khi giận dữ, và cơn lũ thạnh nộ, nhưng ai có thể đứng nổi trước sự ghen ghét?
\s5
\v 5 Thà là quở trách công khai hơn là thương yêu giấu kín.
\v 6 Bạn hữu gây thương tích cho là do lòng trung thành, nhưng kẻ thù có thể hôn bạn cách thừa thãi.
\s5
\v 7 Một người ăn no nê thậm chí chối bỏ cả mật ong, nhưng đối với kẻ đói khát ngay cả đắng cũng trở làm ngọt.
\v 8 Chim bay từ tổ nó đến chỗ nầy chỗ kia thì giống như kẻ lưu lạc xa cách nơi ở của mình vậy.
\s5
\v 9 Dầu và thuốc thơm làm cho lòng vui mừng, nhưng sự êm dịu của người bạn thì tốt hơn lời khuyên của người.
\v 10 Chớ lìa bạn mình, hay là bạn của cha mình, và chớ đi đến nhà anh em mình trong ngày tai vạ: Một người xóm giềng gần còn hơn anh em đang ở xa.
\s5
\v 11 Con ơi, hãy khôn ngoan, và làm cho lòng cha được vui vẻ, khi ấy cha có thế đáp lại cùng kẻ nào chế nhạo cha.
\v 12 Người khôn nhìn thấy rắc rối và lo ẩn mình, nhưng người thiếu kinh nghiệm cứ đi tới và chịu khổ vì cớ nó.
\s5
\v 13 Hãy cầm cái áo nếu chủ nó bảo lãnh cho kẻ lạ; và hãy cầm lấy cái áo đó nếu người bảo lãnh cho dâm phụ.
\v 14 Hễ ai dậy sớm trao cho kẻ lân cận mình ơn phước với giọng nói lớn tiếng, ơn phước ấy sẽ bị xem là một sự rủa sả.
\s5
\v 15 Một người vợ hay tranh cạnh giống như cái máng xối dột luôn trong ngày mưa lớn.
\v 16 Kềm chế nàng giống như kềm chế gió, giống như tìm cách nắm lấy dầu trong tay hữu mình vậy.
\s5
\v 17 Sắt mài nhọn sắt; cũng một thể ấy, một người lo trau dồi bạn hữu mình.
\v 18 Ai săn sóc cây vả sẽ ăn trái nó, và người nào lo bảo hộ chủ mình ắt sẽ được tôn trọng.
\s5
\v 19 Giống như nước phản ảnh mặt của một người, cũng vậy, tấm lòng của một người phản ảnh con người.
\v 20 Giống như âm phủ và vực sâu không hề đầy, cũng vậy, mắt của con người không hề thấy thoả mãn.
\s5
\v 21 Cái lò để thử bạc và cái nồi dót để thử vàng, và người ta bị thử khi họ được khen ngợi.
\v 22 Dầu con dùng chày giã kẻ ngu dại — chung với gạo — thì sự điên dại nó sẽ không lìa khỏi nó.
\s5
\v 23 Con phải biết chắc tình trạng bầy của con, và phải quan tâm đến gia súc của con,
\v 24 vì sự giàu có không còn mãi được. Có phải chiếc vương miện còn đến đời đời không?
\v 25 Cỏ già cổi đi thì cỏ mới mọc ra và người ta thâu thập cỏ cho gia súc ở trên núi.
\s5
\v 26 Chiên con sẽ cung ứng y phục cho con, và bầy dê sẽ cung ứng giá của đồng ruộng.
\v 27 Sẽ có sữa dê dùng làm đồ ăn cho con — đồ ăn cho người nhà con — và thực phẩm cho các tớ gái của con.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Kẻ ác chạy trốn khi chẳng có ai truy đuổi, nhưng người nào làm phải có can đảm như sư tử tơ.
\v 2 Vì có sự quá phạm trong xứ nên có nhiều vua chúa, nhưng với một người thông sáng và hiểu biết, xứ sẽ được lâu dài.
\s5
\v 3 Người nghèo nầy ức hiếp người nghèo khác thì giống như trận mưa chẳng để lại chút đồ ăn nào cả.
\v 4 Người nào bỏ luật pháp ngợi khen kẻ ác, nhưng người giữ theo luật pháp chiến đấu chống lại chúng.
\s5
\v 5 Kẻ ác chẳng hiểu sự công bình, nhưng ai tìm cầu Đức Giê-hô-va hiểu biết mọi sự.
\v 6 Thật lấy làm tốt cho người nghèo bước đi cách ngay thẳng, còn hơn là kẻ giàu có theo đường tà vậy.
\s5
\v 7 Người nào giữ theo luật pháp là đứa con có sự hiểu biết, nhưng kẻ nào làm bạn với thứ hoang đàng làm xấu hổ cho cha nó.
\v 8 Kẻ nào phát đạt bằng cách ăn lời quá mức đang tóm thâu của cải mình dành cho người khác, là người có lòng thương xót kẻ nghèo khổ.
\s5
\v 9 Nếu một người xây tai mình đi không khứng nghe theo luật pháp, ngay cả lời cầu nguyện của người cũng là một sự gớm ghiếc.
\v 10 Hễ ai làm cho người ngay thẳng lạc vào đường xấu, chính kẻ đó sẽ sa vào hố mình đã đào, nhưng người không tì vít sẽ có một cơ nghiệp tốt lành.
\s5
\v 11 Người giàu có mắt xem mình là khôn ngoan, nhưng kẻ nghèo là kẻ có sự hiểu biết sẽ tìm gặp người.
\v 12 Khi có sự thắng hơn cho người làm theo điều phải, có sự vinh hiển lớn, nhưng khi kẻ ác dấy lên, dân sự đi ẩn mình.
\s5
\v 13 Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được thịnh vượng, nhưng ai xưng chúng ra rồi lìa bỏ nó sẽ được thương xót.
\v 14 Phước cho người nào luôn luôn sống với sự kỉnh kiền, nhưng hễ ai cứng lòng mình sẽ sa vào rối rắm.
\s5
\v 15 Giống như sư tử đang gầm rống hay gấu đang giận dữ là một vị gian ác cai trị trên dân nghèo.
\v 16 Quan trưởng nào thiếu trí hiểu là kẻ áp bức nghiệt ngã, nhưng người nào ghét sự bất lương sẽ được trường thọ.
\s5
\v 17 Nếu một người phạm tội vì làm đổ huyết ai đó, người ấy sẽ đào tẩu cho đến chết, và không có ai vùa giúp nó!
\v 18 Hễ ai ăn ở cách ngay thẳng sẽ được giữ an toàn, nhưng người nào có đường lối mình cong vạy sẽ thình lình sa ngã.
\s5
\v 19 Người nào cày ruộng mình sẽ có nhiều bánh, nhưng kẻ nào theo đuổi điều vô giá trị sẽ bị nghèo thiếu nhiều.
\v 20 Một người trung thành sẽ có nhiều phước lớn, nhưng kẻ nào vội làm cho giàu ắt sẽ chẳng khỏi bị phạt.
\s5
\v 21 Thật lấy làm không tốt khi thiên vị, nhưng vì một miếng bánh, người sẽ phạm sai lầm.
\v 22 Kẻ keo kiệt vội chạy theo giàu có, nhưng người chẳng biết rằng sự nghèo khó sẽ giáng trên mình nó.
\s5
\v 23 Ai quở trách người nào rồi về sau tìm được nhiều ơn từ người ấy hơn từ kẻ nịnh mình bằng lưỡi của hắn.
\v 24 Kẻ nào ăn cắp của cha hay mẹ mình rồi nói: “Có tội tình gì đâu”, kẻ ấy đồng bạn với kẻ hay huỷ diệt.
\s5
\v 25 Một kẻ tham lam khuấy động sự tranh cạnh, nhưng người nào tin cậy Đức Giê-hô-va sẽ được hanh thông.
\v 26 Người nào tin cậy chính lòng mình là kẻ dại dột, nhưng ai ăn ở trong sự khôn ngoan sẽ tránh được hiểm nguy.
\s5
\v 27 Ai bố thí cho người nghèo sẽ chẳng thiếu thốn gì, nhưng ai khép mắt mình lại đối với họ sẽ nhận lãnh nhiều sự rủa sả.
\v 28 Khi kẻ ác dấy lên, người ta đều ẩn mình, nhưng khi kẻ ác hư mất đi, người làm theo điều phải sẽ thêm nhiều lên.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Người nào nhận lãnh nhiều quở trách lại cứng cổ mình, sẽ bị gãy cổ trong phút chốc không phương cứu chữa.
\v 2 Khi người làm theo điều phải thêm nhiều lên, thì dân sự vui mừng, nhưng khi kẻ ác ngồi cai trị, dân sự rên siết.
\s5
\v 3 Người ưa mến sự khôn ngoan làm vui vẻ cho cha mình, nhưng kẻ nào bạn bè với gái điếm phá tan của cải mình.
\v 4 Vua nhờ sự công bình làm cho nước vững bền, nhưng kẻ nào đòi hối lộ làm băng hoại xứ.
\s5
\v 5 Người nào nịnh bợ kẻ lân cận mình đang giăng lưới cho chơn mình.
\v 6 Kẻ ác có cái bẫy bởi tội lỗi của hắn, nhưng người làm phải ca hát vui mừng.
\s5
\v 7 Người nào làm theo điều phải xét duyên cớ của kẻ nghèo; kẻ ác không hiểu biết được như thế.
\v 8 Kẻ nhạo báng lo châm lửa đốt thành, nhưng người nào khôn ngoan bỏ cơn giận đi.
\s5
\v 9 Khi một người khôn ngoan có tranh luận với kẻ dại dột, người giận rồi cười, và chẳng thấy yên tâm được.
\v 10 Kẻ làm đổ huyết ghét người nào sống không tì vít và tìm kiếm mạng sống của người ngay thẳng.
\s5
\v 11 Kẻ dại dột tỏ ra cơn giận mình, nhưng người khôn ngoan cầm giữ nó và nguôi lòng mình xuống.
\v 12 Nếu quan trưởng chú ý đến lời dối trá, mọi kẻ dưới quyền người sẽ trở nên gian ác.
\s5
\v 13 Kẻ nghèo và người ức hiếp đều giống nhau, vì Đức Giê-hô-va ban ánh sáng cho mắt cả hai.
\v 14 Nếu một vị vua xét đoán kẻ nghèo bằng lẽ thật, ngôi của người sẽ được vững bền đời đời.
\s5
\v 15 Roi vọt và sự quở trách cung ứng sự khôn ngoan, nhưng đứa con không cần biết đến kỷ luật làm xấu hổ cho mẹ nó.
\v 16 Khi kẻ ác nắm lấy quyền lực, thêm lên sự quá phạm, nhưng người làm theo điều phải sẽ thấy sự sa ngã của kẻ ác.
\s5
\v 17 Hãy kỷ luật con cái của con thì nó sẽ khiến con được yên nghỉ, nó sẽ đem lại sự vui thích trong cuộc sống của con.
\v 18 không có mặc khải tiên tri dân sự bèn phóng túng, nhưng người nào giữ theo luật pháp thì được phước.
\s5
\v 19 Tôi tớ sẽ chẳng bị chỉnh sửa bằng lời nói, vì dù nó hiểu biết, sẽ chẳng có đáp trả nào hết.
\v 20 Con có thấy kẻ hấp tấp trong lời nói mình chăng? Có nhiều hy vọng cho một kẻ dại dột hơn là cho hắn.
\s5
\v 21 Người nào nuông chìu kẻ tôi tớ mình từ thuở nhỏ, đến cuối cùng sự nuông chìu ấy sẽ gặp nhiều rối rắm.
\v 22 Một người hay giận khuấy đảo sự tranh cạnh và người cưu giận phạm tội nhiều thay.
\s5
\v 23 Sự kiêu ngạo của một người sẽ hạ người xuống thấp, nhưng ai có tinh thần khiêm nhượng sẽ được tôn vinh.
\v 24 Kẻ nào dự phần với trộm cướp ghét chính mạng sống mình; nó nghe lời rủa sã và chẳng nói gì hết.
\s5
\v 25 Kẻ sợ hãi người ta lo giăng bẫy, nhưng người nào tin cậy nơi Đức Giê-hô-va được bảo hộ.
\v 26 Nhiều người tìm kiếm mặt vua, nhưng sự công bình người ấy có cần đều từ Đức Giê-hô-va mà đến.
\s5
\v 27 Kẻ gian tà là một sự gớm ghiếc cho người làm theo điều phải, nhưng ai có đường lối mình là ngay thẳng bị kẻ ác gớm ghiếc.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê — Châm ngôn: người nầy nói ra cho Y-thi-ên và U-canh.
\v 2 Quả thật ta giống với con thú hơn là người nào, và Ta không có sự hiểu biết của một con người.
\v 3 Ta không học sự khôn ngoan, và ta cũng không có tri thức của Đấng Thánh.
\s5
\v 4 Ai đã lên trời, rồi lại xuống? Ai đã góp gió trong lòng tay mình? Ai đã bọc nước trong áo mình? Ai lập các giới hạn của đất? Danh người là chi, và tên con trai người là gì? Nếu ngươi biết, hãy nói đi.
\s5
\v 5 Từng lời của Đức Chúa Trời đều đã được thử nghiệm, Ngài là cái thuẫn đỡ cho người nào nương cậy nơi Ngài.
\v 6 Chớ thêm chi vào các lời Ngài, hoặc Ngài sẽ quở trách ngươi, và ngươi bị cho là kẻ nói dối.
\s5
\v 7 Tôi cầu xin Chúa hai điều, xin chớ cầm chúng lại trước khi tôi qua đời:
\v 8 Xin khiến cho sự kiêu căng và lời dối trá dan xa khỏi tôi. Chớ cho tôi nghèo khổ, hoặc giàu có, hãy nuôi tôi đủ vật thực cần dùng.
\v 9 Vì nếu tôi có quá nhiều, tôi sẽ chối Ngài rồi nói: “Ai là Đức Giê-hô-va”? Hoặc nếu tôi nghèo khó, tôi sẽ trộm cắp và báng bổ danh của Đức Chúa Trời tôi.
\s5
\v 10 Chớ phao vu kẻ tôi tớ trước mặt chủ nó, hoặc nó sẽ rủa sả ngươi, và ngươi mắc tội chăng.
\s5
\v 11 Có một dòng dõi rủa sả cha mình và không chúc phước cho mẹ mình,
\v 12 là một dòng dõi thanh sạch theo chính mắt họ, nhưng họ chưa rửa sạch nhơ bẩn mình.
\s5
\v 13 Đấy là một dòng dõi — mắt họ kiêu hãnh thay và mí mắt họ nhướng cao dường nào!
\v 14 họ là một dòng dõi có răng tợ gươm, hàm của họ là dao, để họ có thể nuốt lấy kẻ nghèo khỏi đất và người có cần khỏi loài người.
\s5
\v 15 Con đỉa có hai con gái, chúng kêu lên: “Hãy cho và hãy cho”! Có ba thứ chẳng hề lấy làm thoả mãn, bốn điều chẳng nói rằng: “Đủ rồi! ”
\v 16 Âm phủ, người đàn bà son sẻ, đất không no đủ nước, và lửa không hề nói: “Đủ rồi! ”
\v 17 Con mắt nhạo báng cha mình và xem khinh sự vâng lời đối với mẹ mình, loài quạ sẽ móc con mắt ấy, và kên kên sẽ ăn nó.
.
\s5
\v 18 Có ba việc lấy làm diệu kỳ cho ta, bốn thứ mà ta chẳng hiểu được:
\v 19 đường chim ưng bay trên trời; lối con rắn bò trên hòn đá; lằn tàu chạy giữa biển, và đường người nam giao hợp với người nữ.
\s5
\v 20 Đây là tánh nết của người nữ tà dâm — nàng ăn, rồi nàng lau miệng, rồi nói: “Tôi có làm gì sai đâu”.
\s5
\v 21 Trái đất rúng động dưới ba việc nầy, và bốn điều, nó chẳng chịu nổi:
\v 22 một tôi tớ khi hắn lên làm vua; kẻ dại khi hắn no nê đồ ăn;
\v 23 người nữ có lòng thù hận khi lấy chồng; và con đòi chiếm lấy chỗ bà chủ mình.
\s5
\v 24 Bốn vật trên đất là nhỏ bé, và tuy nhiên, chúng rất là khôn khéo:
\v 25 Con kiến là tạo vật không có sức, nhưng chúng lo sắm sẵn vật thực mình trong mùa hè;
\v 26 Con thỏ không phải là tạo vật có sức mạnh, nhưng chúng lập nơi ở mình trong vầng đá.
\s5
\v 27 Loài cào cào dầu không có vua chúa, nhưng bay ra có đội hình.
\v 28 Con thằn lằn, con có thể bắt lấy nó trong tay, thế mà chúng được thấy có trong cung điện của vua.
\s5
\v 29 Có ba vật điệu đi tốt đẹp, bốn vật nước bước xem sang trọng:
\v 30 con sư tử, mạnh nhất trong loài vật hoang dã — nó chẳng tránh bất cứ thứ gì;
\v 31 Con ngựa chiến; con dê đực; và vị vua với binh lính bên cạnh người.
\s5
\v 32 Nếu ngươi từng dại dột, tự tôn mình, hoặc nếu ngươi có ác tưởng — hãy lấy tay che miệng mình lại.
\v 33 Vì ép sữa làm ra bơ, và đánh đập lỗ mũi bèn làm cho phun máu, cũng vậy, các việc được làm ra trong cơn giận làm nẩy ra điều tranh cạnh.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Lời của vua Lê-mu-ên - châm ngôn mà mẹ người dạy cho người.
\v 2 Con ơi, sao chứ? Và hỡi con của tử cung ta, ta phải nói gì đây? Hỡi con của sự khấn nguyện ta, ta nên nói điều gì với con?
\v 3 Chớ phó sức lực con cho phụ nữ, hay đừng bước theo những kẻ có đường lối hòng tiêu diệt các vua.
\s5
\v 4 Hỡi Lê-mu-ên, chẳng xứng hiệp cho các vua, chẳng xứng hiệp cho các vua uống rượu, cũng không xứng hiệp với các quan trưởng nói rằng: “Rượu mạnh ở đâu? ”
\v 5 Vì nếu họ uống, họ quên những điều đã được quy định, và đảo lộn quyền sống của mọi kẻ khốn khổ.
\s5
\v 6 Hãy ban rượu mạnh cho người gần chết, và rượu uống say cho kẻ nào có lòng bị cay đắng.
\v 7 Họ sẽ uống rồi quên nỗi nghèo khổ mình, và người ấy sẽ chẳng nhớ đến rối rắm của mình nữa.
\s5
\v 8 Hãy nói thay cho kẻ không thể nói được, nói thay duyên cớ của hết thảy những người đang hư mất.
\v 9 Hãy nói đi và xét đoán theo lượng nhơn đức, và phân xử đúng đắn duyên cớ của người khốn cùng nghèo thiếu.
\s5
\v 10 Ai sẽ tìm được người nữ tài đức? Giá trị nàng trổi hơn châu ngọc.
\v 11 Lòng người chồng tin cậy nơi nàng, và người sẽ chẳng sống khó nghèo.
\v 12 Nàng làm nhiều việc ích cho chàng và chẳng hề gây tổn hại trong cả đời nàng.
\s5
\v 13 Nàng chọn lấy lông chiên và gai sợi, rồi lao động với sự vui thích của tay mình.
\v 14 Nàng giống như các chiếc tàu buôn kia; nàng đem bánh mình về từ chỗ xa.
\v 15 Nàng thức dậy khi trời còn tối cung cấp đồ ăn cho người nhà mình, và nàng phân phối công việc cho các tớ gái mình.
\s5
\v 16 Nàng xem qua thửa ruộng rồi mua nó, với sự cần cù của hai tay mình nàng trồng một vườn nho.
\v 17 Nàng tự mặc lấy với sức lực và làm hai cánh tay mình ra mạnh mẽ.
\s5
\v 18 Nàng lường trước điều chi có ích cho mình; suốt đêm đèn nàng chẳng tắt.
\v 19 Nàng đặt tay vào con quay, và các ngón tay nàng cầm con cúi.
\s5
\v 20 Nàng chìa tay ra với kẻ nghèo; nàng chìa tay ra tiếp kẻ có cần.
\v 21 Nàng không sợ tuyết giá cho người nhà mình, vì cả nhà nàng đều mặc áo bằng lông chiên màu đỏ sặm.
\s5
\v 22 Nàng chế các tấm đắp cho giường mình, và nàng mặc trang phục bằng vải gai mịn màu đỏ điều.
\v 23 Chồng nàng được người ta biết đến tại cửa thành, khi chàng ngồi chung với các trưởng lão của xứ.
\s5
\v 24 Nàng chế áo lót rồi bán chúng, và nàng cung cấp đai lưng cho con buôn.
\v 25 Nàng mặc lấy sức lực và sự tôn trọng, và nàng vui cười nơi buổi sau hầu đến.
\s5
\v 26 Nàng mở miệng ra với sự khôn ngoan, và phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng.
\v 27 Nàng để ý đến mọi nẻo của nhà mình và không ăn bánh bị thiêu.
\s5
\v 28 Con cái nàng chổi dậy và chúc phước cho nàng; chồng nàng khen ngợi nàng như sau:
\v 29 “Có nhiều người nữ làm lụng rất giỏi, nhưng nàng trổi hơn hết thảy”.
\s5
\v 30 Duyên là giả dối, sắc lại hư không, nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giê-hô-va, nàng sẽ được khen ngợi.
\v 31 Hãy ban cho nàng bông trái của tay nàng, và hãy để các công việc nàng ngợi khen nàng tại nơi cửa thành.

481
21-ECC.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,481 @@
\id ECC
\ide UTF-8
\h TRUYỀN ĐẠO
\toc1 TRUYỀN ĐẠO
\toc2 TRUYỀN ĐẠO
\toc3 ecc
\mt TRUYỀN ĐẠO
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời của Giáo sư, dòng dõi của Đa-vít và là vua tại Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Vị Giáo sư nói như vầy: “Giống như hơi nước trong sương mù, giống như bụi trong ngọn gió, mọi sự là hư không, để lại nhiều thắc mắc.
\v 3 Có ích lợi gì khi người ta làm lụng lao động ở dưới mặt trời?
\s5
\v 4 Thế hệ nầy qua rồi thế hệ khác đến, nhưng đất còn mãi cho đến muôn đời.
\v 5 Mặt trời mọc, rồi nó lặn đi và nó vội vã trở về chỗ mà nó mọc lại.
\v 6 Gió thổi về hướng nam rồi vòng qua hướng bắc, cứ theo đường của nó rồi trở lại một lần nữa.
\s5
\v 7 Mọi dòng sông đều đổ vào biển, song biển không hề đầy. Chỗ các dòng sông thường chảy vào, chúng lại chảy về đó nữa.
\v 8 Muôn vật thảy đều lao khổ, và chẳng ai giải thích được. Mắt nhìn xem không thoả, tai nghe lại chẳng bao giờ đầy.
\s5
\v 9 Điều chi đã có, rồi lại sẽ có, và điều gì đã làm, lại sẽ làm nữa. Chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời.
\v 10 Nếu có thứ chi mà người ta nói rằng: “Xem kìa, cái nầy mới đây? ” Vật ấy thật đã có rồi trong các thời đời trước chúng ta.
\v 11 Chẳng có ai nhớ mọi việc đã có trong các đời trước. Và những việc đã xảy ra lâu về sau cũng sẽ xảy ra trong tương lai cũng chẳng được nhớ tới nữa.
\s5
\v 12 Ta là Giáo sư, và ta đã làm vua trên Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem.
\v 13 Ta dùng trí hiểu học hỏi và nghiên cứu bởi sự khôn ngoan mọi việc được làm ra ở dưới trời. ấy là một việc lao khổ mà Đức Chúa Trời đã ban cho con cái loài người để lo làm.
\v 14 Ta đã xem thấy mọi việc được làm ra ở dưới mặt trời, thì kìa, hết thảy chúng giống như hơi nước và là một nỗ lực chăn theo ngọn gió.
\v 15 Thứ cong quẹo không thể làm ngay lại được! Cái gì thiếu không thể đếm được.
\s5
\v 16 Ta nhũ lòng rằng: “Hãy xem, ta có được sự khôn ngoan lớn hơn hết thảy những người đến trước ta tại Giê-ru-sa-lem. Trí hiểu của ta đã nhìn thấy nhiều sự khôn ngoan và tri thức”.
\v 17 Vậy, Ta hướng lòng học biết sự khôn ngoan và cũng biết sự dại dột điên cuồng. Ta biết đấy cũng là nỗ lực chăn theo ngọn gió mà thôi.
\v 18 Vì với sự khôn ngoan dư dật thì sự phiền não cũng nhiều, và ai thêm sự tri thức sẽ có thêm sự buồn rầu.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Ta nhũ lòng rằng: “Bây giờ, hãy đến, Ta sẽ thử con với sự vui sướng. Vậy, hãy thưởng thức sự khoái lạc”. Nhưng, hãy xem, đây cũng đúng là thứ bụi tạm thời.
\v 2 Ta nói về kẻ cười: “Cười là điên”, và về khoái lạc: “Có ích chi chứ?”
\s5
\v 3 Ta nghĩ trong lòng, mọi ham muốn với rượu chắc là thoả lòng lắm. Trí óc khôn ngoan dẫn dắt lòng ta mặc dù ta cầm lấy sự dại dột. Ta muốn tìm xem điều gì là tốt cho người ta làm ở dưới trời trọn đời mình sống.
\s5
\v 4 Ta làm những việc lớn lao. Ta cất nhiều nhà cửa cho mình và trồng nhiều vườn nho.
\v 5 Ta lập cho mình nhiều vườn cây ăn trái và vườn hoa; ta trồng đủ loại cây ăn trái ở đó.
\v 6 Ta đào hồ chứa nước đặng tưới rừng, cây cối lớn lên ở đó.
\s5
\v 7 Ta mua những tôi trai tớ gái; Ta có nhiều đầy tớ sanh ra trong cung điện ta. Ta cũng có nhiều bầy gia súc và chiên, nhiều hơn hết thảy bất kỳ vua nào cai trị trước ta tại Giê-ru-sa-lem.
\v 8 Ta cũng tích trữ cho mình bạc và vàng, nhiều kho của các vua và các tỉnh. Ta tuyển lấy cho mình nhiều nam nữ ca sĩ; bằng cách có nhiều vợ và hầu, ta đã làm những việc đem lại khoái lạc cho bất kỳ người đàn ông nào sống trên đất.
\s5
\v 9 Như vậy, ta trở nên cao trọng và giàu có hơn hết thảy những ai sống trước ta tại Giê-ru-sa-lem, và sự khôn ngoan của ta vẫn còn ở cùng ta.
\v 10 Bất cứ điều gì mắt ta ước ao, ta làm bằng mọi cách để có chúng. Ta không cầm lòng trước bất kỳ khoái lạc nào, vì lòng ta vui thích trong mọi công việc của ta, và khoái lạc là phần thưởng của ta vì mọi việc làm của ta.
\s5
\v 11 Khi ấy, ta xem xét mọi công việc tay mình đã hoàn thành, và nhắm vào công việc ta đã làm nó, nhưng một lần nữa, mọi điều đó đều là hơi nước và chăn theo ngọn gió. Chẳng có ích lợi gì trong đó ở dưới mặt trời.
\v 12 Thế rồi, ta quay lại xem xét sự khôn ngoan, và cũng xem xét sự dại dột và sự điên cuồng. Vì vua nào tới sau nhà vua sẽ có thể làm gì chứ, chẳng qua là những việc đã được làm ra rồi sao?
\s5
\v 13 Khi ấy, ta khởi sự hiểu ra rằng khôn ngoan có lợi thế hơn sự dại dột, giống như sự sáng hơn sự tối tăm vậy.
\v 14 Người khôn ngoan sử dụng con mắt trong đầu mình để nhìn xem nơi mình sẽ đến, còn kẻ dại dột bước đi trong sự tối tăm, mặc dù ta biết cùng một số phận đang dành sẵn cho mỗi một người.
\s5
\v 15 Vậy nên ta nhũ lòng rằng: “Việc xảy đến cho kẻ dại, cũng sẽ xảy đến cho ta nữa. Cho nên, ta có nhiều khôn ngoan như thế có khác biệt gì đâu? Ta kết luận trong lòng rằng: “Đây cũng chỉ là hơi nước thôi”.
\v 16 Vì người khôn, cũng như kẻ dại, không được nhớ tới lâu dài đâu. Trong những ngày hầu đến mọi sự thảy đều bị quên mất từ lâu. Người khôn ngoan qua đời y như kẻ điên cuồng ngã chết vậy thôi.
\s5
\v 17 Vậy, ta ghét đời sống vì mọi việc được làm ra dưới mặt trời là xấu cho ta. Sở dĩ như vậy là vì mọi sự chỉ là hơi nước và nỗ lực chăn theo ngọn gió.
\v 18 Ta ghét mọi thành tựu mà ta đã làm ở dưới mặt trời vì ta phải để lại cho người đến sau mình.
\s5
\v 19 Và ai biết mình sẽ là khôn hay dại? Tuy nhiên, người ấy sẽ làm chủ mọi việc ở dưới mặt trời mà công lao và sự khôn ngoan của ta đã xây dựng. Đây cũng là hơi nước mà thôi.
\v 20 Vì lẽ đó lòng ta khởi thất vọng về mọi công việc mà ta đã làm ở dưới mặt trời.
\s5
\v 21 Vì có người làm công việc mình với sự khôn ngoan, với sự thông sáng, và tài khéo, nhưng rồi người ấy phải để mọi sự mình có cho kẻ chẳng làm gì về chúng nữa. Đây cũng là thứ hơi nước và là một sự tai nạn lớn.
\v 22 Vậy, có ích chi cho người lao khổ, chịu khó và tìm thử trong lòng mình để hoàn tất công lao mình ở dưới mặt trời?
\v 23 Vì từng ngày của người chỉ là đau đớn, và công lao người chỉ là buồn rầu, lúc ban đêm lòng người chẳng tìm được sự yên nghỉ. Đây cũng là hơi nước mà thôi.
\s5
\v 24 Chẳng có gì tốt hơn cho người là ăn, uống, và thấy thoả lòng với điều chi là tốt lành trong công việc của người. Ta đã nhìn thấy lẽ thật ấy đến từ tay của Đức Chúa Trời.
\v 25 Vì ai có thể ăn hoặc ai có thể hưởng được bất kỳ khoái lạc nào đến từ Đức Chúa Trời?
\s5
\v 26 Vì bất cứ ai đẹp lòng Ngài, Đức Chúa Trời ban cho sự khôn ngoan, sự thông sáng, và sự vui mừng. Tuy nhiên, đối với hạng tội nhân Ngài cho phép họ với công việc thâu tóm chất chứa hầu cho họ trao hết cho người đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đây cũng là thứ hơi nước và nỗ lực chăn theo ngọn gió.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Vì mọi sự đều có hạn định, và thời cơ cho từng mục đích ở dưới trời.
\v 2 Có thời điểm chào đời, và thời điểm để qua đời, thời điểm để gieo trồng và kỳ hạn thu hoạch,
\v 3 thời điểm để giết chóc và thời điểm để chữa lành, thời điểm để tháo dỡ và kỳ hạn xây dựng,
\s5
\v 4 có thời điểm phải bật khóc rồi có lúc phải vui cười, có lúc phải than vãn rồi có lúc phải nhảy múa,
\v 5 có thời điểm phải ném đá rồi có lúc thâu nhặt nhiều đá lại, có lúc phải vòng tay ôm lấy, và có lúc kềm chế lại không nên ôm lấy,
\s5
\v 6 có lúc phải tìm tòi nhiều thứ rồi có lúc thôi không tìm tòi nữa, có lúc giữ lấy nhiều thứ rồi có lúc phải vứt bỏ đi,
\v 7 có thời xé quần áo đi rồi có lúc phải vá lại, có lúc phải giữ im lặng rồi có thời phải nói ra,
\s5
\v 8 có lúc phải yêu thương rồi có thời phải ghét bỏ, có kỳ chiến tranh rồi có kỳ hòa bình.
\v 9 Kẻ làm việc kiếm được ích lợi gì trong lao động của mình chứ?
\v 10 Ta đã nhìn thấy công việc mà Đức Chúa Trời đã ban cho loài người phải lo hoàn thành.
\s5
\v 11 Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự thích hợp với hạn định của nó. Ngài cũng đã đặt sự đời đời ở trong lòng của họ. Nhưng con người không thế hiểu được mọi công việc mà Đức Chúa Trời đã làm, từ lúc họ khởi công suốt cho đến cuối cùng.
\s5
\v 12 Ta nhìn biết chẳng có điều gì tốt cho loài người hơn là vui vẻ và làm lành bao lâu họ còn sống —
\v 13 và ai nấy phải ăn, uống, và hiểu rỏ phải thưởng thức việc lành đến từ mọi công việc của họ. Đây cũng là sự ban cho của Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Ta biết rõ mọi việc Đức Chúa Trời làm đều kéo dài cho đến đời đời. Người ta chẳng thêm cũng không bớt được, vì chính Đức Chúa Trời là Đấng đã làm như thế hầu cho loài người sẽ tiếp cận Ngài với sự kính sợ.
\v 15 Điều chi hiện có, ngày xưa đã có; điều gì sẽ có, đã xảy có từ lâu rồi. Đức Chúa Trời khiến người ta tìm kiếm những việc kín giấu.
\s5
\v 16 Và ta đã nhìn thấy ở dưới mặt trời sự gian ác đang tồn tại ở chỗ lẽ ra là công bình, và trong chỗ công bình sự gian ác đã được tìm thấy.
\v 17 Ta nhũ lòng: “Đức Chúa Trời sẽ đoán xét người công bình và kẻ gian ác vào thời điểm chính xác cho từng vấn đề và từng vụ việc.
\s5
\v 18 Ta nhũ lòng: “Đức Chúa Trời thử thách con người để tỏ ra cho họ thấy họ chẳng hơn gì loài thú”.
\s5
\v 19 Vì cùng một số phận xảy đến cho con loài người sẽ xảy ra cho loài thú cũng y như vậy. Giống như loài thú, hết thảy người ta rồi sẽ chết. Hết thảy đều thở cùng một thứ hơi, cũng vậy, loài người chẳng có lợi thế nào hơn loài thú. Há chẳng phải mọi thứ đều giống như hơi thở qua nhanh không?
\v 20 Mọi sự đều đi đến cùng một chỗ. Mọi sự ra từ bụi đất, và mọi sự sẽ trở về với bụi đất.
\s5
\v 21 Ai biết, hồn của loài người thăng lên và hồn của loài thú sa xuống dưới đất?
\v 22 Thế thì, một lần nữa ta nhận ra chẳng có gì tốt cho loài người hơn là vui vẻ trong công việc của mình, vì ấy là phần đã định cho mình. Ai sẽ đem mình trở lại đặng xem thấy điều sẽ xảy ra sau mình?
\s5
\c 4
\p
\v 1 Một lần nữa, ta suy nghĩ đến mọi sự hà hiếp làm ra ở dưới mặt trời. Hãy nhìn vào nước mắt của kẻ bị hà hiếp. Chẳng có một ai yên ủi họ! Quyền lực ở trong tay kẻ ức hiếp họ, những chẳng có ai yên ủi cho kẻ bị ức hiếp!
\s5
\v 2 Vậy, ta khen những kẻ đã chết rồi, chớ không phải kẻ đang sống, người nào hãy còn sống kia.
\v 3 Tuy nhiên, còn may mắn hơn cả hai người đó là những người chưa chào đời, họ chưa nhìn thấy bất kỳ hành vi gian ác nào được làm ra ở dưới mặt trời.
\s5
\v 4 Khi ấy, ta nhìn thấy từng công lao và từng nghề khéo trở thành sự ghen ghét từ người lân cận của người ấy. Điều nầy cũng là hơi nước và nỗ lực để chăn ngọn gió.
\s5
\v 5 Kẻ dại dột khoanh tay mình không làm việc, vì vậy đồ ăn của hắn là chính thịt của hắn.
\v 6 Thà một nắm tay với công việc yên tĩnh hơn là đầy cả hai tay với công việc và chăn theo ngọn gió.
\s5
\v 7 Khi ấy, ta suy nghĩ một lần nữa về sự hư không, lại thấy nhiều sự vô ích hơn ở dưới mặt trời.
\v 8 Có một người sống cô độc. Người chẳng có ai hoặc con trai hay là anh em. Chẳng có cứu cánh gì cho mọi việc làm của người, và mắt hắn không thấy thoả mãn với việc tìm kiếm sự giàu có. Hắn tự hỏi: “Vậy ta lao khổ, ta ép cái tôi mình trước các khoái lạc là vì ai chứ? Điều nầy cũng là hơi nước, một hoàn cảnh tồi tệ.
\s5
\v 9 Hai người thì tốt hơn là một người; vì họ sẽ cùng nhau kiếm được công giá tốt về lao động của mình.
\v 10 Vì nếu người này vấp, thì người kia sẽ đỡ bạn mình lên. Tuy nhiên, buồn rầu vói theo kẻ nào sống một mình, khi hắn ngã chẳng có ai đỡ hắn đứng dậy!
\v 11 Và nếu hai người cùng nằm chung với nhau, họ có thể giữ ấm, nhưng một người thì làm sao giữ ấm cho được?
\s5
\v 12 Một người duy nhứt sẽ bị người khác ăn hiếp, nhưng hai người sẽ có thế chống cự một cuộc tấn công, và một sợi dây đánh ba tao không thể bị đứt liền được.
\s5
\v 13 Thà là nghèo mà trẻ tuổi khôn lanh hơn một vị vua già mà dại, là kẻ chẳng còn biết lắng nghe lời cảnh báo.
\v 14 Đây là sự thật, nếu kẻ trẻ lên làm vua từ ngục tù, hoặc sanh ra nghèo trong nước mình.
\s5
\v 15 Tuy nhiên, ta thấy ai nấy còn sống và qua lại ở dưới mặt trời, đều tự mình phục theo kẻ trẻ ấy đã dấy lên làm vua.
\v 16 Chẳng có cứu cánh nào cho mọi người nào muốn vâng theo vị vua mới, nhưng về sau phần nhiều người trong số họ sẽ chẳng còn muốn khen ngợi người nữa. Chắc chắn điều nầy đó cũng là hơi nước và chăn theo ngọn gió.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hãy coi chừng cách xử sự của con khi con bước vào nhà của Đức Chúa Trời. Hãy đến đó lắng nghe thì tốt hơn dâng của tế lễ trong khi không biết điều mình làm trong cuộc sống là gian ác.
\s5
\v 2 Chớ vội mở miệng ra nói, và đừng để cho lòng của con quá lật đật đến nỗi không trình vấn đề lên trước mặt Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ở trên trời, còn con ở dưới đất, vậy nên con khá ít lời.
\v 3 Nếu con có quá nhiều việc phải làm và lo toan, có lẽ con sẽ có nhiều chiêm bao xấu. Và con mà thốt ra nhiều lời, thì có lẽ con sẽ nói ra nhiều điều dại dột.
\s5
\v 4 Khi con lập lời thề với Đức Chúa Trời, phải lo hoàn nguyện chớ có trễ nãi, vì Đức Chúa Trời chẳng vui thích chi nơi kẻ dại. Hãy làm theo điều mà con đã thề con sẽ làm.
\v 5 Thà là không đưa ra lời thề còn hơn lập lời thề mà không lo thực hiện nó.
\s5
\v 6 Đừng cho miệng ngươi gây cho xác thịt mình phạm tội. Đừng nói với sứ giả của thầy tế lễ: “Lời thề ấy là một lỗi lầm”. Tại sao lại khiến cho Đức Chúa Trời nổi giận do thề dối, chọc Đức Chúa Trời phải huỷ diệt công việc của tay con?
\v 7 Vì có nhiều chiêm bao, cũng như quá nhiều lời, ở đó là hơi nước vô nghĩa. Vậy, hãy kính sợ Đức Chúa Trời.
\s5
\v 8 Khi con thấy kẻ nghèo bị hà hiếp và bị tước đoạt sự công bình và cách xử sự không phải lẽ trong xứ của con, thì chớ lấy làm lạ giống như thể chẳng có ai biết, vì có người nắm lấy quyền lực cao hơn đang coi chừng những kẻ dưới quyền họ, và thậm chí còn có những đấng cao hơn đang quan phòng họ nữa.
\v 9 Hơn nữa, sản phẩm của đất là dành cho mọi người, và đích thân nhà vua nhận lấy sản phẩm từ đồng ruộng.
\s5
\v 10 Người nào ham muốn tiền bạc sẽ không thấy thoả lòng với tiền bạc, và bất kỳ kẻ nào ham muốn sự giàu có luôn luôn muốn nhiều hơn. Điều nầy cũng là hơi nước đấy thôi.
\v 11 Khi sự hanh thông thêm lên, thì người tiêu thụ nó cũng thêm nhiều lên. Chủ của cải có lợi thế gì khi nhìn thấy nó bằng mắt mình?
\s5
\v 12 Giấc ngủ của người lao động rất là ngon, dù người ăn ít hay nhiều, nhưng của cải của người giàu không cho phép người ngủ ngon.
\s5
\v 13 Có một điều rất xấu xa mà ta đã thấy ở dưới mặt trời: ấy là của cải mà người chủ chất chứa đó, kết quả trong sự khổ sở của chính người.
\v 14 Khi người giàu đánh mất của cải mình qua may rủi, chính con ruột mà người là cha đẻ ra nó, người để lại cho nó hai tay không.
\s5
\v 15 Giống như một người ra đời từ lòng mẹ trần truồng thể nào, cũng một thể ấy, người sẽ lìa đời nầy trần truồng như vậy. Người chẳng có đem vật gì theo nơi tay mình được.
\v 16 Một việc xấu xa khác nữa: chính xác là một người đã đến thể nào, thì người cũng phải trở về thể ấy. Vậy, người nào chịu lao khổ trong việc chăn ngọn gió, có ích gì chăng?
\v 17 Trong suốt đời của người, người ăn trong sự tối tăm và chịu nhiều buồn khổ với bịnh tật và tức giận.
\s5
\v 18 Hãy xem, thứ ta đã nhìn thấy rằng thật lấy làm tốt và thích đáng là ăn, uống, và thưởng thức thứ chi kiếm được từ công lao động của mình làm ra ở dưới mặt trời trọn trong những ngày thuộc đời nầy mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta. Vì đây là phần của người.
\s5
\v 19 Đức Chúa Trời ban cho người nào giàu có, của cải, và khả năng lãnh hội phần của mình, và vui vẻ trong công việc của mình — đây là một sự ban cho đến từ Đức Chúa Trời.
\v 20 Vì người sẽ ít nhớ những ngày của đời mình, vì Đức Chúa Trời khiến người cứ bận bịu với những thứ mà người đang hưởng lấy khi làm ra.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Có một tai vạ khác mà ta đã thấy ở dưới mặt trời, và tai vạ đó rất nghiệt ngã cho loài người.
\v 2 Đức Chúa Trời ban sự giàu có, của cải, và danh tiếng cho một người hầu cho người chẳng thiếu thứ chi người ước ao cho bản thân mình, nhưng rồi Đức Chúa Trời không cho người có khả năng thưởng thức. Thay vì thế, người khác sử dụng các thứ nầy. Đây là hơi nước, một tai vạ xấu xa.
\s5
\v 3 Nếu một người làm cha cả trăm đứa con và sống nhiều năm, các năm sống của người rất cao, song nếu tấm lòng người chẳng thoả mãn với của cải, rồi chết đi chẳng được chôn với sự tôn trọng, khi ấy ta nói đứa con sảo còn hơn người ấy.
\v 4 Ngay cả đứa con sảo ra đời trong hư không và qua đời trong chỗ sự tối tăm, và tên nó chưa được đặt.
\s5
\v 5 Mặc dù đứa trẻ nầy chưa nhìn thấy mặt trời hoặc chưa biết gì hết, nó có sự yên nghỉ mà người kia chẳng có.
\v 6 Một người dầu sống đến hai ngàn năm nhưng không học biết thưởng thức các việc tốt lành, người đi đến cùng một chỗ như các người khác.
\s5
\v 7 Dù mọi công lao của loài người là để no miệng mình, tuy nhiên người không được thỏa.
\v 8 Quả thật, người khôn ngoan có lợi thế gì hơn kẻ dại dột chứ? Người nghèo có lợi thế gì khi biết cách xử sự trước mặt người ta?
\s5
\v 9 Thà là được thoả với những gì mắt thấy hơn là ham muốn các thứ luông tuồng, đây cũng là hơi nước và chăn theo ngọn gió.
\v 10 Bất cứ điều gì đã có rồi đã được đặt tên, và loài người sẽ ra thể nào, thì đã được biết rồi. Vậy, tranh cãi với Đấng là quan án toàn năng của mọi người là luống công.
\v 11 Càng có nhiều lời thốt ra, sự hư không càng thêm, vậy điều đó có lợi thế gì cho một người chứ?
\v 12 Vì ai biết được điều tốt lành gì dành cho một người trong đời sống người suốt những ngày hư không khi người trải qua như cái bóng? Ai có thể nói cho một người biết về việc sẽ xảy ra ở dưới mặt trời sau khi người qua đi?
\s5
\c 7
\p
\v 1 Danh tiếng thì tốt hơn dầu thơm quí giá, và ngày chết thì tốt hơn ngày sanh.
\v 2 Thà đi đến nhà tang chế hơn là đến nhà yến tiệc, vì than khóc đến với mọi người lúc cuối đời, và người sống phải để việc nầy vào lòng.
\s5
\v 3 Buồn rầu thì tốt hơn là vui vẻ, vì đằng sau bộ mặt buồn rầu, thì sự vui vẻ của tấm lòng lại đến
\v 4 Tấm lòng người khôn ngoan ở trong nhà tang chế, còn lòng kẻ dại dột ở tại nhà yến tiệc.
\s5
\v 5 Thà nghe lời quở trách của người khôn ngoan còn hơn là nghe bài ca của kẻ dại dột.
\v 6 Vì như như tiếng gai nhọn nổ dưới nồi, cũng vậy với tiếng cười cợt của kẻ dại. Điều nầy cũng là hơi nước đây.
\s5
\v 7 Phải, sự tham nhũng chắc chắn khiến cho kẻ khôn ra dại, và của hối lộ làm bại hoại tấm lòng.
\s5
\v 8 Cuối cùng của một việc thì tốt hơn phần khởi đầu; và người có tinh thần kiên nhẫn thì tốt hơn kẻ có tinh thần kiêu ngạo.
\v 9 Chớ có tâm thần mau nóng giận, vì sự giận ở trong lòng của kẻ dại dột.
\s5
\v 10 Chớ nói rằng: “Tại sao những ngày xa xưa thì tốt hơn những ngày nầy? ” Vì ấy chẳng phải vì cớ khôn ngoan mà con đưa ra câu hỏi nầy.
\s5
\v 11 Khôn ngoan cũng tốt như các thứ có giá trị mà chúng ta thừa hưởng từ các tổ phụ. Nó cung ứng lợi ích cho người nào nhìn thấy mặt trời.
\v 12 Vì sự khôn ngoan cung ứng sự bảo hộ cũng như tiền bạc cung ứng sự bảo hộ vậy, nhưng lợi thế của sự khôn ngoan, ấy là sự khôn ngoan ban sự sống cho người nào có được nó.
\s5
\v 13 Hãy xem xét các việc làm của Đức Chúa Trời: là Đấng có thể làm cho ngay thẳng thứ chi Ngài đã làm cho cong quẹo?
\s5
\v 14 Khi thì thế được thuận tiện, hãy sống vui vẻ trong chỗ thuận tiện ấy, nhưng khi thờì thế trở xấu đi, hãy xem điều nầy: Đức Chúa Trời cho phép cả hai tồn tại bên cạnh nhau. Vì lý do nầy, không một ai nhận ra điều sẽ xảy đến sau người.
\s5
\v 15 Ta đã nhìn thấy nhiều thứ trong những ngày vô nghĩa của ta. Có người công bình, họ hư mất bất chấp sự công bình của họ, và có kẻ ác lại sống trường thọ bất chấp sự gian ác của họ.
\v 16 Chớ tự xưng công bình, chớ khôn ngoan theo mắt mình. Cớ sao con lại tự huỷ diệt mình chứ?
\s5
\v 17 Đừng sống quá gian ác hay dại dột quá. Tại sao con chết trước kỳ hạn của mình?
\v 18 Thật là tốt khi con nắm bắt được sự khôn ngoan nầy, và con chớ rút tay mình lại khỏi sự công bình. Vì người nào kính sợ Đức Chúa Trời sẽ đối diện với mọi nghĩa vụ của mình.
\s5
\v 19 Sự khôn ngoan là quyền lực ở nơi người khôn, hơn cả mười kẻ cai trị ở trong thành.
\v 20 Chẳng có một người công bình ở trên đất làm điều thiện mà không hề phạm tội.
\s5
\v 21 Đừng nghe mọi lời người ta nói ra, vì con sẽ nghe kẻ tôi tớ mình đang rủa sã con.
\v 22 Tương tự, trong lòng con biết rằng con cũng thường rủa sã kẻ khác.
\s5
\v 23 Mọi sự nầy Ta đã minh chứng bằng sự khôn ngoan. Ta nói: “Ta sẽ sống khôn ngoan”, nhưng việc ấy ta chưa với tới.
\v 24 Sự khôn ngoan rất cao xa, rất sâu thẩm lắm. Ai có thể tìm được nó?
\v 25 Ta xây lòng mình chuyên học biết, xem xét, tìm kiếm sự khôn ngoan và mọi sự lý giải về thực tại, và để hiểu biết rằng gian ác là ngu xuẫn và sự dại dột là điên cuồng.
\s5
\v 26 Ta tìm thấy rằng còn cay đắng hơn cả sự chết là bất kỳ người đờn bà nào cũng đều có lòng giống như lưới bẫy, và tay của họ giống như xiềng xích. Ai ở đẹp lòng Đức Chúa Trời sẽ tránh khỏi nàng, còn kẻ có tội sẽ bị nàng bắt lấy.
\s5
\v 27 Giáo sư nói: “Hãy xem xét điều ta đã khám phá ra. Ta đã thêm hết khám phá nầy đến khám phá khác để tìm cách giải thích về thực tại.
\v 28 Đây là điều mà ta vẫn còn tìm kiếm mà ta chưa tìm ra. Ta đã tìm gặp một người nam công bình giữa cả ngàn người, nhưng còn trong cả thảy đờn bà ta chẳng tìm được một ai hết.
\s5
\v 29 Ta chỉ khám phám phá ra điều nầy: Đức Chúa Trời đã dựng nên con người ngay thẳng, nhưng họ xây đi để tìm kiếm nhiều sự khó khăn.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Người khôn ngoan là người như thế nào? Đó là người biết các sự cố trong cuộc sống có ý nghĩa ra sao! Sự khôn ngoan khiến cho mặt người sáng láng, và vẻ khó chịu trên mặt người được đổi đi.
\s5
\v 2 Ta khuyên con phải vâng theo mạng lịnh của vua vì cớ lời thề của Đức Chúa Trời bảo hộ người.
\v 3 Chớ vội lui ra khỏi sự hiện diện của người, và đừng đứng đó mà ủng hộ việc sai trái, vì nhà vua làm bất cứ điều chi người muốn làm.
\v 4 Lời của vua có quyền, vậy ai sẽ nói với người rằng: “Ngài làm chi vậy?”
\s5
\v 5 Ai giữ theo mạng lịnh của nhà vua chẳng biết đến sự tổn hại. Lòng người khôn ngoan nhận ra con đường thích ứng và thời điểm hành động.
\v 6 Vì từng vấn đề có đáp ứng chính xác và kỳ hạn phải đáp ứng, vì rối rắm của người ta là lớn lắm.
\v 7 Không một ai biết điều gì sẽ xảy đến kế đó. Ai có thể nói cho người biết điều gì sẽ xảy đến?
\s5
\v 8 Không ai có quyền trên hơi sống để thôi không thở nữa; và không một người nào có quyền trên ngày chết của mình. Không một ai được giải ngũ khi có chiến tranh và sự gian ác sẽ không giải cứu kẻ nào đang là nô lệ của nó.
\v 9 Ta đã phát hiện ra mọi sự nầy; ta khiến lòng mình áp dụng từng loại sự việc được làm ra ở dưới mặt trời. Có kỳ hạn cho người nầy có quyền làm điều ác trên mọi người khác.
\s5
\v 10 Vậy, Ta đã thấy kẻ ác được chôn cất công khai. Họ được đưa đến khu vực thánh và được chôn cất bởi dân trong thành, nơi mà kẻ đó đã thực hiện những hành vi gian ác của họ. Đây cũng là sự hư không.
\v 11 Khi bản án chống lại tội ác không được thi hành ngay, nó quyến dụ tấm lòng con người làm sự gian ác.
\s5
\v 12 Vì kẻ có tội làm ác một trăm lần rồi vẫn sống lâu ngày, tuy nhiên ta biết rằng sẽ là suôn sẻ cho người nào kính sợ Đức Chúa Trời, họ tôn vinh sự hiện diện của Ngài với họ.
\v 13 Nhưng kẻ ác sẽ chẳng có gì là suôn sẻ đâu; sự sống hắn sẽ không được dài lâu. Những ngày của hắn giống như cái bóng vì hắn không tôn vinh Đức Chúa Trời.
\s5
\v 14 Có một thứ hơi nước vô dụng khác nữa — một việc khác đã được làm ra trên đất. Những việc xảy ra cho người công bình giống như chúng đã xảy ra cho kẻ ác, và những việc xảy ra cho kẻ ác lại xảy ra cho người công bình. Ta nói rằng điều nầy cũng là sự hư không.
\v 15 Vậy ta khen sự vui mừng, vì ở dưới mặt trời chẳng gì tốt cho một người hơn là ăn, uống, và sống vui vẻ. Đó là sự vui vẻ kèm theo với người trong công lao trọn các ngày của đời người mà Đức Chúa Trời ban cho người ở dưới mặt trời.
\s5
\v 16 Khi ta khiến cho lòng mình học biết sự khôn ngoan và tìm hiểu sự việc đã được làm ra trên đất, là công việc thường được làm ra lúc ban đêm hay ban ngày không cho mắt ngủ,
\v 17 khi ấy, ta xem xét mọi công việc của Đức Chúa Trời, và người ta không thế hiểu được công việc đã được làm ra ở dưới mặt trời. Vô luận một người lao động cực nhọc ngần nào đặng tìm biết, người ấy sẽ chẳng tìm được chúng. Mặc dù một người khôn ngoan tin rằng mình chắc sẽ biết, thực sự thì người chẳng tìm được.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Vì ta suy nghĩ đến mọi sự nầy trong trí để tìm hiểu về người công bình, người khôn ngoan cùng các việc làm của họ. Hết thảy họ đều ở trong tay của Đức Chúa Trời. Không một người nào biết hoặc sự yêu hay là sự ghét sẽ đến với ai đó.
\s5
\v 2 Mọi người đều có chung một số phận. Cùng một số phận đang chờ đợi người công bình và kẻ hung ác, người tốt và kẻ xấu, ngươi thanh sạch và kẻ ô uế, và người dâng của lễ và người không dâng của lễ. Người nhơn đức sẽ chết, cũng như kẻ có tội. Giống như người hay thề thốt sẽ ngã chết, kẻ sợ không dám đưa ra lời thề cũng sẽ chết như thế.
\s5
\v 3 Có một số phận xấu cho mọi sự được làm ra ở dưới mặt trời, một số phận cho mọi người. Tấm lòng của con người đầy dẫy điều ác, và sự điên cuồng ở trong lòng họ đương khi họ sống. Sau đó, họ đi về cùng kẻ chết.
\s5
\v 4 Vì vẫn có hy vọng cho người nào hiện đang sống, giống như một con chó sống hơn là con sư tử chết.
\v 5 Vì kẻ sống biết mình sẽ chết, nhưng kẻ chết chẳng biết chi hết. Họ chẳng còn có phần thưởng nào hết vì sự kỷ niệm họ đã bị quên đi.
\s5
\v 6 Sự yêu, sự ghét, sự ganh tỵ của họ thảy đều tiêu mất từ lâu. Họ chẳng hề có một chỗ nào trong bất cứ việc gì được làm ra dưới ánh mặt trời.
\v 7 Hãy đi đường mình, ăn bánh của con cách vui mừng, và uống rượu của con với tấm lòng vui sướng, vì Đức Chúa Trời đã tán thành sự kỷ niệm mọi việc làm của con.
\v 8 Nguyện quần áo của con luôn luôn là màu trắng, và chớ thiếu dầu thơm trên đầu con.
\s5
\v 9 Hãy sống vui vẻ với người vợ mà con yêu thương trọn các ngày của đời hư không con, những ngày mà Đức Chúa Trời đã ban cho con ở dưới mặt trời trong những ngày vô ích của con. Đấy là phần thưởng của con trong đời vì việc làm của con ở dưới mặt trời.
\v 10 Bất cứ việc chi tay con làm được, hãy làm với sức lực của con, vì nơi mồ mả, là chỗ con đang đi đến.
\s5
\v 11 Ta đã thấy một số việc thú vị ở dưới mặt trời: Cuộc đua không thuộc về kẻ lẹ làng. Chiến trường không thuộc về người mạnh sức. Bánh không thuộc về kẻ khôn ngoan. Giàu có không thuộc về hạng người có hiểu biết. Sự ưu ái không thuộc về hạng người tri thức. Thay vì thế, thời thế và cơ hội tác động hết thảy mọi người.
\v 12 Vì không có ai biết giờ chết của mình, giống như cá bị mắc trong lưới sự chết, hay giống như chim bị bẫy dò. Giống như các loài thú, loài người bị kẹt trong thời tai vạ thình lình giáng trên họ.
\s5
\v 13 Ta cũng đã nhìn thấy sự khôn ngoan ở dưới mặt trời trong một phương thức dường rất cả thể cho ta.
\v 14 Có thành nhỏ kia với một ít người trong đó, một vị vua cường thạnh đến nghịch cùng nó, bao vây nó, dựng rào cản chống lại nó.
\v 15 Bấy giờ, trong thành ấy có một khôn mà lại nghèo, người nầy dùng sự khôn ngoan mình cứu thành ấy. Tuy nhiên, về sau, không một ai nhớ đến người nghèo đó.
\s5
\v 16 Vậy, ta kết luận: “Khôn ngoan thì tốt hơn sức mạnh, nhưng sự khôn ngoan của người nghèo bị xem khinh, và lời nói của người không ai nghe”.
\s5
\v 17 Lời của người khôn ngoan được nghe cách êm dịu thì tốt hơn tiếng hô lớn của bất kỳ vị vua nào giữa đám dại dột.
\v 18 Khôn ngoan thì tốt hơn các thứ binh khí, nhưng chỉ một người có tội phá diệt nhiều sự lành.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Giống như con ruồi chết làm cho dầu thơm phải hư đi, cũng vậy, một chút dại dột sẽ làm cho khôn ngoan và tiếng tăm không còn nữa.
\v 2 Trái tim của người khôn xoay qua bên phải, nhưng trái tim của kẻ dại thì xoay qua bên trái.
\v 3 Khi kẻ dại đi đường, suy nghĩ của hắn không rõ ràng, để cho mọi người thấy rằng hắn là kẻ dại.
\s5
\v 4 Nếu tình cảm của bậc cầm quyền dấy lên nghịch cùng con, chớ lìa khỏi công việc của con. Sự bình tĩnh làm nguôi cơn giận lớn.
\s5
\v 5 Có một tai vạ mà ta đã thấy ở dưới mặt trời, một loại sai lầm đến từ bậc cầm quyền:
\v 6 Kẻ dại dột được ban cho những địa vị lãnh đạo, trong khi người thành công được dành cho chỗ thấp.
\v 7 Ta đã nhìn thấy hạng đầy tớ cưỡi ngựa, và hạng người thành công thì đi bộ như đầy tớ ở trên đất vậy.
\s5
\v 8 Kẻ nào đào hầm sẽ sa xuống đó, và ở đâu có kẻ phá vách tường, một con rắn sẽ cắn người.
\v 9 Ai cắt đá sẽ bị tổn thương bởi chúng, và kẻ bửa củi có khi phải hiểm nghèo bởi nó.
\s5
\v 10 Nếu lưỡi rìu lụt mà người ta không mài lại, người ấy phải dùng nhiều sức; nhưng sự khôn ngoan cung ứng cơ hội để thành công.
\v 11 Nếu rắn cắn trước khi ếm chú, khi ấy thầy ếm chú chẳng còn có lợi thế gì nữa cả.
\s5
\v 12 Lời của miệng người khôn ngoan có ơn, nhưng môi của kẻ khờ dại lại nuốt lấy nó.
\s5
\v 13 Giống như lời lẽ bắt đầu tuôn ra từ miệng kẻ dại, sự điên dại trào ra, và đến cuối cùng miệng hắn đổ ra với sự điên cuồng độc địa.
\v 14 Kẻ ngu muội hay nói nhiều lời, nhưng chẳng có ai biết điều gì sẽ xảy đến. Ai biết điều chi sẽ xảy đến sau mình?
\s5
\v 15 Công lao kẻ ngu muội làm cho họ phải mệt nhọc, hầu cho họ chẳng biết con đường nào đặng đi đến thành.
\s5
\v 16 Có rối rắm trong xứ một khi nhà vua hãy còn trẻ, và các cấp lãnh đạo khởi sự tiệc tùng vào ban sáng.
\v 17 Nhưng xứ được vui vẻ khi vua của con thuộc hàng quí tộc, và các cấp lãnh đạo của con ăn đúng giờ, để lấy sức lại, chớ chẳng phải để đắm say!
\s5
\v 18 Vì sự làm biếng nên mái nhà sụp xuống, và vì cớ tay biếng nhác nên nhà phải dột.
\v 19 Người ta bày tiệc đặng vui cười, rượu đem sự vui vẻ đến cho cuộc sống, và tiền bạc chu toàn nhu cần cho mọi sự.
\s5
\v 20 Đừng rủa sã nhà vua, dù trong lý trí của con, và đừng rủa sã người giàu khi ở trong phòng ngủ. Vì chim trời sẽ đồn ra lời nói của con; và loài có cánh sẽ đồn chuyện ấy ra.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Hãy liệng bánh con trên mặt nước, vì con sẽ tìm nó lại sau nhiều ngày.
\v 2 Hãy chia sẻ bánh ấy cho bảy, hoặc thậm chí cho tám người, vì con không biết tai vạ nào sẽ giáng trên đất.
\v 3 Nếu mây đầy nước, tự nó rơi xuống đất, và nếu một cây ngã về hướng nam hay hướng bắc, hễ ngã chỗ nào nó phải ở chỗ đó.
\s5
\v 4 Người nào xem gió sẽ không gieo, và người nào xem mây sẽ không gặt.
\v 5 Giống như con không biết gió từ đâu đến, cũng không biết xương cốt của đứa trẻ lớn lên trong tử cung của mẹ nó là thể nào, thì cũng một thể ấy, con cũng chẳng hiểu được công việc của Đức Chúa Trời, là Đấng dựng nên muôn vật.
\s5
\v 6 Vào buổi sáng, hãy gieo giống đi; cho đến khi chiều xuống, hãy dùng tay làm việc khi cần thiết, vì con chẳng biết giống nào sẽ mọc tốt, dù sáng hay chiều, hoặc giống nầy hay giống kia, hoặc cả hai đều sẽ ra tốt.
\v 7 Ánh sáng thật là êm dịu, và con mắt nhìn thấy mặt trời quả rất sướng thay.
\v 8 Nếu ai đó sống nhiều năm, nguyện người ấy sống vui vẻ trọn các năm ấy, nhưng người cũng chớ quên những ngày tối tăm hầu đến, vì chúng sẽ rất nhiều. Mọi sự xảy đến đều là hơi nước hư không.
\s5
\v 9 Hỡi kẻ trẻ tuổi kia, hãy vui mừng đi trong buổi thiếu niên, và lòng con hãy hớn hở trong thời thơ ấu. Hãy theo đuổi những ước ao tốt lành của lòng mình, và bất cứ điều chi ở trong tầm mắt của con. Tuy nhiên, phải biết rằng Đức Chúa Trời sẽ đòi con đến mà đoán xét vì mọi việc ấy.
\v 10 Hãy cất bỏ cơn giận ra khỏi lòng con, và đừng nghĩ đến điều đau khổ nào nơi xác thịt con, vì lúc xuân xanh và sức lực nó đều là hơi nước cả đấy thôi.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Cũng hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá của con trong thời non trẻ, trước khi những ngày khó khăn xảy đến, và trước khi những năm tới mà con nói: “Ta không lấy làm vui lòng”.
\v 2 trước khi ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao khởi tối tăm, và mây xám trở lại sau cơn mưa.
\s5
\v 3 nhằm thời điểm kẻ canh cung điện run rẩy, và người mạnh sức cong khom, và những người nữ xay cối ngừng lại bởi vì có ít người, và những kẻ trông xem qua cửa sổ đã làng mắt.
\s5
\v 4 Đấy là lúc hai cánh cửa bên đường đóng lại, và tiếng xay không còn nghe thấy nữa, khi người ta chờ dậy lúc có tiếng chim kêu, và giọng ca hát của con gái đều lơi dần đi.
\s5
\v 5 Đấy là lúc mà người ta lo sợ cao độ và nguy hiểm dọc đường, và khi cây hạnh trổ bông, và khi cào cào kéo đi cách chậm chạp, và khi những ham muốn tự nhiên không còn có nữa. Khi ấy người ta đi đến nơi ở đời đời của mình, và những kẻ than khóc đi vòng quanh các đường phố.
\s5
\v 6 Hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa của con trước khi dây bạc đứt, hay chén vàng bể, hoặc vò vỡ ra bên suối, hay trục quay gãy ra trên giếng,
\v 7 trước khi bụi tro trở vào đất ở chỗ nó vốn có, và linh hồn trở về với Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó ra.
\s5
\v 8 Vị Giáo Sư nói: “Một đám sương hơi nước, mọi sự chỉ là hơi nước hư không”.
\v 9 Vị Giáo Sư là người khôn ngoan, và người dạy cho dân sự điều tri thức. Người đã nghiên cứu và suy gẫm rồi và sắp đặt thứ tự nhiều câu châm ngôn.
\s5
\v 10 Vị Giáo Sư tìm cách viết ra, sử dụng lời lẽ sinh động, chánh trực và chân thật.
\v 11 Lời của người khôn ngoan giống như cây đót. Giống như những mũi đinh đóng thật sâu là các câu châm ngôn của bậc thầy khi tuyển chọn các câu châm ngôn của họ, do một người chăn chiên truyền dạy.
\s5
\v 12 Con ơi, hãy tỉnh thức về nhiều việc: nhiều sách đã được viết ra; chúng chẳng cùng. Học nhiều quá khiến cho xác thịt thấy mỏi mệt.
\s5
\v 13 Lời kết của vấn đề, sau khi nghe hết mọi sự rồi, ấy là con phải kính sợ Đức Chúa Trời và giữ theo các điều răn của Ngài, vì đây là toàn bộ nghĩa vụ của con người.
\v 14 Vì Đức Chúa Trời sẽ đưa từng việc vào sự phán xét, cùng với từng việc kín nhiệm, hoặc thiện hay ác cũng vậy.

296
22-SNG.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,296 @@
\id SNG
\ide UTF-8
\h NHÃ CA
\toc1 NHÃ CA
\toc2 NHÃ CA
\toc3 sng
\mt NHÃ CA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Nhã ca trong các bài ca, thuộc về Sa-lô-môn. Thiếu nữ đang nói với người yêu của nàng.
\v 2 Ồ, người đã hôn tôi với những nụ hôn của miệng người, vì tình yêu của chàng ngon hơn rượu.
\v 3 Dầu xức chàng có mùi ưa thích; danh chàng giống như dầu đổ ra, vì vậy các thiếu nữ yêu mến chàng.
\v 4 Hãy đưa tôi đi với chàng, thì chúng tôi sẽ chạy theo. Người nữ nói với lòng mình: Nhà Vua đã đưa tôi vào các phòng của Ngài. Người nữ nói với người yêu mình: Tôi rất vui sướng; tôi vui mừng về chàng; hãy để tôi nhớ tới tình yêu chàng, tình yêu ấy ngon hơn rượu. Các thiếu nữ khác tôn sùng chàng thật là tự nhiên. Người nữ ấy đang nói với các thiếu nữ khác.
\s5
\v 5 Người nữ ấy nói với các người nữ khác: Tôi đen, song dễ thương, hỡi các con gái của những người ở Giê-ru-sa-lem — tôi đen như lều trại của Kê-đa, dễ thương như màn cửa của Sa-lô-môn.
\v 6 Đừng nhìn chăm tôi, vì tôi đen, vì mặt trời đã giọi nám tôi. Các con trai của mẹ tôi tức giận với tôi; họ đặt tôi làm người coi giữ vườn nho, còn vườn nho riêng của tôi, tôi không coi giữ. Người nữ nói cùng người yêu của nàng
\s5
\v 7 Hỡi người mà tôi yêu thương, hãy nói cho tôi biết, chàng chăn bầy ở đâu? Lúc giữa trưa, chàng cho chúng nằm nghĩ nơi nao? Vì sao tôi phải như một người nữ cứ lang thang bên bầy của các bạn chàng? Người yêu của nàng đáp cùng nàng
\s5
\v 8 Nếu nàng chưa biết, hỡi người đẹp hơn hết trong các người nữ, hãy lần theo dấu của bầy ta, và chăn các dê con mình gần bên trại của kẻ chăn chiên.
\s5
\v 9 Hỡi tình yêu của ta, ta sánh mình với ngựa cái giữa vòng bầy ngựa đánh xe của Pha-ra-ôn.
\v 10 Đôi gò má nàng thật xinh với đồ trang sức, cổ nàng đẹp với vòng trân châu.
\v 11 Ta sẽ làm cho nàng các đồ trang sức bằng vàng có chốt bạc. Người nữ nhũ lòng
\s5
\v 12 Trong khi nhà vua nằm trên chiếc ghế dài kia, cam tòng hương tôi xông mùi thơm nó ra.
\v 13 Đối với tôi, người tôi yêu giống như bó hoa một dược suốt cả đêm đặt giữa bộ ngực tôi.
\v 14 Đối với tôi, người tôi yêu giống như một chùm hoa phụng tiên cho tôi trong vườn nho Ên-Ghê-đi. Người yêu nàng nói cùng nàng
\s5
\v 15 Hỡi tình yêu của ta, hãy xem, nàng thật là xinh đẹp; hãy xem, nàng xinh đẹp thay; đôi mắt nàng giống như mắt của chim câu. Người nữ nói cùng người yêu của nàng
\s5
\v 16 Hỡi tình yêu của ta, hãy xem, chàng đẹp trai lắm, đẹp trai là dường nào. Các lùm cây sum suê làm thành giường nằm cho chúng ta.
\v 17 Các đòn tay nhà chúng ta là những nhánh cây hương nam, và rui nhà chúng ta đều là cây tùng.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Ta chỉ là một đoá hoa ở ngoài đồng, chỉ là hoa huệ trong trũng. Người nam ấy nói với nàng
\v 2 Như hoa huệ ở giữa gai góc, hỡi tình yêu của ta, nàng cũng như vậy, ở giữa đám con gái của người trong xứ. Người nữ nhũ lòng
\s5
\v 3 Như cây bình bát ở giữa những cây rừng, cũng vậy, tình yêu của ta ở giữa những người trẻ tuổi kia. Tôi ngồi dưới bóng người với sự vui thích lớn lắm, và trái người là ngọt ngào cho ổ gà tôi.
\v 4 Người đưa tôi vào sảnh yến tiệc, và ngọn cờ người phất trên tôi ấy là ái tình. Người nữ nói với người mình yêu
\s5
\v 5 Hãy dùng bánh nâng đỡ lòng tôi và bổ sức tôi lại với trái bình bát, vì tôi yếu đuối với tình yêu. Người nữ nhũ lòng
\v 6 Tay trái người lót dưới đầu tôi, còn tay phải người ôm lấy tôi. Người nữ nói với các người nữ khác
\s5
\v 7 Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, ta muốn các ngươi hứa bởi những con hoàng dương hay là con nai đồng nội, các ngươi chớ làm gián đoạn việc làm tình của chúng ta cho đến chừng việc ấy qua đi. Người nữ nhũ lòng
\s5
\v 8 Có tiếng của người yêu dấu của ta! Ồ, nầy người đến, nhảy qua các núi, vượt qua các đồi.
\v 9 Người yêu dấu của ta tôi giống như con hoàng dương hay là con nai tơ; kìa, người đứng sau tường chúng tôi, xem ngang qua cửa sổ, ngó ngang qua chấn song.
\s5
\v 10 Người yêu dấu ấy nói cùng ta rằng: “Hỡi tình yêu của ta, hãy chổi dậy; hỡi nàng xinh đẹp của ta ơi, hãy đến cùng ta.
\v 11 Vì kìa, mùa đông đã qua; cơn mưa đã dứt hết rồi.
\s5
\v 12 Bông hoa đã nở ra trên đất; mùa gieo cấy và tiếng hót các loài chim đã đến, và tiếng của chim bồ câu được nghe thấy trong xứ.
\v 13 Cây vả đang chín muồi, và cây nho trổ hoa nức mùi hương; Hỡi tình yêu của ta, người đẹp của ta ơi, tình yêu của ta, hãy đến.
\s5
\v 14 Hỡi chim bồ câu ta trong hóc đá, trong khe kín của núi đồi, hãy để cho ta xem thấy gương mặt mình. Nguyện ta nghe thấy tiếng của nàng; vì giọng nàng là êm dịu, và gương mặt nàng dễ thương”. Người nữ nhũ lòng
\s5
\v 15 Hãy bắt những con chồn cho chúng tôi, những con chồn nhỏ phá hại vườn nho, vì vườn nho của chúng tôi đang nở hoa.
\s5
\v 16 Người yêu tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về chàng; người vui sướng chăn bầy mình giữa đám hoa huệ. Người nữ nói với người yêu mình
\v 17 Người yêu của ta ơi, hãy đi đi trước khi các làn gió nhẹ lúc bình minh thổi ra và bóng tối tan đi. Hãy đi đi; hãy giống như con hoàng dương hay là con nai tơ trên vùng đồi núi chập chùng kia.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Ban đêm tại trên giường mình tôi ao ước người mà lòng tôi yêu dấu; tôi tìm kiếm người, song không thể gặp được.
\v 2 Tôi nhũ lòng: “Ta sẽ chổi dậy rồi vào quanh thành, trải qua các đường phố và quãng trường; ta sẽ tìm người yêu dấu của mình, nhưng ta không thấy người.
\s5
\v 3 Những kẻ canh tuần gặp tôi khi họ đi vòng quanh thành. Tôi hỏi họ: “Các ông có thấy người yêu của tôi đâu không! ”
\v 4 Chỉ một chút thôi sau khi tôi đi qua khỏi họ, thì gặp người mà hồn tôi yêu mến. Tôi nắm lấy người và không chịu buông ra cho đến khi đưa người vào nhà mẹ tôi, vào phòng ngủ của người đã thai dựng tôi. Người nữ nầy nói với các người nữ khác
\s5
\v 5 Ta muốn các ngươi thề, hỡi các con gái của người ở thành Giê-ru-sa-lem, bởi những hoàng dương hay là con nai của đồng ruộng, các ngươi sẽ không làm gián đoạn việc làm tình của chúng ta cho đến khi việc ấy xong rồi. Thiếu nữ nầy nhũ lòng
\s5
\v 6 Điều gì đang tới đến từ đồng vắng giống như cột khói, xông một dược và nhũ hương, với đủ thứ hương của giới thương buôn?
\v 7 Kìa, đó chính là kiệu của Sa-lô-môn; sáu mươi chiến binh vây quanh kiệu ấy, sáu mươi chiến binh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Họ giỏi cầm gươm và thành thạo trên chiến trường. Từng người một đều có gươm ở hông mình, được vũ trang chống lại những kinh khiếp trong ban đêm.
\v 9 Vua Sa-lô-môn làm cho mình một cái kiệu bằng gỗ lấy từ Li-ban.
\s5
\v 10 Người làm các chân kiệu ấy bằng bạc; chỗ dựa lưng bằng vàng, và chỗ ngồi bọc màu điều. Còn ở giữa lót bằng ái tình con gái của những người ở tại thành Giê-ru-sa-lem. Thiếu nữ nói với các người nữ ở thành Jerusalem
\v 11 Hỡi con gái của những người ở tại Si-ôn, hãy đi ra xem vua Sa-lô-môn, đội vương miện mà mẹ người đã đội trên đầu người trong ngày cưới của Sa-lô-môn, vào ngày vui sướng của đời người.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Ồ, hỡi tình yêu của ta, nàng xinh đẹp thay; nàng đẹp đẽ thay! Đôi mắt nàng là chim câu ở trong lúp. Tóc nàng giống như bầy dê nằm nơi triền núi Ga-la-át.
\s5
\v 2 Răng nàng giống như bầy chiên mới hớt lông, từ chỗ tắm rửa đi lên. Thảy đều sanh đôi, không một con nào son sẻ.
\s5
\v 3 Đôi môi nàng tợ sợi chỉ hồng; miệng nàng dễ thương thay. Đôi gò má nàng giống như quả lựu ở phía sau lúp nàng
\s5
\v 4 Cổ nàng giống như cái tháp của Đa-vít được dựng lên để treo đồ binh khí, với ngàn cái khiên treo tại đó, hết thảy khiên của chiến binh.
\v 5 Hai ngực nàng như cặp hoàng dương sanh đôi, thả ăn giữa đám hoa huệ.
\s5
\v 6 Cho đến khi bình minh ló dạng và bóng tối tan đi, ta sẽ đi lên núi một dược rồi đến đồi nhũ hương.
\v 7 Hỡi tình yêu của ta, nàng vốn xinh đẹp mọi bề, nơi nàng chẳng có tì vít gì cả.
\s5
\v 8 Cô dâu của ta ơi, hãy đến với ta từ Li-ban. Hãy đến với ta từ Li-ban; hãy đến từ đỉnh A-ma-na, từ đỉnh Sa-nia và Hẹt-môn, từ hang sư tử, từ núi con beo.
\s5
\v 9 Hỡi em gái ta, cô dâu của ta, nàng đã cướp lấy lòng ta; nàng đã cướp lấy lòng ta, với chỉ một cái liếc mắt, với chỉ món trang sức nơi cổ nàng.
\s5
\v 10 Hỡi em gái ta, cô dâu của ta ơi, ái tình mình đẹp là dường nào! Tình yêu nàng ngon hơn rượu dường bao, và mùi của dầu thơm nàng tốt hơn bất kỳ thức hương nào!
\v 11 Hỡi cô dâu của ta, đôi môi nàng nhỏ mật ong xuống; dưới lưỡi nàng có mật ong và sữa; mùi hương quần áo nàng giống mùi hương của Li-ban.
\s5
\v 12 Hỡi em gái ta, cô dâu của ta là vườn khép kín, một ngôi vườn khép kín, một dòng suốt bị niêm lại.
\v 13 Những nhánh nàng đầy thạch lựu và trái ngon và hoa phụng tiên cùng cây cam tòng.
\v 14 Cam tòng và hồng hoa, xương bồ và nhục quế với đủ loại hương thơm, một dược, lư hội với các hương liệu nổi tiếng.
\s5
\v 15 Nàng là dòng suối trong vườn, là giếng nước tươi mát, là dòng suối chảy xuống từ Li-ban! Thiếu nữ nói với người yêu của mình
\v 16 Hỡi gió bắc, hãy nổi dậy; hỡi gió nam, hãy thổi đến; hãy thổi trong vườn tôi hầu cho các mùi thơm nó toả lan ra! Nguyện người yêu tôi vào trong vườn người, và ăn các trái ngon ngọt của người!
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hỡi em gái ta, cô dâu của ta, ta đã vào trong vườn rồi; ta có thâu một dược với hương liệu. Ta ăn mật với tàng ong; Ta uống rượu với sữa ta. Các bạn ơi, hãy ăn: quí bạn ơi, hãy uống thoải mái, hỡi tình yêu của ta. Thiếu nữ nhũ lòng
\s5
\v 2 Ta ngủ, nhưng lòng ta tỉnh thức trong chiêm bao. Có tiếng gõ cửa của người yêu ta nói: “Hãy em gái ta, tình yêu của ta, chim bò câu ta, kẻ toàn hảo của ta ơi, hãy mở cửa cho ta, vì đầu ta đẩm sương, tóc ta ẩm ướt lúc ban đêm”.
\s5
\v 3 Ta đã cổi áo ngoài rồi; ta phải mặc nó lại ư? Ta đã rửa chân rồi, lẽ nào làm lấm lại?"
\v 4 Người yêu của ta thò tay vào lỗ cửa, và lòng ta rối lên vì người.
\s5
\v 5 Ta bèn trở dậy mở cửa cho người yêu ta; hai tay ta nhỏ giọt một dược, mấy ngón tay ta chảy một dược ròng trên chốt cửa.
\s5
\v 6 Ta mở cửa cho người yêu ta, nhưng người đã xây lưng đi rồi. Lòng ta trầm hẳn xuống; ta thấy chán chường. Ta tìm người, nhưng nào có gặp; ta gọi người, nhưng người chẳng đáp.
\s5
\v 7 Những kẻ canh tuần quanh thành gặp tôi; họ đánh tôi, và làm tổn thương tôi; những kẻ canh gác trên vách thành tước mất lúp khỏi tôi. Thiếu nữ nói với các người nữ trong thành
\s5
\v 8 Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, ta muốn các chị hứa rằng nếu gặp người yêu của ta, hãy nói với chàng rằng ta có bịnh vì tình cảm ta dành cho chàng. Các người nữ trong thành nói cùng thiếu nữ
\s5
\v 9 Hỡi nàng, là người xinh đẹp giữa các người nữ, người yêu của chị có gì hơn người khác chứ? Người yêu của chị có khác gì hơn người khác chứ, đến nỗi chị yêu cầu chúng tôi phải thề đến đỗi vậy? Thiếu nữ nói với các người nữ trong thành
\s5
\v 10 Người yêu tôi trắng và đỏ, nổi bật nhất trong muôn người.
\v 11 Đầu chàng bằng vàng thật ròng; tóc chàng quăn, và đen như quạ.
\s5
\v 12 Mắt chàng như đôi chim câu gần suối nước, tắm trong sửa, được điểm trang với đồ trang sức.
\s5
\v 13 Gò má chàng như các luống hoa thơm, mềm mại thơm ngát. Đôi môi chàng như hoa huệ, ướm chảy một dược ròng.
\s5
\v 14 Hai cánh tay chàng giống như vàng uốn khoanh với các thứ trang sức, thân hình chàng khác nào ngà bóng láng cẩn ngọc xanh.
\s5
\v 15 Hai chân chàng là trụ cẩm thạch trắng, đứng trên nền vàng ròng; dánh dấp chàng giống như núi Li-ban, xinh tốt như cây bá hương.
\s5
\v 16 Miệng chàng thật ngọt ngào; chàng rất đáng yêu. Hỡi con gái của những người ở trong thành Giê-ru-sa-lem, nầy là người yêu của ta, và đây là bạn tình ta!
\s5
\c 6
\p
\v 1 Hỡi người xinh đẹp hơn hết trong các người nữ, người yêu của chị đi đâu? Người yêu của chị đi về hướng nào, để chúng tôi sẽ cùng tìm người với chị? Thiếu nữ nhũ lòng
\s5
\v 2 Người yêu tôi đi xuống vườn người, nơi các luống hoa thơm, đặng trông coi vườn và hái hoa huệ.
\v 3 Tôi thuộc về người tôi yêu, và người tôi yêu thuộc về tôi; người vui vẻ trông coi giữa khóm hoa huệ. Người yêu của nàng nói cùng nàng
\s5
\v 4 Hỡi tình yêu của ta, nàng xinh đẹp như Thiệt sa, và dễ thương như Giê-ru-sa-lem, đáng sợ giống như một đạo quân với các ngọn cờ của nó.
\s5
\v 5 Hãy xây mắt nàng khỏi ta, vì chúng làm cho ta phải bối rối. Tóc nàng giống như bầy dê đang đi xuống triền núi Ga-la-át.
\s5
\v 6 Răng nàng như bầy chiên cái, từ nơi tắm rửa đi lên. Thảy đều sanh đôi, không một con nào son sẻ.
\v 7 Hai gò má nàng giống như quả lựu trong lúp. Người yêu của nàng nhũ lòng
\s5
\v 8 Có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và nhiều người nữ không đếm được.
\v 9 Hỡi bồ câu của ta, là người toàn hảo duy nhứt của ta; nàng là con gái đặc biệt của mẹ nàng, nàng là đứa con ưa thích của người đàn bà đã sanh ra nàng. Các người nữ của người trong xứ đều thấy nàng, và xưng nàng có phước; các hoàng hậu và cung phi cũng đã thấy nàng và họ khen ngợi nàng: Các hoàng hậu và cung phi nói như vầy:
\s5
\v 10 Người nữ nầy là ai, hiện ra như rạng đông, xinh đẹp như mặt trăng, sáng láng như mặt trời, và đáng sợ giống như một đạo quân với các ngọn cờ của nó? ” Người yêu nàng nhũ lòng
\s5
\v 11 Ta đi xuống vườn hạch đào, đặng xem cây cỏ xanh tươi của trũng, đặng thử coi vườn nho đã nứt đọt, thạch lựu đã nở hoa chưa!?!
\v 12 Ta vui sướng đến nỗi ta cảm thấy như mình đang đánh xe ngựa của một vì vua. Người yêu của nàng nói cùng nàng
\s5
\v 13 Hỡi người nữ trọn vẹn kia, hãy trở về, hãy trở về! Khá trở về, trở về, hầu cho ta có thể nom thấy nàng. Thiếu nữ nói với người nàng yêu: Vì sao các ngươi muốn nhìn thấy ta, người nữ trọn vẹn, giống như thể ta đang nhảy múa giữa hai hàng vũ công vậy sao?
\s5
\c 7
\p
\v 1 Hỡi con gái của nhà vua, chân nàng mang giày đẹp đẽ biết bao! Các đường cong vòng vế nàng giống như đồ trang sức, công việc của tay thợ khéo làm
\s5
\v 2 Rún nàng giống như cái ly tròn; nguyện nó chẳng hề thiếu rượu pha. Bụng nàng giống như đồi lúa mạch với hoa huệ bao quanh.
\s5
\v 3 Hai ngực nàng giống như hai con linh dương màu nâu sanh đôi.
\v 4 Cổ nàng giống như một cái tháp ngà; đôi mắt nàng giống các ao tại Hết-bôn bên cửa Bát-Ra-bim. Mũi nàng giống như tháp Li-ban ngó về hướng Đa-mách.
\s5
\v 5 Đầu ở trên mình nàng giống như núi Cạt-mên; mái tóc trên đầu nàng như sắc tía. Một vì vua bị lọn tóc nàng vấn vít.
\v 6 Hỡi tình yêu của ta, nàng đẹp đẽ và dễ thương thay, với các khoái cảm của nàng!
\s5
\v 7 Chiều cao nàng giống như cây chà là, và hai ngực nàng giống tợ chùm hoa quả.
\v 8 Ta nghĩ: “Ta sẽ trèo lên cây chà là; Ta sẽ nắm lấy các nhánh nó”. Nguyện hai ngực nàng giống như chùm nho, và nguyện mùi hương của nàng giống như trái bình bát.
\s5
\v 9 Nguyện miệng nàng giống như thứ rượu ngon nhất, chảy êm ả vào người tôi yêu, rồi tuôn ra nơi hàm răng nơi môi miệng. Thiếu nữ nói với người nàng yêu
\s5
\v 10 Tôi thuộc về người tôi yêu, và chàng khao khát tôi.
\v 11 Người tôi yêu ơi, hãy đến, chúng ta sẽ đi ra ngoài thành; chúng ta qua đêm trong các làng mạc.
\s5
\v 12 Chúng ta dậy sớm đi đến vườn nho; chúng ta xem coi nho có nứt đọt, có nở hoa, và thạch lựu có trổ bông hay chăng!?! Ở đó tôi sẽ dâng tình yêu tôi cho chàng.
\s5
\v 13 Trái phong già toả mùi hương nó ra; tại cửa nơi chúng ta ở lại có đủ thứ trái ngon, mới và cũ, mà tôi đã chừa lại cho chàng, hỡi người tôi yêu
\s5
\c 8
\p
\v 1 Tôi ước chàng làm anh tôi, kẻ đã bú mớm vú của mẹ tôi. Khi ấy, nếu tôi gặp chàng ở bên ngoài, tôi sẽ hôn chàng, và chẳng có ai xem khinh tôi được.
\s5
\v 2 Tôi sẽ dẫn chàng và đưa chàng vào nhà mẹ tôi, và chàng sẽ dạy dỗ tôi. Tôi sẽ dâng rượu thơm cho chàng để uống và nước ngọt của trái thạch lựu tôi. Thiếu nữ nhũ lòng
\v 3 Tay trái chàng sẽ kê dưới đầu tôi; tay phải chàng ôm lấy tôi. Người nữ nói với các người nữ khác
\s5
\v 4 Ta muốn các chị thề, hỡi các con gái của những người ở tại Giê-ru-sa-lem, rằng các chị sẽ không làm gián đoạn việc làm tình của chúng tôi cho đến khi việc ấy đã xong. Những người nữ ở Giê-ru-sa-lem nói:
\s5
\v 5 Người nữ nầy là ai, đi lên từ đồng vắng, đang tựa vào người nàng yêu? Thiếu nữ nói với người nàng yêu, ta đã đánh thức chàng ở dưới cây bình bát: Ở đó mẹ chàng sanh chàng ra, ở đó bà đã sanh chàng ra, bà đã sanh chàng ra.
\s5
\v 6 Xin đặt tôi như một cái ấn trên lòng chàng, giống như cái ấn trên cánh tay chàng, vì tình yêu thương mạnh như sự chết. Tình cảm quá mấu tàn nhẫn giống như âm phủ; các ngọn lửa bùng lên; đây là một ngọn lửa sáng rực, nóng nảy hơn bất kỳ ngọn lửa nào khác.
\s5
\v 7 Nước nhiều không dập tắt được tình yêu, cũng không có lũ lụt nào dập tắt nó được. Nếu một người nào dâng hết tài sản trong nhà mình để có được tình yêu, sự cống hiến đó sẽ hoàn toàn bị khinh dể. Các anh của thiếu nữ nói giữa vòng họ
\s5
\v 8 Chúng ta có một đứa gái nhỏ, và hai ngực nó chưa lớn. Chúng ta phải làm gì cho em gái chúng ta, trong ngày người đính ước hôn nhân?
\s5
\v 9 Nếu nàng là một vách thành, chúng tôi sẽ xây tháp bạc trên đó. Nếu nàng là cái cửa, chúng tôi sẽ trang hoàng bằng ván hương nam.
\s5
\v 10 Tôi là một tường thành, nhưng hai ngực tôi giờ đây giống như ngọn tháp của đồn luỹ; vì thế tôi hoàn toàn trước mặt Ngài. Thiếu nữ nhũ lòng
\s5
\v 11 Sa-lô-môn có một vườn nho ở Ba-anh Ha-môn; ông giao vườn ấy cho kẻ canh giữ. Mỗi người ấy phải đem nộp một ngàn miếng bạc về hoa lợi nó.
\v 12 Vườn nho của tôi ở ngay trước mặt tôi; Hỡi Sa-lô-môn yêu dấu của ta, một ngàn siếc-lơ bạc sẽ về phần ông, và hai trăm thuộc về những kẻ giữ lấy nó vì cớ hoa lợi nó. Người yêu của thiếu nữ nói cùng nàng
\s5
\v 13 Hỡi kẻ ở trong vườn, bạn bè tôi đều lắng tai nghe tiếng nàng; xin cho phép ta trở thành người duy nhứt nghe tiếng nàng! Thiếu nữ nói cùng người nàng yêu
\s5
\v 14 Người yêu của tôi ơi, hãy vội đến, và hãy giống như con hoàng dương hay là như con nai tơ trên các núi thuốc thơm.

2811
23-ISA.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2811 @@
\id ISA
\ide UTF-8
\h Ê-SAI
\toc1 Ê-SAI
\toc2 Ê-SAI
\toc3 isa
\mt Ê-SAI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Khải tượng mà Ê-sai con trai A-mốt đã thấy liên quan đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong thời các vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia của nước Giu-đa.
\s5
\v 2 Hỡi các tầng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; vì Giê-hô-va phán: “Ta đã nuôi nấng và dưỡng dục con cái, nhưng chúng lại phản loạn với Ta.
\v 3 Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, nhưng Y-sơ-ra-ên không biết, Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu.
\s5
\v 4 Khốn cho đất nước phạm tội, một dân tộc trĩu nặng lỗi lầm, dòng giống của kẻ làm dữ, những đứa con làm chuyện đồi bại! Chúng đã từ bỏ Giê-hô-va, chúng đã khinh dễ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, chúng đã xa lánh Ngài.
\s5
\v 5 Vì sao các ngươi vẫn còn chịu bị đánh? Vì sao các người lại cứ mãi phản loạn? Cả cái đầu đều ốm, cả tấm lòng đều yếu mỏn.
\v 6 Từ gang bàn chân cho đến đỉnh đầu chẳng có chỗ nào không bị tổn thương; chỉ toàn là thương tích, vết bầm, và vết thương mới còn để hở; chúng vẫn chưa được rịt lại, chưa được rửa sạch, chưa được băng bó, chưa được bôi dầu.
\s5
\v 7 Xứ sở các ngươi bị tàn hại; thành quách các ngươi bị đốt cháy; ruộng đồng các ngươi thì — những kẻ xa lạ hủy phá chúng ngay trước mặt các ngươi — bị bỏ phế, bị người ngoại quốc phá sạch.
\v 8 Con gái Si-ôn bị bỏ lại như túp lều trong vườn nho, như nhà kho trong vườn dưa, như thành bị vây hãm.
\s5
\v 9 Nếu Giê-hô-va của các đạo binh không chừa cho chúng ta một ít người sót lại thì chúng ta đã giống như Sô-đôm, chúng ta đã giống như Gô-mô-rơ.
\s5
\v 10 Hỡi giới cai trị Sô-đôm, hãy nghe lời Giê-hô-va; hỡi dân chúng Gô-mô-rơ, hãy lắng tai nghe luật pháp của Đức Chúa Trời chúng ta:
\v 11 Giê-hô-va phán: “Muôn vàn sinh tế của các ngươi có ý nghĩa gì đối với Ta? Ta đã chán ngấy các của lễ thiêu bằng chiên đực, và mỡ của thú được vỗ béo; Ta cũng chẳng vui thích máu của bò đực, chiên con hoặc dê.
\s5
\v 12 Khi các người đến ra mắt Ta, ai đòi các ngươi phải làm vậy, để rồi giẫm đạp lên sân đền của Ta?
\v 13 Hãy thôi đem các của lễ vô nghĩa đó đi; Ta ghê tởm mùi hương rồi; còn các cuộc nhóm họp vào ngày trăng mới và ngày Sa-bát — Ta không chịu được các dịp hội họp đó.
\s5
\v 14 Ta ghét ngày trăng mới cùng các lễ hội đã được ấn định của các ngươi; chúng chỉ là gánh nặng đối với Ta; Ta đã chán chê chúng rồi.
\v 15 Cho nên khi các ngươi giơ tay cầu nguyện, thì Ta che mắt lại; cho dù các ngươi có dâng lên nhiều lời cầu khẩn thì Ta cũng chẳng nghe; tay các người đã vấy máu.
\s5
\v 16 Hãy tắm rửa và làm sạch mình đi; hãy loại bỏ các việc ác của các ngươi khỏi trước mặt Ta; hãy thôi làm dữ;
\v 17 hãy học làm lành; hãy tìm kiếm sự công bình, giúp đỡ người bị áp bức, cư xử công bình với kẻ côi cút, bênh vực giới quả phụ.”
\s5
\v 18 Giê-hô-va phán: “Hãy đến, rồi chúng ta cùng nhau tranh luận; dầu tội lỗi các ngươi như hồng điều cũng sẽ trắng như tuyết; dầu nó có như màu đỏ thẳm thì cũng sẽ giống như lông chiên.
\s5
\v 19 Nếu các ngươi sẵn lòng và vâng lời thì các ngươi sẽ được ăn vật tốt của xứ.
\v 20 Nhưng nếu các ngươi từ chối và nổi loạn thì gươm sẽ ăn nuốt các ngươi, ” vì miệng của Giê-hô-va đã phán lời ấy.
\s5
\v 21 Thể nào thành trung tín đã trở thành gái điếm! Lúc trước nó thật công bình — nó vốn công chính, nhưng giờ thì nó toàn là bọn sát nhân.
\v 22 Bạc các ngươi đầy tạp chất, rượu ngươi bị lẫn với nước.
\s5
\v 23 Giới quan tướng các ngươi là kẻ phản nghịch và bạn của kẻ trộm; ai cũng thích được hối lộ và tìm kiếm của đút lót. Chúng không bênh vực kẻ côi cút, lời khẩn xin của quả phụ cũng chẳng đến được trước mặt chúng nó.
\s5
\v 24 Vậy nên đây là tuyên bố của Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Năng Quyền của Y-sơ-ra-ên: “Bất hạnh thay cho chúng nó! Ta sẽ báo thù các cừu địch Ta, và báo trả các kẻ thù mình;
\v 25 Ta sẽ trở tay chống lại ngươi, luyện lọc hết cặn bã của ngươi, và cất đi mọi tội lỗi ngươi.
\s5
\v 26 Ta sẽ lập lại các quan xử án ngươi giống như lúc trước, phục hồi lại các trạng sư của ngươi như lúc ban đầu; sau đó ngươi sẽ được gọi là thành công chính, thị trấn trung tín.”
\s5
\v 27 Si-ôn sẽ được chuộc bởi sự công bình, những kẻ biết ăn năn của nó sẽ được cứu bởi sự công chính.
\v 28 Kẻ phản loạn cùng kẻ phạm tội sẽ cùng bị tiêu diệt, và kẻ lìa bỏ Giê-hô-va sẽ bị trừ khử.
\s5
\v 29 “Vì ngươi sẽ xấu hổ về các cây sồi linh thiêng mình ước muốn, ngươi sẽ bị mất mặt vì những khu vườn mình đã chọn.
\v 30 Vì ngươi sẽ như cây sồi khô lá, như khu vườn thiếu nước.
\s5
\v 31 Người mạnh sức sẽ như bùi nhùi, công việc nó giống như tia lửa; cả hai sẽ cùng cháy mà chẳng ai dập tắt được.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Những điều Ê-sai con trai A-mốt đã thấy trong một khải tượng, về nước Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Vào những ngày về sau này, núi của nhà Giê-hô-va sẽ được lập cao hơn tất cả các núi, và sẽ được tôn cao lên trên các đồi; tất cả các dân sẽ đổ về đó.
\s5
\v 3 Nhiều dân sẽ đến nói: “Hãy đến, chúng ta sẽ đi lên núi của Giê-hô-va, lên nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp, để Ngài dạy chúng ta một số đường lối Ngài, rồi chúng ta bước đi trong các nẻo Ngài. ” Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời của Giê-hô-va ra từ Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 4 Ngài sẽ phân xử giữa các quốc gia và sẽ đưa ra phán quyết cho nhiều dân tộc; họ sẽ lấy gươm của họ rèn thành lưỡi cày, và lấy cái giáo rèn thành lưỡi liềm; nước này sẽ không vung gươm chống lại nước kia, cũng không còn luyện tập chinh chiến nữa.
\s5
\v 5 Hỡi nhà Gia-cốp, hãy đến, chúng ta sẽ bước đi trong ánh sáng của Giê-hô-va.
\v 6 Vì Chúa đã từ bỏ dân Ngài, là nhà của Gia-cốp, do họ đầy dẫy các thói tục từ đông phương, làm những người giải điềm như dân Phi-li-tin, và giao kết với con cái người ngoại quốc.
\s5
\v 7 Xứ chúng đầy bạc, vàng, và của cải chúng thì vô kể; xứ chúng cũng đầy dẫy ngựa, còn xe ngựa thì vô số.
\v 8 Xứ chúng cũng đầy dẫy tượng thần; chúng phụng thờ sản phẩm của chính tay mình, những thứ do chính các ngón tay chúng tạo ra.
\s5
\v 9 Con người ta sẽ phải cúi mình, các cá nhân sẽ suy vi; vậy nên đừng chấp nhận họ.
\v 10 Hãy đi vào những nơi có đá và ẩn mình trong đất mà tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài.
\v 11 Trong ngày đó, cái nhìn cao kỳ của người ta sẽ bị hạ xuống, lòng kiêu ngạo của con người sẽ bị hạ bệ, và chỉ có Giê-hô-va được tôn lên.
\s5
\v 12 Vì sẽ có một ngày Giê-hô-va của các đạo binh sẽ chống lại mọi kẻ kiêu ngạo và lên mình, cùng mọi kẻ ngạo mạn, và họ sẽ bị hạ xuống —
\v 13 cùng mọi cây bá hương của Li-ban cao kỳ và lên mình, cùng mọi cây sồi của Ba-san,
\s5
\v 14 cùng mọi ngọn núi cao, cùng mọi quả đồi ngạo nghễ,
\v 15 cùng mọi ngọn tháp cao, cùng mọi tường thành kiên cố,
\v 16 cùng mọi tàu bè Ta-rê-si, cùng mọi thuyền buồm đẹp đẽ.
\s5
\v 17 Lòng kiêu ngạo của người ta sẽ bị hạ xuống, tính cao kỳ của con người sẽ đổ sập; chỉ Giê-hô-va được tôn lên trong ngày đó.
\v 18 Tượng thần sẽ hoàn toàn qua đi.
\v 19 Người ta sẽ vào trong các hang đá, vào các hầm dưới đất để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va, cùng vẻ rực rỡ của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài trổi dậy để làm khiếp hãi đất.
\s5
\v 20 Trong ngày đó, người ta sẽ cất bỏ các tượng thần bằng bạc, bằng vàng mà họ đã làm ra cho mình để phụng thờ — họ sẽ ném chúng cho chuột chũi và dơi.
\v 21 Người ta sẽ vào hang đá và vào kẽ đá để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài chỗi dậy để làm kinh hãi đất.
\v 22 Hãy thôi nhờ cậy con người, là loài có hơi sống trong lỗ mũi, vì những gì họ làm có được gì đâu?
\s5
\c 3
\p
\v 1 Này, Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh sắp rút đi trụ chống đỡ lẫn cây trượng khỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, tức toàn bộ nguồn cung cấp bánh, mọi nguồn cung cấp nước,
\v 2 trang anh hùng, người chiến binh, quan xử án, nhà tiên tri, kẻ giải điềm, trưởng lão;
\v 3 quan cai đội, thân hào, mưu sĩ, nghệ nhân, thuật sĩ.
\s5
\v 4 “Ta sẽ cắt đặt các thanh niên lãnh đạo họ, và giới trẻ sẽ cai trị họ.
\v 5 Dân chúng bị áp bức, người này áp bức người kia, láng giềng áp bức lẫn nhau; trẻ con sẽ lên mặt xem thường người cao tuổi, kẻ chẳng ra gì sẽ thách thức người đáng kính.
\s5
\v 6 Người ta thậm chí nắm lấy người anh em trong nhà cha mình và nói: Người còn áo choàng; hãy cai quản chúng tôi, và giải quyết tình trạng tồi tệ này.
\v 7 Trong ngày đó, người kia sẽ lớn tiếng bảo: Tôi không cứu chữa được đâu; tôi chẳng còn bánh hoặc quần áo gì cả. Các người đừng chọn tôi lãnh đạo dân chúng. ’”
\s5
\v 8 Vì Giê-ru-sa-lem bị tan hoang, Giu-đa đã sụp đổ, vì lời nói lẫn việc làm của chúng chống nghịch lại Giê-hô-va, xem thường thẩm quyền rất lớn của Ngài.
\v 9 Vẻ mặt của chúng làm chứng chống lại chúng; chúng nói về tội lỗi mình chẳng khác nào Sô-đôm, chẳng cần giấu giếm. Bất hạnh thay cho chúng! Vì chúng đã tự chuốc lấy thảm họa cho mình.
\s5
\v 10 Hãy nói cho người công chính biết họ sẽ bình an vô sự; vì người sẽ ăn trái của việc mình làm.
\v 11 Bất hạnh thay cho kẻ ác! Hắn sẽ không được hanh thông, vì hắn sẽ nhận lấy những gì tay hắn đã gây ra.
\v 12 Ôi dân Ta — trẻ con áp chế chúng, phụ nữ cai trị chúng. Hỡi dân Ta, giới lãnh đạo dẫn dắt các người đi lạc lối, khiến các người bị lầm đường.
\s5
\v 13 Giê-hô-va trỗi dậy để xét xử; Ngài chờ dậy để xét đoán dân Ngài.
\v 14 Giê-hô-va sẽ tuyên phạt giới trưởng lão và các quan chức trong dân Ngài: “Các ngươi đã ăn sạch vườn nho; đồ cưỡng chiếm của dân nghèo ở trong nhà các ngươi.
\v 15 Sao các ngươi chèn ép dân Ta và áp bức người nghèo khó? ” Đó là tuyên bố của Chúa, là Giê-hô-va của các đạo binh.
\s5
\v 16 Giê-hô-va phán các con gái Si-ôn kiêu kỳ, bước đi đầu ngẫng cao, liếc mắt đưa tình, dáng đi ỏng ẹo, chân khua lẻng kẻng.
\v 17 Vậy nên Chúa sẽ khiến đầu của con gái Si-ôn đóng vảy bệnh, và Giê-hô-va sẽ khiến chúng bị hói.
\s5
\v 18 Trong ngày đó, Chúa sẽ lột hết nữ trang đẹp đẽ trên mắt cá chúng nó, cùng với đồ cài tóc, các món trang sức hình lưỡi liềm,
\v 19 bông tai, vòng đeo tay, khăn voan; khăn
\v 20 trùm đầu, chuyền mắt cá, thắt lưng, hộp hương, và bùa may mắn.
\s5
\v 21 Ngài sẽ lột mất nhẫn và đá quý đeo mũi;
\v 22 áo hội hè, áo khoác, mạng che mặt, túi xách;
\v 23 gương soi, đồ bằng vải lanh mỏng, vật đội đầu.
\s5
\v 24 Sẽ có mùi hôi thay vì hương thơm; dây thừng thay vì nịt lưng; hói đầu thay vì tóc kiểu; vải thô quấn mình thay vì áo choàng; dấu sắt nung thay vì vẻ đẹp.
\v 25 Giới nam nhi các ngươi sẽ ngã chết vì gươm, những kẻ trai tráng các ngươi sẽ tử trận.
\v 26 Các cổng Giê-ru-sa-lem sẽ than vãn, khóc thương; nó sẽ ngồi trơ trọi một mình dưới đất.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Trong ngày đó bảy phụ nữ sẽ nắm lấy một người đàn ông và bảo: “Bọn em sẽ tự lo bánh ăn, tự sắm đồ mặc, chỉ cần cho chúng em mang danh của anh để khỏi bị xấu hổ. ”
\v 2 Trong ngày đó, nhánh của Giê-hô-va sẽ đẹp đẽ và rực rỡ, trái cây trong xứ thì ngon ngọt và thú vị đối với những kẻ sống sót tại Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 3 Khi đó, ai còn sót lại tại Si-ôn, ai còn ở lại Giê-ru-sa-lem, sẽ được gọi là thánh, tức mọi kẻ được ghi nhận đang sống tại Giê-ru-sa-lem,
\v 4 khi Chúa đã rửa sạch sự ô uế của các con gái Si-ôn, và thanh tẩy các vết máu khỏi giữa vòng Giê-ru-sa-lem, bởi thần linh công bình, bởi thần linh thiêu đốt.
\s5
\v 5 Rồi Giê-hô-va sẽ phủ lên toàn vùng núi Si-ôn cùng chỗ nhóm hội của nó mây với khói vào ban ngày, ngọn lửa soi sáng vào ban đêm; một cái vòm che phủ mọi vinh quang.
\v 6 Nó sẽ là chỗ trú nóng làm bóng che ban ngày, nơi ẩn náu được bảo vệ khỏi bão táp, mưa sa.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hãy để ta hát tặng người rất yêu dấu ta, một bài ca của bạn yêu dấu ta về vườn nho người. Bạn rất yêu dấu của ta có một vườn nho trên một ngọn đồi mầu mỡ.
\v 2 Người đào xới, dọn sạch sỏi đá, rồi trồng lên đó giống nho thượng hảo hạng. Người xây một cái tháp ngay chính giữa vườn, và cũng xây một bàn ép rượu. Người trông đợi nó sẽ sinh ra trái nho tốt, nhưng nó lại sinh trái nho dại.
\s5
\v 3 Thế thì giờ đây, hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa, hãy phân xử giữa Ta và vườn nho Ta.
\v 4 Còn điều gì có thể làm được cho vườn nho Ta mà Ta chưa làm cho nó chăng? Vì sao khi Ta trông mong nó sinh trái nho ngon thì nó lại sinh trái nho dại?
\s5
\v 5 Bây giờ Ta sẽ cho các ngươi biết việc Ta sẽ làm cho vườn nho mình; Ta sẽ bứng hàng rào đi; Ta sẽ biến nó thành đồng cỏ; Ta sẽ phá sập tường nó, và nó sẽ bị người ta giẫm đạp lên.
\v 6 Ta sẽ bỏ hoang nó, và nó sẽ không được cắt tỉa, cuốc xới. Rồi tầm xuân và gai gốc sẽ mọc lên; Ta cũng sẽ ban lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống trên nó.
\s5
\v 7 Vì vườn nho của Giê-hô-va chính là nhà Y-sơ-ra-ên, và người của Giu-đa là cây mà Ngài ưa thích; Ngài trông đợi sự công bình nhưng thay vào đó lại có giết chóc; Ngài trông đợi sự công chính, nhưng thay vào đó là tiếng kêu cứu.
\s5
\v 8 Bất hạnh thay cho kẻ thêm nhà vào nhà, thêm ruộng vào ruộng, cho đến khi chẳng còn chỗ, và chỉ còn lại mình ở trong xứ!
\v 9 Giê-hô-va của các đạo binh đã cho ta biết là nhiều ngôi nhà sẽ trống trơn chẳng có ai ở, kể cả những ngôi nhà to lớn, nguy nga.
\v 10 Vì mười mẫu vườn nho sẽ chỉ sinh được một vại, và một ô-me hạt giống chỉ sinh được một ê-pha.
\s5
\v 11 Bất hạnh thay cho những kẻ thức dậy lúc sáng sớm để tìm đến thức uống say, nấn ná đến tối cho đến khi rượu đốt cháy mình!
\v 12 Chúng tiệc tùng với đàn hạt, đàn luýt, trống lắc, sáo và rượu, nhưng lại không nhận biết công việc của Giê-hô-va, chẳng suy xét các việc tay Ngài làm.
\s5
\v 13 Cho nên dân ta đã bị lưu đày vì thiếu trí hiểu; giới lãnh đạo chúng nó phải nhịn đói, còn dân chúng thì chịu khát.
\v 14 Vì vậy sự chết càng thèm khát hơn và đã há miệng thật lớn; thành phần ưu tú, dân chúng, giới lãnh đạo, các tay ăn chơi và những kẻ sung sướng giữa vòng họ đều xuống âm phủ.
\s5
\v 15 Người ta bị hạ bệ, kẻ quyền thế bị hạ xuống, mắt cao kỳ bị đánh hạ.
\v 16 Giê-hô-va của các đạo binh được tôn lên trong sự công bình Ngài, và Đức Chúa Trời là Đấng Thánh cho thấy Ngài là thánh bởi sự công chính của Ngài.
\v 17 Rồi chiên sẽ ăn như ăn trong đồng cỏ mình, chiên con sẽ gặm cỏ trong chốn hoang tàn của kẻ giàu.
\s5
\v 18 Bất hạnh thay cho kẻ dùng dây kiêu căng kéo theo việc sai trái mình, dùng dây kéo xe kéo theo tội lỗi mình;
\v 19 là kẻ nói: “Đức Chúa Trời hãy mau đi, Chúa hãy sớm hành động đi, để chúng tôi thấy việc xảy ra; nguyện các chương trình của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên thành hình và được thực hiện để chúng tôi biết chúng ra sao!”
\s5
\v 20 Bất hạnh thay cho kẻ gọi dữ là lành, lành là dữ; xem tối là sáng, sáng là tối; xem đắng là ngọt, ngọt là đắng!
\v 21 Bất hạnh thay cho kẻ khôn ngoan theo mắt mình, kẻ khôn khéo theo sự hiểu biết riêng của mình!
\s5
\v 22 Bất hạnh thay cho kẻ giỏi uống rượu, có tài pha thức uống say;
\v 23 nhận tiền để miễn tội cho kẻ ác, và tước đoạt quyền của người vô tội!
\s5
\v 24 Vì vậy, như ngọn lửa thiêu nuốt gốc rạ, như cỏ khô cháy rụi trong lửa thì cũng vậy, rễ chúng sẽ mục rữa, và hy vọng của chúng cũng bay đi như tro bụi, vì chúng đã khước từ luật pháp của Giê-hô-va của các đạo binh và khinh dễ lời Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 25 Vậy nên cơn giận của Giê-hô-va nổi lên cùng dân Ngài, và Ngài đã đưa tay ra nghịch lại họ, trừng phạt họ; các núi run rẩy và các thây họ khác nào rác rưởi trên đường phố. Dầu vậy, cơn giận của Ngài vẫn không nguôi đi, Ngài vẫn giá tay lên để đánh họ nữa.
\s5
\v 26 Ngài sẽ giương lên một cờ hiệu cho một dân ở xa và sẽ huýt sáo gọi chúng từ tận cùng trái đất. Kìa, chúng sẽ vội đến ngay tức thì.
\s5
\v 27 Giữa vòng chúng không ai mệt mỏi, vấp ngã; chẳng ai chợp mắt, ngủ nghỉ; chẳng có ai nới thắt lưng hoặc bị đứt quai dép;
\v 28 các mũi tên chúng đều nhọn, tất cả cung đều giương sẵn; móng ngựa chúng giống đá lửa, bánh xe thì như bão tố.
\s5
\v 29 Tiếng rống của chúng giống sư tử, chúng sẽ gầm thét như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm rống và vồ lấy mối rồi lôi đi mà chẳng ai giải cứu được.
\v 30 Trong ngày đó chúng sẽ gầm lên trước con mồi của mình như biển cuồng nộ. Nếu người nào đảo mắt nhìn qua xứ này, họ sẽ thấy tối tăm và hoạn nạn, vì ánh sáng đã bị mây che tối.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Vào năm vua Ô-xia qua đời, tôi thấy Chúa ngồi trên ngôi; Ngài cao cả và oai nghi, vạt áo Ngài đầy khắp đền thờ.
\v 2 Bên trên Ngài là các sê-ra-phin; mỗi đấng có sáu cánh; hai cánh che mặt, hai cánh che chân, hai cánh để bay.
\s5
\v 3 Các sê-ra-phin nói lớn với nhau: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay Giê-hô-va của các đạo binh! Cả trái đất đầy vinh quang Ngài.”
\s5
\v 4 Các cửa cùng ngạch cửa đều rúng động vì những tiếng kêu lớn đó, còn ngôi đền thì đầy khói.
\v 5 Lúc đó, tôi nói: “Bất hạnh cho tôi! Tôi tận số rồi vì tôi là người có môi uế tục, tôi sống giữa một dân có môi uế tục, vì mắt tôi đã thấy Vua, là Giê-hô-va, tức Giê-hô-va của các đạo binh!”
\s5
\v 6 Khi ấy, một sê-ra-phin bay đến chỗ tôi; tay người cầm than lửa đỏ mà người đã dùng cái gắp lấy từ bàn thờ.
\v 7 Người để than chạm vào miệng tôi và nói: “Này, than này đã chạm vào môi anh; lỗi anh đã được cất đi, tội anh đã được chuộc.”
\s5
\v 8 Tôi nghe tiếng của Chúa phán: “Ta sẽ sai phái ai đây; ai sẽ đi cho chúng ta? ” Tôi thưa: “Con đây; xin Chúa sai con. ”
\v 9 Ngài bảo: “Hãy đi nói với dân này rằng hãy nghe nhưng đừng hiểu; hãy thấy, nhưng đừng nhận biết.
\s5
\v 10 Hãy khiến lòng của dân này nên chai đá, khiến tai chúng bị điếc, mắt chúng bị mù, kẻo mắt chúng thấy được, tai chúng nghe được, lòng chúng hiểu được, và chúng sẽ trở về để được chữa lành.”
\s5
\v 11 Tôi thưa: “Trong bao lâu nữa, thưa Chúa? ” Chúa đáp: “Cho đến khi các thành điêu tàn, không còn dân cư, nhà không còn người ở, và đất trở nên hoang vu,
\v 12 cho đến khi Giê-hô-va đã đưa dân chúng đi xa và tình trạng hiu quạnh của xứ lan rộng.
\s5
\v 13 Thậm chí nếu chỉ một phần mười số dân còn lại trong xứ thì họ cũng sẽ lại bị tiêu diệt; như cây dẻ, cây sồi bị đốn mà vẫn còn lại thân, thì hạt giống thánh cũng ở trong gốc nó.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Vào thời của A-cha, con trai Giô-tham, cháu Ô-xia, vua nước Giu-đa, Rê-xin, vua xứ A-ram, và Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, kéo lên Giê-ru-sa-lem gây chiến, nhưng không thắng được.
\v 2 Có tin báo cho nhà Đa-vít rằng A-ram liên minh với Ép-ra-im. A-cha lẫn dân chúng đều kinh hãi trong lòng, như cây trong rừng bị gió lay động.
\s5
\v 3 Lúc đó, Giê-hô-va bảo Ê-sai: “Hãy cùng con trai con là Sê-a Gia-súp đi gặp A-cha tại cuối kênh dẫn nước của hồ thượng, trên đường đến cánh đồng thợ giặt.
\v 4 Hãy bảo người: Hãy cẩn thận, cứ bình tĩnh, đừng sợ hãi hay kinh khiếp vì hai khúc gỗ đang âm ỉ này, tức cơn thạnh nộ của Rê-xin và A-ram, cũng như của Phê-ca, con trai Rê-ma-lia.
\s5
\v 5 A-ram, Ép-ra-im và con trai của Rê-ma-lia đã lập mưu ác đối với ngươi; chúng bảo:
\v 6 “Chúng ta hãy tiến đánh Giu-đa và khiến chúng khiếp đảm, rồi chúng ta sẽ vào đó và lập người của chúng ta làm vua, tức con trai của Ta-bê-ên.”
\s5
\v 7 Chúa Giê-hô-va phán: “Sẽ không có chuyện đó. Việc ấy sẽ không xảy ra,
\v 8 vì đầu của A-ram là Đa-mách, đầu của Đa-mách là Rê-xin. Trong sáu mươi năm nữa, Ép-ra-im sẽ tan tành và không còn là một dân nữa.
\v 9 Đầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri, đầu của Sa-ma-ri là con trai Rê-ma-lia. Nếu các ngươi không kiên định trong đức tin thì các ngươi hẵn sẽ không đứng vững được.”
\s5
\v 10 Chúa lại phán với A-cha:
\v 11 “Hãy xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho một dấu hiệu; hãy cầu xin dấu đó ở dưới vực sâu hoặc trên trời cao. ”
\v 12 Nhưng A-cha- nói: “Ta sẽ không xin, cũng chẳng thử Giê-hô-va.”
\s5
\v 13 Vì vậy, Ê-sai đáp: “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe đây. Các người thử lòng kiên nhẫn của dân chúng vẫn chưa đủ sao mà nay lại cũng thử lòng kiên nhẫn của Đức Chúa Trời ta nữa?
\v 14 Vậy nên chính Chúa sẽ ban cho các người một dấu hiệu: này, một thiếu nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và sẽ đặt tên cho nó là Em-ma-nu-ên.
\v 15 Nó sẽ ăn sữa đông và mật khi biết từ chối điều dữ và chọn điều lành.
\s5
\v 16 Vì trước khi đứa trẻ biết từ chối điều dữ và chọn điều lành thì xứ của hai vua mà các người sợ đó sẽ bị tan hoang.
\v 17 Giê-hô-va sẽ khiến xảy đến trên các người, trên dân chúng các người, và trên nhà cha các người những ngày như chưa từng có kể từ khi Ép-ra-im ly khai khỏi Giu-đa — Ngài sẽ đưa vua A-si-ri đến.
\s5
\v 18 Lúc đó, Giê-hô-va sẽ huýt gọi con ruồi từ các dòng suối xa xăm của Ai Cập, và gọi con ong từ xứ A-si-ri.
\v 19 Tất cả chúng sẽ đến đậu trong mọi hẽm núi, trong mọi kẽ đá, trên mọi bui gai cùng mọi đồng cỏ.
\s5
\v 20 Khi ấy, Chúa sẽ dùng lưỡi dao cạo thuê mướn bên kia sông Ơ-phơ-rát — tức vua A-si-ri — Ngài sẽ cạo đầu các người, lông chân các người; Ngài cũng sẽ cạo sạch râu các người.
\v 21 Vào ngày đó, mỗi người sẽ nuôi một bò cái tơ và hai con cừu,
\v 22 và nhờ lượng sữa dồi dào do chúng cung cấp, nên họ sẽ ăn sữa đông, vì mọi người còn lại trong xứ sẽ ăn sữa đông và mật ong.
\s5
\v 23 Lúc đó, những nơi có cả ngàn gốc nho đáng giá một ngàn siếc-lơ bạc sẽ chẳng còn gì ngoài tầm xuân và gai gốc.
\v 24 Người ta sẽ đến đó dùng cung mà săn bắn, vì toàn xứ chỉ có tầm xuân và gai gốc.
\v 25 Người ta sẽ tránh xa mọi ngọn đồi lúc trước đã được cuốc xới, vì sợ tầm xuân và gai gốc; mà đó sẽ là nơi bò, cừu gặm cỏ.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Giê-hô-va phán với tôi “Hãy lấy một tấm bảng rồi viết lên đó tên Ma-he Sa-la Hát Bát.
\v 2 Ta sẽ triệu tập các nhân chứng đáng tin cậy để chứng thực cho Ta, đó là U-ri, thầy tế lễ, và Xa-cha-ri, con trai Giê-bê-rê-kia.”
\s5
\v 3 Tôi đi đến nhà nữ tiên tri; người thụ thai và sinh một bé trai. Rồi Giê-hô-va phán với tôi “Hãy đặt tên nó là Ma-he Sa-la Hát Bát.
\v 4 Vì trước khi đứa bé biết kêu Cha ơiMẹ ơi, thì của cải của Đa-mách và chiến lợi phẩm của Sa-ma-ri sẽ bị vua A-si-ri đem đi hết.”
\s5
\v 5 Giê-hô-va lại phán với tôi:
\v 6 “Vì dân này đã khước từ dòng nước êm đềm của Si-lô-ê, mà lại vui sướng về Rê-xin và con trai Rê-ma-lia,
\v 7 nên Chúa sẽ dẫn nước sông lớn đến trên chúng, mạnh mẽ, cuồn cuộn, tức vua của A-si-ri cùng mọi vinh quang người. Nước sẽ dâng cao khắp mọi kênh rạch nó và tràn lên bờ sông,
\s5
\v 8 rồi tràn đến Giu-đa, khiến ngập lụt và tiếp tục cho đến khi dâng đến cổ các ngươi. Này, Em-ma-nu-ên, các cánh dang rộng của nó sẽ phủ kín toàn xứ ngươi.”
\s5
\v 9 Các dân sẽ bị đập tan. Hãy nghe đây, hỡi các ngươi là những xứ ở xa: hãy tự trang bị cho chiến tranh và bị đập nát; hãy tự vũ trang và bị đập nát vụn.
\v 10 Hãy cứ lên kế hoạch nhưng sẽ chẳng thực hiện được; hãy ban lệnh để rồi lệnh sẽ chẳng được thi hành, vì Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
\s5
\v 11 Đặt bàn tay mạnh sức của Ngài lên tôi, Giê-hô-va phán với tôi và cảnh báo tôi không được bước đi trong đường lối của dân này.
\v 12 Điều gì mà dân này gọi là âm mưu thì các ngươi đừng gọi đó là âm mưu; các ngươi không cần sợ điều chúng nó sợ, và cũng đừng kinh hãi.
\v 13 Giê-hô-va của các đạo binh thì các ngươi phải tôn thánh, các ngươi phải kính sợ Ngài, và Ngài là Đấng các ngươi phải kinh khiếp.
\s5
\v 14 Ngài sẽ trở nên nơi thánh; nhưng Ngài sẽ là hòn đá đập chúng, một tảng đá khiến chúng té ngã — đối với cả hai nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ là cái bẫy và cái lưới cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
\v 15 Nhiều kẻ sẽ vấp lên đó mà té ngã và nát thây, bị sập bẫy và bị bắt.
\s5
\v 16 Hãy buộc chặt lời chứng của tôi, hãy niêm phong bản ghi chép chính thức rồi trao nó lại cho các môn đệ tôi.
\v 17 Tôi sẽ chờ đợi Giê-hô-va, Đấng ẩn mặt khỏi nhà Gia-cốp; tôi sẽ trông đợi Ngài.
\v 18 Này, tôi cùng các con trai mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi — chúng tôi là dấu hiệu và điềm lạ trong Y-sơ-ra-ên bởi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng ngự trên núi Si-ôn.
\s5
\v 19 Người ta sẽ nói với các người: “Hãy hỏi ý ông đồng, bà cốt và các pháp sư, ” tức những kẻ cứ lẩm nhẩm, thì thầm các câu thần chú. Nhưng một dân tộc lại không nên hỏi ý Đức Chúa Trời của mình sao? Họ phải thay mặt người sống mà cầu hỏi kẻ chết sao?
\v 20 Cho nên các ngươi phải lưu ý luật pháp và lời chứng! Nếu chúng không nói những lời như vậy thì đó là vì chúng không có ánh sáng ban mai.
\s5
\v 21 Chúng sẽ đi qua xứ này, thật khốn khổ, đói khát. Khi chúng đói, chúng sẽ nổi thạnh nộ và rủa vua mình cùng Đức Chúa Trời của mình, vì chúng ngửa mặt lên trời.
\v 22 Chúng sẽ nhìn đất và thấy hoạn nạn, bóng tối, và tình trạng ảm đạm ngột ngạt. Chúng sẽ bị đuổi vào một xứ tối tăm.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đối với kẻ đã chịu đau đớn thì sẽ được xua tan ảm đạm. Trước đó Ngài đã làm bẻ mặt vùng Sa-bu-lôn và vùng Nép-ta-li, nhưng về sau này Ngài sẽ khiến rạng rỡ con đường đi ra biển, bên kia sông Giô-đanh, tức vùng Ga-li-lê của các dân.
\v 2 Những kẻ đi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng; những kẻ đã sống trong xứ thuộc bóng sự chết thì ánh sáng đã chiếu rọi trên họ.
\s5
\v 3 Chúa đã khiến dân tộc đông lên gấp bội, Chúa đã tăng thêm niềm hân hoan của họ; họ vui mừng trước mặt Chúa như vui mừng lúc gặt hái, như người ta vui mừng khi chia nhau chiến lợi phẩm.
\s5
\v 4 Vì cái ách gánh nặng của nó, cây đòn gán trên đôi vai nó, cây roi của kẻ áp bức nó, thì Chúa đã đập nát như trong ngày Ma-đi-an.
\v 5 Vì mọi chiếc giày đã giẫm đạp trong lúc hỗn độn cùng quần áo đã vấy máu sẽ bị đốt cháy, làm mồi cho lửa.
\s5
\v 6 Vì một con trẻ đã sinh ra cho chúng ta, một con trai được ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ ở trên vai người; danh người sẽ được gọi là Mưu Sĩ Kỳ Diệu, Đức Chúa Trời Quyền Năng, Cha Đời Đời, Hoàng Tử Bình An.
\v 7 Quyền cai trị và sự bình an của Ngài sẽ gia tăng không dứt, khi Ngài ngồi trên ngôi Đa-vít cai trị nước, dùng sự công bình, chính trực khiến nước vững chắc, dài lâu từ nay cho đến đời đời. Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc đó.
\s5
\v 8 Chúa đã truyền phán một lời kết án Gia-cốp, và nó giáng xuống Y-sơ-ra-ên.
\v 9 Mọi người sẽ biết, kể cả Ép-ra-im và dân cư Sa-ma-ri, là kẻ kiêu hãnh nói với tấm lòng ngạo mạn, rằng:
\v 10 “Gạch đã đổ, nhưng chúng ta sẽ xây lại bằng đá đẽo; cây sung đã bị đốn, nhưng chúng ta sẽ dùng bá hương thay vào đó.”
\s5
\v 11 Vậy nên Giê-hô-va sẽ đưa Rê-xin, kẻ địch của nó lên, và khích động các kẻ thù nghịch nó,
\v 12 tức dân A-ram ở phía đông, và dân Phi-li-tin ở phía tây. Chúng sẽ há hoắc miệng ngoạm lấy Y-sơ-ra-ên. Vì đang lúc thạnh nộ Giê-hô-va sẽ không dừng lại, mà tay Ngài sẽ vẫn giá đánh.
\s5
\v 13 Thế nhưng dân chúng vẫn không quay lại với Đấng đã đánh mình, cũng chẳng tìm kiếm Giê-hô-va của các đạo binh.
\v 14 Vì vậy, Giê-hô-va trong một ngày sẽ chặt đứt khỏi Y-sơ-ra-ên cả đầu và đuôi, cả cành cọ lẫn cây sậy.
\v 15 Đầu là giới lãnh đạo cùng giới quyền quý; đuôi là bọn tiên tri dạy điều dối trá.
\s5
\v 16 Những kẻ lãnh đạo dân này khiến họ lầm lạc, còn người dân được lãnh đạo thì bị nuốt chửng.
\v 17 Vậy nên Chúa sẽ chẳng vui về giới trai trẻ họ, Ngài cũng chẳng thương xót kẻ côi cút và các góa phụ, vì ai cũng vô đạo và làm dữ, miệng nào cũng nói toàn lời xuẩn ngốc. Do mọi điều đó nên cơn thạnh nộ Ngài không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giá đánh.
\s5
\v 18 Sự gian ác đốt cháy như lửa; nó thiêu nuốt tầm xuân và gai gốc; nó thậm chí thiêu cháy bụi rậm trong rừng, khiến bốc lên thành trụ khói.
\v 19 Vì cơn thạnh nộ trào dâng của Giê-hô-va của các đạo binh mà xứ bị thiêu đốt, còn dân chúng thì giống như củi dành cho lửa. Chẳng ai dung thứ anh em mình.
\s5
\v 20 Chúng sẽ lóc lấy thịt từ bàn tay phải mình những vẫn cứ đói; chúng sẽ ăn thịt trên bàn tay trái mình những vẫn chẳng no. Mỗi người thậm chí ăn thịt cánh tay mình.
\v 21 Ma-na-se ăn nuốt Ép-ra-im, Ép-ra-im ăn nuốt Ma-na-se; chúng cùng nhau tiến đánh Giu-đa. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va sẽ không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giá đánh.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho kẻ ban hành các phép tắc bất công, đưa ra những sắc luật không hợp lẽ.
\v 2 Chúng tước mất công lý của người thiếu thốn, cướp đi quyền của kẻ nghèo trong dân Ta, cưỡng chiếm đồ đạc của các góa phụ, và biến kẻ mồ côi thành miếng mồi của mình!
\s5
\v 3 Các ngươi sẽ làm gì vào ngày phán xét khi sự hủy diệt từ xa ập đến? Các ngươi sẽ chạy đến với ai để cầu cứu, và sẽ để của cải mình ở đâu?
\v 4 Chẳng còn lại gì, khi các ngươi luồn cúi giữa các tù nhân hoặc ngã xuống giữa vòng những kẻ bị giết. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn giá đánh.
\s5
\v 5 Bất hạnh thay cho dân A-si-ri, là gậy tày của cơn thạnh nộ Ta, là cây roi Ta dùng để thể hiện cơn giận của mình!
\v 6 Ta sai nó tiến đánh một đất nước ngạo mạn, một dân tộc đang chịu cơn giận trào sôi của Ta. Ta ra lệnh cho nó chiếm đoạt chiến lợi phẩm, bắt đi các nạn nhân, và giẫm đạp lên chúng như bùn ngoài đường phố.
\s5
\v 7 Nhưng đó không phải là ý định nó, cũng chẳng phải là lối suy nghĩ của nó. Ý định trong lòng nó là tiêu diệt và loại bỏ nhiều dân tộc.
\v 8 Vì nó nói: “Chẳng phải mọi quan tướng của ta đều là vua cả sao?
\v 9 Chẳng phải Ca-nô cũng giống như Cạt-kê-mít, Ha-mát cũng giống như Ạt-bát, Sa-ma-ri cũng giống như Đa-mách, sao?
\s5
\v 10 Vì tay ta đã thắng hơn các nước thờ hình tượng với những tượng chạm khắc còn lớn hơn các tượng thần ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri,
\v 11 cho nên, ta lại chẳng làm cho Giê-ru-sa-lem và các tượng thần nó như đã làm cho Sa-ma-ri cùng các hình tượng vô tích sự ở đó sao?
\s5
\v 12 Khi Chúa đã làm thành công việc Ngài đối với núi Si-ôn và Giê-ru-sa-lem, Ngài sẽ phán: “Ta sẽ phạt lời nói từ lòng ngạo mạn của vua A-si-ri cùng những ánh mắt cao ngạo của nó. ”
\v 13 Vì nó nói: “Ta đã hành động bởi sức mạnh và bởi sự khôn ngoan của mình. Ta có hiểu biết, và ta đã di dời ranh giới giữa các dân. Ta đã lấy đi các kho báu của chúng và, như một kẻ mạnh sức, ta đã phế bỏ những kẻ đang ngự trị trên ngai.
\s5
\v 14 Tay ta đã đoạt lấy của cải của các dân như bắt tổ chim, ta đã thâu tóm toàn cõi đất như người đi lượm trứng bị bỏ rơi. Chẳng có chim nào đập cánh, hay mở mỏ kêu la.”
\s5
\v 15 Cái rìu lại đi khoe khoang về mình trước kẻ múa rìu sao? Cái cưa lại tự tâng bốc mình lên cao hơn kẻ dùng cưa sao? Làm thế khác nào cây roi nâng được kẻ giơ nó lên, hoặc gậy tày đỡ được người ta lên vậy.
\v 16 Vậy nên Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sẽ khiến các chiến binh tinh nhuệ nó bị gầy mòn và dưới vinh quang nó sẽ nhóm lên một đám cháy giống như lửa.
\s5
\v 17 Ánh sáng của Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên đám cháy, và Đấng Thánh của nó sẽ thành ngọn lửa; lửa đó sẽ đốt cháy và thiêu hủy các gai gốc cùng các bụi tầm xuân nó.
\v 18 Giê-hô-va sẽ thiêu đốt vinh quang của rừng cây nó và đất đai phì nhiêu của nó, cả linh hồn lẫn thể xác nó sẽ giống như khi cuộc đời của người đau yếu bị mai một đi.
\v 19 Số cây trong rừng của nó sẽ còn lại rất ít, đến nỗi một đứa trẻ cũng đếm được.
\s5
\v 20 Trong ngày đó, dân sót lại của Y-sơ-ra-ên, là gia đình Gia-cốp đã thoát nạn, sẽ không còn lệ thuộc vào kẻ đã đánh bại mình, mà sẽ nhờ vào Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 21 Một phần sót lại của Gia-cốp sẽ trở về với Đức Chúa Trời quyền năng.
\s5
\v 22 Vì cho dù số dân các ngươi đông như cát trên bờ biển, thì cũng chỉ một phần sót lại sẽ trở về. Sự hủy diệt đã được định, theo như sự công chính dư dật đòi hỏi.
\v 23 Vì Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sắp thi hành sự hủy diệt đã định trên khắp xứ.
\s5
\v 24 Vì vậy, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh phán: “Hỡi dân Ta đang sống tại Si-ôn, chớ sợ người A-si-ri. Chúng sẽ dùng roi đánh các ngươi và giá gậy nghịch cùng các ngươi, như người Ai Cập đã làm.
\v 25 Đừng sợ nó, vì chỉ sau một thời gian ngắn cơn giận của Ta đối với các ngươi sẽ chấm dứt, và cơn thạnh nộ của Ta sẽ khiến nó bị hủy diệt.”
\s5
\v 26 Rồi Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cầm roi đánh chúng nó, như khi Ngài đánh bại dân Ma-đi-an tại vầng đá Ô-rép. Ngài sẽ giá roi trên biển và giơ nó lên như Ngài đã làm tại Ai Cập.
\v 27 Trong ngày đó, gánh nặng của Ngài được đỡ khỏi vai ngươi, ách Ngài gỡ xuống khỏi cổ ngươi, và ách đó sẽ bị hủy diệt, vì cổ các ngươi sẽ to béo quá đối với nó.
\s5
\v 28 Kẻ thù đã đến A-giát và đã đi qua Mi-gơ-rôn; nó tàng trữ đồ tiếp tế tại Mích-ma.
\v 29 Chúng nó đã vượt qua đèo và đóng tại Ghê-ba. Ra-ma run sợ, còn Ghi-bê-a của Sau-lơ đã trốn chạy.
\s5
\v 30 Hãy la lớn lên, hỡi con gái Ga-lim! Hãy lưu ý, hỡi La-ít! A-na-tốt các ngươi thật tội nghiệp!
\v 31 Mát-mê-na đang chạy trốn, dân cư Ghê-bim cũng chạy tìm chỗ an toàn.
\v 32 Chính ngày này nó sẽ dừng quân tại Nóp và đưa nắm đấm dọa dẫm núi của con gái Si-ôn, tức đồi Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 33 Kìa, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dùng cú giáng kinh hãi chặt đứt các cành cây; các cây cao lớn nhất sẽ bị đốn hạ, những kẻ kiêu kỳ sẽ bị hạ xuống.
\v 34 Ngài sẽ dùng rìu chặt cây cối rậm rạp trong rừng, và Li-ban trong sự oai nghi của nó sẽ sụp đổ.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Sẽ có một cái chồi mọc lên từ gốc Y-sai, và một nhánh từ gốc rễ ấy sẽ sinh trái.
\v 2 Thần Linh của Giê-hô-va sẽ ngự trên người, là linh khôn ngoan và am hiểu, linh dạy dỗ và sức mạnh, linh hiểu biết và kính sợ Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Kính sợ Chúa là niềm vui thích của người; người sẽ không đánh giá theo điều mắt mình thấy, cũng không phân định theo điều tai mình nghe.
\v 4 Thay vào đó, người sẽ lấy sự công chính phán xét kẻ nghèo và đoán định cách công bằng cho kẻ khiêm nhường trên đất. Ngài sẽ đánh trái đất bằng cây roi nơi miệng Ngài, và dùng hơi thở của môi Ngài mà giết chết kẻ ác.
\v 5 Sự công chính sẽ làm nịt lưng Ngài, sự thành tín sẽ làm đai ràng hông Ngài.
\s5
\v 6 Muông sói sẽ sống cùng chiên con, báo đốm sẽ nằm với dê con, còn bò con, sư tử tơ và bê được vỗ béo sẽ ở cùng nhau. Một đứa bé sẽ dắt chúng.
\v 7 Bò và gấu sẽ cùng gặm cỏ, và các con chúng sẽ nằm chung với nhau. Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò.
\s5
\v 8 Trẻ con đang bú sẽ chơi bên hang rắn, trẻ vừa dứt sữa sẽ đặt tay lên ổ rắn độc.
\v 9 Chúng sẽ không làm hại hay giết chết ai trên toàn núi thánh Ta; vì đất sẽ tràn đầy sự hiểu biết Giê-hô-va, như nước tràn ngập biển.
\s5
\v 10 Trong ngày đó, gốc Y-sai sẽ đứng vững làm ngọn cờ cho các dân. Các nước sẽ tìm kiếm người, và nơi an nghỉ người sẽ vẻ vang.
\v 11 Trong ngày đó, Chúa sẽ lại đưa tay ra phục hồi lại phần sót lại của dân Ngài vẫn còn ở tại A-si-ri, Ai Cập, Pha-trô, Cút, Ê-lam, Si-nê-a, Ha-mát, cùng các hải đảo.
\s5
\v 12 Ngài sẽ dựng lên một ngọn cờ cho các dân và sẽ nhóm lại từ bốn góc đất những kẻ bị xua đuổi của Y-sơ-ra-ên cũng như những kẻ lưu lạc của Giu-đa.
\v 13 Ngài sẽ chấm dứt lòng ganh tị của Ép-ra-im, và những kẻ ác cảm với Giu-đa sẽ bị diệt khỏi đất. Ép-ra-im sẽ không ganh tị Giu-đa, Giu-đa sẽ không còn thù địch với Ép-ra-im.
\s5
\v 14 Thay vì vậy, chúng sẽ đột kích vào các đồi của Phi-li-tin ở phía tây, cùng cướp bóc dân ở phía đông. Chúng sẽ tấn kích Ê-đôm và Mô-áp, và dân Am-môn sẽ tuân phục chúng.
\v 15 Giê-hô-va sẽ hoàn toàn hủy diệt vịnh của biển Ai Cập. Với ngọn gió nóng, Ngài sẽ vung tay trên sông Ơ-phơ-rát và chia nó thành bảy con suối, khiến người ta có thể đi dép mà băng qua.
\s5
\v 16 Sẽ có một con đường lớn cho dân sót lại của Ngài từ A-si-ri trở về, như đã có đối với Y-sơ-ra-ên khi họ từ đất Ai Cập lên.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Trong ngày đó, các ngươi sẽ nói: “Giê-hô-va ôi, con sẽ cảm tạ Ngài. Vì dầu Ngài nổi giận với con, nhưng cơn giận Ngài đã xây khỏi, và Ngài đã yên ủi con.
\v 2 Này, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của con; con sẽ tin cậy và không sợ hãi vì Giê-hô-va, phải, chính Giê-hô-va là sức lực và bài ca của con. Ngài đã trở nên sự cứu rỗi con.”
\s5
\v 3 Các ngươi sẽ vui mừng kéo nước từ giếng cứu rỗi.
\v 4 Vào ngày đó, các ngươi sẽ bảo: “Hãy cảm tạ Giê-hô-va và kêu cầu danh Ngài; hãy rao công việc Ngài ra giữa các dân, công bố rằng danh Ngài được tôn cao.
\s5
\v 5 Hãy hát ca ngợi Giê-hô-va, vì Ngài đã thực hiện những kỳ công; nguyện điều này được biết đến trên khắp đất.
\v 6 Hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy kêu lên và lớn tiếng vui mừng, vì Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ở giữa các ngươi thật vĩ đại.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 Lời công bố về Ba-by-lôn mà Ê-sai, con trai A-mốt, tiếp nhận:
\v 2 Trên ngọn núi trọc, hãy dựng lên một cờ hiệu, hãy kêu réo chúng, vẫy gọi chúng vào các cổng của giới quyền quý.
\v 3 Ta đã truyền cho những người thánh của Ta, thật, Ta đã kêu gọi các chiến binh của Ta thi hành cơn giận Ta, tức những chiến binh hả hê cách kiêu hãnh của Ta.
\s5
\v 4 Có tiếng của đám đông trong vùng núi non, như tiếng của nhiều người! Đó là tiếng náo động của các nước, giống như khi nhiều dân tộc tập trung lại! Giê-hô-va của các đạo binh đang huy động quân đội chuẩn gị cho chiến trận.
\v 5 Chúng đến từ một miền đất xa xăm, ở tận chân trời. Đó chính là Giê-hô-va với các công cụ phán xét của Ngài, để hủy diệt toàn xứ.
\s5
\v 6 Hãy gào lên, vì ngày của Giê-hô-va đã gần; nó đến cùng với sự hủy diệt của Đấng Toàn Năng.
\v 7 Vậy nên mọi tay đều mềm nhũn, mọi lòng đều tan chảy.
\v 8 Chúng sẽ kinh hãi; các cơn đau đớn và sầu khổ ập lên chúng, như người phụ nữ đau đẻ. Chúng sẽ kinh ngạc nhìn nhau; mặt chúng sẽ rực cháy.
\s5
\v 9 Này, ngày của Giê-hô-va đến kèm theo cơn giận tàn bạo, cơn thạnh nộ trào dâng.
\v 10 Sao trên trời và cùng các chòm sao sẽ không tỏa sáng. Mặt trời thậm chí mới mọc lên đã tối đen, mặt trăng thì không chiếu soi.
\s5
\v 11 Ta sẽ phạt thế giới vì sự gian tà nó, phạt kẻ ác vì tội lỗi chúng. Ta sẽ trừ bỏ thái độ cao ngạo của kẻ kiêu căng và đánh hạ sự ngạo mạn của kẻ tàn độc.
\v 12 Ta sẽ khiến người ta ra hiếm hoi hơn vàng nguyên chất, nhân loại trở nên khó tìm hơn vàng ròng Ô-phia.
\s5
\v 13 Vì vậy, Ta sẽ khiến các tầng trời run rẩy, còn đất sẽ bị lay động khỏi chỗ nó, bởi cơn thạnh nộ của Giê-hô-va của các đạo binh, trong ngày Ngài phừng phừng nổi giận.
\v 14 Giống như con linh dương bị săn đuổi hay con chiên không có kẻ chăn, mỗi người sẽ quay hướng sang dân tộc mình và sẽ trốn chạy về quê hương mình.
\s5
\v 15 Mọi kẻ bị phát hiện sẽ bị giết chết, và mọi kẻ bị bắt đi sẽ chết bởi gươm.
\v 16 Con nhỏ chúng sẽ bị đập nát thây trước mắt chúng. Nhà chúng sẽ bị cướp phá, vợ chúng sẽ bị cưỡng hiếp.
\s5
\v 17 Kìa, Ta sắp khích động quân Mê-đi tấn công chúng; quân ấy chẳng màng đến bạc, cũng chẳng ham thích vàng.
\v 18 Mũi tên chúng sẽ xuyên qua các trai tráng. Chúng sẽ chẳng thương xót trẻ sơ sinh, và cũng chẳng tha mạng trẻ con.
\s5
\v 19 Rồi Ba-by-lôn, vương quốc đáng ngưỡng phục nhất trong các nước, vẻ rực rỡ của lòng kiêu hãnh người Canh-đê, nó sẽ bị Đức Chúa Trời hạ bệ như Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
\v 20 Nó sẽ chẳng có dân cư hay người ở từ đời này sang đời khác. Dân Ả-rập sẽ không dựng lều tại đó, các mục đồng cũng không chăn dắt bầy mình ở đó.
\s5
\v 21 Nhưng thú hoang của sa mạc sẽ nghỉ ở đó. Nhà chúng sẽ đầy chim cú; đà điểu và dê rừng sẽ nhảy lăn tăn tại đó.
\v 22 Linh cẩu sẽ tru tréo trong các pháo đài chúng, lừa rừng kêu la trong các cung điện đẹp đẽ của chúng. Giờ nó đã gần, ngày tàn của nó sẽ chẳng còn xa.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Giê-hô-va sẽ thương xót Gia-cốp; Ngài sẽ lại chọn Y-sơ-ra-ên và phục hồi họ lại trong xứ mình. Dân ngoại quốc sẽ liên kết với họ và gia nhập vào nhà Gia-cốp.
\v 2 Các dân sẽ đưa họ về xứ. Rồi nhà Y-sơ-ra-ên sẽ đem chúng nó vào trong xứ của Giê-hô-va làm đầy tớ trai, đầy tớ gái. Họ sẽ bắt về những kẻ đã bắt mình, và sẽ cai trị những kẻ đã áp bức mình.
\s5
\v 3 Trong ngày Giê-hô-va cho các ngươi được nghỉ ngơi sau khi đã chịu khổ sở, đau đớn, sau khi bị cưỡng bức lao động khổ sai,
\v 4 các ngươi sẽ hát bài ca này để nhạo cười vua Ba-by-lôn: “Làm sao mà kẻ áp bức phải tận chung, cơn giận kiêu căng phải chấm dứt!
\s5
\v 5 Giê-hô-va đã bẻ cây gậy của quân ác, cây trượng của bọn cai trị đó;
\v 6 trong cơn thạnh nộ nó đã tới tấp giáng đòn xuống các dân, cai trị các nước một cách giận dữ, hà hiếp họ chẳng nương tay.
\s5
\v 7 Cả trái đất nghỉ ngơi và yên tịnh; người ta bắt đầu ca hát vui mừng.
\v 8 Thậm chí cây tùng, cây bách cũng cùng cây bá hương Li-ban hoan hỉ về ngươi; chúng bảo: Vì mày đã bị hạ, nên chẳng còn tay tiều phu nào lên đốn bọn tao.
\v 9 Âm phủ bên dưới cũng háo hức đón ngươi khi ngươi xuống đó. Nó vì ngươi mà đánh thức những kẻ đã chết, tức mọi vua trên đất, toàn thể vua của các dân, khiến chúng đứng lên khỏi ngai mình.
\s5
\v 10 Hết thảy chúng sẽ nói với ngươi, rằng: Mày đã ra yếu đuối như bọn tao. Mày cũng chẳng khác gì bọn tao.
\v 11 Sự lộng lẫy của mày đã bị hạ xuống âm phủ cùng với tiếng đàn cầm của mày. Giòi trải ra làm nệm cho mày, sâu bọ là mền của mày.
\s5
\v 12 Hỡi sao mai, con trai của buổi sáng, mày từ trời sa xuống là thế nào! Hỡi kẻ đi chinh phục các nước kia, mày bị đốn hạ xuống đất là sao!
\v 13 Mày đã tự nhủ trong lòng: Ta sẽ lên trời, ta sẽ nhấc ngai ta lên trên các vì sao của Đức Chúa Trời, rồi ta sẽ ngồi trên núi nhóm hội, tại các vùng cực của phương bắc.
\v 14 Ta sẽ lên cao hơn các đám mây; Ta sẽ khiến mình giống như Đức Chúa Trời Chí Cao!
\s5
\v 15 Nhưng giờ thì mày bị hạ xuống tận âm phủ, xuống tận các vực sâu của hỏa ngục.
\v 16 Người nào thấy mày sẽ chằm chằm nhìn mày; họ sẽ dò xét mày. Họ sẽ bảo: “Phải chăng đây là kẻ đã khiến đất run sợ, khiến các nước rúng động, kẻ biến thế giới ra sa mạc,
\v 17 kẻ hủy diệt các thành nó và không để cho tù nhân trở về nhà?
\s5
\v 18 Hết thảy vua của các nước, tất cả họ đều nằm ngủ cách hiển vinh trong lăng mộ mình.
\v 19 Còn mày thì lại bị quăng khỏi mồ mả mình như cảnh cây bị quăng đi; kẻ chết phủ lên mày như cái áo, tức những kẻ bị gươm đâm — những kẻ đi xuống các bia mộ của hỏa ngục.
\v 20 Giống như xác chết bị giẫm đạp dưới chân, mày sẽ không bao giờ được hiệp với họ trong lăng tẩm vì mày đã hủy phá xứ của mình. Là kẻ đã giét dân mình, mày là con của kẻ làm dữ và sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa.”
\s5
\v 21 Ngươi hãy sửa soạn tàn sát con cái nó vì tội lỗi của tổ phụ chúng nó, để chúng nó khỏi trỗi dậy chiếm hữu đất và xây thành lập ấp khắp thế giới. Giê-hô-va phán:
\v 22 “Ta sẽ lại trỗi dậy đánh chúng. ” Giê-hô-va phán: “Ta sẽ diệt khỏi Ba-by-lôn danh tiếng, con cháu và hậu tự nó.
\v 23 Ta cũng sẽ biến nó thành nơi ở của loài nhím, thành các ao nước, và Ta sẽ dùng chổi hủy diệt mà quét sạch nó, ” Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 24 Giê-hô-va của các đạo binh đã thề rằng: “Chắc chắn việc sẽ xảy đến như Ta đã dự tính; việc sẽ diễn ra như Ta đã trù định:
\v 25 Ta sẽ đánh tan quân A-si-ri trong xứ Ta, và sẽ giẫm đạp nó dưới chân trên các núi Ta. Rồi ách nó sẽ được dỡ khỏi chúng, gánh nặng nó sẽ được cất bỏ khỏi vai chúng.”
\s5
\v 26 Đây là chương trình được trù định cho toàn trái đất, đây là bàn tay giá lên trên mọi dân tộc.
\v 27 Vì Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định việc này; ai sẽ ngăn được Ngài? Tay Ngài đã giá lên thì ai có thể khiến rút lại?
\s5
\v 28 Vào năm vua A-cha qua đời thì có lời này:
\v 29 Này, xứ Phi-li-tin, người chớ hân hoan vì cây roi đã đánh ngươi bị gãy. Vì từ gốc rễ của con rắn sẽ xuất hiện một rắn hổ lục, và hậu tự nó sẽ là một con rắn bay hung hăng.
\v 30 Con trưởng của kẻ nghèo sẽ ăn, và người thiếu thốn sẽ nằm ngủ yên ổn. Ta sẽ giết chết gốc rễ mày bằng nạn đói, vốn khiến mọi kẻ còn sót lại của mày phải chết.
\s5
\v 31 Này, cổng, hãy tru lên; này thành, hãy kêu lớn; này, đất Phi-li-tin, tất cả các ngươi sẽ tan chảy đi. Vì từ phương bắc xuất hiện một đám khói, và chẳng có ai đi sai lạc khỏi hàng ngũ mình.
\v 32 Người ta sẽ trả lời thế nào cho các sứ giả của nước đó? Hãy đáp: Giê-hô-va đã thành lập Si-ôn, và những kẻ khốn cùng trong dân Ngài sẽ tìm được nơi ẩn náu tại đó.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Lời rao báo về Mô-áp. Thật, chỉ trong một đêm mà thành A của Mô-áp bị tang hoang và tiêu hủy; thật chỉ trong một đêm mà thành Kiệt của Mô-áp bị tàn phá và sụp đổ.
\v 2 Chúng đã lên đền miếu, dân thành Đi-hôn đi lên những nơi cao mà khóc; Mô-áp than khóc Nê-bô và Mê-đê-ba. Mọi đầu đều cạo nhẵn, mọi râu đều cắt trụi.
\s5
\v 3 Chúng mặc đồ tang ngoài đường phố; trên sân thượng lẫn nơi quãng trường, mọi người đều than khóc, thương tiếc trong nước mắt.
\v 4 Hết-bôn và Ê-lê-a-lê đều kêu cứu; tiếng chúng vang đến tận Gia-hát. Vậy nên các chiến binh Mô-áp cầu cứu; trong lòng chúng run sợ.
\s5
\v 5 Lòng tôi kêu la vì Mô-áp; dân lánh nạn của nó chạy đến Xoa và Ê-lát Sê-li-sia. Chúng vừa khóc vừa leo dốc Lu-hít; trên đường đến Hô-rô-na-im chúng kêu gào về vì sự hủy diệt mình.
\v 6 Nước ở Nim-ri đã cạn khô; cỏ thì héo, cỏ non cũng chết cả, chẳng thứ gì còn xanh.
\v 7 Của cải họ đã tạo dựng hoặc cất giữ họ đều đem qua bên kia suối các cây liễu.
\s5
\v 8 Tiếng kêu khóc đã lan ra cùng khắp lãnh thổ Mô-áp; tiếng than van vọng đến tận Ê-la-im và Bê-e Ê-lim.
\v 9 Vì nước tại Đi-môn thì đầy máu; nhưng Ta thậm chí sẽ giáng xuống Đi-môn thêm nữa. Một con sư tử sẽ tấn công những kẻ chạy thoát khỏi Mô-áp, cũng như những kẻ còn ở lại trong xứ.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Hãy gửi chiên đực cho kẻ cai trị xứ này từ Sê-la trong hoang mạc, đến núi của con gái Si-ôn.
\v 2 Đàn chim vỡ tổ bị tan tác thể nào thì các phụ nữ Mô-áp cũng giống như vậy tại các khúc cạn của sông Ạc-nôn
\s5
\v 3 “Hãy chỉ dạy, hãy thực thi công lý; giữa ban trưa hãy cung cấp bóng mát như trong ban đêm; hãy che giấu những kẻ chạy nạn; đừng giao nộp họ.
\v 4 Hãy để dân tị nạn Mô-áp sống giữa vòng các ngươi; hãy cho họ nơi ẩn náu trước kẻ hủy diệt. ” Vì sự áp bức sẽ dứt, sự hủy diệt sẽ ngưng, những kẻ giày xéo sẽ biến mất khỏi đất.
\s5
\v 5 Một ngai sẽ được thiết lập trong sự thành tín và một người từ lều Đa-vít sẽ trung tín ngự trên ngai. Người sẽ phán xử cũng như sẽ kiếm sự công bình và làm điều ngay thẳng.
\s5
\v 6 Chúng ta có nghe biết sự kiêu căng của Mô-áp, thái độ ngạo mạn, sự khoe khoang, cùng cơn giận nó. Nhưng sự khoe khoang của nó chỉ là lời rỗng tuếch.
\v 7 Vậy nên Mô-áp than khóc Mô-áp, ai cũng khóc than. Các ngươi thương tiếc những bánh nho của Kiệt Ha-rê-sết mà đã bị san phẳng.
\s5
\v 8 Những đồng ruộng của Hết-bôn đã khô héo, các gốc nho của Síp-ma cũng vậy. Vua chúa các nước đã giẫm đạp các gốc nho tuyển đã từng vươn đến Gia-ê-xe và lan đến sa-mạc. Các chồi nó vươn rộng ra; chúng lan ra tận biển.
\s5
\v 9 Thật, Ta sẽ cùng Gia-ê-xe khóc cho vườn nho Síp-na. Hỡi Hết-bôn, cùng Ê-lê-a-lê, Ta sẽ tưới các ngươi bằng nước mắt. Vì trên các đồng ruộng trái mùa hạ và mùa gặt, Ta đã làm dứt tiếng reo vui.
\v 10 Niềm sung sướng, hân hoan không còn nơi các vườn cây trái; trong vườn nho các ngươi chẳng có tiếng ca hát, cũng không tiếng reo mừng. Chẳng có ai đạp nho làm rượu trong thùng ép vì ta sẽ làm ngưng tiếng reo hò của kẻ đạp nho.
\s5
\v 11 Vậy nên lòng Ta vì Mô-áp mà thở dài như đàn hạt, dạ Ta cũng vậy vì Kiệt Hê-rê-sết.
\v 12 Dầu Mô-áp có nhọc công đi lên nơi cao và vào đền miếu để cầu nguyện, thì lời cầu xin nó sẽ chẳng được gì.
\s5
\v 13 Đó là lời Giê-hô-va đã phán về Mô-áp trước đây.
\v 14 Giê-hô-va lại phán: “Trong vòng ba năm nữa, vinh quang của Mô-áp sẽ biến mất; cho dù dân nó đông thì phần còn sót lại sẽ rất ít và chẳng đáng kể.”
\s5
\c 17
\p
\v 1 Lời rao báo về Đa-mách. Này, Đa-mách sẽ không còn là một thành nữa; nó sẽ chỉ là đống đổ nát.
\v 2 Các thành của A-rô-e sẽ bị bỏ hoang. Chúng sẽ là nơi các bầy chiên nằm nghỉ mà chẳng phải sợ ai cả.
\v 3 Thành quách Ép-ra-im sẽ biến mất, ngôi nước của Đa-mách cũng biến mất, và dân sót lại của A-ram sẽ giống như vinh quang của dân Y-sơ-ra-ên — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.
\s5
\v 4 Trong ngày đó, vinh quang của Gia-cốp sẽ mờ nhạt đi, da thịt mập mạp nó sẽ trở nên gầy guộc.
\v 5 Sự thể sẽ giống như khi thợ gặt túm lấy cây lúa đứng và dùng tay gặt lấy bông lúa. Nó sẽ giống như khi người ta mót bông lúa trong thung lũng Rê-pha-im.
\s5
\v 6 Tuy nhiên, sẽ còn sót lại cho kẻ đi mót, như khi cây ô liu bị rung lắc: chỉ còn vài ba trái trên đầu chót, bốn năm trái trên những nhánh cao nhất của cây sai quả.
\v 7 Trong ngày đó người ta sẽ ngước trông Đấng tạo dựng mình, và mắt họ sẽ hướng về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Họ sẽ không nhìn về bàn thờ, là công việc của bàn tay mình, cũng không nhìn những thứ ngón tay mình làm ra, như các trụ tượng A-sê-ra hay hình tượng mặt trời.
\v 9 Trong ngày đó, các thành vững chắc của họ sẽ giống như những sườn đồi rậm rạp hoang phế, bị bỏ rơi vì cớ dân Y-sơ-ra-ên và sẽ trở thành nơi hiu quạnh.
\s5
\v 10 Vì các ngươi đã quên Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi mình và làm ngơ vầng đá sức lực mình. Vậy nên các ngươi đã trồng những loại cây thú vị, bày ra những cây ghép ngoại lai
\v 11 trong ngày các ngươi trồng cây, dựng rào, vun xới. Chẳng bao lâu hạt giống các người sẽ mọc lên, nhưng mùa gặt hát sẽ thất bát trong ngày buồn thảm, sầu khổ.
\s5
\v 12 Thật bất hạnh! Tiếng náo động của nhiều dân tộc, tiếng ầm ầm như biển cả dậy sóng, cùng tiếng xông tới của các dân, chúng xông lên như dòng nước cuồn cuộn!
\v 13 Các dân sẽ gầm thét như tiếng nhiều dòng nước tràn tới, nhưng Đức Chúa Trời sẽ quở trách chúng. Chúng sẽ chạy xa và bị săn đuổi như cỏ rơm trên núi bị gió đùa đi, như cỏ dại quay cuồng giữa cơn bão.
\v 14 Lúc chiều tối, kìa, thật kinh khủng! Rồi trước khi trời sáng, chúng đều biến mất; đó là phần của kẻ cướp phá chúng ta, số phận của kẻ cướp bóc chúng ta.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Thật bất hạnh cho xứ vỗ cánh xào xạc ở bên kia các dòng sông Ê-thi-ô-bi;
\v 2 là xứ sai phái sứ giả vượt biển trong những chiếc thuyền cối đi trên nước. Hỡi các sứ giả lẹ làng các ngươi, hãy đi đến một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi!
\s5
\v 3 Tất cả các ngươi là dân cư trên thế giới và những người sống trên trái đất, khi cờ hiệu được kéo lên trên các núi, hãy nhìn xem; khi kèn trổi lên, hãy lắng tai nghe.
\s5
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Ta sẽ từ nơi ở mình âm thầm theo dõi, như cái nóng hậm hực giữa ánh nắng, như đám sương giữa sức nóng của mùa gặt hái. ”
\v 5 Trước ngày thu hoạch, khi mùa hoa đã qua và bông hoa sắp kết thành quả, Ngài sẽ dùng lưỡi hái mà cắt đứt các nhánh non, cùng đốn hạ và đem đi những cành xòe tán ra.
\s5
\v 6 Chúng sẽ cùng bị bỏ lại cho các loài chim núi và cho các loài thú trên đất.
\v 7 Khi đó, một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi, dân ấy sẽ đem lễ vật đến cho Giê-hô-va của các đạo binh tại nơi mang danh Ngài, tức núi Si-ôn.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Lời rao báo về Ai Cập. Này, Giê-hô-va cưỡi trên đám mây nhanh lẹ và sắp đến Ai Cập; các tượng thần Ai Cập run rẩy trước mặt Ngài, còn lòng dân Ai Cập thì tan chảy trong họ.
\v 2 “Ta sẽ khích động người Ai Cập chống lại người Ai Cập: kẻ thì tranh chiến với anh em mình, người thì tranh chấp với láng giềng mình; thành này chống lại thành kia, nước này chống lại nước khác.
\s5
\v 3 Tinh thần đất nước Ai Cập sẽ bị sút giảm từ bên trong. Ta sẽ làm hỏng lời luận bàn của nó, cho dù chúng có cầu hỏi các tượng thần, linh người chết, giới đồng bóng, thông linh.
\v 4 Ta sẽ phó người Ai Cập vào tay một ông chủ hà khắc, và một vua hung bạo sẽ cai trị họ — đó là lời tuyên phán của Chúa, tức Giê-hô-va của các đạo binh.”
\s5
\v 5 Nước biển sẽ khô đi, sông cũng khô cạn nước.
\v 6 Sông ngòi trở nên hôi thối; các suối Ai Cập xuống thấp và khô đi; cây sậy, cây lau sẽ khô héo.
\s5
\v 7 Bãy sậy ở sông Nin, gần bờ sông Nin, và hết thảy cánh đồng gieo trồng ở sông Nin sẽ khô cằn, trở thành bụi, và bay đi.
\v 8 Ngư phủ sẽ kêu khóc, tiếc thương, và mọi kẻ đánh bắt cá trên sông Nin sẽ khóc than, những kẻ thả lưới trên sông sẽ đau buồn.
\s5
\v 9 Thợ chải sợi lanh cùng những kẻ dệt vải trắng đều tái mặt.
\v 10 Giới thợ dệt Ai Cập sẽ tuyệt vọng; mọi kẻ làm thuê sẽ đau khổ trong lòng.
\s5
\v 11 Các quan tướng Xô-an đều ngu xuẩn. Lời khuyên từ các cố vấn thông thái của Pha-ra-ôn đều vô nghĩa. Làm sao các ngươi có thể nói với Pha-ra-ôn: “Tôi là con nhà thông thái, con của các vua thời xưa” cho được?
\v 12 Vậy thì người khôn ngoan của các ngươi ở đâu? Hãy để chúng tỏ bày và cho các ngươi biết Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định thế nào đối với Ai Cập?
\s5
\v 13 Các quan tướng của Xô-an đều xuẩn ngốc, các quan tướng của Mem-phi đều bị lừa; những kẻ làm hòn đá góc của các bộ tộc Ai Cập đã khiến nó lầm lạc.
\v 14 Giê-hô-va đã pha trộn vào giữa vòng chúng nó một tinh thần vặn vẹo, nên chúng đã khiến Ai Cập bị lầm lạc trong mọi việc nó làm, như một kẻ say rượu lảo đảo khi buồn nôn.
\v 15 Chẳng ai giúp gì được cho Ai Cập, dầu là đầu hay đuôi, cành cọ hay đám sậy.
\s5
\v 16 Trong ngày đó, dân Ai Cập sẽ giống như người phụ nữ. Chúng sẽ run rẩy và sợ hãi vì bàn tay giơ cao của Giê-hô-va của các đạo binh giá trên mình.
\v 17 Đất Giu-đa sẽ trở thành cớ khiến Ai Cập chao đảo. Khi có ai đó nhắc chúng về xứ này thì chúng sẽ sợ hãi, vì chương trình mà Giê-hô-va đang lên để hành hại chúng.
\s5
\v 18 Trong ngày đó sẽ có năm thành trong đất Ai Cập nói tiếng Ca-na-an và thề trung thành với Giê-hô-va của các đạo binh. Một trong các thành này sẽ được gọi là Thành Mặt Trời.
\s5
\v 19 Trong ngày đó sẽ có một bàn thờ cho Giê-hô-va ngay giữa đất Ai Cập, và một trụ đá cho Giê-hô-va tại vùng biên giới.
\v 20 Đó sẽ là dấu hiệu và lời chứng về Giê-hô-va của các đạo binh trong đất Ai Cập. Khi chúng kêu cầu Giê-hô-va vì các kẻ áp bức mình, thì Ngài sẽ sai phái một vị cứu tinh và đấng bảo vệ, và Ngài sẽ giải cứu chúng.
\s5
\v 21 Giê-hô-va sẽ được biết đến tại Ai Cập và dân Ai Cập sẽ nhìn biết Giê-hô-va trong ngày đó. Chúng sẽ thờ phượng Ngài bằng các sinh tế và của lễ, cũng như thề nguyện với Giê-hô-va và hoàn nguyện.
\v 22 Giê-hô-va sẽ hành hại Ai Cập, Ngài hành hại rồi chữa lành. Chúng sẽ trở lại với Giê-hô-va; Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của chúng và chữa lành cho chúng.
\s5
\v 23 Trong ngày đó sẽ có một con đường lớn nối Ai Cập với A-si-ri; người A-si-ri sẽ đến Ai Cập, người Ai Cập sẽ đến A-si-ri; rồi người Ai Cập sẽ thờ phượng cùng với người A-si-ri.
\s5
\v 24 Trong ngày đó, Y-sơ-ra-ên sẽ hiệp với Ai Cập và A-si-ri thành một nhóm tay ba, trở nên nguồn phước ngay giữa cõi đất;
\v 25 Giê-hô-va của các đạo binh sẽ ban phước cho chúng, rằng: “Phước cho Ai Cập, là dân Ta; phước cho A-si-ri, là công việc của tay Ta; phước cho Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp Ta.”
\s5
\c 20
\p
\v 1 Vào năm Ta-tân đến Ách-đốt, theo sự sai phái của vua A-si-ri là Sa-gôn, hắn công thành Ách-đốt và chiếm lấy thành.
\v 2 Lúc đó, Giê-hô-va phán với Ê-sai, con trai A-mốt, rằng: “Hãy đi, cởi bỏ vải thô khỏi thắt lưng con, cũng cởi dép khỏi chân con. ” Người làm theo, bước đi mình trần, chân không.
\s5
\v 3 Giê-hô-va phán: “Như đầy tớ Ta là Ê-sai đi mình trần, chân không trong ba năm, như là dấu và điềm liên quan đến Ai Cập và liên quan đến Ê-thi-ô-bi —
\v 4 thì cũng vậy, vua A-si-ri sẽ bắt dẫn đi người Ai Cập và lưu đày người Ê-thi-ô-bi, cả già lẫn trẻ đều mình trần, chân không, mông hở, cả một sự nhục nhã đối với Ai Cập.
\s5
\v 5 Người ta sẽ kinh sợ và xấu hổ vì cớ Ê-thi-ô-bi, hy vọng của chúng, và vì cớ Ai Cập, vinh quang của chúng.
\v 6 Vào ngày đó, dân cư sống tại các vùng duyên hải này sẽ bảo: Đích thực đây là nguồn hy vọng của chúng ta, nơi chúng ta tìm đến để nhờ giải cứu khỏi vua A-si-ri; giờ thì chúng ta làm sao thoát được? ’”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Lời rao báo về vùng sa mạc ở miền duyên hải. Từ hoang mạc, từ một vùng đất đáng sợ, nó ập đến, như gió lốc càng quét qua Nê-ghép.
\v 2 Tôi nhận được một khải tượng kinh khiếp: kẻ bội phản phản bội; kẻ hủy diệt giết chóc. Này, Ê-lam, hãy đi lên và tiến đánh; này, Mê-di, hãy bao vây; Ta sẽ chấm dứt mọi sự rên siết của nó.
\s5
\v 3 Vì vậy, vùng thắt lưng của tôi đau quặn; các cơn đau như cơn đau của người phụ nữ chuyển dạ ập lên tôi; tôi quỵ xuống vì lời mình nghe; tôi bối rối vì điều mình thấy.
\v 4 Tim tôi đập thình thịch; tôi rùng mình ớn lạnh; cái đêm mà tôi từng ước muốn đã biến thành điều kinh sợ đối với tôi.
\s5
\v 5 Người ta dọn bàn, họ trải thảm rồi ăn, uống; hỡi các quan tướng, hãy chỗi dậy và lấy dầu xức cho thuẫn khiên của các người.
\s5
\v 6 Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Hãy đi bố trí một người bảo vệ; người đó phải báo cáo lại điều mình thấy.
\v 7 Khi thấy một cỗ xe song mã, lính kỵ đi cặp, người cưỡi lừa, người cưỡi lạc đà, thì nó phải lưu ý và cảnh giác.”
\s5
\v 8 Người canh gác la lên: “Thưa chúa, mỗi ngày tôi đứng suốt trên tháp canh, tại chỗ mình tôi đứng thâu đêm. ”
\v 9 Kìa, có một người đánh xe chiến mã xuất hiện cùng với một toán lính, là lính kỵ đi theo cặp. Người này la lớn: “Ba-by-lôn đã đổ, đã đổ rồi, và mọi tượng chạm khắc các thần nó đều vỡ tan xuống đất rồi.”
\s5
\v 10 Hỡi người dân bị áp chế, chà đạp của tôi, là con cái của sân đạp lúa tôi! Những gì tôi được nghe từ Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì tôi công bố lại cho các người.
\s5
\v 11 Lời rao báo về Đu-ma. Có người từ Sê-i-rơ gọi tôi: “Này, anh lính canh đêm qua thế nào? Anh lính canh ơi, đêm qua thế nào rồi? ”
\v 12 Người lính canh đáp: “Ban ngày đến, ban đêm cũng đến; nếu ngươi muốn hỏi thì cứ hỏi, rồi quay trở lại.”
\s5
\v 13 Lời rao báo về A-ra-bi. Những đoàn thương nhân Đê-đan các người nghỉ đêm trong sa mạc A-ra-bi.
\v 14 Hãy đem nước cho người bị khát; hỡi dân cư đất Thê-ma, hãy mang bánh cho dân chạy nạn.
\v 15 Vì chúng đã chạy trốn thanh gươm, là thanh gươm tuốt trần, trốn cây cung giương sẵn, trốn gánh nặng của chiến tranh.
\s5
\v 16 Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Trong vòng một năm nữa, như người lao động làm thuê trong năm sẽ được chứng kiến, mọi vinh quang của Kê-đa sẽ mất hết.
\v 17 Chỉ còn lại một ít cung thủ, tức các chiến binh của Kê-đa, ” vì đó là điều Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Lời ra báo về thung lũng khải tượng: Vì cớ gì mà các người lại lên hết trên mái nhà vậy?
\v 2 Một cái thành ồn ào, một thị trấn vui chơi, ăn uống; kẻ chết của các người không chết vì gươm, chúng cũng chẳng chết trận.
\s5
\v 3 Mọi kẻ cai trị các người đều cùng chạy trốn, nhưng chúng bị bắt lại mà không cần cung tên, hết thảy chúng đều bị bắt lại và bị khống chế; chúng đã trốn chạy từ rất xa.
\v 4 Vậy nên tôi nói: “Đừng nhìn tôi, tôi sẽ khóc thảm thiết; đừng tìm cách an ủi tôi về sự hủy diệt con gái của dân mình.”
\s5
\v 5 Vì Giê-hô-va của các đạo binh định ra một ngày náo động, giẫm đạp, đầy hỗn loạn trong thung lũng khải tượng, ngày thành trì bị sụp đổ và người ta kêu cứu núi đồi.
\v 6 Ê-lam cầm ống tên lên, với xe ngựa và lính kỵ, còn Ki-rơ để trần thuẫn nó.
\v 7 Rồi các thung lũng tốt đẹp nhất của các người sẽ đầy xe ngựa chiến, còn lính kỵ sẽ dàn quân ở cổng thành.
\s5
\v 8 Chúa đã cất đi sự che chở của Giu-đa; trong ngày đó các người sẽ trông chờ vào số vũ khí trong Cung điện Rừng.
\v 9 Các người đã thấy thành Đa-vít có nhiều chỗ hư hại, và các người đã thâu trữ nước của hồ dưới.
\s5
\v 10 Các người đếm số nhà cửa tại Giê-ru-sa-lem, rồi phá dỡ các ngôi nhà để củng cố vách thành.
\v 11 Các người làm một hồ giữa hai vách tường thành để trữ nước của ao cũ. Nhưng các người lại không đếm xỉa đến Đấng tạo dựng thành phố cách đây đã lâu.
\s5
\v 12 Trong ngày đó, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh kêu gọi phải khóc lóc, tiếc thương, cạo đầu, mặc vải thô.
\v 13 Nhưng kìa, thay vì vậy, người ta lại ăn mừng, vui sướng, mổ bò, giết chiên, ăn thịt, uống rượu; hãy ăn uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết.
\v 14 Giê-hô-va của các đạo binh đã bày tỏ trong tai tôi: “Thậm chí đến chết chắc chắn các người cũng không được tha tội này, ” Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\s5
\v 15 Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Hãy đi đến nhà Sép-na, viên quản lý trông coi nhà này, và nói:
\v 16 Ông có gì ở đây, và ông là ai mà lại đục cho mình một phần mộ? Ông đã đục một ngôi mộ ở trên cao, khoét cho mình một nơi yên nghỉ trong đá! ’”
\s5
\v 17 Này, Giê-hô-va sắp quẳng ông đi, hỡi kẻ quyền lực kia, Ngài sẽ ném ông xuống; Ngài sẽ túm chặt ông.
\v 18 Chắc chắn Ngài sẽ quơ ông vòng vòng rồi ném ông như trái bóng vào một xứ sở rộng mênh mông. Ông sẽ chết ở đó, là nơi có các xe chiến mã của ông; ông sẽ là sự sỉ nhục của nhà chủ mình!
\v 19 “Ta sẽ phế truất ngươi và hạ bệ ngươi. Ngươi sẽ bị kéo xuống.
\s5
\v 20 Trong ngày đó Ta sẽ kêu gọi đầy tớ ta là Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia.
\v 21 Ta sẽ lấy áo ngươi mặc cho người, và thắt cho người cân đai của ngươi; Ta cũng sẽ lấy thẩm quyền của ngươi trao vào tay người. Người sẽ làm cha của dân cư Giê-ru-sa-lem và của nhà Giu-đa.
\v 22 Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít lên vai người; khi người mở thì chẳng ai đóng; khi người đóng thì chẳng ai mở.
\s5
\v 23 Ta sẽ khiến người vững chắc như đinh đóng cột, và người sẽ thành ngôi vinh hiển cho nhà cha mình.
\v 24 Chúng sẽ mặc cho người mọi vinh quang của nhà cha người, con cháu, hậu tự, mọi vật chứa bé nhỏ, từ chén tách cho đến tất cả các bình.
\s5
\v 25 Trong ngày đó — đây là lời phán của Giê-hô-va của các đạo binh — cái chốt đóng vào nơi chắc chắn sẽ long ra, gãy lìa, rơi rụng, và sức nặng máng lên đó sẽ bị tụt đứt — vì Giê-hô-va đã phán vậy.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Lời rao báo về Ty-rơ. Này, các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì chẳng có nhà ở hay bến cảng nào cho các ngươi; đó là điều đã tỏ cho chúng biết từ xứ Kit-tim.
\v 2 Các ngươi là dân cư vùng duyên hải, là các thương nhân thành Si-đôn, vốn chuyên đi biển và có những đại lý cung cấp hàng hóa cho, hãy sững sờ.
\v 3 Theo đường biển, ngũ cốc của vùng Si-hô, mùa màng của sông Nin được đem đến Ty-rơ; nó là nơi mua bán của các nước.
\s5
\v 4 Hỡi Si-đôn, hãy hổ thẹn; vì, hỡi kẻ hùng mạnh trên biển, biển cả đã lên tiếng, rằng: “Ta chưa từng đau đẻ hay sinh con; ta cũng chưa từng nuôi nấng thanh niên, hoặc dưỡng dục thiếu nữ. ”
\v 5 Khi tin này đến Ai Cập, người ta sẽ thương tiếc Ty-rơ.
\s5
\v 6 Hãy vượt biển qua Ta-rê-si; các ngươi là dân cư vùng duyên hải, hãy than khóc.
\v 7 Việc này đã xảy đến cho ngươi chưa, hỡi thành vui sướng, có gốc gác từ thời xưa, có đôi chân từng đưa mình đến những vùng đất xa lạ để lập cư?
\s5
\v 8 Ai đã hoạch định điều này nghịch lại Ty-rơ, là kẻ ban vương miện, có thương nhân là những ông hoàng và giới buôn bán được trọng vọng trên đất?
\v 9 Giê-hô-va của các đạo binh hoạch định việc ấy để hạ nhục tánh kiêu hãnh cùng mọi vinh quang nó, để làm xấu hổ mọi kẻ được trọng vọng của nó trên đất.
\s5
\v 10 Hỡi con gái Ta-rê-si, hãy cày đất mình như người ta cày sông Nin. Chẳng còn thương trường tại Ty-rơ.
\v 11 Giê-hô-va đã đưa tay Ngài ra trên biển, và Ngài đã làm rúng động các nước; Ngài đã truyền lệnh về Phê-nê-xi, để hủy phá các đồn lũy nó.
\v 12 Ngài phán: “Hỡi con gái Si-đôn, là trinh nữ bị áp chế kia, ngươi sẽ chẳng được vui mừng trở lại đâu. Hãy trỗi dậy vượt biển qua Chíp-rơ; cho dù ở đó ngươi cũng chẳng được yên nghỉ.”
\s5
\v 13 Hãy xem xứ của dân Canh-đê. Dân đó đã không còn tồn tại; người A-si-ri đã biến nó thành vùng đất hoang cho thú rừng. Chúng dựng tháp bủa vây; chúng phá sập cung đền; chúng biến nó thành đống đổ nát.
\v 14 Hỡi các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì nơi trú ẩn của các ngươi đã bị phá hủy.
\s5
\v 15 Vào ngày đó, Ty-rơ sẽ bị quên lãng trong bảy mươi năm, tương đương một đời vua. Cuối bảy mươi năm đó, việc xảy đến tại Ty-rơ sẽ giống như trong bài hát của gái điếm.
\v 16 Hỡi cô gái điếm bị lãng quên kia, hãy lấy đàn hạt mà đi dạo quanh thành; hãy chơi cho giỏi, hát cho nhiều, để được người ta nhớ đến.
\s5
\v 17 Sau bảy mươi năm, Giê-hô-va sẽ giúp Ty-rơ, và nó sẽ trở lại nghề cũ. Nó sẽ hành nghề buôn hương với tất cả các nước trên mặt đất.
\v 18 Lợi nhuận và thu nhập của nó sẽ được hiến cho Giê-hô-va, mà không cất giữ, cũng không để dành lại. Hàng hóa nó sẽ cung cấp thực phẩm, áo quần lâu bền cho những kẻ sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Kìa, Giê-hô-va sắp làm cho trái đất ra trống vắng, khiến nó hoang vu, phá hủy bề mặt nó, và rải dân cư nó ra.
\v 2 Khi đó thầy tế lễ sẽ như dân thường; ông chủ sẽ như đầy tớ trai; bà chủ sẽ như đầy tớ gái; người bán sẽ như kẻ mua; con nợ sẽ như chủ nợ; kẻ lấy lãi sẽ như người trả lãi.
\s5
\v 3 Trái đất sẽ bị tàn phá hết và hoàn toàn suy kiệt; vì Giê-hô-va đã phán lời này.
\v 4 Trái đất sẽ teo tóp, héo mòn đi, thế giới co quắt lại, tan biến, lớp người ưu tú trên đất gầy mòn đi.
\v 5 Đất bị dân cư nó làm cho ô uế vì chúng đã vi phạm luật pháp, làm trái quy định, phá bỏ giao ước đời đời.
\s5
\v 6 Vậy nên đất bị rủa sả và dân cư nó mắc tội. Dân cư trên đất bị cháy thiêu, chỉ còn lại ít người.
\v 7 Rượu mới khô sạch, cây nho tàn héo, mọi kẻ yêu đời đều than vãn.
\s5
\v 8 Tiếng trống vui đã dứt, cuộc chè chén của kẻ vui mừng đã tàn, tiếng đàn hoan lạc đã tắt.
\v 9 Người ta không còn uống rượu hoặc ca hát, và bia trở đắng cho người uống.
\s5
\v 10 Cái thành hỗn loạn đã đổ xuống, nhà nhà đóng kín cửa và trống không.
\v 11 Người ta kêu la ngoài đường vì rượu; mọi hân hoan đều tắt lịm, niềm vui sướng trong xứ biến mất.
\s5
\v 12 Trong thành chỉ còn cảnh tan hoang, cổng thành thì đổ nát.
\v 13 Vì đây là điều sẽ xảy đến giữa vòng các dân trên khắp đất, như khi người ta đập cây ô liu, như việc mót lượm khi mùa hái nho đã xong.
\s5
\v 14 Người ta sẽ cất tiếng tung hô sự oai nghiêm của Giê-hô-va, và sẽ từ hướng biển mà reo mừng.
\v 15 Vậy nên ở phương đông hãy tôn vinh Giê-hô-va, giữa các hải đảo hãy dâng vinh hiển cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 16 Từ chốn tận cùng của trái đất chúng tôi có nghe tiếng hát, rằng: “Chúc cho kẻ công chính được vinh hiển! ” Nhưng tôi bảo: “Tôi thật tiều tụy, tôi đã suy kiệt, thật bất hạnh cho tôi! Kẻ phản bội thì bội phản; thật, kẻ phản bội rất tráo trở.”
\s5
\v 17 Sự kinh hãi, hầm, bẫy giáng trên các ngươi là dân cư trên đất.
\v 18 Ai chạy thoát khỏi tiếng kinh hãi sẽ rơi xuống hầm, kẻ lên được khỏi hầm sẽ bị mắc vào bẫy. Các cửa sổ trên trời sẽ mở ra, và các nền trái đất sẽ rúng động.
\s5
\v 19 Trái đất sẽ vỡ tan; trái đất sẽ bị xé ra; trái đất sẽ rung chuyển mạnh.
\v 20 Trái đất sẽ chao đảo như người say và đong đưa tới lui như chiếc võng. Sự vi phạm của nó sẽ đè nặng trên nó, và nó sẽ đổ xuống, không dậy được nữa.
\s5
\v 21 Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ hình phạt đạo binh thiên sứ trên cao cùng các vua hạ giới dưới đất.
\v 22 Chúng sẽ bị dồn lại như kẻ tù dưới hầm, và sẽ bị nhốt vào ngục; sau nhiều ngày chúng sẽ bị kết tội.
\v 23 Rồi mặt trăng sẽ xấu hổ, mặt trời bị nhuốc nhơ, vì Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cai trị trên núi Si-ôn và tại Giê-ru-sa-lem trong vinh quang trước mặt các trưởng lão.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con; con sẽ tôn cao Chúa, con sẽ ca ngợi danh Ngài; vì với lòng thành tín trọn vẹn, Ngài đã làm những việc kỳ diệu, là những việc được hoạch định từ lâu.
\v 2 Chúa đã biến thành kiên cố ra đống đổ nát, thành lũy của người ngoại quốc không còn là thành nữa.
\v 3 Vì vậy, một dân hùng mạnh sẽ tôn vinh Chúa; một thành của các dân tàn bạo sẽ kính sợ Chúa.
\s5
\v 4 Vì Chúa là chốn dung thân cho kẻ nghèo, là Đấng bảo vệ người thiếu thốn trong lúc cùng khốn, là nơi tránh bão, là bóng che nắng nóng, khi sự cuồng nộ của bọn hung ác giống như trận cuồng phong quật vào vách tường.
\v 5 Chúa sẽ chế ngự tiếng náo động của người ngoại quốc như sức nóng giữa lúc nắng hạn; cái nóng bị bóng mây chế ngự thể nào thì bài ca của kẻ tàn bạo cũng bị dập tắt như vậy.
\s5
\v 6 Trên núi này, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dọn cho mọi dân một bữa tiệc bằng thức béo, bằng rượu thượng hạng, bằng thịt mềm, một bữa tiệc bằng bã rượu.
\v 7 Tại núi này Ngài sẽ trừ bỏ cái màn che phủ trên mọi dân, tấm khăn dệt trên mọi nước.
\v 8 Ngài sẽ nuốt chửng sự chết mãi mãi, và Chúa Giê-hô-va sẽ lau hết nước mắt trên mọi gương mặt; Chúa sẽ cất khỏi đất sự sỉ nhục của dân mình, vì Giê-hô-va đã phán lời này.
\s5
\v 9 Trong ngày đó, người ta sẽ bảo: “Này, đây là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã trông đợi Ngài, và Ngài sẽ cứu chúng ta. Đây chính là Giê-hô-va; chúng ta đã trông đợi Ngài, chúng ta sẽ sung sướng, vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài. ”
\v 10 Vì tay Chúa sẽ đặt trên núi này; và Mô-áp sẽ bị giẫm đạp tại chỗ nó, như rơm rạ bị giẫm đạp trong hố phân.
\s5
\v 11 Chúng sẽ sải tay ra giữa hố, như người bơi lội sải tay bơi; nhưng Giê-hô-va sẽ trừ khử tánh kiêu căng nó cho dù tay nó có vẫy vùng.
\v 12 Các vách tường cao của thành lũy ngươi Ngài sẽ san phẳng, xuống tận bụi đất.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Trong ngày đó người ta sẽ hát bài ca này trong xứ Giu-đa: Chúng ta có một thành vững chắc; Đức Chúa Trời lấy sự cứu rỗi làm thành lũy nó.
\v 2 Hãy mở cổng ra để dân công chính trung kiên vào thành.
\s5
\v 3 Kẻ nào để trí mình nương dựa vào Ngài thì Ngài sẽ gìn giữ được hoàn toàn bình an, vì người tin cậy Ngài.
\v 4 Hãy mãi mãi tin cậy Giê-hô-va; vì Chúa, tức Giê-hô-va, là vầng đá muôn đời.
\s5
\v 5 Vì Chúa sẽ đánh đổ kẻ sống kiêu ngạo; thành kiên cố Ngài sẽ triệt phá, hạ nó xuống đất; Ngài sẽ san phẳng nó ra tro bụi.
\v 6 Nó sẽ bị bàn chân kẻ nghèo giẫm lên, bị người thiếu thốn giày đạp.
\s5
\v 7 Hỡi Đấng Công Chính, đường của người công chính thì bằng phẳng; Ngài khiến con đường người công chính ra ngay thẳng.
\v 8 Đúng vậy, hỡi Giê-hô-va, theo cách Ngài đoán xét, chúng con trông đợi Ngài; danh Chúa và tiếng tăm của Ngài chính là niềm ao ước của chúng con.
\v 9 Đang ban đêm con đã khao khát Ngài; thật, linh hồn ở trong con sốt sắng tìm kiếm Ngài. Vì khi sự phán xét của Chúa diễn ra trên đất thì dân cư trên thế giới học biết sự công chính.
\s5
\v 10 Nguyện ơn cứ được tỏ cho kẻ ác, nhưng nó sẽ chẳng học biết công chính. Trong đất người ngay thẳng, hắn vẫn hành xử gian ác và chẳng nhìn thấy sự oai nghi của Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Giê-hô-va ôi, tay Chúa giá lên mà chúng chẳng để ý. Nhưng chúng sẽ thấy lòng nhiệt thành Chúa đối với dân này và bị xấu hổ, vì lửa của các kẻ thù Ngài sẽ thiêu nuốt chúng.
\v 12 Giê-hô-va ôi, Ngài sẽ cho chúng con được bình an; vì, thật, Chúa cũng đã hoàn tất mọi việc cho chúng con.
\s5
\v 13 Hỡi Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của chúng con, đã có những chủ khác cai trị chúng con; nhưng chúng con chỉ ca ngợi danh Ngài thôi.
\v 14 Chúng đã chết, chúng sẽ không sống nữa; chúng đã khuất, chúng sẽ chẳng sống lại. Thật, Chúa đã đến phán xét và tiêu diệt chúng, xóa sạch mọi ký ức về chúng.
\s5
\v 15 Giê-hô-va ôi, Chúa đã khiến dân này đông lên, Ngài đã khiến họ thêm nhiều; Chúa được tôn kính; Chúa đã mở rộng ranh giới đất này.
\s5
\v 16 Giê-hô-va ôi, trong lúc gian nan, chúng đã nhìn lên Chúa; chúng thậm chí tụng niệm thần chú để xua đuổi cái ác khi Chúa sửa phạt.
\v 17 Thai phụ gần giờ sinh nở, bị đau đớn và kêu la lúc chuyển dạ thì, Chúa ôi, chúng con cũng giống như vậy trước mặt Ngài.
\s5
\v 18 Chúng con đã thai nghén, chúng con đã quặn thắt, nhưng dường như thể chúng con chỉ sinh ra gió. Chúng con không đem đến sự cứu rỗi trên đất, mà dân cư thế gian cũng chẳng được sinh ra.
\s5
\v 19 Người chết của Chúa sẽ sống; thân xác đã chết của chúng con sẽ trỗi dậy. Hỡi những kẻ nằm trong cát bụi, hãy thức dậy hát mừng; vì sương móc của Chúa là sương móc dược thảo, và đất sẽ buông kẻ chết là con mồi của nó ra.
\s5
\v 20 Hỡi dân Ta, hãy đi vào phòng mình rồi đóng cửa lại; hãy ẩn mình một thời gian cho đến khi sự phẫn nộ đã qua.
\v 21 Vì, kìa, Giê-hô-va sắp từ nơi Ngài đến để hình phạt dân cư trái đất vì tội lỗi chúng; đất sẽ để ra lộ máu đã bị đổ, và sẽ không còn chôn giấu những kẻ đã bị giết chết.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Trong ngày đó, Giê-hô-va sẽ dùng thanh gươm cứng, lớn và kinh khiếp để trừng phạt con rắn lẹ làng Lê-vi-a-than, tức con rắn Lê-vi-a-than luồng lách, và Ngài sẽ giết chết con quái vật ở dưới biển.
\v 2 Trong ngày đó: Hãy hát về một vườn nho sinh rượu.
\v 3 “Ta, Giê-hô-va, là Đấng bảo vệ nó; Ta tưới nó hằng ngày; đêm ngày Ta canh giữ nó để chẳng ai làm hại nó.
\s5
\v 4 Ta không giận, ôi, ước gì có tầm xuân và gai gốc! Ta sẽ xung trận đấu địch với nó; Ta sẽ đốt sạch chúng nó chung với nhau;
\v 5 trừ khi chúng biết quý sự bảo vệ của Ta và làm hòa với Ta; chúng phải làm hòa với Ta.
\s5
\v 6 Về sau này, Gia-cốp sẽ đâm rễ; Y-sơ-ra-ên sẽ nở hoa, ra nụ; và trái của chúng sẽ đầy khắp mặt đất.”
\s5
\v 7 Giê-hô-va có đánh Gia-cốp như Ngài đánh các dân đã đánh họ chăng? Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên có bị tàn sát như các dân mà họ đã tàn sát chăng?
\v 8 Chúa đã tranh biện y như vậy mà đày Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên đi; Ngài dùng ngọn gió khắc nghiệt đuổi họ đi trong ngày có gió đông.
\s5
\v 9 Cho nên theo cách này mà tội của Gia-cốp sẽ được chuộc, vì đó sẽ là kết quả đầy đủ của việc nó lìa bỏ tội lỗi mình. Ngài sẽ khiến toàn thể đá bàn thờ ra như phấn bị nghiền nát, và chẳng có tượng A-sê-ra hay bàn thờ xông hương nào còn đứng vững.
\s5
\v 10 Vì thành kiên cố đổ nát, nhà cửa bị bỏ hoang như hoang mạc. Đó là nơi bò tơ gặm cỏ; tại đó nó nằm nghỉ và ăn các nhánh mình.
\v 11 Khi các nhánh lớn bị khô héo thì chúng gãy xuống. Mấy bà sẽ đến lấy mà chụm lửa, vì đây không phải là một dân hiểu biết. Vậy nên Đấng tạo dựng chúng chẳng thương xót chúng, Đấng tạo ra chúng không khoan dung với chúng.
\s5
\v 12 Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ đập lúa từ dòng chảy của sông Ơ-phơ-rát cho đến khe suối Ai Cập, và, hỡi dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ được thâu về từng người một.
\v 13 Trong ngày đó sẽ có tiếng kèn lớn thổi lên; những kẻ bị sắp diệt vong trong xứ A-si-ri sẽ đến, và những kẻ bị hất hủi tại đất Ai Cập sẽ thờ phượng Giê-hô-va trên núi thánh tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho vòng hoa ngạo mạn của bọn say rượu ở Ép-ra-im, cùng đóa hoa đang phai tàn về vẻ đẹp rạng rỡ nó, ở trên đầu thung lũng phì nhiêu của những kẻ bị rượu khuất phục!
\v 2 Kìa, Chúa có một đấng năng quyền, mạnh mẽ; như cơn bão mưa đá, là cơn bão hủy diệt, như cơn giông tố ào ào ập đến. Ngài sẽ dùng tay mình mà đánh trái đất.
\s5
\v 3 Vòng hoa ngạo mạn của những kẻ say sưa Ép-ra-im sẽ bị giẫm đạp dưới chân.
\v 4 Đóa hoa phai tàn của vẻ đẹp rạng rỡ nó trên đầu thung lũng phì nhiêu sẽ như trái vả chín đầu tiên trước mùa hạ mà khi ai đó bắt gặp thì hái vào tay và nuốt ực.
\s5
\v 5 Trong ngày đó, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ trở nên vương miện vinh hiển, một mão miện đẹp đẽ cho số dân Ngài còn sót lại,
\v 6 một linh công chính cho kẻ ngồi xét xử, và sức mạnh cho những kẻ đẩy lùi quân địch tại cổng thành.
\s5
\v 7 Nhưng thậm chí những kẻ này cũng lảo đảo vì rượu vang và nghiêng ngã vì rượu mạnh. Thầy tế lễ và tiên tri loạng choạng vì rượu mạnh, chúng bị rượu vang nuốt chửng. Chúng nghiêng ngã vì rượu mạnh, lảo đảo trong thị kiến, loạng choạng khi phân xử.
\v 8 Thật, chúng mửa ra đầy bàn, chẳng còn chỗ nào sạch.
\s5
\v 9 Nó còn dạy tri thức cho ai nữa? Nó còn giải nghĩa sứ điệp cho ai được? Phải chăng cho những đứa bé mới cai sữa, cho trẻ con vừa thôi bú?
\v 10 Vì mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút.
\s5
\v 11 Thật, Ngài sẽ dùng môi giễu cợt và lưỡi xa lạ mà phán với dân này.
\v 12 Trong quá khứ, Ngài phán với họ: “Đây là chỗ yên nghỉ, hãy để cho kẻ mỏi mệt được nghỉ ngơi; đây là nơi yên tịnh, ” nhưng chúng đâu có nghe.
\s5
\v 13 Vậy nên lời của Giê-hô-va đối với chúng sẽ là mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút; để rồi chúng sẽ đi và té ngữa, bị vỡ nát, bị mắc bẫy và bị bắt.
\s5
\v 14 Vậy, hãy nghe lời Giê-hô-va, Đấng các ngươi chế nhạo, cũng là Đấng cai trị dân này tại Giê-ru-sa-lem.
\v 15 Các ngươi nói: “Chúng ta đã kết ước với sự chết; chúng ta đã thỏa thuận với âm phủ. Vậy nên khi sự đoán phạt kinh khiếp đi qua thì sẽ không đụng đến được chúng ta, vì chúng ta đã lấy sự dối trá làm nơi nương náu, lấy sự giả dối làm nơi ẩn núp.”
\s5
\v 16 Vì vậy, Chúa Giê-hô-va phán: “Này, Ta sẽ đặt tại Si-ôn một tảng đá nền, là đá đã được thử nghiệm, đá góc quý báu, nền tảng vững chắc. Kẻ nào tin sẽ không xấu hổ.
\s5
\v 17 Ta sẽ lấy công lý làm thước đo, lấy sự công chính làm dây mực. Mưa đá sẽ quét sạch nơi nương náu dối trá, nước lũ sẽ tràn ngập chỗ các ngươi trú ẩn.
\s5
\v 18 Giao ước của các ngươi với sự chết sẽ bị hủy, thỏa thuận của các người với âm phủ sẽ không còn. Khi lũ dữ tràn qua, các ngươi sẽ bị nó nhận chìm.
\v 19 Khi tràn qua, nó sẽ phủ lút các ngươi; cứ mỗi sáng nó lại tràn qua, ngày đêm gì nó cũng vẫn đến. Sứ điệp khi hiểu được sẽ gây ra nỗi kinh hoàng.
\s5
\v 20 Vì giường ngắn quá người ta không duỗi mình được, mền hẹp quá họ không quấn mình được.
\v 21 Giê-hô-va sẽ trỗi dậy như trên núi Phê-ra-xim; Ngài sẽ thức tỉnh như ở thung lũng Ghi-bê-ôn, để làm công việc mình, là công việc kỳ lạ, và thực hiện công việc lạ thường của Ngài.
\s5
\v 22 Vậy nên bây giờ đừng chế nhạo nữa, kẻo xiềng xích các ngươi sẽ siết chặt thêm. Tôi được nghe từ Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh một sắc chỉ về việc tiêu diệt trái đất.
\s5
\v 23 Hãy để ý nghe tiếng tôi; hãy chú tâm nghe lời tôi.
\v 24 Phải chăng nhà nông suốt ngày cày đất gieo giống chỉ lo cày không thôi? Phải chăng người cứ vỡ đất và bừa mãi?
\s5
\v 25 Khi đã làm đất xong xuôi, người lại không gieo tiểu hồi, đại hồi, cấy lúa mì theo hàng, lúa mạch vào đúng chỗ, đại mạch ở bờ rìa sao?
\v 26 Đức Chúa Trời người chỉ dẫn người; Ngài chỉ dạy người cách khôn ngoan.
\s5
\v 27 Hơn nữa, người không dùng búa đập đại hồi, cũng không dùng bánh xe cán lên đại hồi; nhưng người lại dùng gậy mà đập tiểu hồi.
\v 28 Hạt lúa thì xay ra làm bánh, nhưng không được quá mịn, và dầu nó đi qua dưới bánh xe và chân ngựa, nhưng ngựa không giẫm nát nó.
\s5
\v 29 Điều này cũng từ nơi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng chỉ dạy tuyệt vời và khôn ngoan trổi vượt.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho A-ri-ên, là thành A-ri-ên nơi Đa-vít đóng trại! Hết năm này sang năm khác; cứ để các kỳ lễ diễn ra.
\v 2 Nhưng Ta sẽ vây hãm A-ri-ên, và nó sẽ tiếc thương, than khóc; và nó đối với Ta sẽ như A-ri-ên.
\s5
\v 3 Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía, dùng rào cọc vây bọc ngươi, và Ta sẽ dựng công sự hãm đánh ngươi.
\v 4 Ngươi sẽ bị đánh hạ và từ dưới đất ngươi sẽ lên tiếng; lời nói từ dưới đất của ngươi sẽ chẳng ai nghe thấy. Tiếng của ngươi sẽ như ma quỷ ra từ đất, và tiếng ngươi sẽ rất yếu ớt từ bụi đất.
\s5
\v 5 Lũ quân xâm chiếm ngươi sẽ như bụi nhỏ, và đám người bạo tàn sẽ như trấu bay đi. Việc ấy sẽ xảy đến thình lình, tức thì.
\v 6 Ngươi sẽ bị Giê-hô-va của các đạo binh hình phạt bằng sấm sét, động đất, tiếng ồn lớn, gió mạnh và bão tố dữ dội, cùng với ngọn lửa thiêu nuốt.
\s5
\v 7 Việc này sẽ giống như một giấc mơ, một khải tượng trong ban đêm: Một đám quân thuộc mọi dân sẽ tranh chiến với A-ri-ên và thành trì nó. Chúng sẽ tiến đánh nó cùng các công sự nó để dồn ép nó.
\v 8 Việc sẽ như người đói nằm mơ thấy mình được ăn, nhưng khi thức dậy thì bao tử vẫn trống rỗng. Nó sẽ như người khát mơ thấy mình uống nước, nhưng khi thức giấc lại muốn lã đi vì vẫn còn khát. Thật, đoàn lũ các dân tranh chiến với núi Si-ôn cũng như vậy.
\s5
\v 9 Hãy kinh ngạc và sững sờ; hãy khiến mình bị mù và mù lòa đi! Hãy say, nhưng chẳng phải vì rượu; hãy đi lảo đảo những chẳng phải do bia.
\v 10 Vì Giê-hô-va đã trút đổ lên các ngươi thần ngủ mê. Ngài đã bịt mắt giới tiên tri các ngươi; Ngài đã trùm đầu giới tiên kiến các người.
\s5
\v 11 Mọi sự mặc khải đối với các ngươi đã nên giống như chữ nghĩa trong cuốn sách bị niêm phong mà người ta trao cho một kẻ biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi, ” nhưng người đáp lại: “Tôi không đọc được vì sách bị niêm phong rồi. ”
\v 12 Nếu sách được trao cho kẻ không biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi, ” thì nó sẽ đáp: “Tôi có biết đọc đâu.”
\s5
\v 13 Chúa phán: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng lưỡi và tôn kính Ta bằng môi miếng, còn lòng chúng nó thì cách xa Ta. Việc chúng nó tôn kính Ta chỉ là răn giới do người ta dạy cho.
\v 14 Vậy nên, này, Ta sẽ cứ thực hiện việc kỳ lạ giữa dân này, hết việc lạ này đến việc lạ khác. Sự khôn ngoan của kẻ khôn sẽ hư hoại đi, sự hiểu biết của kẻ dẽ dặt sẽ biến mất.”
\s5
\v 15 Bất hạnh thay cho kẻ che che giấu Giê-hô-va các toan tính mình và thực hiện công việc trong bóng tối. Chúng bảo: “Ai thấy được chúng ta, có ai biết chúng ta đâu?
\s5
\v 16 Các ngươi đảo lộn mọi thứ! Có nên xem thợ gốm giống như đất sét, để rồi sản phẩm lại nói về người làm ra mình rằng: “Ông ta đâu có làm ra tôi, ” hay món đồ nói về kẻ đã tạo ra nó rằng: “Ông ta đâu hiểu biết gì?”
\s5
\v 17 Chỉ ít lâu nữa thôi Li-ban sẽ bị biến thành đồng ruộng, và đồng ruộng sẽ trở nên khu rừng.
\v 18 Trong ngày đó, kẻ điếc sẽ nghe được lời của cuốn sách, còn mắt của người mù sẽ nhìn thấy được từ trong bóng tối dày đặc.
\v 19 Kẻ bị áp bức sẽ lại vui mừng nơi Giê-hô-va, và kẻ nghèo giữa vòng người ta sẽ hân hoan về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 20 Vì kẻ nhẫn tâm sẽ không còn, kẻ nhạo báng sẽ tiêu vong. Mọi kẻ ưa thích làm ác sẽ bị diệt mất,
\v 21 tức kẻ dùng lời lẽ biến người ta thành kẻ vi phạm. Chúng đặt bẫy tại cổng thành cho người đi tìm công lý và dùng lời dối trá dìm người công chính xuống.
\s5
\v 22 Vậy nên đây là lời Giê-hô-va — tức Giê-hô-va đã cứu chuộc Áp-ra-ham — phán về nhà Gia-cốp: “Gia-cốp sẽ chẳng bị xấu hổ nữa, mặt nó sẽ không còn tái nữa.
\v 23 Nhưng khi nó thấy các con trai mình, là công việc của tay Ta, chúng sẽ tôn thánh danh Ta. Chúng sẽ tôn thánh danh Đấng Thánh của Gia-cốp và chúng sẽ kính sợ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
\v 24 Những kẻ có tâm thần sai lạc sẽ hiểu biết, và kẻ hay than phiền sẽ học biết tri thức.”
\s5
\c 30
\p
\v 1 Đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bất hạnh thay cho con cái phản nghịch. Chúng lập kế hoạch chẳng do Ta; chúng liên minh với các dân chẳng bởi Thần Linh Ta chỉ dẫn, cho nên chúng tội càng thêm tội.
\v 2 Chúng khởi đi xuống Ai Cập mà chưa hỏi ý Ta. Chúng tìm sự bảo vệ của Pha-ra-ôn và nương náu dưới bóng Ai Cập.
\s5
\v 3 Vì vậy, các ngươi sẽ xấu hổ về sự bảo vệ của Pha-ra-ôn, và thấy sỉ nhục về việc đi núp bóng Ai Cập,
\v 4 cho dù các quan tướng nó đã ở tại Xô-an và các sứ giả nó đã đến Ha-ne.
\v 5 Chúng đều sẽ hổ thẹn về một dân không thể cứu giúp mình, là kẻ chẳng giúp đỡ cũng không hỗ trợ gì, mà lại khiến cho xấu hổ, mất mặt.”
\s5
\v 6 Lời rao báo về các con thú vùng Nê-ghép: Vượt qua vùng đất gian nan, nguy hiểm của sư tử cái, sư tử đực, rắn lục và rắn lửa bay, chúng vận chuyển của cải mình trên lưng lừa, các báu vật mình trên bướu lạc đà, đến một dân không giúp gì cho mình được.
\v 7 Vì sự trợ giúp của Ai Cập là vô ích; vì vậy, Ta đã gọi nó là Ra-háp, kẻ chỉ biết ngồi yên.
\s5
\v 8 Bây giờ, hãy đi và viết lời này trên một tấm bảng trước mặt chúng, chép nó vào một cuốn sách, để có thể được lưu giữ lại như lời chứng trong thời gian tới.
\v 9 Vì đây là một dân phản trắc, là con cái nói dối, những đứa con không chịu nghe lời chỉ dạy của Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Chúng nói với các đấng tiên kiến: “Đừng tiên kiến làm gì; ” và với các nhà tiên tri: “Đừng tiên báo cho chúng tôi thẳng sự thật; hãy nói cho chúng tôi những lời êm tai; hãy nói tiên tri những điều hão huyền;
\v 11 hãy tách khỏi đường, hãy lìa khỏi lối; hãy đem Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đi cho khuất mắt chúng tôi.”
\s5
\v 12 Vậy nên Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán: “Vì các ngươi khước từ lời này mà đi tin vào sự áp bức, lừa lọc, và cậy vào đó,
\v 13 nên tội này đối với các ngươi sẽ giống như một mảng vỡ lồi ra trên vách tường cao sắp đổ xuống, sập xuống thình lình, ngay tức thì.”
\s5
\v 14 Chúa sẽ đập vỡ nó như chiếc bình của thợ gốm bể ra; Ngài sẽ chẳng tiếc nó, đến nỗi sẽ chẳng tìm được trong các mảnh vỡ nó một miếng đủ lớn để lấy lửa từ bếp hoặc để múc nước trong bình chứa.
\s5
\v 15 Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán: “Các ngươi được cứu khi quay trở lại và yên nghỉ; các ngươi được sức mạnh là nhờ yên lặng và tin cậy. Nhưng các ngươi lại không chịu.
\v 16 Vì các ngươi bảo rằng: Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn, nên các ngươi sẽ trốn chạy; và rằng: Chúng tôi sẽ phóng ngựa thật lẹ, nên những kẻ đuổi theo các ngươi cũng nhanh lẹ.
\s5
\v 17 Một người đe dọa sẽ khiến cả ngàn người chạy trốn; chỉ năm người đe dọa các ngươi sẽ tháo chạy cho đến khi số còn lại của các ngươi giống như trụ cờ chơ vơ trên đỉnh núi, hoặc như lá cờ trên ngọn đồi.
\s5
\v 18 Nhưng Giê-hô-va chờ đợi để thi ân cho các ngươi. Vậy nên Ngài sẽ được tôn cao, sẵn sàng thương xót các ngươi. Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời công bình; phước cho người trông đợi Ngài.
\v 19 Vì sẽ có một dân sống tại Si-ôn, tức tại Giê-ru-sa-lem, và các ngươi sẽ chẳng khóc than nữa. Ngài hẵn sẽ khoan dung với các ngươi khi nghe tiếng ngươi kêu xin. Khi Ngài nghe thì Ngài sẽ đáp lời.
\s5
\v 20 Cho dù Giê-hô-va ban cho các ngươi bánh hoạn nạn, nước tai vạ, thì thầy giáo các ngươi sẽ chẳng ẩn mặt nữa, mà chính mắt các ngươi sẽ thấy thầy mình
\v 21 Khi các ngươi quay sang phải hay khi các ngươi ngoảnh sang trái, tai các ngươi sẽ nghe có tiếng nói đằng sau mình, rằng: “Đường đây, hãy theo đó mà đi.”
\s5
\v 22 Các ngươi sẽ phế bỏ các tượng chạm dát bạc và tượng đúc vàng của mình. Các ngươi sẽ ném chúng đi như vật dơ dáy. Các ngươi sẽ bảo chúng: “Cút khỏi đây.”
\s5
\v 23 Ngài sẽ ban mưa cho hạt giống các ngươi gieo xuống đất, và ban lương thực dư dật từ đất sinh ra. Mùa màng thu hoạch sẽ dồi dào.
\v 24 Bò, lừa cày ruộng sẽ ăn rơm rạ chọn lọc mà người ta đã dùng xẻng và chỉa để xới ra.
\s5
\v 25 Trên mọi núi cao, đồi cao sẽ có khe và suối nước tuôn chảy trong ngày tàn sát kinh khiếp, khi các ngọn tháp bị sụp đổ.
\v 26 Ánh sáng của mặt trăng sẽ như ánh sáng mặt trời, còn ánh sáng mặt trời sẽ sáng hơn gấp bảy lần, giống như ánh sáng của bảy ngày. Giê-hô-va sẽ buộc lại chỗ bị gãy đổ của dân Ngài và chữa lành các thương tích Ngài đã gây ra cho họ.
\s5
\v 27 Này, danh Giê-hô-va từ phương xa đến, bừng cháy vì cơn giận của Ngài và chìm ngập trong đám khói dày đặc. Môi Ngài đầy sự thạnh nộ, lưỡi Ngài như đám lửa thiêu nuốt.
\v 28 Hơi thở Ngài như dòng nước tràn dâng lên đến nửa cổ, để sàng sảy các dân bằng cái rây hủy diệt. Hơi thở Ngài là dây cương nơi hàm của các dân, khiến chúng đi lạc đường.
\s5
\v 29 Các ngươi sẽ hát như trong đêm người ta giữ lễ thánh, và vui sướng trong lòng, như khi người ta đem theo cây sáo đi đến núi của Giê-hô-va, tức đến Vầng Đá của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 30 Giê-hô-va sẽ khiến các ngươi nghe thấy sự oai nghi của tiếng Ngài và tỏ ra cánh tay hành động của Ngài bằng cơn thạnh nộ dữ dội, bằng các ngọn lửa, kèm theo cuồng phong, mưa bão và mưa đá.
\s5
\v 31 Vì khi nghe tiếng Giê-hô-va, A-si-ri sẽ tan tành; Ngài sẽ đánh chúng bằng trượng.
\v 32 Và mỗi khi Giê-hô-va vung gậy đã định trên họ thì sẽ có tiếng nhạc của trống lắc và đàn hạc kèm theo khi Ngài giao tranh, chiến đấu với chúng.
\s5
\v 33 Vì một lò thiêu đã được sửa soạn từ lâu. Thật, nó được sắm sẵn cho vua, và Đức Chúa Trời đã làm ra nó vừa sâu vừa rộng. Giàn thiêu đã sẵn lửa và nhiều củi. Hơi thở của Giê-hô-va như dòng suối diêm sinh sẽ đốt cháy nó.
\s5
\c 31
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho kẻ đi xuống Ai Cập cầu cứu, nhờ ngựa, cậy xe (vì chúng nhiều) và lính kỵ (vì chúng đông), nhưng lại chẳng quan tâm đến Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, cũng không tìm kiếm Giê-hô-va!
\v 2 Trong khi Ngài khôn ngoan, có quyền giáng họa, và không nuốt lời mình. Ngài sẽ trỗi dậy nghịch cùng nhà gian ác và cự địch những ai đồng lõa với kẻ phạm tội.
\s5
\v 3 Ai Cập chỉ là loài người, chẳng phải Đức Chúa Trời, ngựa chúng nó chỉ là thịt xương, chẳng phải thần. Khi Giê-hô-va đưa tay ra thì kẻ trợ giúp cũng vấp ngã, mà kẻ được trợ giúp cũng té nhào; cả hai sẽ cùng bị diệt vong.
\s5
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Như sư tử, thậm chí chỉ là sư tử tơ, gầm gừ trên con mồi bị xé thịt của mình, cho dù cả bọn chăn chiên có đến để hù dọa nó thì nó vẫn chẳng run sợ tiếng hù dọa hoặc rón rén bỏ đi khi nghe tiếng họ; thì cũng vậy, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ xuống mà chiến đấu trên núi Si-ôn, trên ngọn đồi đó.
\s5
\v 5 Chim khi đang bay thế nào thì Giê-hô-va của các đạo binh cũng sẽ che chở Giê-ru-sa-lem giống như vậy; Ngài sẽ che chở và giải cứu khi Ngài đi qua và sẽ bảo toàn nó.
\v 6 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy quay về với Đấng các ngươi đã cự tuyệt.
\v 7 Vì trong ngày đó mỗi người sẽ trừ khử các tượng thần bằng bạc, tượng thần bằng đồng do chính tay mình đã phạm tội tạo ra.
\v 8 A-si-ri sẽ ngã dưới thanh gươm; một thanh gươm chẳng phải bởi con người sẽ tiêu diệt nó. Nó sẽ chạy trốn thanh gươm đó, và giới thanh thiếu niên nó sẽ phải thi hành lao động cưỡng bức.
\v 9 Vì kinh khiếp chúng sẽ mất hết lòng tin, và các quan tướng nó sẽ sợ hãi khi nhìn thấy cờ hiệu của Giê-hô-va. ” — Đó là lời phán của Giê-hô-va, Đấng có lửa tại Si-ôn, có chảo lửa tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Này, sẽ có một vua dùng sự công chính trị vì, còn các quan tướng lấy công lý mà cai trị.
\v 2 Mỗi người sẽ như một chỗ núp gió, nơi tránh bão, như suối nước ở nơi khô hạn, như bóng che của vầng đá lớn trong một xứ mỏi mệt.
\v 3 Khi ấy, mắt của kẻ nhìn thấy sẽ chẳng bị mờ, tai của kẻ nghe sẽ nghe chăm chú.
\s5
\v 4 Kẻ hấp tấp sẽ suy xét chín chắn đầy hiểu biết, và người cà lăm sẽ nói rõ ràng thật dễ dàng.
\v 5 Kẻ ngu xuẩn sẽ không còn được kể là đáng tôn quý, kẻ lừa lọc sẽ không còn được gọi là người đạo đức.
\v 6 Vì kẻ ngu thì ăn nói ngu dại, mưu định trong lòng nó chỉ là công việc tà ác, vô đạo, và nó nói phạm Giê-hô-va cách sai trái. Nó khiến bụng kẻ đói trống rỗng, còn kẻ khát thì nó chẳng cho nước uống.
\s5
\v 7 Đường lối của kẻ lừa lọc là xấu xa. Nó nghĩ ra các mưu ác, dùng lời dối trá mà hãm hại kẻ nghèo, ngay cả khi kẻ nghèo nói lời phải.
\v 8 Còn người cao thượng thì suy tính những điều cao thượng; và nhờ các việc làm cao thượng mình mà người cứ đứng vững.
\s5
\v 9 Các ngươi hạng phụ nữ nhàn rỗi, hãy chờ dậy mà nghe tiếng Ta; các ngươi là bọn thiếu nữ vô tư lự, hãy nghe Ta nói,
\v 10 Vì, hỡi giới phụ nữ thảnh thơi kia, chỉ trong hơn một năm nữa thôi thì lòng tự tin các ngươi sẽ đổ xuống, vì mùa hái nho sẽ thất bát, vụ thu hoạch sẽ không còn.
\s5
\v 11 Hỡi các phụ nữ nhàn hạ, hãy run sợ; hỡi những kẻ tự tin kia, hãy bối rối; hãy cỡi trang phục đẹp đẽ ra mà để mình trần; hãy lấy bao bố quấn ngang lưng.
\v 12 Các người sẽ than vãn về những cánh đồng tươi mát, về những cây nho sai quả.
\v 13 Xứ của dân ta sẽ mọc đầy gai gốc, tầm xuân, thậm chí trong các ngôi nhà từng một thời vui sướng tại một thành phố ăn chơi.
\s5
\v 14 Vì cung điện bị từ bỏ, thành đông đúc bị bỏ hoang; đồi và tháp canh sẽ thành ra hang động mãi mãi, nơi lừa rừng vui thú, và là đồng cỏ của bầy vật;
\v 15 cho đến khi Thần Linh từ trên đổ xuống trên chúng ta, đồng hoang trở thành đồng ruộng phì nhiêu, còn đồng ruộng phì nhiêu thì được xem như khu rừng.
\s5
\v 16 Khi ấy, sự công bình sẽ ở trong hoang mạc; sự công chính sẽ ngụ trong đồng ruộng phì nhiêu.
\v 17 Việc làm của công chính sẽ là bình an; kết quả của công chính sẽ là sự yên tịnh và tin tưởng đời đời.
\v 18 Dân ta sẽ sống tại nơi ở bình an, trong những ngôi nhà an toàn, ở những nơi nghỉ ngơi yên tĩnh.
\s5
\v 19 Nhưng cho dù có mưa đá, khu rừng bị hủy phá, thành phố bị tang hoang,
\v 20 thì các ngươi, là kẻ gieo giống bên mọi dòng suối, kẻ cho bò và lừa mình ra đi ăn cỏ, vẫn sẽ được phước.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho các ngươi, kẻ hủy diệt mà chưa bị hủy diệt! Bất hạnh thay cho các ngươi, kể bội phản mà chưa bị phản bội! Khi các ngươi thôi hủy diệt thì các ngươi sẽ bị hủy diệt. Khi các ngươi ngưng bội phản thì người ta sẽ phản bội các ngươi.
\s5
\v 2 Giê-hô-va ôi, xin hãy khoan dung đối với chúng con; chúng con trông đợi Ngài. Xin Chúa làm cánh tay của chúng con mỗi buổi sáng, làm sự cứu rỗi của chúng con trong lúc khốn cùng.
\s5
\v 3 Nghe tiếng động lớn, các dân đều trốn chạy; khi Chúa trỗi dậy thì các nước chạy tứ tán.
\v 4 Chiến lợi phẩm các ngươi được gom lại như châu chấu tụ tập lại; châu chấu nhảy thể nào thì người ta cũng nhảy vồ chụp nó thể ấy.
\s5
\v 5 Giê-hô-va được tôn cao. Ngài ngự ở nơi cao. Ngài sẽ khiến cho Si-ôn đầy sự công bình, chính trực.
\v 6 Ngài sẽ là sự ổn định cho thời đại các ngươi, là ơn cứu rỗi tràn tuôn, là sự khôn ngoan cùng tri thức; sự kính sợ Giê-hô-va là châu báu Ngài.
\s5
\v 7 Kìa, các sứ thần của chúng đang kêu khóc trên đường phố; giới ngoại giao kỳ vọng hòa bình khóc lóc đắng cay.
\v 8 Đường lộ thì vắng vẻ; chẳng còn lữ khách. Hiệp ước bị vi phạm, nhân chứng bị coi khinh, và thành phố bị xem thường.
\s5
\v 9 Xứ sở khóc than, hao mòn đi; Li-ban bối rối và tàn héo; Sa-rôn giống như sa mạc phẳng lì; Ba-san và Cạt-mên thì trụi lá.
\s5
\v 10 Giê-hô-va phán: “Bấy giờ Ta sẽ trỗi dậy; bấy giờ Ta sẽ được nâng lên; bấy giờ Ta sẽ được tôn cao.
\v 11 Các ngươi thai nghén trấu, và các ngươi sinh ra gốc rạ; hơi thở các ngươi là lửa thiêu nuốt chính các ngươi.
\v 12 Các dân sẽ bị đốt cháy thành vôi, như bụi gai bị chặt và đốt đi.
\s5
\v 13 Các ngươi là kẻ ở xa, hãy nghe biết những gì Ta đã làm; còn các ngươi là kẻ ở gần, hãy biết sức mạnh Ta. ”
\v 14 Những kẻ có tội tại Si-ôn sợ hãi; các kẻ vô đạo thì run rẩy. Ai trong chúng ta có thể ở cùng lửa hừng hực? Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời?
\s5
\v 15 Đó là kẻ bước đi cách công chính và ăn nói thành thật; kẻ coi khinh lợi lộc do áp bức, từ chối nhận hối lộ, không mưu tính phạm tội bạo hành, chẳng chăm nhìn sự dữ.
\v 16 Người sẽ sống ở nơi cao; chốn phòng vệ của người sẽ là pháo đài bằng đá; đồ ăn, nước uống của người sẽ được chu cấp.
\s5
\v 17 Mắt các ngươi sẽ chiêm ngưỡng vua trong vẻ đẹp của người; họ sẽ ngắm nhìn miền đất bao la.
\v 18 Lòng các ngươi sẽ hồi tưởng lại nỗi kinh hoàng; thầy dạy luật ở đâu, kẻ cân tiền bạc ở đâu? Kẻ đếm các đồn lũy ở đâu?
\v 19 Các ngươi sẽ không còn thấy những kẻ kênh kiệu, là dân nói thứ tiếng xa lạ mà các ngươi chẳng hiểu.
\s5
\v 20 Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành của các kỳ lễ chúng ta; mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem là nơi ở yên tịnh, là lều trại không bị dời đi, các cọc nó sẽ không bao giờ bị nhổ, các dây chằng nó chẳng bao giờ đứt.
\v 21 Thay vào đó, Giê-hô-va trong sự oai nghi Ngài sẽ ở với chúng ta, tại một nơi có các sông, suối lớn. Sẽ chẳng có chiến hạm nào qua lại trên đó, cũng chẳng có tàu lớn nào đi qua.
\s5
\v 22 Vì Giê-hô-va là thẩm phán của chúng ta, Giê-hô-va là Đấng ban luật lệ, Giê-hô-va làm vua chúng ta. Ngài sẽ cứu chúng ta.
\s5
\v 23 Các dây buộc bị chùng; chúng không giữ chặt được cột buồm; chúng không thể giương buồm lên; khi người ta chia nhau vô vàn chiến lợi phẩm, thậm chí kẻ què cũng lấy được trong đó.
\v 24 Dân cư sẽ không nói: “Tôi bệnh; ” những người sống ở đó sẽ được tha tội.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Hỡi các nước, hãy đến gần mà nghe; hỡi các dân, hãy chú ý! Hãy nghe đây, hỡi đất cùng mọi loài sống trên đất, thế gian cùng mọi thứ ra từ đó.
\v 2 Vì Giê-hô-va nổi giận với các nước, nổi thạnh nộ với quân đội của chúng; Ngài đã diệt sạch chúng, bỏ mặc cho chúng bị tàn sát.
\s5
\v 3 Thây của chúng sẽ bị để vậy mà không được chôn cất; mùi tử khí phảng phất khắp mọi nơi, còn núi non thì đầm đìa máu.
\v 4 Mọi ngôi sao trên trời sẽ lịm tắt và bầu trờ sẽ bị cuộn lại như cuốn sách; toàn bộ sao trời sẽ tàn lụi, như lá nho héo tàn rơi rụng, như trái vả chín rụng khỏi cây.
\s5
\v 5 Vì khi thanh gươm Ta đã uống no say trên trời thì, kìa, nó sẽ xuống hành hại Ê-đôm, là dân Ta để riêng ra đặng tiêu diệt.
\v 6 Gươm của Giê-hô-va nhỏ máu và vấy mỡ, là máu của chiên con và dê, là mỡ từ trái cật của chiên đực. Vì Giê-hô-va có một vật hiến tế ở Bốt-ra, một cuộc tàn sát lớn tại đất Ê-đôm.
\s5
\v 7 Bò rừng sẽ bị tàn sát cùng với chúng, bò tót tơ sẽ bị giết chết cùng với bò tót đã lớn. Đất chúng nó sẽ say vì máu, bụi tro chúng nó sẽ mập lên vì béo.
\s5
\v 8 Vì đó sẽ là ngày Giê-hô-va báo thù, là năm Ngài báo trả chúng nó vì cớ Si-ôn.
\v 9 Các khe suối Ê-đôm sẽ biến thành hắc ín, tro bụi nó thành lưu huỳnh, đất đai nó thành hắc ín bừng cháy.
\v 10 Nó sẽ cháy cả ngày lẫn đêm; khói nó sẽ bốc lên mãi; từ thế hệ này sang thế hệ khác nó sẽ là hoang địa; đời đời sẽ chẳng có ai đi qua đó.
\s5
\v 11 Chim rừng và thú hoang sẽ sống tại đó; loài cú và loài quạ sẽ làm tổ ở đó. Chúa sẽ giăng trên nó dây đo tàn phá và dây dọi hủy diệt.
\v 12 Giới quyền quý nó sẽ chẳng còn lại gì để có thể gọi là vương quốc, còn các quan tướng nó sẽ chẳng là gì cả.
\s5
\v 13 Gai gốc sẽ mọc um tùm trong cung đền nó, còn đồn lũy nó thì đầy tầm ma và cỏ dại. Nó sẽ thành chỗ trú của chó rừng, nơi ở của đà điểu.
\v 14 Thú hoang và linh cẩu sẽ tụ tập tại đó, dê rừng thì gọi nhau. Thú săn mồi ban đêm cũng ở đó và tìm được nơi nghỉ cho mình.
\v 15 Chim cú sẽ làm tổ, để trứng, ấp trứng cho nở và che chở con mình. Thật, ở đó loài diều hâu sẽ tụ tập lại, trống mái theo cặp.
\s5
\v 16 Hãy tìm kiếm trong sách của Giê-hô-va; sẽ chẳng thiếu loài nào. Chẳng con nào không đủ đôi; vì miệng Giê-hô-va đã truyền cho chúng, và thần linh Ngài đã nhóm chúng lại.
\v 17 Ngài đã bắt thăm về chỗ của chúng, tay Ngài đã dùng dây đo phân ranh cho chúng. Chúng sẽ chiếm ngụ nơi ấy mãi mãi; chúng sẽ ở tại đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Chốn đồng hoang và A-ra-ba sẽ vui sướng; sa mạc sẽ hân hoan và trổ hoa như bông hồng.
\v 2 Nó sẽ trổ thật nhiều bông và hân hoan vui mừng, ca hát; vinh quang của Li-ban sẽ được ban cho nó, cùng với sự rực rỡ của Cạt-mên và Sa-rôn; người ta sẽ thấy vinh quang của Giê-hô-va, sự chói lọi của Đức Chúa Trời chúng ta.
\s5
\v 3 Hãy khiến bàn tay yếu đuối nên mạnh, và làm cho vững đầu gối run rẩy.
\v 4 Hãy nói với những kẻ có lòng sợ hãi: “Phải mạnh mẽ lên, đừng nhát sợ! Kìa, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đến đem theo sự báo thù, cùng sự báo trả của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đến cứu chúng ta.”
\s5
\v 5 Lúc ấy mắt kẻ mù sẽ thấy, tai kẻ điếc sẽ nghe.
\v 6 Bấy giờ, kẻ què sẽ nhảy như con nai, lưỡi câm sẽ ca hát, vì nước phun ra từ A-ra-ba, khe suối chảy trong hoang mạc.
\v 7 Cát nóng bỏng sẽ biến thành hồ, đất khô cằn biến thành suối nước; tại nơi ở của chó rừng, nơi chúng vẫn nằm nghỉ, sẽ là cỏ xanh cùng với sậy và cói.
\s5
\v 8 Sẽ có một con đường gọi là Đường Thánh. Kẻ ô uế sẽ không đi trên đường. Mà đường sẽ dành cho kẻ bước đi trong đó. Chẳng có kẻ ngu dại nào đi trên đó.
\v 9 Sẽ chẳng có sư tử ở đó, cũng chẳng có thú dữ nào trên đường.
\s5
\v 10 Những kẻ được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn ca hát, niềm hân hoan vĩnh cửu sẽ ở trên đầu họ; họ sẽ sung sướng, mừng vui; sự buồn rầu và than vãn sẽ trốn mất.
\s5
\c 36
\p
\v 1 Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, vua A-si-ri là San-chê-ríp tiến đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa rồi chiếm lấy.
\v 2 Sau đó vua A-si-ri sai quan tổng binh từ La-ki dẫn theo đạo quân hùng hậu đến gặp vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Hắn tới gần cống dẫn nước của ao thượng, trên con đường đến cánh đồng của những thợ giặt.
\v 3 Các quan chức Y-sơ-ra-ên ra ngoài thành nói chuyện với chúng gồm Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, Sép-na, thư ký vua, và quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp.
\s5
\v 4 Viên tổng binh nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng vua lớn, tức vua A-si-ri, nói thế này: Lòng tin của ngươi dựa vào đâu vậy?
\v 5 Ngươi chỉ phát biểu những lời vô ích, rằng mình có mưu luận và sức mạnh để đối đầu. Vậy, ngươi đang cậy vào ai nhỉ? Ai đã khiến ngươi cả gan phản loạn chống lại ta?
\s5
\v 6 Kìa, ngươi đang cậy Ai Cập, là cây sậy giập nát ngươi dùng làm gậy chống, nhưng khi ai tựa vào nó, thì nó đâm thủng tay kẻ ấy. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, là vậy đó đối với người nào nương tựa nó.
\v 7 Còn nếu ngươi đáp: “Chúng tôi tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi, ” thì này, chẳng phải ngươi đã dẹp bỏ các đền miếu và bàn thờ của Ngài, rồi nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi phải thờ phượng trước bàn thờ này tại Giê-ru-sa-lem” đó sao?
\s5
\v 8 Vậy nên, bây giờ, ta muốn gửi đến ngươi đề nghị này từ chúa thượng ta, là vua A-si-ri. Ta sẽ cho ngươi hai ngàn con ngựa, nếu ngươi có thể tìm đủ người cưỡi.
\s5
\v 9 Liệu ngươi có thể chống lại thậm chí chỉ huy đạo quân ít ỏi nhất giữa vòng các đầy tớ của chúa thượng ta không? Vậy mà ngươi lại cậy vào Ai Cập để có xe binh và lính kỵ!
\v 10 Rồi đâu phải ta đi lên đây để đánh diệt xứ này mà không có ý của Giê-hô-va? Giê-hô-va đã phán với ta: “Hãy tiến đánh xứ này rồi diệt nó đi. ”’”
\s5
\v 11 Lúc đó, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, cùng Sép-na và Giô-ách, nói với viên tổng binh: “Xin hãy dùng tiếng A-ram nói chuyện với các tôi tớ ông, vì chúng tôi hiểu được thứ tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng thứ tiếng của dân Giu-đa vì nó sẽ vào tai của những người ở trên thành. ”
\v 12 Nhưng viên tổng binh đáp: “Phải chăng chủ ta phái ta đến nói những lời này với chủ các ngươi và chính các ngươi? Chẳng phải người phái ta đến nói với những kẻ ngồi trên thành đó, là kẻ sẽ ăn phân mình, uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi sao?”
\s5
\v 13 Rồi viên tổng binh đứng nói lớn bằng thứ tiếng của dân Giu-đa, rằng: “Hãy nghe lời của vua lớn, tức vua A-si-ri.
\v 14 Vua bảo: Chớ để Ê-xê-chia lừa dối các ngươi, vì hắn sẽ không thể giải cứu các ngươi đâu.
\v 15 Đừng để Ê-xê-chia dụ các ngươi tin cậy Giê-hô-va, rằng: “Giê-hô-va hẵn sẽ giải cứu chúng ta; thành sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri đâu. ”’
\s5
\v 16 Đừng nghe theo Ê-xê-chia, vì đây là lời vua A-si-ri: Hãy làm hòa với ta và bỏ thành mà ra gặp ta. Rồi mọi người trong các ngươi sẽ được ăn trái của cây nho, trái của cây vả mình, uống nước từ trong bình mình.
\v 17 Các ngươi sẽ được vậy cho đến khi ta đến đem các ngươi vào một xứ giống như chính xứ của các ngươi đây, là xứ có ngũ cốc và rượu mới, xứ có bánh và vườn nho.
\s5
\v 18 Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi, rằng: Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta. Có thần nào của các dân đã giải cứu họ khỏi quyền lực của vua A-si-ri chưa?
\v 19 Các thần của Ha-mát và Ạt-bát đâu rồi? Rồi các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Chúng có giải cứu Sa-ma-ri khỏi sức mạnh của ta chăng?
\v 20 Trong số mọi thần của các xứ đó, có thần nào giải cứu được xứ nó khỏi quyền lực ta, để rồi Giê-hô-va cũng có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi quyền lực ta?”
\s5
\v 21 Nhưng dân chúng im lặng, chẳng đáp lại, vì lệnh của vua là: “Đừng đáp lời hắn. ”
\v 22 Rồi Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp, đến gặp vua, quần áo rách tươm, thuật lại cho vua nghe những lời của quan tổng binh.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Khi vua Ê-xê-chia nghe lời tường thuật của họ, vua xé áo mình và lấy vải thô mặc vào, rồi đi đến nhà của Giê-hô-va.
\v 2 Vua sai Ê-li-a-kim, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng các trưởng lão trong giới thầy tế lễ, tất cả đều mặc vải thô, đến gặp tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt.
\s5
\v 3 Họ nói với ông “Vua Ê-xê-chia bảo: Đây là ngày tai họa, quở phạt và sỉ nhục, giống như khi đứa bé sắp ra đời mà người mẹ lại không đủ sức sinh con mình ra.
\v 4 Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ nghe lời của quan tổng binh được chủ hắn là vua A-si-ri sai đến để thách thức Đức Chúa Trời hằng sống và sẽ quở phạt các lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe. Giờ đây xin ông hãy dâng lời cầu nguyện vì số người sót lại vẫn còn ở đây. ’”
\s5
\v 5 Vậy là các tôi tớ của Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai,
\v 6 và Ê-sai bảo họ: “Hãy nói với chúa thượng các ngươi thế này: Giê-hô-va phán: “Đừng sợ vì những lời mà các ngươi đã nghe các tôi tớ vua A-si-ri nói phạm đến Ta.
\v 7 Này, Ta sẽ đặt một linh trong nó, để nó sẽ nghe thuật lại thế này thế nọ, và sẽ quay về xứ. Ta sẽ khiến nó ngã chết vì gươm tại ngay trong xứ mình. ”’”
\s5
\v 8 Khi đó, quan tổng binh trở về và thấy vua A-si-ri đang đánh Líp-na, vì hắn nghe tin vua đã rút khỏi La-ki.
\v 9 Rồi San-chê-ríp nghe Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi và Ai Cập, đã huy động quân đánh mình, nên hắn lại sai sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, với lời lẽ thế này:
\v 10 “Hãy bảo Ê-xê-chia, vua Giu-đa: Chớ để Đức Chúa Trời mà ngươi tin cậy đánh lừa ngươi, rằng: “Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri.”
\s5
\v 11 Này, ngươi đã nghe những gì các vua A-si-ri đã làm cho mọi xứ khi diệt sạch chúng. Còn ngươi sẽ được giải cứu sao?
\v 12 Thần của các dân tộc mà cha ông ta đã tiêu diệt, như Gô-xan, Cha-ran, Rết-sép, và dân Ê-đen tại Tê-la-sa những thần đó có cứu được chúng không?
\v 13 Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của các thành Sê-phạt-va-im, của Hê-na, và Y-va đâu cả rồi? ’”
\s5
\v 14 Ê-xê-chia nhận thư từ các sứ giả và đọc. Rồi vua đi lên nhà của Giê-hô-va mở bức thư ra trước mặt Ngài.
\v 15 Ê-xê-chia cầu nguyện cùng Giê-hô-va, rằng:
\v 16 “Lạy Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Chúa ngự trên các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời tể trị mọi vương quốc trên đất. Chúa đã dựng nên trời, đất.
\s5
\v 17 Giê-hô-va ôi, xin hãy lắng tai nghe. Giê-hô-va ôi, xin mãy mở mắt xem, và nghe các lời của San-chê-ríp, là lời hắn đã gửi đến chế nhạo Đức Chúa Trời hằng sống.
\v 18 Ôi, Giê-hô-va, đúng là các vua A-si-ri đã hủy diệt mọi dân cùng xứ sở của họ.
\s5
\v 19 Chúng đã quăng hết các thần của họ vào lửa, vì đó đâu phải thần thánh gì mà chỉ là công việc bằng gỗ, bằng đá do tay người ta làm ra. Vậy nên người A-si-ri mới diệt chúng được.
\v 20 Giờ đây, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, hãy cứu chúng con khỏi quyền lực của hắn, để mọi nước trên đất biết rằng chỉ một mình Ngài là Giê-hô-va.”
\s5
\v 21 Bấy giờ, Ê-sai, con trai A-mốt, gửi một sứ điệp cho vua Ê-xê-chia, rằng: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: Vì ngươi đã cầu nguyện với Ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri,
\v 22 cho nên đây là lời của Giê-hô-va phán về nó: “Trinh nữ Si-ôn khinh bỉ ngươi, nhạo cười ngươi; con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu về ngươi.
\v 23 Ngươi thách thức và xúc phạm ai? Ngươi đã lên giọng và nhướng mắt chống lại ai một cách kiêu ngạo? Ấy là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đó.
\s5
\v 24 Ngươi đã dùng các tôi tớ mình mà thách thức Chúa, rằng: Nhờ có nhiều binh xa mà ta đã lên được các chót núi, những đỉnh cao ngất của Li-ban. Ta sẽ đốn hạ những cây bá hương cao vút, cùng cây tùng, cây bách đẹp đẽ nhất của nó tại đó, và Ta sẽ vào những vùng cao xa xôi nhất, tức rừng cây sai quả của nó.
\v 25 Ta đã đào giếng và uống nước xứ lạ; ta đã làm khô cạn mọi dòng sông của Ai Cập dưới lòng bàn chân mình.
\s5
\v 26 Ngươi chưa từng nghe biết Ta đã định việc đó từ lâu và đã phác thảo nó từ ngàn xưa sao? Giờ thì Ta đang biến nó thành hiện thực. Ngươi có mặt ở đây để khiến các thành quách vững chắc ra đống đổ nát.
\v 27 Dân cư chúng nó, vốn sức mọn, bị tan tác và sỉ nhục. Chúng như cây ngoài đồng, như cỏ xanh, là cỏ trên mái nhà hoặc cỏ ngoài đồng, trước gió đông.
\s5
\v 28 Nhưng ta biết khi ngươi ngồi xuống, khi ngươi đi ra, đi vào, khi ngươi nổi giận với Ta.
\v 29 Vì cớ ngươi nổi giận với Ta, và vì sự ngạo mạn của ngươi đã đến tai ta, nên ta sẽ xỏ móc Ta vào mũi ngươi, tra khớp Ta vào miệng ngươi; Ta sẽ khiến ngươi trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.”
\s5
\v 30 Đây sẽ là dấu hiệu cho ngươi: Năm nay các ngươi sẽ ăn hoa quả mọc hoang, rồi trong năm thứ hai, ăn những gì từ đó sinh ra. Nhưng đến năm thứ ba các ngươi phải trồng tỉa và gặt hái, trồng vườn nho và ăn trái nó.
\s5
\v 31 Dân còn sót còn lại của nhà Giu-đa sẽ đâm rễ và sinh trái.
\v 32 Vì từ Giê-ru-sa-lem sẽ ra một dân sót; từ núi Si-ôn sẽ xuất hiện số người sống sót. Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc này.”
\s5
\v 33 Vì vậy, Giê-hô-va phán lời này về vua A-si-ri: “Nó sẽ chẳng vào trong thành, cũng chẳng bắn một mũi tên nào ở đây. Nó cũng sẽ không đem thuẫn đến trước thành, cũng không dựng lũy công hãm thành.
\v 34 Nó sẽ theo con đường mình đã đến mà trở về; nó sẽ không vào thành. Đó là lời rao báo của Giê-hô-va.
\s5
\v 35 Vì Ta sẽ bảo vệ thành này và giải cứu nó, vì cớ chính mình và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.”
\s5
\v 36 Lúc ấy, thiên sứ của Giê-hô-va đi ra tấn kích trại của quân A-si-ri, giết chết 185. 000 lính. Khi người ta dậy vào lúc sáng sớm thì thấy xác chết vương vãi khắp nơi.
\v 37 Vậy là San-chê-ríp, vua A-si-ri, bỏ Y-sơ-ra-ên trở về quê nhà và ở tại Ni-ni-ve.
\s5
\v 38 Về sau, khi hắn đang thờ phụng trong đền của thần mình là Nít-róc, thì hai con trai hắn là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se lấy gươm giết chết hắn. Rồi chúng trốn thoát vào xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai hắn, nối ngôi trị vì.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Trong giai đoạn đó, Ê-xê-chia mắc bệnh gần chết. Vậy, tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, đến gặp vua, nói với vua: “Giê-hô-va phán: Hãy thu xếp việc nhà đi, vì con sẽ chết chứ chẳng sống đâu. ’”
\v 2 Ê-xê-chia quay mặt vào tường cầu nguyện cùng Giê-hô-va.
\v 3 Vua thưa: “Ôi, Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại thể nào con đã trọn đời trung tín bước đi trước mặt Chúa, cũng như đã làm điều thiện trước mặt Ngài ra sao. ” Rồi Ê-xê-chia khóc nức nở.
\s5
\v 4 Lúc đó, có lời của Giê-hô-va đến với Ê-sai, rằng:
\v 5 “Hãy đến nói với Ê-xê-chia, kẻ dẫn dắt dân Ta, rằng: Đây là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ Đa-vít ông: Ta đã nghe lời cầu nguyện của con, và đã thấy nước mắt con. Này, Ta sẽ thêm cho đời con mười lăm năm nữa.
\v 6 Ta cũng sẽ giải cứu con cùng thành này khỏi quyền lực của vua A-si-ri, và sẽ bảo vệ thành.
\s5
\v 7 Đây là dấu hiệu Ta, Giê-hô-va, ban cho con, cho thấy Ta sẽ thực hiện điều Ta đã phán:
\v 8 Này, Ta sẽ khiến bóng trên cầu thang của A-cha lùi lại mười bậc. ” Vậy là bóng lùi lại mười nấc trên cầu thang mà nó đã đi qua.
\s5
\v 9 Còn đây là lời cầu nguyện được ghi lại của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sau khi vua mắc bệnh và rồi được khỏi:
\v 10 “Tôi đã nói rằng mới sống được nửa đời mình sẽ đi qua các cửa âm phủ; mình phải đến đó sống phần đời còn lại.
\v 11 Tôi đã nói mình sẽ chẳng còn nhìn thấy Giê-hô-va, tức Giê-hô-va trên đất của kẻ sống; mình sẽ chẳng còn được nhìn nhân gian hay dân cư trần thế.
\s5
\v 12 Cuộc đời tôi bị cất khỏi tôi và mang đi như túp lều của kẻ chăn chiên; Tôi đã cuốn cuộc đời mình lại như người thợ dệt; Chúa sắp cắt đứt tôi khỏi khung củi; giữa ngày và đêm, Chúa sắp kết liễu cuộc đời tôi.
\v 13 Tôi kêu la cho đến sáng; Chúa bẻ gãy hết các xương tôi như sư tử; giữa ngày và đêm, Chúa sẽ dứt mạng sống tôi đi
\s5
\v 14 Tôi kêu chiêm chiếp như chim nhạn; tôi gù như chim bồ câu; mắt tôi mòi mỏi vì ngước nhìn lên. Ôi Chúa, con bị đè ép; xin cứu giúp con.
\v 15 Tôi sẽ nói gì đây? Ngài đã phán với tôi, và Ngài cũng đã thực hiện; tôi sẽ bước đi chậm rãi trọn các năm tháng mình vì tôi quá thảm sầu.
\s5
\v 16 Ôi, Chúa, các nỗi đau đớn mà Chúa đưa đến thật có ích cho con; xin hãy ban lại cho con mạng sống mình; Chúa đã phục hồi sự sống và sức khỏe con.
\v 17 Chính vì ích lợi của mình mà con đã trãi qua nỗi đau buồn đó. Chúa đã cứu con khỏi hầm hủy diệt; vì Ngài đã quăng hết mọi tội con ra sau lưng Ngài.
\s5
\v 18 Vì âm phủ chẳng biết cảm tạ Chúa; những kẻ xuống vực không còn trông cậy nơi sự thành thật của Ngài.
\v 19 Kẻ sống, chỉ người sống, mới biết dâng lời cảm tạ Chúa, như con làm ngày nay; người cha sẽ cho con cái mình biết sự chân thật của Chúa.
\s5
\v 20 Giê-hô-va sẽ cứu tôi, và chúng tôi sẽ đàn ca vui mừng trọn những ngày của cuộc đời mình trong nhà của Giê-hô-va.”
\s5
\v 21 Trước đó, Ê-sai có bảo: “Hãy lấy một bánh trái vả đắp lên chỗ ung nhọt, thì vua sẽ được lành. ”
\v 22 Ê-xê-chia cũng có hỏi: “Có dấu hiệu nào cho thấy ta sẽ được lên nhà của Giê-hô-va?”
\s5
\c 39
\p
\v 1 Vào thời đó, Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-by-lôn, gửi thư và lễ vật cho Ê-xê-chia, vì hắn có nghe tin vua đau nhưng được bình phục.
\v 2 Ê-xê-chia rất hài lòng về việc này; vua cho các sứ giả xem kho chứa các báu vật mình — những món đồ bằng bạc, bằng vàng, hương liệu, dầu quý, kho chứa vũ khí, cùng mọi thứ khác có trong các kho chứa của vua. Chẳng có thứ gì trong cung hoặc trong cả vương quốc mà Ê-xê-chia không cho chúng xem.
\s5
\v 3 Vậy, tiên tri Ê-sai đến gặp vua Ê-xê-chia, hỏi: “Những người đã đó nói gì với vua? Họ từ đâu đến vậy? ” Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ phương xa, từ đất nước Ba-by-lôn. ”
\v 4 Ê-sai hỏi: “Họ đã xem gì trong cung vua? ” Ê-xê-chia đáp: “Họ xem mọi thứ trong cung ta. Chẳng có thứ quý giá nào của ta mà ta không cho họ xem.”
\s5
\v 5 Vậy là Ê-sai nói với Ê-xê-chia: “Xin vua hãy nghe lời của Giê-hô-va của các đạo binh đây:
\v 6 Này, sắp đến ngày mọi vật trong cung ngươi, các thứ mà tổ phụ ngươi đã chứa trong kho cho đến ngày nay, sẽ bị lấy đem qua Ba-by-lôn. Sẽ chẳng còn thứ gì cả, Giê-hô-va phán.
\s5
\v 7 Và các con trai từ ngươi mà ra, gọi ngươi là cha — chúng sẽ bị bắt đi, và chúng sẽ trở thành các thái giám trong cung vua Ba-by-lôn. ’”
\v 8 Ê-xê-chia đáp lại Ê-sai: “Lời của Giê-hô-va mà ông đã nói ra đó tốt lắm. ” Vì vua nghĩ: “Thời mình vẫn còn thanh bình, ổn định.”
\s5
\c 40
\p
\v 1 Đức Chúa Trời phán: “Hãy yên ủi, hãy yên ủi dân Ta.
\v 2 Hãy nói dịu dàng với Giê-ru-sa-lem; và loan báo cho nó rằng việc tranh chiến của nó đã dứt, tội lỗi nó đã được tha, và nó đã phải nhận chịu gấp đôi từ tay Giê-hô-va vì mọi tội lỗi mình.
\s5
\v 3 Có tiếng kêu lên: “Hãy sửa soạn con đường của Giê-hô-va trong hoang mạc; ở A-ra-ba, hãy làm thẳng đường lộ cho Đức Chúa Trời chúng ta. ”
\v 4 Mọi thung lũng sẽ được nâng lên, mọi núi đồi sẽ bị san phẳng; đất gồ ghề sẽ được ban bằng, những chỗ gập ghềnh sẽ thành chốn phẳng phiu;
\v 5 vinh quang của Giê-hô-va sẽ được bày tỏ, và mọi người sẽ cùng được nhìn thấy, vì miệng của Giê-hô-va đã phán điều đó.
\s5
\v 6 Có tiếng bảo: “Hãy hô lên. ” Một tiếng khác đáp: “Tôi phải hô gì đây? ” “Mọi xác phàm đều là cỏ, và mọi sự thành tín của người ta khác nào bông hoa ngoài đồng.
\v 7 Cỏ khô, hoa tàn khi hơi thở của Giê-hô-va thổi trên nó; thật loài người chỉ là cỏ thôi.
\v 8 Cỏ khô, hoa tàn, nhưng lời Đức Chúa Trời sẽ còn mãi.”
\s5
\v 9 Hỡi Si-ôn, kẻ đem tin mừng, hãy lên một ngọn núi cao; hãy ra sức cất tiếng lên; hãy loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem. Hãy kêu lên thật lớn; đừng sợ hãi.
\v 10 Hãy nói với các thành của Giu-đa: “Đức Chúa Trời ngươi ở đây! ” Kìa, Chúa Giê-hô-va hiện đến như người chiến binh thắng trận, và Ngài dùng cánh tay mạnh mẽ mình mà cai trị. Kìa, phần thưởng của Ngài ở cùng Ngài, và những kẻ Ngài đã cứu đi trước Ngài.
\s5
\v 11 Ngài sẽ nuôi đàn chiên Ngài như người chăn; Ngài sẽ gom chiên con vào tay mình rồi ôm chúng vào lòng, và dịu dàng dắt chiên cái đang nuôi con.
\s5
\v 12 Ai đã từng dùng lòng bàn tay đong nước, từng đo vòm trời, từng chứa bụi đất trong giỏ, từng cân núi trên bàn cân, từng cân đồi trên cán cân?
\s5
\v 13 Ai đã hiểu được tâm trí của Giê-hô-va, hoặc làm người cố vấn chỉ bảo Ngài?
\v 14 Ngài đã tiếp nhận lời chỉ giáo của ai? Ai đã hướng dẫn Ngài cách làm việc này, việc nọ, và dạy Ngài tri thức, hoặc chỉ cho Ngài cách đạt đến sự hiểu biết?
\s5
\v 15 Kìa, các nước như một giọt nước trong thùng, khác nào bụi trên bàn cân; kìa, Chúa cân các hòn đảo như hạt bụi.
\v 16 Li-ban không có đủ củi lửa, thú hoang nó cũng không đủ để làm của lễ thiêu.
\v 17 Mọi nước đều thiếu kém trước mặt Ngài; Ngài xem họ chẳng là gì cả.
\s5
\v 18 Vậy thì các ngươi ví Đức Chúa Trời với ai? Các ngươi sẽ so Ngài với tượng thần nào?
\v 19 Hình tượng — một người thợ đúc ra nó; người thợ bạc dùng vàng bọc nó lại rồi làm dây chuyền đeo cho nó.
\v 20 Để dâng lễ vật, người ta chọn một khúc cây không mục nát; rồi tìm một thợ khéo để tạc ra một hình tượng đứng được mà không ngã.
\s5
\v 21 Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Từ ban đầu người ta chưa nói cho các ngươi sao? Từ khi lập nền trái đất các ngươi vẫn chưa hiểu sao?
\v 22 Chúa là Đấng ngự trên vòng trái đất; dân cư khác nào cào cào trước mặt Ngài. Chúa trương các tầng trời ra như bức màn và giăng nó ra như chiếc lều để ở.
\s5
\v 23 Ngài làm cho các vua chúa ra hư không, khiến những kẻ cai trị trên đất nên tầm thường.
\v 24 Kìa, chúng chỉ mới được trồng; kìa, chúng chỉ mới được gieo; kìa, chúng chưa kịp đâm rễ xuống đất thì Ngài thổi trên chúng nó, và chúng nó héo tàn, rồi gió thổi chúng đi như trấu.
\s5
\v 25 Đấng Thánh phán: “Vậy, các ngươi sẽ so Ta với ai? Ta giống như đấng nào? ”
\v 26 Hãy nhìn lên trời! Ai đã tạo ra mọi tinh tú kia? Ngài tạo ra chúng theo nhóm và gọi đích danh từng vì sao. Nhờ sức mạnh vĩ đại và quyền năng lớn lao của Chúa mà chẳng thiên thể nào bị thiếu mất.
\s5
\v 27 Hỡi Gia-cốp, sao ngươi nói, và hỡi Y-sơ-ra-ên, sao ngươi dám tuyên bố, rằng: “Đường lối tôi bị khuất khỏi mắt Giê-hô-va; Đức Chúa Trời tôi chẳng quan tâm bênh vực tôi? ”
\v 28 Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Đức Chúa Trời đời đời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng các chốn tận cùng trái đất, chẳng mệt nhọc hay mòn mỏi; sự hiểu biết của Ngài là vô hạn.
\s5
\v 29 Ngài ban năng lực cho kẻ mệt nhọc, và sức mới cho kẻ yếu sức.
\v 30 Thậm chí người trẻ tuổi cũng mệt nhọc, mòn mỏi, giới thanh niên cũng vấp váp, té ngã;
\v 31 nhưng ai trông đợi Giê-hô-va sẽ phục hồi sức lực; họ sẽ bay lượn như chim đại bàng; họ sẽ chạy mà không mệt nhọc; họ sẽ đi mà không đuối sức.
\s5
\c 41
\p
\v 1 “Các ngươi là những xứ vùng duyên hải, hãy yên lặng mà nghe; ước gì các dân phục hồi sức mạnh; ước gì chúng đến gần và lên tiếng; mong sao chúng ta cùng đến gần mà tranh luận.
\v 2 Ai đã khích động kẻ này từ phương đông? Ai triệu tập người đến phục vụ đúng thể thức? Ngài phó các dân vào tay người và khiến người khuất phục các vua; người dùng gươm khiến họ ra như bụi, dùng cung khiến họ ra như gốc rạ bị gió thổi.
\s5
\v 3 Người săn đuổi chúng, vượt qua cách an toàn, theo con đường thần tốc mà bàn chân người hầu như không chạm đến.
\v 4 Ai đã thi hành và hoàn tất các việc này? Ai đã triệu tập các thế hệ từ ban đầu? Ấy chính Ta, Giê-hô-va, Đấng trước hết và cũng có mặt với những kẻ cuối cùng.
\s5
\v 5 Các đảo đã thấy và sợ hãi; các vùng đất xa xăm run rẩy; chúng tiến lại và đến nơi.
\v 6 Ai cũng giúp đỡ người ở cạnh mình; mọi người đều nói với nhau: Hãy vững lòng.
\v 7 Thợ mộc khích lệ thợ vàng, thợ dùng búa khích lệ thợ dùng đe, khi nói về mối hàn, rằng: Tốt lắm. Họ dùng đinh giữ chặt để nó khỏi ngã nhào.
\s5
\v 8 Nhưng ngươi là Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta, là Gia-cốp mà Ta đã chọn, là dòng dõi của Áp-ra-ham, bạn hữu Ta,
\v 9 là kẻ Ta đã đem về từ những nơi tận cùng của trái đất, kẻ Ta đã gọi từ những nơi xa xăm, kẻ mà Ta đã bảo: Con là đầy tớ Ta; Ta đã chọn con, chẳng khước từ con.
\s5
\v 10 Đừng sợ, vì Ta ở với con. Đừng lo lắng, vì Ta là Đức Chúa Trời con. Ta sẽ ban sức cho con, Ta sẽ giúp đỡ con, và Ta sẽ dùng tay phải toàn thắng của Ta mà nâng đỡ con.
\s5
\v 11 Này, mọi kẻ nổi giận với con — chúng sẽ hổ thẹn và bị sỉ nhục; những kẻ chống đối con — chúng sẽ chẳng là gì cả và sẽ tiêu vong.
\s5
\v 12 Con sẽ tìm nhưng chẳng thấy các kẻ đối địch mình; những kẻ tranh chiến với con sẽ chẳng là gì, hoàn toàn chẳng là gì cả.
\v 13 Vì Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, sẽ nắm tay phải con, và nói với con: Đừng sợ; Ta đang giúp con đây.
\s5
\v 14 Đừng sợ, hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ giúp đỡ các ngươi” — đó là lời tuyên bố của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 15 “Này, ta khiến ngươi ra giống chiếc xe suốt lúa mới với hai cạnh sắc bén; các ngươi sẽ tuốt các ngọn núi và nghiền nát chúng; các ngươi sẽ khiến các đồi ra giống như trấu.
\s5
\v 16 Các ngươi sẽ sàng sảy chúng, rồi gió sẽ đùa chúng đi; gió sẽ khiến chúng tan tác. Các ngươi sẽ vui mừng nơi Giê-hô-va, các ngươi sẽ vui mừng nơi Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 17 Những kẻ bị áp bức, thiếu thốn tìm kiếm nước mà chẳng có, nên lưỡi họ khô rốc vì khát; Ta, Giê-hô-va, sẽ đáp lời cầu xin của họ; Ta, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ chẳng từ bỏ họ.
\v 18 Ta sẽ tạo ra các dòng suối chảy xuống triền núi, những con suối chính giữa thung lũng; Ta sẽ biến sa mạc thành cái ao, và vùng đất khô thành suối nước.
\s5
\v 19 Trong đồng hoang sẽ mọc lên cây tuyết tùng, cây keo, cây thường xanh, và cây ô liu; Ta sẽ khiến trong sa mạc mọc lên cây tùng, cây thông và cây bách.
\v 20 Ta làm vậy để người ta thấy, nhận ra, và cùng hiểu, rằng chính tay Giê-hô-va đã làm việc này, rằng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã tạo ra nó.
\s5
\v 21 Giê-hô-va phán: “Hãy trình bày trường hợp của các ngươi. ” Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lập luận vững chắc nhất bênh vực các tượng thần mình đi. ”
\v 22 Hãy để chúng trình bày cho chúng ta lý lẽ riêng của chúng; hãy để chúng lên công bố cho chúng ta việc sẽ xảy ra, để chúng ta biết rõ những việc này. Hãy để chúng nói cho chúng ta biết về những lời tiên báo trước đây, để chúng ta có thể ngẫm nghĩ các việc đó và biết nó được ứng nghiệm thế nào.
\s5
\v 23 Hãy nói về những việc tương lai để chúng ta biết các ngươi đúng là thần; hãy làm điều gì đó, thiện ác gì cũng được, để chúng ta sợ hãi và cảm kích.
\v 24 Kìa, tượng thần các ngươi không ra gì, và công việc các ngươi làm cũng chẳng được chi. Ai chọn lựa các ngươi thật đáng kinh tởm.
\s5
\v 25 Ta đã khiến xuất hiện một kẻ từ phương bắc, và nó đến; từ hướng mặt trời mọc ta gọi đến kẻ biết kêu cầu danh Ta, và nó sẽ giẫm đạp các vua chúa như bùn đất, như người thợ gốm giẫm đạp lên đất sét.
\v 26 Ai đã loan báo việc này từ ban đầu, để chúng ta biết? Và đã loan tin ấy trước khi có thời gian, để chúng ta nói rằng: “Người nói đúng? ” Thật, chẳng ai trong chúng nó ban lệnh; thật, chẳng ai nghe các ngươi nói gì.
\s5
\v 27 Ta trước hết đã nói với Si-ôn: “Này, chúng đây”; Ta đã sai người loan tin đến Giê-ru-sa-lem.
\v 28 Khi ta nhìn xem thì chẳng có người nào, chẳng ai trong chúng nó có lời luận bàn khôn ngoan, tức kẻ có thể đáp lại khi Ta hỏi.
\v 29 Kìa, tất cả chúng đều không là gì; và công việc chúng làm cũng chẳng ra chi; hình tượng đúc của chúng nó chỉ là gió và rỗng tuếch.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Kìa, tôi tớ Ta, kẻ Ta nâng đỡ; kẻ được Ta lựa chọn, kẻ Ta lấy làm vui thích. Ta đã đặt Thần Ta trên người; người sẽ đem lại sự công chính cho các dân.
\v 2 Người sẽ không kêu gào hoặc la hét, cũng không cố khiến cho tiếng mình được nghe thấy ngoài phố.
\s5
\v 3 Người sẽ không bẻ cây sậy bị giập, người không dập tắt tim đèn sắp tàn; người sẽ trung tín thi hành sự công chính.
\v 4 Người sẽ không mệt mỏi, ngã lòng cho đến khi đã thiết lập nền công chính trên đất; các xứ ven biển sẽ trông chờ luật pháp của người.
\s5
\v 5 Đây là lời phán của Đức Chúa Trời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo nên các tầng trời và giăng nó ra; Đấng trải đất ra và ban sự sống trong đất; Đấng ban hơi thở cho loài người trên đất, ban sự sống cho cư dân nó:
\v 6 “Ta, Giê-hô-va, Đấng đã kêu gọi con trong sự công chính và sẽ nắm tay con. Ta sẽ gìn giữ con và đặt con làm giao ước cho dân này, làm ánh sáng cho các dân ngoại,
\s5
\v 7 để mở mắt kẻ mù, giải thoát kẻ tù tội khỏi ngục, kẻ ngồi trong bóng tối ra khỏi chốn giam cầm.
\s5
\v 8 Ta là Giê-hô-va, đó là danh Ta; Ta sẽ không nhường bớt vinh quang mình cho ai khác, cũng không san sẻ lòng tôn kính Ta cho tượng chạm.
\v 9 Này, những việc về trước đã ứng nghiệm, giờ đây Ta sẽ công bố những sự việc sau này. Trước khi chúng khởi diễn ra thì Ta sẽ nói cho các ngươi biết.”
\s5
\v 10 Hỡi các kẻ đi biển, cùng mọi vật dưới biển; hỡi các vùng đất ven biển cùng dân cư ở đó, hãy hát cho Giê-hô-va một bài ca mới, hãy từ nơi đầu cùng đất hát ca ngợi Ngài. ”
\v 11 Nguyện sa mạc và chốn thị thành la lên, và các làng mạc nơi dân Kê-đa sống reo vui! Nguyện các dân cư Sê-la ca hát; hãy để chúng reo hò từ trên các đỉnh núi.
\s5
\v 12 Nguyện chúng dâng vinh quang cho Giê-hô-va, và công bố sự ngợi khen Ngài tại các vùng duyên hải.
\v 13 Giê-hô-va sẽ ra trận như một chiến binh; Ngài sẽ tiến lên như người lính chiến. Ngài sẽ giục lòng hăng say mình. Ngài sẽ la lớn, phải, Ngài sẽ thét lên tiếng hô xung trận; Ngài sẽ cho quân thù chứng kiến năng lực Ngài.
\s5
\v 14 Ta nín lặng đã lâu; Ta vẫn còn nín lặng và kìm nén; giờ thì Ta sẽ la lên như người phụ nữ chuyển dạ; Ta sẽ thở hổn hển, gấp gáp.
\v 15 Ta sẽ phá tan núi đồi và làm cây cỏ chúng nó khô héo; Ta sẽ biến các dòng sông thành đảo, và khiến các đầm lầy khô cạn.
\s5
\v 16 Ta sẽ đưa kẻ mù đi theo con đường chúng không rành; Ta sẽ dắt chúng đi trên các lối chúng chưa biết. Ta sẽ biến bóng tối thành ánh sáng trước mặt chúng, khiến các nơi khúc khuỷu ra ngay thẳng. Ta sẽ làm các việc này, Ta không bỏ đâu.
\s5
\v 17 Những kẻ cậy nơi tượng chạm, và nói với tượng đúc rằng: “Người là thần tôi” — chúng sẽ phải quay trở lui, chúng sẽ phải rất xấu hổ.
\s5
\v 18 Các ngươi là kẻ điếc, hãy nghe đây; các ngươi là kẻ mù, hãy nhìn để mà thấy.
\v 19 Ai bị mù, nếu không phải là đầy tớ Ta? Hoặc điếc như sứ giả Ta sai phái? Ai bị mù như kẻ Ta đã lập giao ước với, hoặc mù như đầy tớ của Giê-hô-va?
\s5
\v 20 Ngươi nhìn thấy nhiều điều mà lại chẳng hiểu: tai vẫn mở, mà chẳng ai nghe.
\v 21 Giê-hô-va lấy làm vui mà tán dương sự công chính Ngài và tôn vinh luật pháp Ngài.
\s5
\v 22 Nhưng đây là một dân đã bị cướp bóc, chiếm đoạt; chúng đều bị sập hố, bị giam trong tù; chúng ta trở thành vật bị cưỡng đoạt mà chẳng có ai giải cứu, hoặc nói: “Hãy đem chúng về!”
\s5
\v 23 Ai giữa vòng các ngươi chịu nghe điều này? Ai sẽ bằng lòng lắng tai nghe sau này?
\v 24 Ai đã phó Gia-cốp cho kẻ cướp, phó Y-sơ-ra-ên cho kẻ cưỡng đoạt? Chẳng phải là Giê-hô-va, Đấng chúng ta đã phạm tội chống nghịch, sao? Chúng đã từ chối bước đi trong các đường lối Ngài, không chịu vâng giữ luật pháp Ngài.
\s5
\v 25 Vậy nên Ngài trút đổ cơn giận sôi sục lên chúng nó, khiến chúng phải chịu chiến tranh tàn khốc. Lửa bừng cháy chung quanh, nhưng chúng chẳng nhận ra; lửa thiêu cháy chúng, nhưng chúng chẳng để tâm đến.
\s5
\c 43
\p
\v 1 Nhưng, bây giờ, hỡi Gia-cốp, hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi, Đấng dựng nên ngươi: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi; Ta đã lấy tên người gọi ngươi, ngươi thuộc về Ta.
\s5
\v 2 Khi ngươi đi qua nước, Ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ không bị phủ lút. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa sẽ không làm hại ngươi.
\v 3 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Cứu Chúa ngươi. Ta đã ban Ai Cập làm giá chuộc ngươi, ban Ê-thi-ô-bi và Sê-ba thế chỗ ngươi.
\s5
\v 4 Vì ngươi thật quí giá và đặc biệt trước mặt Ta, nên Ta yêu ngươi; vậy nên Ta sẽ dùng kẻ khác để đổi lấy ngươi, và các dân khác để thế mạng cho ngươi.
\v 5 Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi; Ta sẽ đem con cháu ngươi về từ phương đông, tập hợp ngươi lại từ phương tây.
\s5
\v 6 Ta sẽ nói với phương bắc: Hãy buông ra; và với phương nam: Không được giữ lại; Hãy đem các con trai Ta về từ phương xa, và các con gái Ta từ các vùng đất hẻo lánh,
\v 7 tức mọi kẻ nào được xưng bằng danh Ta, những kẻ Ta đã dựng nên vì vinh quang Ta; Ta đã tạo thành họ — phải, Ta đã làm ra họ.
\s5
\v 8 Hãy đem những kẻ có mắt mà đui mù, những kẻ có tai mà điếc này ra.
\v 9 Tất cả các nước hãy tụ họp lại, các dân hãy tập hợp lại. Ai trong số chúng nó đã có thể tuyên bố điều này và loan báo cho chúng ta những việc ngày trước? Hãy cứ để chúng đưa ra nhân chứng để chứng tỏ mình đúng, hãy để chúng nghe và xác nhận: Đúng như vậy. ’” tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác.
\s5
\v 10 Giê-hô-va phán: “Ngươi là nhân chứng cho Ta, và là đầy tớ được Ta lựa chọn, để ngươi được biết và tin Ta, và hiểu rằng Ta là Đấng đó. Trước Ta chẳng có thần nào được tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác.
\v 11 Chính Ta là Giê-hô-va, ngoại trừ Ta chẳng đấng cứu rỗi nào.
\s5
\v 12 Ta đã tuyên phán, cứu rỗi và công bố; chẳng có thần nào khác giữa vòng các ngươi. Các ngươi là nhân chứng cho Ta. ” Giê-hô-va phán: “Ta là Đức Chúa Trời.
\v 13 Từ bữa nay trở đi, Ta chính là Đấng ấy; chẳng ai có thể giải cứu ai khỏi tay Ta. Ta hành động và ai có thể vô hiệu hóa?”
\s5
\v 14 Này là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Vì các ngươi mà Ta phái đến Ba-by-lôn và hạ hết chúng xuống thành dân chạy nạn, biến các câu nói vui mừng của dân Ba-by-lôn thành những bài ai ca.
\v 15 Ta là Giê-hô-va, Đấng Thánh của các ngươi, Đấng Tạo thành Y-sơ-ra-ên, là Vua các ngươi.”
\s5
\v 16 Này là lời của Giê-hô-va (Đấng mở lối xuyên qua biển, mở đường vượt qua sóng nước,
\v 17 Đấng sai phái xe binh và ngựa, quân đội và đạo binh hùng mạnh. Chúng cùng nhau té ngã; chúng sẽ chẳng bao giờ trỗi dậy nữa; chúng bị dập, bị tắt đi như tim đèn cháy.)
\s5
\v 18 “Đừng nghĩ đến các việc trước đây, cũng đừng xem xét những việc thời xưa.
\v 19 Này, Ta sắp thực hiện một việc mới mẻ; giờ thì nó khởi sự diễn ra; các ngươi không nhận thấy sao? Ta sẽ làm ra một con đường trong sa mạc, cùng các dòng suối nơi đồng hoang.
\s5
\v 20 Các loài dã thú ngoài đồng, như chó rừng và đà điểu, sẽ tôn vinh Ta, vì Ta ban nước trong đồng hoang, và sông ngòi trong sa mạc, cho tuyển dân Ta uống,
\v 21 tức dân mà Ta đã tạo thành vì chính Ta, để chúng truyền lại lời ca ngợi Ta.
\s5
\v 22 Nhưng, hỡi Gia-cốp, ngươi không kêu cầu Ta; hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi đã chán Ta.
\v 23 Người chẳng đem dâng chiên mình làm của lễ thiêu cho Ta; ngươi cũng chẳng dùng sinh tế mà tôn vinh Ta. Ta không chất gánh nặng cho các ngươi bằng các của lễ chay, cũng không làm phiền các ngươi bằng việc dâng hương.
\s5
\v 24 Ngươi chẳng dùng tiền mua cho ta xương bồ, cũng không dâng cho ta mỡ sinh tế; nhưng lại khiến ta nặng gánh vì tội các ngươi, làm phiền ta vì các việc làm xấu xa mình.
\s5
\v 25 Ta, thật, chính Ta là Đấng vì chính mình mà xóa bôi các vi phạm ngươi; và Ta sẽ không nhớ lại các tội của ngươi nữa.
\v 26 Hãy nhắc nhớ Ta việc đã xảy ra. Chúng ta hãy cùng tranh luận; hãy trình bày cớ sự của mình, để ngươi được thanh minh.
\s5
\v 27 Thủy tổ ngươi mắc tội, giới lãnh đạo ngươi cũng phạm tội nghịch Ta.
\v 28 Vì vậy, Ta sẽ khiến các quan chức đền thánh ra ô uế. Ta sẽ phó Gia-cốp để bị diệt vong, phó Y-sơ-ra-ên để chịu sỉ nhục.
\s5
\c 44
\p
\v 1 Nghe này, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã chọn:
\v 2 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi và dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Đấng sẽ giúp đỡ ngươi: “Đừng sợ, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, hỡi Giê-su-run, kẻ Ta đã chọn.
\s5
\v 3 Ta sẽ đổ nước xuống trên mảnh đất đang khát, và khiến suối chảy nơi đất khô; Ta sẽ đổ Thần Ta trên hậu tự ngươi, đổ phước xuống trên con cháu ngươi.
\v 4 Chúng sẽ vươn lên giữa đám cỏ, như cây liễu bên suối nước.
\s5
\v 5 Người này sẽ nói: Tôi thuộc về Giê-hô-va; kẻ khác sẽ được gọi bằng tên Gia-cốp, và kẻ khác nữa sẽ viết thành "Người thuộc Đức Giê-hô-va,' và chính tên Người bởi tên của Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 6 Đây là lời phán của Giê-hô-va — Vua của Y-sơ-ra-ên, cũng là Đấng Cứu Chuộc nó, tức Giê-hô-va của các đạo binh: “Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng; ngoài Ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác.
\s5
\v 7 Có ai giống như Ta chăng? Hãy cứ để nó lên tiếng và giải trình cho Ta các việc đã xảy ra từ khi Ta lập dân Ta thời xa xưa, cũng như công bố những việc sẽ đến.
\s5
\v 8 Chớ kinh khiếp, cũng đừng sợ hãi. Chẳng phải Ta đã công bố cho các ngươi từ lâu, và đã rao báo nó, hay sao? Các ngươi là nhân chứng cho Ta: Ngoài Ta ra còn có Đức Chúa Trời nào nữa? Chẳng có Vầng Đá nào khác; Ta chẳng biết ai cả.”
\s5
\v 9 Những kẻ nắn nên hình tượng đều chẳng ra gì cả; các vật chúng lấy làm vui thích đó là vô giá trị; các nhân chứng của chúng không thấy, cũng chẳng biết gì, và chúng sẽ bị sỉ nhục.
\v 10 Ai lại làm ra hoặc đúc nên một tượng thần chẳng có giá trị gì?
\s5
\v 11 Đó, mọi kẻ liên hệ với nó đều phải xấu hổ; các tay thợ khéo cũng chỉ là người phàm. Cứ để chúng cùng bày tỏ lập trường; chúng sẽ co rúm lại và phải xấu hổ.
\s5
\v 12 Thợ rèn dùng dụng cụ làm việc trên than lửa tạo ra nó. Hắn dùng búa tạo hình và dùng cánh tay mạnh thực hiện công việc. Bụng đói, sức lực yếu đi; hắn chẳng uống nước, nên mệt lả.
\s5
\v 13 Thợ mộc thì dùng dây đo gỗ, dùng bút đánh dấu. Hắn dùng công cụ đẽo gọt, dùng com-pa khắc họa. Hắn đẽo nó theo hình người, có dáng vẻ một người đẹp đẽ, rồi cho nó ở trong miếu thờ.
\s5
\v 14 Hắn đốn cây bá hương, hoặc chọn cây dẻ, cây sồi. Hắn chọn cho mình các cây trên rừng. Hắn trồng cây tùng, nhờ mưa làm cho lớn lên.
\s5
\v 15 Rồi người ta dùng cây đó chụm lửa và sưởi ấm. Phải, người ta nhóm lửa và nướng bánh. Rồi từ cây đó người ta cũng làm ra vị thần và cúi lạy nó; người ta tạo nên một tượng thần rồi sấp mình xuống bái lạy.
\v 16 Họ lấy một ít gỗ chụm lửa, dùng lửa đó nấu ăn. Họ ăn và được no bụng. Họ cũng sưởi ấm mình và bảo: “Chà, ấm quá, mình đã thấy lửa rồi.”
\s5
\v 17 Với phần gỗ còn lại họ dùng tạo ra một vị thần, đẽo gọt theo ảnh tượng mình; rồi họ sấp mình thờ lạy nó, sùng bái nó, và cầu nguyện với nó, rằng: “Xin cứu con, vì người là thần của con.”
\s5
\v 18 Họ chẳng biết, cũng chẳng hiểu gì, vì mắt họ bị mù nên không thấy được, và lòng họ không nhận thức được.
\s5
\v 19 Chẳng ai suy nghĩ, chẳng ai hiểu biết để tự hỏi: “Mình đã lấy một phần cây chụm lửa; phải, mình đã nướng bánh trên than nó. Mình cũng đã nướng thịt trên than ấy và ăn rồi. Vậy mà giờ mình lại lấy phần cây còn lại làm ra thứ kinh tởm này để phụng thờ sao? Mình đi cúi lạy một khúc cây sao?”
\s5
\v 20 Dường như thể người ta đang ăn tro; lòng mê muội đã khiến họ đi sai lạc. Họ không thể tự giải cứu mình, cũng chẳng nói: “Cái thứ trên tay phải mình đây chỉ là giả thần.”
\s5
\v 21 Hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, vì ngươi là tôi tớ Ta: Ta đã tạo thành ngươi; ngươi là đầy tớ Ta: hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ không quên ngươi đâu.
\v 22 Ta đã xóa sạch các việc làm loạn nghịch của ngươi, vốn như đám mây dày đặc, và các tội lỗi ngươi, giống như đám mây; hãy trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi.
\s5
\v 23 Hỡi các tầng trời, hãy hát lên, vì Giê-hô-va đã hành động; hỡi vùng hạ giới bên dưới đất, hãy la lên; hỡi các núi, và rừng cùng với mọi cây cối, hãy bật lên tiếng ca; vì Giê-hô-va đã cứu chuộc Gia-cốp, và sẽ tỏ lộ vinh quang Ngài giữa Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 24 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng tạo thành ngươi từ trong lòng mẹ: “Ta là Giê-hô-va, Đấng tạo dựng mọi vật; chỉ một mình Ta giăng các tầng trời ra và nắn nên trái đất.
\v 25 Chính Ta đã khiến những kẻ báo điềm bị hố và khiến những kẻ giải điềm phải xấu hổ; chính Ta đảo lộn sự khôn khéo của kẻ khôn và khiến lời bàn của các sứ giả nó ra ngu dại.
\s5
\v 26 Chính Ta, Giê-hô-va — Đấng làm thành lời công bố của tôi tớ Ta và thực hiện lời rao báo của các sứ giả Ta về Giê-ru-sa-lem, rằng: Thành sẽ có dân ở; và về các thành của Giu-đa, rằng: Chúng sẽ được tái thiết, và Ta sẽ dựng lại các nơi hoang tàn của nó
\v 27 Đấng phán với biển sâu: Hãy khô đi, Ta sẽ làm khô các dòng nước của mày
\s5
\v 28 — Đấng phán về Si-ru, rằng: Nó là tôi tớ Ta, nó sẽ thi hành mọi ý chỉ Ta — nó sẽ ra sắc chỉ về Giê-ru-sa-lem, rằng: Thành phải được xây dựng lại, và về đền thờ, rằng: Nền ngươi sẽ được lập. ’”
\s5
\c 45
\p
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va phán với kẻ được xức dầu của Ngài, tức Si-ru, kẻ có tay phải được Ngài cầm nắm, để khuất phục các dân trước mặt mình, giải giáp các vua, và mở các cửa trước mặt, để các cổng cứ luôn mở:
\s5
\v 2 “Ta sẽ đi trước mặt ngươi và san phẳng các núi; Ta sẽ phá vỡ các cửa bằng đồng, cắt vụn các then bằng sắt,
\v 3 và Ta sẽ cho ngươi các báu vật của bóng tối cùng tài sản được giấu đi, để ngươi biết rằng chính Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, gọi đích danh ngươi.
\s5
\v 4 Vì cớ tôi tớ Ta là Gia-cốp, và kẻ Ta lựa chọn là Y-sơ-ra-ên, Ta đã gọi đích danh ngươi; Ta ban cho ngươi tước vị tôn trọng, dầu ngươi chưa biết Ta.
\v 5 Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác; chẳng có Đức Chúa Trời nào ngoài Ta. Ta sẽ trang bị cho ngươi đánh trận, dầu ngươi chưa biết Ta;
\v 6 để mọi người từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng tây đều biết rằng ngoài Ta ra không có Đức Chúa Trời nào khác: Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác.
\s5
\v 7 Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối; Ta đem đến bình an và mang đến tai họa; Ta là Giê-hô-va, Đấng làm mọi việc này.
\v 8 Hỡi các tầng trời, hãy từ trên mưa xuống! Bầu trời phải giáng mưa cứu rỗi công chính. Đất phải hấp thu nó, để sự cứu rỗi đâm chồi, và sự công chính cùng mọc lên. Ta, Giê-hô-va, đã tạo nên cả hai.
\s5
\v 9 Bất hạnh thay cho kẻ tranh cãi với Đấng tạo ra mình! Một mảnh sành giữa vòng mọi mảnh sành dưới đất! Có thể nào đất sét nói với thợ gốm: Ông làm gì vậy? hay: Ông tạo ra cái gì thế — khi làm ông không có tay sao?
\s5
\v 10 Bất hạnh thay cho kẻ nói với người làm cha: Ông sinh ra cái gì vậy? hoặc nói với một phụ nữ: Bà sinh ra cái gì thế kia?
\s5
\v 11 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng tạo thành nó: Liên quan những việc sẽ đến, ngươi chất vấn Ta về con cái Ta đó sao? Phải chăng ngươi muốn bảo Ta phải làm gì với công việc của tay Ta?
\s5
\v 12 Ta đã tạo ra trái đất và dựng nên con người trên đất. Chính tay Ta đã giăng các tầng trời ra, và Ta đã ra lệnh mọi ngôi sao phải hiện hữu.
\s5
\v 13 Ta đã dấy Si-ru lên trong sự công chính, và Ta sẽ ban bằng mọi nẻo đường của nó. Nó sẽ xây dựng thành Ta; nó sẽ cho dân bị lưu đày của Ta hồi hương mà không đòi trả giá hoặc đút lót, ” Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\s5
\v 14 Đây là lời của Giê-hô-va phán: “Huê lợi của Ai Cập và hàng hóa của Ê-thi-ô-bi cùng với dân Sa-bê, là giống người cao lớn, sẽ được mang đến cho ngươi. Chúng sẽ thuộc về ngươi. Chúng sẽ đi theo ngươi, mang xiềng mà đến. Chúng sẽ quỳ xuống trước ngươi và nài xin: Rõ ràng Đức Chúa Trời ở với các người, ngoài Ngài chẳng có ai khác. ’”
\v 15 Thật, Chúa là Đức Chúa Trời tự ẩn mình đi, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng cứu rỗi.
\s5
\v 16 Chúng cả thảy đều sẽ cùng xấu hổ và mất mặt; những kẻ khắc chạm hình tượng sẽ phải sống trong sự sỉ nhục.
\v 17 Nhưng Y-sơ-ra-ên sẽ được Giê-hô-va cứu vớt bởi ơn cứu rỗi đời đời; các ngươi sẽ chẳng bao giờ lại bị xấu hổ hay sỉ nhục.
\s5
\v 18 Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng làm nên các tầng trời, là Đức Chúa Trời thật, đã tạo dựng đất, Ngài làm ra nó và khiến nó đứng vững. Ngài đã tạo ra nó không phải là vô ích, mà đã thiết kế nó để cho người ta ở: “Ta là Giê-hô-va, chẳng có ai ngang hàng với Ta.
\s5
\v 19 Ta chưa từng nói riêng với ai tại nơi nào đó ẩn khuất. Ta không nói với dòng dõi Gia-cốp Các ngươi tìm Ta vô ích! Ta là Giê-hô-va, Đấng nói năng thành thật; Ta tuyên phán những điều phải.
\s5
\v 20 Hãy tập hợp lại và đến! Các ngươi là dân chạy nạn từ giữa các nước, hãy tụ họp lại! Chúng chẳng hiểu biết gì, những kẻ khiêng tượng chạm và cầu nguyện với các thần không cứu được ai ấy.
\s5
\v 21 Hãy đến gần và nói rõ cho Ta, trưng ra bằng chứng! Cứ để chúng mưu tính với nhau. Ai đã tỏ ra việc này từ lâu rồi? Ai đã loan báo nó? Không phải chính Ta, Giê-hô-va, sao? Chẳng có Đức Chúa Trời nào khác ngoại trừ Ta, là Đức Chúa Trời công chính, là Đấng cứu rỗi; ngoài Ta chẳng có Chúa nào khác.
\s5
\v 22 Hỡi mọi vùng đất xa xôi, hãy hướng về Ta và được cứu; vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào khác.
\v 23 'Ta chỉ chính mình mà thề khi ban ra sắc chỉ công chính của Ta, và nó sẽ không được thu hồi: Mọi đầu gối sẽ quỳ xuống, mọi lưỡi sẽ thề trước mặt Ta,
\s5
\v 24 rằng: “Sự sự cứu rỗi và sức mạnh chỉ có nơi Giê-hô-va mà thôi. ’” Mọi kẻ nổi giận với Ngài sẽ khúm núm một cách xấu hổ trước mặt Ngài.
\v 25 Trong Giê-hô-va, toàn thể con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ được xưng công chính; họ sẽ hãnh diện về Ngài.
\s5
\c 46
\p
\v 1 Thần Bên sấp xuống, thần Nê-bô cúi mình; các tượng thần chúng đè nặng lên những con thú chở chúng. Các tượng thần chúng chở đi đây đó là gánh nặng cho các con thú đã mỏi mệt.
\v 2 Cùng với nhau, chúng cúi mình thật thấp và quỳ lạy; chúng không cứu được các hình tượng ấy, mà chính chúng lại phải bị lưu đày xa xứ.
\s5
\v 3 Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cốp, cùng hết thảy các ngươi là kẻ sót lại của nhà Gia-cốp, những kẻ đã được Ta bồng ẳm từ trước khi sinh ra, và đem ra khỏi lòng mẹ.
\v 4 Thậm chí cho đến khi các ngươi già cả thì Ta vẫn là Đấng ấy, ngay cả cho đến lúc tóc các ngươi bạc trắng thì Ta vẫn sẽ bồng ẳm các ngươi. Ta đã tạo thành các người thì Ta sẽ nâng đỡ các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi đến nơi an bình.
\s5
\v 5 Các ngươi sẽ ví Ta với ai? Ta giống ai để các ngươi có thể so sánh?
\v 6 Chúng trút vàng trong bao ra, cân bạc trên cân. Chúng mướn thợ bạc làm ra một vị thần; rồi cúi mình xuống mà thờ lạy.
\s5
\v 7 Chúng vác nó trên vai và khiêng đi; chúng đặt nó vào chỗ, rồi nó cứ đứng mãi đó mà chẳng đi đâu được. Chúng kêu la với nó, nhưng nó không đáp lại, cũng chẳng cứu giúp được ai.
\s5
\v 8 Hãy suy gẫm những điều này; đừng bao giờ bỏ qua, hỡi những kẻ phản nghịch các ngươi.
\v 9 Hãy ngẫm nghĩ về những việc ngày xưa, những việc thời trước, vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có chúa nào khác; Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào giống như Ta.
\s5
\v 10 Ta công bố những việc cuối cùng từ ban đầu, và báo trước những việc chưa xảy ra; chính Ta phán: “Chương trình Ta sẽ được thành, Ta sẽ làm điều mình muốn. ”
\v 11 Ta gọi chim săn mồi từ phương đông, tức người Ta lựa chọn từ một xứ xa; thật, Ta đã phán thì Ta sẽ làm thành; Ta đã định thì Ta sẽ thực hiện.
\s5
\v 12 Hãy nghe Ta, hỡi các ngươi là dân ương ngạnh, không chịu làm điều công chính.
\v 13 Ta sẽ đem sự công chính Ta đến gần; nó không ở xa, còn sự cứu rỗi Ta thì không trì hoãn; Ta sẽ ban sự cứu rỗi cho Si-ôn và sự đẹp đẽ Ta cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 47
\p
\v 1 Hỡi trinh nữ Ba-by-lôn, hãy đến và ngồi trong tro bụi; hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi xuống đất vì không còn ngai. Ngươi sẽ chẳng còn được gọi là đáng yêu và mảnh mai nữa.
\v 2 Hãy lấy cối đá mà xay bột; hãy gỡ khăn voan, cỡi bỏ áo thụng, để chân trần mà lội qua suối.
\s5
\v 3 Sự lõa lồ người sẽ bị phô bày, thật, sự xấu hổ ngươi sẽ lộ ra; Ta sẽ báo thù và sẽ chẳng chừa lại một người.
\v 4 Đấng Cứu Chuộc chúng ta, danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi yên lặng và đi vào bóng tối; vì ngươi sẽ không còn được gọi là Nữ hoàng của các vương quốc nữa đâu.
\s5
\v 6 Ta đã nổi giận với dân mình; Ta đã làm ô uế cơ nghiệp mình và phó nó vào tay ngươi, nhưng ngươi chẳng tỏ lòng thương xót nó; ngươi đã gán cái ách quá nặng nề trên người già cả.
\v 7 Ngươi bảo: “Ta sẽ làm nữ hoàng tối cao cai trị mãi mãi. ” Ngươi chẳng để tâm vào những điều này, cũng chẳng suy xét hậu quả sẽ thế nào.
\s5
\v 8 Vậy nên, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ thích vui thú và tại vị vững chắc, kẻ nói trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng còn ai khác giống như ta; ta sẽ chẳng bao giờ mang thân góa phụ, cũng chẳng bao giờ mất con. ”
\v 9 Nhưng hai việc này sẽ xảy đến cho ngươi cùng lúc trong cùng một ngày: bị mất con và thành ra góa phụ; nó sẽ ập xuống trên ngươi đầy trọn, cho dù ngươi có các trò ma thuật và nhiều thần chú, bùa phép.
\s5
\v 10 Ngươi đã cậy vào sự gian ác mình; ngươi nói: “Chẳng ai thấy ta; ” sự thông thái và hiểu biết đã dẫn ngươi đi sai lạc, nhưng người tự nhủ trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng có ai khác giống như ta. ”
\v 11 Tai họa sẽ chế ngự ngươi; ngươi sẽ không thể dùng các bùa chú mà xua nó đi. Sự hủy diệt sẽ đổ ập trên ngươi; ngươi sẽ không thể ngăn cản. Tai ương sẽ thình lình giáng xuống trước khi người kịp nhận ra.
\s5
\v 12 Hãy tiếp tục dùng bùa chú mê hoặc và đủ thứ phép thuật mà người vẫn chăm chỉ thực hành từ thuở nhỏ; biết đâu ngươi sẽ làm được, biết đâu người sẽ xua được tai ách đi.
\v 13 Ngươi kiệt sức vì có quá nhiều lời bàn bạc; hãy để những kẻ đó đứng lên cứu ngươi — tức những kẻ xem trời, xem sao, những kẻ công bố kỳ trăng mới — hãy để chúng cứu ngươi khỏi những việc sẽ xảy đến cho ngươi.
\s5
\v 14 Này, chúng sẽ ra giống như gốc rạ. Lửa sẽ thiêu rụi chúng. Chúng sẽ không tự cứu mình được khỏi quyền ngọn lửa. Chúng chẳng có than để sưởi ấm, chẳng có bếp lửa để ngồi kề!
\v 15 Chúng sẽ nhọc công mà chẳng giúp được gì, tức những kẻ mà ngươi buôn bán cùng từ thời trẻ; chúng mạnh ai nấy đi đường mình; chẳng còn ai để cứu ngươi cả.
\s5
\c 48
\p
\v 1 Nghe này, hỡi Gia-cốp, là những kẻ được gọi bằng tên Y-sơ-ra-ên, xuất thân là hậu tự Giu-đa; những kẻ chỉ danh Giê-hô-va mà thề và cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, nhưng không thật lòng, hoặc chẳng theo cách công chính.
\v 2 Vì họ tự xưng mình là dân thành thánh và tin cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh.
\s5
\v 3 “Ta đã công bố các việc ấy từ lâu; nó ra từ chính miệng Ta, và Ta đã tỏ bày nó; rồi thình lình Ta thực hiện, và việc diễn ra.
\v 4 Vì Ta biết ngươi cố chấp, gân cổ ngươi cứng như sắt, còn trán ngươi chắc như đồng,
\v 5 nên Ta đã công bố những việc này trước cho ngươi; trước khi nó xảy ra thì Ta đã cho ngươi biết, kẻo ngươi bảo: Tượng thần tôi làm đó, hay: tượng chạm, tượng đúc của tôi đã định trước các việc ấy.
\s5
\v 6 Ngươi đã nghe các việc này; hãy nhìn toàn bộ dấu hiệu này; rồi xem ngươi có dám bảo lời Ta nói là không đúng chăng. Từ nay trở đi, Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc mới, những việc còn giữ kín mà ngươi chưa từng biết.
\v 7 Bây giờ mới có các việc ấy chứ chẳng phải đã có từ trước, và ngươi chưa từng nghe biết nó trước đây, để ngươi không thể bảo: ‘À, tôi biết các việc ấy rồi.
\s5
\v 8 Ngươi chưa từng nghe; ngươi chưa từng biết; các việc ấy chưa được tỏ ra cho tai ngươi nghe trước đây. Vì Ta biết ngươi rất lừa lọc, và từ lúc mới sinh ngươi đã là đứa phản loạn.
\s5
\v 9 Vì cớ danh Ta, Ta sẽ gác lại cơn thạnh nộ mình, và vì thanh danh Ta, Ta sẽ kìm nén để khỏi hủy diệt ngươi.
\v 10 Này, Ta đã luyện lọc ngươi, nhưng chẳng phải như luyện bạc; Ta đã tinh luyện ngươi trong lò hoạn nạn.
\v 11 Vì cớ chính mình, vì chính Ta mà Ta sẽ hành động; vì thể nào Ta lại để cho danh Ta bị sỉ nhục? Ta sẽ không nhường vinh quang mình cho bất kỳ ai khác.
\s5
\v 12 Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã gọi: Ta là Đấng đó; Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng.
\v 13 Thật, tay Ta đã đặt nền trái đất, tay phải Ta đã giăng các tầng trời; khi Ta gọi thì chúng đồng đứng lên.
\s5
\v 14 Toàn thể các ngươi hãy tập hợp lại và nghe đây; ai giữa vòng các ngươi đã loan báo các việc này? Một đồng sự của Giê-hô-va sẽ hoàn thành mục đích của Ngài nghịch cùng Ba-by-lôn. Nó sẽ thực hiện ý chỉ của Giê-hô-va nghịch lại người Canh-đê.
\v 15 Ta, chính Ta đã phán; thật, Ta đã gọi nó, Ta đã đem nó đến, và nó sẽ làm thành tựu.
\s5
\v 16 Hãy đến gần ta, và nghe lời này; từ ban đầu ta vẫn không nói điều gì thầm kín; khi việc xảy ra thì ta đã có mặt; giờ đây Chúa Giê-hô-va đã sai phái ta, cùng với Thần Linh Ngài.”
\s5
\v 17 Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng chỉ dạy ngươi cách để thành đạt, dẫn dắt ngươi theo con đường ngươi phải đi.
\v 18 Ước gì các ngươi chịu vâng giữ các điều răn Ta! Được vậy thì sự bình an và thạnh vương con đã tuôn chảy như dòng sông, sự cứu rỗi đã dào dạt như sóng biển.
\s5
\v 19 Dòng dõi ngươi đã đông đúc như cát, con cái từ ruột gan con sẽ nhiều như hạt cát; tên tuổi chúng đã chẳng bị diệt và xóa sạch trước mặt Ta.
\s5
\v 20 Hãy ra khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy trốn khỏi người Canh-đê! Hãy loan báo việc này bằng tiếng kêu vang động! Hãy công bố, khiến nó vọng đến các miền đất xa xôi! Hãy nói: Giê-hô-va đã cứu chuộc tôi tớ Ngài là Gia-cốp.
\s5
\v 21 Họ chẳng khát nước khi Ngài dẫn họ qua sa mạc; Ngài đã khiến nước từ tảng đá chảy ra cho họ; Ngài chẻ toạc đá ra, và nước phun trào.
\v 22 Kẻ ác chẳng được bình an đâu — Giê-hô-va phán.”
\s5
\c 49
\p
\v 1 Hãy nghe ta đây, hỡi các vùng đất ven biển! Hãy chú ý, hỡi các dân ở xa. Giê-hô-va đã gọi đích danh ta khi ta mới sinh ra, khi mẹ ta đưa ta vào đời.
\v 2 Ngài đã khiến miệng ta tựa thanh gươm bén; Ngài giấu ta dưới bóng của tay Ngài; Ngài biến ta thành mũi tên bóng loáng; Ngài cất giữ ta trong ống tên của Ngài.
\s5
\v 3 Ngài phán với ta: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi là đầy tớ Ta, bởi ngươi Ta sẽ tỏ ra vinh quang mình. ”
\v 4 Dầu ta từng nghĩ rằng ta đã nhọc công vô ích, ta đã phí hao sức lực mà chẳng được gì, nhưng sự công bình ta ở nơi Giê-hô-va, phần thưởng ta ở nơi Đức Chúa Trời ta.
\s5
\v 5 Giờ đây, Giê-hô-va đã phán, Ngài đã lập ta làm tôi tớ Ngài từ lúc mới sinh, để đem Gia-cốp trở lại cùng Ngài, để tập họp Y-sơ-ra-ên về với Ngài. Ta được tôn trọng trong mắt Giê-hô-va, và Đức Chúa Trời đã trở nên sức mạnh ta.
\v 6 Ngài phán: “Làm tôi tớ ta để lập lại các bộ tộc của Gia-cốp và phục hồi những kẻ sống sót của Y-sơ-ra-ên là việc nhỏ nhoi quá đối ngươi. Ta sẽ khiến người nên ánh sáng cho các dân ngoại, để ngươi làm sự cứu rỗi của ta cho những nơi tận cùng của trái đất.”
\s5
\v 7 Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc, và Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán với kẻ có cuộc đời bị khinh rẻ, bị các dân thù ghét, và là tôi mọi của những kẻ cai trị: “Các vua sẽ thấy ngươi và đứng lên, các quan tướng sẽ thấy ngươi và sấp mình xuống, vì cớ Giê-hô-va, Đấng thành tín, tức Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã chọn ngươi.”
\s5
\v 8 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Vào thời điểm Ta định để thi ân Ta sẽ đáp lời ngươi, trong ngày cứu rỗi Ta sẽ giúp đỡ ngươi; Ta sẽ bảo vệ ngươi, và ban ngươi làm giao ước cho các dân, hầu tái thiết xứ sở, phân chia lại sản nghiệp hiện bị đổ nát.
\s5
\v 9 Ngươi sẽ nói với kẻ tù: Hãy ra đi; với kẻ ở trong ngục tối: Hãy ra ngoài sáng. Họ sẽ được nuôi ăn dọc đường, và trên các triền dốc trơ trọi sẽ là đồng cỏ cho họ.
\s5
\v 10 Họ sẽ không đói, cũng không khát; hơi nóng hay mặt trời cũng không làm hại họ, vì Đấng thương xót họ sẽ dẫn dắt họ; Ngài sẽ dắt họ đến suối nước.
\v 11 Ta sẽ khiến mọi núi Ta biến thành đường đi, và ban bằng các con đường của Ta.”
\s5
\v 12 Kìa, những người này sẽ đến từ phương xa, một số từ phương bắc và phương tây; số khác từ xứ Si-nim.
\v 13 Hỡi các tầng trời, hãy hát lên; hỡi trái đất, hãy vui mừng; hỡi các núi, hãy cất tiếng ca! Vì Giê-hô-va yên ủi dân Ngài và sẽ thương xót dân khốn khổ của mình.
\s5
\v 14 Nhưng Si-ôn bảo: “Giê-hô-va đã lìa bỏ tôi, Chúa đã quên tôi rồi. ”
\v 15 “Có thể nào người phụ nữ quên cho con nhỏ mình bú, và như thế chẳng thương cảm con trai mình đã sinh ra chăng? Thật, họ có thể quên, nhưng ta sẽ chẳng quên ngươi.
\s5
\v 16 Này, Ta đã chạm khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta; các tường thành ngươi luôn ở trước mặt Ta.
\v 17 Con cái ngươi sẽ vội trở về, trong khi những kẻ tiêu diệt các ngươi bỏ đi.
\v 18 Hãy nhìn quanh và chứng kiến, tất cả chúng nó đang tập hợp lại và đến với ngươi. Như Ta đang sống — đây là lời công bố của Giê-hô-va — thì cũng vậy, đích thực ngươi sẽ đeo chúng như đeo nữ trang; ngươi sẽ mang chúng vào như cô dâu.
\s5
\v 19 Dầu ngươi chỉ là chốn tan hoang, đổ nát, một xứ sở hoang tàn, nhưng giờ thì ngươi sẽ quá chật hẹp cho số cư dân, và những kẻ ăn nuốt ngươi sẽ ở cách xa ngươi.
\v 20 Con cái sinh ra trong thời ngươi gặp cảnh tang chế sẽ nói vào tai ngươi: ‘Ở đây chật hẹp quá đối với chúng con, hãy sắp xếp chỗ cho chúng con ở với.
\s5
\v 21 Rồi ngươi sẽ tự hỏi: Ai đã sinh mấy đứa trẻ này cho mình? Mình đã mất con, đã son sẻ, bị lưu đày và ly hôn. Ai đã nuôi nấng những đứa trẻ này? Kìa, mình hoàn toàn đơn chiếc; bọn trẻ này ở đâu ra? ’”
\s5
\v 22 Đây là lời phán của Chúa Giê-hô-va: “Này, Ta sẽ giá tay trên các nước; ta sẽ giương cờ hiệu Ta cho các dân. Chúng sẽ bồng bế các con trai người, mang vác các con gái ngươi đến.
\s5
\v 23 Các vua sẽ làm cha nuôi ngươi, các hoàng hậu làm cô bảo mẫu ngươi; họ sẽ sấp mặt xuống đất trước ngươi và liếm bụi nơi chân ngươi; họ sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va; kẻ trông đợi Ta sẽ không bị xấu hổ.”
\s5
\v 24 Ai có thể đoạt lấy chiến lợi phẩm của người chiến binh, hoặc giải cứu tù binh khỏi tay bạo chúa?
\v 25 Nhưng đây là lời phán của Giê-hô-va: “Thật, tù binh sẽ được cứu khỏi tay người lính, và chiến lợi phẩm sẽ được thu hồi; vì Ta sẽ chống lại kẻ thù ngươi và cứu con cái ngươi.
\s5
\v 26 Rồi Ta sẽ bắt kẻ áp bức ngươi tự ăn thịt; và chúng sẽ say máu của chính mình, như thể say rượu; cả nhân loại sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng cứu ngươi, Đấng chuộc ngươi, tức Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.”
\s5
\c 50
\p
\v 1 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Chứng từ ly hôn của Ta với mẹ các ngươi đâu nào? Ta đã bán các ngươi cho chủ nợ nào của Ta kia? Kìa, các ngươi bị bán là vì tội lỗi mình, và vì sự phản loạn của các ngươi mà mẹ các ngươi bị đuổi đi.
\s5
\v 2 Tại sao Ta đến mà chẳng có ai ở đó? Vì sao Ta gọi mà chẳng người nào đáp lại? Phải chăng tay Ta ngắn quá nên không chuộc được ngươi? Phải chăng Ta chẳng có quyền để giải thoát ngươi? Này, Ta quở thì biển khô cạn; Ta biến sông ngòi thành sa mạc; cá ở đó chết vì thiếu nước và thối rữa.
\v 3 Ta lấy bóng tối mặc cho bầu trời; Ta lấy vài thô phủ lên nó.”
\s5
\v 4 Chúa Giê-hô-va đã ban cho ta cái lưỡi như lưỡi của người được dạy dỗ, để ta nói ra lời nâng đỡ kẻ mỏi mệt; Ngài đánh thức ta mỗi buổi sáng; Ngài đánh thức tai ta để nghe như kẻ được dạy dỗ.
\s5
\v 5 Chúa Giê-hô-va đã mở tai ta, nên ta không bội nghịch, mà ta cũng chẳng quay trở lui.
\v 6 Ta đưa lưng cho những kẻ đánh mình, đưa má cho những kẻ nhổ râu mình; ta chẳng che mặt lại khi bị sỉ vả và phỉ nhổ.
\s5
\v 7 Vì Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta, nên ta không bị sỉ nhục; vậy là ta đã khiến mặt mình ra như đá lửa, vì ta biết rằng mình sẽ không bị hổ thẹn.
\s5
\v 8 Đấng xưng công chính cho ta đang ở gần. Ai chống lại ta đâu? Hãy đứng đối đầu với ta đi. Ai cáo tội ta? Hãy cứ đến gần ta đây.
\v 9 Này, Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta. Ai sẽ kết tội ta? Này, chúng nó sẽ thảy đều mòn rách như cái áo; mối sẽ ăn sạch chúng nó.
\s5
\v 10 Ai giữa vòng các ngươi kính sợ Giê-hô-va? Ai vâng theo tiếng của đầy tớ Ngài? Ai đang bước đi trong bóng tối mà không có ánh sáng? Kẻ đó hãy tin nơi danh của Giê-hô-va và nương dựa vào Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 11 Này, tất cả các ngươi là kẻ đốt lửa, thắp đuốc cho mình: hãy bước đi trong ánh lửa các ngươi, trong ngọn lửa mà các ngươi đã đốt lên đó. Đây là điều các ngươi đã nhận từ nơi Ta; các ngươi sẽ nằm xuống trong chỗ đau đớn.
\s5
\c 51
\p
\v 1 Các ngươi là kẻ theo đuổi sự công chính, kẻ tìm kiếm Giê-hô-va, hãy nghe Ta: hãy nhìn vầng đá từ đó các ngươi được đục ra, hầm đá từ đó các ngươi được cắt ra.
\s5
\v 2 Hãy nhìn xem Áp-ra-ham, cha các ngươi, và Sa-ra, người đã sinh các ngươi; vì khi người chỉ là một kẻ đơn độc thì Ta đã kêu gọi người. Ta đã ban phước cho người và khiến người đông thêm lên.
\s5
\v 3 Thật, Giê-hô-va sẽ yên ủi Si-ôn; Ngài sẽ yên ủi mọi nơi hoang tàn của nó; Ngài đã khiến đồng hoang nó ra giống như Ê-đen, và các đồng bằng sa mạc cạnh thung lũng sông Giô-đanh ra giống như vườn của Đức Chúa Trời; nơi nó người ta sẽ thấy có niềm hân hoan, vui sướng, cùng lời cảm tạ và tiếng hát ca.
\s5
\v 4 “Hỡi dân Ta, hãy nghe cho rõ; hỡi dân Ta, hãy lắng nghe Ta nói! Vì Ta sẽ ban ra một sắc chỉ, và sẽ khiến sự công chính Ta thành ánh sáng cho các nước.
\v 5 Sự công chính Ta đã gần; sự cứu rỗi Ta sẽ hiện ra, và tay Ta sẽ đoán xét các dân; các vùng đất ven biển sẽ trông đợi Ta; vì chúng sẽ tha thiết mong chờ cánh tay Ta.
\s5
\v 6 Hãy ngước mắt lên trời và nhìn xuống đất bên dưới, vì các tầng trời sẽ tan biến như khói, đất sẽ mòn cũ như cái áo, và cư dân nó sẽ chết như ruồi. Nhưng sự cứu rỗi Ta cứ còn đến đời đời, sự công chính Ta chẳng bao giờ dứt.
\s5
\v 7 Hỡi dân biết điều phải, kẻ có luật pháp Ta trong lòng: Đừng sợ người ta nhục mạ, cũng đừng nản lòng vì bị chúng ngược đãi.
\v 8 Vì nhộng sẽ ăn sạch chúng như chiếc áo, mọt sẽ ăn chúng như len; nhưng sự công chính Ta sẽ còn mãi, sự cứu rỗi Ta sẽ trải suốt mọi thế hệ.”
\s5
\v 9 Hỡi cánh tay Giê-hô-va, hãy thức dậy, xin thức dậy, hãy mặc lấy sức mạnh. Hãy thức dậy như trong thời xưa, như trong các thế hệ của thời cổ đại. Chẳng phải Chúa là Đấng đã tiêu diệt con quái vật biển, đã đâm con rồng, đó sao?
\v 10 Chẳng phải Chúa đã khiến biển cạn, làm khô nước của vực sâu, biến các vực thẳm của biển thành con đường cho dân được chuộc của Ngài đi qua, hay sao?
\s5
\v 11 Kẻ đã được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn với tiếng reo mừng và niềm vui sướng đời đời trên đầu mình; niềm vui sướng, hân hoan sẽ đuổi kịp họ, còn sự buồn rầu, than khóc sẽ bỏ trốn.
\s5
\v 12 “Ta, chính Ta là Đấng yên ủi các ngươi. Vì sao các ngươi lại sợ người phàm, vốn sẽ chết, tức các con trai loài người, được tạo nên như loài cỏ?
\s5
\v 13 Vì sao các ngươi lại quên Đấng tạo dựng mình là Giê-hô-va? Chính Ngài đã giăng các tầng trời ra và đặt các nền của trái đất. Ngày nào các ngươi cũng kinh sợ cơn nóng giận của kẻ áp bức khi nó định hủy diệt. Cơn giận của kẻ áp bức đâu rồi?
\s5
\v 14 Kẻ mang nặng xiềng xích Giê-hô-va sẽ nhanh chóng giải thoát; họ sẽ không chết và phải xuống âm phủ, mà họ cũng chẳng thiếu bánh ăn.
\v 15 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng khuấy động biển, khiến nổi sóng ầm ầm — Giê-hô-va của các đạo binh là danh Ngài.
\s5
\v 16 Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi, và Ta đã bao phủ ngươi dưới bóng bàn tay Ta, để Ta dựng nên các tầng trời, đặt nền trái đất, và phán với Si-ôn, rằng: Ngươi là dân Ta. ’”
\s5
\v 17 Hỡi Giê-ru-sa-lem, dậy đi, hãy dậy đi. Ngươi đã uống chén thạnh nộ của Giê-hô-va từ chính tay Ngài; ngươi đã uống chén, là chén xây xẩm, và ngươi đã uống cạn.
\v 18 Chẳng có ai trong số các con trai nó sinh ra dẫn dắt nó; chẳng có ai giữa vòng các con trai nó đã nuôi nấng nắm tay nó.
\s5
\v 19 Cả hai tai họa đó đã xảy đến cho ngươi — tàn phá và hủy diệt, đói kém và gươm đao — ai sẽ chia buồn với ngươi? Ai sẽ an ủi ngươi?
\v 20 Các con trai ngươi đều ngất xỉu; chúng nằm khắp mọi góc đường, như con linh dương mắc bẫy lưới; chúng hứng trọn cơn thạnh nộ của Giê-hô-va, tức sự quở phạt của Đức Chúa Trời ngươi.
\s5
\v 21 Nhưng, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ bị áp bức và say khước, nhưng chẳng phải vì rượu:
\v 22 Chúa Giê-hô-va các ngươi, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng bênh vực dân Ngài, phán như vầy: “Này, Ta đã cất chén xây xẩm khỏi tay ngươi — tức chén thạnh nộ của ta — để ngươi sẽ không uống nó nữa.
\s5
\v 23 Ta sẽ đặt chén ấy vào tay những kẻ hành hạ ngươi, những kẻ đã nói với ngươi: Nằm xuống để bọn tao bước qua; lưng ngươi trở nên như mặt đất, như con đường cho chúng bước lên.”
\s5
\c 52
\p
\v 1 Hỡi Si-ôn, dậy đi, thức dậy đi, hãy mặc lấy sức mạnh mình; hỡi Giê-ru-sa-lem, là thành thánh, hãy mặc áo đẹp của ngươi vào; vì kẻ chưa chịu cắt bì và kẻ ô uế sẽ chẳng bao giờ vào nơi ngươi nữa.
\s5
\v 2 Hãy giũ cho mình sạch hết bụi bặm; hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ngồi dậy; hỡi kẻ tù, tức con gái Si-ôn, hãy cởi bỏ xiềng xích khỏi cổ ngươi.
\v 3 Vì này là lời phán của Giê-hô-va: “Các ngươi đã bị bán như cho, nên các ngươi cũng sẽ được chuộc lại mà không nhờ tiền bạc.”
\s5
\v 4 Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va phán: “Thuở ban đầu, dân Ta xuống trú ngụ tại Ai Cập; gần đây A-si-ri lại áp bức chúng.”
\s5
\v 5 Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bây giờ, Ta được gì đây, vì dân Ta bị đem đi mà không được trả một đồng? ” Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Giới lãnh đạo chúng nó than khóc, còn danh Ta thì bị xúc phạm suốt cả ngày.
\v 6 Vậy nên dân Ta sẽ biết danh Ta; vào ngày đó, họ sẽ biết rằng Ta chính là Đấng phán lời này. Đúng, chính Ta đây!”
\s5
\v 7 Những sứ giả đem tin lành, loan tin bình an, mang tin vui mừng, rao báo sự cứu rỗi, những kẻ nói với Si-ôn, rằng: “Đức Chúa Trời ngươi trị vì” — bàn chân họ trên các núi đồi đẹp đẽ biết bao!
\v 8 Hãy nghe, các lính canh ngươi lên tiếng, họ cùng reo vui, vì họ sẽ tận mắt nhìn thấy Giê-hô-va trở về Si-ôn.
\s5
\v 9 Hỡi các tàn tích của Giê-ru-sa-lem, hãy cùng cất tiếng ca vui mừng; vì Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài; Ngài đã chuộc Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Giê-hô-va đã tỏ lộ cánh tay thánh Ngài trước mặt mọi dân tộc; cả trái đất sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta.
\s5
\v 11 Hãy đi, hãy đi đi, hãy đi khỏi nơi đó; đừng đụng đến vật gì ô uế; hãy ra khỏi giữa nó; hãy thanh tẩy mình đi, hỡi các ngươi là kẻ mang vật dụng của Giê-hô-va.
\v 12 Vì các ngươi sẽ không ra đi cách vội vả, cũng không ra đi trong sự hốt hoảng; vì Giê-hô-va sẽ đi trước các ngươi; và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ đi sau bảo vệ các ngươi.
\s5
\v 13 Này, đầy tớ ta sẽ hành xử khôn ngoan và việc người sẽ được thành; người sẽ nên cao trọng và được tôn lên; người sẽ được tôn lên rất cao.
\v 14 Như nhiều người nhìn thấy ngươi mà kinh sợ — diện mạo của người bị biến dạng, không còn giống như dáng vẻ con người, cho nên nhìn người rất khác mọi người
\s5
\v 15 — thì cũng vậy người sẽ khiến nhiều nước sửng sốt; các vua sẽ câm miệng vì cớ người. Điều chưa ai nói cho biết thì họ sẽ thấy, điều họ chưa từng được nghe thì họ sẽ hiểu.
\s5
\c 53
\p
\v 1 Có ai tin điều chúng ta đã nghe? Và cánh tay của Giê-hô-va đã được tỏ ra cho ai?
\v 2 Vì người đã lớn lên trước mặt Giê-hô-va như một cây non, như cái mầm từ đất khô; người chẳng có diện mạo đặc biệt hoặc dáng vẻ oai nghi; khi chúng ta nhìn thấy người, chẳng có gì đẹp đẽ hấp dẫn chúng ta.
\s5
\v 3 Người bị người ta khinh rẻ, khước từ; là con người thống khổ, đã quen chịu đau đớn. Người bị khinh dễ như kẻ người ta che mặt lại chẳng thèm nhìn; và chúng ta chẳng xem người ra gì.
\s5
\v 4 Nhưng, thật, người đã mang tật bệnh của chúng ta, gánh các nỗi buồn phiền của chúng ta; vậy mà chúng ta lại tưởng người đang bị Đức Chúa Trời hình phạt, bị Đức Chúa Trời đánh đập, hành hạ.
\s5
\v 5 Nhưng người đã bị đâm vì các việc bội nghịch của chúng ta; người bị chà đạp vì tội lỗi chúng ta. Người chịu hình phạt để chúng ta được hòa thuận, nhờ các vết thương người mà chúng ta được chữa lành.
\s5
\v 6 Tất cả chúng ta đều giống như chiên đi lạc; mỗi người đi theo đường riêng mình, và Giê-hô-va đã chất trên người tội lỗi của hết thảy chúng ta.
\s5
\v 7 Người bị áp chế; nhưng khi người tự hạ mình thì người chẳng mở miệng; như chiên con bị dắt đi làm thịt, như con chiên trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng mở miệng.
\s5
\v 8 Do bị ép buộc và xét xử mà người bị kết tội; có ai thuộc thế hệ đó còn nghĩ đến người? Nhưng người đã bị diệt khỏi đất kẻ sống; vì những vi phạm của dân ta mà người phải chịu hình phạt.
\v 9 Chúng định đặt mồ người chung với bọn tội phạm, với người giàu khi người chết, dầu người chẳng làm điều gì thô bạo, miệng người chẳng từng nói lời dối trá.
\s5
\v 10 Nhưng ý muốn của Đức Chúa Trời là nghiền nát người và khiến người đau yếu; và nếu người dâng mạng sống mình làm của lễ đền tội thì người sẽ nhìn thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ dài thêm, và mục đích của Đức Chúa Trời sẽ nhờ người mà được thành.
\v 11 Sau khi người chịu khổ, người sẽ nhìn thấy và được mãn nguyện nhờ hiểu biết việc mình đã làm. Tôi tớ công chính của Ta sẽ xưng công bình nhiều người; người sẽ mang tội lỗi của họ.
\s5
\v 12 Vì vậy, Ta sẽ ban phần cho người giữa vòng đám đông dân chúng, và người sẽ chia chiến lợi phẩm cùng nhiều người, vì người xả thân chịu chết và bị liệt vào hàng tội nhân. Người đã mang tội lỗi của nhiều người và cầu thay cho những kẻ phạm tội.
\s5
\c 54
\p
\v 1 Giê-hô-va phán: “Hãy hát lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, kẻ chưa từng sinh con; hãy cất tiếng hát mừng và la lớn, hỡi kẻ chưa từng trải qua cơn đau chuyển dạ. Vì con cái của người phụ nữ lẻ loi lại nhiều hơn con cái của người phụ nữ có chồng.”
\s5
\v 2 Hãy cơi nới lều trại ngươi và giương các tấm bạt thêm ra, đừng hẹp hòi; hãy nối dài dây thừng và làm vững các cọc ngươi.
\v 3 Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái, và con cháu ngươi sẽ chinh phục các nước, tái định cư trong các thành bị bỏ hoang.
\s5
\v 4 Đừng sợ vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, cũng đừng nản lòng vì ngươi sẽ không bị sỉ nhục; ngươi sẽ quên đi nỗi xấu hổ thời trẻ mình và sự sỉ nhục khi bị ruồng bỏ.
\s5
\v 5 Vì Đấng tạo dựng ngươi chính là chồng ngươi; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh. Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là Đấng Cứu Chuộc ngươi; Ngài được xưng là Đức Chúa Trời của cả trái đất.
\v 6 Vì Giê-hô-va đã kêu gọi ngươi trở về như người vợ bị bỏ, tâm thần sầu muộn, như người phụ nữ lấy chồng lúc con trẻ rồi bị khước từ, Đức Chúa Trời ngươi phán vậy.
\s5
\v 7 “Vì Ta đã bỏ ngươi trong một lúc, nhưng sẽ lấy lòng thương xót lớn mà thâu ngươi lại.
\v 8 Đang cơn nóng giận, Ta ẩn mặt với ngươi trong chốc lát; nhưng rồi sẽ lấy lòng thành tín đời đời mà thương xót ngươi.
\s5
\v 9 Vì điều này đối với Ta cũng giống như nước lụt thời Nô-ê; Ta đã thề hứa nước lụt thời Nô-ê sẽ chẳng bao giờ lại tràn ra trên đất thể nào, thì Ta cũng thề sẽ chẳng giận ngươi hay quở phạt ngươi nữa.
\v 10 Dầu núi có đổ sập, đồi có lay chuyển, thì lòng thành tín Ta cũng không lìa khỏi ngươi, giao ước bình an của Ta cũng chẳng chuyển lay — Giê-hô-va, Đấng thương xót ngươi phán vậy.
\s5
\v 11 Này, hỡi kẻ chịu hoạn nạn, phải trải qua bão táp phong ba mà chẳng được yên ủi, Ta sẽ lấy ngọc lam lát đường ngươi, lấy ngọc bích lập nền ngươi.
\v 12 Ta sẽ lấy hồng ngọc làm các chót tháp ngươi, lấy đá lấp lánh làm các cổng ngươi, và lấy đá quý làm tường lũy ngoại vi của ngươi.
\s5
\v 13 Mọi con cái ngươi sẽ được Giê-hô-va sẽ dạy dỗ; các con ngươi sẽ được sự bình an lớn.
\v 14 Ta sẽ lập ngươi lại trong sự công chính. Người sẽ không còn bị bức hại, vì người sẽ chẳng sợ hãi và chẳng có việc gì kinh khiếp đến gần người.
\s5
\v 15 Này, nếu có ai đó gây rắc rối thì đó chẳng phải là do Ta; kẻ nào gây chuyện với ngươi thì nó sẽ sa bại. Kìa,
\v 16 Ta đã tạo ra người thợ biết thổi lửa và chuyên rèn đúc vũ khí; Ta cũng đã tạo ra kẻ hủy diệt để tàn phá.
\s5
\v 17 Mọi thứ khí giới làm ra chống lại ngươi sẽ thất bại; và ngươi sẽ kết tội mọi kẻ cáo tội ngươi.
\s5
\c 55
\p
\v 1 “Mọi người nào khát, hãy đến uống nước! Các ngươi là kẻ không có tiền, hãy đến mua mà ăn! Hãy đến mua rượu và sữa mà không cần tiền, không tốn kém.
\s5
\v 2 Sao các ngươi cân bạc để mua thứ chẳng phải là bánh? Và chịu khó nhọc để đổi lấy thứ chẳng làm cho no? Hãy nghe Ta cho kỹ, ăn món ngon và khiến mình vui thích nơi đồ béo.
\s5
\v 3 Hãy lắng tai và đến với Ta! Hãy nghe mà được sống! Nhất định Ta sẽ lập một giao ước đời đời với các ngươi, thực hiện các việc thành tín dành cho Đa-vít.
\v 4 Kìa, Ta đã đặt ngươi làm chứng nhân cho các nước, làm thủ lĩnh, chỉ huy các dân.
\s5
\v 5 Này, ngươi sẽ chiêu tập một nước ngươi chẳng biết; và một nước chưa biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi vì cớ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã làm rạng danh ngươi.
\s5
\v 6 Hãy tìm kiếm Giê-hô-va trong lúc có thể tìm được; hãy kêu cầu Ngài khi Ngài ở gần.
\v 7 Kẻ ác phải từ bỏ con đường mình, người tội phải từ bỏ ý tưởng mình. Họ phải quay về với Giê-hô-va, rồi Ngài sẽ xót thương, và về cùng Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng tha thứ dồi dào.
\s5
\v 8 “Vì — đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va — ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta,
\v 9 vì các tầng trời cao hơn đất thể nào, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng thể ấy.
\s5
\v 10 Vì, như mưa và tuyết từ trời đổ xuống mà không trở lại nếu chưa dầm thấm đất, khiến đất sinh sản cây con và cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, bánh cho kẻ ăn,
\v 11 thì lời Ta ra từ miệng Ta cũng vậy: nó sẽ không trở về cách vô ích, mà sẽ làm trọn điều Ta muốn, hoàn thành việc Ta sai nó làm.
\s5
\v 12 Vì các ngươi sẽ ra đi trong sự vui mừng và được dắt đưa đi cách bình an; trước mặt các ngươi, núi và đồi sẽ trổi tiếng reo vui, mọi cây ngoài đồng sẽ vỗ tay.
\v 13 Tùng bách sẽ mọc lên thay cho bụi gai; cây sim sẽ mọc thay cho thạch nam, và việc đó sẽ tôn cao Giê-hô-va, làm rạng danh Ngài, như một dấu hiệu đời đời không bị diệt mất.”
\s5
\c 56
\p
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Hãy tuân giữ điều phải, thực hành điều công bình; vì sự cứu rỗi Ta đã gần, và sự công chính ta sắp được tỏ lộ.
\v 2 Phước cho người làm như vậy, cũng như ai nắm chặt lấy nó. Họ tuân giữ ngày Sa-bát, không phàm tục hóa nó, kiềm giữ tay mình để khỏi làm điều gì xấu xa.”
\s5
\v 3 Đừng có người ngoại quốc nào đã đi theo Giê-hô-va mà lại nói: “Hẵn Giê-hô-va sẽ loại bỏ tôi khỏi dân Ngài. ” Kẻ đã hoạn đừng bảo: “Này, tôi chỉ là cây khô.”
\s5
\v 4 Vì đây là đời Giê-hô-va phán: “Đối với những kẻ hoạn biết tuân giữ ngày Sa-bát Ta và chọn điều đẹp lòng Ta, kiên định trong giao ước Ta thì,
\v 5 để lưu danh họ, Ta sẽ lập một đài kỷ niệm trong nhà Ta, trong thành Ta — như thế còn quý hơn là có con trai, con gái; Ta sẽ ban cho họ một đài kỷ niệm vĩnh cửu chẳng bị hủy phá.”
\s5
\v 6 Cũng vậy, những người ngoại quốc liên kết với Giê-hô-va để phục vụ Ngài, những kẻ yêu mến danh Giê-hô-va và thờ phượng Ngài, mọi kẻ tuân giữ ngày Sa-bát và giữ để nó khỏi bị uế tục, cùng kẻ trung kiên với giao ước của Ta,
\v 7 “Những kẻ này Ta sẽ đem lên núi thánh Ta và khiến họ vui mừng trong nhà cầu nguyện Ta; của lễ thiêu và sinh tế của họ sẽ được chấp nhận trên bàn thờ Ta. Vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc,
\s5
\v 8 đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va, Đấng nhóm họp lại những kẻ bơ vơ của Y-sơ-ra-ên — và nhóm họp những kẻ khác nữa cùng với họ.”
\s5
\v 9 Hỡi các loài thú hoang ngoài đồng, hãy đến mà ăn nuốt, toàn bộ thú rừng chúng bay!
\v 10 Mọi kẻ canh giữ họ đều đui mù; chúng chẳng hiểu; chúng đều là chó câm; chúng chẳng sủa được; chỉ mơ mộng, nằm nghỉ, ham ngủ.
\s5
\v 11 Những con chó đó háu ăn; chúng chẳng bao giờ thấy đủ; chúng là kẻ chăn chẳng hiểu biết; chúng đều đi theo đường riêng của mình, ai cũng thèm muốn lợi bất nghĩa.
\v 12 Chúng bảo: “Hãy đến, chúng ta sẽ uống rượu vang cùng rượu mạnh; ngày mai sẽ như bữa nay, một ngày vô cùng tuyệt vời.”
\s5
\c 57
\p
\v 1 Người công chính bỏ mạng nhưng chẳng ai để tâm suy nghĩ; người trung nghĩa bị đem đi, nhưng chẳng ai hiểu người công chính được đưa đi tránh tai họa.
\v 2 Người đi vào chốn an bình; những kẻ bước đi trong sự ngay thẳng được an nghỉ ở gường mình.
\s5
\v 3 Nhưng, các ngươi là con trai của phù thủy, con cái của kẻ ngoại tình và người phụ nữ bán dâm, hãy lại gần đây.
\v 4 Các ngươi đang trêu chọc ai đó? Các ngươi mở mồm, le lưỡi xỉa xói ai đó? Chẳng phải các ngươi là con cái bội nghịch, con cái lọc lừa đó sao?
\s5
\v 5 Các ngươi tự sưởi ấm bằng cách ngủ với nhau dưới các gốc sồi, dưới mọi cây xanh, hỡi những kẻ giết con cái mình nơi lòng sông khô cạn, dưới các mô đá.
\s5
\v 6 Lẫn trong những thứ nhẵn bóng dưới thung lũng sông là các thứ được phân chia cho các ngươi. Chúng là vật sùng kính của các ngươi. Các ngươi dâng của lễ quán cho chúng, cùng của lễ chay. Ta có nên vui thích về các việc này chăng?
\s5
\v 7 Các ngươi đã sắm sửa gường mình trên một ngọn núi cao; các ngươi cũng lên đó mà dâng sinh tế.
\v 8 Các ngươi dựng các biểu tượng mình đằng sau cửa và trụ cửa; các ngươi lìa bỏ Ta, cởi bỏ quần áo, rồi lên chiếc gường mà các ngươi đã cơi nới. Các ngươi lập giao ước với chúng; các ngươi yêu thích gường của chúng; các ngươi ngắm nhìn sự trần truồng của chúng.
\s5
\v 9 Các ngươi đem dầu đến gặp vua; các ngươi thêm thật nhiều nước hoa. Các ngươi sai sứ đi xa; các ngươi xuống tận âm phủ.
\v 10 Các ngươi mòn mỏi vì đường xa, nhưng lại chưa bao giờ nói: “Chẳng có hy vọng gì. ” Các ngươi tìm được sự sống trong tay; vậy nên các ngươi không suy yếu.
\s5
\v 11 “Các ngươi lo ngại ai? Các ngươi sợ ai đến độ các ngươi hành xử cách gian dối như vậy, đến độ các ngươi chẳng nhớ đến Ta hoặc để tâm đến Ta? Vì Ta đã yên lặng lâu quá nên các ngươi chẳng sợ Ta nữa.
\v 12 Ta sẽ công bố mọi việc công chính các ngươi và kể ra mọi điều các ngươi đã làm, nhưng chúng sẽ chẳng ích gì cho các ngươi.
\s5
\v 13 Khi các ngươi kêu la, ước gì các hình tượng mà các ngươi sưu tập đó giải cứu các ngươi. Nhưng không, gió sẽ đùa chúng đi hết thảy, một hơi thở cũng đủ đem chúng đi hết. Còn kẻ nương náu nơi Ta sẽ thừa hưởng đất và sẽ sở hữu núi thánh Ta.
\s5
\v 14 Ngài sẽ bảo: Hãy xây dựng, xây dựng đi! Hãy mở đường! Hãy di dời các đá gây vấp váp khỏi đường đi của dân Ta! ’”
\v 15 Vì này là lời của Đấng cao cả và siêu việt, Đấng sống đời đời, danh Ngài là thánh: “Ta ngự ở nơi cao và thánh, nhưng cũng ở với kẻ có tâm thần tan vỡ, khiêm cung, để làm hồi sinh tâm thần của kẻ khiêm nhường, là tươi tỉnh tấm lòng của người biết ăn năn.
\s5
\v 16 Vì Ta sẽ không cáo tội luôn luôn, cũng chẳng tức giận mãi mãi, vì như vậy tâm linh của người ta sẽ suy sụp trước mặt Ta, tức những sinh mạng mà Ta đã tạo ra.
\v 17 Vì tội tham tàn của nó mà ta nổi giận, và Ta đã hình phạt nó; Ta đã giấu mặt đi và giận dữ, nhưng nó vẫn trở lui theo con đường của lòng mình.
\s5
\v 18 Ta đã nhìn thấy mọi đường lối nó, nhưng Ta sẽ chữa lành nó. Ta sẽ dẫn dắt nó, cũng như vỗ về và yên ủi những kẻ than tiếc nó,
\v 19 và Ta làm nên trái của môi miếng. Chúc bình an, bình an cho những kẻ ở xa lẫn những kẻ ở gần — Giê-hô-va phán — Ta sẽ chữa lành chúng.
\s5
\v 20 Nhưng kẻ ác giống như biển động, chẳng thể nghỉ yên, nước nó khuấy tung sình lầy lên.
\v 21 Chẳng có sự bình an cho kẻ ác — Đức Chúa Trời phán vậy.”
\s5
\c 58
\p
\v 1 “Hãy kêu la cho lớn, đừng kìm nén, hãy cất tiếng lên như cái kèn, rao báo cho dân ta sự bội nghịch của chúng, và cho nhà Gia-cốp biết tội lỗi mình.
\v 2 Vậy mà chúng lại tìm kiếm Ta mỗi ngày và muốn biết đường lối Ta, như một dân thực hành sự công chính và chưa lìa bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời mình. Chúng cầu Ta ban các phán quyết công chính; chúng vui thích khi Đức Chúa Trời đến gần.
\s5
\v 3 Chúng bảo: Sao chúng tôi kiêng ăn mà Chúa chẳng thấy? Sao chúng tôi hạ mình mà Chúa không để ý? Kìa, trong ngày các người kiêng ăn thì các ngươi vẫn tìm lạc thú và áp bức mọi kẻ làm công cho mình.
\s5
\v 4 Kìa, các ngươi kiêng ăn để cãi cọ, tranh chấp, đánh đấm bằng nắm tay gian ác của mình; các ngươi đâu có kiêng ăn để tiếng mình được nghe thấy trên trời.
\v 5 Đó phải chăng là cách kiêng ăn mà Ta ưa muốn: Một ngày để người ta hạ mình xuống, cúi gập đầu như cây sậy, nằm trên vài thô và bụi tro? Ngươi thật gọi đó là kiêng ăn, là ngày làm đẹp lòng Giê-hô-va, ư?
\s5
\v 6 Cách kiêng ăn mà Ta ưa thích chẳng phải là tháo cùm hung ác, mở dây buộc ách, trả tự do cho người bị áp bức, bẻ gãy mọi ách, hay sao?
\v 7 Đó chẳng phải là chia bánh cho người đói, đem người nghèo và kẻ vô gia cư về nhà mình, sao? ” Khi các ngươi thấy ai đó trần truồng thì các ngươi phải mặc đồ cho; các ngươi cũng đừng ẩn mặt trước những người bà con, họ hàng của mình.
\s5
\v 8 Bấy giờ, ánh sáng của các ngươi sẽ tỏ rạng như bình minh, và ngươi sẽ nhanh chóng được chữa lành; sự công chính các ngươi sẽ đi trước các ngươi, và vinh quang của Giê-hô-va sẽ bảo vệ đằng sau các ngươi.
\s5
\v 9 Bấy giờ, các ngươi sẽ kêu, và Giê-hô-va sẽ đáp lại; các ngươi sẽ cầu xin cứu giúp, và Ngài sẽ đáp: “Ta đây. ” Nếu các ngươi cất khỏi giữa vòng mình cái ách, ngón tay cáo tội và lời nói tàn độc,
\v 10 nếu các ngươi giúp bánh cho kẻ đói và đáp ứng nhu cầu của kẻ khốn cùng; được vậy thì ánh sáng các ngươi sẽ mọc lên giữa bóng tối, và bóng tối các ngươi sẽ giống như giữa ban ngày.
\s5
\v 11 Rồi Giê-hô-va sẽ cứ luôn dắt đưa các ngươi và thỏa đáp các ngươi ở những nơi thiếu nước, và Ngài sẽ khiến cứng chắc xương cốt các ngươi. Các ngươi sẽ như khu vườn được tưới, như dòng suối có nước chẳng bao giờ cạn tắt.
\s5
\v 12 Một số các ngươi sẽ tái thiết các nơi đổ nát ngày xưa; các ngươi sẽ dựng lại các tàn tích thuộc nhiều đời trước; các ngươi sẽ được gọi là “Kẻ trùng tu vách thành, ” “Kẻ tái thiết đường phố để cư ngụ.”
\s5
\v 13 Nếu các ngươi giữ bàn chân mình để khỏi đi lại trong ngày Sa-bát, và không tìm lạc thú riêng trong ngày thánh của ta; nếu các ngươi xưng ngày Sa-bát là niềm vui và nếu các ngươi xưng các việc của Giê-hô-va là thánh và đáng tôn trọng; nếu các ngươi giữ ngày Sa-bát khi gác lại công việc riêng, không tìm kiếm lạc thú riêng và không nói lời theo ý riêng mình;
\s5
\v 14 “bấy giờ các ngươi sẽ tìm được sự vui thích nơi Giê-hô-va; và Ta sẽ khiến các ngươi cưỡi trên các nơi cao trên đất; Ta sẽ lấy sản nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ các ngươi, để nuôi các ngươi — vì miệng của Giê-hô-va đã phán như vậy.”
\s5
\c 59
\p
\v 1 Này, tay của Giê-hô-va chẳng ngắn đến nỗi không cứu được; tai Ngài cũng chẳng nặng đến nỗi không nghe được.
\v 2 Tuy nhiên, chính việc làm tội lỗi các ngươi đã ngăn cách các ngươi với Đức Chúa Trời mình, chính tội lỗi các ngươi đã khiến Ngài ẩn mặt với các ngươi và không nghe các ngươi.
\s5
\v 3 Vì bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi nhuốm tội. Môi các ngươi nói dối, lưỡi các ngươi nói lời hiểm độc.
\v 4 Không ai lấy lẽ công chính mà kêu nài, chẳng ai lấy sự chân thật mà biện hộ cho mình. Chúng cậy vào những lời sáo rỗng và ăn nói dối trá; chúng cưu mang chuyện phiền toái và sinh ra tội lỗi.
\s5
\v 5 Chúng ấp trứng rắn độc và dệt mạng nhện. Ai ăn trứng của chúng sẽ chết, và nếu trứng giập thì sẽ nở ra rắn độc.
\v 6 Mạng chúng dệt thì không dùng làm áo được, chúng không thể che thân bằng hàng của mình. Đồ chúng làm ra là sản phẩm tội lỗi, bàn tay của chúng làm chuyện hung bạo.
\s5
\v 7 Bàn chân chúng chạy đi làm ác, lẹ làng làm đổ máu vô tội. Ý tưởng của chúng là ý tưởng tội lỗi; bạo hành và hủy diệt là con đường chúng đi.
\v 8 Chúng chẳng biết đường bình an, chẳng có sự công bằng trong các đường lối chúng. Chúng khiến các lối đi cong quẹo; ai đi trong các lối đó chẳng biết bình an.
\s5
\v 9 Vậy nên sự công bình vẫn cách xa chúng ta, sự công chính cũng không đến với chúng ta. Chúng ta trông chờ ánh sáng, nhưng lại thấy bóng tối; chúng ta tìm kiếm sự rạng rỡ, nhưng vẫn bước trong sự tối tăm.
\v 10 Chúng ta mò tìm vách tường như kẻ mù, như người khiếm thị. Giữa ban ngày mà chúng ta vấp chân như lúc chạng vạng; giữa vòng kẻ mạnh sức mà chúng ta lại như người đã chết.
\s5
\v 11 Chúng ta gầm gừ như gấu, rên rỉ như chim bồ câu; chúng ta trông chờ sự công bằng, nhưng chẳng có; trông chờ sự giải cứu, nhưng nó thật xa vời.
\s5
\v 12 Vì các vi phạm của chúng tôi trước mặt Ngài thật là nhiều, và tội lỗi chúng tôi làm chứng chống lại chúng tôi; vì các vi phạm của chúng tôi ở với chúng tôi, và chúng tôi biết các tội mình.
\v 13 Chúng tôi đã bội nghịch mà chối bỏ Giê-hô-va và trở lòng không chịu theo Đức Chúa Trời mình. Chúng tôi đã nói lời bạo ngược và phản loạn, cưu mang trong lòng thái độ oán trách cùng lời dối trá.
\s5
\v 14 Lẽ công bằng phải lùi lại, còn sự công chính phải đứng đằng xa; vì sự thật bị vấp ngã ở chốn công cộng, còn điều phải thì chẳng đến được.
\v 15 Lòng trung thành đã biến mất, và kẻ lìa bỏ điều ác trở thành nạn nhân. Giê-hô-va nhìn thấy điều đó và Ngài không hài lòng vì chẳng có lẽ công bằng.
\s5
\v 16 Ngài thấy chẳng có người nào, và ngạc nhiên vì không có ai can thiệp. Vì vậy, chính tay Ngài đem đến sự cứu rỗi cho người, và sự công chính Ngài nâng đỡ người.
\s5
\v 17 Ngài lấy sự công chính làm áo giáp, đội lên đầu nón cứu rỗi. Ngài mặc áo báo thù và lấy lòng nhiệt thành làm áo choàng.
\v 18 Ngài báo trả chúng về những việc chúng đã làm, tức sự phán xét thịnh nộ dành cho kẻ đối địch Ngài, sự báo oán dành cho kẻ thù Ngài, hình phạt dành cho các hải đảo như là phần của chúng.
\s5
\v 19 Như vậy, từ phương tây, người ta sẽ kinh sợ danh Giê-hô-va, và từ hướng mặt trời mọc, người ta sẽ kinh sợ vinh quang Ngài. Vì Ngài sẽ đến như dòng suối cuồn cuộn, nhờ hơi thở của Giê-hô-va thổi giục.
\v 20 “Một Đấng cứu chuộc sẽ đến với Si-ôn và với những kẻ từ bỏ các việc làm bội nghịch của Gia-cốp — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Về phần Ta — Giê-hô-va phán — Thần Ta vốn ở trên các ngươi, cùng với lời mà Ta đã đặt vào miệng các ngươi, sẽ không lìa khỏi miệng các ngươi, cũng không lìa khỏi miệng con cái các ngươi, hoặc lìa khỏi miệng của cháu chắt các ngươi — Giê-hô-va phán — từ nay cho đến đời đời.”
\s5
\c 60
\p
\v 1 Hãy đứng lên, chiếu sáng ra; vì ánh sáng ngươi đã đến, và vinh quang Giê-hô-va đã hiện ra trên ngươi.
\s5
\v 2 Dầu bóng tối sẽ che phủ trái đất, sự tối tăm dày đặc bao trùm lên các dân; nhưng Giê-hô-va sẽ phủ bao ngươi, vinh quang Ngài sẽ tỏa rạng trên ngươi.
\v 3 Các dân sẽ đến cùng ánh sáng ngươi, các vua sẽ đến với sự sáng chói lòa đang hiện ra.
\s5
\v 4 Hãy nhìn quanh để thấy. Tất cả họ đều tập hợp lại và đến cùng ngươi. Con trai ngươi từ xa đến, còn con gái ngươi được họ bồng ẳm.
\v 5 Rồi ngươi sẽ nhìn và hớn hở, lòng ngươi sẽ vui sướng tràn dâng, vì sự giàu có của biển cả tuôn đổ trên ngươi, tài sản của các dân sẽ đến với ngươi.
\s5
\v 6 Từng đoàn lạc đà sẽ tràn ngập chỗ ngươi, các lạc đà một gu của Ma-đi-an và Ê-pha; họ đều đến từ Sê-ba; họ sẽ mang theo vàng cùng trầm hương, và sẽ hát ca ngợi Giê-hô-va.
\v 7 Mọi bầy vật của Kê-đa sẽ tập hợp lại chỗ ngươi, chiên đực của Nê-ba-giốt sẽ đáp ứng các nhu cầu của ngươi; chúng sẽ là những của lễ được nhậm trên bàn thờ Ta; và Ta sẽ làm rạng rỡ nhà vinh hiển của Ta.
\s5
\v 8 Những kẻ bay như mây, như chim bồ câu về chuồng đó là ai vậy?
\v 9 Các xứ ven biển trông mong Ta, và đi đầu là các tàu bè Ta-rê-si, đem các con trai ngươi về từ phương xa, cùng với bạc và vàng của chúng, vì cớ danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vì cớ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, bởi Ngài đã tôn quý ngươi.
\s5
\v 10 Các con trai dân ngoại quốc sẽ xây lại các vách thành ngươi, các vua chúng nó sẽ phục vụ ngươi; vì đang cơn giận Ta đã phạt ngươi, nhưng để thi ân, Ta sẽ thương xót ngươi.
\v 11 Các cổng ngươi cũng sẽ luôn để mở; chúng sẽ không bị đóng lại, dù là ngày hay đêm, để tài sản của các dân được đem vào, cùng với các vua của chúng bị dẫn theo.
\s5
\v 12 Thật, các dân và các nước không thần phục ngươi sẽ tiêu vong; các dân đó sẽ bị tuyệt diệt.
\v 13 Cây bách, cây tùng, cây thông, là vinh quang của Li-ban, sẽ cùng đến chỗ ngươi, để tô điểm nơi thánh của Ta; và Ta sẽ làm vinh hiển chỗ Ta đặt chân.
\s5
\v 14 Con trai của những kẻ đã hạ nhục ngươi sẽ đến sấp mình xuống; chúng sẽ sấp xuống nơi chân ngươi; chúng sẽ gọi ngươi là Thành của Giê-hô-va, là Si-ôn của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 15 Thay vì cứ để cho ngươi bị ruồng bỏ và thù ghét, không có ai qua lại, Ta sẽ khiến ngươi thành ra niềm kiêu hãnh đến muôn đời, thành sự vui mừng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
\v 16 Ngươi cũng sẽ uống sữa của các dân, và bú vú của các vua; ngươi sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng Cứu Rỗi và Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.
\s5
\v 17 Thay vì đồng, Ta sẽ đem cho vàng, thay vì sắt, Ta sẽ đem cho bạc; thay vì gỗ, Ta sẽ đem cho đồng, thay vì đá, ta sẽ đem cho sắt. Ta sẽ cắt đặt hòa bình làm kẻ cai quản ngươi, sự công bình làm kẻ cai trị ngươi.
\v 18 Trong xứ ngươi sẽ chẳng còn nghe về bạo hành, sự tàn hại và hủy phá cũng không còn nghe thấy trong lãnh thổ ngươi.
\s5
\v 19 Mặt trời sẽ không còn làm ánh sáng cho ngươi vào ban ngày; ánh trăng cũng không còn chiếu sáng ngươi lúc ban đêm; mà Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, và là Đức Chúa Trời ngươi, vinh quang của ngươi.
\v 20 Mặt trời ngươi sẽ không lặn nữa, mặt trăng ngươi cũng không tàn và biến mất; vì Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt.
\s5
\v 21 Hết thảy dân ngươi sẽ đều công chính; họ sẽ chiếm hữu xứ đến muôn đời, tức nhánh mà Ta trồng, là công việc của tay Ta, để Ta được vinh hiển.
\v 22 Kẻ nhỏ bé sẽ thành cả ngàn, kẻ tầm thường sẽ thành cả dân tộc; Ta, Giê-hô-va, sẽ sớm làm thành các việc này vào đúng thời điểm.
\s5
\c 61
\p
\v 1 Thần của Chúa Giê-hô-va ở trên ta, vì Giê-hô-va đã xức dầu cho ta để công bố tin mừng cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta chữa lành kẻ có lòng tan vỡ, rao sự tự do cho kẻ tù tội, mở cửa ngục tù giải thoát kẻ bị xiềng xích.
\s5
\v 2 Ngài đã sai ta công bố năm thi ân của Giê-hô-va, ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta, cùng yên ủi kẻ than vãn —
\s5
\v 3 để ban cho họ khăn xếp thay vì tro bụi, dầu vui mừng thay vì than khóc, áo ngợi khen thay vì tâm thần buồn chán; để gọi họ là những cây sồi công chính, là cây Giê-hô-va trồng để Ngài được vinh hiển.
\s5
\v 4 Họ sẽ xây dựng lại các tàn tích xưa; họ sẽ phục hồi các nơi hoang phế trước đây. Họ sẽ tái thiết những thành bị đổ nát, những nơi hoang tàn từ nhiều thế hệ trước.
\v 5 Dân ngoại quốc sẽ đứng chăn bầy cho các ngươi, bọn con trai của người nước ngoài sẽ làm công trong đồng ruộng và vườn nho các ngươi.
\s5
\v 6 Các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của Giê-hô-va; người ta sẽ gọi các ngươi là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Các ngươi sẽ được hưởng tài sản của các dân, và các ngươi sẽ kiêu hãnh về của cải chúng nó.
\v 7 Thay vì xấu hổ, các ngươi sẽ nhận được gấp đôi; thay vì sỉ nhục, chúng sẽ vui mừng về phần được chia cho mình. Như vậy, chúng sẽ được chia phần đất gấp đôi; niềm vui đời đời sẽ thuộc về chúng.
\s5
\v 8 Vì Ta, Giê-hô-va, yêu thích sự công bình, và ghét sự cướp bóc cùng sự bất công hung bạo. Ta sẽ báo lại cho chúng một cách thành tín, và Ta sẽ lập với chúng một giao ước đời đời.
\v 9 Con cháu chúng nó sẽ được biết đến giữa các nước, dòng dõi chúng nó sẽ nổi tiếng giữa các dân. Mọi kẻ nào thấy đều nhìn biết chúng nó, công nhận rằng chúng nó là dân được Giê-hô-va ban phước.
\s5
\v 10 Ta sẽ rất vui mừng nơi Giê-hô-va; ta sẽ thật vui sướng nơi Đức Chúa Trời ta. Vì Ngài đã mặc cho ta áo cứu rỗi; Ngài đã mặc cho ta chiếc áo công chính, như chú rể diện khăn đội đầu, như cô dâu trang điểm châu ngọc.
\v 11 Vì như đất khiến cây cỏ đâm chồi, như vườn khiến cây cối lớn lên thể nào, thì Chúa Giê-hô-va cũng sẽ khiến sự công chính và ngợi khen mọc lên trước mặt mọi dân, mọi nước giống như vậy.
\s5
\c 62
\p
\v 1 Vì cớ Si-ôn, Ta sẽ chẳng im tiếng, vì cớ Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ không nín lặng, cho đến khi sự công chính nó chói rạng, và sự cứu rỗi nó cháy sáng như ngọn đuốc.
\v 2 Các dân sẽ nhìn thấy sự công chính ngươi, mọi vua sẽ nhìn thấy vinh quang ngươi. Ngươi sẽ được gọi bằng một tên mới mà Giê-hô-va sẽ chọn cho.
\s5
\v 3 Ngươi cũng sẽ là một vương miện hoa mỹ trong tay Giê-hô-va, một chiếc khăn đội đầu thể hiện vương quyền trong tay Đức Chúa Trời mình.
\v 4 Ngươi sẽ không còn bị nói đến như “Đồ bị ruồng bỏ”; xứ ngươi cũng sẽ chẳng còn bị gọi là “Đất hiu quạnh” nữa. Thật, ngươi sẽ được gọi là “Kẻ Ta vui thích, ” và xứ ngươi sẽ được gọi là “Kẻ có chồng, ” vì Giê-hô-va vui thích về ngươi, và xứ ngươi sẽ có chồng.
\s5
\v 5 Như người thanh niên đi cưới một thiếu nữ, thì cũng vậy, các con trai ngươi sẽ cưới ngươi; chàng rể vui mừng về vợ mới mình thể nào, thì Giê-hô-va cũng sẽ vui mừng về ngươi thể ấy.
\s5
\v 6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt người canh gác trên các tường thành ngươi; chúng nó chẳng nín lặng, dầu là ngày hay đêm. Các ngươi là kẻ vẫn nhắc nhở Giê-hô-va, đừng có ngưng nghỉ.
\v 7 Đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài tái lập Giê-ru-sa-lem và khiến nó thành cớ ngợi khen trên đất.
\s5
\v 8 Giê-hô-va đã dùng bàn tay hữu và cánh tay quyền năng Ngài mà thề, rằng: “Chắc chắn Ta sẽ không ban lúa mì ngươi làm lương thực cho kẻ thù ngươi nữa. Dân ngoại quốc sẽ chẳng còn uống rượu mới mà các ngươi đã làm ra.
\v 9 Vì những kẻ gặt hái lúa mì sẽ được ăn nó và ca ngợi Giê-hô-va; những kẻ hái nho sẽ được uống rượu trong hành lang của nơi thánh Ta.”
\s5
\v 10 Hãy đi qua, đi qua cổng thành! Hãy sửa soạn lối đi cho dân chúng! Hãy xây đắp, xây đắp đường lộ! Hãy dọn sạch đá! Hãy giương cờ hiệu cho các dân!
\s5
\v 11 Kìa, Giê-hô-va đã loan báo cho các nơi tận cùng trái đất, rằng: “Hãy nói với con gái Si-ôn: Này, Đấng Cứu Rỗi ngươi đang đến! Kìa, Ngài đem phần thưởng theo, phần thưởng Ngài đi trước Ngài. ”
\v 12 Người ta sẽ gọi ngươi là “Dân thánh, kẻ được chuộc của Giê-hô-va, ” và ngươi sẽ được gọi là “Nơi được tìm đến, thành không bị ruồng bỏ.”
\s5
\c 63
\p
\v 1 Ai từ Ê-đôm, từ Bốt-ra đến mà mặc đồ đỏ thế kia? Ai vận trang phục quân vương, đang bước đi đầy tự tin vì uy lực lớn lao của mình vậy? Chính là Ta, Đấng phán lời công chính và có trọn quyền cứu rỗi.
\v 2 Sao đồ Ngài mặc lại nhuộm đỏ, giống như người vừa đạp nho nơi bàn ép rượu vậy?
\s5
\v 3 Ta đã đạp nho nơi bàn ép rượu một mình, chẳng có ai từ các dân cùng tham gia. Ta đã giẫm lên chúng nó đang lúc thạnh nộ, và giày đạp chúng nó trong cơn giận dữ mình. Máu chúng nó bắn tóe lên quần áo Ta và vấy đỏ toàn bộ y phục Ta.
\v 4 Vì Ta trông đợi đến ngày báo thù, và năm cứu chuộc của Ta đã đến.
\s5
\v 5 Ta nhìn mà chẳng thấy ai giúp đỡ. Ta ngạc nhiên vì chẳng có người nào hỗ trợ, nhưng chính tay Ta đã đem về cho Ta chiến thắng, chính cơn giận phừng phừng của Ta là động lực thúc đẩy.
\v 6 Đang cơn giận, Ta giày đạp các dân, khiến chúng say trong cơn thạnh nộ Ta, và khiến máu chúng nó văng tóe ra trên đất.
\s5
\v 7 Tôi sẽ nói về các việc làm thành tín của Giê-hô-va, các công việc đáng ca ngợi của Giê-hô-va. Tôi sẽ nói về mọi việc mà Giê-hô-va đã làm cho chúng ta, cũng như về lòng nhân từ lớn lao của Ngài đối với nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài đã thể hiện ơn thương xót như vậy đối với chúng ta vì lòng bao dung của Ngài, kèm theo nhiều việc làm thành tín.
\v 8 Vì Ngài phán: “Thật, họ là dân ta, những đứa con chẳng bội tín. ” Ngài trở nên Đấng Cứu Rỗi họ.
\s5
\v 9 Trong mọi sự khốn khổ họ chịu thì Ngài cũng khốn khổ, và thiên sứ từ trước mặt Ngài đã giải cứu họ. Bởi tình yêu thương và lòng khoan dung mà Ngài đã cứu họ; Ngài đã nâng họ lên và bồng ẵm họ suốt thời xa xưa.
\s5
\v 10 Nhưng họ đã bội nghịch và làm buồn Thánh Linh Ngài. Vậy nên Ngài trở thành kẻ thù của họ chống lại họ.
\s5
\v 11 Dân Ngài nhớ về thời Môi-se thuở xưa. Họ bảo: “Đức Chúa Trời mà đã cứu dân chúng khỏi lòng biển cùng với những kẻ chăn bầy của Ngài ở đâu? Đức Chúa Trời mà đã đặt Thánh Linh Ngài giữa vòng họ ở đâu vậy?
\s5
\v 12 Đâu rồi Đức Chúa Trời mà đã khiến quyền năng mình đi kèm tay phải của Môi-se cũng như phân rẽ nước trước mặt họ, để tạo lập một danh đời đời cho Ngài?
\v 13 Đâu rồi Đức Chúa Trời, Đấng đã dắt đưa họ qua nước sâu? Như ngựa chạy trên đất bằng phẳng, họ chẳng bị sẩy chân.
\s5
\v 14 Thần Linh của Giê-hô-va cho họ an nghỉ, như đàn gia súc được vào thung lũng. Ngài dẫn dắt dân Ngài như vậy, để khiến người ta phải ca ngợi danh Ngài.
\s5
\v 15 Từ trên trời, xin Chúa hãy nhìn xuống, từ nơi ngự thánh và vinh quang của Ngài, xin hãy xem. Lòng nhiệt thành cùng các việc quyền năng Ngài đâu rồi? Ngài chẳng thương cảm và động lòng trắc ẩn đối với chúng con.
\v 16 Vì Chúa là Cha chúng con, dầu Áp-ra-ham không biết chúng con, dầu Y-sơ-ra-ên không nhận ra chúng con, nhưng Ngài, Giê-hô-va, là Cha chúng con. Từ thời xưa thì Ngài đã mang danh là Đấng Cứu Chuộc chúng con.
\s5
\v 17 Giê-hô-va ôi, sao Chúa lại khiến chúng con đi lạc khỏi đường lối Chúa và làm cho lòng chúng con chai đá, chẳng còn tuân phục Ngài? Xin hãy vì các tôi tớ Ngài, là các bộ tộc làm cơ nghiệp Ngài, mà quay trở lại.
\s5
\v 18 Chỉ trong thời gian ngắn dân Ngài được sở hữu nơi thánh Ngài, nhưng rồi kẻ thù chúng con giày đạp nó.
\v 19 Chúng con đã trở nên như kẻ chưa bao giờ được Ngài cai trị, kẻ chưa bao giờ được xưng bằng danh Ngài.”
\s5
\c 64
\p
\v 1 “Ôi, ước gì Chúa mở toang các tầng trời và ngự xuống! Núi non hẳn rúng động trước sự hiện diện của Ngài,
\v 2 như khi lửa đốt cháy củi vụn, như khi lửa làm sôi nước. Ôi, ước gì danh Ngài được các kẻ thù địch Ngài biết đến, ước gì các dân run rẩy trước mặt Ngài!
\s5
\v 3 Ngày trước, khi Chúa làm những việc diệu kỳ mà chúng con không ngờ, thì Ngài đã ngự xuống và núi non phải run sợ trước mặt Ngài.
\v 4 Từ xưa, chẳng ai từng nghe hay nghĩ đến, cũng chẳng mắt nào thấy có Đức Chúa Trời nào ngoài Ngài, Đấng làm việc này việc nọ cho kẻ trông đợi Ngài.
\s5
\v 5 Chúa đến cứu giúp những kẻ vui mừng thực hành điều phải, những kẻ lưu ý đến các đường lối Ngài và vâng giữ.
\s5
\v 6 Vì chúng con đều trở nên như kẻ ô uế, mọi việc công chính của chúng con giống như miếng giẻ bẩn thỉu. Chúng con đều khô héo đi như chiếc lá, tội lỗi chúng con như gió đùa mình đi.
\v 7 Chẳng có ai kêu cầu danh Chúa, ra sức nắm lấy Ngài, vì Chúa đã ẩn mặt với chúng con và bỏ mặc chúng con cho tội lỗi mình.
\s5
\v 8 Dầu vậy, Giê-hô-va ôi, Chúa là Cha chúng con; chúng con là đất sét. Chúa là thợ gốm; và chúng con đều là công việc của tay Ngài.
\v 9 Hỡi Giê-hô-va, xin đừng quá giận, cũng chớ mãi nhớ đến các tội của chúng con. Xin hãy đoái xem hết thảy chúng con, là dân Chúa.
\s5
\v 10 Các thành thánh Ngài đã trở nên hoang mạc; Si-ôn đã trở nên hoang vắng, Giê-ru-sa-lem thành chốn quạnh hiu.
\v 11 Đền thánh đẹp đẽ của chúng con, nơi cha ông chúng con ca ngợi Ngài, đã bị lửa thiêu hủy, và mọi thứ thân thiết đều tan hoang.
\v 12 Giê-hô-va ôi, sao Ngài vẫn có thể giữ yên lặng và khiến chúng con chịu sỉ nhục?”
\s5
\c 65
\p
\v 1 “Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng cầu hỏi Ta tìm gặp; Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng tìm kiếm Ta tìm được. Ta đã phán với một dân chưa kêu cầu danh Ta, rằng: Ta đây! Ta đây!
\v 2 Suốt ngày Ta đã đưa tay ra hướng về một dân ương ngạnh, đi trong con đường chẳng thánh lành, cứ bước theo ý tưởng và toan tính riêng của mình!
\s5
\v 3 Chúng là dân không ngừng xúc phạm Ta, cúng tế trong các khu vườn, dâng hương trên gạch ngói.
\v 4 Chúng ngồi nơi mồ mả, canh giữ thâu đêm, rồi ăn thịt heo với nước thịt bẩn trong bát đĩa mình.
\s5
\v 5 Chúng bảo: Đứng tránh ra, đừng lại gần, vì tôi thánh sạch hơn các người. Các thứ này là khói trong mũi Ta, là đám lửa cháy suốt ngày.
\s5
\v 6 Này, trước mặt Ta có lời chép: Ta sẽ chẳng giữ im lặng, vì Ta sẽ báo trả; Ta sẽ báo lại chúng nó vào lòng chúng nó,
\v 7 về tội lỗi chúng nó cùng tội lỗi cha ông chúng nó, ” Giê-hô-va phán vậy. “Ta sẽ báo trả chúng nó vì đã dâng hương trên các núi và đã chế nhạo Ta trên các đồi. Vì vậy Ta sẽ đong vào lòng chúng các việc chúng đã làm trong quá khứ.”
\s5
\v 8 Giê-hô-va phán thế này: “Như khi người ta thấy có nước cốt trong chùm nho, và bảo: Đừng làm hư, vì trong đó còn dưỡng chất, thì cũng vậy, đây là điều Ta sẽ làm vì các tôi tớ mình: Ta sẽ không diệt hết chúng nó.
\s5
\v 9 Ta sẽ đem về các con cháu của Gia-cốp và của Giu-đa, rồi chúng sẽ sở hữu các núi Ta. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sở hữu xứ, và các tôi tớ Ta sẽ sống ở đó.
\v 10 Sa-rôn sẽ trở nên đồng có cho các bầy chiên, thung lũng A-cô sẽ là nơi nghỉ ngơi cho các đàn gia súc, cho dân Ta, là kẻ tìm kiếm Ta.
\s5
\v 11 Nhưng các ngươi là kẻ lìa bỏ Giê-hô-va, kẻ quên núi thánh Ta, kẻ dọn tiệc cho thần May Mắn, kẻ rót đầy rượu pha cho thần gọi là Số Mệnh —
\s5
\v 12 Ta sẽ định cho các ngươi phải chịu gươm đao, và tất cả các ngươi sẽ bị tàn sát, vì khi Ta gọi, các ngươi chẳng đáp lại; khi Ta phán, các ngươi chẳng chịu nghe; thay vì vậy, các ngươi lại làm ác trước mặt Ta, và cố tình làm điều Ta không vui thích.”
\s5
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Này, các tôi tớ Ta sẽ được ăn, còn các ngươi phải chịu đói; này, các tôi tớ Ta sẽ được uống, còn các ngươi phải chịu khát; này, các tôi tớ Ta sẽ hoan hỉ, còn các ngươi phải chịu nhục.
\v 14 Này, các tôi tớ Ta sẽ reo mừng vì vui sướng trong lòng, còn các ngươi sẽ khóc lóc vì đau đớn trong lòng, và sẽ than vãn vì tâm thần bị nhàu nát.
\s5
\v 15 Danh các ngươi lưu lại thì những kẻ được chọn của Ta sẽ dùng để nguyền rủa; Ta, Chúa Giê-hô-va, sẽ giết chết các ngươi; Ta sẽ gọi các tôi tớ Ta bằng một tên khác.
\v 16 Ai công bố một phước lành trên đất sẽ được Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, ban phước. Ai thề hứa trên đất tức là thề nguyện bằng danh Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, vì các hoạn nạn trước đó đã được quên hết, chúng đã khuất khỏi mắt Ta.
\s5
\v 17 Vì này, Ta sẽ dựng nên trời mới và đất mới; các việc trước sẽ chẳng còn được nhớ đến hay nhắc lại nữa.
\v 18 Nhưng các ngươi sẽ sung sướng và vui mừng mãi mãi về những gì Ta sẽ tạo dựng. Này, Ta sẽ dựng nên Giê-ru-sa-lem làm niềm hoan hỉ, và dân thành ấy làm niềm vui thích.
\v 19 Ta sẽ vui mừng về Giê-ru-sa-lem, và sung sướng về dân Ta; nơi nó sẽ chẳng còn nghe thấy sự khóc lóc, kêu la nữa.
\s5
\v 20 Tại đó sẽ chẳng bao giờ lại có trẻ nhỏ chết yểu; cũng chẳng còn người già chết trước kỳ. Người chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là chết trẻ. Kẻ có tội chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là bị rủa.
\v 21 Chúng sẽ cất nhà rồi sống trong đó; chúng sẽ trồng vườn nho rồi ăn trái nó.
\s5
\v 22 Sẽ không còn có chuyện kẻ này xây nhà nhưng lại có kẻ khác vào ở; một người trồng nhưng người khác được ăn; vì số ngày của dân Ta sẽ như số ngày của cây. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sống lâu hơn công trình của tay mình.
\v 23 Họ sẽ không nhọc công vô ích, cũng không sinh con để rồi kinh sợ. Vì chúng là con cái của những kẻ được Giê-hô-va ban phước, cùng với dòng dõi của chúng.
\s5
\v 24 Trước khi chúng kêu thì Ta đã đáp lại; trong lúc chúng còn đang nói thì Ta đã nghe.
\v 25 Sói với chiên con sẽ gặm cỏ chung với nhau, còn sư tử sẽ ăn rơm như bò; nhưng tro bụi sẽ là thức ăn của loài rắn. Chúng sẽ không còn làm hại hay hủy diệt trên khắp núi thánh Ta, ” Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\c 66
\p
\v 1 Giê-hô-va phán thế này: “Trời là ngai Ta, đất là bệ chân Ta. Vậy thì đâu là nhà mà các ngươi sẽ xây cho Ta? Đâu là nơi Ta nghỉ ngơi?
\s5
\v 2 Tay Ta đã tạo ra mọi vật này; nhờ vậy mới có mọi thứ ấy — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Kẻ được Ta đẹp ý là kẻ có tâm thần tan vỡ, ăn năn, kẻ nghe lời Ta mà run sợ.
\s5
\v 3 Kẻ giết thịt con bò cũng là kẻ giết người; kẻ hiến tế chiên con cũng đi bẻ cổ chó; kẻ dâng của lễ chay lại dâng máu heo; kẻ dâng hương tưởng niệm cũng xưng tụng cái ác. Chúng đã chọn con đường riêng cho mình, và chúng vui thích về các việc gớm ghiếc của mình.
\s5
\v 4 Thì cũng vậy, Ta sẽ chọn hình phạt cho chính chúng; Ta sẽ giáng trên chúng điều chúng sợ hãi, vì khi Ta gọi chẳng ai đáp lại; khi Ta phán chẳng ai lắng nghe. Chúng đã làm chuyện tà ác trước mặt Ta và cố ý làm những việc Ta chẳng vui thích.”
\s5
\v 5 Hãy nghe lời của Giê-hô-va phán, hỡi các ngươi là kẻ nghe lời Ngài mà run sợ: “Những anh em các ngươi thù ghét và loại bỏ các ngươi vì cớ Ta, đã bảo: Nguyện Giê-hô-va được vinh hiển rồi bọn tao sẽ thấy niềm vui của chúng bay, nhưng chúng sẽ phải xấu hổ.
\s5
\v 6 Từ thành phố vọng lại tiếng hỗn độn của chiến trận, tiếng ra từ đền thờ, tiếng Giê-hô-va báo trả các kẻ thù Ngài.
\s5
\v 7 Trước khi chuyển dạ nó đã sinh nở; trước khi chịu đau đớn nó đã sinh con trai.
\v 8 Ai đã từng nghe một chuyện như vậy? Ai đã từng thấy những việc như thế? Có xứ nào lại ra đời trong một ngày? Có dân tộc nào lại được thành lập trong chốc lát? Vậy mà vừa khi Si-ôn chuyển dạ thì nó đã sinh ra con cái.
\s5
\v 9 Phải chăng Ta mở dạ mẹ rồi lại không để cho hài nhi sinh ra? Phải chăng Ta tạo dựng đứa bé được đầy đủ hình hài rồi giữ nó lại? — Đức Chúa Trời ngươi phán hỏi như vậy.”
\s5
\v 10 Hãy hoan hỉ cùng với Giê-ru-sa-lem và vui vì nó, hỡi những ai yêu quý nó; hãy cùng vui với nó, hỡi những ai đã từng than khóc vì nó!
\v 11 Vì các ngươi sẽ được bú và no lòng; nhờ vú nó các ngươi sẽ được yên ủi; vì các ngươi sẽ được uống thỏa thuê và vui thích nhờ vinh quang tột bậc của nó.
\s5
\v 12 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Ta sẽ tuôn đổ sự thịnh vượng xuống trên nó như dòng sông, và của cải của các dân như dòng suối dâng tràn. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa nó, được nó ẳm bồng, và được vỗ về trên đầu gối nó.
\v 13 Người mẹ yên ủi con mình thể nào thì Ta cũng sẽ yên ủi các ngươi như vậy, và các ngươi sẽ được khuây khỏa tại Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\v 14 Các ngươi sẽ chứng kiến việc này, rồi lòng các ngươi sẽ vui sướng, xương cốt ngươi sẽ đầy sức sống như cỏ non. Tay của Giê-hô-va sẽ được tỏ ra cho các tôi tớ Ngài, nhưng Ngài sẽ nổi giận với các kẻ thù của Ngài.
\s5
\v 15 Vì, kìa, Giê-hô-va đang hiện đến trong lửa, các xe chiến mã Ngài xông tới như gió bão, mang theo cơn giận phừng phừng cùng sự quở phạt bừng cháy của Ngài.
\v 16 Vì Giê-hô-va thi hành sự đoán phạt nhân loại bằng lửa và bằng thanh gươm Ngài. Số những kẻ bị Ngài giết chết sẽ nhiều lắm.
\s5
\v 17 Chúng biệt mình ra và khiến mình nên thánh, để chúng được vào các khu vườn, đi theo những kẻ ăn thịt heo và những thứ kinh tởm như chuột chẳng hạn. “Chúng sẽ xong đời — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Vì Ta biết các việc làm chúng nó cùng ý tưởng chúng nó. Sắp đến lúc Ta tập hợp mọi dân thuộc mọi thứ tiếng lại. Chúng sẽ đến và sẽ thấy vinh quang Ta.
\v 19 Ta sẽ đặt một dấu hiệu giữa chúng. Rồi Ta sẽ sai những kẻ sống sót của chúng đến các nước: Đến Ta-rê-si, Phun, Lút, là các cung thủ giương cung mình, đến Tu-banh, Gia-van, và đến các vùng duyên hải xa xôi nơi chưa từng nghe biết về Ta hoặc nhìn thấy vinh quang Ta. Chúng sẽ công bố vinh quang Ta ra giữa các dân.
\s5
\v 20 Chúng sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ mọi nước trở về, như lễ vật dâng lên cho Giê-hô-va. Chúng sẽ đến Giê-ru-sa-lem, núi thánh Ta, bằng ngựa, bằng xe chiến mã, bằng xe ngựa kéo, bằng la và bằng lạc đà — Giê-hô-va phán như vậy. Vì dân Y-sơ-ra-ên sẽ dùng chén thanh sạch mà đem của lễ chay vào nhà Giê-hô-va.
\v 21 Thậm chí Ta sẽ chọn một số người này làm thầy tế lễ và người Lê-vi — Giê-hô-va phán như vậy.
\s5
\v 22 Vì như trời mới và đất mới mà Ta sẽ dựng nên sẽ cứ tồn tại trước mặt Ta, thì cũng vậy, dòng dõi các ngươi sẽ cứ tồn tại, danh các ngươi sẽ vẫn còn mãi — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\v 23 Từ tháng này đến tháng kia, hết ngày Sa-bát này đến ngày Sa-bát khác, mọi người sẽ đến sấp mình xuống trước mặt Ta — Giê-hô-va phán như vậy.
\s5
\v 24 Chúng sẽ đi ra và nhìn thấy thây của những kẻ đã bội nghịch chống lại Ta, vì sâu ăn chúng nó sẽ chẳng chết, lửa thiêu đốt chúng nó sẽ chẳng bị tắt; và đó sẽ là điều ghê tởm đối với mọi xác phàm.”

2616
24-JER.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2616 @@
\id JER
\ide UTF-8
\h Giê-rê-mi
\toc1 Giê-rê-mi
\toc2 Giê-rê-mi
\toc3 jer
\mt Giê-rê-mi
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia; một trong số những thầy tế lễ ở A-na-tốt trong xứ Ben-gia-min.
\v 2 Có lời Đức Giê-hô-va phán với ông trong đời của Giô-si-a, con trai A-môn, vua Giu-đa, vào năm thứ mười ba thuộc triều đại của vua ấy.
\v 3 Lời Ngài cũng đến với ông trong đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, đến tháng năm năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, khi dân thành Giê-ru-sa-lem bị bắt làm tù binh.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán với tôi rằng:
\v 5 “Trước khi Ta dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Ta đã chọn ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã biệt riêng ngươi; Ta đã lập ngươi làm tiên tri cho các nước. ”
\v 6 “Ôi, Đức Giê-hô-va! ” Tôi trả lời: “Con không biết cách nói chuyện, vì con còn trẻ quá.”
\s5
\v 7 Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ nói: Con còn trẻ quá. Ngươi phải đi bất cứ nơi nào Ta sai ngươi đi, và ngươi phải nói bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi nói!
\v 8 Chớ sợ chúng, vì Ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 9 Sau đó, Đức Giê-hô-va giơ tay Ngài ra, chạm vào miệng tôi, và phán với tôi: “Bây giờ, Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi.
\v 10 Ngày nay, Ta sẽ lập ngươi trên các nước và trên các vương quốc, đặng nhổ và đập tan, hủy diệt và phá đổ, xây dựng và thiết lập.”
\s5
\v 11 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì? ” Tôi nói: “Con thấy một nhánh hạnh nhân. ”
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Ngươi đã thấy đúng, vì Ta đang canh chừng lời Ta để thực hiện nó.”
\s5
\v 13 Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi lần thứ nhì rằng: “Ngươi thấy gì? ” Tôi đáp: “Con thấy một nồi nước sôi sùng sục, bắn lên từ phương bắc. ”
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Tai họa sẽ ra từ phương bắc đổ xuống dân cư trong xứ này.
\s5
\v 15 Vì Ta sẽ gọi các bộ tộc từ các vương quốc phương bắc, Đức Giê-hô-va phán. Chúng sẽ đến, mỗi người sẽ đặt ngai mình ở lối cổng thành Giê-ru-sa-lem, đánh hạ các tường thành xung quanh và các thành phố của Giu-đa.
\v 16 Ta sẽ tuyên bố án phạt trên chúng vì việc ác của chúng khi từ bỏ Ta, dâng hương cho các thần khác, và thờ lạy những thứ do chính tay chúng dựng nên.
\s5
\v 17 Hãy sẵn sàng! Hãy đứng dậy và nói với chúng bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi. Chớ kinh sợ trước mặt chúng, nếu không Ta sẽ khiến ngươi sợ sệt trước mặt chúng!
\v 18 Kìa! Ngày nay Ta đã lập cho ngươi một thành trì kiên cố, một trụ sắt, và các bức tường bằng đồng nghịch với cả xứ này nghịch với các vua Giu-đa, các quan chức, thầy tế lễ, và dân cư trong xứ.
\v 19 Chúng sẽ đánh ngươi, nhưng chúng sẽ không thắng được ngươi, vì Ta sẽ ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng:
\v 2 “Hãy đi và công bố đến tai Giê-ru-sa-lem. Hãy nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta còn nhớ lòng trung tín thỏa ước của ngươi khi ngươi còn xuân xanh, tình yêu của ngươi khi chúng ta mới ước hẹn, khi ngươi theo Ta vào hoang mạc, là xứ không được gieo trồng.
\v 3 Y-sơ-ra-ên được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va, là trái đầu mùa thu hoạch! Tất cả những ai ăn trái đầu mùa đều phạm tội! Tai họa sẽ giáng trên chúng Đức Giê-hô-va phán vậy. ’”
\s5
\v 4 Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Gia-cốp và mọi gia đình trong nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Tổ phụ các ngươi đã thấy Ta có gì sai chăng, đến nỗi họ không theo Ta nữa? Đến nỗi họ theo các thần vô dụng và chính họ trở nên vô dụng?
\v 6 Họ không nói: Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập? Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng dẫn chúng ta đến hoang mạc, vào xứ A-ra-ba, vào một xứ khô cằn, tối tăm đầy hầm hố, một xứ chẳng có ai đi ngang qua và chẳng có ai sống?
\s5
\v 7 Nhưng Ta đã đem các ngươi đến xứ Cạt-mên, để các ngươi ăn hoa quả và những vật tốt! Nhưng khi các ngươi đến, các ngươi làm ô uế đất của Ta, các ngươi khiến sản nghiệp của Ta trở nên gớm ghiếc!
\v 8 Thầy tế lễ không nói: Đức Giê-hô-va ở đâu? và các thầy dạy luật chẳng quan tâm đến Ta! Những người chăn bầy chống nghịch Ta. Các tiên tri nói tiên tri cho Ba-anh và bắt chước những việc vô ích.
\s5
\v 9 Vậy, Ta vẫn sẽ buộc tội các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ buộc tội con cháu các ngươi.
\v 10 Vì các ngươi vượt qua bờ biển Kít-tim và nhìn. Các ngươi sai sứ giả đến Kê-đa đặng tìm kiếm và xem coi có điều gì giống vậy chăng.
\v 11 Có nước nào từng đổi các thần, dù chúng không phải là thần? Nhưng dân Ta đã đổi sự vinh quang của họ để lấy thứ không thể giúp họ.
\s5
\v 12 Hỡi các từng trời, hãy kinh hoàng về việc này! Hãy hoảng hốt và khiếp sợ - Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 13 Vì dân Ta đã phạm hai điều ác đối với Ta: Họ đã từ bỏ các suối nước sống qua việc đào bới tìm kiếm các bể chứa, là những bể chứa nứt ra và không thể trữ nước!
\s5
\v 14 Có phải Y-sơ-ra-ên là nô lệ không? Nó không được sinh ra trong nhà? Vậy tại sao nó trở thành của cướp bóc?
\v 15 Sư tử con gầm rống chống lại nó. Chúng rống thật to và biến xứ của nó thành một sự kinh khiếp! Các thành của nó bị hủy diệt đến nỗi không còn dân cư.
\v 16 Ngoài ra, dân Mem-phi và Ta-pan-hê cạo nát sọ và bắt các ngươi làm nô lệ!
\v 17 Chẳng phải các ngươi đã tự làm việc này khi các ngươi lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, khi Ngài dẫn các ngươi đi trên đường sao?
\s5
\v 18 Vậy bây giờ, sao các ngươi lên đường đến Ai Cập và uống nước ở Si-ho? Sao các ngươi lên đường đến A-sy-ri và uống nước Sông Ơ-phơ-rát?
\v 19 Sự gian ác của các ngươi quở trách các ngươi, và sự thất tín của các ngươi đoán phạt các ngươi. Vậy hãy nghĩ về điều đó; hãy hiểu rằng việc các ngươi từ bỏ Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là việc ác và đầy cay đắng, và các ngươi không còn kinh sợ Ta nữa Đức Giê-hô-va vạn quân đã phán vậy.
\s5
\v 20 Vì Ta đã bẻ ách ngươi vào xưa kia; Ta đã tháo cùm cho ngươi. Nhưng ngươi vẫn nói: Con sẽ không phục vụ! vì ngươi đã quỳ lạy ở trên đồi cao và dưới cây rậm lá, các ngươi là những kẻ ngoại tình.
\v 21 Nhưng chính Ta đã trồng các ngươi như cây nho được chọn, như hột giống tốt nhất. Tuy nhiên, các ngươi đã thay đổi trước mặt Ta, từ một cây nho ngoại thành một cây nho hoang!
\v 22 Vì ngay cả nếu các ngươi làm sạch mình ở dưới sông hoặc dùng chất tẩy rửa, tội lỗi các ngươi vẫn là vết nhơ trước mặt Ta Chúa Giê-hô-va đã phán vậy.
\s5
\v 23 Làm sao các ngươi có thể nói: Con không ô uế! Con không theo thần Ba-anh? Hãy nhìn xem hành vi của các ngươi ở các thung lũng! Hãy hiểu việc các ngươi làm, các ngươi như lạc đà nhanh nhảu chạy theo đường nó!
\v 24 Các ngươi là lừa hoang, quen nơi hoang mạc, động dục và huýt gió! Ai xoay chuyển nó khi nó động đực? Ai tìm nó chẳng thấy mệt nhọc. Chúng đến gặp nó vào tháng động tình.
\v 25 Hãy giữ chân ngươi khỏi để trần và cổ ngươi khỏi cơn khát! Nhưng ngươi nói: Thật vô vọng! Không, con yêu những người lạ và đi theo họ!
\s5
\v 26 Như tên trộm xấu hổ khi bị phát hiện, nhà Y-sơ-ra-ên cũng sẽ xấu hổ - họ, các vua, các vương tử, thầy tế lễ và những tiên tri!
\v 27 Đây là những người nói với cây rằng: Ngài là cha tôi, và nói với cục đá: Ngài là mẹ tôi. Vì họ xây lưng lại với Ta chứ không xây mặt về phía Ta. Tuy nhiên, họ nói trong lúc khốn khó: Xin trỗi dậy và cứu chúng con!
\v 28 Nhưng các thần mà ngươi đã dựng cho chính mình ở đâu? Hãy để chúng trỗi dậy nếu chúng muốn cứu các ngươi khi khốn khó, vì số thần của các ngươi bằng với số thành phố của các ngươi, hỡi Giu-đa!
\s5
\v 29 Vậy sao các ngươi kết tội Ta làm sai? Tất cả các ngươi đã phạm tội trước mặt Ta Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 30 Ta đã phạt dân ngươi thật vô ích. Chúng chẳng chịu kỷ luật. Gươm các ngươi nuốt các tiên tri như sư tử vồ mồi!
\v 31 Hỡi các ngươi là những người thuộc thế hệ này! Hãy chú ý lời Ta, là lời của Đức Giê-hô-va! Ta là một hoang mạc cho Y-sơ-ra-ên sao? Hay Ta là một xứ tối tăm? Sao dân Ta nói: Hãy để chúng tôi lang thang, chúng tôi sẽ không đến gặp Ngài nữa?
\s5
\v 32 Trinh nữ sẽ quên trang sức mình chăng, nàng dâu sẽ quên mạng che mặt chăng? Nhưng dân Ta đã quên Ta từ rất lâu rồi!
\v 33 Các ngươi thật khéo tính toán đường lối để kiếm người tình. Các ngươi thậm chí dạy đường lối các ngươi cho phụ nữ xấu xa.
\v 34 Huyết của mạng người vô tội, người nghèo vấy trên quần áo ngươi. Họ không bị bắt quả tang trộm cắp.
\s5
\v 35 Trái lại, dù sự thật là như vậy, nhưng các ngươi cứ nói: Con vô tội. Chắc chắn cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên con. Nhưng kìa! Các ngươi sẽ bị đoán xét vì các ngươi nói: Con không phạm tội.
\v 36 Sao các ngươi thay đổi đường lối các ngươi dễ dàng vậy? Ai Cập sẽ làm các ngươi xấu hổ, như A-sy-ri đã làm đối với các ngươi.
\v 37 Các ngươi cũng sẽ đi ra khỏi nơi khiến thất vọng, tay giơ trên đầu, vì Đức Giê-hô-va đã từ bỏ những người mà các ngươi tin, để họ sẽ không giúp các ngươi.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Họ nói: Một người nam đuổi vợ mình, nàng rời khỏi người và làm vợ của người khác. Lẽ nào người nên trở lại bên nàng? Chẳng phải nàng hoàn toàn không bị ô uế sao? Người nữ đó chính là xứ này! Ngươi đã hành dâm như gái điếm với nhiều người, rồi bây giờ ngươi muốn trở về bên Ta? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 2 Hãy ngước mắt lên các nơi cao hoang phế và nhìn xem! Có chỗ nào mà ngươi không hãm hiếp? Ngươi ngồi bên lề đường chờ người tình, như dân du cư trong hoang mạc. Ngươi đã làm ô uế xứ này bằng sự điếm đĩ và tội ác của ngươi.
\s5
\v 3 Vì vậy, mưa xuân bị ngăn lại và mưa cuối mùa không đến. Nhưng ngươi vênh mặt kiêu ngạo, như mặt đàn bà tạp hôn. Ngươi không biết xấu hổ.
\v 4 Chẳng phải từ bây giờ ngươi sẽ không kêu cầu Ta: Thưa Cha của con! Ngài là bạn thân nhất của con từ khi con còn trẻ.
\v 5 Ngài sẽ giận đời đời sao? Ngài sẽ luôn giận sao? Kìa! Ngươi tuyên bố rằng ngươi sẽ phạm điều ác, và ngươi đã phạm nó. Vậy hãy cứ làm đi!”
\s5
\v 6 Sau đó, trong đời vua Giô-si-a, Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Ngươi thấy Y-sơ-ra-ên xảo trá với Ta thế nào chưa? Nó đến mọi núi cao và dưới gốc cây xum xuê và hành dâm tại đó.
\v 7 Ta đã nói: Sau khi nó làm những việc này, nó sẽ trở lại bên Ta, nhưng nó đã không trở lại. Chị gái lật lọng của nó đã thấy việc nó làm.
\s5
\v 8 Vậy nên Ta đã thấy nó phạm tội tà dâm vì tất cả những lý do này. Y-sơ-ra-ên bội giáo! Ta đã đuổi nó và đưa cho nó một tờ ly dị. Nhưng chị gái Giu-đa phản nghịch của nó không sợ, nó ra ngoài và hành dâm!
\v 9 Việc nó làm ô uế xứ được xem là tầm thường, vì vậy chúng làm thần tượng bằng đá và cây.
\v 10 Sau mọi việc này, chị gái Giu-đa lật lọng của nó không hết lòng trở về bên Ta, nhưng chỉ là một lời dối trá! Đức Giê-hô-va đã phán vậy.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Y-sơ-ra-ên vô đạo còn công bình hơn Giu-đa lật lọng!
\v 12 Hãy đi và rao những lời này cho phương bắc. Hãy nói: Y-sơ-ra-ên vô đạo, hãy trở về! Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không giận ngươi đâu. Vì Ta là Đấng thành tín Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không giận ngươi đời đời.
\s5
\v 13 Ngươi hãy nhận tội, vì ngươi đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; ngươi đã hành dâm với khách lạ dưới cây xanh! Vì ngươi không lắng nghe tiếng Ta! Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 14 Hỡi dân vô đạo, hãy trở về! Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta đã cưới ngươi! Ta sẽ lấy từ giữa ngươi mỗi thành một người và mỗi thị tộc hai người, Ta sẽ đem ngươi vào Si-ôn!
\v 15 Ta sẽ cho ngươi những người chăn đẹp lòng Ta, họ sẽ chăn dắt ngươi bằng tri thức và sự sáng suốt.
\s5
\v 16 Rồi ngươi sẽ tăng dân số và sanh bông trái tốt trong xứ vào những ngày đó Đức Giê-hô-va phán vậy. Họ sẽ không còn nói: “Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va! ” Lòng họ sẽ không còn nhớ việc này nữa, vì họ sẽ không còn nghĩ đến hoặc chú ý về nó nữa. Lời tuyên bố này sẽ không còn được thực hiện nữa.
\s5
\v 17 Khi đó, họ sẽ rao báo về Giê-ru-sa-lem: Đây là ngai của Đức Giê-hô-va, và mọi nước sẽ tập hợp tại Giê-ru-sa-lem trong danh Đức Giê-hô-va. Họ sẽ không còn bước đi trong sự cứng cỏi của lòng gian ác nữa.
\v 18 Khi ấy, nhà Giu-đa sẽ đi cùng nhà Y-sơ-ra-ên. Từ xứ ở phương bắc, họ sẽ cùng đến xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ ngươi làm sản nghiệp.
\s5
\v 19 Còn về phần Ta, Ta nói: Ta muốn ban vinh dự cho ngươi như con trai Ta và ban cho ngươi một xứ tươi tốt, một cơ nghiệp còn đẹp hơn sản nghiệp ở bất kỳ nước nào! ” Ta sẽ nói: Ngươi sẽ gọi Ta là “Cha của con”. Ta hẳn sẽ nói rằng ngươi sẽ không rời bỏ Ta.
\v 20 Nhưng như một người nữ lật lọng với chồng mình, ngươi đã phản bội Ta, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên Đức Giê-hô-va phán như vầy.”
\s5
\v 21 “Có tiếng huyên náo ở nơi đồng bằng, tiếng than khóc và nài xin của dân Y-sơ-ra-ên! Vì họ đã đổi đường lối mình; họ đã quên Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
\v 22 Hãy trở về, hỡi dân vô đạo! Ta sẽ chữa lành sự phụ bạc của ngươi! ” “Kìa! Chúng con sẽ đến với Ngài, vì Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con!
\s5
\v 23 Chỉ những lời giả dối đến từ trên đồi núi. Chắc chắn sự cứu rỗi Y-sơ-ra-ên chỉ thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con.
\v 24 Tuy nhiên các thần tượng đáng hổ thẹn đã nuốt lấy những gì tổ phụ chúng con đã làm bầy chiên và gia súc, con trai và con gái!
\v 25 Chúng ta hãy nằm xuống chịu xấu hổ. Nguyện nỗi xấu hổ bao phủ chúng ta, vì chúng ta đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta! Chính chúng ta và tổ phụ chúng ta, từ khi chúng ta còn trẻ đến bây giờ, đã không lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta!”
\s5
\c 4
\p
\v 1 “Hỡi Y-sơ-ra-ên, nếu ngươi trở về - Đức Giê-hô-va phán như vầy thì ngươi phải trở về. Nếu ngươi từ bỏ những việc gớm ghiếc khỏi trước mặt Ta và không đi sai lạc nữa,
\v 2 và nếu ngươi thề: Đức Giê-hô-va hằng sống trong lẽ thật, công bình và chính trực, các nước sẽ xin ơn phước của ngươi, và họ sẽ ngợi khen Ta.
\v 3 Vì Đức Giê-hô-va phán điều này cho mỗi người tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem: Hãy cày đất của ngươi, chớ gieo giữa gai góc.
\s5
\v 4 Hãy cắt bì mình cho Đức Giê-hô-va và loại bỏ dương bì khỏi lòng ngươi, hỡi người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem, nếu không cơn giận của Ta sẽ nổi bừng như lửa, không ai có thể dập tắt. Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc ác của các ngươi.
\v 5 Hãy rao ra trong Giu-đa và hãy truyền cho Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thổi kèn trong xứ. Hãy tập hợp lại. Chúng ta hãy đến các thành trì kiên cố. ”
\v 6 Hãy giơ cờ hiệu và hướng nó về Si-ôn, hãy chạy trốn! Chớ chần chừ, vì Ta sẽ đem tai họa từ phương bắc và một đại họa khủng khiếp.
\s5
\v 7 Một con sư tử sẽ ra từ bụi cây và một kẻ hủy diệt các nước sẽ đi ra. Nó sẽ rời khỏi chỗ mình đặng đem sự kinh khiếp đến xứ ngươi, khiến các thành phố ngươi ra điêu tàn, là nơi sẽ chẳng có ai ở.
\v 8 Vì vậy, hãy mặc áo vải gai, hãy than van và than khóc. Vì ảnh hưởng từ cơn giận của Đức Giê-hô-va chưa lìa khỏi chúng ta.
\s5
\v 9 Trong ngày đó Đức Giê-hô-va phán lòng của các vua và các quan sẽ chết lặng. Các thầy tế lễ sẽ kinh hãi, các tiên tri sẽ hoảng sợ. ’”
\v 10 Tôi nói: “Ôi! Lạy Chúa Giê-hô-va. Rõ ràng là Ngài đã lừa dân này và thành Giê-ru-sa-lem khi nói rằng: Các ngươi sẽ có sự bình an. Nhưng gươm đang dí vào mạng sống họ.”
\s5
\v 11 Khi đó, người ta sẽ nói về dân này và Giê-ru-sa-lem: “Một ngọn gió nóng từ những gò trọi trong hoang mạc sẽ thổi đến con gái của dân Ta. Nó sẽ không rê cũng không làm sạch chúng.
\v 12 Ta sẽ sai đến một ngọn gió mạnh hơn, Ta sẽ hình phạt chúng.
\s5
\v 13 Kìa, nó ập đến như đám mây, và xe chiến mã của nó như một cơn bão. Ngựa của nó nhanh hơn đại bàng. Khốn cho chúng ta, vì chúng ta sẽ bị tiêu diệt!
\v 14 Hãy làm sạch lòng ngươi khỏi sự gian ác, hỡi Giê-ru-sa-lem, để ngươi được cứu. Ngươi sẽ còn giữ những ý tưởng thâm hiểm nhất để phạm tội cho đến khi nào?
\v 15 Vì có tiếng đem tin tức từ Đan, và từ núi Ép-ra-im có tai họa.
\s5
\v 16 Hãy khiến các nước nghĩ đến điều này: Kìa, hãy thông báo cho Giê-ru-sa-lem rằng những kẻ bao vây sẽ đến từ một xứ xa xăm để hò hét tranh chiến các thành của Giu-đa.
\v 17 Chúng sẽ vây hãm như người giữ ruộng, vì nó đã nổi loạn nghịch lại Ta Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 18 cách cư xử và việc làm của ngươi đã khiến ngươi nhận lãnh những việc này. Đây sẽ là hình phạt dành cho ngươi. Thật khủng khiếp! Nó sẽ đánh vào lòng ngươi.
\s5
\v 19 Tôi thật đau lòng! Tôi thật đau lòng! Lòng tôi thật đau đớn. Lòng tôi thật bối rối. Tôi không thể im lặng vì tôi nghe có tiếng tù và, là tiếng báo chiến trận.
\v 20 Thảm họa chồng thêm thảm họa như đã công bố, vì cả xứ bỗng nhiên bị tàn phá. Chúng bất ngờ tàn phá nhà tạm và lều của tôi.
\s5
\v 21 Tôi sẽ còn thấy cờ hiệu cho đến khi nào? Tôi sẽ còn nghe tiếng tù và không?
\v 22 Vì dân Ta thật dại dột họ không biết Ta. Họ là một dân thờ thần tượng và không có hiểu biết. Họ khéo làm ác, nhưng không biết làm việc thiện.
\s5
\v 23 Tôi nhìn xứ này, và đã thấy! Đó là một xứ vô hình và trống không. Xứ ấy không có ánh sáng từ trời.
\v 24 Tôi xem các ngọn núi. Kìa, chúng rúng động, mọi đồi đều rúng động.
\v 25 Tôi xem. Kìa, chẳng có ai cả, mọi loài chim trời đều đã bỏ trốn.
\v 26 Tôi nhìn. Kìa, các vườn cây ăn quả đều thành đồng hoang và các thành phố đều bị tàn lụi trước mặt Đức Giê-hô-va, trước cơn thạnh nộ của Ngài.”
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Cả xứ sẽ trở nên điêu tàn, nhưng Ta sẽ không hoàn toàn hủy diệt chúng.
\v 28 Vì vậy, xứ ấy sẽ than khóc, các tầng trời sẽ trở nên tối tăm. Vì Ta đã công bố ý định của Ta; Ta sẽ không lần lữa; Ta sẽ không đổi ý.
\v 29 Mỗi thành sẽ chạy trốn khi nghe tiếng kỵ binh và cung của xạ thủ; chúng sẽ chạy vào rừng. Thành nào thành nấy đều leo lên những hốc đá. Các thành sẽ bị bỏ hoang, vì sẽ không ai cư trú tại đó.
\s5
\v 30 Bấy giờ ngươi đã trở nên hoang vu, ngươi sẽ làm gì? Vì dù ngươi mặc quần áo màu đỏ tươi, trang điểm bằng trang sức vàng, kẻ mắt cho to đậm, nhưng những kẻ thèm muốn ngươi giờ đây từ bỏ ngươi. Trái lại, chúng sẽ cố đoạt mạng ngươi.
\v 31 Tôi nghe tiếng kêu đau đớn, kiệt sức của người sanh con đầu lòng, tiếng của con gái Si-ôn. Nó thở hổn hển. Nó đưa kêu gào: Khốn cho tôi! Tôi nản lòng bởi bọn sát nhân. ’”
\s5
\c 5
\p
\v 1 ”Hãy đi khắp các đường phố Giê-ru-sa-lem; cũng hãy tìm kiếm ở các quảng trường trong thành ấy. Hãy xem và nghĩ về điều này: Nếu ngươi có thể tìm được người nào hay bất cứ ai làm việc đúng đắn và trung thực, thì Ta sẽ tha thứ Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Thậm chí nếu chúng nói: Có Đức Giê-hô-va hằng sống chứng giám, thì chúng đang thề dối. ”
\v 3 Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng phải mắt Ngài không tìm sự thành tín sao? Ngài đánh họ, nhưng họ không cảm thấy đau đớn. Ngài hoàn toàn đánh bại họ, nhưng họ vẫn không tuân thủ kỷ luật. Họ chai mặt hơn đá, vì họ không chịu ăn năn.
\s5
\v 4 Vậy tôi nói: “Chắc chắn đây chỉ là người nghèo. Họ ngu dại, vì họ không biết đường lối Đức Giê-hô-va, cũng không biết giới mạng của Đức Chúa Trời.
\v 5 Tôi sẽ đi đến những người sang trọng và công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời cho họ, vì ít nhất thì họ biết đường lối Đức Giê-hô-va, tức là giới mạng của Đức Chúa Trời họ.
\v 6 Vậy, một con sư tử từ bụi cây sẽ vồ lấy họ. Một con sói từ A-ra-ba sẽ cắn xé họ. Một con báo sẽ rình các thành của họ. Hễ ai ra khỏi thành sẽ bị xé xác. Vì sự vi phạm của họ gia tăng. Hành động thất tín của họ nhiều quá đỗi.
\s5
\v 7 Làm sao Ta tha thứ dân này được? Các con trai ngươi đã từ bỏ Ta và lấy danh những kẻ không phải là thần mà thề. Ta đã nuôi chúng mập béo, nhưng chúng phạm tội ngoại tình và chen nhau đến nhà đĩ điếm.
\v 8 Chúng như ngựa động đực. Chúng đi rong tìm kiếm bạn tình. Ai nấy đều hí theo vợ người lân cận mình.
\v 9 Vậy Ta chẳng nên trừng phạt chúng sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta chẳng nên báo thù một quốc gia như vậy sao?
\s5
\v 10 Hãy đi lên các dãy nho của nó và phá hủy. Nhưng chớ hoàn toàn hủy diệt chúng. Hãy chặt những cây nho của chúng, vì các cây nho đó không đến từ Đức Giê-hô-va.
\v 11 Vì nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa hoàn toàn phản bội Ta Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 12 chúng đã từ bỏ Ta. Chúng nói: Ngài không có thật. Hoạn nạn sẽ không xảy đến trên chúng ta, chúng ta cũng sẽ không thấy gươm hoặc đói kém.
\v 13 Vì các tiên tri đã trở nên vô ích như gió và chẳng còn ai để rao báo sứ điệp của Đức Giê-hô-va cho chúng ta. Hãy để sự đe dọa giáng trên chúng. ’”
\s5
\v 14 Vậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân phán như vầy: “Vì ngươi đã nói vậy, kìa, Ta sẽ đặt Lời Ta trong miệng ngươi. Lời ấy sẽ như lửa, và dân này sẽ như gỗ! Lửa sẽ thiêu đốt chúng.
\v 15 Kìa! Ta sẽ đem một nước từ phương xa đến nghịch lại nguoi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên Đức Giê-hô-va phán vậy đây là một nước trường cửu, một nước có từ đời xưa! Đó là một nước mà ngươi chẳng biết tiếng của nó, ngươi cũng chẳng hiểu chúng nói gì.
\s5
\v 16 Bao tên của nó như cửa mồ mở rộng. Chúng là lính chiến.
\v 17 Mùa gặt của ngươi sẽ bị tàn phá, con trai con gái của ngươi cũng vậy, kể cả thức ăn của ngươi. Chúng sẽ ăn bầy chiên và gia súc ngươi; chúng sẽ ăn trái nho và trái vả của ngươi. Chúng sẽ dùng gươm triệt hạ các thành trì kiên cố của ngươi mà ngươi đã nương dựa.
\s5
\v 18 Nhưng ngay cả trong những ngày ấy Đức Giê-hô-va phán như vầy Ta không có ý định diệt ngươi hoàn toàn.
\v 19 Việc đó sẽ xảy đến khi dân ngươi, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, nói: Sao Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta giáng những việc này trên chúng ta? thì khi đó ngươi, Giê-rê-mi, sẽ nói với chúng: Vì ngươi đã lìa bỏ Đức Giê-hô-va và thờ lạy các thần của dân ngoại trong xứ mình, nên ngươi cũng sẽ hầu hạ khách lạ trong xứ chẳng phải của ngươi.
\s5
\v 20 Hãy báo tin này cho nhà Gia-cốp và loan tin trong khắp Giu-đa. Hãy nói:
\v 21 Hãy nghe, hỡi dân ngu dại! Vì thần tượng không có ý chí; chúng có mắt nhưng không thể thấy. Chúng có tai nhưng không nghe.
\v 22 Đức Giê-hô-va phán như vầy ngươi không sợ Ta hoặc run sợ trước mặt Ta sao? Ta đã lấy cát làm biên giới cho biển cả, một giới mạng đời đời không thể nào vượt qua được ngay cả khi biển cả nổi sóng tới lui cũng không ảnh hưởng. Ngay cả khi biển gầm sóng, chúng cũng không vượt qua được.
\s5
\v 23 Nhưng dân này cứng lòng. Chúng phản nghịch và lìa bỏ Ta.
\v 24 Vì chúng không tự nhủ: “Chúng ta hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng ban mưa mưa đầu mùa và mưa cuối mùa vào đúng thời điểm, Ngài dành cho chúng ta những tuần lễ cố định để thu hoạch. ”
\v 25 Tội lỗi các ngươi đã ngăn những điều này. Tội các ngươi đã ngăn điều tốt lành đến trên các ngươi.
\s5
\v 26 Vì trong dân Ta có những kẻ gian ác. Chúng nằm rình như kẻ bắt chim; chúng đặt bẫy và bắt dân sự.
\v 27 Như một chiếc lồng đầy ắp chim, nhà của chúng cũng đầy ắp sự giả dối. Vậy chúng lớn mạnh và giàu sang.
\v 28 Chúng trở nên mập béo; chúng đẫy đà. Tội ác của chúng thật quá nhiều. Chúng không bênh vực duyên cớ của dân sự, hoặc duyên cớ của người mồ côi. Chúng thịnh vượng mặc dù chúng không đối xử công bằng với người thiếu thốn.
\v 29 Ta chẳng nên trừng phạt chúng vì những điều này sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ không báo thù một quốc gia như vậy sao?
\s5
\v 30 Sự tàn ác và kinh khiếp đã xảy ra trong xứ.
\v 31 Các tiên tri nói tiên tri giả, và thầy tế lễ cai trị bằng quyền lực của riêng họ. Dân ta yêu mến đường lối này, nhưng cuối cùng thì điều gì sẽ xảy ra?
\s5
\c 6
\p
\v 1 Hỡi dân Ben-gia-min, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem để được an toàn. Hãy thổi kèn ở Tê-cô-a. Hãy giương cao cờ ở Bết Ha-kê-rem, vì sự ác ôn đang đến từ phương bắc; một sự tiêu diệt lớn đang đến.
\v 2 Con gái Si-ôn, một ái nữ xinh đẹp và thanh nhã, sẽ bị tiêu diệt.
\v 3 Những người chăn chiên và bầy chiên sẽ đến với chúng; họ sẽ dựng lều chung quanh nàng; mỗi người sẽ chăn bầy bằng chính tay mình.
\s5
\v 4 Các vua sẽ nói: “Hãy dâng mình cho các thần để chiến trận. Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đánh vào buổi trưa. Thật tệ khi chiều đã gần tới, bóng tối đang dần buông.
\v 5 Nhưng chúng ta hãy đánh vào ban đêm và hủy diệt các pháo đài của nàng.”
\s5
\v 6 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy chặt cây của nó, hãy đắp chiến hào công phá Giê-ru-sa-lem. Đây đúng là thành phải bị đánh, vì nó đầy dẫy sự đàn áp.
\v 7 Như giếng luôn có nước, thành này luôn sản sinh điều ác. Người ta nghe có bạo lực và hỗn loạn ở đó. Đau khổ và tai họa thường xảy ra không ngớt trước mặt Ta.
\v 8 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy chấp nhận kỷ luật, nếu không Ta sẽ từ bỏ ngươi và khiến ngươi hoang phế, trở thành một xứ hoang vu. ’”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Chúng chắc chắn sẽ mót những kẻ còn sót lại ở Y-sơ-ra-ên như trong vườn nho. Hãy giơ tay ra mót nho trong vườn.
\v 10 Ta nên nói và cảnh cáo ai để họ nghe? Kìa! Tai chúng chưa được cắt bì; chúng không thể chú ý! Kìa! Lời của Đức Giê-hô-va đã đến trên chúng đặng sửa trị chúng, nhưng chúng không muốn.”
\s5
\v 11 Nhưng tôi đầy cơn giận của Đức Giê-hô-va. Tôi mệt vì phải nín lặng. Ngài phán với tôi: “Hãy trút xuống trên trẻ con ngoài đường và trên những nhóm nam thanh nữ tú. Vì cả chồng và vợ đều sẽ bị bắt đem đi; kể cả những người cao tuổi cũng vậy.
\v 12 Nhà của chúng sẽ bị trao cho người khác, kể cả ruộng vườn và vợ của chúng. Vì chính tay Ta sẽ đánh cư dân trong xứ - Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 13 từ kẻ nhỏ cho đến người lớn ai nấy đều tham lợi bất chính. Từ tiên tri đến thầy tế lễ - ai nấy đều hành động gian xảo.
\v 14 Nhưng chúng chữa lành sự tan vỡ của dân Ta thật sơ sài, chúng nói: Bình an! Bình an! khi chẳng có sự bình an.
\v 15 Chúng có xấu hổ khi phạm tội ghê tởm không? Chúng không xấu hổ đâu; chúng không kinh nghiệm lòng khiêm nhường. Vậy chúng sẽ ngã rạp cùng với những kẻ ngã rạp mà Ta đoán phạt. Chúng sẽ bị phá đổ, ” Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đứng ở nơi giao lộ và nhìn; hãy hỏi xem các đường mòn cũ. Đường lối tốt đẹp ở đâu? Sau đó hãy tiếp tục đi và tìm nơi nghỉ ngơi. Nhưng chúng nói: Chúng tôi không đi.
\v 17 Ta đã đặt những người canh gác để lắng nghe tiếng kèn. Nhưng chúng nói: Chúng tôi không đi.
\v 18 Vậy, hỡi các dân, hãy nghe! Kìa, hỡi những người làm chứng, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng.
\v 19 Hỡi đất, hãy nghe! Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên dân này vì hậu quả của tư tưởng chúng. Chúng không chú ý đến lời hoặc luật pháp của Ta, nhưng chúng từ bỏ.”
\s5
\v 20 “Nhũ hương từ Sê-ba đem đến có ý nghĩa gì với Ta? Những của lễ thiêu có mùi thơm từ phương xa có ích gì? Ta không nhận của lễ thiêu của ngươi cũng như vật tế lễ của ngươi.
\v 21 Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đặt một chướng ngại vật trước mặt dân này. Chúng sẽ vấp ngã cả cha và con cái. Cư dân và người lân cận của chúng cũng sẽ bị hư mất.
\v 22 Đức Giê-hô-va phán vầy: Kìa, một dân từ phương bắc đang đến. Vì một nước lớn đã được dấy lên từ một xứ xa xôi.
\s5
\v 23 Chúng sẽ nhặt cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như biển gầm thét, chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, hỡi con gái Si-ôn. ’”
\v 24 Chúng tôi đã nghe tin về chúng. Tay chúng tôi bủn rủn. Tội lỗi bao vây chúng tôi như người nữ đau đẻ.
\s5
\v 25 Chớ ra đồng, chớ đi ngoài đường, vì gươm của kẻ thù và sự kinh khiếp ở khắp nơi.
\v 26 Hỡi con gái của dân Ta, hãy mặc áo vải gai và lăn mình trong tro bụi tang lễ như vừa mất con một. Hãy làm một đám tang cay đắng cho ngươi, vì kẻ hủy diệt sẽ thình lình đến trên ngươi.
\s5
\v 27 “Hỡi Giê-rê-mi, Ta đã dựng nên ngươi, là người thử luyện dân Ta như người thử kim loại, ngươi sẽ xem xét và thử đường lối của chúng.
\v 28 Tất cả chúng đều là dân cứng đầu nhất, chúng đi quanh quẩn giết người khác. Tất cả chúng đều như đồng và sắt, hành động đồi bại.
\v 29 Tiếng rầm vang bị lửa làm cháy sém; chì tan chảy trong lửa. Việc tôi luyện vẫn diễn ra giữa chúng, nhưng vô ích, vì cái ác không bị loại bỏ.
\v 30 Chúng sẽ được gọi là bạc bị loại, vì Đức Giê-hô-va đã loại chúng.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy đứng nơi cổng vào nhà Đức Giê-hô-va và công bố lời này! Hãy nói: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Giu-đa, những người vào các cổng này để thờ lạy Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy sửa đường lối ngươi và những việc làm của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi tiếp tục sống ở nơi này.
\v 4 Đừng tin những lời giả dối và nói rằng: “Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 5 Vì nếu các ngươi hoàn toàn sửa chữa đường lối và việc làm của các ngươi; nếu các ngươi thực thi công lý trọn vẹn giữa người và người lân cận của người đó
\v 6 nếu các ngươi không bóc lột người cư ngụ trong xứ, người mồ côi, hoặc người góa bụa và không làm đổ huyết vô tội trong nơi này, và không bước theo các thần khác để làm hại mình
\v 7 thì Ta sẽ cho các ngươi ở trong nơi này, trong xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi từ đời xưa và đời đời.
\s5
\v 8 Này! Các ngươi cậy những lời giả dối mà chẳng có ích gì.
\v 9 Các ngươi có trộm cắp, giết người, và phạm tội tà dâm không? Các ngươi có thề dối và dâng hương cho Ba-anh và đi theo các thần khác là những thần mà các ngươi chẳng biết không?
\v 10 Sau đó, các ngươi có đến và đứng trước mặt Ta trong nhà này, nhân danh Ta và nói rằng: “Chúng tôi được cứu, ” để các ngươi có thể làm mọi việc gớm ghiếc này không?
\v 11 Có phải nhà này, là nhà mang danh Ta, bị các ngươi xem là hang trộm cướp sao? Nhưng kìa, Ta đã thấy điều đó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 12 Vậy, hãy đến chỗ của Ta tại Si-lô, là nơi Ta để danh Ta ngự tại đó từ ban đầu, và xem việc Ta đã làm cho nó vì cớ tội ác của Y-sơ-ra-ên, dân Ta.
\v 13 Bây giờ, vì các ngươi đã làm những việc này Ta đã nói với các ngươi hết lần này đến lần khác, nhưng các ngươi chẳng nghe. Ta đã mời gọi các ngươi, nhưng các ngươi không trả lời.
\v 14 Vậy, điều Ta đã làm tại Si-lô, Ta cũng sẽ làm với nhà này, là nhà được gọi bằng danh Ta, nhà mà các ngươi tin, là nơi mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi.
\v 15 Vì Ta sẽ vứt bỏ các ngươi khỏi trước mắt Ta như Ta đã vứt bỏ hết thảy anh em các ngươi, tức là tất cả con cháu Ép-ra-im.
\s5
\v 16 Còn ngươi, Giê-rê-mi, chớ cầu thay cho dân này, và chớ khóc lóc van xin hay khẩn nguyện cho chúng, chớ cầu xin Ta, vì Ta sẽ không nghe ngươi đâu.
\v 17 Ngươi không thấy việc chúng làm trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố ở Giê-ru-sa-lem sao?
\v 18 Trẻ con đi gom củi và cha nhóm lửa! Phụ nữ nhào bột làm bánh dâng cho nữ thần của các từng trời và đổ của lễ quán cho các thần khác để chọc giận Ta.
\s5
\v 19 Có phải chúng thật đang chọc giận Ta không? Đức Giê-hô-va phán vậy chẳng phải chúng nó tự chọc mình, để chuốc lấy sự hổ thẹn sao?
\v 20 Vậy, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta sẽ đổ xuống trên nơi này, trên cả loài người và thú vật, trên cây cối ở ruộng vườn và bông trái trên đất. Nó sẽ đốt cháy và chẳng bao giờ bị dập tắt.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vầy: Hãy thêm của lễ thiêu của các ngươi vào các lễ vật khác và ăn thịt đi.
\v 22 Vì khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai cập, Ta không đòi hỏi thứ gì ở chúng cả. Ta không truyền lệnh cho chúng về của lễ thiêu và của tế lễ.
\v 23 Ta chỉ truyền cho chúng lệnh này: “Hãy lắng nghe tiếng Ta, rồi Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi và các ngươi sẽ là dân Ta. Vậy hãy bước đi trong mọi đường lối mà Ta truyền cho các ngươi, để các ngươi được phước.”
\s5
\v 24 Nhưng chúng không nghe và cũng không chú tâm. Chúng sống theo những mưu toan cứng cỏi từ lòng gian ác của chúng, chúng đi thụt lùi chứ không tiến về trước.
\v 25 Kể từ ngày tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập cho đến ngày nay, Ta đã sai mọi tôi tớ, tiên tri của Ta, đến cùng các ngươi. Ta vẫn sai họ ra đi.
\v 26 Nhưng chúng không nghe Ta. Chúng không chú tâm. Trái lại, chúng cứng cổ. Chúng gian ác hơn tổ phụ chúng.
\s5
\v 27 Vậy hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không nghe ngươi. Hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không trả lời ngươi.
\v 28 Hãy nói với chúng: “Đây là một dân không nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng và không nhận lấy kỷ luật. Lẽ thật bị triệt phá và bị dứt khỏi miệng chúng.
\s5
\v 29 Hãy cắt tóc và cạo đầu ngươi, hãy vứt tóc ngươi đi. Hãy hát một bài ca tang chế trên các nơi trơ trọi. Vì Đức Giê-hô-va đã loại bỏ và từ bỏ dòng dõi này trong cơn giận Ngài.
\v 30 Vì con cái Giu-đa đã làm điều ác trước mặt Ta Đức Giê-hô-va phán vậy Chúng đặt những thứ gớm ghiếc trong nhà, là nơi danh Ta được rao truyền, và làm ô uế nó.
\s5
\v 31 Chúng xây điện thờ Tô-phết ở thung lũng Ben Hin-nôm. Chúng thiêu con trai và con gái mình qua lửa đây là việc mà Ta không truyền cho chúng. Ta không bao giờ nghĩ đến việc đó.
\v 32 Vậy hãy xem, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy khi nó sẽ không còn được gọi là Tô-phết hay thung lũng Ben Hin-nôm nữa. Nó sẽ là thung lũng Tàn sát; chúng sẽ chôn thây ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ.
\s5
\v 33 Thi hài của dân này sẽ là thức ăn cho chin trời và các loài thú trên đất, sẽ chẳng có ai xua đuổi chúng.
\v 34 Ta sẽ đặt dấu chấm hết cho các thành ở Giu-đa và các đường phố ở Giê-ru-sa-lem, những tiếng tung hô và reo mừng, tiếng của chàng rể và nàng dâu; vì xứ ấy sẽ trở nên hoang vu.”
\s5
\c 8
\p
\v 1 “Khi đó Đức Giê-hô-va phán như vầy người ta sẽ đào bới nơi mồ những hài cốt của các vua Giu-đa và các quan, hài cốt của các thầy tế lễ và tiên tri, và hài cốt của cư dân Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Họ sẽ phơi chúng dưới mặt trời, mặt trăng và hết thảy những ngôi sao trên trời; là những vật mà họ đã đi theo và tìm kiếm đặng thờ lạy. Các hài cốt ấy sẽ không được gom lại hoặc chôn cất nữa. Chúng sẽ như phân trên mặt đất.
\v 3 Ở những nơi còn lại mà Ta đã đuổi chúng, chúng sẽ chọn chết hơn là sống, tức là những kẻ còn sót lại của quốc gia xấu xa này Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
\s5
\v 4 Hãy nói với chúng: Đức Giê-hô-va phán vầy: Có ai vấp ngã mà không đứng dậy không? Có ai lạc lối mà không cố tìm đường về không?
\v 5 Sao dân Giê-ru-sa-lem này quay lưng bỏ đi miệt mài trong sự bất trung vậy? Chúng cứ bội bạc và không chịu ăn năn.
\s5
\v 6 Ta đã chú ý và lắng nghe, nhưng chúng không nói thật; không ai buồn lòng về sự gian ác của mình, không ai nói rằng: “Tôi đã làm gì? ” Tất cả chúng nó đi theo đường riêng của mình, như ngựa đực xông ra trận mạc.
\v 7 Ngay cả con cò trên trời cũng biết đúng mùa; con bồ câu, chim én, và chim nhạn cũng vậy. Chúng di cư vào đúng thời điểm, nhưng dân Ta không biết giới mạng của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 8 Sao các ngươi nói: “Chúng tôi khôn ngoan! Luật pháp của Đức Giê-hô-va ở cùng chúng ta”? Thật vậy, hãy xem! Ngòi bút giả dối của các thầy thông giáo đã tạo nên sự lừa dối.
\v 9 Những kẻ khôn ngoan này sẽ hổ thẹn. Chúng mất hết can đảm và bị sập bẫy. Kìa! Chúng chối bỏ lời của Đức Giê-hô-va, vậy sự khôn ngoan của chúng có ích gì?
\v 10 Vì vậy, Ta sẽ trao vợ của chúng cho người khác, và ruộng vườn của chúng cho những kẻ sẽ sở hữu, vì từ kẻ nhỏ nhất cho đến người già nhất, tất cả đều cực kỳ tham lam! Từ tiên tri đến thầy tế lễ, tất cả đều gian dối.
\s5
\v 11 Chúng đã điều trị vết thương cho con gái dân Ta như thể đó là một vế thương tầm thường. Chúng nói: “Bình an, Bình an, ” nhưng chẳng có bình an.
\v 12 Chúng có hổ thẹn khi chúng phạm những việc gớm ghiếc không? Chúng không hổ thẹn. Chúng không khiêm nhường. Vậy, chúng sẽ vấp ngã trong thời điểm đoán phạt, chung với những kẻ đã vấp ngã rồi. Chúng sẽ bị lật đổ, Đức Giê-hô-va phán.
\v 13 Ta sẽ loại bỏ chúng hoàn toàn Đức Giê-hô-va phán vậy cây nho sẽ chẳng có trái, cây vả cũng sẽ không có trái. Lá sẽ tàn héo, và những gì Ta đã ban cho chúng đều sẽ phôi phai.
\s5
\v 14 Sao chúng ta đứng đây? Hãy đến; chúng ta hãy đến các thành kiên cố, chúng ta sẽ im lặng và chết tại đó. Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ bắt chúng ta phải im. Ngài sẽ khiến chúng ta uống thuốc độc, vì chúng ta đã phạm tội nghịch với Ngài.
\v 15 Chúng ta hy vọng có bình an, nhưng sẽ không có điều gì tốt lành. Chúng ta mong chờ thời điểm chữa lành, nhưng kìa, sẽ có sự kinh khiếp.
\s5
\v 16 Người ta nghe tiếng hí của ngựa đực từ Đan. Khắp đất rúng động khi nghe tiếng hí của chiến mã. Chúng sẽ đến, thiêu nuốt xứ và sự giàu sang của nó, thành phố và cư dân trong đó.
\v 17 Vì kìa, Ta sẽ sai rắn đến giữa các ngươi, rắn cực độc mà các ngươi không thể dụ được. Chúng sẽ cắn các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy. ’”
\s5
\v 18 Nỗi sầu khổ của tôi không dứt, lòng tôi mệt mỏi.
\v 19 Kìa! Có tiếng kêu la của con gái dân Ta từ một nơi rất xa! Chẳng phải Đức Giê-hô-va ngự tại Si-ôn sao? Hoặc chẳng phải Ngài là vua của họ sao? Sao chúng xúc phạm Ta bằng tượng chạm và các thần ngoại bang vô dụng của chúng?
\s5
\v 20 Mùa gặt đã qua, mùa hè đã hết. Nhưng chúng ta chưa được cứu.
\v 21 Còn tôi thì đau đớn vì sự xúc phạm của con gái dân tôi. Tôi xót xa vì những việc kinh khủng đã xảy đến trên họ; tôi mất tinh thần.
\v 22 Ở Ghi-lê-át không còn thuốc sao? Ở đó không có bác sĩ sao? Sao con gái dân tôi không được chữa lành?
\s5
\c 9
\p
\v 1 Ước gì đầu tôi có thể tuôn nước, và mắt tôi là nguồn lụy! Vì tôi muốn than khóc cả ngày và đêm cho những người ở giữa con gái dân tôi đã bị giết.
\v 2 Ước gì có người cho tôi một chỗ trọ dành cho lữ khách trong hoang mạc, là nơi tôi có thể đi để từ bỏ dân tôi. Ước gì tôi có thể từ bỏ họ, vì họ đều là những người ngoại tình, là phường phản bội!
\v 3 Đức Giê-hô-va phán: “Chúng nói những điều giả dối bằng lưỡi, là cung giả dối của chúng, chúng ở trong xứ là mạnh lớn nhưng chẳng trung thành. Chúng liên tục làm điều ác. Chúng không biết Ta.”
\s5
\v 4 Ai nấy phải đề phòng người lân cận mình và đừng tin vào anh em nào cả. Vì mỗi người anh em là kẻ lừa dối và mỗi người lân cận đều đi dạo nói lời vu khống.
\v 5 Ai nấy đều giễu cợt người lân cận mình và không nói lời chân thật. Lưỡi chúng dạy những điều dối trá. Chúng kiệt sức khi phạm tội.
\v 6 Ngươi sống giữa sự dối trá; bởi sự dối trá đó mà chúng không nhìn biết Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ thử chúng. Ta sẽ xem xét chúng. Nếu không thì Ta nên xử con gái dân Ta thế nào?
\v 8 Lưỡi chúng là mũi tên sắc nhọn; chúng nói sai sự thật. Lưỡi chúng nói sự bình an cho người lân cận, nhưng trong lòng chúng thì lập mưu gài bẫy.
\v 9 Ta chẳng nên phạt chúng vì cớ những việc này sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta chẳng nên báo trả một dân như vậy sao?
\s5
\v 10 Ta sẽ hát một bài ca buồn và than khóc về núi đồi, và một bài ca tang chế về những đồng cỏ. Vì chúng bị thiêu đốt đến nỗi không ai đi qua đó nữa. Chúng sẽ không còn nghe tiếng của bầy gia súc. Chin trời và thú vật thay thảy đều bỏ chạy.
\v 11 Vậy, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành đống hoang tàn, là nơi chó rừng đến ẩn náu. Ta sẽ khiến các thành của Giu-đa thành những nơi hoang phế chẳng có cư dân. ”
\v 12 Ai là người khôn ngoan để hiểu điều này? Miệng Đức Giê-hô-va phán cùng ai để người thuật lại điều ấy? Tại sao xứ trở nên tàn lụi? Nó bị phá hủy như hoang mạc, là nơi chẳng có ai đi ngang qua.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va phán: “Bởi vì chúng đã từ bỏ luật pháp Ta đặt trước mặt chúng, vì chúng không nghe tiếng Ta hoặc bước theo tiếng ấy.
\v 14 Vì chúng đi theo lòng cứng cỏi của chúng và thờ lạy Ba-anh như tổ phụ chúng đã dạy chúng.
\s5
\v 15 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến dân này ăn ngải cứu và uống nước độc.
\v 16 Ta sẽ rải chúng ra giữa các nước mà chúng không biết, tổ phụ chúng cũng không biết. Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến khi Ta hoàn toàn tiêu diệt chúng. ’”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Hãy nghĩ về điều này: Hãy mời những người khóc mướn đến. Hãy gọi những đàn bà khéo than khóc đến.
\v 18 Hãy để chúng nhanh chóng tới và hát một bài ai oán cho chúng ta, để chúng ta rơi lệ và tuôn tràn nước mắt.
\s5
\v 19 Vì có tiếng khóc than tại Si-ôn: Chúng ta bị phá hủy dường nào. Chúng ta rất xấu hổ, vì chúng ta đã bỏ xứ do họ đã phá hủy nhà chúng ta.
\v 20 Vậy, hỡi những người đàn bà, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va; hãy chú ý đến những sứ điệp do miệng Ngài phán. Hãy dạy con gái của các bà hát bài ca ai oán, và dạy cho những người nữ láng giềng một bài ca tang chế.
\s5
\v 21 Vì sự chết đã vào nhà chúng ta qua cửa sổ; nó vào trong cung điện của chúng ta. Nó hủy diệt con trẻ từ bên ngoài, và thanh niên trong các quảng trường thành phố.
\v 22 Hãy tuyên bố như vầy: Đây là lời phán của Đức Giê-hô-va thi thể của người ta sẽ ngã rạp như phân ngoài đồng, và như lúa đã cắt rồi mà còn bỏ tại đó, sẽ không ai đến gom chúng. ’”
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Người khôn ngoan chớ tự hào về sự khôn ngoan mình, chiến sĩ chớ tự hào về sức mạnh mình. Người giàu chớ tự hào về sự giàu có mình.
\v 24 Vì nếu ai tự hào về bất cứ điều gì, hãy tự hào rằng người đó có sự hiểu biết sâu sắc và biết Ta. Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thể hiện sự trung kiên, công lý và công bình trên đất. Vì Ta yêu thích những việc ấy Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 25 “Kìa, ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán như vầy là lúc Ta trừng phạt những kẻ được cắt bì chỉ trên thân thể.
\v 26 Ta sẽ phạt Ai Cập và Giu-đa, Ê-đôm, dân Am-môn, Mô-áp, và tất cả những dân cạo tóc, là dân sống trong hoang mạc. Vì tất cả những dân này là dân không được cắt bì, và hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên có một tấm lòng không được cắt bì.”
\s5
\c 10
\p
\v 1 “Hãy nghe lời Đức Giê-hô-va phán cùng ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ học theo các thói của các dân, và chớ sợ các dấu trên trời, vì các dân sợ những dấu này.
\s5
\v 3 Vì phong tục của các dân đều vô dụng. Người ta chặt cây trong rừng; thợ thủ công dùng búa mà đẽo.
\v 4 Sau đó chúng trang trí bằng bạc và vàng. Chúng lấy búa và đinh đóng vào để nó không ngã nhào.
\v 5 Các thần tượng này giống như bù nhìn giữa ruộng dưa chuột, vì chúng không nói được. Chúng phải được khiêng, vì chúng không thể đi. Chớ sợ chúng, vì chúng không thể giáng điều dữ, chúng cũng không thể làm phước. ’”
\s5
\v 6 Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng ai giống như Ngài. Ngài là lớn, danh Ngài có sức mạnh lớn lắm.
\v 7 Ai không sợ Ngài, lạy Vua của các nước? Vì Ngài đáng được như vậy, vì chẳng có ai như Ngài giữa người khôn ngoan của các nước hoặc giữa các vương quốc.
\s5
\v 8 Tất cả chúng đều như nhau, chúng ngu đần và ngu xuẩn, họ là môn đệ của các thần tượng chẳng là gì ngoại trừ làm bằng gỗ.
\v 9 Chúng đem bạc được dát từ Tạc-sơ, và vàng từ U-pha do thợ thủ công làm và được tinh chế. Y phục của chúng làm bằng vải xanh dương và đỏ tía. Tất cả những thứ này là sản phẩm của thợ khéo.
\v 10 Nhưng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chân thật. Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và vua đời đời. Đất rúng động khi Ngài giận, và các nước không thể chịu đựng cơn giận của Ngài.
\s5
\v 11 Ngươi hãy nói với chúng như vầy: “Các thần không dựng nên trời và đất sẽ bị diệt khỏi đất và khỏi các từng trời. ”
\v 12 Đấng dựng nên đất bằng quyền năng Ngài đã tạo lập thế gian bằng sự khôn ngoan Ngài và giương các từng trời bằng sự hiểu biết của Ngài.
\v 13 Tiếng của Ngài phát ra tiếng ầm ầm của nước trong các từng trời, Ngài ban sương giáng khắp đất. Ngài làm cho chớp theo mưa phát ra và sai gió ra từ kho Ngài.
\s5
\v 14 Ai nấy đều dốt nát và thiết hiểu biết. Thợ kim loại xấu hổ vì thần tượng của họ. Vì các hình tượng được đúc đều giả dối; chúng chẳng có sự sống.
\v 15 Chúng vô dụng, chúng là sản phẩm của những kẻ chế giễu; chúng sẽ bị phá hủy khi chúng bị trừng phạt.
\v 16 Nhưng Đức Chúa Trời, sản nghiệp của Gia-cốp, chẳng giống như vầy, vì Ngài là Đấng nắn lên tất cả. Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài; danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
\s5
\v 17 Hãy gom gói đồ của ngươi và rời khỏi xứ này, hỡi dân đang bị bao vây.
\v 18 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, lần này Ta sẽ quăng xa các dân trong xứ. Ta sẽ khiến chúng đau buồn, và chúng sẽ tỉnh biết.”
\s5
\v 19 Khốn cho tôi! Vì cớ xương tôi bị gãy, vết thương tôi bị nhiễm trùng. Vậy tôi nói: “Đây chắc chắn là nỗi thống khổ, nhưng tôi phải mang nó. ”
\v 20 Lều tôi bị hủy, dây lều của tôi bị đứt. Chúng đã bắt con tôi khỏi tôi, chúng nó không còn nữa. Không còn ai giương lều tôi hoặc căng màn tôi.
\s5
\v 21 Những người chăn chiên trở nên ngu dại. Họ không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, vì vậy họ không thành công; các bầy chiên của họ bị tản lạc.
\v 22 Có tin đồn rằng: “Kìa! Sự ấy đang đến! Một cơn động đất lớn đang đến từ phương bắc đặng khiến các thành của Giu-đa trở nên hoang tàn, là nơi ở của chó rừng.”
\s5
\v 23 Lạy Đức Giê-hô-va, con biết rằng đường lối con người chẳng phải đến từ họ. Không ai có thể sắp đặt các bước chân mình.
\v 24 Lạy Đức Giê-hô-va, xin kỷ luật con bằng công lý chứ không bởi cơn giận của Ngài, kẻo Ngài sẽ diệt con.
\v 25 Xin Chúa đổ cơn giận Ngài trên các dân không biết Ngài và trên các gia đình không kêu cầu danh Ngài. Vì chúng đã cắn xé Gia-cốp và nuốt ông ấy để phá hủy hoàn toàn và đánh đổ chỗ ở của ông ấy.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy nghe lời giao ước này, và hãy rao cho dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Hãy nói với chúng rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ai không nghe những lời của giao ước này thật đáng bị rủa sả.
\v 4 Đây là giao ước mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi ghi nhớ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, khỏi lò luyện sắt tan chảy. Ta đã phán: “Hãy nghe tiếng Ta và làm mọi điều như Ta đã truyền cho các ngươi, vì các ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi. ”
\v 5 Hãy vâng phục Ta hầu cho Ta giữ lời thề mà Ta đã thề cùng tổ phụ các ngươi, rằng Ta sẽ ban cho họ xứ đượm sữa và mật, là xứ mà các ngươi ngày nay đang cư ngụ. ” Sau đó, tôi, Giê-rê-mi, trả lời Ngài: “Vâng, thưa Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy công bố mọi điều này trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Hãy nói: Khá nghe những lời của giao ước này và thực hiện những lời ấy.
\v 7 Vì Ta đã truyền lệnh cho tổ phụ các ngươi từ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập cho đến tận bây giờ, Ta vẫn luôn răn bảo chúng rằng: “Hãy nghe tiếng Ta. ”
\v 8 Nhưng chúng không nghe cũng không chú ý. Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi của lòng dạ gian ác mình. Vậy Ta đã giáng trên họ mọi lời rủa sả trong giao ước mà Ta đã truyền. Nhưng chúng vẫn không vâng phục.”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va lại phán cùng tôi: “Có một âm mưu giữa dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Chúng đã hướng về những tội lỗi của tổ phụ chúng, là những kẻ từ chối nghe lời Ta nhưng bước theo các thần khác đặng thờ lạy chúng. Nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phá vỡ giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng.
\s5
\v 11 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Xem này, Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, chúng sẽ không thể thoát khỏi tai họa ấy.
\v 12 Các thành Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ đi kêu cầu các thần mà chúng đã dâng của lễ, nhưng những thần ấy chắc chắn sẽ không cứu chúng khi chúng gặp tai họa.
\v 13 Vì số các thần của ngươi bằng với số các thành của ngươi, hỡi Giu-đa. Ngươi đã tăng số các bàn thờ đáng xấu hổ của ngươi ở Giê-ru-sa-lem, là những bàn thờ dâng hương cho Ba-anh, bằng với số các đường phố của ngươi.
\s5
\v 14 Vậy hỡi Giê-rê-mi, ngươi chớ cầu thay cho dân này. Ngươi chớ than khóc hay cầu thay cho chúng. Vì Ta sẽ không nghe khi chúng kêu cầu Ta trong cơn tai họa mình.
\v 15 Tại sao dân yêu dấu của Ta, là dân có quá nhiều ý định xấu, lại ở trong nhà Ta? Vì thịt dành cho các của tế lễ của ngươi không thể cứu ngươi vì ngươi đã vui mừng khi làm điều ác.
\v 16 Khi xưa, Đức Giê-hô-va gọi các ngươi là cây ô-liu sum suê, đẹp đẽ và sai trái tốt. Nhưng Ngài đã đốt lửa nơi cây ấy như tiếng ầm ầm của cơn bão; các nhánh nó sẽ gãy.
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đấng đã trồng ngươi, đã tuyên phán giáng phạt tai họa trên ngươi vì những việc ác mà nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phạm chúng đã chọc giận Ta bằng việc cúng cho Ba-anh. ’”
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va bày tỏ cho tôi những điều này, vì vậy tôi biết chúng. Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã cho tôi thấy những việc làm của họ.
\v 19 Tôi như con chiên hiền lành bị dẫn đến hàng làm thịt. Tôi không biết chúng đã lập mưu hại tôi: “Chúng ta hãy diệt cây ấy cùng với trái của nó! Chúng ta hãy đốn nó khỏi đất của người sống để danh Ngài sẽ không còn được nhớ nữa. ”
\v 20 Đức Giê-hô-va vạn quân là quan xét công bình, Ngài xem xét tấm lòng và tâm trí. Tôi sẽ thấy sự báo thù của Ngài trên chúng, vì tôi đã trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài.
\s5
\v 21 Vậy, Đức Giê-hô-va phán về dân A-na-tốt, là dân tìm kiếm mạng sống ngươi: “Chúng nói: Ngươi chớ nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi.
\v 22 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt chúng. Những kẻ trai trẻ cường tráng sẽ chết bởi gươm. Con trai và con gái chúng sẽ chết bởi đói kém.
\v 23 Sẽ chẳng còn ai được sống, vì Ta sẽ giáng tai họa trên dân A-na-tốt, vào năm chúng bị trừng phạt. ’”
\s5
\c 12
\p
\v 1 Lạy Đức Giê-hô-va, bất cứ khi nào con tranh luận cùng Ngài, Ngài cũng đúng. Chắc chắn con phải nói cho Ngài biết lý do con kêu nài: Sao đường lối của kẻ ác được thành công? Tất cả những kẻ vô đạo đều thành công.
\v 2 Ngài vun trồng chúng và chúng đâm rễ. Chúng cứ sản sinh bông trái. Miệng chúng nó thì gần Ngài, nhưng lòng chúng nó thì xa cách Ngài.
\s5
\v 3 Nhưng chính Ngài biết con, lạy Đức Giê-hô-va. Ngài nhìn thấy con và xem xét lòng con. Xin Chúa dẫn chúng đi như chiên bị dẫn đến lò mổ. Xin Chúa để riêng chúng cho ngày bị mổ thịt.
\v 4 Đất sẽ than khóc bao lâu nữa, cỏ ngoài đồng sẽ khô héo đến bao giờ vì cớ lòng gian ác của cư dân nó? Các loài thú và chim đều bị cất đi. Thật vậy, chúng nói: “Đức Chúa Trời không biết việc gì sẽ xảy đến với chúng ta.”
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán: “Hỡi Giê-rê-mi, nếu ngươi chạy đua với người chạy bộ mà ngươi còn đuối sức, thì làm sao ngươi có thể chạy đua với ngựa? Nếu ngươi vấp ngã trong xứ đang yên ổn, yên bình, làm sao ngươi đối phó được ở những bụi cây dọc sông Giô-đanh?
\v 6 Ngay cả anh em và gia đình cha ngươi phản bội ngươi và kịch liệt tố cáo ngươi. Chớ tin cậy chúng, thậm chí nếu chúng nói lời tử tế với ngươi.
\s5
\v 7 Ta đã bỏ nhà Ta; Ta đã bỏ cơ nghiệp Ta. Ta đã phó dân yêu dấu của Ta vào tay kẻ thù nghịch nó.
\v 8 Cơ nghiệp Ta như sư tử ẩn mình trong bụi cây; nó gầm thét nghịch lại Ta, cho nên Ta ghét nó.
\v 9 Cơ nghiệp của Ta như con linh cẩu, và chim săn mồi vây quanh trên đầu nó. Hãy đi, tập hợp tất cả các loài thú đồng, cho chúng cắn nuốt đi.
\s5
\v 10 Nhiều người chăn chiên đã hủy phá vườn nho Ta. Chúng giẫm đạp sản nghiệp xứ của Ta; chúng biến chỗ đất vui thích của Ta thành nơi hoang mạc, một nơi tan hoang.
\v 11 Chúng khiến nó trở nên một nơi tan hoang. Ta than khóc vì nó; nó bị tan hoang. Khắp xứ đều trở nên hoang tàn, vì không ai còn nhớ nó nữa.
\s5
\v 12 Những kẻ hủy diệt đến trên các nơi trơ trọi trong hoang mạc, vì gươm của Đức Giê-hô-va tàn phá từ đầu này đến đầu kia trong xứ. Chẳng có loài xác thịt nào được an toàn trong xứ.
\v 13 Chúng gieo lúa mì nhưng gặt bụi gai. Chúng nhọc công nhưng chẳng đạt được gì. Vậy hãy xấu hổ về của kiếm được của các ngươi vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán vậy với những người lân cận tôi, là những kẻ gian ác đánh sản nghiệp mà tôi đã ban cho họ: “Kìa, Ta là Đấng sẽ nhổ chúng khỏi đất, Ta sẽ bứng nhà Giu-đa khỏi chúng.
\v 15 Sau khi Ta đã bứng các nước ấy, Ta sẽ thương xót chúng và đem chúng trở về; Ta sẽ đem chúng về lại sản nghiệp và xứ của chúng.
\s5
\v 16 Nếu các nước ấy cẩn thận học hỏi đường lối của dân Ta, nhân danh Ta mà thề rằng Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống! y như chúng đã dạy dân Ta nhân danh Ba-anh của chúng mà thề, thì chúng sẽ được vững lập giữa dân Ta.
\v 17 Nhưng nếu chẳng ai lắng nghe, Ta sẽ bứng nước ấy. Nó chắc chắn sẽ bị nhổ và bị diệt Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy đi mua một đai lưng bằng vải gai mịn và đeo nó quanh thắt lưng, nhưng chớ dầm trong nước. ”
\v 2 Vậy, tôi mua một đai lưng như Đức Giê-hô-va đã truyền, rồi tôi quấn quanh hông tôi.
\v 3 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán với tôi lần thứ nhì,
\v 4 “Hãy lấy đai lưng mà ngươi đã mua hiện đang ở trên hông ngươi, rồi đến Ơ-phơ-rát. Hãy giấu trong một kẽ đá.”
\s5
\v 5 Vậy, tôi đi giấu nó ở Ơ-phơ-rát như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 6 Sau nhiều ngày, Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy trở lại Ơ-phơ-rát, lấy đai lưng mà Ta đã bảo ngươi đem giấu. ”
\v 7 Vậy, tôi trở lại Ơ-phơ-rát và đào cái lưng mà tôi đã giấu. Nhưng kìa! Đai lưng bị mục; nó chẳng còn nguyên vẹn nữa.
\s5
\v 8 Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va lại phán với tôi rằng:
\v 9 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, Ta sẽ đánh đổ sự ngạo mạn của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Dân gian ác này không chịu nghe lời Ta, sống theo lòng cứng cỏi, thờ lạy và quỳ lạy trước các thần khác chúng sẽ như chiếc đai lưng vô dụng này.
\v 11 Vì như đai lưng đeo quanh hông, Ta đã buộc cả nhà Y-sơ-ra-ên và cả nhà Giu-đa quanh hông Ta Đức Giê-hô-va phán vậy để chúng làm dân Ta, đem lại cho Ta danh tiếng, sự ngợi khen, và tôn kính. Nhưng chúng chẳng lắng nghe Ta.
\s5
\v 12 Do đó, ngươi hãy bảo chúng: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Bình sẽ đầy rượu. Chúng sẽ hỏi ngươi: Bộ chúng tôi không biết là bình sẽ đầy rượu sao?
\v 13 Hãy đáp rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến các cư dân trong xứ này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít, các thầy tế lễ, tiên tri, và mọi cư dân Giê-ru-sa-lem say be bét.
\v 14 Sau đó, Ta sẽ khiến chúng đánh nhau tơi bời, cha đánh con cái Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không tiếc chúng cũng chẳng thương xót chúng, Ta sẽ không ngăn chúng khỏi sự hủy diệt. ’”
\s5
\v 15 Hãy nghe và chú ý. Chớ kiêu ngạo, vì Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 16 Hãy dâng sự tôn kính cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của quý vị trước khi Ngài giáng sự tối tăm, và trước khi Ngài khiến quý vị vấp chân trên núi lúc chạng vạng. Vì quý vị mong chờ ánh sáng, nhưng Ngài sẽ khiến nơi ấy trở nên tối tăm, như mây đen dày đặc.
\v 17 Vậy nếu quý vị không nghe, tôi sẽ khóc vì cớ sự kiêu ngạo của quý vị. Tôi sẽ khóc dầm dề, vì bầy chiên của Đức Giê-hô-va đã bị bắt làm phu tù.
\s5
\v 18 “Hãy nói với vua và hoàng hậu: Hãy hạ mình và ngồi xuống, vì mão triều trên đầu ngươi, niềm kiêu hãnh và vinh quang ngươi, đã rơi xuống rồi.
\v 19 Các thành ở Nê-ghép sẽ bị phong tỏa, không ai mở ra. Giu-đa sẽ bị bắt làm phu tù, cư dân nó sẽ bị bắt đi lưu đày.
\s5
\v 20 Hãy ngước mắt lên và xem những kẻ đến từ phương bắc. Bầy chiên đẹp đẽ đã được ban cho ngươi đâu?
\v 21 Ngươi sẽ nói gì khi Đức Chúa Trời lập trên ngươi những kẻ mà ngươi đã dạy dỗ làm bạn ngươi? Những điều này chẳng phải là sự khởi đầu của những cơn đau đớn quặn thắt bủa vây ngươi như người nữ sinh con sao?
\s5
\v 22 Ngươi tự nhủ rằng: Sao những việc này xảy đến với tôi? Đó là vì tội ác ngươi nhiều đến nỗi vạt áo ngươi bị tốc lên và ngươi bị hãm hiếp.
\v 23 Người Cút có thể đổi màu da không, con báo có thể đổi đốm của nó không? Nếu vậy thì chính các ngươi cũng có thể làm điều thiện dù các ngươi quen làm điều ác.
\v 24 Do đó, Ta sẽ rải chúng như trấu bay trong hoang mạc.
\s5
\v 25 Đây phần Ta đã ban cho ngươi, là phần Ta đã chia cho ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy vì ngươi đã quên Ta và tin cậy sự giả dối.
\v 26 Ta cũng sẽ lột váy ngươi, thiên hạ sẽ thấy sự trần truồng của ngươi.
\v 27 Tội tà dâm và tiếng hí của ngươi, sự xấu hổ về hành vi dâm dục của ngươi trên đồi và ngoài đồng! Ta sẽ khiến những sự gớm ghiếc ấy bị phơi bày! Hỡi Giê-ru-sa-lem, khốn cho ngươi! Ngươi ô uế. Việc này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa?”
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi về cơn hạn hán,
\v 2 “Hãy để Giu-đa than khóc; hãy để các cổng thành tiêu điều. Chúng than khóc vì xứ; tiếng kêu cầu của chúng về Giê-ru-sa-lem thấu đến trời cao.
\v 3 Những kẻ quyền quý sai đầy tớ đi tìm nước. Khi tới mương không tìm thấy nước, họ thất vọng và quay về; họ trùm đầu, xấu hổ và thẹn thùng.
\s5
\v 4 Bởi đó, đất nứt nẻ, vì trong xứ không có mưa. Thợ cày xấu hổ và trùm đầu.
\v 5 Ngay cả hươu cái cũng đẻ con nó ngoài đồng và bỏ chạy, vì không có cỏ.
\v 6 Lừa hoang đứng trên gò trọi, thở hổn hển trong gió như chó rừng. Mắt chúng đờ đẫn, vì không có cây cỏ.”
\s5
\v 7 Lạy Đức Giê-hô-va, dù tội ác chúng con làm chứng nghịch lại chúng con, xin Ngài hành động vì cớ danh Ngài. Vì hành động bội bạc của chúng con gia tăng; chúng con đã phạm tội với Ngài.
\v 8 Lạy Chúa, là niềm Hy vọng của Y-sơ-ra-ên, là Đấng cứu dân ấy khi túng quẫn, sao Ngài trở nên như khách lạ trong xứ, như khách bộ hành căng lều ngủ qua đêm?
\v 9 Sao Ngài như người lúng túng, như chiến sĩ không thể giải cứu được ai? Vì Ngài ở giữa chúng con, lạy Đức Giê-hô-va! Danh Ngài được rao truyền giữa chúng con. Xin đừng lìa bỏ chúng con.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán với dân này: “Vì chúng thích đi lang thang, chúng không kiềm chế chân mình. ” Đức Giê-hô-va không hài lòng. Bây giờ Ngài nhớ lại tội ác chúng và trừng phạt tội lỗi chúng.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ cầu thay cho dân này.
\v 12 Vì nếu chúng kiêng ăn, Ta sẽ không nghe tiếng khóc than của chúng, và nếu chúng dâng của lễ thiêu và của lễ chay, Ta sẽ không nhậm. Vì Ta sẽ tiêu diệt chúng bằng gươm, đói kém, và dịch lệ.”
\s5
\v 13 Tôi nói: “Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va! Kìa! Các tiên tri nói với họ: Các ngươi sẽ không thấy gươm; cũng chẳng gặp đói kém, vì Ta sẽ cho các ngươi thật yên ninh trong xứ này. ’”
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri giả. Ta không sai chúng, Ta cũng không truyền cho chúng bất cứ mệnh lệnh nào hoặc phán với chúng bất cứ điều chi. Chúng nói tiên tri cùng các ngươi theo những sự hiện thấy giả dối, sự bói toán, sự vô ích từ lòng chúng.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Về phần các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri nhưng chẳng phải là những kẻ mà Ta đã sai đi những kẻ nói rằng sẽ không có gươm dao hay đói kém trong xứ này: các tiên tri ấy sẽ chết bởi gươm và nạn đói.
\v 16 Và những người mà chúng nói tiên tri sẽ bị ném ra ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem vì cớ đói kém và gươm dao, sẽ không ai chôn chúng, vợ chúng, con trai và con gái chúng vì Ta sẽ đổ sự gian ác của chúng lại trên chúng.
\s5
\v 17 Hãy phán lời này với chúng: Hãy để tôi khóc cả ngày và đêm chẳng thôi, vì con gái đồng trinh của dân tôi sẽ bị đánh một đòn khủng khiếp bị thương và không chữa được.
\v 18 Nếu tôi ra ngoài đồng, và kìa! Có kẻ bị giết bằng gươm. Và nếu tôi vào trong thành, kìa! Có kẻ chết vì đói kém. Ngay cả tiên tri và thầy tế lễ cũng đi lang thang khắp xứ mà chẳng hiểu biết gì. ’”
\s5
\v 19 Ngài đã hoàn toàn từ bỏ Giu-đa sao? Ngài ghét Si-ôn sao? Sao Ngài khiến chúng con khổ sở khi chúng con không được chữa lành? Chúng con trông chờ sự bình an, nhưng chẳng có điều gì tốt lành chúng con mong được được chữa lành, nhưng kìa, chỉ có sự kinh khiếp.
\v 20 Lạy Đức Giê-hô-va, chúng con xin nhận tội của tổ phụ chúng tôi, vì chúng con đã phạm tội nghịch lại Ngài.
\s5
\v 21 Xin đừng từ bỏ chúng con! Vì cớ danh Ngài, xin đừng làm nhục ngôi vinh quang của Ngài. Xin Chúa nhớ và đừng phá vỡ giao ước của Ngài với chúng con.
\v 22 Giữa các thần của các nước, ai có thể ban mưa rào? Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, Ngài chẳng phải là Đấng làm việc này sao? Chúng con trông mong nơi Ngài, vì chính Ngài làm mọi điều ấy.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Thậm chí nếu Môi-se hoặc Sa-mu-ên đứng trước mặt Ta, Ta vẫn sẽ không chiếu cố dân này. Hãy đuổi chúng khuất mắt Ta, để chúng đi đâu thì đi.
\v 2 Chúng sẽ hỏi ngươi: Chúng tôi nên đi đâu? Ngươi phải trả lời chúng rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai bị định cho chết sẽ chết; ai bị định cho gươm sẽ chết bởi gươm. Ai bị định cho đói kém sẽ bị đói kém; và ai bị định cho sự phu tù sẽ bị bắt làm phu tù.
\s5
\v 3 Vì Ta sẽ phó chúng vào bốn loại tai họa Đức Giê-hô-va phán vậy gươm để giết, chó để tha đi, chim trời và thú rừng sẽ cắn nuốt và diệt đi.
\v 4 Ta sẽ khiến chúng trở thành một mối kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất, vì những việc Ma-na-se con Ê-xê-chia, vua Giu-đa, đã làm tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 5 Vì ai sẽ thương xót ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem? Ai sẽ than khóc ngươi? Ai sẽ quay lại hỏi thăm ngươi?
\v 6 Ngươi đã từ bỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy. Ngươi đã thối lui. Vậy Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và diệt ngươi. Ta đã chán phải thương xót ngươi.
\v 7 Ta sẽ cầm nia sàng lọc chúng ở các cổng thành trong xứ này. Ta sẽ diệt sạch chúng. Ta sẽ hủy diệt dân Ta vì chúng không từ bỏ đường lối mình.
\s5
\v 8 Ta sẽ khiến số góa phụ của chúng nhiều hơn cát trên bờ biển. Giữa trưa Ta sẽ sai kẻ hủy diệt đến hại các bà mẹ của những gã trai trẻ. Ta sẽ khiến sự khích động và kinh hãi thình lình giáng trên chúng.
\v 9 Người mẹ đã sinh bảy con sẽ mòn mỏi. Nàng thở thoi thóp. Mặt trời của nàng sẽ lặn đang khi còn ban ngày. Nàng sẽ xấu hổ và bối rối, vì Ta sẽ phó những kẻ còn sót lại cho gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 10 Mẹ ơi, con thật là khốn khổ! Vì mẹ đã sinh ra con làm người mà cả xứ đều tranh cãi và tranh luận. Con không cho vay ai mượn, cũng chẳng mượn ai, nhưng mọi người đều rủa sả con.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán: “Chẳng lẽ Ta sẽ không giải cứu ngươi mãi mãi sao? Chắc chắn Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi van xin giúp đỡ trong kỳ hoạn nạn và đau buồn.
\v 12 Ai có thể đập vỡ sắt? Đặc biệt là sắt từ phương bắc trộn với đồng?
\s5
\v 13 Ta sẽ phó sự giàu sang và kho báu của các ngươi cho quân thù như một của cướp. Ta sẽ làm như vậy vì tội lỗi các ngươi đã phạm trong địa phận mình.
\v 14 Ta sẽ khiến quân thù giải các ngươi đến xứ mà ngươi không biết, vì lửa sẽ cháy, cơn thạnh nộ Ta sẽ nổi phừng vì các ngươi.”
\s5
\v 15 Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài biết! Xin Chúa nhớ lại và giúp đỡ con. Xin Chúa báo thù những kẻ theo đuổi con. Xin Ngài nhẫn nại đừng cất con đi. Xin Chúa biết rằng con chịu sỉ nhục vì Ngài.
\v 16 Con tìm được lời Ngài và ăn nuốt lời ấy. Lời Ngài là niềm vui với con, khiến lòng con vui mừng, vì con được gọi bằng danh Ngài, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân.
\s5
\v 17 Con không ngồi trong hội những kẻ chế giễu hoặc hoan hỉ. Con ngồi một mình vì cớ tay mạnh mẽ của Ngài, vì Ngài khiến con căm phẫn.
\v 18 Sao con cứ đau đớn triền miên và vết thương con không thể được chữa lành? Ngài sẽ như một dòng nước giả dối, dòng nước khô cạn chăng?
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Giê-rê-mi, nếu ngươi ăn năn, Ta sẽ phục hồi ngươi, ngươi sẽ đứng trước mặt Ta và phục vụ Ta. Vì nếu ngươi làm cho những điều ngu xuẩn lìa khỏi những sự quý báu, ngươi sẽ như miệng Ta. Chúng sẽ trở về với ngươi, nhưng ngươi không được trở về cùng chúng.
\v 20 Ta sẽ khiến ngươi như bức tường đồng bất khả xâm phạm đối với dân này, chúng sẽ gây chiến với ngươi. Nhưng chúng sẽ không thắng ngươi, vì Ta ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 21 vì Ta sẽ cứu ngươi khỏi tay kẻ ác và chuộc ngươi khỏi tay kẻ bạo tàn.”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi,
\v 2 “Ngươi chớ cưới vợ, và chớ sanh con trai hay con gái trong xứ này.
\v 3 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy về các con trai và con gái được sinh trong xứ này, về những người mẹ sinh ra chúng, và về những người cha sinh ra chúng trong xứ này,
\v 4 Chúng sẽ chết vì bệnh tật. Sẽ không ai than khóc hay chôn cất chúng. Chúng sẽ như phân trên đất. Chúng sẽ chết bởi gươm và nạn đói, xác chúng sẽ trở thành đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.
\s5
\v 5 Vì Đức Giê-hô-va phán rằng: Chớ vào nhà có tang. Chớ than khóc, và chớ cảm thông cho những người này. Vì Ta đã cất đi sự bình an, sự thành tín theo giao ước, và lòng thương xót của Ta khỏi dân này! Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 6 như vậy, kẻ lớn và kẻ nhỏ sẽ chết trong xứ này. Chúng sẽ không được chôn cất, cũng chẳng ai than khóc chúng. Không ai tự cắt thịt hoặc cạo đầu vì chúng.
\s5
\v 7 Không ai chia sẻ thức ăn khi than khóc để an ủi những người có tang, và không ai trao chén chia buồn cho cha hoặc mẹ của chúng để an ủi chúng.
\v 8 Ngươi chớ đến nhà có yến tiệc đặng ngồi ăn uống chung với chúng.
\v 9 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, trước mặt ngươi, trong đời ngươi và trong xứ này, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng và hoan hỉ, tiếng của chàng rể và nàng dâu.
\s5
\v 10 Khi ngươi thuật những lời này cho dân, chúng sẽ hỏi ngươi: Sao Đức Giê-hô-va rao tai họa này cho chúng tôi? Chúng tôi đã phạm tội gì đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi?
\v 11 Vậy hãy bảo chúng: Bởi vì tổ phụ các ngươi từ bỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy chúng theo các thần khác, thờ lạy và quỳ lại trước các thần đó. Chúng từ bỏ Ta và không giữ luật pháp Ta.
\s5
\v 12 Nhưng chính các ngươi còn phạm điều ác nhiều hơn tổ phụ các ngươi, vì kìa, ai nấy đều theo sự cứng cỏi trong lòng gian ác mình; không ai lắng nghe Ta.
\v 13 Vậy, Ta sẽ ném các ngươi ra khỏi xứ này đến một xứ mà các ngươi và tổ phụ các ngươi không biết, các ngươi sẽ thờ lạy các thần khác cả ngày và đêm, vì Ta sẽ không ban ơn cho các ngươi.
\s5
\v 14 Vậy hãy xem! Những ngày ấy gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy khi chẳng còn ai nói: Thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 15 Vì thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ phương bắc và ra khỏi những xứ mà Ngài đã khiến họ tản lạc, Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng.
\s5
\v 16 Kìa! Ta sẽ sai đến nhiều ngươi dân Đức Giê-hô-va phán vậy để họ bắt chúng. Sau đó, Ta sẽ sai đến nhiều thợ săn để họ săn bắt chúng giữa núi đồi, và giữa những khe đá.
\v 17 Vì mắt Ta dõi xem đường lối chúng; chúng không thể giấu trước mặt Ta. Chúng không thể che đậy tội lỗi trước mặt Ta.
\v 18 Trước nhất, Ta sẽ báo trả tội ác và tội lỗi chúng gấp đôi vì chúng làm ô uế xứ của Ta bằng những hình tượng gớm ghiếc, và làm đầy dẫy cơ nghiệp Ta bằng những thần tượng kinh tởm.”
\s5
\v 19 Lạy Giê-hô-va, Ngài là đồn lũy và nơi nương náu của con, Ngài là nơi an toàn của con trong ngày khốn cùng. Các nước từ khắp những nơi đầu cùng đất sẽ đến với Ngài và nói: “Chắc chắn tổ phụ chúng tôi đã hưởng những sự giả dối. Chúng rỗng tuếch; chẳng đem đến ích lợi gì.
\v 20 Người ta tạo ra các thần cho riêng họ phải không? Nhưng chúng không phải là thần.
\v 21 Vậy hãy xem! Lần này Ta sẽ khiến chúng biết, Ta sẽ khiến chúng biết tay Ta và quyền năng Ta, để chúng biết rằng danh Ta là Giê-hô-va.”
\s5
\c 17
\p
\v 1 “Tội lỗi của Giu-đa được viết bằng bút sắt có đầu kim cương. Tội ấy được khắc trên bảng lòng của chúng và trên sừng các bàn thờ của các ngươi.
\v 2 Con cái chúng nhớ các bàn thờ và trụ thờ thần A-sê-ra của chúng ở dưới gốc cây xum xuê trên đồi cao.
\s5
\v 3 Chúng nhớ những bàn thờ của chúng trên núi ở vùng thôn quê. Ta sẽ biến sự giàu có và của cải ngươi thành của cướp. Vì tội lỗi ở khắp mọi nơi trong bờ cõi ngươi.
\v 4 Ngươi sẽ mất cơ nghiệp mà Ta ban cho ngươi. Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi bắt ngươi làm nô lệ trong xứ mà ngươi chẳng biết, vì ngươi đã nhen lửa trong cơn thạnh nộ của Ta, cơn giận ấy sẽ cháy mãi không tắt.”
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán: “Đáng rủa thay là kẻ tin cậy loài người; nó lấy xác thịt làm sức mạnh nhưng xoay lòng mình khỏi Đức Giê-hô-va.
\v 6 Nó sẽ như thạch thảo ở A-ra-ba và sẽ không thấy điều gì tốt đẹp xảy đến. Nó sẽ ở trong những nơi đầy sỏi đá trong hoang mạc, một xứ cằn cỗi không có người ở.
\s5
\v 7 Nhưng ai tin cậy Đức Giê-hô-va thật đáng chúc phước thay, vì Đức Giê-hô-va là lý do người tin tưởng.
\v 8 Người sẽ như cây trồng gần dòng suối; rễ người sẽ lan tỏa. Dù trời nóng cũng không hề hấn, người vẫn sẽ ra lá xum xuê. Trong năm hạn hán, người sẽ không lo lắng, cũng chẳng ngưng ra trái.
\s5
\v 9 Lòng con người dối trá hơn bất kỳ điều gì khác. Nó xấu xa; ai có thể hiểu được?
\v 10 Ta là Giê-hô-va, Đấng dò xét tâm trí, kiểm tra lòng người. Ta báo cho mỗi người tùy điều họ đáng nhận, phạt họ tùy kết quả việc làm của họ.
\v 11 Gà gô ấp trứng chẳng phải do nó đẻ. Ai đó có thể trở nên giàu có một cách bất chính. Nhưng trong lúc thanh xuân của nó, sự giàu có sẽ từ bỏ nó và cuối cùng nó sẽ thành kẻ ngốc.”
\s5
\v 12 “Nơi đền thờ của chúng ta là ngôi vinh hiển, được lập nên từ ban đầu.
\v 13 Đức Giê-hô-va là niềm hy vọng của Y-sơ-ra-ên. Những kẻ từ bỏ Ngài sẽ nhục nhã. Những kẻ trong xứ xoay bỏ khỏi Ngài sẽ bị diệt. Vì chúng từ bỏ Đức Giê-hô-va, Ngài là nguồn nước sống.
\v 14 Lạy Đức Giê-hô-va, xin chữa lành con, rồi con sẽ được chữa lành! Xin giải cứu con, rồi con sẽ được cứu. Vì Ngài là bài ca ngợi khen của con.
\s5
\v 15 Kìa, họ hỏi con: Lời của Đức Giê-hô-va đâu? Hãy làm cho nó ứng nghiệm! ”
\v 16 Về phần con, con không từ bỏ bổn phận làm người chăn chiên đi theo Ngài. Con không mong ngày gặp tai họa. Ngài biết những lời mà môi con công bố. Chúng ở trước mặt Ngài.
\s5
\v 17 Xin Chúa đừng làm con khiếp sợ. Ngài là nơi nương náu của con trong ngày hoạn nạn.
\v 18 Xin Chúa khiến những kẻ đeo đuổi con bị hổ thẹn, nhưng đừng để con xấu hổ. Nguyện chúng bị kinh hoàng, nhưng đừng để con bị kinh hoàng. Xin Chúa giáng ngày tai họa trên chúng và đập vỡ chúng bằng sự hủy diệt gấp đôi.”
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán với tôi như vầy: “Hãy đi và đứng nơi cổng của dân, nơi mà các vua Giu-đa vào và ra, sau đó hãy đứng ở tất cả các cổng khác ở Giê-ru-sa-lem.
\v 20 Hãy bảo chúng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và dân Giu-đa, và toàn thể cư dân Giê-ru-sa-lem là những người ra vào các cổng này.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy cẩn thận bảo vệ mạng sống mình, chớ mang gánh trong ngày Sa-bát qua các cổng thành Giê-ru-sa-lem.
\v 22 Chớ đem vật gánh nào ra khỏi nhà ngươi trong ngày Sa-bát. Chớ làm bất cứ việc gì, nhưng hãy biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va, như Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi thực hiện. ”’
\v 23 Chúng không nghe cũng chẳng để ý, chúng cứng cổ đến nỗi chẳng nghe Ta hoặc chấp nhận kỷ luật.
\s5
\v 24 Nếu các ngươi thật sự nghe Ta Đức Giê-hô-va phán vậy và không mang vật gánh qua các cổng thành trong ngày Sa-bát nhưng biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va và không làm việc chi trong ngày đó
\v 25 thì các vua, các vương tử, và những người ngồi trên ngai Đa-vít sẽ đến các cổng của thành này bằng xe chiến mã và ngựa, bao gồm các quan trưởng, người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem. Và thành này sẽ còn lại đời đời.
\s5
\v 26 Họ sẽ đến từ các thành ở Giu-đa và quanh Giê-ru-sa-lem, từ xứ Ben-gia-min và những vùng đất thấp, từ miền núi và từ Nê-ghép, họ đem theo của lễ thiêu, của tế lễ, của lễ chay và nhũ hương. Họ sẽ đem của lễ tạ ơn đến nhà Ta.
\v 27 Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta để biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va nếu các ngươi đem vật gánh vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, Ta sẽ nhen lửa trong các cổng thành, lửa ấy sẽ thiêu đốt mọi đồn lũy Giê-ru-sas-lem, nó sẽ cháy mãi không thôi.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy đứng dậy và đi đến nhà thợ gốm, vì Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta tại đó. ”
\v 3 Vậy, tôi đi đến nhà thợ gốm, và kìa! Người thợ gốm đang làm việc nơi bàn quay.
\v 4 Nhưng vật bằng đất sét mà ông đang nắn bị hư trong tay ông, do đó ông đổi ý và làm một vật khác mà theo ý ông cho là tốt.
\s5
\v 5 Kế đó, có lời Đức Giê-hô-va phán với tôi,
\v 6 “Chẳng lẽ Ta không thể làm cho ngươi như người thợ gốm này sao, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên? Đức Giê-hô-va phán như vầy. Kìa! Như đất sét trong tay người thợ gốm thể nào thì các ngươi trong tay Ta cũng sẽ thể ấy, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Khi Ta tuyên bố điều gì về một nước hay một vương quốc, rằng Ta sẽ đuổi chúng đi, hủy đi, hoặc diệt đi.
\v 8 Nhưng nếu nước mà Ta đã tuyên bố quyết định từ bỏ điều ác, Ta sẽ động lòng thương xót chúng mà không giáng tai họa ấy.
\s5
\v 9 Có khi Ta tuyên bố về một nước hay một vương quốc rằng Ta sẽ dựng nó hoặc trồng nó.
\v 10 Nhưng nếu nó làm điều ác trước mặt Ta, không lắng nghe tiếng Ta, thì Ta sẽ ngưng xuống phước mà Ta đã định cho nó.
\s5
\v 11 Vậy bây giờ, hãy nói với dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ giáng họa trên ngươi. Ta sẽ lập kế hoạch hại ngươi. Hãy ăn năn, ai nấy hãy từ bỏ đường gian ác của mình, để đường lối và việc làm ngươi đem đến điều tốt cho ngươi.
\v 12 Nhưng chúng sẽ nói: Thật vô ích. Chúng tôi sẽ theo kế hoạch của chúng tôi. Ai nấy trong chúng tôi sẽ chiều lòng xấu xa và cứng cỏi mình.
\s5
\v 13 Vậy Đức Giê-hô-va phán: Hãy hỏi các nước, ai từng nghe đến điều này bao giờ? Trinh nữ Y-sơ-ra-ên phạm một việc kinh tởm.
\v 14 Tuyết ở Li-băng có bao giờ tan chảy khỏi các sườn núi đá ở đồng bằng không? Những con suối từ trên núi xa chảy đến có cạn nước không?
\s5
\v 15 Nhưng dân Ta đã quên Ta. Chúng dâng của lễ cho các thần tượng vô dụng và vấp ngã trên đường mình; chúng rời những con đường xưa đặng đi trong những con đường sai lệch.
\v 16 Xứ của chúng sẽ trở nên kinh khiếp, thành một thứ bị người ta bàn tán mãi mãi. Ai đi ngang qua nó đều sẽ rùng mình và lắc đầu.
\v 17 Ta sẽ rải chúng trước mặt kẻ thù nghịch như cơn gió đông. Ta sẽ quay lưng đi, chúng sẽ không thấy mặt Ta, trong ngày hoạn nạn. ’”
\s5
\v 18 Vậy, dân chúng nói: “Nào, chúng ta hãy lập mưu nghịch Giê-rê-mi, vì thầy tế lễ luôn có luật pháp, người khôn ngoan luôn có lời khuyên, và tiên tri luôn có lời phán. Nào, chúng ta hãy dùng lời nói của chúng ta mà đánh nó và không để ý đến lời nó rao báo nữa. ”
\v 19 Lạy Đức Giê-hô-va, xin đoái đến con! Xin nghe tiếng huyên náo của kẻ thù nghịch con.
\v 20 Tai họa của chúng sẽ thật sự được báo đáp cho con vì con đối xử tốt với chúng sao? Chúng đã đào hố trước mặt con. Xin Chúa nhớ là con đã đứng trước mặt Ngài và cầu xin Ngài ban phước cho chúng, khiến Ngài xây cơn giận khỏi chúng.
\s5
\v 21 Vì vậy, xin Chúa phó con cái chúng cho nạn đói, và phó chúng cho sức mạnh của gươm giáo. Xin Chúa cất vợ của chúng và khiến chúng góa bụa, người của chúng sẽ bị giết, những trai trẻ sẽ bị giết bằng gươm nơi chiến trận.
\v 22 Xin Chúa cho người ta nghe tiếng kêu la đau buồn từ trong nhà chúng, như Ngài bất ngờ giáng kẻ cướp trên chúng. Vì chúng đã đào hố đặng bắt con và đặt bẫy dưới chân con.
\v 23 Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, Ngài biết hết mọi kế hoạch của chúng lập nên để giết con. Xin Chúa đừng tha tội ác và tội lỗi chúng. Xin Chúa đừng xóa tội lỗi chúng khỏi trước mặt Ngài. Trái lại, xin Chúa ném chúng trước mặt Ngài. Xin Chúa hành động khi Ngài nổi cơn thạnh nộ.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đi mua một bình đất sét của thợ gốm cùng với các trưởng lão trong dân và thầy tế lễ.
\v 2 Sau đó, hãy đến thung lũng Ben Hin-nôm ở lối vào của Cửa Sành, tại đó hãy công bố những lời mà Ta sẽ bảo ngươi.
\v 3 Hãy nói: Khá nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem! Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên nơi này, và tai của những kẻ nghe về điều đó sẽ lùng bùng.
\s5
\v 4 Ta sẽ giáng họa vì chúng đã từ bỏ Ta và làm ô uế nơi này. Trong xứ này, chúng dâng của lễ cho các thần mà chúng chẳng biết. Chúng, tổ phụ của chúng, và các vua Giu-đa cũng đã làm xứ này ngập huyết vô tội.
\v 5 Chúng xây các điện thờ cho Ba-anh để dâng con trai chúng qua lửa làm của lễ thiêu cho thần đó đây là việc Ta chẳng truyền. Ta không bảo chúng làm việc đó, lòng Ta cũng chẳng hề nghĩ đến.
\s5
\v 6 Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là khi nơi này sẽ không còn được gọi là Tô-phết, thung lũng Ben Hin-nôm, nó sẽ được gọi là thung lũng Tàn sát.
\v 7 Tại nơi này, Ta sẽ khiến các kế hoạch của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trở nên vô dụng. Ta sẽ khiến chúng ngã xuống bởi gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng và bởi tay của những kẻ tìm mạng sống chúng. Sau đó, Ta sẽ phó thi thể chúng làm đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.
\v 8 Ta sẽ khiến thành này ra hoang vu và trở nên một thứ bị chê cười, vì ai đi ngang qua nó đều cũng sẽ rùng mình và chê cười vì cớ những tai họa của nó.
\v 9 Ta sẽ khiến chúng ăn thịt con trai và con gái chúng; ai nấy đều sẽ ăn thịt người lân cận mình khi bị bao vây và thống khổ bởi quân thù và những kẻ tìm hại mạng sống chúng. ’”
\s5
\v 10 Sau đó, ngươi hãy đập vỡ cái bình gốm trước mặt những người đi với ngươi.
\v 11 Hãy bảo chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ta sẽ làm điều tương tự với dân này và thành này Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy như Giê-rê-mi đã đập vỡ cái bình gốm đến nỗi không thể nào hàn gắn được. Người ta sẽ chôn người chết ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ chôn nữa.
\s5
\v 12 Đây là việc Ta sẽ làm trên nơi này và trên cư dân của nó, khi Ta biến thành này trở nên như Tô-phết Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 13 vậy, các nhà ở Giê-ru-sa-lem và của các vua Giu-đa sẽ trở nên như Tô-phết tức là những nhà mà trên sân thượng, những kẻ ô uế thờ lạy các vì tinh tú trên trời và đổ của lễ quán cho các thần khác. ’”
\s5
\v 14 Vậy Giê-rê-mi rời Tô-phết, là nơi Đức Giê-hô-va đã sai đến để nói tiên tri. Ông đứng ở sân nhà Đức Giê-hô-va và nói với toàn thể dân sự,
\v 15 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến thành này và những thành của nó lãnh tai họa mà Ta đã báo trước, vì chúng cứng cổ và không nghe lời Ta. ’”
\s5
\c 20
\p
\v 1 Pa-su-rơ, con trai thầy tế lễ Y-mê ông làm quản đốc nghe lời Giê-rê-mi nói tiên tri trước nhà Đức Giê-hô-va.
\v 2 Pa-su-rơ đánh tiên tri Giê-rê-mi rồi cùm ông lại ở Thượng Cổng Ben-gia-min trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Hôm sau, Pa-su-rơ thả Giê-rê-mi ra khỏi cùm. Giê-rê-mi bảo ông: “Đức Giê-hô-va không gọi ông là Pa-su-rơ, nhưng gọi ông là Ma-go Mi-sa-bíp.
\v 4 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến ngươi trở nên vật ghê rợn ngươi và tất cả những người thân yêu của ngươi vì chúng sẽ ngã bởi gươm của quân thù mình và mắt ngươi sẽ thấy điều đó. Ta sẽ phó cả dân Giu-đa vào tay vua Ba-by-lôn. Hắn sẽ bắt chúng làm phu tù tại Ba-by-lôn hoặc dùng gươm đánh chúng.
\s5
\v 5 Ta sẽ phó cho hắn mọi của cải trong thành này và sự giàu có của nó, tất cả những châu báu và kho tàng của các vua Giu-đa. Chúng sẽ lấy và đem qua Ba-by-lôn.
\v 6 Nhưng ngươi, Pa-su-rơ, và hết thảy những kẻ trong nhà ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Ngươi sẽ đến Ba-by-lôn rồi chết tại đó. Ngươi và tất cả những người thân thiết của ngươi, là những kẻ mà ngươi đã nói tiên tri dối, sẽ được chôn ở đó. ’”
\s5
\v 7 “Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã thuyết phục con. Con thật sự bị thuyết phục. Ngài bủa vây con và đánh bại con. Con trở thành trò cười. Thiên hạ ngày nào cũng nhạo báng con.
\v 8 Vì hễ khi nào con nói, con đều kêu to và công bố rằng: Bạo lực và hủy diệt. Lời của Đức Giê-hô-va khiến con bị sỉ nhục và nhạo báng hàng ngày.
\v 9 Nếu con nói: Con sẽ không nghĩ về Đức Giê-hô-va nữa. Con sẽ không công bố danh Ngài nữa. Thì trong lòng con giống như có lửa cháy, thiêu đốt tận trong xương cốt con. Vậy, con gắng sức kiềm chế nhưng không thể.
\s5
\v 10 Con nghe nhiều người xung quanh đồn đoán về nỗi khiếp sợ. Hãy báo cáo! Chúng ta phải báo cáo! Những người ở gần con trông cho con vấp ngã. Có lẽ ông ấy có thể bị chơi khăm. Nếu vậy, chúng ta có thể chế ngự ông ấy và trả thù ông ấy.
\v 11 Nhưng Đức Giê-hô-va ở cạnh con như một chiến sĩ hùng mạnh, những kẻ theo đuổi con sẽ dao động. Chúng sẽ không đánh thắng con. Chúng sẽ xấu hổ lắm, vì chúng sẽ không thành công. Chúng sẽ xấu hổ không thôi, cả đời sẽ không bao giờ quên.
\s5
\v 12 Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va vạn quân, Ngài là Đấng dò xét người công bình và xem xét tâm trí và lòng người. Xin cho con thấy sự báo thù của Ngài trên chúng vì con đã trình duyên cớ của con cho Ngài.
\v 13 Hãy hát cho Đức Giê-hô-va! Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va! Vì Ngài đã giải cứu mạng sống của những người bị áp bức khỏi tay kẻ bất lương.
\s5
\v 14 Ước gì ngày con sinh ra bị rủa sả. Xin chớ để ngày mẹ con sinh con ra được phước.
\v 15 Ước gì người báo tin cho ba con bị rủa sả, đó là người nói rằng: Ông vừa có một đứa con trai, khiến ba con vui mừng.
\s5
\v 16 Ước gì người đó như các thành mà Đức Giê-hô-va đã ném khi Ngài không thương xót. Nguyền cho người đó nghe tiếng kêu cầu giúp đỡ vào lúc bình minh và tiếng kêu xung trận vào ban trưa.
\v 17 Nguyền điều này xảy ra, vì Đức Giê-hô-va không giết con từ trong lòng mẹ hoặc để lòng mẹ là mồ chôn con mãi mãi.
\v 18 Tại sao con lọt lòng mẹ để gặp khó khăn và khổ cực, đến nỗi các ngày của con đầy tủi nhục?”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Đây là lời đến từ Đức Chúa Trời phán với Giê-rê-mi khi Vua Sê-đê-kia sai Pa-su-rơ, con trai Manh-ki-gia, và Sô-phô-ni, con trai thầy tế lễ Ma-a-sê-gia đến gặp ông. Họ bảo ông,
\v 2 “Xin thay mặt chúng tôi cầu vấn Đức Giê-hô-va, vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ đánh chúng tôi. Có thể Đức Giê-hô-va sẽ làm phép lạ cho chúng tôi, như khi trước, và Ngài sẽ khiến vua ấy rút quân khỏi chúng tôi.”
\s5
\v 3 Giê-rê-mi trả lời họ: “Các ông phải nói với Sê-đê-kia như vầy,
\v 4 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: Kìa, Ta sẽ khiến các binh khí trong tay ngươi mà ngươi sẽ dùng để đánh vua Ba-by-lôn và người Canh-đê đang bao vây ngươi ngoài thành xoay về phía ngươi! Vì Ta sẽ tập hợp chúng vào giữa thành.
\v 5 Sau đó, chính Ta sẽ giơ tay và cánh tay mạnh mẽ mà đánh ngươi trong cơn thạnh nộ, giận dữ, và uất khí.
\s5
\v 6 Ta sẽ đánh cư dân thành này, cả con người và thú vật. Chúng sẽ chết bởi một cơn tai họa kinh khiếp.
\v 7 Sau đó Đức Giê-hô-va phán như vầy Sê-đê-kia vua Giu-đa, các quần thần, dân chúng, và bất cứ ai còn sót lại trong thành này sau tai họa, gươm giáo, và nạn đói Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, kẻ thù của chúng, và là những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Hắn sẽ giết chúng bằng lưỡi gươm. Hắn sẽ không thương hại chúng, tha cho chúng, hoặc thương xót chúng.
\s5
\v 8 Kế đến, ngươi hãy nói với dân này: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đặt trước mặt ngươi một con đường sống và con đường chết.
\v 9 Hễ ai ở trong thành này sẽ chết bởi gươm, đói kém, và bệnh dịch; nhưng hễ ai ra ngoài và quỳ gối trước mặt dân Canh-đê là những kẻ bao vây ngươi sẽ sống. Người đó sẽ giữ được mạng mình.
\v 10 Vì Ta đã xoay mặt nghịch với thành này đặng giáng tai họa, chứ không đem đến điều lành Đức Giê-hô-va phán vậy. Thành ấy đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn, hắn sẽ phóng hỏa nó.
\s5
\v 11 Về nhà vua Giu-đa, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
\v 12 Hỡi nhà Đa-vít, Đức Giê-hô-va phán: Mỗi sáng hãy thực thi công lý. Hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp, nếu không cơn thịnh nộ của Ta sẽ nổi phừng. Vì không ai có thể dập tắt được cơn thạnh nộ ấy bởi vì việc ác của các ngươi.
\s5
\v 13 Kìa, hỡi dân trong thung lũng! Ta nghịch lại ngươi, hỡi đá nơi đồng bằng Đức Giê-hô-va phán vậy Ta nghịch lại những kẻ nào nói rằng: “Ai sẽ ngự xuống đặng đánh chúng ta? ” hoặc “Ai sẽ vào nhà chúng ta? ”
\v 14 Ta đã ấn định các ngươi sẽ bị phạt vì cớ kết quả việc làm của các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ châm lửa nơi bụi cây, nó sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh. ’”
\s5
\c 22
\p
\v 1 Này là lời Đức Giê-hô-va phán: “Hãy đi xuống nhà của vua Giu-đa và công bố lời này tại đó.
\v 2 Hãy nói rằng: Hỡi Vua Giu-đa, là người ngồi trên ngai Đa-vít, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Và hãy nghe, hỡi các quần thần của ngươi, ngươi, dân ngươi, là những người vào ra các cổng này.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy thực thi công lý và sự công bình, hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp. Chớ ngược đãi khách ngoại quốc này trong xứ ngươi, hoặc người mồ côi hoặc góa bụa. Chớ bạo lực hoặc làm đổ máu vô tội ở nơi này.
\s5
\v 4 Vì nếu ngươi thật sự làm những việc này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít sẽ cưỡi xe chiến mã và cưỡi ngựa vào các cổng của nhà này, cùng với các quần thần và dân chúng!
\v 5 Nhưng nếu ngươi không nghe những lời mà Ta đã truyền Đức Giê-hô-va phán vậy thì cung điện này sẽ trở nên hoang phế. ’”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán về cung điện của vua Giu-đa: Ngươi giống như Ghi-lê-át, hoặc giống với đỉnh núi Li-băng. Nhưng Ta sẽ biến ngươi thành hoang mạc, thành những thành phố không có người ở.
\v 7 Vì Ta đã sai những kẻ hủy diệt đến với ngươi! Những kẻ cầm vũ khí sẽ chặt những cây tuyết tùng tốt nhất của ngươi và quăng vào lửa.
\s5
\v 8 Kế đó, nhiều dân sẽ đi ngang qua thành này. Ai nấy sẽ bảo nhau rằng: “Sao Đức Giê-hô-va khiến thành lớn này trở nên như thế? ”
\v 9 Người kia sẽ trả lời: “Vì chúng đã từ bỏ giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng và quỳ lạy trước các thần khác và tôn thờ những thần ấy.”
\s5
\v 10 Chớ than khóc cho người chết. Chớ than khóc vì người ấy. Nhưng ngươi hãy than khóc cho những ai bị bắt làm phu tù, vì người đó sẽ không bao giờ trở về và thấy xứ mình đã chôn nhau cắt rốn nữa.
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán như vầy về Giê-hô-a-ha con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, là người kế vị của Giô-si-a, cha ông ấy: Hắn đã đi khỏi xứ này và sẽ không quay về.
\v 12 Hắn sẽ chết tại nơi chúng bắt hắn đi lưu đày, hắn sẽ không bao giờ thấy lại xứ này.
\s5
\v 13 Khốn cho những ai xây nhà mình bằng sự bất chính và xây phòng cao mình bằng sự bất công; khốn cho những ai thuê làm công nhưng không trả tiền.
\v 14 Khốn cho những ai nói rằng: Ta sẽ xây nhà cao tầng và phòng cao thoáng đãng, ta sẽ xây nhiều cửa sổ lớn, và cán ô bằng gỗ tuyết tùng, sơn màu đỏ.
\s5
\v 15 Có phải đây là thứ biến ngươi thành một vị vua tốt đến nỗi ngươi muốn có tấm ván bằng gỗ tuyết tùng không? Chẳng phải cha ngươi cũng không ăn uống, nhưng thực thi công lý và điều công chính? Cho nên người được thịnh vượng.
\v 16 Người xét xử công minh cho người nghèo và người thiếu thốn. Vì vậy người được mọi điều tốt đẹp. Chẳng phải như vậy có nghĩa là biết Ta sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 17 Nhưng trong mắt ngươi và lòng ngươi chẳng có gì cả ngoại trừ sự lo lắng của ngươi về lợi lộc bất chính và làm đổ huyết vô tội, đàn áp và giày đạp người khác.
\v 18 Vì vậy, Đức Giê-hô-va phán về Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, như vầy: Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng Than ôi, anh tôi! hoặc Than ôi, chị tôi! Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng Than ôi, thầy tôi! hoặc Than ôi, bệ hạ tôi!
\v 19 Nó sẽ bị chôn như con lừa, bị kéo đi và quăng khỏi cửa thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 20 Hãy lên những ngọn núi Li-băng và kêu la. Hãy cất tiếng kêu lên ở Ba-san. Hãy kêu la từ các ngọn núi A-ba-rim, vì tất cả bạn hữu ngươi sẽ bị hủy diệt.
\v 21 Ta đã phán với ngươi khi ngươi được an toàn, nhưng ngươi nói: Tôi sẽ không nghe. Đây là tục lệ của ngươi từ khi ngươi còn trẻ, vì ngươi không nghe tiếng Ta.
\s5
\v 22 Gió sẽ lùa đi mọi người chăn chiên của ngươi, và bạn bè ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Sau đó, chắc chắn ngươi sẽ xấu hổ và bẽ mặt vì tất cả những việc ác của ngươi.
\v 23 Hỡi vua, ngươi là người sống trong Nhà ở Rừng Li-băng, ngươi làm tổ giữa những cây tuyết tùng, ngươi sẽ bị thương hại biết bao khi cơn đau quằn quại ập đến ngươi như lúc sinh đẻ.”
\s5
\v 24 “Thật như Ta hằng sống Đức Giê-hô-va phán vậy thậm chí nếu ngươi, Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, là ấn trong tay hữu Ta, Ta sẽ gỡ ngươi ra.
\v 25 Vì Ta đã phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi và những kẻ mà ngươi sợ hãi, ấy là tay của Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn và người Canh-đê.
\v 26 Ta sẽ ném ngươi và mẹ ngươi, là người đã sinh ra ngươi, vào xứ mà ngươi chẳng từng được sinh ra. Ngươi sẽ chết tại đó.
\s5
\v 27 Còn về xứ này là xứ chúng muốn trở về, chúng sẽ không trở về nữa.
\v 28 Có phải đây là bình bị coi khinh và đổ vỡ không? Có phải Giê-hô-gia-kin là chiếc bình mà chẳng ai vừa lòng không? Sao họ ném người và con cháu người ra, và đổ chúng vào xứ mà chúng chẳng biết?
\s5
\v 29 Hỡi đất, đất, đất! Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 30 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy viết về Giê-hô-gia-kin như vầy: Nó sẽ không có con. Nó sẽ không thịnh vượng trong đời của nó, và không ai trong vòng con cháu nó thành công hoặc ngồi trên ngai Đa-vít và cai trị Giu-đa. ’”
\s5
\c 23
\p
\v 1 “Khốn thay cho những kẻ chăn hủy diệt và làm tản lạc bầy chiên của đồng cỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy. ”
\v 2 Vì thế, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về những kẻ chăn đang chăn dắt dân Ngài như vầy: “Các ngươi làm tản lạc bầy chiên Ta và đuổi chúng đi. Các ngươi không chăm sóc chúng. Khá biết điều này! Ta sẽ báo trả ngươi vì việc ác của ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 3 Chính Ta sẽ nhóm chiên còn sót lại của bầy Ta từ mọi nơi mà Ta đã đuổi chúng đến, Ta sẽ đưa chúng trở về nơi đồng cỏ, tại đó chúng sẽ sinh sản và tăng thêm nhiều.
\v 4 Sau đó, Ta sẽ dấy lên những người chăn chiên, họ sẽ chăn dắt chúng, chúng sẽ không còn sợ hãi hay tản lạc nữa. Sẽ không thiếu một con nào Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 5 Kìa, ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là ngày mà Ta sẽ dấy lên cho Đa-vít một nhánh công bình. Người sẽ làm vua cai trị; người sẽ đem đến sự thịnh vượng, thực thi công lý và sự công bình trong xứ.
\v 6 Trong đời của người, Giu-đa sẽ được giải cứu, và Y-sơ-ra-ên sẽ sống yên ổn. Người sẽ được gọi bằng danh này: Đức Giê-hô-va là Sự Công bình của chúng ta.
\s5
\v 7 Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là ngày mà chúng sẽ không còn nói: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 8 Trái lại, chúng sẽ nói: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem lên và dẫn con cháu nhà Y-sơ-ra-ên từ phương bắc và mọi xứ mà chúng đã bị đuổi được trở về. Chúng sẽ sống trong xứ mình.”
\s5
\v 9 Về các tiên tri, lòng tôi tan nát trong tôi, xương cốt tôi run rẩy. Tôi trở nên như người say, như người loạng choạng vì rượu, vì cớ Đức Giê-hô-va và lời thánh của Ngài.
\v 10 Vì đất đầy dẫy kẻ tà dâm. Vì những điều này mà đất than khóc. Đồng cỏ trong hoang mạc thì khô cằn. Đường lối của các tiên tri ấy là xấu xa; sức mạnh của chúng bị sử dụng sai.
\s5
\v 11 “Vì cả tiên tri và thầy tế lễ đều sa đọa. Thậm chí Ta đã tìm thấy sự gian ác của chúng trong nhà Ta! Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 12 vậy, đường lối chúng sẽ như nơi trơn trợt trong bóng tối. Chúng sẽ bị đẩy xuống. Chúng sẽ té. Vì Ta sẽ giáng tai họa trên chúng vào năm đoán phạt của chúng Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 13 vì Ta đã thấy sự gớm ghiếc giữa các tiên tri tại Sa-ma-ri. Chúng nhân danh Ba-anh mà nói tiên tri và dẫn dân Y-sơ-ra-ên của Ta ra khỏi con đường chính đáng.
\v 14 Và giữa các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem, Ta đã thấy những điều kinh khủng: Chúng phạm tội tà dâm và bước theo sự lừa dối. Chúng làm mạnh tay của những kẻ bất lương; không ai từ bỏ việc ác mình. Tất cả chúng đều trở nên như Sô-đôm và cư dân của nó như Gô-mô-rơ! ’”
\v 15 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán về các tiên tri như vầy: “Kìa, Ta sẽ khiến chúng ăn ngải cứu và uống mật đắng, vì sự sa đọa của chúng ra từ các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem đến trong cả xứ.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va vạn quân phán vầy: “Chớ nghe lời của các tiên tri nói tiên tri với ngươi. Chúng lừa ngươi! Chúng loan báo về những sự hiện thấy do chính chúng nghĩ ra, chứ không phải bởi miệng Đức Giê-hô-va phán.
\v 17 Chúng luôn nói với những kẻ bất kính Ta rằng: Đức Giê-hô-va phán rằng anh sẽ có sự bình an. Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi trong lòng mình rằng: Tai họa sẽ không đến trên anh đâu.
\v 18 Nhưng ai đứng được trong cuộc họp hội đồng của Đức Giê-hô-va? Ai thấy và nghe lời Ngài? Ai chú ý đến lời Ngài và nghe?
\s5
\v 19 Kìa, từ Đức Giê-hô-va ra một cơn bão! Cơn giận của Ngài đang toát ra, giông tố đang nổi lên. Gió lốc quanh đầu những kẻ ác.
\v 20 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi nó đã thực thi và đem vào lòng những dự định của tấm lòng mình. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều đó.
\s5
\v 21 Ta không sai các tiên tri này ra đi. Chúng chỉ xuất hiện. Ta không truyền cho chúng bất cứ điều gì, nhưng chúng vẫn nói tiên tri.
\v 22 Vì nếu chúng đứng nơi họp hội đồng của Ta, chúng sẽ khiến dân Ta nghe lời Ta; chúng sẽ khiến dân Ta từ bỏ những lời gian ác và đường dữ việc xấu.
\s5
\v 23 Ta chỉ là một Đức Chúa Trời ở gần hay sao Đức Giê-hô-va phán vậy chứ không phải là Đức Chúa Trời ở xa?
\v 24 Ai có thể ẩn mình nơi kín đáo để Ta không thấy? Đức Giê-hô-va phán vậy Ta không lấp đầy các từng trời và đất sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 25 Ta đã nghe điều các tiên tri đó nói, những kẻ nhân danh Ta mà tiên tri dối. Chúng nói: Tôi có một giấc mơ! Tôi có một giấc mơ!
\v 26 Các tiên tri nói tiên tri dối theo trí mình và theo lòng mình đến khi nào?
\v 27 Chúng lập mưu khiến dân Ta quên danh Ta bằng những giấc chiêm bao chúng kể lại với mỗi người, như tổ phụ chúng đã quên danh Ta mà chỉ nhớ đến danh Ba-anh.
\s5
\v 28 Tiên tri nào có chiêm bao, hãy để nó kể lại chiêm bao đó. Nhưng người nào được Ta phán truyền, hãy để người công bố lời Ta một cách chân thật. Rơm có liên quan gì với lúa? Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 29 lời của Ta không giống như lửa sao? Đức Giê-hô-va phán vậy và như búa đập vỡ đá?
\v 30 Vậy, kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này Đức Giê-hô-va phán vậy là kẻ nào cướp lời của người khác và nói rằng lời đó đến từ Ta.
\s5
\v 31 Kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này Đức Giê-hô-va phán vậy tức là những kẻ dùng lưỡi mình nói tiên tri.
\v 32 Kìa, Ta nghịch lại những tiên tri mơ mộng giả dối Đức Giê-hô-va phán vậy chúng công bố những giấc chiêm bao ấy và khiến dân Ta lầm đường lạc lối bằng sự giả dối và khoe khoang của chúng. Ta nghịch lại chúng, vì Ta không sai chúng đi cũng chẳng truyền lệnh cho chúng. Chúng chắc chắn sẽ không giúp dân này Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 33 Khi dân này hoặc một tiên tri hoặc một thầy tế lễ hỏi ngươi: Đức Giê-hô-va phán gì? thì ngươi phải nói rằng: Lời phán nào chứ? Vì Ta đã bỏ các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 34 Còn các tiên tri, thầy tế lễ, và những ai nói rằng: Này là lời Đức Giê-hô-va phán, Ta sẽ phạt người đó và nhà nó.
\s5
\v 35 Mỗi người hãy hỏi người lân cận và anh em mình rằng: Đức Giê-hô-va trả lời thế nào? Đức Giê-hô-va phán gì?
\v 36 Nhưng quý vị không được nói về sự tuyên bố của Đức Giê-hô-va nữa, vì lời tuyên bố từ mỗi người đã trở thành sứ điệp của riêng nó, quý vị đã xuyên tạc lời của Đức Chúa Trời hằng sống, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của chúng ta.
\s5
\v 37 Đây là lời quý vị hỏi tiên tri: Đức Giê-hô-va đã trả lời ông thế nào? Đức Giê-hô-va phán gì?
\v 38 Quý vị thuật lại lời phán của Đức Giê-hô-va, nhưng Đức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi nói: “Này là lời Đức Giê-hô-va phán, ” thậm chí Ta đã ra lệnh cho ngươi và nói rằng: “Chớ nói: Này là lời phán của Đức Giê-hô-va. ”
\v 39 Vì vậy, kìa, Ta sẽ nhặt ngươi lên và quăng ngươi khỏi Ta, cùng với thành mà Ta đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi.
\v 40 Ta sẽ khiến ngươi bị xấu hổ và sỉ nhục đời đời không bao giờ quên. ’”
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va cho tôi thấy một vật. Kìa, hai giỏ trái vả được đặt trước đền thờ Đức Giê-hô-va. (Sự hiện thấy này xảy ra khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, các quan chức Giu-đa, thợ thủ công và thợ kim khí ra khỏi Giê-ru-sa-lem và đem lưu đày tại Ba-by-lôn.)
\v 2 Một trong các giỏ trái vả rất tốt, như trái vả đầu mùa, nhưng giỏ trái vả còn lại rất xấu đến nỗi không thể ăn được.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì? ” Tôi trả lời: “Thưa Chúa, con thấy trái vả. Có trái vả ngon và trái vả tệ đến nỗi không thể ăn được.”
\s5
\v 4 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng,
\v 5 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ta sẽ xem xét những phu tù của Giu-đa vì lợi ích của chúng, như những trái vả tốt này, những phu tù mà Ta đã bắt ra khỏi xứ này và đem vào xứ Canh-đê.
\v 6 Mắt Ta sẽ trông nom chúng mãi mãi và đem chúng về xứ này. Ta sẽ xây chúng, và không đánh đổ chúng. Ta sẽ trồng chúng và không nhổ chúng.
\v 7 Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng để nhận biết Ta, vì Ta là Đức Giê-hô-va. Chúng sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, chúng sẽ trở về bên Ta với trọn tấm lòng.
\s5
\v 8 Nhưng như những trái vả xấu đến nỗi không thể ăn được Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ làm y như vậy với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, cùng với các quan chức của nó, và dân Giê-ru-sa-lem còn sót lại trong xứ này hoặc ở trong xứ Ai Cập.
\v 9 Ta sẽ biến chúng thành một thứ đáng sợ, một tai họa, trước mặt các vương quốc trên đất, một nỗi hổ thẹn và là một đề tài tục ngữ, lời chế nhạo, và lời nguyền rủa ở mọi nơi mà Ta đuổi chúng đến.
\v 10 Ta sẽ giáng gươm dao, đói kém, và dịch lệ trên chúng, chúng sẽ bị diệt khỏi xứ mà Ta đã ban cho chúng và tổ phụ chúng.”
\s5
\c 25
\p
\v 1 Có lời phán cùng Giê-rê-mi về dân Giu-đa vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa. Ấy là năm thứ nhất của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.
\v 2 Tiên tri Giê-rê-mi công bố lời này cho toàn dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Ông nói: “Trong hai mươi ba năm, từ năm thứ mười ba của Giô-si-a, con A-môn, vua Giu-đa, cho đến ngày hôm nay, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi. Tôi đã rao báo cho quý vị. Tôi đã thiết tha rao báo lời ấy, nhưng quý vị chẳng lắng nghe.
\v 4 Đức Giê-hô-va đã sai hết thảy tôi tớ Ngài là các tiên tri đến cùng quý vị. Họ hăm hở ra đi, nhưng quý vị không nghe cũng không chú ý.
\s5
\v 5 Các tiên tri ấy nói rằng: Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và sự sai lạc trong việc làm và trở về xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi trong thời xưa, như một món quà đời đời.
\v 6 Vậy, chớ bước theo các thần khác đặng thờ chúng hoặc quỳ lạy chúng, và chớ khiêu khích Ngài bằng công việc của tay mình kẻo Ngài làm hại ngươi.
\s5
\v 7 Nhưng ngươi chẳng nghe Ta Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi đã khiêu khích Ta bằng công việc của tay ngươi, khiến Ta làm hại ngươi.
\v 8 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Vì ngươi không nghe lời Ta,
\v 9 kìa, Ta sẽ ra lệnh nhóm lại mọi dân từ phương bắc Đức Giê-hô-va phán vậy với tôi tớ Ta là Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và đem chúng đến nghịch cùng xứ này và cư dân nó, và nghịch cùng mọi nước xung quanh ngươi. Vì Ta sẽ để riêng chúng cho sự hủy diệt. Ta sẽ biến chúng thành một điều kinh khủng, một đối tượng bị huýt sáo cười chê, và một sự tan hoang không hề dứt.
\s5
\v 10 Tiếng của sự vui mừng và vui vẻ - tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của cối xay và ánh đèn Ta sẽ khiến hết thảy những điều này biến mất khỏi các nước ấy.
\v 11 Sau đó, cả xứ này sẽ trở nên hoang vu và sự kinh khiếp, và các nước này sẽ phục vụ vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
\s5
\v 12 Sau khi đã mãn bảy mươi năm, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và nước đó, là xứ của dân Canh-đê Đức Giê-hô-va phán vậy vì tội ác của chúng và khiến nó thành một nơi hoang vu đời đời.
\v 13 Ta sẽ thực thi mọi lời mà Ta đã phán nghịch cùng xứ đó, và mọi thứ được viết trong quyển sách này, là sách Giê-rê-mi đã nói tiên tri về tất cả các nước.
\v 14 Các nước khác và vua lớn khác sẽ bắt các nước này làm tôi mọi. Ta sẽ báo trả chúng vì việc làm và việc của tay chúng. ’”
\s5
\v 15 Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tôi như vầy: “Hãy lấy chén rượu thạnh nộ này từ tay Ta và cho các dân mà Ta sai ngươi đến uống nó.
\v 16 Chúng sẽ uống và vấp ngã và nói huênh hoang một cách điên rồ trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa chúng.”
\s5
\v 17 Vậy, tôi lấy chén từ tay Đức Giê-hô-va, và tôi cho tất cả các nước mà Đức Giê-hô-va sai tôi đến uống nó
\v 18 Giê-ru-sa-lem, các thành của Giu-đa cùng các vua và quan chức của nó biến chúng thành những nơi điêu tàn và một điều kinh hãi, một đối tượng bị huýt sáo chê cười và rủa sả, như đến ngày hôm nay.
\s5
\v 19 Các dân khác cũng phải uống nó: Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và các quần thần của ông ấy; các quan chức và dân chúng của ông ấy;
\v 20 tất cả các dân hỗn tạp và các vua xứ U-xơ; tất cả các vua ở xứ Phi-li-tin Ách-kê-lôn, Ga-xa, Éc-rôn, và những người còn lại của Ách-đốt;
\v 21 Ê-đôm và Mô-áp cùng dân Am-môn;
\s5
\v 22 các vua Ty-rơ và Si-đôn; các vua vùng duyên hải ở phía bên kia biển;
\v 23 Đê-đan, Tê-ma, và Bu-xơ cùng với những người cắt tóc ở hai bên đầu.
\s5
\v 24 Những người này cũng phải uống chén ấy; tất cả các vua A-ra-bi và vua của dân hỗn tạp sống trong hoang mạc;
\v 25 tất cả các vua Xim-ri, các vua Ê-lam, và mọi vua ở Mê-đi;
\v 26 tất cả các vua phương bắc, những vua ở gần và ở xa mỗi người cùng với anh em mình và tất cả các vương quốc trên thế giới. Cuối cùng, vua Ba-by-lôn sẽ uống sau chúng.
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Bây giờ ngươi phải nói với chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy uống và say, mửa, ngã xuống, và đừng đứng dậy trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa ngươi.
\v 28 Sau đó nếu chúng từ chối uống chén từ tay ngươi, hãy nói với chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ngươi chắc chắn phải uống chén ấy.
\v 29 Vì kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên thành này là thành được xưng bằng danh Ta, chính các ngươi sẽ được thoát khỏi sự trừng phạt sao? Các ngươi sẽ không thoát đâu, vì Ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng mọi dân cư trên đất! Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
\s5
\v 30 Vậy, Giê-rê-mi, ngươi phải nói tiên tri với chúng về những lời này. Ngươi phải nói rằng: Đức Giê-hô-va gầm thét từ trên cao và cất tiếng Ngài từ nơi ngự thánh của Ngài. Ngài gầm nghịch lại nơi ngự của Ngài; Ngài la nghịch lại mọi dân cư trên đất, như người ta hát khi đạp trái nho.
\v 31 Có tiếng vang ra đến tận cùng đất, vì sự tranh cạnh từ Đức Giê-hô-va sẽ tố các dân. Ngài sẽ thực thi công lý đối với mọi loài xác thịt. Ngài sẽ phó kẻ ác cho gươm Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 32 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, tai vạ sẽ đi từ dân này qua dân kia, một cơn bão lớn sẽ nổi lên từ những nơi xa nhất trên đất.
\v 33 Trong ngày đó, những kẻ bị Đức Giê-hô-va giết sẽ đầy từ góc này đến góc kia trên đất; chúng sẽ không được than khóc, thu gom, hoặc chôn. Chúng sẽ như phân trên đất.
\s5
\v 34 Hãy than khóc, hỡi những kẻ chăn chiên, hãy kêu cầu giúp đỡ! Hãy nằm lăn trên đất, hỡi những người đè đầu cưỡi cổ đàn chiên. Vì ngày ngươi bị giết và tản lạc đã đến. Ngươi sẽ ngã như chiên đực được chọn.
\v 35 Nơi ẩn náu dành cho kẻ chăn không còn nữa. Không có chỗ thoát cho những kẻ oai vệ trong bầy.
\v 36 Có những tiếng kêu đau buồn của những kẻ chăn bầy và tiếng than khóc của những kẻ oai vệ trong bầy chiên, vì Đức Giê-hô-va sẽ phá hoang đồng cỏ của họ.
\s5
\v 37 Các đồng cỏ yên bình sẽ bị phá hoang vì cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va.
\v 38 Như sư tử con, nó rời khỏi chuồng, vì xứ của nó sẽ trở thành điều kinh khiếp bởi cơn giận đè nén và cơn thạnh nộ của nó. ’”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán,
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy đứng ở sân nơi nhà Ta và nói về hết thảy dân chúng từ các thành của Giu-đa là những người đến tôn thờ Ta trong nhà Ta. Hãy công bố mọi lời Ta đã truyền ngươi nói với chúng. Chớ bỏ một từ nào!
\v 3 Có lẽ chúng sẽ nghe, ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, Ta sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ta định sẽ giáng xuống vì cớ những việc ác của chúng.
\s5
\v 4 Vậy, ngươi phải nói với chúng rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nếu các ngươi không nghe Ta đặng bước đi trong luật pháp mà Ta đã đặt trước mặt các ngươi
\v 5 nếu các ngươi không nghe lời của tôi tớ Ta là các tiên tri do Ta liên tục sai đến nhưng các ngươi không nghe!
\v 6 Ta sẽ khiến nhà này trở nên như Si-lô; Ta sẽ biến thành này thành vật đáng nguyền rủa trước mặt mọi dân trên đất. ’”
\s5
\v 7 Các thầy tế lễ, tiên tri, và toàn thể dân sự nghe Giê-rê-mi loan báo những lời này trong nhà Đức Giê-hô-va.
\v 8 Sau khi Giê-rê-mi đã loan báo xong mọi lời Đức Giê-hô-va truyền cho người phải nói với dân sự, các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy dân chúng đều bao vây ông và nói: “Ông chắc sẽ chết!
\v 9 Sao ông nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri và nói rằng nhà này sẽ trở nên như Si-lô và thành này sẽ trở nên hoang vu, không có người ở? ” Tất cả dân sự đều vây quanh Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Khi đó, các quan chức Giu-đa nghe những lời này và rời khỏi cung vua để đến nhà Đức Giê-hô-va. Họ ngồi ở cổng nơi Cổng Mới của nhà Đức Giê-hô-va.
\v 11 Các thầy tế lễ và tiên tri nói với các quan chức và toàn thể dân sự. Họ nói: “Tên này thật đáng chết, vì hắn đã nói tiên tri nghịch lại thành này, như chính tai các ông đã nghe! ”
\v 12 Vậy, Giê-rê-mi nói với tất cả quan chức và dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va đã sai tôi đi ra nói tiên tri nghịch lại nhà này và thành này, nói mọi lời mà quý vị đã nghe
.
\s5
\v 13 Vậy bây giờ, hãy cải thiện đường lối và việc làm của quý vị, và hãy lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị, hầu cho Ngài sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài đã công bố nghịch lại quý vị.
\v 14 Còn chính tôi này tôi đang ở trong tay quý vị. Quý vị muốn làm gì với tôi thì làm miễn là quý vị vừa lòng.
\v 15 Nhưng quý vị phải biết chắc rằng nếu quý vị giết tôi, quý vị sẽ khiến huyết vô tội đổ lại trên đầu quý vị, trên thành này và dân cư nó, vì Đức Giê-hô-va thật đã sai tôi đến công bố mọi lời này bên tai quý vị.”
\s5
\v 16 Sau đó, các quan chức và toàn thể dân sự nói với các thầy tế lễ và tiên tri: “Tên này không đáng chết, vì hắn nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta mà công bố những lời ấy về chúng ta. ”
\v 17 Vậy, các trưởng lão trong xứ đứng lên và nói cùng toàn thể hội chúng.
\s5
\v 18 Họ nói: “Mi-chê người Mô-rê-sết đã nói tiên tri trong đời Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Người nói với toàn thể dân Giu-đa rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Si-ôn sẽ bị cày xới như đồng ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành đống gạch vụn, và ngọn núi có đền thờ này sẽ biến thành đồi đầy bụi cây.
\v 19 Có phải Ê-xê-chia vua Giu-đa và tất cả người Giu-đa xử tử ông ấy không? Ông ấy không kính sợ Đức Giê-hô-va và cầu xin Đức Giê-hô-va thương xót để Ngài bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài định giáng trên họ sao? Vậy chúng ta sẽ làm điều ác nhiều hơn trong đời mình sao?”
\s5
\v 20 Trong lúc đó, có một người khác nhân danh Đức Giê-hô-va nói tiên tri U-ri-a con Sê-ma-gia đến từ Ki-ri-át Giê-a-rim ông cũng nói tiên tri nghịch lại thành này và xứ này, y theo những lời của Giê-rê-mi.
\v 21 Nhưng khi Vua Giê-hô-gia-kim và quân lính cùng các quan chức nghe lời của ông, vua cố giết ông, nhưng U-ri-a biết tin và sợ hãi, ông chạy trốn qua xứ Ai Cập.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Vua Giê-hô-gia-kim sai người đến Ai Cập gồm Ên-na-than, con Ách-bô, và những người khác đi cùng ông đến Ai Cập.
\v 23 Họ bắt U-ri-a ở ai Cập và dẫn về cho Vua Giê-hô-gia-kim. Sau đó, Giê-hô-gia-kim lấy gươm giết ông và ném thi hài của ông trên mộ của thường dân.
\v 24 Nhưng A-hi-cam con trai Sa-phan ra tay bênh vực Giê-rê-mi, vì vậy ông không bị phó vào tay dân sự đặng tử hình ông.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.
\v 2 Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Hãy làm cùm và ách cho chính ngươi. Hãy đặt lên cổ ngươi.
\v 3 Sau đó, gửi chúng cho vua Ê-đôm, vua Mô-áp, vua dân Am-môn, vua Ty-rơ, và vua Si-đôn. Hãy gửi qua tay các sứ thần của các vua ấy là những người đến Giê-ru-sa-lem để chầu Sê-đê-kia, vua Giu-đa.
\v 4 Hãy dặn họ tâu với chủ họ rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Này là lời các ngươi phải nói cùng chủ mình,
\s5
\v 5 “Chính Ta đã dựng nên đất này bằng sức mạnh và cánh tay giang ra của Ta. Ta cũng dựng nên loài người và muông thú trên đất, và Ta ban nó cho ai tùy ý Ta.
\v 6 Vậy bây giờ, chính Ta sẽ phó những xứ này vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tôi tớ Ta. Ngoài ra, Ta cũng phó những vật sống ngoài đồng vào tay nó để phục vụ nó.
\v 7 Vì mọi dân sẽ phục vụ nó, con trai nó, và các cháu trai nó cho đến thời điểm của nước nó. Sau đó, mọi nước và vua lớn sẽ phục nó.
\s5
\v 8 Vậy, dân nào và vương quốc nào không phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và không đeo ách của vua Ba-by-lôn vào cổ mình Ta sẽ phạt dân đó bằng gươm, đói kém, và dịch lệ - Đức Giê-hô-va phán vậy cho đến khi Ta dùng tay nó hủy diệt chúng.
\s5
\v 9 Còn ngươi! Chớ nghe các tiên tri, những kẻ bói toán, kẻ bàn mộng, thầy bói, và phù thủy là những kẻ nói cùng ngươi rằng: Đừng phục vụ vua Ba-by-lôn.
\v 10 Vì chúng nói tiên tri dối cùng ngươi để ngươi rời xa khỏi xứ mình, vì Ta sẽ đuổi ngươi đi, rồi ngươi sẽ chết.
\v 11 Nhưng dân nào đặt cổ mình dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ nó, Ta sẽ cho dân đó yên nghỉ trong xứ ấy Đức Giê-hô-va phán vậy chúng sẽ vun trồng và xây nhà ở đó. ”’”
\s5
\v 12 Vậy, tôi tâu với Sê-đê-kia vua Giu-đa và rao sứ điệp này: “Xin hãy đặt cổ bệ hạ dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ người cùng dân của người, bệ hạ sẽ sống.
\v 13 Sao bệ hạ và dân của bệ hạ chết bởi gươm, đói kém, và dịch lệ, như tôi đã công bố về dân từ chối phục vụ vua Ba-by-lôn?
\s5
\v 14 Xin chớ nghe lời của những tiên tri nói với bệ hạ rằng: Xin đừng phục vụ vua Ba-by-lôn, vì họ nói tiên tri dối cùng bệ hạ.
\v 15 Vì Ta đã chẳng sai chúng Đức Giê-hô-va phán vậy chúng nhân danh Ta mà nói tiên tri dối để Ta đuổi ngươi đi và ngươi sẽ chết, nghĩa là ngươi và các tiên tri đang nói tiên tri cùng ngươi. ’”
\s5
\v 16 Tôi công bố với các thầy tế lễ và toàn dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ nghe lời của những tiên tri nói tiên tri cùng các ngươi rằng: Kìa! Các vật trong nhà Đức Giê-hô-va sẽ sẽ được trả về từ Ba-by-lôn! Chúng nói tiên tri dối cùng các ngươi.
\v 17 Chớ nghe chúng. Ngươi nên phục vụ vua Ba-by-lôn và sẽ được sống. Sao thành này trở thành nơi đổ nát?
\v 18 Nếu chúng là tiên tri, và nếu lời của Đức Giê-hô-va thật sự đến với chúng, hãy để chúng nài xin Đức Giê-hô-va vạn quân đừng phó vào Ba-by-lôn những vật còn lại trong nhà Ngài, trong cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 19 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ công bố về các trụ, biển, đế tảng, và những vật còn lại trong thành này
\v 20 là những vật mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, không đem đi khi nó bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, ra khỏi Giê-ru-sa-lem để làm phu tù ở Ba-by-lôn cùng với tất cả các quý tộc của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy về những vật còn lại trong nhà Đức Giê-hô-va, cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem,
\v 22 Chúng sẽ bị đem qua Ba-by-lôn, và chúng sẽ được để lại đó cho đến ngày Ta để ý đến chúng Đức Giê-hô-va phán vậy sau đó Ta sẽ đem chúng trở về và đặt lại trong nơi này. ’”
\s5
\c 28
\p
\v 1 Trong năm đó, vào đầu triều đại của Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ tư và tháng thứ năm, Ha-na-nia, con của tiên tri A-xua ở Ghi-bê-ôn, nói với tôi trong nhà Đức Giê-hô-va trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự. Ông ấy nói,
\v 2 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã bẻ ách do vua Ba-by-lôn đặt.
\s5
\v 3 Trong vòng hai năm, Ta sẽ đem về nơi này mọi vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lấy khỏi nơi đây và đem đến Ba-by-lôn.
\v 4 Sau đó, Ta sẽ đem Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và tất cả phu tù Giu-đa đã bị bắt qua Ba-by-lôn về đây Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta sẽ bẻ ách của vua Ba-by-lôn.”
\s5
\v 5 Vậy, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự đang đứng nơi nhà Đức Giê-hô-va.
\v 6 Tiên tri Giê-rê-mi nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va làm điều này! Nguyện Đức Giê-hô-va chứng thực lời mà ông đã nói tiên tri và đem về nơi này những vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va, cùng tất cả các phu tù từ Ba-by-lôn.
\v 7 Tuy nhiên, ông và tất cả mọi người ở đây hãy nghe lời mà tôi sẽ công bố.
\s5
\v 8 Các tiên tri sống trước tôi và ông từ thời xưa cũng đã nói tiên tri về nhiều dân và nghịch lại các nước lớn, về chiến tranh, đói kém, và dịch lệ.
\v 9 Vậy, tiên tri này nói tiên tri rằng sẽ có hòa bình nếu lời của người là thật, thì hãy biết rằng đó thật là tiên tri do Đức Giê-hô-va sai đến.”
\s5
\v 10 Nhưng tiên tri Ha-na-nia cất cái ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi và bẻ nó.
\v 11 Sau đó, Ha-na-ni nói trước mặt toàn thể dân sự: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, trong vòng hai năm, Ta sẽ bẻ ách của Nê-bu-ca-nết-sa, vua Ba-by-lôn, khỏi cổ từng dân. ” Tiên tri Giê-rê-mi bỏ đi.
\s5
\v 12 Sau khi tiên tri Ha-na-ni đã bẻ ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi, Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 13 “Hãy đi đến nói với Ha-na-nia rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi đã bẻ ách bằng gỗ, nhưng Ta sẽ làm một ách bằng sát.
\v 14 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã đặt một ách bằng sắt trên cổ tất cả các dân này để chúng phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và chúng sẽ phục vụ nó. Ta cũng đã phó cho nó những thú hoang ngoài đồng đặng cai trị.
\s5
\v 15 Kế đó, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia: “Hỡi Ha-na-nia, hãy nghe! Đức Giê-hô-va không sai ông đi, nhưng chính ông đã khiến dân này tin vào những lời nói dối.
\v 16 Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi mặt đất. Năm nay ngươi sẽ chết, vì ngươi tuyên bố chống nghịch Đức Giê-hô-va. ”
\v 17 Và tiên tri Ha-na-nia chết vào tháng bảy trong cùng năm đó.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Đây là lời trong cuộn giấy mà tiên tri Giê-rê-mi từ Giê-ru-sa-lem gửi cho các trưởng lão còn sót lại giữa những phu tù và cho các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy những người mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn.
\v 2 Sứ điệp này được ban ra sau khi vua Giê-hô-gia-kin, mẫu hậu, và các quan chức cấp cao, các lãnh đạo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và những thợ thủ công đã rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Ông gửi cuộn giấy này qua tay Ê-la-sa, con Sa-phan, và Ghê-ma-ri con Hinh-kia, là người mà Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã sai đến chầu Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Cuộn giấy có nội dung như sau: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tất cả các phu tù mà Ta đã khiến bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn như vầy,
\v 5 Hãy xây nhà và sống tại đó. Hãy lập nên những khu vườn và ăn trái của chúng.
\s5
\v 6 Hãy cưới vợ và sinh con trai con gái. Sau đó hãy dựng vợ gả chồng cho con trai con gái các ngươi. Hãy cho chúng sinh con trai con gái và gia tăng dân số để các ngươi ngày càng đông hơn.
\v 7 Hãy tìm kiếm sự bình an của thành mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày, và hãy vì nó mà cầu khẩn Ta vì các ngươi sẽ có sự bình an nếu thành ấy yên ổn.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Chớ để các tiên tri giữa vòng các ngươi và thầy bói lừa gạt các ngươi, chớ nghe theo những giấc mộng mà các ngươi thấy.
\v 9 Vì chúng nhân danh Ta nói tiên tri dối cùng các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Khi Ba-by-lôn đã cai trị các ngươi được bảy mươi năm, Ta sẽ giúp các ngươi và thực hiện lời tốt lành của Ta dành cho các ngươi đặng đem các ngươi về nơi này.
\v 11 Vì chính Ta biết kế hoạch Ta dành cho các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy là những kế hoạch làm cho các ngươi được bình an chứ không phải tai họa, và đem đến cho các ngươi một tương lai và niềm hy vọng.
\s5
\v 12 Sau đó, các ngươi sẽ kêu cầu Ta, và đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nghe các ngươi.
\v 13 Các ngươi sẽ tìm kiếm Ta và gặp được Ta, vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta.
\v 14 Các ngươi sẽ tìm được Ta Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các ngươi; Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ mọi nước và mọi nơi mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày.
\s5
\v 15 Vì ngươi nói rằng Đức Giê-hô-va đã dấy lên các tiên tri cho chúng ta tại Ba-by-lôn,
\v 16 Đức Giê-hô-va phán như vầy cho vua ngồi trên ngai Đa-vít và cho toàn thể dân chúng trong thành đó, là những anh em của các ngươi, tức những người chưa bị bắt làm phu tù với các ngươi
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ sai gươm, nạn đói, và bệnh dịch đến trên chúng. Ta sẽ khiến chúng như trái vả thối rữa đến nỗi chẳng ăn được.
\s5
\v 18 Ta sẽ đuổi theo chúng bằng gươm, nạn đói, dịch lệ và biến chúng thành một chứng tích kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất một sự kinh khiếp, một đối tượng bị rủa sả và huýt sáo gièm chê, và một thứ ô nhục giữa các nước mà Ta đuổi đến.
\v 19 Ấy là bởi vì chúng không nghe lời Ta Đức Giê-hô-va phán vậy là lời mà Ta đã phán qua các tôi tớ Ta là những tiên tri. Ta đã liên tiếp sai họ đến, nhưng các ngươi không nghe Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 20 Vậy, xin quý vị hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn,
\v 21 Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về A-háp con Cô-la-gia, và Sê-đê-kia, con Ma-a-sê-gia, là kẻ nhân danh Ta mà nói tiên tri dối cùng các ngươi: Kìa, Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ giết chúng trước mặt các ngươi.
\s5
\v 22 Các phu tù Giu-đa ở Ba-by-lôn sẽ rủa sả những kẻ này. Họ sẽ rủa rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va khiến ngươi như Sê-đê-kia và A-háp, là người mà vua Ba-by-lôn đem quay trên lửa.
\v 23 Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc đáng xấu hổ mà chúng đã làm tại Y-sơ-ra-ên khi chúng phạm tội tà dâm với vợ của kẻ lân cận mình và nhân danh Ta nói những lời giả dối, là những lời mà Ta chẳng bao giờ truyền cho chúng nói. Vì Ta là Đấng biết rõ; Ta là Đấng chứng kiến Đức Giê-hô-va phán vậy. ’”
\s5
\v 24 “Còn về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam, hãy nói như vầy,
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Vì ngươi đã dùng danh mình mà gửi thư cho toàn thể dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, cho Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia, và cho tất cả các thầy tế lễ, rằng:
\v 26 “Đức Giê-hô-va đã lập ông làm thầy tế lễ thay cho thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, để coi sóc nhà Đức Giê-hô-va. Ông sẽ kiểm soát những ai điên dại tự xưng mình là tiên tri. Ông phải lấy xiềng xích cùm họ lại.
\s5
\v 27 Vậy bây giờ, sao ngươi không quở trách Giê-rê-mi người A-na-tốt, là người đã tự xưng là tiên tri nghịch lại cùng ngươi?
\v 28 Vì người đã gửi thư cho chúng ta tại Ba-by-lôn và nói rằng: Sẽ lâu lắm đây. Hãy xây nhà và ở đó, hãy trồng cây trong vườn và ăn trái của chúng. ”’”
\v 29 Thầy tế lễ Sô-phô-ni đọc thư này trước mặt tiên tri Giê-rê-mi.
\s5
\v 30 Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 31 “Hãy rao tin cho tất cả những người lưu đày và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam như vầy: Vì Sê-ma-gia đã nói tiên tri cùng các ngươi khi Ta chẳng sai nó đến; vì nó dẫn dụ các ngươi tin những lời giả dối,
\v 32 do đó, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt Sê-ma-gia người Nê-hê-lam cùng con cháu nó. Sẽ chẳng có ai trong dòng dõi nó được ở trong dân này. Nó sẽ chẳng thấy điều tốt lành mà Ta sẽ làm cho dân Ta Đức Giê-hô-va phán vậy vì nó công bố điều xảo trá nghịch lại Ta, Đức Giê-hô-va. ’”
\s5
\c 30
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy viết lên một cuộn giấy mọi lời mà Ta đã truyền cho ngươi.
\v 3 Vì kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là những ngày mà Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của dân Ta, là Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán như vậy. Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng, chúng sẽ ở trong xứ ấy. ’”
\s5
\v 4 Đây là những lời Đức Giê-hô-va phán về Y-sơ-ra-ên và Giu-đa,
\v 5 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chúng ta có nghe tiếng run rẩy của sự khiếp sợ chứ chẳng phải sự bình an.
\s5
\v 6 Hãy hỏi và xem thử người đàn ông có sinh đẻ không. Tại sao Ta thấy đàn ông trai tráng lấy tay ôm thắt lưng họ? Giống như đàn bà sinh đẻ, sao mặt họ tái nhợt?
\v 7 Thật khốn thay! Vì ngày đó sẽ lớn lắm, đến nỗi chẳng có ngày nào giống như vậy. Ấy sẽ là khoảng thời gian khoắc khoải của Gia-cốp, nhưng nó sẽ được cứu khỏi sự ấy.
\s5
\v 8 Trong ngày đó Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy Ta sẽ bẻ ách khỏi cổ ngươi, Ta sẽ đập vỡ xiềng xích ngươi, người ngoại quốc sẽ không còn bắt ngươi làm nô lệ nữa.
\v 9 Nhưng chúng sẽ tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời và phục vụ Đa-vít, vua của chúng, là người mà Ta sẽ lập làm vua cai trị chúng.
\s5
\v 10 Vậy ngươi, hỡi Gia-cốp tôi tớ Ta, chớ sợ hãi Đức Giê-hô-va phán vậy và chớ mất can đảm, hỡi Y-sơ-ra-ên. Vì kìa, Ta sẽ đem ngươi từ nơi phương xa trở về, và con cháu ngươi từ xứ phu tù. Gia-cốp sẽ trở về và sống bình an; nó sẽ được yên ninh và sẽ không còn khiếp sợ nữa.
\v 11 Vì Ta ở với ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy đặng giải cứu ngươi. Sau đó, Ta sẽ tiêu diệt hoàn toàn những nước mà Ta đã đuổi ngươi đến. Nhưng chắc chắn Ta sẽ không diệt ngươi, dù Ta kỷ luật ngươi công minh và Ta chắc chắn sẽ không để ngươi khỏi bị hình phạt.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Vết thương của ngươi không thể chữa được; thương tích của ngươi bị nhiễm độc.
\v 13 Không ai bênh vực cho hoàn cảnh của ngươi; không thuốc nào để nào chữa lành vết thương ngươi.
\s5
\v 14 Tất cả người tình của ngươi đều đã quên ngươi. Chúng sẽ không tìm kiếm ngươi, vì Ta đã khiến ngươi bị thương bằng thương tích của kẻ thù và sự kỷ luật của kẻ hung ác bởi cớ những điều trái với đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi.
\v 15 Sao ngươi kêu cầu giúp đỡ vì vết thương ngươi? Sự đau đớn ngươi vô phương cứu chữa. Vì cớ những điều trái đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi, Ta đã giáng những việc này trên ngươi.
\s5
\v 16 Vậy, ai thiêu nuốt ngươi sẽ bị thiêu nuốt, hết thảy kẻ thù của ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Kẻ nào cướp bóc ngươi sẽ bị cướp bóc, và Ta sẽ khiến mọi kẻ cướp đoạt ngươi trở nên của cướp.
\v 17 Ta sẽ chữa lành ngươi; Ta sẽ chữa lành thương tích ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ làm như vậy vì chúng gọi ngươi là Kẻ bị ruồng bỏ. Không ai ngó ngàng đến Si-ôn. ’”
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các lều Gia-cốp và thương xót nhà của nó. Một thành phố sẽ được xây trên đống hoang tàn, một đồn lũy sẽ lại tồn tại ở nơi nó từng tồn tại.
\v 19 Chúng sẽ hát bài ca ngợi khen và cất tiếng vui vẻ, vì Ta sẽ khiến chúng gia tăng dân số chứ không giảm trừ nữa; Ta sẽ cho chúng được tôn trọng, chúng sẽ không bị hạ thấp.
\s5
\v 20 Dân của chúng sẽ giống như trước, và hội chúng của chúng sẽ được lập trước mặt Ta khi Ta trừng phạt những kẻ hiện giờ đang hành khổ chúng.
\v 21 Người lãnh đạo của chúng sẽ ra từ giữa chúng. Người sẽ hiện ra từ giữa chúng khi Ta kéo người đến gần và khi người đến gần Ta. Nếu Ta không làm vậy, ai dám đến gần Ta? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 22 Ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi.
\s5
\v 23 Kìa, giông tố của Đức Giê-hô-va, cơn thịnh nộ của Ngài, đã nổi lên. Đấy là cơn giông tố triền miên. Nó xoáy trên đầu của kẻ ác.
\v 24 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi Ngài đã thực thi và hoàn thành điều lòng Ngài đã định. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều ấy.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 “Khi ấy Đức Giê-hô-va phán như vầy Ta sẽ là Đức Chúa Trời của tất cả các thị tộc Y-sơ-ra-ên, chúng sẽ là dân Ta. ”
\v 2 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Dân đã thoát khỏi sự tàn sát của lưỡi gươm, tức là Y-sơ-ra-ên, đã tìm được ân huệ trong hoang mạc này. ”
\v 3 Đức Giê-hô-va đã hiện ra với tôi trong thuở xưa và phán: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu đời đời. Ta đã kéo ngươi đến với Ta bằng sự thành tín theo giao ước.
\s5
\v 4 Ta sẽ lại dựng ngươi lên, ngươi sẽ được dựng lên, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ lại cầm trống cơm và đi ra nhảy múa vui mừng.
\v 5 Ngươi sẽ lại trồng vườn nho trên các núi ở Sa-ma-ri; các nông dân sẽ trồng trọt và ăn trái tốt.
\v 6 Sẽ có ngày khi những kẻ canh gác trên những ngọn núi ở Ép-ra-im tuyên bố: Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đến Si-ôn ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta. ’”
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hỡi Gia-cốp, hãy lớn tiếng vui mừng! Hãy lớn tiếng reo vui cho lãnh tụ của các nước! Hãy ngợi khen. Hãy nói rằng: Đức Giê-hô-va đã giải cứu dân Ngài, là những người còn sót lại của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Kìa, Ta sẽ đem chúng về từ những xứ phương bắc. Ta sẽ nhóm chúng lại từ những nơi xa nhất trên thế gian. Người mù và người què sẽ ở giữa chúng; thai phụ và những ai sắp sinh đẻ sẽ ở với chúng. Một hội lớn sẽ trở về đây.
\v 9 Chúng sẽ đến khóc lóc; Ta sẽ dẫn chúng đi khi chúng nài xin. Ta sẽ cho chúng đi theo những dòng nước và con đường thẳng. Chúng sẽ không vấp ngã, vì Ta sẽ là Cha của Y-sơ-ra-ên, Ép-ra-im sẽ là con đầu lòng của Ta.”
\s5
\v 10 “Hỡi các nước, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Hãy rao dọc theo những vùng duyên hải nơi xa. Hãy nói với các nước: “Đấng làm tản lạc Y-sơ-ra-ên sẽ nhóm họ về và giữ gìn họ như người chăn giữ bầy chiên mình. ”
\v 11 Vì Đức Giê-hô-va đã chuộc Gia-cốp và cứu nguy người khỏi tay những kẻ quá mạnh đối với người.
\s5
\v 12 Chúng sẽ đến và reo mừng trên các nơi cao ở Si-ôn. Chúng sẽ vui mừng về sự tốt lành của Đức Giê-hô-va, về ngũ cốc, rượu mới, dầu và con nhỏ của bầy chiên và bò. Cuộc đời chúng sẽ trở nên như vườn được tưới, chúng sẽ không bao giờ cảm thấy buồn rầu nữa.
\s5
\v 13 Những trinh nữ sẽ vui mừng nhảy múa, thanh niên và người già sẽ hớn hở với nhau. Ta sẽ biến sự than khóc của chúng thành sự vui mừng. Ta sẽ thương xót chúng, và chúng sẽ vui mừng thay vì buồn rầu.
\v 14 Ta sẽ khiến các thầy tế lễ được no nê trong đời mình. Dân Ta sẽ no đủ bằng sự tốt lành của Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Có tiếng kêu ở Ra-ma, là tiếng than khóc và khóc lóc cay đắng. Đó chính là Ra-chên đang khóc than con mình. Nàng từ chối được an ủi về các con nàng, vì chúng không còn sống nữa.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán: “Đừng cất tiếng than khóc và khóc lóc nữa; vì có một sự thưởng phạt đối với sự đau khổ của ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy con cái ngươi sẽ từ xứ của quân thù mình trở về.
\v 17 Có hy vọng cho tương lai của bạn Đức Giê-hô-va phán như vầy con cháu ngươi sẽ trở về trong ranh giới của chúng.”
\s5
\v 18 “Thật Ta đã nghe Ép-ra-im than khóc: “Ngài sửa phạt con, và con đã bị sửa phạt. Xin Chúa đem con trở lại như một con bê chưa được rèn, và con sẽ được trở về, vì Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con.
\v 19 Sau khi con trở về bên Ngài, con đã ăn năn; sau khi con được rèn luyện, con đã vỗ đùi mình trong sự đau buồn. Con xấu hổ và bẽ mặt, vì con mang lấy tội lỗi của tuổi thanh xuân con.
\v 20 Ép-ra-im không phải là con yêu dấu của Ta sao? Nó không phải là con trai yêu quý và vui vẻ của Ta sao? Bất cứ khi nào Ta nói nghịch về nó, thật Ta vẫn thương nhớ nó. Lòng Ta mong mỏi nó. Thật Ta sẽ thương xót nó Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 21 Chính ngươi hãy đặt các bảng chỉ đường. Hãy dựng các cột chỉ dẫn. Hãy đặt tâm trí ngươi trên đường ngay thẳng, là đường ngươi phải đi. Hãy trở lại, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên! Hãy trở về các thành của ngươi.
\v 22 Ngươi sẽ còn lưỡng lự cho đến khi nào nữa, hỡi con gái lật lọng? Vì Đức Giê-hô-va đã làm nên một việc mới trên đất: phụ nữ bao quanh trai tráng để bảo vệ họ.
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khi Ta đem dân này trở về xứ, chúng sẽ nói rằng đây là xứ của Giu-đa và các thành của nó: Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi, hỡi nơi ở của sự công bình, hỡi núi thánh.
\v 24 Giu-đa và các thành của nó sẽ chung sống với nhau trên đó. Nông dân và người chăn chiên cùng bầy chiên mình sẽ ở đó.
\v 25 Ta sẽ cho người mệt nhọc được uống nước, Ta sẽ thỏa cơn khát của mọi người. ”
\v 26 Sau việc này, tôi thức dậy, tôi nhận thấy rằng giấc ngủ của tôi thật khoan khoái.
\s5
\v 27 “Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta gieo nhà của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa những con cái của loài người và thú vật.
\v 28 Trước kia, Ta giám sát chúng đặng nhổ chúng và đánh đổ chúng, lật đổ, tiêu diệt, và gây tổn thất trên chúng. Nhưng trong những ngày tới, Ta sẽ trông chừng chúng, để dựng chúng lên và vun trồng chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 29 Trong những ngày đó, sẽ không ai nói rằng: Cha ăn nho chua, nhưng răng con cái bị cùn.
\v 30 Ai nấy sẽ chết vì tội mình; ai ăn nho chua thì răng người đó sẽ cùn.
\s5
\v 31 Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta thiết lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.
\v 32 Giao ước ấy sẽ không giống như giao ước mà Ta đã lập với cha ông chúng trong những ngày tay Ta đem chúng ra khỏi xứ Ai Cập. Ấy là những ngày mà chúng vi phạm giao ước Ta, dù Ta là chồng của chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 33 Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày này Đức Giê-hô-va phán vậy: Ta sẽ đặt luật pháp Ta trong chúng và viết luật pháp ấy trong lòng chúng, vì Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta.
\v 34 Rồi sẽ không ai dạy người lân cận mình, hoặc dạy anh em mình rằng: Hãy biết Đức Giê-hô-va! Vì tất cả chúng, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, sẽ biết Ta Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta sẽ tha thứ những điều tội lỗi của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội của chúng nữa.”
\s5
\v 35 Đức Giê-hô-va phán như vầy Đức Giê-hô-va, Đấng khiến mặt trời chiếu sáng ban ngày và sắp đặt mặt trăng và ngôi sao chiếu sáng ban đêm. Ngài là Đấng khiến biển chuyển động và sóng gầm thét. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Ngài phán như vầy,
\v 36 “Nếu như những thứ thường trực này biến mất khỏi trước mặt Ta Đức Giê-hô-va phán vậy thì con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ không còn là một nước trước mặt Ta nữa.”
\s5
\v 37 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Nếu như các từng trời cao nhất có thể được đo lường, và nếu như nền móng trái đất có thể được khám phá, Ta sẽ từ bỏ tất cả con cháu Y-sơ-ra-ên vì mọi điều chúng đã làm Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 38 ”Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi thành sẽ được tái xây dựng cho Ta, từ Tháp Ha-na-nên đến Cổng Góc.
\v 39 Dây đo sẽ kéo ra xa hơn, đến đồi Ga-rép và xung quanh Gô-a.
\v 40 Cả thung lũng đầy hài cốt và tro, và tất cả những cánh đồng đến Thung lũng Kít-rôn và đến góc Cổng Ngựa ở phía đông, sẽ được dành riêng cho Ta, là Đức Giê-hô-va. Nó sẽ không bao giờ bị nhổ lên hoặc đạp đổ nữa.”
\s5
\c 32
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi vào năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ mười tám của Nê-bu-cát-nết-sa.
\v 2 Khi đó, đội quân của vua Ba-by-lôn đang bao vây Giê-ru-sa-lem, còn tiên tri Giê-rê-mi thì đang bị giam ở sân của quân thị vệ trong cung vua Giu-đa.
\s5
\v 3 Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã bỏ tù ông và nói rằng: “Sao ngươi nói tiên tri rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sắp phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.
\v 4 Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ không thoát khỏi tay người Canh-đê, vì nó thật đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ nói cùng vua miệng đối miệng, và nhìn vua mặt đối mặt.
\v 5 Vì Sê-đê-kia sẽ đến Ba-by-lôn và ở tại đó cho đến khi Ta hành động trên nó Đức Giê-hô-va phán vậy vì ngươi đã chiến đấu đánh lại dân Canh-đê. Ngươi sẽ không thắng đâu. ’”
\s5
\v 6 Giê-rê-mi đáp: “Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi như vầy,
\v 7 Kìa, Ha-na-mên con Sanh-lum, chú của ngươi, sẽ đến gặp ngươi và nói rằng: “Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt, vì quyền mua cánh đồng ấy thuộc về anh. ”’
\s5
\v 8 Vậy, như Đức Giê-hô-va đã phán, Ha-na-mên, con trai của chú tôi, đến gặp tôi ở sân của quân thị vệ và nói rằng: Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt trong xứ Ben-gia-min, vì quyền thừa hưởng ấy là của anh, và anh có quyền mua cánh đồng đó. Anh hãy mua. Do đó, tôi biết rằng đây là lời của Đức Giê-hô-va.
\v 9 Vì vậy, tôi mua cánh đồng tại A-na-tốt của Ha-na-mên, con trai chú tôi, và tôi cân cho người mười bảy siếc-lơ bạc.
\s5
\v 10 Sau đó, tôi viết trong một cuộn sách và niêm phong, có sự chứng kiến của người làm chứng. Tôi cân bạc trong một cái cân.
\v 11 Kế đến, tôi lấy chứng thư mua bán được niêm phong, tuân theo quy định và quy chế, tôi cũng lấy một chứng thư chưa niêm phong.
\v 12 Tôi trao cuộn sách được niêm phong cho Ba-rúc, con Nê-ri-a, cháu Ma-sê-gia, trước mặt Ha-na-mên, con trai chú tôi, và nhân chứng là người đã viết vào cuộn sách được niêm phong, và trước mặt tất cả những người Giu-đa ngồi ở sân của quân thị vệ.
\s5
\v 13 Tôi ra lệnh cho Ba-rúc trước mặt họ. Tôi nói:
\v 14 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy lấy những cuộn sách này và biên lai mua hàng được niêm phong và cuộn sách chưa được niêm phong. Hãy đặt chúng trong một bình mới để bảo quản chúng về lâu dài.
\v 15 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nhà cửa, ruộng, và vườn nho sẽ lại được mua trong xứ này.
\s5
\v 16 Sau khi tôi đưa hóa đơn mua hàng cho Ba-rúc con Nê-ri-a, tôi cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rằng,
\v 17 Thật khốn khổ thay, lạy Đức Giê-hô-va! Kìa! Chính Ngài đã dựng nên trời và đất bằng sức mạnh lớn lao và cánh tay giơ cao của Ngài. Những điều Ngài phán không có gì là quá khó đến nỗi Ngài không làm được.
\v 18 Ngài tỏ sự thành tín theo giao ước cho hàng ngàn người và báo trả tội lỗi của tổ phụ trên đầu con cháu họ về sau. Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại và quyền năng; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\s5
\v 19 Sự khôn ngoan của Ngài là lớn lao và công việc của Ngài thật vĩ đại, vì mắt Ngài đoái xem đường lối của loài người, đặng báo trả cho mỗi người tùy theo tư cách và việc làm của họ.
\v 20 Ngài đã làm những dấu kỳ và phép lạ trong xứ Ai cập. Ngài đã khiến danh Ngài được vang ra cho đến tận ngày nay ở Y-sơ-ra-ên và giữa loài người.
\v 21 Vì Ngài đã đem Y-sơ-ra-ên, dân Ngài, ra khỏi xứ Ai Cập bằng những dấu kỳ và phép lạ, bằng tay mạnh mẽ, cánh tay giơ cao, và bằng sự kinh khiếp lớn.
\s5
\v 22 Sau đó Ngài ban xứ này cho họ - là xứ mà Ngài đã thề cùng tổ phụ họ là sẽ ban cho họ - một xứ đượm sữa và mật.
\v 23 Họ tiến vào xứ ấy và sở hữu nó. Nhưng họ không vâng theo tiếng Ngài, cũng chẳng sống vâng phục luật pháp Ngài. Họ chẳng làm theo những gì Ngài đã truyền họ phải làm, vì vậy Ngài giáng mọi tai họa này trên họ.
\s5
\v 24 Kìa! Những ụ bao vây đã đến thành để chiếm lấy. Bởi gươm dao, đói kém, và tai họa, thành ấy đã bị phó vào tay người Canh-đê là những kẻ đang đánh chiếm nó. Vì lời Ngài phán sẽ xảy ra đã thành hiện thực, và kìa, Ngài đang theo dõi.
\v 25 Chính Ngài phán với con rằng: “Hãy lấy bạc mua một cánh động và cho nhân chứng chứng kiến việc đó, dù thành này bị phó vào tay người Canh-đê. ”’”
\s5
\v 26 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 27 “Kìa! Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của nhân loại. Có việc gì quá khó đến nỗi Ta không làm được chăng?
\v 28 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sắp phó thành này vào tay người Canh-đê và Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ chiếm thành ấy.
\s5
\v 29 Người Canh-đê là những kẻ đang đánh thành này sẽ đến và phóng hỏa thiêu rụi nó, cùng với nhà cửa trên mái mà người ta thờ Ba-anh và đổ của lễ quán cho các thần khác đặng khiêu khích Ta.
\v 30 Vì dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa chắc chắn là những kẻ làm điều ác trước mặt Ta từ khi chúng còn trẻ. Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn đã xúc phạm Ta bằng những việc làm của tay chúng Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 31 vì thành này là một điều khiêu khích Ta thạnh nộ và nổi giận kể từ ngày chúng xây nó. Nó đã khiêu khích Ta từ đó cho đến nay. Vì vậy, Ta sẽ loại bỏ nó khỏi trước mặt Ta
\v 32 vì cớ mọi điều gian ác của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, là những việc chúng đã làm đặng khiêu khích Ta chúng, các vua của chúng, các vương tử, các thầy tế lễ, những tiên tri, và tất cả những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 33 Chúng xây lưng về phía Ta thay vì hướng mặt về Ta, dù Ta đã thiết tha dạy dỗ chúng. Ta đã cố gắng dạy chúng, nhưng không ai lắng nghe đặng được sửa trị.
\v 34 Sau đó, chúng đặt những vật gớm ghiếc trong nhà đặng làm ô uế nó, là nhà được gọi bằng danh Ta.
\v 35 Kế đó, chúng xây các điện thờ cho Ba-anh ở thung lũng Ben Hin-nôm đặng tế con trai và con gái chúng cho Mô-lết, ấy là việc mà Ta chẳng truyền cho chúng làm, một việc mà lòng Ta chẳng nghĩ tới chúng làm việc gớm ghiếc này đặng khiến Giu-đa phạm tội.
\s5
\v 36 Vậy bây giờ, Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về thành này, là thành mà các ngươi nói rằng: Nó bị phó vào tay vua Ba-by-lôn bởi gươm dao, đói kém, và tai họa.
\v 37 Kìa, Ta sẽ gom chúng về từ mọi xứ mà Ta đã đuổi chúng đến trong lúc Ta nổi giận, nổi cơn thịnh nộ và giận dữ. Ta sẽ đem chúng về nơi này và cho chúng sống yên ninh.
\s5
\v 38 Sau đó, chúng sẽ là dân Ta, còn Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng.
\v 39 Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng và một đường lối để tôn kính Ta hàng ngày, hầu cho chúng và con cháu chúng được phước.
\v 40 Ta sẽ lập một giao ước đời đời với chúng, Ta sẽ không xây khỏi chúng. Ta sẽ làm việc này để đem điều tốt lành đến cho chúng và đặt sự tôn kính của chúng dành cho Ta trong lòng chúng. Chúng sẽ không còn từ bỏ Ta nữa.
\s5
\v 41 Ta sẽ vui mừng mà ban phước cho chúng. Ta sẽ luôn trồng chúng trong xứ này bằng cả tấm lòng và sự sống của Ta.
\v 42 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như Ta đã giáng họa lớn trên dân này, Ta cũng sẽ ban cho chúng những điều tốt lành mà Ta đã nói là sẽ làm cho chúng.
\s5
\v 43 Ruộng sẽ được mua trong xứ này, là xứ mà ngươi nói rằng: “Đây là một xứ đổ nát, chẳng có người hoặc thú cư ngụ. Nó đã bị phó vào tay người Canh-đê. ”
\v 44 Chúng sẽ dùng bạc mà mua ruộng và viết trong cuộn sách được niêm phong. Chúng sẽ mời người làm chứng trong xứ Ben-gian-min, quanh Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa, những thành ở vùng cao nguyên và đồng bằng, và những thành ở Nê-ghép. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh chúng Đức Giê-hô-va phán vậy. ’”
\s5
\c 33
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi lần thứ nhì, trong khi ông vẫn còn bị giam trong sân của quân thị vệ, Ngài phán:
\v 2 “Giê-hô-va, Đấng sáng tạo, phán như vầy Đức Giê-hô-va, Đấng tạo lập sự này danh Ngài là Giê-hô-va,
\v 3 Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi. Ta sẽ bày tỏ cho ngươi những việc lớn, là những điều mầu nhiệm mà ngươi không hiểu.
\s5
\v 4 Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về nhà cửa trong thành này và những cung điện của các vua Giu-đa bị phá hủy vì cớ những dốc bao vây và gươm dao,
\v 5 “Dân Canh-đê sẽ đến đánh và chất đầy nhà cửa bằng những thây người mà Ta sẽ giết bởi cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta, ấy là khi Ta ẩn mặt khỏi thành này vì sự gian ác của chúng.
\s5
\v 6 Nhưng kìa, Ta sẽ đem đến sự chữa lành và phương thuốc, vì Ta sẽ chữa chúng và đem đến cho chúng sự dư dật, bình an và thành tín.
\v 7 Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Giu-đa và Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ dựng chúng lên như thuở ban đầu.
\v 8 Sau đó, Ta sẽ thanh tẩy chúng khỏi mọi tội lỗi mà chúng đã phạm đối với Ta. Ta sẽ tha thứ mọi tội lỗi mà chúng đã gây ra với Ta, và những đường lối mà chúng đã phản nghịch Ta.
\v 9 Vì thành này sẽ trở nên một cớ vui mừng, một bài ca ngợi khen và một niềm vinh dự đối với mọi dân trên đất là những kẻ sẽ nghe đến những việc tốt lành và bình an mà Ta sẽ ban cho nó.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Trong nơi mà ngươi hiện đang nói rằng: “Nó thật hoang vắng. Trong các thành của Giu-đa không có người và cũng không có thú vật, đường phố Giê-ru-sa-lem vắng hoe, chẳng có người và cũng chẳng có thú vật. ”
\v 11 Người ta sẽ lại nghe tiếng vui mừng và hớn hở tại nơi đây, tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của người dân nói rằng: “Hãy dâng sự cảm tạ cho Đức Giê-hô-va vạn quân, vì Ngài là tốt lành, sự thành tín theo giao ước Ngài còn đời đời. ” Hãy đem của lễ cảm tạ đến nhà Ta, vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của xứ này như thuở ban đầu, Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Trong nơi hoang vắng này, là nơi chẳng có người và cũng chẳng có thú vật, nơi ấy sẽ lại có một nơi chăn thả súc vật cho những kẻ chăn bầy nằm nghỉ trong các thành của nó.
\v 13 Ở các thành trên cao nguyên, nơi đồng bằng, và ở Nê-ghép trong xứ Ben-gia-min và quanh Giê-ru-sa-lem, và trong các thành của Giu-đa những bầy chiên sẽ lại băng qua đó dưới tay của những người chăn giữ chúng, Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 14 Kìa! Những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán - ấy là khi Ta thực hiện điều Ta đã hứa với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.
\v 15 Trong những ngày đó và khi đó, Ta sẽ khiến nẩy lên một nhánh công bình cho Đa-vít, Ngài sẽ thực thi công lý và sự công bình trong xứ.
\v 16 Trong những ngày đó, Giu-đa sẽ được cứu, còn Giê-ru-sa-lem sẽ sống yên ổn, vì nó sẽ được xưng là: “Đức Giê-hô-va là Đấng công bình của chúng tôi. ’”
\s5
\v 17 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Dòng dõi Đa-vít sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai trong nhà Y-sơ-ra-ên,
\v 18 cũng sẽ chẳng thiếu thầy tế lễ Lê-vi nào đặng dâng của lễ thiêu, sinh tế và của lễ chay hàng ngày trước mặt Ta. ’”
\s5
\v 19 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 20 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nếu ngươi có thể phá vỡ giao ước của Ta với ngày và đêm để không còn ngày và đêm vào đúng kỳ của nó nữa,
\v 21 thì ngươi cũng sẽ có thể phá vỡ giao ước của Ta với Đa-vít, tôi tớ Ta, để người sẽ không còn con cháu ngồi trên ngai mình nữa, và phá giao ước của Ta với các thầy tế lễ người Lê-vi, là những tôi tớ của Ta.
\v 22 Như người ta không thể đếm được các thiên thể, và chẳng thể đo lường được cát trên bờ biển, Ta cũng sẽ gia tăng con cháu của Đa-vít, tôi tớ Ta, và người Lê-vi là những người phục vụ Ta. ’”
\s5
\v 23 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 24 ”Ngươi chưa xem xét điều dân này đã tuyên bố khi chúng nói rằng: Hai thị tộc mà Đức Giê-hô-va đã chọn, giờ đây Ngài đã từ bỏ họ sao? Như vậy, chúng khinh dân Ta, nói rằng dân này không còn là một nước nữa.
\s5
\v 25 Ta, Đức Giê-hô-va, phán như vầy: Nếu không còn giao ước của Ta về ngày và đêm nữa, hoặc Ta không duy trì sự sắp đặt của trời và đất,
\v 26 thì Ta sẽ từ bỏ con cháu Gia-cốp và Đa-vít, tôi tớ Ta, Ta sẽ không dấy lên giữa chúng một người cai trị con cháu Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của chúng và thương xót chúng. ’”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi. Lời ấy đến với ông khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và cả đội quân của vua, cùng với tất cả các vương quốc trên đất, những lãnh địa ở dưới quyền của vua, và mọi dân đang giao tranh chống lại Giê-ru-sa-lem và các thành phố của nó. Ngài phán,
\v 2 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy đi tâu với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và nói rằng: “Đức Giê-hô-va phán: Kìa, Ta sẽ phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ phóng hỏa thành ấy.
\v 3 Ngươi sẽ không thoát khỏi tay nó, vì chắc chắn ngươi sẽ bị bao vây và bị phó vào tay nó. Ngươi sẽ mặt đối mặt với vua Ba-by-lôn; nó sẽ nói trực tiếp với ngươi khi ngươi qua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi Sê-đê-kia vua Giu-đa! Đức Giê-hô-va phán về vua như vầy: Ngươi sẽ không chết bởi gươm.
\v 5 Ngươi sẽ chết bình an. Như trong buổi hỏa táng các tổ phụ ngươi, là những vua trước đời ngươi, họ cũng sẽ hỏa táng ngươi. Họ sẽ nói: “Khốn thay, chủ ơi! ” Họ sẽ than khóc ngươi. Bấy giờ Ta đã phán Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 6 Vì thế, tiên tri Giê-rê-mi công bố cho Sê-đê-kia vua Giu-đa mọi lời này tại Giê-ru-sa-lem.
\v 7 Quân của vua Ba-by-lôn gây chiến với Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành còn lại của Giu-đa là La-kích và A-xê-ca. Đây là những thành trì vững chắc còn lại trong số các thành của Giu-đa.
\s5
\v 8 Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua Sê-đê-kia đã lập thỏa thuận với tất cả người dân ở Giê-ru-sa-lem để công bố sự tự do:
\v 9 Ai nấy phải trả tự do cho nô lệ người Y-sơ-ra-ên mình, cả nam và nữ. Không ai được bắt người anh em Y-sơ-ra-ên mình ở Giu-đa làm nô lệ nữa.
\s5
\v 10 Vậy, tất cả các lãnh đạo và dân chúng tham gia buổi thỏa thuận ấy đều vâng phục. Ai nấy đều thả tự do cho các nô lệ nam và nô lệ nữ và không còn bắt họ làm nô lệ nữa. Họ lắng nghe và thả tự do.
\v 11 Nhưng sau việc này, họ đổi ý. Họ bắt lại các nô lệ mà họ đã trả tự do. Họ buộc những người đó phải làm nô lệ lần nữa.
\s5
\v 12 Vậy, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 13 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Chính Ta đã lập giao ước với tổ phụ các ngươi trong ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ. Đó là khi Ta bảo,
\v 14 “Khi đến hạn mãn bảy năm, ai nấy phải thả tự do cho anh em mình, là những người anh em Hê-bơ-rơ đã bán thân cho các ngươi và phục vụ các ngươi trong sáu năm. Hãy trả tự do cho họ. ” Nhưng tổ phụ các ngươi không nghe Ta và cũng chẳng để ý.
\s5
\v 15 Bấy giờ chính các ngươi đã ăn năn và bắt đầu làm điều thiện trước mặt Ta. Các ngươi công bố sự tự do, ai nấy đều phóng thích người lân cận mình. Các ngươi lập thỏa thuận trước mặt Ta trong nhà được gọi bằng danh Ta.
\v 16 Nhưng sau đó các ngươi trở lòng và làm ô uế danh Ta; các ngươi khiến ai nấy đều bắt lại các nô lệ nam nữ của mình, là những người mà các ngươi đã phóng thích để họ đi đâu thì tùy ý. Các ngươi bắt họ lại làm nô lệ cho các ngươi.
\s5
\v 17 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chính các ngươi đã không nghe Ta. Lẽ ra các ngươi nên công bố sự tự do, ai nấy trong các ngươi đều phải phóng thích anh em và đồng hương Y-sơ-ra-ên mình. Vậy hãy xem! Ta sẽ tuyên bố sự tự do trên các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy sự tự do với gươm dao, tai họa, và đói kém, và Ta sẽ khiến các ngươi trở thành một thứ kinh khiếp trước mặt các vương quốc trên đất.
\v 18 Sau đó, Ta sẽ giải quyết những kẻ vi phạm giao ước của Ta, những kẻ không giữ lời giao ước mà chúng đã lập trước mặt Ta khi chúng xẻ thịt con bò đực làm đôi và bước đi giữa các phần đó,
\v 19 Ta sẽ giải quyết các lãnh đạo của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thái giám và thầy tế lễ, và toàn thể dân chúng trong xứ đã đi qua đi lại giữa các phần thịt của con bò đực.
\s5
\v 20 Ta sẽ phó chúng vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng. Thây của chúng sẽ thành thức ăn cho chim trời và muôn thú trên đất.
\v 21 Vậy, Ta sẽ phó Sê-đê-kia vua Giu-đa và các lãnh đạo của nó vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng, và vào tay quân đội của vua Ba-by-lôn đã nổi lên nghịch cùng chúng.
\v 22 Kìa, ta sẽ ban một mệnh lệnh Đức Giê-hô-va phán vậy và đem chúng về thành này để gây chiến, chiếm nó và phóng hỏa. Vì Ta sẽ biến các thành của Giu-đa thành đống hoang tàn chẳng có ai cư ngụ. ’”
\s5
\c 35
\p
\v 1 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, Ngài phán rằng,
\v 2 “Hãy đến thị tộc Rê-cáp và nói với chúng. Hãy dẫn chúng đến nhà Ta, vào một trong các phòng và cho chúng uống rượu.”
\s5
\v 3 Vậy tôi dẫn Gia-a-xa-nia, con Giê-rê-mi, cháu Ha-ba-xi-nia và các anh em ông ấy, cùng các con trai của ông, và tất cả thị tộc Rê-cáp.
\v 4 Tôi dẫn họ đến nhà Đức Giê-hô-va, vào các phòng của các con trai Ha-nan, con trai I-đa-lia, người của Đức Chúa Trời. Các phòng này ở cạnh phòng của các lãnh đạo, trên phòng của Ma-a-sê-gia, con Sa-lum, người gác cổng.
\s5
\v 5 Sau đó, tôi đặt các bình và chén đầy rượu trước mặt người Rê-cáp và bảo họ: “Xin mời quý vị dùng rượu. ”
\v 6 Nhưng họ nói: “Chúng tôi không uống rượu, vì tổ phụ chúng tôi, Giô-na-đáp con Rê-cáp, đã truyền cho chúng tôi rằng: Các con và con cháu các con đừng bao giờ uống rượu.
\v 7 Ngoài ra, chớ xây nhà, gieo giống, hoặc trồng vườn nho; việc này không dành cho các con. Vì các con sẽ sống trong lều trọn đời mình, hầu cho các con sống lâu ngày trong xứ mà mình ở như người ngoại quốc.
\s5
\v 8 Chúng tôi phải vâng lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, tổ phụ chúng tôi, trong mọi điều người truyền dạy chúng tôi, rằng chúng tôi, vợ chúng tôi, con trai và con gái chúng tôi, không bao giờ uống rượu.
\v 9 Và chúng tôi sẽ không xây nhà, chúng tôi sẽ không sở hữu vườn nho, ruộng, hoặc gieo giống chi cả.
\v 10 Chúng tôi đã sống trong lều, lắng nghe, và làm theo mọi điều Giô-na-đáp, tổ phụ chúng tôi đã truyền.
\v 11 Nhưng khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tấn công xứ, chúng tôi nói: Đi nào, chúng ta phải đến Giê-ru-sa-lem đặng thoát khỏi quân Canh-đê và A-ram. Vì vậy, chúng tôi đang sống tại Giê-ru-sa-lem đây.”
\s5
\v 12 Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 13 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy đi và bảo người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi sẽ không nhận lấy sự sửa trị và nghe lời Ta sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 14 Lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, là mệnh lệnh đã được truyền cho các con cháu người về việc không uống rượu, đã được giữ đến tận hôm nay. Chúng vâng theo mệnh lệnh của tổ phụ chúng. Nhưng còn đối với Ta, Ta luôn phán với các ngươi, nhưng các ngươi không nghe Ta.
\s5
\v 15 Ta đã sai các tôi tớ Ta, là các tiên tri, đến với các ngươi. Ta luôn sai họ đến bảo rằng: Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và làm điều thiện; mọi người hãy từ bỏ việc đi theo các thần khác và thờ lạy chúng. Trái lại, hãy trở về xứ mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi. Nhưng các ngươi không lắng nghe và cũng chẳng để ý đến Ta.
\v 16 Vì con cháu của Giô-na-đáp con Rê-cáp đã vâng phục mệnh lệnh của tổ phụ chúng truyền cho chúng, nhưng dân này không chịu nghe Ta. ’”
\s5
\v 17 Vậy, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, tất cả tai họa mà Ta đã tuyên bố nghịch lại chúng Ta sẽ giáng những tai họa ấy trên Giu-đa và tất cả dân cư Giê-ru-sa-lem, vì Ta đã tuyên bố với chúng, nhưng chúng không chịu nghe. Ta đã kêu gọi chúng, nhưng chúng không hồi đáp. ’”
\s5
\v 18 Giê-rê-mi- nói với nhà Rê-cáp: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi tuân theo mệnh lệnh của Giô-na-đáp, tổ phụ các ngươi, và giữ hết thảy mọi điều ấy các ngươi vâng phục mọi lời mà người truyền cho các ngươi
\v 19 vậy Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Giô-na-đáp, con Rê-cáp, sẽ luôn có con cháu phục vụ Ta. ’”
\s5
\c 36
\p
\v 1 Năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy lấy một cuộn sách và ghi chép mọi lời mà Ta đã phán với ngươi về Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và mọi dân. Hãy chép mọi điều Ta đã nói cùng ngươi từ đời Giô-si-a cho đến ngày nay.
\v 3 Có thể dân Giu-đa sẽ nghe biết về mọi tai họa mà Ta định giáng trên chúng. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, để Ta tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng.”
\s5
\v 4 Sau đó, Giê-rê-mi gọi Ba-rúc, con Nê-ri-gia, và Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào quyển sách mọi lời Đức Giê-hô-va phán với ông.
\v 5 Giê-rê-mi bảo Ba-rúc: “Tôi đang ở tù và không thể đến nhà Đức Giê-hô-va.
\v 6 Xin anh hãy đi và đọc lớn tiếng mọi lời mà tôi đã đọc cho anh chép vào cuốn sách này. Trong ngày kiêng ăn, anh hãy đọc lời của Đức Giê-hô-va trước mặt dân sự trong nhà Ngài, và cũng đọc trước mặt người Giu-đa, là những người đến từ các thành của họ. Hãy công bố những lời này cho họ nghe.
\s5
\v 7 Có thể họ sẽ đến trước mặt Đức Giê-hô-va cầu xin sự thương xót. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, vì cơn thịnh nộ và cơn giận mà Đức Giê-hô-va đã công bố nghịch lại dân này là dữ dội lắm. ”
\v 8 Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia làm theo mọi điều tiên tri Giê-rê-mi đã bảo ông phải làm. Ông đọc lớn tiếng lời của Đức Giê-hô-va trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Tháng chín năm thứ năm trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, toàn thể dân Giê-ru-sa-lem và dân từ các thành của Giu-đa đến Giê-ru-sa-lem rao sự kiêng ăn trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 10 Ba-rúc đọc lớn tiếng lời của Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va, từ phòng của Ghê-ma-ria, con của thư ký Sa-phan, ở hành lang trên, ngay lối vào nhà Đức Giê-hô-va. Ông đọc cho cả dân sự nghe.
\s5
\v 11 Bấy giờ, Mi-chê, con Ghê-ma-ria, cháu Sa-phan, nghe mọi lời của Đức Giê-hô-va trong cuộn sách.
\v 12 Ông đi xuống cung vua, đến phòng thư ký. Kìa, tất cả các quan chức đang ngồi đó: thư ký Ê-li-sa-ma, Đê-la-gia con Sê-ma-gia, Ên-na-than con Ách-bô, Ghê-ma-ria con Sa-phan, và Sê-đê-kia con Ha-na-nia, cùng mọi quan chức.
\s5
\v 13 Bấy giờ, Mi-chê thuật lại cho họ nghe mọi lời mà ông đã nghe Ba-rúc đọc lớn tiếng trước mặt dân sự.
\v 14 Tất cả các quan chức sai Giê-hu-đa, con Nê-tha-nia, cháu Sê-lê-mia, chắt Cư-si, đến gặp Ba-rúc. Giê-hu-đi bảo Ba-rúc: “Hãy lấy cuốn sách trong tay ngươi, là cuốn sách mà ngươi đã đọc cho dân sự nghe, và đến đây. ” Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia lấy cuốn sách trong tay mình và đến gặp các quan chức.
\v 15 Họ bảo ông: “Hãy ngồi xuống và đọc cho chúng tôi nghe. ” Vậy Ba-rúc đọc cuộn sách.
\s5
\v 16 Khi họ nghe mọi lời này, ai nấy đều sợ hãi mà nhìn nhau và nói với Ba-rúc: “Chúng ta chắc chắn phải báo cáo tất cả những lời này cho vua nghe. ”
\v 17 Họ hỏi Ba-rúc: “Hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà ông viết những lời này theo miệng Giê-rê-mi? ”
\v 18 Ba-rúc trả lời: “Ông ấy đọc mọi lời này cho tôi chép, và tôi lấy mực chép lại chúng trong cuộn sách này. ”
\v 19 Các quan chức bảo Ba-rúc: “Ông và Giê-rê-mi hãy đi ẩn mình. Đừng để ai biết vị trí của các ông.”
\s5
\v 20 Vậy, họ đến hành lang của vua và tâu mọi lời này với vua. Nhưng trước tiên, họ để cuộn sách trong phòng của thư ký Ê-li-sa-ma.
\v 21 Sau đó vua sai Giê-hu-đi lấy cuộn sách. Giê-hu-đi lấy cuộn sách từ phòng của thư ký Ê-li-sa-ma. Ông đọc lớn tiếng cho vua và toàn thể quan chức đứng chầu vua nghe.
\v 22 Bấy giờ, vua đang ở trong cung điện mùa đông nhằm tháng chín, và trước mặt vua là một lò than.
\s5
\v 23 Khi Giê-hu-đi đọc được ba hoặc bốn cột, vua lấy dao cắt cuộn sách và ném vào lò than cho đến khi cuộn sách ấy cháy hết.
\v 24 Nhưng vua và các quần thần không ai hoảng sợ khi nghe các lời đó, họ cũng không xé quần áo mình.
\s5
\v 25 Ên-na-than, Đê-la-gia, và Ghê-ma-ria thậm chí cố gắng thuyết phục vua không đốt cuộn sách, nhưng ông không nghe họ.
\v 26 Vua sai Giê-ra-mê-ên, là bà con, Sê-ra-gia con Ách-ri-ên, và Sê-lê-mia con Áp-đê-ên đến bắt thư ký Ba-rúc và tiên tri Giê-rê-mi, nhưng Đức Giê-hô-va đã giấu họ.
\s5
\v 27 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua đã đốt cuộn sách và mọi lời Ba-rúc đã chép khi nghe Giê-rê-mi đọc, Ngài phán,
\v 28 ”Hãy trở lại, lấy một cuộn sách khác, chép mọi lời trong cuộn sách trước, là cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa đã đốt.
\v 29 Sau đó, ngươi phải nói với Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa như vầy: Ngươi đã đốt cuộn sách đó! Ngươi nói rằng: Sao ông chép: Vua Ba-by-lôn chắc chắn sẽ đến và phá hủy xứ này, ông ấy sẽ hủy diệt cả người và thú trong xứ ấy”? ’”
\s5
\v 30 Vậy, Đức Giê-hô-va phán về ngươi như vầy, hỡi Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa: “Con cháu ngươi sẽ không được ngồi trên ngai Đa-vít. Còn về phần ngươi, thi thể của ngươi sẽ bị dang nắng ban ngày và sương giá ban đêm.
\v 31 Vì Ta sẽ trừng phạt ngươi, con cháu ngươi, và tôi tớ ngươi về tội lỗi của tất cả các ngươi. Ta sẽ giáng trên ngươi, trên toàn thể dân cư Giê-ru-sa-lem, và trên từng người ở Giu-đa mọi tai họa mà Ta đã đe ngươi mà ngươi không để ý.”
\s5
\v 32 Vậy Giê-rê-mi lấy một cuộn sách khác và trao cho Ba-rúc con thư ký Nê-ri-gia. Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào đó mọi lời đã được chép trong cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa đã đốt. Ngoài ra, có nhiều lời tương tự khác cũng được thêm vào cuộn sách này.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Bấy giờ, Sê-đê-kia, con Giô-si-a, làm vua thay cho Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lập Sê-đê-kia làm vua trong xứ Giu-đa.
\v 2 Nhưng Sê-đê-kia, các tôi tớ của ông, và dân trong xứ không nghe lời Đức Giê-hô-va truyền qua tay tiên tri Giê-rê-mi.
\s5
\v 3 Vậy Vua Sê-đê-kia, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia gửi thông điệp cho tiên tri Giê-rê-mi. Họ nói: “Hãy thay mặt chúng tôi cầu vấn Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi. ”
\v 4 Bấy giờ, Giê-rê-mi còn đang đi lại tự do giữa dân sự, vì ông chưa bị bỏ tù.
\v 5 Quân của Pha-ra-ôn từ Ai Cập đến, và dân Canh-đê đang vây thành Giê-ru-sa-lem nghe tin tứ về chúng thì rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi rằng,
\v 7 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này là lời ngươi sẽ tâu với vua Giu-đa, vì người đã sai các ngươi đến tìm lời khuyên của Ta: Kìa, quân của Pha-ra-ôn đến đặng giúp ngươi sẽ quay về Ai Cập, là xứ của nó.
\v 8 Dân Canh-đê sẽ trở lại. Chúng sẽ đánh thành này, chiếm thành này, và phóng hỏa nó.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ tự dối mình khi nói rằng: Chắc chắn dân Canh-đê sẽ đi khỏi chúng ta, vì chúng sẽ không rời đi.
\v 10 Thậm chí nếu ngươi đã đánh thắng toàn bộ quân Canh-đê đến đánh ngươi đến nỗi trong lều chúng nó chỉ còn lại những người thương tích, chúng sẽ nổi dậy và phóng hỏa thành này.”
\s5
\v 11 Vậy, khi quân Canh-đê đã rời Giê-ru-sa-lem trong lúc quân Pha-ra-ôn đang đến,
\v 12 Giê-rê-mi rời thành Giê-ru-sa-lem đến xứ Ben-gia-min. Ông muốn nhận sở hữu một phần của xứ giữa dân mình.
\v 13 Khi ông đến cổng Ben-gia-min, có đốc canh Giê-ri-a, con Sê-lê-mia, cháu Ha-na-nia. Ông bắt tiên tri Giê-rê-mi và nói: “Ông đang bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê.”
\s5
\v 14 Nhưng Giê-rê-mi nói: “Không đúng. Tôi không bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê. ” Nhưng Giê-ri-a không nghe ông. Hắn bắt Giê-rê-mi và giải đến các quan chức.
\v 15 Các quan chức tức giận Giê-rê-mi. Họ đánh ông và tống giam ông trong nhà của thư ký Giô-na-than, vì họ biến nơi ấy thành nhà tù.
\s5
\v 16 Vậy, Giê-rê-mi bị bỏ dưới xà lim trong nhiều ngày.
\v 17 Sau đó, Vua Sê-đê-kia sai người đến giải ông đến cung điện. Trong cung, vua hỏi riêng ông: “Đức Giê-hô-va có phán lời nào không? ” Giê-rê-mi trả lời: “Ngài phán: Ngươi sẽ bị phó vào tay vua Ba-by-lôn.”
\s5
\v 18 Giê-rê-mi tâu với Vua Sê-đê-kia: “Tôi đã phạm tội thế nào với bệ hạ, tôi tớ của bệ hạ, hoặc dân này đến nỗi bệ hạ bỏ tù tôi?
\v 19 Các tiên tri của bệ hạ là những người đã nói tiên tri với bệ hạ và nói rằng vua Ba-by-lôn sẽ không đến đánh bệ hạ và đánh xứ này ở đâu?
\v 20 Nhưng bây giờ xin nghe, tâu vua chúa tôi! Mong rằng lời cầu xin của tôi được bệ hạ đoái đến. Xin đừng trả tôi lại nhà của thư ký Giô-na-than, nếu không tôi sẽ chết tại đó.”
\s5
\v 21 Vậy Vua Sê-đê-kia ra lệnh. Các tôi tớ của vua giam ông trong sân của quân thị vệ. Mỗi ngày người ta cấp một ổ bánh mì cho ông từ phố bánh, cho đến khi trong thành chẳng còn bánh nữa. Vậy, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Sê-pha-tia con Ma-tan, Ghê-đa-lia con Pa-su-rơ, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Pa-su-rơ con Manh-ki-gia đã nghe những lời Giê-rê-mi rao báo với toàn dân sự. Ông nói,
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai ở trong thành này sẽ bị giết bởi gươm, đói kém, và tai họa. Nhưng ai đầu hàng người Canh-đê sẽ được sống. Người ấy sẽ bảo toàn mạng sống mình và sẽ sống.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Thành này sẽ bị phó vào tay quân của vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.”
\s5
\v 4 Vậy các quan chức tâu với vua: “Xin xử tử người này, vì hắn làm yếu tay của chiến sĩ còn lại trong thành này, và tay của toàn dân. Hắn rao báo những lời này, vì tên này không làm gì có lợi cho dân chúng nhưng chỉ đem đến tai họa. ”
\v 5 Vậy, Vua Sê-đê-kia bảo: “Kìa, hắn ở trong tay các ngươi vì không vua nào có thể chống lại các ngươi.”
\s5
\v 6 Sau đó, họ bắt Giê-rê-mi và ném vào bể chứa nước của hoàng tử Manh-ki-gia. Bể chứa nước ấy ở trong sân của quân thị vệ. Họ lấy dây thừng dòng Giê-rê-mi xuống. Dưới bể không có nước nhưng đầy bùn, ông chìm xuống bùn.
\s5
\v 7 Bấy giờ có Ê-bết Mê-lết người Cút là một trong các quan thái giám ở cung vua. Ông hay tin rằng họ đã bỏ Giê-rê-mi xuống bể chứa nước. Khi ấy vua đang ngồi ở Cổng Ben-gia-min.
\v 8 Vậy, Ê-bết Mê-lết rời cung vua, đến tâu với vua. Ông nói:
\v 9 “Tâu vua chú tôi, việc những người này đối xử với tiên tri Giê-rê-mi thật là ác quá. Họ ném ông ấy vào bể chứa nước đặng bỏ mặc ông ấy chết vì đói, vì trong thành không còn thức ăn nữa.”
\s5
\v 10 Sau đó, vua ra lệnh cho Ê-bết Mê-lết người Cút. Ông nói: “Hãy dẫn theo ba mươi người và đem tiên tri Giê-rê-mi ra khỏi bể trước khi hắn chết. ”
\v 11 Vậy Ê-bết Mê-lết sai đem theo những người đó và đến cung vua, vào kho quần áo trong cung. Ông lấy giẻ rách và quần áo cũ rồi dùng dây thừng dòng xuống cho Giê-rê-mi bên dưới bể.
\s5
\v 12 Ê-bết Mê-lết người Cút nói với Giê-rê-mi: “Hãy cột giẻ rách và quần áo cũ dưới cánh tay và máng dây thừng vào. ” Vậy Giê-rê-mi làm theo.
\v 13 Kế đó, họ dùng dây thừng kéo Giê-rê-mi lên. Họ đem ông ra khỏi bể. Vì thế, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ.
\s5
\v 14 Khi ấy, Vua Sê-đê-kia sai người đến dẫn Giê-rê-mi vào gặp riêng ông ở lối vào thứ ba trong nhà Đức Giê-hô-va. Vua bảo Giê-rê-mi: “Ta muốn hỏi ngươi một điều. Chớ giấu ta. ”
\v 15 Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Nếu tôi trả lời bệ hạ, bệ hạ hẳn sẽ không giết tôi? Và nếu tôi cho bệ hạ lời khuyên, bệ hạ sẽ không nghe tôi. ”
\v 16 Nhưng Vua Sê-đê-kia thề riêng với Giê-rê-mi và nói: “Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng dựng nên chúng ta, ta sẽ không giết ngươi hoặc phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi.”
\s5
\v 17 Vậy Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nếu ngươi thật đến đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, ngươi sẽ sống, và thành này sẽ không bị phóng hỏa. Ngươi và gia đình ngươi sẽ sống.
\v 18 Nhưng nếu ngươi không đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, thành này sẽ bị phó vào tay dân Canh-đê. Chúng sẽ phóng hỏa, còn ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng.”
\s5
\v 19 Vua Sê-đê-kia bảo Giê-rê-mi: “Nhưng ta sợ dân Giu-đa là những người đã đào ngũ sang phía người Canh-đê, vì ta có thể bị phó vào tay họ, họ sẽ đối xử tệ với ta.”
\s5
\v 20 Giê-rê-mi tâu: “Họ sẽ không phó bệ hạ vào tay chúng. Xin vâng theo sứ điệp của Đức Giê-hô-va mà tôi thuật lại cho bệ hạ nghe, để bệ hạ được an toàn và được sống.
\v 21 Nhưng nếu bệ hạ không chịu đi, thì đây là lời Đức Giê-hô-va tỏ cho tôi:
\s5
\v 22 Kìa! Hỡi vua Giu-đa, tất cả những người nữ còn lại trong nhà ngươi, sẽ bị bắt đem đến các quan chức của vua Ba-by-lôn. Những người nữ này sẽ nói với ngươi: Bệ hạ đã bị bạn bè lừa dối; họ bỏ rơi bệ hạ. Chân bệ hạ giờ đây lún bùn, còn bạn bè bệ hạ chạy trốn.
\v 23 Vì tất cả vợ con ngươi sẽ bị đem đến dân Canh-đê, chính ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng. Ngươi sẽ bị bắt bởi tay vua Ba-by-lôn, và thành này sẽ bị phóng hỏa.”
\s5
\v 24 Sê-đê-kia nói với Giê-rê-mi: “Chớ báo cho ai biết về những lời này, nếu không ngươi sẽ chết.
\v 25 Nếu các quan chức hay rằng Ta đã nói chuyện với ngươi nếu họ đến bảo ngươi: Xin cho chúng tôi biết những lời ông đã nói với vua. Chớ giấu chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ giết ông. Xin cho chúng tôi biết lời vua đã nói với ông
\v 26 thì ngươi phải trả lời rằng: Tôi đã xin vua đừng trả tôi về nhà Giô-na-than đặng chết ở đó. ’”
\s5
\v 27 Sau đó, tất cả các quan chức đến gặp Giê-rê-mi và tra vấn ông, ông trả lời họ y như vua đã dặn ông. Vì vậy, họ không nói chuyện với ông, vì họ không biết cuộc đối thoại giữa Giê-rê-mi và vua.
\v 28 Vậy, Giê-rê-mi vẫn ở trong sân của quân thị vệ cho đến ngày Giê-ru-sa-lem bị chiếm.
\s5
\c 39
\p
\v 1 Tháng chín năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem và bao vây thành ấy.
\v 2 Ngày chín tháng tư năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, thành bị thất thủ.
\v 3 Tất cả các quan chức của vua Ba-by-lôn đến và ngồi ở giữa cổng: Nẹt-gan Sa-rê-xe, Sam-ga Nê-bô, và Sa-sê-kim, một quan chức quan trọng. Nẹt-gan Sa-rê-xe là quan cấp cao của vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Khi Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và hết thảy binh lính thấy họ liền chạy trốn. Họ ra khỏi thành vào ban đêm theo lối vườn ngự uyển, qua cổng giữa hai bức tường. Vua đi ra theo hướng về A-ra-ba.
\v 5 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo họ và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Họ bắt ông và giải ông đến Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tại Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi Nê-bu-cát-nết-sa kết án ông ấy.
\s5
\v 6 Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông tại Ríp-la. Ông cũng giết tất cả các quý tộc của Giu-đa.
\v 7 Sau đó, ông móc mắt Sê-đê-kia và lấy xích đồng xiềng lại và giải về Ba-by-lôn.
\s5
\v 8 Người Canh-đê phóng hỏa hoàng cung và nhà cửa của dân chúng. Họ cũng đánh sập các tường thành Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua, bắt dân còn sót lại trong thành đi lưu đày. Trong số đó bao gồm những người đã bỏ sang hàng ngũ người Canh-đê và những người còn sót lại trong thành.
\v 10 Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua cho phép những người nghèo khổ nhất ở lại trong xứ Giu-đa. Ngày hôm đó, ông cấp phát vườn nho và ruộng đất cho họ.
\s5
\v 11 Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn truyền lệnh cho Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ về Giê-rê-mi. Ông nói:
\v 12 “Hãy đem hắn đi và chăm sóc hắn. Chớ làm hại hắn. Hãy đáp ứng cho hắn bất cứ điều gì hắn bảo ngươi làm. ”
\v 13 Vậy, Nê-bu-xa-ra-đan đại úy quân thị vệ của vua, quan thái giám cấp cao Nê-bu-sa-ban, quan cấp cao Nẹt-gan Sa-rê-xe, và tất cả các quan chức quan trọng nhất của vua Ba-by-lôn sai người đi tìm.
\v 14 Người của họ bắt Giê-rê-mi khỏi sân vệ binh và giao cho Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, đem về nhà, như vậy Giê-rê-mi ở với họ.
\s5
\v 15 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi trong lúc ông bị giam ở sân vệ binh,
\v 16 “Hãy nói với Ê-bết Mê-lết người Cút: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này, Ta sẽ thực thi lời Ta về thành này, Ta sẽ giáng tai họa chứ không phải điều lành trên nó. Chúng sẽ xảy ra trước mặt ngươi ngày hôm đó.
\s5
\v 17 Nhưng hôm đó Ta sẽ giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi sẽ không bị phó vào tay những kẻ ngươi sợ hãi.
\v 18 Vì chắc chắn Ta sẽ giải cứu ngươi. Ngươi sẽ không ngã xuống bởi gươm. Ngươi sẽ thoát mạng, vì ngươi tin cậy Ta Đức Giê-hô-va phán vậy. ’”
\s5
\c 40
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi sau khi Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, phóng thích ông khỏi Ra-ma. Đó là nơi Giê-rê-mi bị giải đến và bị xiềng xích. Ông ở chung với những người Giê-ru-sa-lem và Giu-đa bị bắt lưu đày tại Ba-by-lôn.
\v 2 Quan chỉ huy thị vệ gọi Giê-rê-mi đến và nói: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông đã ra lệnh giáng tai họa này lên nơi này.
\s5
\v 3 Vậy Đức Giê-hô-va đã thực hiện điều đó. Ngài thực thi như Ngài đã ra lệnh, vì dân của ông đã phạm tội nghịch lại Ngài và không vâng theo tiếng Ngài. Ấy là lý do vì sao việc này xảy đến trên dân ông.
\v 4 Nhưng bây giờ hãy xem! Hôm nay tôi đã giải thoát ông khỏi xiềng xích trên tay ông. Nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn là tốt đẹp, hãy đi, tôi sẽ chăm sóc ông. Nhưng nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn chẳng tốt lành gì, thì ông đừng đi. Hãy xem hết thảy xứ ở trước mặt ông. Hãy đến bất cứ nơi nào ông thấy tốt và thích hợp.”
\s5
\v 5 Khi Giê-rê-mi không trả lời, Nê-bu-xa-ra-đan nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, người mà vua Ba-by-lôn giao phụ trách các thành của Giu-đa. Hãy ở với ông ấy giữa dân chúng hoặc đi đến bất cứ nơi nào ông thấy là tốt đẹp. ” Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ phát cho ông thức ăn và tặng vật rồi cho ông đi.
\v 6 Vậy, Giê-rê-mi đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, tại Mích-pa. Ông ở với ông ấy giữa dân chúng là những người còn sót lại trong xứ.
\s5
\v 7 Bấy giờ, một số sĩ quan chỉ huy lính Giu-đê, tức những người vẫn còn ở vùng thôn quê họ và người của họ - nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam làm quan thống đốc của xứ. Họ cũng nghe rằng vua đã giao ông ấy phụ trách đàn ông, đàn bà, và trẻ con là những người nghèo nhất trong xứ, tức những người không bị bắt đem lưu đày qua Ba-by-lôn.
\v 8 Vậy họ đến Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Những người này là Ích-ma-ên con Nê-tha-nia; Giô-ha-nan và Giô-na-than, con Ca-rê-a; Sê-ra-gia con Tan-hu-mết; các con của Ê-phai người Nê-tô-phát; và Gia-a-xa-nia con Ma-a-ca họ và người của họ.
\s5
\v 9 Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, thề với họ và người của họ rằng: “Chớ sợ phải phục vụ các quan Canh-đê. Hãy sống trong xứ và phục vụ vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ được yên bình.
\v 10 Và kìa, tôi sẽ ở Mích-pa để gặp người Canh-đê là những người đã đến gặp chúng ta. Vậy hãy thu hoạch rượu, trái cây mùa hè, dầu và trữ trong thùng hàng. Hãy sống trong các thành mà các ông đã chiếm đóng.”
\s5
\v 11 Vậy tất cả người Giu-đê ở Mô-áp, trong vòng dân Am-môn, ở Ê-đôm, và ở mỗi xứ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã cho phép một số dân Giu-đa còn lại được ở, và rằng vua đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, cai trị họ.
\v 12 Hết thảy người Giu-đê trở về từ các nơi mà họ đã bị tản lạc. Họ trở về xứ Giu-đa, đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Họ thu hoạch rượu và trái cây mùa hè nhiều vô kể.
\s5
\v 13 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội ở vùng thôn quê đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa.
\v 14 Họ nói với ông: “Ông có biết rằng Ba-a-li, vua dân Am-môn, đã sai Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đến ám sát ông không? ” Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam không tin họ.
\s5
\v 15 Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-a nói riêng với Ghê-đa-lia tại Mích-pa rằng: “Xin cho phép tôi đi giết Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Sẽ không ai nghi ngờ tôi đâu. Sao ông ấy phải giết ông? Sao ông để cho hết thảy người Giu-đa là những người đã được quy tụ quanh ông phải bị tản lạc và số dân Giu-đa còn lại bị tiêu diệt? ”
\v 16 Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam nói với Giô-ha-nan con Ca-rê-a: “Đừng làm vậy, vì ông vu cáo Ích-ma-ên.”
\s5
\c 41
\p
\v 1 Nhưng vào tháng bảy, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc, và một số quan chức của vua cùng mười người người đi đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam tại Mích-pa. Họ cùng ăn uống với nhau ở đó.
\v 2 Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, và mười người của ông ấy đứng dậy dùng gươm đánh Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Ích-ma-ên giết Ghê-đa-lia, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ.
\v 3 Sau đó, Ích-ma-ên giết hết thảy người Giu-đê ở với Ghê-đa-lia tại Mích-pa và lính Canh-đê ở đó.
\s5
\v 4 Hai ngày sau khi giết Ghê-đa-lia, không ai biết việc ấy.
\v 5 Một số người từ Si-chem, Si-lô, và Sa-ma-ri gồm tám mươi người đã cạo râu, xé quần áo mình, và cắt da thịt mình đem của lễ chay và nhũ hương đến nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Ích-ma-ên con Nê-tha-nia từ Mích-pa đến gặp họ, vừa đi vừa khóc. Khi gặp họ, ông nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam! ”
\v 7 Khi họ vào trong thành, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia và các thuộc hạ của ông tàn sát họ và ném họ xuống một cái hố.
\s5
\v 8 Nhưng mười người trong số họ nói với Ích-ma-ên: “Xin đừng giết chúng tôi, vì chúng tôi có dự trữ sẵn lúa mì, lúa mạch, dầu và mật ong trong ruộng. ” Vậy, ông ấy tha mạng họ và những người đi cùng họ.
\v 9 Cái hố mà Ích-ma-ên ném các thây người mà ông giết cùng với Ghê-đa-lia là hố lớn do Vua A-sa đào khi ông ấy đánh Vua Ba-a-sa của Y-sơ-ra-ên. Ích-ma-ên con Nê-tha-nia lấp đầy hố đó bằng thây những người mà ông đã giết.
\s5
\v 10 Kế đó, Ích-ma-ên bắt hết thảy những người khác ở Mích-pa, gồm các con gái của vua và những người còn sót lại ở Mích-pa mà Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy quân thị vệ, đã giao cho Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Vậy Ích-ma-ên con Nê-tha-nia bắt họ và qua chỗ dân Am-môn.
\s5
\v 11 Nhưng Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội hay tin về những tai hại mà Ích-ma-ên con Nê-tha-nia gây ra.
\v 12 Vậy, họ tập hợp lực lượng và đi đánh Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Họ tìm thấy ông ấy ở hồ lớn tại Ghi-bê-ôn.
\s5
\v 13 Khi toàn thể những người đi cùng Ích-ma-ên thấy Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội đi với ông ấy, họ rất vui.
\v 14 Tất cả những người bị Ích-ma-ên bắt tại Mích-pa quay lại và đến gặp Giô-ha-nan con Ca-rê-a.
\s5
\v 15 Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia cùng tám người chạy trốn khỏi Giô-ha-nan. Ông đến gặp dân Am-môn.
\v 16 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông đem khỏi Mích-pa tất cả những người đã được giải cứu khỏi Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Việc này xảy ra sau khi Ích-ma-ên đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Giô-ha-nan và những người đi cùng ông đem theo những trai tráng, lính, phụ nữ và trẻ con, và quan thái giám đã được giải cứu tại Ghi-bê-ôn.
\s5
\v 17 Họ đi và ở tại Ghê-ru Chim-ham trong một thời gian, gần Bết-lê-hem. Họ tính đến Ai Cập
\v 18 vì sợ dân Canh-đê. Họ sợ chúng vì Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Sau đó, tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội và Giô-ha-nan con Ca-rê-a, Giê-xa-nia con Hô-sa-gia, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất cho đến người quyền thế nhất đến gặp tiên tri Giê-rê-mi.
\v 2 Họ nói cùng ông: “Xin nhậm lời cầu xin của chúng tôi. Xin cầu thay cho chúng tôi, tức là dân còn sót lại này, với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, vì chúng tôi quá ít người, như ông thấy đó.
\v 3 Xin ông hãy cầu hỏi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông chỉ cho chúng tôi đường phải đi và việc phải làm.”
\s5
\v 4 Vậy, tiên tri Giê-rê-mi trả lời họ: “Tôi có nghe các ông. Kìa, tôi sẽ cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông như các ông đề nghị. Tôi sẽ nói với các ông bất cứ điều gì Đức Giê-hô-va trả lời. Tôi sẽ không giấu các ông điều chi cả. ”
\v 5 Họ nói với Giê-rê-mi: “Nguyện Đức Giê-hô-va là Đấng làm chứng chân thật và thành tín với chúng tôi, nếu chúng tôi không làm theo lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông bảo chúng tôi làm.
\v 6 Dù điều đó tốt hay xấu, chúng tôi sẽ vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông, là Đấng mà chúng tôi sai ông đến, để chúng tôi được yên bình khi chúng tôi vâng theo tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông.”
\s5
\v 7 Mười ngày sau, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.
\v 8 Vậy, Giê-rê-mi gọi Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông ấy, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất đến người quyền thế nhất.
\v 9 Ông nói cùng họ: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng mà các ông đã sai tôi đến, để tôi trình lời cầu xin của các ông trước mặt Ngài. Đức Giê-hô-va phán như vầy,
\v 10 Nếu các ngươi quay trở lại và sống trong xứ này, Ta sẽ xây dựng các ngươi và không đánh sập các ngươi; Ta sẽ vun trồng các ngươi chứ không nhổ các ngươi, vì Ta sẽ rút tai họa mà Ta đã giáng trên các ngươi.
\s5
\v 11 Chớ sợ vua Ba-by-lôn, là kẻ mà các ngươi đang sợ hãi. Chớ sợ nó Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta ở cùng các ngươi đặng giải cứu các ngươi khỏi tay nó.
\v 12 Vì Ta sẽ tỏ lòng nhân từ với các ngươi. Ta sẽ thương xót các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi về lại xứ này.
\s5
\v 13 Nhưng nếu các ngươi nói: “Chúng tôi sẽ không ở trong xứ này” nếu các ngươi không nghe tiếng Ta, là tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
\v 14 Nếu các ngươi nói: “Không! Chúng tôi sẽ đến xứ Ai Cập, là nơi chúng tôi sẽ không thấy chiến tranh, chúng tôi sẽ không nghe tiếng kèn, chúng tôi sẽ không đói. Chúng tôi sẽ sống ở đó.”
\s5
\v 15 Bây giờ hãy nghe lời này của Đức Giê-hô-va, hỡi những kẻ còn sót lại của Giu-đa. Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Nếu các ngươi thật hướng về Ai Cập, đến sống tại đó,
\v 16 thì gươm dao mà các ngươi sợ hãi sẽ bắt kịp các ngươi trong xứ Ai Cập. Đói kém mà các ngươi lo lắng sẽ đuổi theo các ngươi đến tận Ai Cập. Và các ngươi sẽ chết tại đó.
\v 17 Việc ấy sẽ xảy đến khi tất cả những ai đến Ai Cập sống tại đó, chúng sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, hoặc tai họa. Sẽ không ai sống sót, sẽ không ai thoát khỏi tai họa mà Ta sẽ giáng trên chúng.
\s5
\v 18 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Như cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta giáng trên dân cư Giê-ru-sa-lem thể nào, thì cơn thạnh nộ của Ta sẽ giáng trên các ngươi nếu các ngươi đến Ai Cập. Các ngươi sẽ trở thành đối tượng bị rủa sả và ghê tởm, đối tượng bị nguyền rủa, và một điều nhục nhã. Các ngươi sẽ không còn thấy nơi này nữa. ’”
\v 19 Sau đó, Giê-rê-mi nói: “Đức Giê-hô-va đã nói về quý vị - hỡi dân Giu-đa còn sót lại. Đừng đến Ai Cập! Quý vị chắc chắn biết rằng tôi đã làm chứng nghịch lại quý vị hôm nay.
\s5
\v 20 Vì quý vị sẽ trả giá bằng mạng sống mình khi sai tôi đến gặp Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị và nói rằng: Xin cầu thay cho chúng tôi lên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Xin cho chúng tôi biết lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán, chúng tôi sẽ làm theo.
\v 21 Vì hôm nay tôi đã thuật lại cho quý vị, nhưng quý vị không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị hoặc làm theo bất cứ điều gì Ngài sai tôi đến truyền cho quý vị.
\v 22 Vậy bây giờ, chắc chắn quý vị biết rằng mình sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, và tai họa trong xứ mà quý vị muốn đến sống.”
\s5
\c 43
\p
\v 1 Giê-rê-mi đã tuyên bố xong cho toàn dân sự mọi lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ đã bảo ông phải nói.
\v 2 A-xa-ria con Hô-sa-gia, Giô-ha-nan con Ca-rê-a, và tất cả những người ngạo mạn nói với Giê-rê-mi: “Ông nói dối. Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi không sai ông đến nói rằng: Đừng đến sống tại Ai Cập.
\v 3 Vì Ba-rúc con Nê-ri-gia xúi giục ông chống lại chúng tôi để ông phó chúng tôi vào tay người Canh-đê, khiến chúng tôi chết và bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn.”
\s5
\v 4 Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-ca, tất cả các chỉ huy quân đội, và toàn thể dân chúng từ chối nghe theo tiếng Giê-hô-va kêu gọi sống trong xứ Giu-đa.
\v 5 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả sĩ quan chỉ huy quân đội đem hết thảy những người Giu-đa còn sót lại, là những người đã trở về từ các nước họ bị tản lạc đến sống trong xứ Giu-đa.
\v 6 Họ dẫn theo đàn ông, đàn bà, trẻ con và các con gái của vua, cùng những người mà Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, đã để ở lại với Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Họ cũng dẫn theo tiên tri Giê-rê-mi và Ba-rúc con Nê-ri-gia.
\v 7 Họ đến Ai Cập, đến Ta-phan-hết, vì họ không nghe theo tiếng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 8 Vậy có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi tại Ta-phan-hết,
\v 9 “Hãy lấy vài hòn đá lớn trước mặt dân Giu-đa, giấu trong vỉa hè pha vữa ở lối vào cung vua Pha-ra-ôn tại Ta-phan-hết. ”
\v 10 Sau đó hãy nói với chúng: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ sai sứ giả đến gọi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn là đầy tớ Ta. Ta sẽ lập ngai nó trên những hòn đá mà ngươi, Giê-rê-mi, đã chôn. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ dựng lều trên chúng.
\s5
\v 11 Nó sẽ đến và đánh xứ Ai Cập. Ai bị định cho chết sẽ chết. Ai bị định làm phu tù sẽ bị bắt làm phu tù. Và ai bị định cho gươm dao sẽ bị phó cho gươm dao.
\v 12 Sau đó, Ta sẽ nhen lửa trong các đền thờ thần của Ai Cập. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ phóng hỏa đốt chúng hoặc chiếm chúng. Nó sẽ dọn sạch xứ Ai Cập như người chăn chiên dọn sạch sâu hại khỏi quần áo họ. Nó sẽ ra khỏi đó trong sự chiến thắng.
\v 13 Nó sẽ bẻ gãy các cột đá ở Hê-li-ô-pô-lít trong xứ Ai Cập. Nó sẽ đốt các thành thờ thần của Ai Cập. ’”
\s5
\c 44
\p
\v 1 Đây là lời phán cùng Giê-rê-mi về những người Giu-đa sống trong xứ Ai Cập, tức những người ở tại Mích-đôn, Ta-phan-hết, Mem-phi, và trong đất Pa-trốt.
\v 2 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Chính các ngươi đã thấy mọi tai họa mà Ta giáng trên Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành của Giu-đa. Kìa, hôm nay chúng là những đống hoang tàn. Không ai ở trong các thành ấy.
\v 3 Việc này xảy ra là bởi cớ những việc ác mà chúng đã làm đặng xúc phạm Ta bằng cách xông hương và thờ các thần khác. Đây là những thần mà chính chúng, các ngươi, hoặc tổ phụ các ngươi không biết.
\s5
\v 4 Vậy, Ta cứ hết lần này đến lần khác sai tôi tớ Ta là những tiên tri đến với chúng. Ta sai họ đi nói rằng: Hãy ngưng làm những việc gớm ghiếc mà Ta ghét.
\v 5 Nhưng chúng không nghe. Chúng không chịu chú ý hoặc từ bỏ việc gian ác mình khi xông hương cho các thần khác.
\v 6 Vậy cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta đổ ra và nhen lửa trên các thành của Giu-đa và đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng trở nên hoang tàn và bị tàn phá cho đến ngày nay.”
\s5
\v 7 Vậy bây giờ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Sao các ngươi làm điều ác chống lại chính mình? Sao các ngươi để cho chính mình bị chặt bỏ khỏi Giu-đa gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con và trẻ sơ sinh? Sẽ không ai trong các ngươi còn sót lại.
\v 8 Bởi sự gian ác các ngươi, các ngươi đã xúc phạm Ta bằng việc làm của chính tay mình, xông hương cho các thần khác trong xứ Ai Cập là nơi các ngươi đến cư ngụ. Các ngươi đến đó để bị hủy diệt, trở thành một đối tượng bị nguyền rủa và nỗi nhục nhã giữa các dân trên đất.
\s5
\v 9 Các ngươi đã quên sự gian ác của tổ phụ các ngươi và sự gian ác mà các vua Giu-đa và vợ chúng đã phạm sao? Các ngươi đã quên việc ác mà chính các ngươi và vợ các ngươi phạm trong xứ Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem sao?
\v 10 Đến hôm nay, chúng vẫn không hạ mình. Chúng không tôn trọng luật pháp hoặc sắc lệnh Ta đã đặt trước mặt chúng và tổ phụ chúng và cũng chẳng bước theo những điều ấy.”
\s5
\v 11 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ xây mặt nghịch cùng các ngươi, Ta sẽ giáng tai họa trên các ngươi và hủy diệt Giu-đa.
\v 12 Ta sẽ lấy dân Giu-đa còn sót lại, tức những người đi đến sống ở Ai Cập. Ta sẽ làm như vậy để tất cả bọn chúng sẽ diệt vong trong xứ Ai Cập. Chúng sẽ ngã xuống bởi gươm dao và đói kém. Kẻ nhỏ người lớn sẽ hư vong bởi gươm dao và đói kém. Chúng sẽ chết và trở thành đối tượng nguyền rủa, rủa sả, sỉ nhục, và gớm ghiếc.
\s5
\v 13 Ta sẽ phạt dân cư ngụ trong xứ Ai Cập như Ta đã phạt Giê-ru-sa-lem bằng gươm dao, đói kém, và tai họa.
\v 14 Không có người lánh nạn nào hoặc kẻ sống sót nào trong số dân Giu-đa còn sót lại đến sống trong xứ Ai Cập trở về xứ Giu-đa, thậm chí dù chúng muốn quay về sống tại đó. Sẽ không có ai trong số chúng trở về, ngoại trừ một ít người trốn thoát khỏi đó.”
\s5
\v 15 Vậy, tất cả những người đàn ông biết rằng vợ mình đang xông hương cho các thần khác, và những người đàn bà trong một hội đông, và toàn thể những người sống trong xứ Ai Cập tại Pa-trốt trả lời Giê-rê-mi.
\v 16 Họ nói: “Về lời mà ông nhân danh Đức Giê-hô-va nói với chúng tôi: Chúng tôi sẽ không nghe ông.
\v 17 Vì chúng tôi chắc chắn sẽ làm tất cả những việc mà chúng tôi đã nói là sẽ làm: xông hương cho Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy y như chúng tôi, tổ phụ chúng tôi, các vua, và những lãnh đạo của chúng tôi đã làm trong các thành của Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng tôi sẽ có đầy đủ thức ăn và phồn vinh, chẳng trải qua tai họa gì.
\s5
\v 18 Khi chúng tôi ngưng làm những việc này, không xông hương cho Nữ vương trên Trời và không đổ của lễ quán cho thần ấy, tất cả chúng tôi đều bị nghèo khó và chết bởi gươm dao và đói kém. ”
\v 19 Những người đàn bà này nói: “Khi chúng tôi xông hương trước mặt Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy, chúng tôi đã làm những việc này mà chồng chúng tôi không biết sao?”
\s5
\v 20 Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự - gồm đàn ông và đàn bà, và tất cả những người trả lời ông ông công bố rằng:
\v 21 “Đức Giê-hô-va không nhớ hương mà quý vị, tổ phụ quý vị, các vua và lãnh đạo của quý vị, và dân trong xứ, đã xông trong các thành Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem sao? Vì Đức Giê-hô-va nhớ điều này; Ngài nghĩ đến điều đó.
\s5
\v 22 Do vậy, Ngài không thể chịu đựng điều đó nữa vì những thói tục gian ác của quý vị, vì sự ghê tởm mà quý vị đã làm. Xứ của quý vị sẽ trở nên hoang vu, ghê rợn, và là đối tượng bị nguyền rủa, đến nỗi không còn ai sống trong xứ đó nữa cho đến ngày nay.
\v 23 Vì quý vị xông hương và phạm tội chống lại Đức Giê-hô-va, và vì quý vị không nghe theo tiếng Ngài, luật pháp của Ngài, giới mạng, hoặc sắc lệnh theo giao ước của Ngài, nên tai họa này giáng trên quý vị cho đến ngày nay.”
\s5
\v 24 Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự và tất cả những người đàn bà: “Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người Giu-đa trong xứ Ai Cập.
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi đã nói và bắt tay thực hiện việc các ngươi đã định: “Chúng tôi chắc chắn sẽ thực thi lời thề mà chúng tôi đã lập đặng thờ Nữ vương trên Trời, đổ của lễ quán cho thần ấy. ” Bây giờ hãy thực hiện lời thề ấy; hãy thực thi chúng.
\s5
\v 26 Vậy bây giờ, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi toàn thể dân Giu-đa trong xứ Ai Cập: Kìa, Ta đã nhân danh vĩ đại của Ta mà thề - Đức Giê-hô-va phán. Danh Ta sẽ không còn được xưng bởi miệng của bất kỳ người nào trong dân Giu-đa tại xứ Ai Cập nữa, hỡi những kẻ nói rằng: “Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống. ”
\v 27 Kìa, Ta sẽ canh chúng đặng giáng tai họa chứ chẳng phải sự tốt lành. Những người Giu-đa trong xứ Ai Cập sẽ bỏ mạng vì gươm dao và đói kém cho đến khi tất cả chúng đều bị diệt hết.
\v 28 Những kẻ còn sống sót thoát khỏi gươm dao sẽ rời Ai Cập trở về xứ Giu-đa, chỉ một ít trong số chúng. Vậy tất cả những kẻ còn sót lại trong dân Giu-đa đến sống ở Ai Cập sẽ biết lời nào ứng nghiệm: lời của Ta hoặc của chúng.
\s5
\v 29 Này sẽ là dấu cho các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ nghịch cùng các ngươi trong nơi này, để các ngươi biết rằng lời của Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên các ngươi.
\v 30 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phó Pha-ra-ôn Hốp-ra, vua Ai Cập, vào tay các kẻ thù của nó và những kẻ tìm mạng sống nó. Việc ấy sẽ tương tự như khi Ta phó Sê-đê-kia vua Giu-đa vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, là kẻ thù tìm mạng sống của nó. ’”
\s5
\c 45
\p
\v 1 Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi nói với Ba-rúc con Nê-ri-gia, khi ông chép trong một cuộn sách những lời bởi miệng Giê-rê-mi đọc nhằm năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, ông nói,
\v 2 ”Hỡi Ba-rúc, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:
\v 3 Ngươi đã nói: Khốn thay cho tôi, vì Đức Giê-hô-va đã thêm sự cùng cực vào sự đau khổ của tôi. Tôi mệt nhọc vì than thở; tôi không được yên nghỉ.
\s5
\v 4 Này là lời ngươi phải nói với ông ấy: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, việc Ta đã xây, Ta sẽ đánh đổ. Việc Ta đã vun trồng, Ta sẽ nhổ. Việc này đúng trên khắp thế gian.
\v 5 Nhưng ngươi đang trông đợi những việc lớn cho mình sao? Đừng hy vọng điều ấy. Vì kìa, tai họa sẽ giáng trên khắp nhân loại Đức Giê-hô-va phán vậy nhưng Ta sẽ ban mạng sống cho ngươi làm của cướp ở bất cứ nơi nào ngươi đến. ’”
\s5
\c 46
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về các nước.
\v 2 Về Ai Cập: “Đây là lời phán về quân đội của Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai Cập tại Cạt-kê-mít bên sông Ơ-phơ-rát. Đây là quân mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã đánh bại vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa.
\v 3 Hãy chuẩn bị khiên nhỏ và lớn, hãy ra trận.
\v 4 Hãy thắng yên ngựa và cưỡi, hỡi các kỵ sĩ. Hãy đứng vào hàng ngũ, đầu đội mũ sắt. Hãy đánh bóng giáo và mặc áo giáp.
\s5
\v 5 Ta thấy gì? Chúng khiếp sợ và chạy trốn, vì lính của chúng bị bại trận. Chúng lẩn trốn và không quay nhìn lại. Sự kinh hãi vây quanh Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 6 người nhanh chân không thể bỏ chạy, lính không thể trốn thoát. Chúng trượt chân ở phía bắc và ngã bên Sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 7 Người này là ai mà nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn?
\v 8 Ai Cập nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn. Nó nói: Ta sẽ chảy lên; Ta sẽ phủ khắp đất. Ta sẽ hủy diệt các thành phố cùng cư dân nó.
\v 9 Hỡi ngựa, hãy xông lên. Hỡi xe chiên mã, hãy giận dữ. Hãy để chiến sĩ đi ra, hỡi Cút và Phút, những người có tài cầm khiên, và Lu-đim, những người có tài giương cung.
\s5
\v 10 Hôm đó sẽ là ngày báo thù của Chúa Giê-hô-va vạn quân, chính Ngài sẽ báo thù trên kẻ thù Ngài. Gươm dao sẽ cắn xé thỏa dạ. Nó sẽ uống say huyết. Vì sẽ có một tế lễ dâng cho Chúa Giê-hô-va vạn quân tại xứ phương bắc bên Sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 11 Hãy đi lên Ghi-lê-át và lấy thuốc, hỡi trinh nữ Ai Cập.
\v 12 Ngươi đắp nhiều thuốc cũng chẳng có ích chi. Đất đầy dẫy lời than van của ngươi, vì lính chiến đâm đầu vào nhau; cả hai đều ngã xuống.”
\s5
\v 13 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi khi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến đánh xứ Ai Cập:
\v 14 ”Hãy thuật lại cho Ai Cập và công bố ở Mích-đôn và Mem-phi. Tại Ta-phan-hê chúng nói: “Hãy vào hàng ngũ và sẵn sàng, vì gươm dao sẽ cắn xé xung quanh ngươi.
\s5
\v 15 Sao thần A-pi chạy trốn? Sao thần bò đực của ngươi không đứng nổi? Đức Giê-hô-va đã quăng nó xuống.
\v 16 Ngài làm cho nhiều người vấp ngã. Mỗi lính chiến va vào nhau. Chúng nói: “Đứng lên. Chúng ta hãy về nhà. Chúng ta hãy trở về dân của chúng ta, về xứ của chúng ta. Chúng ta hãy rời khỏi thanh gươm ức hiếp. ”
\v 17 Chúng tuyên bố: “Pha-ra-ôn vua Ai Cập chỉ là tiếng ồn, là người đã đánh mất cơ hội.”
\s5
\v 18 “Thật như Ta hằng sống - vua tuyên bố như vầy - bởi danh Ta là Đức Giê-hô-va vạn quân, người ta sẽ đến học như Núi Tha-bô và Cạt-mên bên bờ biển.
\v 19 Chính các ngươi hãy chuẩn bị hành lý để lên đường làm phu tù, hỡi con gái ở Ai Cập. Vì Mem-phi sẽ trở thành một cớ kinh khiếp và hoang toàn đến nỗi không ai ở đó nữa.
\s5
\v 20 Ai Cập là một con bê con còn rất nhỏ, nhưng một con mòng bay đến từ phương bắc chích nó, hỡi các con gái ở Ai Cập. Nó đang đến.
\v 21 Các lính chiến ở giữa quân Ai Cập trông như bò đực được vỗ béo, nhưng chúng cũng sẽ ngoảnh mặt và bỏ chạy. Chúng sẽ không đứng với nhau, vì ngày tai họa đang đến gần, ấy là thời điểm đoán phạt.
\v 22 Ai Cập huýt sáo như rắn và bò đi chỗ khác. Họ sẽ xông lên trước như thợ khắc gỗ bằng búa.
\s5
\v 23 Họ sẽ triệt hạ các cánh rừng Đức Giê-hô-va phán vậy dù rất dày đặc.
\v 24 Con gái của Ai Cập sẽ bị khiến xấu hổ. Nàng sẽ bị phó vào tay dân từ phía bắc.”
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ trừng phạt Am-môn ở Thê-be, Pha-ra-ôn, Ai Cập, và các thần của nó, các vua Pha-ra-ôn, và những ai tin nơi họ.
\v 26 Ta sẽ phó chúng vào tay một trong những kẻ tìm hại mạng sống chúng, trong xứ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn và các tôi tớ của ông.”
\s5
\v 27 “Nhưng còn ngươi, hỡi Gia-cốp, tôi tớ ta, chớ sợ hãi. Chớ mất tinh thần, hỡi Y-sơ-ra-ên, vì kìa, Ta sẽ đem ngươi về từ phương xa, dòng dõi ngươi sẽ nên thánh, thoát khỏi sự phu tù. Sau đó, Gia-cốp sẽ trở về, tìm được sự an bình, và yên ninh, sẽ không ai làm ông hoảng sợ.
\v 28 Hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, chớ sợ hãi Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta ở cùng ngươi, Ta sẽ hoàn toàn hủy diệt các nước mà Ta đã đuổi các ngươi đến. Nhưng Ta sẽ không diệt hết các ngươi. Ta sẽ kỷ luật các ngươi cách công bằng và đoán phạt các ngươi. ’””
\s5
\c 47
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về dân Phi-li-tin. Ngài phán cùng ông trước khi Pha-ra-ôn đánh Ga-xa.
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, những luồng nước đang nổi lên từ phương bắc. Chúng sẽ như sông chảy tràn! Chúng sẽ chảy tràn khắp xứ và mọi vật trong xứ, các thành phố và dân cư! Ai nấy sẽ kêu cầu giúp đỡ, và mọi dân cư trong xứ sẽ than khóc.
\s5
\v 3 Khi nghe tiếng giậm của vó ngựa, khi nghe tiếng gầm của xe chiến mã và tiếng ồn của bánh xe, cha sẽ không giúp con cái vì họ yếu ớt.
\v 4 Vì ngày tàn phá toàn thể dân Phi-li-tin sẽ đến, loại trừ khỏi Ty-rơ và Si-đôn những kẻ còn sống sót muốn giúp đỡ chúng. Vì Đức Giê-hô-va sẽ tàn phá dân Phi-li-tin, là những kẻ còn sót lại của đảo Cáp-tô.
\s5
\v 5 Ga-xa sẽ cạo đầu. Còn Ách-kê-lôn, những kẻ còn sót lại trong thung lũng sẽ nín lặng. Ngươi còn tự rạch da mình đến chừng nào?
\v 6 Thật khốn thay, gươm của Đức Giê-hô-va!
\v 7 Làm sao ngươi có thể yên ổn được, vì Đức Giê-hô-va đã truyền dặn ngươi. Ngài đã kêu gọi ngươi đánh Ách-kê-lôn và chống lại miền duyên hải.”
\s5
\c 48
\p
\v 1 Về Mô-áp, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khốn cho Nê-bô, vì nó đã bị tàn phá. Ki-ri-a-tha-im bị chiếm và làm nhục. Pháo đài nó bị đổ nát và nhục nhã.
\v 2 Mô-áp không còn được kính trọng nữa. Kẻ thù nó ở Hẹt-bôn lập mưu hại nó. Chúng nói: Nào, chúng ta hãy hủy diệt dân đó. Người điên cũng sẽ chết gươm dao sẽ đuổi theo ngươi.
\s5
\v 3 Hãy nghe! Có tiếng hét từ Hô-rô-na-im, là nơi điêu tàn và đổ nát.
\v 4 Mô-áp đã bị diệt. Con trẻ nó lên tiếng kêu la.
\v 5 Chúng lên đồi Lu-hít khóc lóc, trên đường xuống Hô-rô-na-im, người ta nghe tiếng la hét vì sự hủy diệt.
\s5
\v 6 Hãy chạy trốn! Hãy cứu mạng ngươi và hãy như cây cối trong hoang mạc.
\v 7 Vì ngươi tin vào thói quen và của cải mình, ngươi cũng sẽ bị bắt. Kê-mốt sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó.
\s5
\v 8 Kẻ hủy diệt sẽ đến từng thành phố; không thành nào thoát khỏi. Thung lũng sẽ tàn lụi và đồng bằng sẽ bị tàn phá, như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 9 Hãy chắp cánh cho Mô-áp, vì nó chắc phải bay xa. Các thành của nó sẽ trở thành hoang mạc, không ai sống ở đó.
\v 10 Đáng rủa cho kẻ nào lười biếng làm việc của Đức Giê-hô-va! Kẻ nào không dùng gươm làm đổ huyết đáng bị rủa!
\s5
\v 11 Mô-áp cảm thấy an toàn từ khi nó còn nhỏ. Nó như rượu chưa từng được đổ từ bình này qua bình kia. Nó chưa bao giờ bị bắt làm phu tù. Như vậy, nó có vị ngon; mùi thơm của nó vẫn y nguyên.
\v 12 Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta sai đến cùng nó những kẻ đổ nó ra và đổ tất cả các bình của nó và đập vỡ các vại của nó.
\s5
\v 13 Sau đó, Mô-áp sẽ hổ thẹn bởi Kê-mốt như nhà Y-sơ-ra-ên hổ thẹn bởi Bê-tên, là đối tượng chúng trông cậy.
\v 14 Làm sao ngươi có thể nói rằng: Chúng tôi là chiến sĩ, là lính chiến mạnh mẽ?
\s5
\v 15 Mô-áp sẽ bị tàn phá và các thành của nó sẽ bị tấn công. Vì những kẻ trai trẻ giỏi nhất của nó đã đi đến nơi tàn sát. Đây là lời tuyên bố của vua! Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\v 16 Tai họa của Mô-áp sẽ sớm xảy đến; tai ương vội tới mau.
\v 17 Tất cả các ngươi là những kẻ ở quanh Mô-áp, hãy than khóc. Và tất cả các ngươi là những kẻ biết danh tiếng nó, hãy la lên rằng: Thật khốn thay, cây trượng kiên cố, cây gậy vinh quang, đã bị gãy.
\s5
\v 18 Hãy bước xuống khỏi nơi vinh quang của ngươi và ngồi trên đất khô, hỡi con gái sống trong thành Đi-bôn. Vì kẻ hủy diệt Mô-áp sẽ tấn công ngươi, tức là kẻ hủy diệt đồn lũy ngươi.
\v 19 Hãy đứng trên đường và xem, hỡi dân sống ở A-rô-ơ. Hãy hỏi những kẻ chạy trốn và chạy thoát. Hãy hỏi: Chuyện gì xảy ra vậy?
\v 20 Mô-áp bị sỉ nhục, vì nó đã bị đánh tan tác. Hãy la hét và than khóc; hãy kêu cầu giúp đỡ. Hãy nói với dân bên Sông Ạt-nôn rằng Mô-áp đã bị tàn phá.
\s5
\v 21 Bấy giờ, sự trừng phạt đã đến với vùng cao nguyên, Hô-lôn, Gia-xa, và Mê-pha-át,
\v 22 Đi-bôn, Nê-bô, và Bết Đíp-la-tha-im,
\v 23 Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-mun, và Bết Mê-ôn,
\v 24 Kê-ri-ốt và Bốt-ra, và hết thảy các thành trong xứ Mô-áp thành xa nhất và thành gần nhất.
\v 25 Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt; cánh tay nó đã bị gãy Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 26 Hãy cho nó say, vì nó kiêu căng chống nghịch Ta, là Đức Giê-hô-va. Bấy giờ Mô-áp vỗ tay kinh tởm ngay nơi nó đã mửa, vì nó cũng trở thành trò cười.
\v 27 Chẳng phải Y-sơ-ra-ên trở thành trò cười cho ngươi sao? Có phải nó bị bắt quả tang giữa những kẻ trộm, đến nỗi ngươi lắc đầu chê nó khi ngươi nhắc đến nó?
\s5
\v 28 Hãy bỏ các thành và trại trên vách đá, hỡi dân cư Mô-áp. Hãy như chim bồ câu làm tổ trên miệng vực thẳm.
\v 29 Chúng ta đã nghe về sự kiêu căng của Mô-áp sự ngạo mạn của nó, thái độ kiêu kỳ, tính tự phụ, tính tự khoe khoang và tính tự cao tự đại trong lòng nó.
\s5
\v 30 Đức Giê-hô-va phán vậy chính Ta biết lời thách thức của nó, là lời vô dụng, như việc làm của nó.
\v 31 Vậy Ta sẽ khóc than cho Mô-áp, và Ta sẽ kêu la buồn bã cho toàn cõi Mô-áp. Ta sẽ than khóc cho dân Kiệt Hê-rết.
\v 32 Ta sẽ khóc cho ngươi nhiều hơn Ta khóc cho Gia-xe, hỡi cây nho của Síp-ma! Các nhánh ngươi vươn ra Biển Muối và vươn xa đến tận Gia-xe. Kẻ hủy diệt phá hại trái cây mùa hè và rượu ngươi.
\s5
\v 33 Sự vui mừng và liên hoan đã bị cất khỏi cây cối đầy quả và xứ Mô-áp. Ta khiến máy ép nho hết rượu. Chúng sẽ không vui mừng hớn hở giẫm lên. Tiếng hò hét sẽ không phải là tiếng hò hét vui mừng.
\s5
\v 34 Từ tiếng la hét ở Hẹt-bôn đến tận Ê-lê-a-lê, người ta nghe tiếng của chúng ở Gia-ha, từ Xoa đến Hô-rô-na-im và Ê-lát Sê-li-sia, kể từ khi nước ở Nim-rim khô cạn.
\v 35 Ta sẽ diệt khỏi Mô-áp kẻ nào dâng lễ vật tại các điện thờ và kẻ nào xông hương cho các thần của nó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 36 Lòng Ta than khóc cho Mô-áp như tiếng sáo. Lòng Ta than khóc như tiếng sáo cho dân Kiệt Hê-rết. Sự giàu có mà chúng tích lũy đã biến mất.
\v 37 Mỗi người đều trọc đầu và cạo râu. Tay nào cũng bị rạch, và chúng quấn vải gai quanh lưng.
\s5
\v 38 Khắp nơi đều để tang, trên mỗi mái nhà và quảng trường ở Mô-áp. Vì Ta đã tiêu diệt Mô-áp như bình mà chẳng ai muốn dùng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 39 Nó đã bị tiêu tan rồi! Chúng la hét than khóc! Mô-áp quay lưng nhục nhã! Mô-áp sẽ trở thành đối tượng bị nhạo báng và là nỗi khiếp sợ cho những dân ở quanh nó.”
\s5
\v 40 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, kẻ thù sẽ bay đến như chim đại bàng, giang cánh trên Mô-áp.
\v 41 Kê-ri-ốt đã bị chiếm, đồn lũy nó bị bao vây. Vì trong ngày đó, lòng của chiến sĩ Mô-áp sẽ như lòng của đàn bà chuyển dạ sinh con.
\s5
\v 42 Vậy, dân Mô-áp sẽ bị tiêu diệt, vì chúng ngạo mạn trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va.
\v 43 Sự khiếp sợ và hố sâu, cạm bẫy đang đến trên ngươi, hỡi dân cư Mô-áp Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 44 Ai chạy trốn vì khiếp sợ sẽ rơi xuống hố, và ai trèo ra khỏi hố sẽ bị dính bẫy, vì Ta sẽ giáng điều này trên chúng vào năm Ta báo thù chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 45 Những kẻ chạy trốn kiệt sức sẽ đứng dưới bóng Hẹt-bôn, vì lửa sẽ bùng cháy từ Hẹt-bôn, lửa đến từ giữa Si-hôn. Lửa sẽ thiêu hủy trán của Mô-áp và sọ của đám dân khoác lác.
\s5
\v 46 Thật khốn cho ngươi, hỡi Mô-áp! Dân Kê-mốt bị hủy diệt, con trai các ngươi bị bắt làm phu tù và con gái các ngươi bị bắt lưu đày.
\v 47 Nhưng Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Mô-áp trong những ngày sau rốt Đức Giê-hô-va phán vậy. ” Sự đoán xét dân Mô-áp kết thúc tại đây.
\s5
\c 49
\p
\v 1 Về dân Am-môn, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Y-sơ-ra-ên không có con ư? Trong Y-sơ-ra-ên không có ai để thừa hưởng sao? Tại sao Mô-lết chiếm Gát, và dân trong thành nó?
\v 2 Vậy hãy xem, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta ra hiệu lệnh chiến trận chống lại Ráp-ba giữa dân Am-môn, đến nỗi nó trở thành đống hiu quạnh và con gái nó sẽ bị lửa đốt cháy. Vì Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm những kẻ đã chiếm nó, ” Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 3 “Hãy kêu gào ai oán, hỡi Hẹt-bôn, vì A-hi sẽ bị tàn phá! Hãy la lên, hỡi con gái Ráp-ba! Hãy mặc áo gai. Hãy than khóc và chạy lăng xăng vô ích, vì Mô-lết sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó.
\v 4 Sao ngươi tự hào về sức mạnh mình? Sức mạnh ngươi sẽ tan biến, hỡi con gái vô tín, là những kẻ cậy vào của cải mình. Các ngươi nói: Ai sẽ chống nghịch ta?
\s5
\v 5 Kìa, ta sẽ giáng sự khiếp sợ trên ngươi Đức Giê-hô-va, Chúa vạn quân phán vậy sự khiếp sợ này sẽ đến từ các dân xung quanh ngươi. Mỗi người trong các ngươi sẽ bị đuổi chạy tán loạn trước mặt chúng. Sẽ không ai tập hợp những kẻ chạy trốn.
\v 6 Nhưng sau việc này, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của dân Am-môn Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 7 Về Ê-đôm, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Người ta không còn tìm thấy sự khôn ngoan nào ở Thê-man nữa sao? Những kẻ hiểu biết không còn lời khuyên tốt lành nào sao? Sự khôn ngoan của chúng đã bị sai lệch sao?
\v 8 Hãy chạy trốn! Hãy quay lại! Hãy ở trong các hố dưới đất, hỡi dân cư Đê-đan. Vì Ta sẽ giáng tai họa của Ê-sau trên nó khi Ta phạt nó.
\s5
\v 9 Nếu những kẻ thu hoạch nho đến với ngươi, chúng sẽ không chừa lại một ít sao? Nếu kẻ trộm đến vào ban đêm, chúng sẽ không trộm theo ý chúng muốn sao?
\v 10 Nhưng Ta đã lột trần Ê-sau. Ta để lộ những chỗ kín của nó. Nó sẽ không thể ẩn trốn. Con cái nó, anh em nó, và láng giềng nó bị hủy diệt, nó bị diệt vong.
\v 11 Hãy để cô nhi của ngươi lại. Ta sẽ chăm sóc cuộc sống chúng, những góa phụ của ngươi có thể tin cậy Ta.”
\s5
\v 12 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, những kẻ không đáng tội phải uống chén ấy. Chính ngươi nghĩ rằng ngươi sẽ thoát khỏi sự trừng phạt sao? Không đâu, vì ngươi chắc sẽ uống.
\v 13 Chính Ta đã thề - Đức Giê-hô-va phán vậy rằng Bốt-ra sẽ trở thành một sự khiếp sợ, nỗi ô nhục, nơi bị tàn phá, và đối tượng bị rủa sả. Tất cả các thành của nó sẽ trở thành nơi bị tàn phá mãi mãi.
\s5
\v 14 Ta có nghe tin từ Đức Giê-hô-va, và một sứ giả được sai đến các dân: Hãy tập hợp lại và đánh nó. Hãy sẵn sàng ra trận.
\v 15 “Vì kìa, Ta khiến ngươi trở nên nhỏ bé giữa các nước, bị người ta khinh thường.
\s5
\v 16 Về sự sợ hãi của ngươi, sự kiêu ngạo trong lòng ngươi đã lừa dối ngươi, hỡi dân cư sống ở nơi vách đá, các ngươi chiếm những ngọn đồi cao nhất để làm tổ trên cao như chim đại bàng. Ta sẽ đem ngươi xuống khỏi đó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 17 Ê-đôm sẽ trở thành nỗi khiếp sợ cho những ai đi ngang qua. Ai nấy sẽ run rẩy và huýt sáo chê cười vì cớ mọi tai họa của nó.
\v 18 Như sự đổ nát của Sô-đôm và Gô-mô-ra cùng các thành lân cận nó, ” Đức Giê-hô-va phán: “sẽ không ai sống ở đó; không ai cư ngụ tại đó.
\s5
\v 19 Kìa, nó sẽ đi lên như sư tử ra từ rừng ở Giô-đanh đến những đồng cỏ xanh tươi. Ta sẽ mau chóng khiến Ê-đôm chạy khỏi đó, và Ta sẽ đặt người được chọn coi sóc nó. Ai giống như Ta, và ai kêu gọi Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta?”
\s5
\v 20 “Vậy hãy nghe những kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã quyết định giáng trên Ê-đôm, là những kế hoạch Ngài đã lập chống lại dân cư Thê-man. Chúng chắc chắn sẽ bị lôi đi, ngay cả bầy chiên nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ biến thành những nơi điêu tàn.
\s5
\v 21 Khi nghe tiếng sụp đổ của chúng, đất rúng động. Người ta nghe tiếng hét đau buồn ở biển Sậy.
\v 22 Kìa, sẽ có người tấn công như chim đại bàng, sà xuống và sải cánh trên Bốt-ra. Trong ngày hôm đó, lòng của chiến sĩ Ê-đôm sẽ như lòng của đàn bà sinh con.”
\s5
\v 23 Về Đa-mách: “Ha-mát và Ạt-bát sẽ hổ thẹn, vì chúng có nghe tin tai họa. Chúng ta chảy! Chúng run rẩy như biển không thể yên lặng.
\v 24 Đa-mách trở nên yếu ớt. Nó xây lưng chạy trốn; sự khiếp sợ bao vây nó. Nỗi đau buồn và đau đớn bao vây nó, như cơn đau của đàn bà sinh con.
\v 25 Dân nó nói rằng: Làm sao mà thành danh tiếng, là thành mà tôi vui mừng, lại không bị bỏ rơi?
\s5
\v 26 Vậy, những người trai trẻ của nó sẽ ngã xuống trong quảng trường, toàn thể lính chiến của nó sẽ chết vào hôm đó Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. ”
\v 27 “Vì Ta sẽ đốt lửa trên tường thành Đa-mách, lửa ấy sẽ thiêu đốt đồn lũy Bên Ha-đát.”
\s5
\v 28 Về Kê-đa và các nước của Hát-xo, Đức Giê-hô-va phán với Nê-bu-cát-nết-sa như vầy (bấy giờ Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ tấn công những nơi này): “Hãy trỗi dậy và đánh Kê-đa và hủy diệt dân phương đông.
\v 29 Quân của nó sẽ chiếm lều chúng và bầy súc vật của chúng, các màn trại, và những vật dụng khác. Chúng sẽ chiếm lạc đà từ dân Kê-đa và la hét: Khủng bố tứ phía!
\s5
\v 30 Hãy chạy trốn! Hãy lánh đi thật xa! Hãy ở trong hố sâu, hỡi dân cư Hát-so Đức Giê-hô-va phán vậy vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lập kế hoạch chống lại ngươi. Hãy chạy trốn! Đừng trở lại!
\v 31 Hãy trỗi dậy! Hãy đánh nước phương đông, là dân sống an lành, ” Đức Giê-hô-va phán. “Chúng không có cổng hoặc then cửa, dân của nó sống một mình.
\s5
\v 32 Lạc đà của chúng sẽ trở thành của cướp, tài sản dư dật của chúng sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Ta sẽ phân tán những kẻ cắt tóc theo gió đến mọi góc đất, và Ta sẽ giáng họa trên chúng tứ phía Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 33 Hát-so sẽ trở thành hang ổ chó rừng, một nơi hoang vu mãi mãi. Sẽ không ai sống ở đó; không người nào cư ngụ tại đó.”
\s5
\v 34 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về Ê-lam. Ngài phán cùng ông vào đầu đời trị vì của Sê-đê-kia, vua Giu-đa,
\v 35 “Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bẻ những kẻ bắn cung của Ê-lam, là sức mạnh chủ yếu của chúng.
\v 36 Ta sẽ đem gió từ bốn phương trời, và Ta sẽ rải dân Ê-lam theo mọi hướng gió. Chẳng có nước nào mà những kẻ tản lạc từ Ê-lam lại không đến.
\s5
\v 37 Vậy, Ta sẽ đập vỡ Ê-lam trước mặt kẻ thù chúng và trước mặt những kẻ tìm mạng sống chúng. Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, là cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến chừng nào Ta tiêu diệt hết chúng.
\v 38 Sau đó, Ta sẽ đặt ngai Ta tại Ê-lam và hủy diệt các vua và những lãnh đạo của nó Đức Giê-hô-va phán
\v 39 trong những ngày sau rốt, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Ê-lam Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 50
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán về Ba-by-lôn, xứ của người Canh-đê, bởi tay của tiên tri Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy rao cho các nước và bảo chúng lắng nghe. Hãy giơ hiệu lệnh và bảo chúng lắng nghe. Đừng giấu. Hãy nói: Ba-by-lôn bị bắt. Bên bị hổ thẹn. Mê-rô-đác mất can đảm. Các thần tượng nó mặc lấy sự xấu hổ; các hình tượng nó bị đánh đổ.
\s5
\v 3 Một nước từ phương bắc sẽ dấy lên nghịch lại nó, đặng khiến xứ nó thành nơi bị tàn phá. Sẽ không một ai hoặc thú vật nào sống trong xứ đó. Chúng sẽ bỏ chạy.
\v 4 Trong những ngày đó và trong lúc đó Đức Giê-hô-va phán như vầy dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sẽ hiệp lại với nhau đặng than khóc và tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng.
\v 5 Chúng sẽ hỏi đường đến Si-ôn và hướng về đó. Chúng sẽ đi và liên kết với Đức Giê-hô-va trong giao ước đời đời là giao ước sẽ không bị phá vỡ.
\s5
\v 6 Dân Ta như bầy chiên đi lạc. Những kẻ chăn chiên của chúng đã dẫn chúng lạc lối trên các ngọn núi; họ dẫn chúng đi lòng vòng từ đồi này qua đồi kia. Chúng đi, chúng quên nơi chúng đã sống.
\v 7 Ai đến gặp chúng cũng đều cắn nuốt chúng. Kẻ thù của chúng nói rằng: Chúng ta không có tội, vì chúng đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nhà chân thật của chúng Đức Giê-hô-va, niềm hy vọng của tổ phụ chúng.
\s5
\v 8 Hãy ra khỏi giữa Ba-by-lôn; hãy ra khỏi xứ Canh-đê; hãy như dê đực rời đi trước khi bầy còn lại rời khỏi.
\v 9 Vì kìa, Ta sẽ dấy lên một nhóm dân lớn từ phương bắc nghịch lại Ba-by-lôn. Chúng sẽ dàn trận chống lại nó. Ba-by-lôn sẽ bị bắt. Mũi tên của chúng như chiến sĩ thiện xạ chẳng trở về trắng tay.
\v 10 Canh-đê sẽ trở thành của cướp. Tất cả những ai cướp nó sẽ thỏa dạ - Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 11 Các ngươi vui mừng, các ngươi mừng vì cướp cơ nghiệp Ta; các ngươi nhảy tung tăng như bò con giậm chân trong đồng cỏ; ngươi hí như ngựa mạnh sức.
\v 12 Vậy, mẹ ngươi sẽ xấu hổ lắm; người sinh ra ngươi sẽ bối rối. Kìa, nó sẽ là nước chót nhất trong các nước, là hoang mạc, đất khô cằn, và sa mạc.
\v 13 Vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va, Ba-by-lôn sẽ không có người ở, nó sẽ là một nơi bị tàn phá hoàn toàn. Ai đi ngang qua cũng sẽ rùng mình vì cớ Ba-by-ôn và sẽ huýt gió chê cười vì những vết thương của nó.
\s5
\v 14 Hãy dàn trận bao vây Ba-by-lôn. Hãy giương cung bắn nó. Đừng giữ lại bất kỳ mũi tên nào, vì nó đã phạm tội nghịch lại Đức Giê-hô-va.
\v 15 Hãy cất tiếng reo hò chiến thắng nghịch cùng nó tứ phía. Nó đã từ bỏ quyền lực; các tháp nó sụp đổ. Các tường nó bị đánh đổ, vì đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va. Hãy báo thù nó! Hãy báo trả nó như nó đã làm với các dân khác!
\s5
\v 16 Hãy hủy diệt người gieo và người dùng cái liềm trong mùa gặt ở Ba-by-lôn. Ai nấy sẽ trở về với dân tộc mình từ lưỡi gươm của kẻ đàn áp; họ sẽ bỏ chạy về xứ mình.
\s5
\v 17 Y-sơ-ra-ên như chiên bị tản lạc và bị sư tử rượt đuổi. Thứ nhất, vua A-sy-ri cắn xé nó; sau đó là Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bẻ gãy xương nó.
\v 18 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và xứ của nó, như Ta đã phạt vua A-sy-ri.
\s5
\v 19 Ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về xứ của nó; nó sẽ gặm cỏ trên Cạt-mên và Ba-san. Nó sẽ thỏa lòng nơi vùng cao nguyên Ép-ra-im và Ga-la-át.
\v 20 Trong những ngày đó và khi đó, Đức Giê-hô-va phán, người ta sẽ tìm tội ác của Y-sơ-ra-ên nhưng không thấy. Ta sẽ tìm tội lỗi của Giu-đa nhưng chẳng thấy, vì Ta sẽ tha thứ những kẻ còn sống sót mà Ta để lại.”
\s5
\v 21 “Hãy trỗi dậy đánh xứ Mê-ra-tha-im và dân sống ở Phê-cốt. Hãy lấy gươm tiêu diệt chúng và hủy diệt chúng Đức Giê-hô-va phán vậy hãy làm mọi điều Ta truyền cho ngươi.
\v 22 Trong xứ có tiếng chiến trận và tiếng của sự hủy diệt lớn.
\s5
\v 23 Cái búa của cả xứ đã bị gãy và tan tành. Ba-by-lôn đã trở thành nỗi khiếp sợ giữa các nước.
\v 24 Ta đã gài bẫy ngươi. Ngươi đã bị bắt, hỡi Ba-by-lôn, và ngươi không biết điều đó! Ngươi bị phát hiện và bị bao vây, vì ngươi thách thức Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho vũ khí và đem vũ khí ra để thực thi cơn giận của Ngài. Có việc cho Chúa Giê-hô-va vạn quân làm trong xứ Canh-đê.
\v 26 Hãy đánh nó từ đàng xa. Hãy mở toang vựa lúa nó và chất nó lên như những đống lúa mì. Hãy hủy diệt nó. Chớ để sót một ai.
\s5
\v 27 Hãy giết bò đực nó. Hãy đưa nó đến nơi giết chóc. Khốn thay cho chúng, vì ngày của chúng đã đến là thời kỳ sửa phạt.
\v 28 Người ta nghe tiếng của kẻ chạy trốn và của những kẻ còn sống sót từ đất Ba-by-lôn. Những kẻ này sẽ rao báo sự báo thù của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng ta vì Si-ôn, và sự báo thù cho đền thờ của Ngài.”
\s5
\v 29 “Hãy tập họp các cung thủ đánh Ba-by-lôn là những kẻ giương cung. Hãy đóng trại nghịch lại nó, chớ để ai trốn thoát. Hãy báo trả nó tùy theo việc nó làm. Hãy báo trả nó tùy theo chừng mực nó đã làm. Vì nó làm ô uế Đức Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 30 Vậy, những trai trẻ sẽ ngã xuống ở quảng trường thành phồ, những lính chiến của nó sẽ bị tiêu diệt trong ngày đó Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 31 “Kìa, Ta nghịch lại ngươi, kẻ kiêu ngạo Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy vì ngày của ngươi đã đến, hỡi kẻ kiêu ngạo, ấy là khi Ta trừng phạt ngươi.
\v 32 Vậy, những kẻ kiêu ngạo sẽ vấp chân và sa ngã. Không ai đỡ chúng dậy. Ta sẽ nhen lửa trong các thành của nó; lửa sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh nó.
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Dân Y-sơ-ra-ên bị đàn áp, cùng với dân Giu-đa. Tất cả những kẻ bắt chúng vẫn giam giữ chúng; họ không cho chúng đi.
\v 34 Đấng giải cứu chúng là mạnh mẽ. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Thật Ngài sẽ bênh vực duyên cớ chúng, để đem sự nghỉ ngơi đến cho xứ, và giáng sự xung đột lên những kẻ cư ngụ tại Ba-by-lôn.
\s5
\v 35 Gươm dao nghịch lại dân Canh-đê Đức Giê-hô-va phán vậy và nghịch lại dân cư Ba-by-lôn, các lãnh đạo và những người khôn ngoan của chúng.
\v 36 Gươm sẽ nghịch lại những kẻ bói toán, để chúng cho thấy chúng là những kẻ ngốc. Gươm sẽ nghịch lại các chiến sĩ của nó, để chúng đầy hoảng sợ.
\v 37 Gươm sẽ nghịch lại ngựa của chúng, xe chiến mã của chúng và tất cả những kẻ sống ở Ba-by-lôn, để chúng trở nên như đàn bà. Gươm sẽ nghịch lại các kho của chúng, và những kho ấy sẽ bị cướp.
\s5
\v 38 Gươm sẽ nghịch lại nước của chúng, sẽ không còn nước nữa. Vì nó là xứ thờ thần tượng hư không, chúng bắt chước những kẻ điên dựng lên hình tượng kinh khiếp.
\v 39 Thú ngoài hoang mạc và chó rừng sẽ ở đó, đà điểu con sẽ cư ngụ ở đó. Nó sẽ hoang vu không có người ở mãi mãi. Từ đời này qua đời kia, sẽ không ai ở trong đó.
\v 40 Như Đức Chúa Trời đã đánh đổ Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thành lân cận chúng Đức Giê-hô-va phán vậy sẽ không ai ở đó; sẽ không ai cư ngụ tại đó.”
\s5
\v 41 “Kìa, một dân đến từ phương bắc, vì một nước lớn và nhiều vua đã nổi lên từ tận cùng đất.
\v 42 Chúng sẽ cầm cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như tiếng biển cả gầm rống, và chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, nghịch lại ngươi, hỡi con gái Ba-by-lôn.
\v 43 Vua Ba-by-lôn có nghe báo cáo của chúng và tay chân vua ấy bủn rủn. Nỗi thống khổ bao vây vua như người đàn bà đau đẻ.
\s5
\v 44 Kìa! Vua đi lên như sư tử đến từ các miền cao ở Giô-đanh đến đồng cỏ tươi tốt quanh năm, vì Ta sẽ mau chóng khiến chúng bỏ chạy khỏi đó, Ta sẽ đưa người được chọn vào cai trị nó. Ai như ta, và ai kêu gọi được Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta?
\s5
\v 45 Vậy, hãy nghe các kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã định nghịch lại Ba-by-lôn, tức những kế hoạch mà Ngài đã lập chống lại xứ Canh-đê. Chắc chắn chúng sẽ bị lôi đi, kể cả bầy gia súc nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ thành nơi hoang tàn.
\v 46 Khi nghe tiếng của Ba-by-lôn bị chinh phục, đất rúng động, và giữa các dân, người ta nghe tiếng đau buồn của chúng.”
\s5
\c 51
\p
\v 1 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ dấy lên một ngọn gió hủy diệt Ba-by-lôn và những kẻ ở Lép Ca-mai.
\v 2 Ta sẽ sai dân ngoại đến Ba-by-lôn. Chúng sẽ đuổi chạy tán loạn và tàn phá xứ nó, vì chúng sẽ đến nghịch lại nó từ mọi nơi trong ngày tai họa.
\s5
\v 3 Chớ để cung thủ giương cung; chớ cho chúng mặc áo giáp. Chớ tha mạng những gã trai trẻ của chúng; hãy tiêu diệt cả đội quân đó.
\v 4 Vì người bị thương sẽ ngã xuống trong xứ Canh-đê; những kẻ bị giết sẽ ngã xuống trên đường phố nó.
\s5
\v 5 Vì Y-sơ-ra-ên và Giu-đa không bị Đức Chúa Trời từ bỏ, là Đức Giê-hô-va vạn quân, dù xứ của chúng đầy dẫy những tội lỗi nghịch lại Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 6 Hãy chạy ra khỏi giữa dân Ba-by-lôn; ai nấy hãy giữ mạng mình. Chớ chết trong tội lỗi của nó. Vì đây là lúc Đức Giê-hô-va báo thù. Ngài sẽ báo trả nó tương xứng việc nó làm.
\s5
\v 7 Ba-by-lôn vốn là cái chén vàng trong tay Đức Giê-hô-va khiến cả xứ say sưa; các nước say rượu nó và trở nên điên loạn.
\v 8 Ba-by-lôn sẽ ngã bất ngờ và bị tiêu diệt. Hãy than khóc vì nó! Hãy cho nó thuốc chữa lành cơn đau; có thể nó sẽ được lành.
\s5
\v 9 Chúng ta muốn chữa lành Ba-by-lôn, nhưng nó không được lành. Chúng ta hãy rời bỏ nó và trở về xứ của chúng ta. Vì tội lỗi nó cao đến tận trời; chất đống đến tận mây.
\v 10 Đức Giê-hô-va đã tuyên bố chúng ta vô tội. Nào, chúng ta hãy rao trong Si-ôn những công việc của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.
\s5
\v 11 Hãy mài nhọn mũi tên và cầm khiên. Đức Giê-hô-va sẽ dấy lòng của vua Mê-đi nhằm hủy diệt Ba-by-lôn. Đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va, sự báo thù cho sự hủy diệt đền thờ của Ngài.
\v 12 Hãy giương cờ hiệu trên các tường thành Ba-by-lôn; công bố tên lính bảo vệ. Hãy đặt lính canh; cử lính phục kích bắt ai chạy ra khỏi thành phố, vì Đức Giê-hô-va sẽ thực thi việc Ngài đã định. Ngài sẽ làm điều Ngài phán về dân cư Ba-by-lôn.
\s5
\v 13 Hỡi các ngươi là dân sống bên các dòng suối, hỡi các ngươi là dân có nhiều gia tài, sự cuối cùng của các ngươi đã đến. Sợi dây cuộc đời các ngươi giờ đây bị cắt ngắn.
\v 14 Đức Giê-hô-va vạn quân đã thề bởi danh Ngài: Ta sẽ khiến ngươi gặp nhiều kẻ thù, như tai vạ châu chấu; chúng sẽ reo hò chiến trận nghịch lại ngươi.
\s5
\v 15 Ngài đã dựng nên thế gian bởi quyền năng Ngài; Ngài sắp đặt thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài. Bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài giương các từng trời ra.
\v 16 Khi Ngài nổi sấm, có tiếng nổ ầm ầm của nước trên các từng trời, vì Ngài khiến sương bốc lên từ khắp mọi nơi trên đất. Ngài làm chớp theo mưa và phân tán gió ra từ các kho của Ngài.
\s5
\v 17 Ai nấy đều trở nên như loài thú thiếu hiểu biết; thợ kim loại hổ thẹn vì các thần tượng của họ. Những hình tượng được đúc đều là giả dối; chúng không có sự sống.
\v 18 Chúng vô dụng, đó là công việc của những kẻ nhạo báng; chúng sẽ tàn lụi trong kỳ sửa phạt.
\v 19 Nhưng Đức Chúa Trời, phần cơ nghiệp của Gia-cốp, thì không giống vậy, vì Ngài là Đấng dựng nên muôn vật. Y-sơ-ra-ên là chi phái trong cơ nghiệp Ngài; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\s5
\v 20 Ngươi là búa chiến trận của tôi, vũ khí ra trận. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các dân và hủy diệt các vương quốc.
\v 21 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ ngựa và kỵ sĩ của chúng; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các xe chiến mã và người lái chúng.
\s5
\v 22 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ từng người nam và người nữ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ người già và người trẻ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những gã thanh niên trẻ và trinh nữ.
\v 23 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những người chăn chiên và bầy chiên họ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ thợ cày và nhóm của họ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các thống đốc và quan chức.
\s5
\v 24 Trước mặt các ngươi, Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và hết thảy dân Canh-đê về mọi việc ác chúng làm ở Si-ôn Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 25 “Kìa, Ta nghịch lại ngươi, hỡi núi, ngươi là kẻ hủy diệt dân khác Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi hủy diệt cả đất. Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và lăn ngươi xuống từ các vách đá. Ta sẽ biến ngươi thành ngọn núi bị thiêu rụi hoàn toàn.
\v 26 Chúng sẽ không lấy khỏi ngươi một viên đá nào để xây góc nhà hoặc nền nhà; vì ngươi sẽ trở thành một nơi hoang tàn đời đời Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 27 “Hãy giơ cờ trên khắp đất. Hãy thổi kèn trên khắp các nước. Hãy dùng các nước để tấn công nó. Hãy rao báo về nó cho các vương quốc A-ra-rát, Min-ni, và Ách-kê-na; hãy cử một sĩ quan đánh nó; hãy sai ngựa đi lên như bầy châu chấu.
\v 28 Hãy chuẩn bị các nước để tấn công nó: tức các vua Mê-đi và quan thống đốc của họ, các quan chức và tất cả những xứ dưới quyền cai trị của họ.
\s5
\v 29 Đất sẽ rúng động và thống khổ, vì các kế hoạch của Đức Giê-hô-va sẽ tiếp tục thực hiện đối nghịch Ba-by-lôn, đặng khiến xứ Ba-by-lôn thành một nơi hoang tàn không người ở.
\s5
\v 30 Binh lính Ba-by-lôn ngưng chiến đấu; chúng ở trong các thành trì. Chúng kiệt sức; chúng trở nên đàn bà nhà của nó bị thiêu đốt, các then cổng bị gãy.
\v 31 Sứ giả này chạy đi báo cho sứ giả khác, người này chạy đi báo cho người kia đặng báo cho vua Ba-by-lôn biết rằng thành của vua ấy đã bị thất thủ tứ phía.
\v 32 Những chỗ cạn trên sông đều bị chiếm; quân thù phóng hỏa các đầm sậy, và lính chiến của Ba-by-lôn bối rối.”
\s5
\v 33 “Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Con gái Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa. Đã đến lúc đạp nó. Chẳng bao lâu nữa mùa gặt sẽ đến với nó.
\s5
\v 34 Giê-ru-sa-lem nói: Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã cắn xé tôi. Vua ấy khiến tôi khô cạn và làm cho tôi thành chiếc bình trống. Hắn nuốt tôi như một con rồng. Hắn làm đầy bụng hắn bằng vật thực ngon của tôi. Hắn đuổi tôi đi.
\v 35 Dân Si-ôn sẽ nói: Nguyện sự bạo lực đã làm trên tôi và gia đình tôi đổ lại trên Ba-by-lôn. Giê-ru-sa-lem sẽ nói: Nguyện tội đổ huyết tôi sẽ giáng lại trên dân Canh-đê. ’”
\s5
\v 36 “Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bênh vực duyên cớ ngươi và báo thù cho ngươi. Ta sẽ làm khô cạn sông nước của Ba-by-lôn và khiến các dòng suối của nó khô cằn.
\v 37 Ba-by-lôn sẽ trở nên như những đống gạch vụn, sào huyệt của chó rừng, một nỗi khiếp sợ, đối tượng bị huýt sáo chê cười, là nơi không người ở.
\s5
\v 38 Dân Ba-by-lôn sẽ gầm rống như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm gừ như sư tử con.
\v 39 Khi chúng hung hăng háu ăn, Ta sẽ dọn bữa cho chúng; Ta sẽ khiến chúng say sưa và trở nên vui vẻ, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 40 Ta sẽ đem chúng đến lò sát sinh như chiên con, như chiên đực và dê đực.”
\s5
\v 41 “Ôi Ba-by-lôn đã bị chiếm! Sự ngợi khen của cả đất đã bị chiếm. Ba-by-lôn đã trở thành một nơi hoang tàn giữa các nước.
\v 42 Biển dâng ngập Ba-by-lôn! Nó bị bao phủ bởi sóng cuồn cuộn.
\s5
\v 43 Các thành nó trở thành nơi hoang tàn, xứ khô cằn và hoang mạc, là xứ không người ở, và không ai đi ngang qua.
\v 44 Vậy, Ta sẽ phạt Bên ở Ba-by-lôn; Ta sẽ móc vật nó đã nuốt khỏi miệng nó, các nước sẽ không còn đến nộp triều cống cho nó. Các tường thành Ba-by-lôn sẽ sụp đổ.”
\s5
\v 45 “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi giữa nó. Ai nấy hãy giữ mạng mình khỏi cơn thạnh nộ giận dữ của Ta.
\v 46 Lòng các ngươi chớ lo sợ hoặc sợ tin tức được nghe trong xứ, vì tin ấy sẽ đến trong một năm. Sau đó lại sẽ có tin khác, và trong xứ sẽ có bạo lực. Người cai trị sẽ nghịch lại người cai trị.
\s5
\v 47 Vậy, kìa, các ngày gần đến là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của Ba-by-lôn. Khắp xứ nó sẽ xấu hổ, những người bị tàn sát của nó sẽ ngã giữa nó.
\v 48 Các từng trời và đất, và mọi vật ở trong chúng sẽ vui mừng về Ba-by-lôn. Những kẻ hủy diệt nó sẽ đến từ phương bắc Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 49 “Vì Ba-by-lôn đã khiến những kẻ bị giết của Y-sơ-ra-ên ngã xuống, vậy những kẻ bị giết của xứ nó sẽ ngã xuống ở Ba-by-lôn.”
\s5
\v 50 “Hỡi những kẻ thoát khỏi gươm, hãy đi đi! Đừng ở lại. Hãy nhớ đến Đức Giê-hô-va từ phương xa; hãy nhớ Giê-ru-sa-lem.
\v 51 Chúng tôi xấu hổ, vì chúng tôi đã nghe những lời sỉ nhục; lời quở trách phủ lên mặt chúng tôi, vì dân ngoại đã vào nơi thánh của nhà Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 52 “Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của nó, và những kẻ bị thương sẽ kêu rên trong khắp xứ nó.
\v 53 Vì thậm chí nếu Ba-by-lôn lên đến tận trời hoặc củng cố các pháo đài cao nhất của nó, kẻ hủy diệt từ Ta sẽ đến Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 54 Tiếng kêu than sẽ ra từ Ba-by-lôn, tiếng của sự sụp đổ lớn từ xứ Canh-đê.
\v 55 Vì Đức Giê-hô-va sẽ hủy diệt Ba-by-lôn. Ngài sẽ làm im tiếng la hét của nó. Kẻ thù của nó sẽ gầm rống như sóng biển; tiếng huyên náo của chúng sẽ trở nên lớn.
\v 56 Vì những kẻ hủy diệt đã đến nghịch lại nó nghịch lại Ba-by-lôn! và các chiến sĩ của nó đã bị bắt. Cung của chúng bị gãy, vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời báo thù; Ngài chắc sẽ thực thi sự báo trả.
\s5
\v 57 “Ta sẽ khiến các vương tử của nó, các nhà hiền triết, các quan chức, và lính chiến của nó say sưa, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy Vua phán vậy: Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. ”
\v 58 “Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Tường thành kiên cố của Ba-by-lôn sẽ bị đánh đổ hoàn toàn, các cổng cao của nó sẽ bị phóng hỏa. Vậy, các dân đến giúp nó sẽ nhọc công vô ích; mọi thứ mà các nước cố làm cho nó sẽ bị thiêu hủy.”
\s5
\v 59 Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi ra lệnh cho Sê-ra-gia con Nê-ri-gia, cháu Mách-sê-gia, khi ông đi với Sê-đê-kia vua Giu-đa đến Ba-by-lôn vào năm thứ tư trong đời cai trị của vua ấy. Bấy giờ Sê-ra-gia là quan đại thần.
\v 60 Giê-rê-mi đã chép vào cuộn sách về tất cả tai họa sẽ giáng xuống Ba-by-lôn là những lời được chép về Ba-by-lôn.
\s5
\v 61 Giê-rê-mi bảo Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, hãy đọc hết những lời này.
\v 62 Sau đó hãy nói: Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài! Chính Ngài đã công bố rằng Ngài sẽ phá hủy nơi này. Nơi ấy sẽ không có người ở, không ai ở, và cũng không có loài thú nào ở. Nó sẽ thành một nơi hoang vu đời đời.
\s5
\v 63 Sau khi ông đã đọc xong cuộn sách này, hãy cột một hòn đá vào đó và ném xuống giữa sông Ơ-phơ-rát.
\v 64 Hãy nói: Ba-by-lôn sẽ chìm như vầy. Nó sẽ không nổi lên vì cớ tai họa mà Ta sẽ giáng trên nó, chúng sẽ ngã. ’” Lời của Giê-rê-mi kết thúc tại đây.
\s5
\c 52
\p
\v 1 Sê-đê-kia lên ngôi trị vì khi ông được hai mươi mốt tuổi; ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan; bà là con gái của Giê-rê-mi đến từ Líp-na.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va y như những gì Giê-hô-gia-kim đã làm.
\v 3 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, tất cả những sự kiện này đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Ngài đuổi họ khuất mắt Ngài. Sau đó, Sê-đê-kia nổi loạn nghịch lại vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Năm thứ chín trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia, nhằm ngày mười tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng trại đối diện thành, chúng xây một đồn bao vây.
\v 5 Thành bị bao vây đến năm thứ mười một trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia.
\s5
\v 6 Ngày chín tháng tư năm thứ mười một, trong thành xảy ra nạn đói kinh khiếp đến nỗi dân trong xứ chẳng còn thức ăn.
\v 7 Thành bị thất thủ, tất cả lính chiến chạy trốn và ra khỏi thành vào ban đêm theo cổng giữa hai bức tường thành, gần vườn thượng uyển của vua, dù dân Canh-đê đang bao vây thành ấy. Họ đi theo hướng về A-ra-ba.
\v 8 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Toàn thể quân đội của ông bỏ chạy tán loạn.
\s5
\v 9 Chúng bắt vua và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi vua ấy xử đoán.
\v 10 Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông, và tại Ríp-la vua ấy cũng giết hết các lãnh đạo của Giu-đa.
\v 11 Sau đó vua móc mắt Sê-đê-kia, xiềng lại bằng xích đồng, và giải đến Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bỏ tù ông cho đến khi ông chết.
\s5
\v 12 Bấy giờ nhằm ngày mười tháng năm năm thứ mười chín trong đời trị vì của Vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan đến Giê-ru-sa-lem. Ông là sĩ quan của quân thị vệ và là tôi tớ của vua Ba-by-lôn.
\v 13 Ông phóng hỏa nhà của Đức Giê-hô-va, hoàng cung, và tất cả nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông cũng bóng hỏa các tòa nhà lớn trong thành phố.
\v 14 Đối với các tường thành Giê-ru-sa-lem, quân Ba-by-lôn cùng với sĩ quan chỉ huy quân thị vệ cũng phá hủy.
\s5
\v 15 Với những người nghèo nhất, là những người còn sót lại trong thành. Tức những người bỏ chạy qua hàng ngũ vua Ba-by-lôn, và số thợ thủ công còn lại Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, bắt một số người đem đi lưu đày.
\v 16 Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, chừa lại những người nghèo nhất trong xứ để họ làm việc ở các vườn nho và cánh đồng.
\s5
\v 17 Còn các cột đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, các đế tảng và biển đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, dân Canh-đê đập vỡ tan tành và đem đồng về Ba-by-lôn.
\v 18 Các nồi, xẻng, kéo cắt tim đèn, bát, và tất cả những đồ dùng bằng đồng mà thầy tế lễ dùng để phục vụ trong đền thờ - dân Canh-đê cũng cướp mất.
\v 19 Các chậu và đồ dùng để xông hương, bát, nồi, chân đèn, chảo, và các chậu vàng, chậu bạc quan chỉ huy vệ binh cũng cướp mất.
\s5
\v 20 Hai cái trụ, biển, và mười hai con bò đồng làm chân đế, là những vật mà Sa-lô-môn đã làm cho nhà Đức Giê-hô-va, có khối lượng đồng lớn đến nỗi không thể cân được.
\v 21 Các cột trụ cao mười tám cu-bít, chu vi mười hai cu-bít. Mỗi cột trụ dày bốn ngón tay và rỗng ruột.
\s5
\v 22 Trên đầu cột có chóp đồng. Chóp cao năm cu-bít, có lưới và trái lựu bằng đồng. Cột còn lại và các trái lựu cũng tương tự như cột thứ nhất.
\v 23 Vậy có chín mươi sáu trái lựu ở bốn phía chóp, và khoảng một trăm trái lựu trên lưới bao quanh.
\s5
\v 24 Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ bắt tù nhân Sê-ra-gia, thầy tế lễ cả, cùng với Sô-phô-ni, thầy tế lễ phó, và ba người giữ cổng.
\v 25 Tại trong thành, ông bắt một quan chức là người phụ trách cai quản binh lính, và bảy cận thần của vua, là những người còn ở trong thành. Ông cũng bắt quan chỉ huy quân của vua lo việc tuyển quân trong xứ, cùng với sáu mươi người quan trọng có mặt trong thành.
\s5
\v 26 Sau đó Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la.
\v 27 Vua Ba-by-lôn xử tử họ ở Ríp-la trong xứ Ha-mát. Như vậy, Giu-đa bị bắt lưu đày.
\s5
\v 28 Đây là những người mà Nê-bu-cát-nết-sa bắt lưu đày: vào năm thứ bảy, có 3. 023 người Giu-đa.
\v 29 Vào năm thứ mười tám trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, ông bắt 832 người khỏi Giê-ru-sa-lem.
\v 30 Vào năm thứ hai mươi ba trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt 745 người Giu-đa đi lưu đày. Có tất cả 4. 600 người bị bắt lưu đày.
\s5
\v 31 Sau đó vào năm lưu đày thứ ba mươi bảy của Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, nhằm ngày hai mươi lăm tháng mười hai, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn phóng thích Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi tù. Việc này xảy ra vào năm Ê-vin Mê-rô-đác bắt đầu cai trị.
\s5
\v 32 Vua nói năng từ tốn với ông ấy và ban ngôi cho ông cao hơn các vua khác cùng số phận với ông tại Ba-by-lôn.
\v 33 Ê-vin Mê-rô-đác thay quần áo tù của Giê-hô-gia-kin, và Giê-hô-gia-kin thường xuyên ăn uống ở bàn vua trong suốt đời còn lại.
\v 34 Ông được ban thức ăn hàng ngày trong suốt đời mình cho đến khi qua đời.

305
25-LAM.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,305 @@
\id LAM
\ide UTF-8
\h CA THƯƠNG
\toc1 CA THƯƠNG
\toc2 CA THƯƠNG
\toc3 lam
\mt CA THƯƠNG
\s5
\c 1
\p
\v 1 Thành nầy từng có nhiều người ở, giờ đây hoàn toàn ngồi một mình! Thành ấy nay như đàn bà goá, mặc dù vốn là một dân mạnh! Xưa vốn là quận chúa ở giữa các dân tộc, nay buộc phải làm nô lệ!
\v 2 Nó khóc lóc than vản vào ban đêm, và nước mắt tràn đôi má. Không một kẻ nào yêu mến nó yên ủi nó. Hết thảy bạn hữu nó phản nó. Họ trở nên nghịch thù nó.
\s5
\v 3 Sau khi nghèo khổ và khốn khó, Giu-đa đã bước vào cảnh phu tù. Nó sống giữa vòng các dân tộc và chẳng tìm được sự yên nghỉ. Mọi kẻ truy đuổi nó, giám sát nó trong chỗ tuyệt vọng.
\s5
\v 4 Các con đường của Si-ôn than vản vì chẳng ai đến với các kỳ lễ theo kỳ định nữa. Mọi cổng thành trống vắng. Các thầy tế lễ nó thở than. Các gái đồng trinh nó thật thảm sầu, và bản thân nó ở trong sự khốn khổ hoàn toàn.
\v 5 Kẻ nghịch nó trở thành chủ của nó, kẻ thù nó hanh thông. Đức Giê-hô-va đã làm cho nó phải khốn khổ vì mọi tội lỗi của nó. Con nhỏ nó phải làm phu tù cho kẻ nghịch nó.
\s5
\v 6 Và sự đẹp đẽ đã lìa khỏi con gái Si-ôn. Bậc vua chúa của nó giống như nai không tìm được đồng cỏ, và họ chẳng có sức để bước đi trước mặt kẻ đuổi theo.
\s5
\v 7 Trong lúc khốn khổ và vô gia cư, Giê-ru-sa-lem sẽ nhớ lại mọi của cải quí báu mà nó có trước đó. Khi dân nó sa vào tay kẻ nghịch, chẳng ai đến cứu cùng. Những kẻ nghịch thù nhìn nó và cười nhạo khi nó chịu huỷ diệt.
\s5
\v 8 Vì lẽ đó, Giê-ru-sa-lem phạm tội trọng, nên nó bị xem khinh giống như một thứ ô uế. Giờ đây, mọi kẻ tôn kính nó đều xem khinh nó một khi họ nhìn thấy nó trần trụi. Nó than vản rồi tìm cách xây đi.
\v 9 Nó bị ô uế bên dưới cái váy của nó! Nó không nghĩ đến tương lai của nó. Sự sụp đổ của nó rất là kinh khiếp! Chẳng có ai hề yên ủi nó. Nó kêu la: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin xem sự khốn nạn tôi, vì kẻ thù quá mạnh mẽ!”
\s5
\v 10 Kẻ nghịch đã tra tay trên mọi của cải quí báu nó. Nó đã nhìn thấy các dân ngoại bước vào nơi thánh nó, mặc dù Ngài có truyền rằng họ chẳng được bước vào nơi hội mạc của Ngài.
\s5
\v 11 Cả dân nó than vản khi họ đi xin bánh. Họ đã nhường mọi của cải quí báu để lấy thức ăn để phục hồi lại sự sống của họ. Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem xét tôi, vì tôi chẳng có giá trị gì nữa cả!
\v 12 Hỡi những kẻ qua đường, nó chẳng có giá trị gì đối với các ngươi sao? Hãy tra xét xem có sự khốn khổ nào của ai khác giống như sự khổ ải đã giáng trên ta, một khi Đức Giê-hô-va đã làm tan tác ta nơi cơn giận phừng của Ngài.
\s5
\v 13 Ngài đã giáng lửa từ trên cao vào thẳng xương cốt ta, và lửa ấy đã thắng hơn họ. Ngài đã giăng lưới dưới chân ta khiến cho ta phải trở lui. Ngài đã khiến cho ta nên đơn chiếc và suy yếu đi.
\v 14 Ách tội lỗi ta Ngài buộc vào hai tay Ngài. Cả bó chất nặng cổ ta, Ngài đã làm cho sức mạnh ta bị xuội đi. Chúa đã phó ta vào trong tay chúng, mà ta không thể đương cự được.
\s5
\v 15 Chúa đã vất bỏ các chiến binh, những kẻ bảo vệ ta. Ngài đã triệu tập một hội chúng nghịch cùng ta nghiền nát kẻ trai trẻ ta. Đức Giê-hô-va đã giày đạp con gái đồng trinh của Giu-đa như nho trong bàn ép.
\s5
\v 16 Vì cớ mọi sự nầy ta bật khóc. Nước mắt tuôn xuống từ đôi mắt ta kể từ khi kẻ yên ủi làm cho sự sống ta phục hồi đã cách xa ta. Con cái ta bị đơn chiếc vì kẻ thù đã thắng trận.
\v 17 Si-ôn đã giang tay mình rộng ra; chẳng có ai yên ủi nó. Đức Giê-hô-va đã truyền rằng những kẻ ở chung quanh Gia-cốp đều là nghịch cùng nó. Giê-ru-sa-lem là thứ ô uế đối cùng họ.
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va là công bình, vì ta đã loạn nghịch chống lại điều răn của Ngài. Hỡi các dân, hết thảy hãy lắng nghe và hãy xem sự khốn khổ của ta! Gái đồng trinh và trai trẻ của ta đã đi làm phu tù.
\v 19 Ta đã kêu gọi những kẻ yêu mến ta, nhưng họ đã phản bội ta. Các thầy tế lễ và trưởng lão của ta đã hư mất trong thành, khi họ tìm đồ ăn để phục hồi lại sự sống của họ.
\s5
\v 20 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem, vì tôi đương cơn khốn khổ; lòng tôi rối tung hết lên. Tấm lòng tôi xây trở trong tôi vì tôi loạn nghịch quá lắm! Ngoài đường phố gươm dao lấy mạng con trẻ của chúng tôi; trong nhà thì giống như thế giới của kẻ chết.
\s5
\v 21 Hãy nghe tiếng tôi than vản. Chẳng có một người nào đến yên ủi tôi. Mọi kẻ thù tôi nghe nói tới nghịch cảnh của tôi. Họ vui mừng vì Ngài đã làm ra sự ấy. Hãy đem đến ngày mà Ngài đã công bố; nguyện họ sẽ trở nên giống như tôi!
\v 22 Nguyền cho mọi tội ác chúng nó đến trước mặt Ngài! Xin làm cho chúng ra tan tác y như Ngài đã làm tôi phải tan tác vì cớ mọi tội lỗi tôi; vì tiếng than vản tôi nhiều quá, và lòng tôi phải mòn mỏi đi.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va che lấp con gái Si-ôn bằng một đám mây đen trong cơn giận của Ngài? Ngài đã quăng vẻ đẹp của Y-sơ-ra-ên từ trời xuống đất; Ngài chẳng còn biết đến bệ chân mình trong ngày thạnh nộ của Ngài.
\v 2 Chúa đã nuốt mất và chẳng có chút thương xót mọi làng mạc của Gia-cốp. Trong cơn giận dữ, Ngài đánh đổ mọi thành trì kiên cố của con gái Giu-đa; Ngài quật chúng xuống đất, làm nhục nước và các quan trưởng trong nước.
\s5
\v 3 Trong cơn giận phừng Ngài đốn bỏ hết mọi sức lực của Y-sơ-ra-ên. Ngài đã rút tay hữu lại khỏi trước mặt kẻ thù. Ngài đốt cháy Gia-cốp như lửa hừng thiêu nuốt mọi sự ở quanh nó.
\v 4 Ngài giương cung ra nhắm vào chúng tôi như kẻ thù. Ngài đứng trên bãi chiến trường sẵn sàng bắn giết giống như kẻ nghịch. Ngài đã tàn sát hết những kẻ quí báu nhất trước mặt. Trong trại của con gái Si-ôn Ngài đã đổ cơn giận Ngài ra như lửa.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va đã trở giống như một kẻ thù. Ngài đã nuốt hết Y-sơ-ra-ên. Ngài đã nuốt hết các đền đài của nó; Ngài đã huỷ diệt các đồn lũy của nó. Ngài thêm lên sự rầu rĩ trong vòng con gái của Giu-đa.
\v 6 Ngài đã tấn công nhà tạm giống như túp lều ở trong vườn. Ngài đã hủy diệt nơi nhóm lại trang trọng kia. Đức Giê-hô-va đã khiến cho cả hai: nơi nhóm trọng thể cùng ngày Sa-bát bị quên đi ở Si-ôn, vì Ngài khinh dễ cả hai: vua và thầy tế lễ trong cơn thạnh nộ.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va đã chối bỏ bàn thờ Ngài; Ngài gớm nơi thánh của Ngài. Ngài đã phó các tường thành cung điện vào trong tay quân nghịch. Chúng nó hô lên tiếng đắc thắng trong nhà Đức Giê-hô-va, như trong ngày hội trọng thể.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va đã nhất quyết phá diệt tường thành của con gái Si-ôn. Ngài kéo dài dây đo và chẳng cầm tay mình lại về sự phá diệt tường thành. Và Ngài làm cho tiếng than vản thảm sầu cùng các bức tường trở nên hao mòn.
\v 9 Các cổng nó sụp sát mặt đất; Ngài đã huỷ diệt và làm gãy các then chốt gài ở cổng. Vua và các quan trưởng nó ở giữa các dân ngoại, ở đó chẳng có luật pháp của Môi-se! Ngay cả các tiên tri cũng chẳng có một sự hiện thấy nào từ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Các trưởng lão của con gái Si-ôn ngồi nín lặng trên đất. Họ rải tro bụi lên đầu; họ mặc bao gai. Các gái đồng trinh Giê-ru-sa-lem gục đầu đến đất.
\s5
\v 11 Nước mắt ta đã hết, mặt ta đỏ lên; các chi thể bên trong ta rối loạn. Gan ta đổ ra trên đất, vì cớ sự chà nát con gái dân ta, vì các con trẻ và các con còn đang bú thì yếu đuối vô vọng trên các đường phố của thành.
\v 12 Chúng nói với mẹ mình: “Thóc và rượu ở đâu? ” ngất đi như kẻ bị thương trên các đường phố của thành, sự sống của chúng bị đổ ra trên hông của mẹ chúng.
\s5
\v 13 Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, ta có thể nói gì về các ngươi? Ta sẽ sánh các ngươi với điều gì đặng an ủi các ngươi đây, hỡi các nữ đồng trinh Si-ôn? Sự suy sụp của các ngươi lớn như đại dương. Ai sửa sang lại cho được chứ?
\v 14 Bậc tiên tri của các ngươi đã nhìn thấy những mặc thị giả dối và dại dột cho các ngươi. Họ chẳng tỏ ra sự quá phạm của các ngươi để phục hồi lại số phận của các ngươi, mà chỉ thấy những lời tiên tri và thử thách giả dối cho các ngươi.
\s5
\v 15 Hết thảy những kẻ qua đường thì vỗ tay của họ. Họ phỉ báng, lắc đầu nghịch cùng con gái của Giê-ru-sa-lem, họ nói: Có phải đây là thành mà họ gọi là “Sự Đẹp Đẽ Trọn Vẹn, Sự Vui Mừng Của Cả Đất” chăng?
\v 16 Mọi kẻ thù nghịch ngươi há miệng họ ra thật rộng rồi chế giễu các ngươi. Họ phỉ báng, nghiến răng; họ nói: “Chúng ta đã nuốt nó! Chắc chắn đây là ngày mà chúng ta đã trông đợi! Chúng ta đã tìm, đã thấy điều đó rồi!”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va đã làm những gì Ngài đã định. Ngài đã làm thành lời của Ngài mà Ngài đã truyền ra lâu lắm rồi. Ngài đã lật đổ; Ngài chẳng tỏ ra chút thương xót nào hết, vì Ngài đã cho phép kẻ thù vui mừng vì cớ các ngươi; Ngài đã dấy sức mạnh của kẻ thù nghịch các ngươi lên.
\s5
\v 18 Tấm lòng họ hô to với Chúa: “Hỡi các tường thành của con gái Si-ôn, nguyện nước mắt các ngươi ngày và đêm tuôn chảy như một dòng sông! Đừng để cho mắt các ngươi thôi không chảy nước mắt.
\v 19 Hãy chổi dậy kêu van lúc ban đêm; từ đầu các phiên canh hãy đổ lòng các ngươi ra giống như nước ở trước mặt Đức Giê-hô-va. Hãy giơ tay lên hướng về Ngài vì sự sống con nhỏ các ngươi, chúng nó ngất đi vì đói nơi từng góc phố."
\s5
\v 20 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem coi Ngài đã từng đối xử với ai nghiệt ngã như thế chưa? Đàn bà há ăn bông trái của ruột mình, tức các đứa trẻ mà họ đã chăm sóc? Thầy tế lễ cùng tiên tri, há có nên bị giết trong nơi thánh của Chúa sao?
\s5
\v 21 Cả hai: kẻ trẻ và người già nằm sải trên đất trong các đường phố. Những gái đồng trinh và trai trẻ của ta đều ngã dưới lưỡi gươm. Ngài đã giết họ trong ngày thạnh nộ, Ngài tru diệt hết tay và chẳng tỏ ra chút xót thương nào cả.
\v 22 Ngài đã triệu tập những điều tôi kinh hãi ở chung quanh y như như ngày hội trọng thể; không một ai thoát khỏi, và chẳng có ai sống sót vào ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va. Những kẻ tôi đã bồng ẵm và thấy lớn lên, kẻ thù của tôi đã đưa đến chỗ tận cùng.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Ta là người đã nhìn thấy sự khốn khổ dưới cây gậy thạnh nộ của Đức Giê-hô-va.
\v 2 Ngài xua ta đi và khiến ta đi trong tối tăm thay vì trong sáng láng.
\v 3 Chắc Ngài trở nghịch cùng ta; Ngài hướng tay Ngài nghịch cùng ta suốt cả ngày.
\v 4 Ngài làm cho thịt và da ta phải cỗi đi; Ngài bẻ gãy xương ta.
\s5
\v 5 gài tạo ra nhiều việc nghịch cùng ta, và vây ta với sự cay đắng và nhọc nhằn.
\v 6 Ngài khiến ta phải sống trong các nơi tối tăm, giống như người đã chết từ lâu rồi.
\v 7 Ngài đã dựng lên bức tường bao bọc ta, và ta không thể thoát ra. Ngài làm cho xiềng ta ra nặng.
\v 8 Mặc dù ta kêu la và gào thét xin cứu, Ngài vứt bỏ những lời cầu nguyện ta.
\s5
\v 9 Ngài chặn lối ta bằng bức tường đá; từng nẻo ta đi ra cong quẹo.
\v 10 Ngài như con gấu rình rập, như sư tử đang núp chờ.
\v 11 Ngài khiến ta lạc đường. Ngài xé nát ta và khiến ta phải cô độc.
\s5
\v 12 Ngài giương cung lên rồi và chọn ta làm mục tiêu cho mũi tên Ngài.
\v 13 Ngài bắn các mũi tên trong bao Ngài vào trái cật ta.
\v 14 Ta làm trò cười cho cả dân ta, làm đề tài cho bài hát hết ngày nầy qua ngày kia.
\v 15 Ngài làm cho ta đầy dẫy sự cay đắng và buộc ta phải uống lấy sự khổ nhục.
\s5
\v 16 Ngài đã lấy sỏi cà răng ta; Ngài vùi ta vào trong tro.
\v 17 Ngài dời sự bình an ra khỏi đời sống ta; ta không còn nhớ phước lành nào nữa hết.
\v 18 Vậy ta nói: “Sự nhịn nhục ta đã hết, và sự trông cậy ta nơi Đức Giê-hô-va không còn nữa”.
\s5
\v 19 ”Ta nhớ đến sự hoạn nạn ta trong sự khốn khổ và cay đắng.
\v 20 Chắc chắn ta còn nhớ, và ta sấp mình xuống với thất vọng ở trong lòng.
\v 21 Khi ta nhớ lại, và đây là lý do tại sao ta hy vọng:
\s5
\v 22 Chính bởi sự thành tín giao ước của Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa bị huỷ diệt, vì những hành động thương xót của Ngài chẳng dứt.
\v 23 Những hành động thương xót của Ngài mỗi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm.
\v 24 Ta nhũ lòng: “Đức Giê-hô-va là cơ nghiệp ta", nên ta để lòng trông cậy nơi Ngài.
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va là nhân từ cho những ai trông đợi Ngài, tìm kiếm Ngài để được sự sống.
\v 26 Thật lấy làm tốt khi phải chờ đợi để được cứu nơi Đức Giê-vô-va.
\v 27 Thật là tốt cho một người mang ách lúc trẻ thơ.
\v 28 Nguyện người ngồi một mình và im lặng, vì Đức Giê-hô-va đã giáng điều đó trên người.
\v 29 Nguyện nó để miệng trong bụi đất, và có lẽ sẽ có sự cậy trông.
\s5
\v 30 Nguyện người đưa má mình ra cho kẻ vả. Nguyện người khá chịu đầy nhuốc nhơ.
\v 31 Vì Chúa sẽ chẳng chối bỏ người cho đến đời đời.
\v 32 Dầu Ngài đem lại sự lo buồn, Ngài sẽ tỏ ra sự thương xót theo sự dư dật của lòng nhân từ Ngài trong sự thành tín giao ước của Ngài.
\v 33 Vì Ngài không trái ngược đối với bổn tâm Ngài, hay làm khổ cho con cái loài người.
\s5
\v 34 Hoặc chà nát mọi kẻ phu tù trên đất dưới chân Ngài,
\v 35 khi gạt bỏ sự công bình của con người trước mặt Đấng Chí Cao,
\v 36 Khi điên đảo ai trong sự xét đoán — thì Chúa chẳng ưng chịu!
\s5
\v 37 Ai hay nói ra và sự ấy được thành một khi Chúa chưa truyền ra việc ấy?
\v 38 Cả hai: hoạ và phước, có phải đều ra từ miệng của Đấng Chí Cao không?
\v 39 Người nào đang sống sao lại than phiền? Người nào đang sống sao lại than phiền về sự sửa phạt đối với tội lỗi của người?
\s5
\v 40 Chúng ta hãy xét và thử đường mình, rồi trở về cùng Đức Giê-hô-va.
\v 41 Chúng ta hãy giơ lòng và tay lên cùng Đức Chúa Trời ở trên trời mà cầu nguyện:
\v 42 Chúng ta đã phạm tội và đã loạn nghịch chống lại Ngài, vì vậy Ngài chẳng tha thứ cho chúng ta.
\v 43 Ngài lấy giận che mình và đuổi theo chúng ta. Ngài tàn sát chúng ta, và Ngài chẳng thương hại chúng ta.
\s5
\v 44 Ngài lấy mây che mình, đến nỗi chẳng lời cầu nguyện nào thấu qua được.
\v 45 Ngài làm chúng tôi ra của bỏ, ra đồ rác rến trong dân sự.
\v 46 Mọi kẻ nghịch thù hả miệng chúng rộng ra chế giễu chúng tôi.
\v 47 Nỗi sợ hầm hố, hoang vu và nghiền nát giáng trên chúng tôi.
\s5
\v 48 Mắt tôi tuôn chảy giọt lệ vì cớ sự dày vò con gái dân sự tôi.
\v 49 Mắt tôi tuôn nước mắt, và chúng không ngưng cũng không ngớt
\v 50 cho đến khi Đức Giê-hô-va ngó xuống và đoái xem từ trời.
\s5
\v 51 Mắt tôi mang khổ ải đến cho sự sống tôi vì cớ mọi con gái của thành tôi.
\v 52 Kẻ thù tôi đã không ngừng săn tôi như săn loài chim, chẳng cần lý do gì hết.
\v 53 Họ muốn huỷ diệt sự sống tôi trong một cái giếng và trấn một hòn đá trên tôi.
\v 54 Nước tràn ngập đầu tôi; tôi nói: “Ta đã bị dứt bỏ!”
\s5
\v 55 Hỡi Đức Giê-hô-va, từ hố sâu thăm thẳm tôi kêu cầu danh Ngài.
\v 56 Ngài nghe tiếng tôi khi tôi nói, “xin đừng bịt tai Ngài không nghe tiếp kêu cầu, không nghe tiếng tôi cầu cứu”.
\v 57 Ngài đến gần nhằm ngày tôi kêu cầu Ngài; Ngài phán cùng tôi: “Chớ sợ!”
\s5
\v 58 Lạy Chúa, Ngài bảo hộ tôi khi tôi chịu thử thách trong đời sống tôi; Ngài đã cứu mạng sống tôi!
\v 59 Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nhìn thấy sự họ áp bức tôi. Xin đoán xét cách công bình trường hợp của tôi!
\v 60 Ngài đã nhìn thấy mọi hành động báo thù của họ, mọi chương trình của họ nghịch cùng tôi.
\v 61 Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nghe chúng nó sỉ nhục, bày mọi chương trình của chúng toan tính về tôi.
\s5
\v 62 Ngài đã nghe môi miệng của những kẻ dấy lên chống nghịch tôi; Ngài đã nghe mọi suy tưởng sâu kín của chúng nghịch cùng tôi suốt cả ngày.
\v 63 Lạy Đức Giê-hô-va, hãy xem xét sự chúng ngồi hay sự chúng đứng dậy! Tôi là đề tài cho bài ca chế giễu của chúng nó.
\s5
\v 64 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy báo trả chúng nó tổn hại nhiều y như những gì tay chúng nó đã làm.
\v 65 Hãy đặt lo sợ vào lòng chúng nó; hãy đặt sự rủa sả của Ngài giáng trên chúng nó.
\v 66 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy truy kích chúng nó trong cơn giận của Ngài và hủy diệt chúng nó bất cứ đâu ở dưới trời!
\s5
\c 4
\p
\v 1 Vàng trở nên mờ xấu; vàng ròng đã đổi thay! Đá nơi thánh bị đổ ra nơi mọi góc đường phố!
\v 2 Các con trai của Si-ôn quí báu, được xem trọng như vàng ròng. Song giờ đây họ bị coi chẳng ra gì hết khác nào loại bình đất sét là thứ tay thợ gốm làm ra!
\s5
\v 3 Ngay cả chó rừng còn đưa vú ra cho con nó bú, nhưng con gái dân ta độc ác như chim đà trong đồng vắng.
\s5
\v 4 Lưỡi trẻ sơ sinh khát sữa dính trên đốc vọng; trẻ nhỏ xin bánh, nhưng chẳng có ai cho.
\v 5 Những người thường dùng cao lương mỹ vị giờ đây bị bỏ, đói khát trên đường phố; những kẻ ăn mặc sang trọng nay ôm lấy đống phân tro.
\s5
\v 6 Tội lỗi con gái dân ta lớn hơn tội lỗi của thành Sô-đôm, họ bị sụp đổ trong giây lát, chẳng ai tra tay bắt lấy nó.
\s5
\v 7 Cấp lãnh đạo của nó thường rực rỡ giống như tuyết và trắng như sữa. Thân thể họ đỏ hồng hơn san hô; mình mẩy họ giống như bích ngọc.
\v 8 Nay mặt mày họ đen thui: và chẳng nhận ra trên đường phố, vì xương họ bọc lấy da khô ran như khúc gỗ.
\s5
\v 9 Người nào bị gươm giết còn may hơn kẻ chết vì đói; họ chẳng khá gì hơn những kẻ thiếu đói chẳng có gì ăn.
\v 10 Bàn tay người nữ có lòng thương xót luộc chín con ruột mình; mấy đứa con nầy dùng làm đồ ăn cho họ khi con gái dân ta bị chà nát.
\s5
\v 11 Giê-hô-va làm cho thoả cơn giận Ngài. Ngài đổ cơn giận phừng của Ngài ra; Ngài nhóm lửa tại Si-ôn, và lửa ấy thiêu nuốt các nền nó.
\s5
\v 12 Các vua trên đất, cả dân cư thế gian đều không tin quân thù nghịch sẽ tràn vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem.
\v 13 Nhưng họ đã tràn vào vì cớ tội lỗi của các tiên tri nó, và sự gian ác của các thầy tế lễ nó, họ đã làm đổ huyết của người công bình ở giữa nó.
\s5
\v 14 Các tiên tri và thầy tế lễ giờ đây đi lang thang như người mù trên đường phố. Họ bị ô uế do huyết đến nỗi chẳng ai rờ đến áo xống họ.
\v 15 Các tiên tri và thầy tế lễ nầy kêu la: “Hãy đi chỗ khác, ô uế”. “Hãy đi chỗ khác, ô uế! Đừng rờ đến chúng ta! ” Khi họ lánh sang xứ khác, ngay cả dân ngoại kêu lên rằng: “Họ cũng không nên ngụ ở đây như các dân ngoại nữa."
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va đã tan rải họ khỏi sự hiện diện của Ngài; Ngài không nhìn xem họ với sự ưu ái nữa rồi. Chẳng có ai tiếp các thầy tế lễ với sự tôn trọng nữa, và họ cũng chẳng quan tâm gì đến các trưởng lão.
\s5
\v 17 Mắt chúng ta thường làng đi không thấy chút cứu giúp nào, mặc dù chúng ta trông ngóng một dân không thể cứu.
\v 18 Họ dò theo chân chúng ta trải qua các đường phố. Sự cuối cùng của chúng ta đã gần và thời thế của chúng ta đã xong, vì sự cuối cùng của chúng ta đã đến.
\s5
\v 19 Những kẻ truy kích chúng ta còn lẹ hơn con chim ưng trên trời. Họ đuổi theo chúng ta đến các núi và rình đợi chúng ta trong đồng vắng.
\v 20 Hơi thở trong mũi chúng ta, là kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va — bị bắt ở trong hầm của họ; đó là vua của chúng ta mà chúng ta hay nói rằng: “Chúng tôi sống dưới sự bảo hộ của người ở giữa các nước."
\s5
\v 21 Hãy vui mừng sung sướng, hỡi con gái Ê-đôm sống trong xứ Út-xơ, vì cái chén cũng sẽ chuyền qua cho các ngươi. Các ngươi sẽ say sưa và tự các ngươi bị lột trần.
\v 22 Hỡi con gái Si-ôn, tội lỗi các ngươi đã trọn. Ngài sẽ không giữ các ngươi trong cuộc lưu đày nữa! Nhưng Ngài sẽ phạt tội lỗi của các ngươi, hỡi con gái của Ê-đôm. Ngài sẽ phô bày tội lỗi các ngươi ra!
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin nhớ đến những gì đã xảy ra cho chúng tôi. Hãy nhìn đến và thấy sự xấu hổ của chúng tôi.
\v 2 Cơ nghiệp chúng tôi đã sang qua tay các dân ngoại; nhà cửa chúng tôi chuyển qua tay các dân ngoại.
\v 3 Chúng tôi trở thành kẻ mồ côi, vì chẳng có người cha nào nữa cả, và mẹ chúng tôi giống như đàn bà góa.
\v 4 Nước uống của chúng tôi phải trả bằng bạc, và người ta đem củi bán cho chúng tôi.
\s5
\v 5 Kẻ thù đuổi theo chúng tôi; họ ở gần đến nỗi hơi thở họ hà trên cổ chúng tôi. Chúng tôi đã mỏi mệt rồi; chẳng có chút nghỉ ngơi nào cho chúng tôi!
\v 6 Chúng tôi giang tay hướng về người Ai-cập và người A-si-ri đặng có bánh ăn no nê.
\v 7 Tổ phụ chúng tôi đã phạm tội; họ không còn sống nữa, và chúng tôi mang lấy sự gian ác của họ.
\s5
\v 8 Kẻ nô lệ cai trị trên chúng tôi, và chẳng có ai cứu chúng tôi khỏi tay họ.
\v 9 Chúng tôi liều mạng mình mới có được bánh ăn trước lưỡi gươm trong đồng vắng.
\v 10 Da chúng tôi nóng như lò lửa, nóng ran lên vì cơn sốt đói kém.
\s5
\v 11 Họ đã làm nhục phụ nữ trong Si-ôn, gái đồng trinh trong các thành của Giu-đa.
\v 12 Họ treo các quan trưởng lên bằng chính tay họ, và họ chẳng kính trọng các người già cả.
\s5
\v 13 Họ đưa kẻ trai tráng đến nhà xây cối, và trẻ con vấp ngã dưới gánh củi.
\v 14 Họ đuổi các người già cả khỏi cổng thành và kẻ trẻ tuổi không còn đàn hát chi nữa hết.
\s5
\v 15 Sự vui vẻ trong lòng chúng tôi đã dứt; cuộc nhảy múa đổi thành tang chế.
\v 16 Mão triều thiên rơi khỏi đầu chúng tôi! Khốn thay cho chúng tôi! Vì chúng tôi đã phạm tội!
\s5
\v 17 Lòng chúng tôi bị cùn đi, và mắt chúng tôi làng dần,
\v 18 vì chồn cáo qua lại trên núi Si-ôn, chốn ấy đã bị hoang vu.
\s5
\v 19 Hỡi Ngài là Đức Giê-hô-va; Ngài tễ trị cho đến đời đời, và ngôi Ngài còn từ đời nầy sang đời kia!
\v 20 Sao Ngài quên chúng tôi mãi mãi? Sao Ngài quên chúng tôi lâu vậy?
\v 21 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xây chúng tôi trở về Ngài, thì chúng tôi sẽ ăn năn. Hãy phục hồi trở lại những ngày của chúng tôi giống như thưở xưa!
\v 22 trừ phi chúng tôi thực sự bị khước từ, cơn giận Ngài đối cùng chúng tôi lớn quá.

2474
26-EZK.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,2474 @@
\id EZK
\ide UTF-8
\h Ê-XÊ-CHI-ÊN
\toc1 Ê-XÊ-CHI-ÊN
\toc2 Ê-XÊ-CHI-ÊN
\toc3 ezk
\mt Ê-XÊ-CHI-ÊN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Năm thứ ba mươi, ngày mùng năm tháng tư, lúc ta đang sống giữa vòng những kẻ phu tù bên bờ sông Kê-ba. Các từng trời mở ra, và ta thấy những mặc thị của Đức Chúa Trời.
\v 2 mùng năm tháng ấy — là năm thứ năm làm phu tù của vua Giê-hô-gia-kin,
\v 3 lời của Đức Giê-hô-va đến với quyền phép cho thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên, con trai Bu-xi, ở trong đất người Canh-đê bên bờ sông Kê-ba; tay Đức Giê-hô-va giáng trên ông ở đó.
\s5
\v 4 Kìa, ta thấy có luồng gió bão đến từ phương bắc — một đám mây lớn với lửa loé sáng ở trong nó và sự sáng rực xung quanh nó rồi bên trong nó, và ngọn lửa có màu hổ phách ở trong đám mây.
\v 5 Từ giữa nó là hình bốn tạo vật sống. Hình trạng chúng là như vầy: chúng có hình ảnh giống như một người,
\v 6 nhưng chúng, mỗi con có bốn mặt, và là một tạo vật có bốn cánh.
\s5
\v 7 Chân nó thẳng, các bàn chân như bàn chân bò con đực sáng ngời như đồng bóng loáng.
\v 8 Tuy nhiên, chúng có bàn tay của con người dưới những cánh nó, ở bốn bên. Vì hết thảy bốn tạo vật, mặt và cánh của chúng như vầy:
\v 9 đôi cánh của chúng chạm vào đôi cánh của tạo vật kế bên, và chúng không xây trở khi đi; thay vì thế, mỗi con cứ đi thẳng trước mặt.
\s5
\v 10 Dáng vẻ khuôn mặt của chúng thì giống như mặt của một người, kế đó, mặt của con sư tử bên phải, kế đó, mặt của con bò bên trái, và sau cùng, mặt của chim ưng.
\v 11 Mặt của chúng là như thế, và đôi cánh giang ra phía trên cao, mỗi tạo vật có hai cánh tiếp giáp nhau, và cũng có hai cánh che thân mình của chúng nữa.
\v 12 Mỗi con cứ đi thẳng tới, bất cứ đâu Đức Thánh Linh điều khiển chúng đi, chúng đi mà không xây mình lại.
\s5
\v 13 Các tạo vật sống trông giống như các hòn than đỏ lửa, hay giống như mấy cây đuốc; lửa loé lên cũng di động giữa vòng các tạo vật, và có chớp nhoáng loé lên nữa.
\v 14 Các vật sống ấy chạy tới chạy lui thật nhanh, và chúng trông giống như chớp nhoáng.
\s5
\v 15 Khi ấy, ta nhìn xem các vật sống; có một cái bánh xe trên đất bên cạnh các tạo vật nầy.
\v 16 Đây là diện mạo và cấu trúc của mấy cái bánh xe; mỗi bánh xe giống như bích ngọc, và hết thảy bốn bánh đều như nhau; chúng trông giống như bánh xe nầy xen kẻ với bánh xe kia vậy.
\s5
\v 17 Khi mấy cái bánh xe di động, chúng đi bất cứ hướng nào mà không phải xây lại.
\v 18 Giống như mấy cái vành xe, chúng cao và dễ sợ, vì mấy cái vành xe đều đầy những mắt.
\s5
\v 19 Khi nào các tạo vật sống di động, các bánh xe cũng di động bên cạnh chúng. Khi các tạo vật sống cất lên khỏi đất, các bánh xe cũng cất lên y như vậy.
\v 20 Bất cứ đâu Đức Thánh Linh chuyển tới, chúng di động đến chỗ mà Đức Thánh Linh muốn đi; mấy cái bánh xe dấy lên bên cạnh chúng, vì linh của các tạo vật sống ở trong mấy cái bánh xe.
\v 21 Khi các tạo vật sống di chuyển, mấy cái bánh xe cũng di chuyển; và khi các tạo vật đứng yên, mấy cái bánh xe cũng đứng yên; khi các tạo vật sống dấy lên khỏi đất, thì mấy cái bánh xe cũng dấy lên kề bên, một khi linh của các tạo vật sống ở trong mấy cái bánh xe.
\s5
\v 22 Ở trên đầu của các tạo vật sống là thứ trông giống như một vòng khung mở rộng; nó giống như pha lê dễ sợ, trải ra ở trên đầu chúng nó.
\v 23 Dưới vòng khung đó, hai cánh của từng tạo vật sè thẳng ra, và tiếp giáp với hai cánh của tạo vật khác. Từng tạo vật sống ấy cũng có đôi cánh che thân chúng nữa — mỗi con có hai cánh che chính thân của mình.
\s5
\v 24 Khi ấy ta nghe tiếng của cánh chúng nó! Giống như nước lớn ầm ầm. Giống như tiếng của Đấng Toàn Năng. Bất cứ khi nào có tiếng của giông bão. Tiếng ấy om sòm như tiếng một đạo binh vậy. Khi nào chúng đứng yên, chúng hạ đôi cánh xuống.
\v 25 Và một giọng nói từ trên vòng khung trên đầu chúng bất cứ khi nào chúng đứng yên và hạ thấp đôi cánh xuống.
\s5
\v 26 Bên trên vòng khung trên đầu chúng có hình như cái ngai, giống như bích ngọc, và trên ngai ấy là hình trạng giống như một người ở trên nó.
\s5
\v 27 Tôi thấy một hình trạng trông giống như kim loại bóng láng trong đó, từ hông người trở lên; từ hông người trở xuống trông giống như lửa và sự bóng láng chung quanh.
\v 28 Nó trông giống như chiếc cầu vồng hiện ra trong đám mây vào ngày trời có mưa — và như sự sáng láng chung quanh nó. Sự nầy xuất hiện giống như hình trạng sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va. Khi ta nhìn thấy điều đó, ta sấp mặt xuống, và ta nghe một giọng nói đang phán.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Tiếng ấy phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy đứng dậy trên chân ngươi; khi ấy ta sẽ phán cùng ngươi”.
\v 2 Khi ấy, Đức Thánh Linh bắt lấy ta khi Ngài phán cùng ta và đỡ ta đứng dậy trên chân ta, và ta nghe Ngài phán cùng ta.
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, ta sẽ sai ngươi đến cùng dân Y-sơ-ra-ên, đến với các dân loạn nghịch đã nổi dậy chống lại ta — cả hai: chúng nó và tổ phụ chúng nó đã phạm tội chống nghịch ta cho đến chính ngày nầy!
\s5
\v 4 Các dòng dõi của họ có bộ mặt ngoan cố và lòng cứng cỏi. Ta sẽ sai ngươi đến cùng chúng nó. Và ngươi sẽ nói với chúng: “Đây là điều Chúa Giê-hô-va phán”!
\v 5 Một là chúng sẽ nghe, hoặc sẽ không chịu nghe. Chúng là nhà loạn nghịch, nhưng ít nhất chúng nó cũng biết rằng có một đấng tiên tri ở giữa chúng.
\s5
\v 6 Còn ngươi, hỡi con người, chớ sợ chúng nó hoặc lời lẽ của chúng nó. Đừng sợ, mặc dù ngươi đang ở với gai gốc chà chuôm và dù ngươi đang sống giữa ổ bọ cạp. Đừng sợ lời lẽ của chúng hoặc mất tinh thần bởi bộ mặt của chúng, một khi chúng là nhà loạn nghịch.
\s5
\v 7 Nhưng, ngươi sẽ nói lời của ta cho chúng, dù nghe hay không nghe, vì chúng rất loạn nghịch.
\v 8 Nhưng ngươi, hỡi con người, hãy nghe điều ta phán cùng ngươi. Chớ loạn nghịch giống như nhà nổi loạn ấy. Hãy há miệng ngươi ra rồi ăn lấy vật ta sắp sửa ban cho ngươi”.
\s5
\v 9 Khi ấy ta nhìn xem, và có một bàn tay giơ đến ta; tay ấy cầm một quyển sách cuộn.
\v 10 Quyển sách ấy mở ra trước mặt ta, có chữ đã chép, cả trước và sau, và viết trên đó là những lời ca thương, than thở, khốn nạn.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, thứ mà ngươi thấy, hãy ăn đi! Hãy ăn quyển sách cuộn nầy, rồi đi nói với nhà Y-sơ-ra-ên”.
\v 2 Thế là ta mở miệng ra, và Ngài cho ta ăn quyển sách cuộn ấy.
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy cho bao tử ngươi ăn và làm đầy ruột ngươi với quyển sách cuộn nầy mà ta đã ban cho ngươi”. Vậy, ta ăn quyển sách đó, và nó ngọt giống như mật trong miệng ta.
\s5
\v 4 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy đi đến nhà Y-sơ-ra-ên rồi nói lời ta cho họ.
\v 5 Vì ngươi không phải được sai đến cùng một dân nói tiếng lạ hoặc ngôn ngữ khó hiểu, mà là đến cùng nhà Y-sơ-ra-ên —
\v 6 chẳng phải đến với một dân nói tiếng lạ hoặc ngôn ngữ khó hiểu mà ngươi không thể hiểu lời lẽ của chúng nó! Nếu ta sai ngươi đến cùng chúng nó, chúng nó sẽ nghe ngươi.
\v 7 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng chịu nghe ngươi đâu, vì chúng nó không muốn nghe ta. Vì cả nhà Y-sơ-ra-ên đều cứng trán cứng lòng.
\s5
\v 8 Nầy, ta làm cho mặt ngươi ra ngoan cố giống như bộ mặt chúng nó và trán ngươi ra cứng giống như trán của chúng nó.
\v 9 Ta làm cho trán ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá lửa! Đừng sợ chúng hay ngã lòng vì bộ mặt chúng nó, một khi chúng nó là nhà loạn nghịch!”
\s5
\v 10 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, mọi lời mà ta phán cùng ngươi — hãy nhận chúng vào lòng và nghe theo chúng với hai lỗ tai của ngươi!
\v 11 Khi ấy, hãy đi đến cùng những kẻ phu tù, đến cùng dân sự ngươi, rồi nói với họ. Hãy nói với chúng nó: Đây là lời của Chúa Giê-hô-va, dù chúng nó có chịu nghe hay không.
\s5
\v 12 Bấy giờ Thần cất ta lên, và ta nghe sau lưng tiếng ầm ầm giống như động đất lớn: “Phước thay là sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va từ nơi ngự của Ngài! ”
\v 13 Ta cũng nghe tiếng cánh của các tạo vật sống khi chúng chạm nhau, và tiếng của những cái bánh xe kề các vật ấy, và tiếng của động đất lớn lắm.
\s5
\v 14 Thần cất ta lên rồi đem ta đi; và ta đi với sự cay đắng nóng nảy trong hồn ta, vì tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta cách mạnh mẽ!
\v 15 Vậy, Ta đi đến các phu tù ở Tên-A-bíp, họ sống dọc theo bờ sông Kê-ba, và ta ở lại đó trong bảy ngày, ở giữa họ với sự kinh ngạc phủ lút.
\s5
\v 16 Thế rồi, việc xảy ra sau bảy ngày, lời của Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
\v 17 “Hỡi con người, ta đã lập ngươi lên làm người canh cho nhà Y-sơ-ra-ên, vậy hãy nghe lời ra từ miệng ta, và công bố cho họ biết lời cảnh cáo của ta.
\v 18 Khi ta nói với kẻ dữ: Mầy chắc sẽ chết và nếu ngươi không cảnh cáo nó hay không nói ra lời cảnh cáo với kẻ dữ về những việc ác để nó được sống — kẻ dữ đó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi.
\v 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ dữ, và nó không xây khỏi sự gian ác của nó hoặc khỏi những việc làm gian ác của nó, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ngươi đã cứu lấy mạng của mình.
\s5
\v 20 Và nếu người công bình xây khỏi sự công bình mình rồi cư xử cách bất công, khi ấy ta đặt hòn đá vấp chân trước mặt nó, và nó sẽ chết, một khi ngươi không cảnh cáo nó. Nó sẽ chết trong tội lỗi nó, và ta sẽ không nhớ đến những việc công bình mà nó đã làm, nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi.
\v 21 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo người công bình thôi đừng phạm tội nữa hầu cho người không còn phạm tội nữa, người chắc sẽ sống, một khi người đã được cảnh cáo; và ngươi đã giải cứu chính mạng sống mình.”
\s5
\v 22 Vậy, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên ta, và Ngài phán cùng ta: “Hãy chờ dậy! Hãy xuống vùng đồng bằng, và ta sẽ phán cùng ngươi tại đó”.
\v 23 Ta chờ dậy rồi xuống vùng đồng bằng, và sự vinh hiển Đức Giê-hô-va đang ngự ở đó, giống như sự vinh hiển ta đã thấy bên bờ sông Kê-ba; vậy ta bèn sấp mặt xuống đất.
\s5
\v 24 Thần đến cùng ta rồi đỡ ta đứng trên chân mình; và Ngài phán cùng ta như vầy: “Hãy đi, tự giam mình trong nhà ngươi,
\v 25 vì nầy, hỡi con người, người ta sẽ lấy dây trói ngươi, và ngươi không thể đi ra giữa vòng chúng nó được nữa.
\s5
\v 26 Ta sẽ khiến lưỡi ngươi dính với đốc vọng trong miệng ngươi, ngươi sẽ bị câm; và ngươi sẽ không có khả năng quở trách chúng nó được, một khi chúng là nhà loạn nghịch.
\v 27 Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi để ngươi sẽ nói với chúng nó như vầy: Đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Ai muốn nghe, hãy nghe; ai không muốn nghe, thì đừng nghe, vì chúng nó là nhà loạn nghịch”.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Hỡi con người, ngươi hãy lấy một miếng ngói cho mình rồi đặt nó trước mặt ngươi. Khi ấy hãy vẽ thành Giê-ru-sa-lem lên đó.
\v 2 Rồi hãy bao vây nghịch cùng nó, xây dựng đồn lũy chống lại nó. Mở một cuộc vây hãm nghịch cùng nó, và đóng trại chung quanh nó. Hãy đặt nhiều mũi nhọn ở chung quanh nó.
\v 3 Và ngươi, hãy lấy một cái chảo sắt, rồi sử dụng nó làm thành cái tường sắt giữa ngươi và thành. Hãy hướng mặt ngươi nghịch cùng nó và cái thành, vì nó sẽ bị vây. Vậy, hãy bao vây chống lại nó! Đó sẽ là một dấu cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 4 Kế đó, hãy nằm nghiêng qua phía trái và đặt tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên lên mình ngươi; ngươi sẽ mang lấy tội lỗi bao nhiêu ngày ngươi nằm đó nghịch cùng nhà Israel.
\v 5 Chính ta đã định cho ngươi một ngày tiêu biểu cho từng năm chúng nó bị sửa phạt, 390 ngày! Đồng thời, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 6 Khi người đã xong những ngày ấy, rồi lần thứ nhì ngươi khá nằm nghiêng bên phải, vì ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta phân cho ngươi một ngày thay cho một năm.
\v 7 Và ngươi để mặt nghịch cùng Giê-ru-sa-lem đang bị vây lấy, với tay người để trần, và ngươi sẽ nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 8 Vì nầy! Ta dùng dây trói ngươi để ngươi sẽ chẳng xây qua bên nầy hay bên kia, cho đến những ngày ngươi vây thành đã xong.
\s5
\v 9 Cũng hãy lấy cho mình lúa mì, mạch nha, đậu, đậu lăng, kê và đại mạch; để hết chúng vào một cái bình, làm bánh ăn cho mình tuỳ theo số ngày ngươi nằm nghiêng đó. Trong 390 ngày người sẽ ăn nó.
\v 10 Đây sẽ là đồ ăn mà ngươi sẽ ăn: trọng lượng hai mươi siếc-lơ cho một ngày. Ngươi sẽ ăn nó từ lúc nầy sang lúc khác.
\v 11 Và ngươi uống nước, lường ra một phần sáu hin và ngươi sẽ uống nó lần lần.
\s5
\v 12 Ngươi sẽ ăn bánh ấy như bánh mạch nha, nhưng ngươi sẽ hấp nó bằng phân người trước mắt chúng nó.
\v 13 Vì Đức Giê-hô-va phán: “Điều nầy ý nói dân Y-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh không sạch, ở đó giữa các nước mà ta sẽ trục xuất chúng nó”.
\s5
\v 14 Nhưng ta nói: “Than ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Tôi chưa hề bị ô uế! Tôi chưa hề ăn bất cứ gì đã chết hay bất cứ thứ chi bị thú vật giết, từ nhỏ đến giờ, và thịt gớm ghiếc không hề lọt vào miệng tôi.
\v 15 Vậy Ngài phán cùng ta: “Hãy xem. Ta ban cho ngươi phân bò thay vì phân người để ngươi dùng nó mà hấp bánh".
\s5
\v 16 Ngài cũng phán cùng ta: “Kìa, hỡi con người! Ta sẽ bẻ gậy bánh trong Giê-ru-sa-lem, và chúng nó sẽ lường bánh ăn nước uống, trong lo sợ và run rẩy.
\v 17 Vì chúng nó thiếu bánh và nước, mỗi một người sẽ mất tinh thần và hao mòn trong tội lỗi mình".
\s5
\c 5
\p
\v 1 “Khi ấy ngươi, hỡi con người, hãy lấy cho mình một cái gươm bén như dao cạo râu. Rồi đưa qua trên đầu và râu ngươi, rồi dùng cân để cân và chia tóc của ngươi.
\v 2 Hãy đốt một phần ba râu tóc đó với lửa ngay giữa thành khi những ngày vây thành đã mãn. Và hãy lấy một phần ba khác, rồi dùng gươm mà đánh nó tại chung quanh thành. Khi ấy hãy rải một phần ba cuối cùng ở trong gió, và chính ta sẽ tuốt gươm đuổi theo sau dân sự.
\s5
\v 3 Nhưng hãy lấy một ít tóc trong số đó cột vào vạt áo choàng mình.
\v 4 Khi ấy, hãy lấy một ít tóc quăng vào trong lửa và đốt nó trong lửa; từ đó sẽ có lửa phát ra lan đến cả nhà Y-sơ-ra-ên”.
\s5
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Đây là thành Giê-ru-sa-lem ở giữa các dân tộc, ta đặt để nó, và ta đặt các các nước bao xung quanh nó.
\v 6 Nhưng nó đã chối bỏ luật lệ ta với sự gian ác hơn các dân, và phép tắc ta nhiều hơn các nước chung quanh nó. Và chúng chối bỏ những sự xét đoán của ta và không bước theo các phép tắc ta”.
\s5
\v 7 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Vì các ngươi là rối loạn hơn các dân chung quanh các ngươi, và không bước theo các phép tắc ta hay làm theo luật lệ ta, hoặc không làm theo luật lệ của các dân tộc chung quanh các ngươi”.
\v 8 Vì cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Nầy! Ta, chính ta sẽ hành động nghịch cùng ngươi! Ta sẽ thi hành các sự phán xét ở giữa ngươi cho các dân tộc đều thấy.
\s5
\v 9 Ta sẽ làm cho các ngươi điều ta đã không làm và cũng một thể ấy ta sẽ chẳng làm lại nữa, vì cớ mọi việc làm gớm ghiếc của các ngươi.
\v 10 Vậy nên, ở giữa các ngươi, những người làm cha sẽ ăn thịt con cái mình, và con cái sẽ ăn thịt cha của chúng, một khi ta thi hành sự phán xét giáng trên các ngươi và tan rải hết thảy các ngươi những kẻ còn lại đi mọi hướng.
\s5
\v 11 Vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời tuyên bố của Chúa Giê-hô-va — điều nầy là chắc chắn vì các ngươi đã làm ô uế nơi thánh ta với những sự xấu hổ đáng ghét và với mọi việc làm đáng tởm, chính ta sẽ làm giảm đi dân số các ngươi, mắt ta sẽ không thương hại các ngươi, và ta sẽ chẳng buông tha các ngươi đâu.
\v 12 Một phần ba các ngươi sẽ chết bởi dịch lệ, và chúng sẽ bị đói kém làm hao mòn ở giữa ngươi. Một phần ba sẽ ngã dưới lưỡi gươm ở chung quanh ngươi. Khi ấy ta sẽ tan rải một phần ba các ngươi theo bốn hướng, ta cũng sẽ rút gươm đuổi theo chúng nó nữa.
\s5
\v 13 Khi ấy cơn thạnh nộ của ta sẽ được trọn, và ta sẽ khiến cơn giận ta yên nghỉ đối với chúng nó. Ta lấy làm thoả lòng, và chúng nó sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va đã phán trong cơn thạnh nộ ta khi ta đã hoàn tất cơn giận ta nghịch cùng chúng nó.
\v 14 Ta sẽ khiến các ngươi ra hoang vu và một sự nhuốc nhơ cho các dân ở chung quanh ngươi trước mắt kẻ đi ngang qua.
\s5
\v 15 Vậy, Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành một thứ cho các dân khác xét đoán và chế giễu các ngươi, một lời cảnh cáo và một sự kinh khiếp cho các dân ở chung qunh các ngươi. Ta sẽ thi hành sự phán xét nghịch cùng các ngươi trong sự giận dữ và thạnh nộ, và với một sự quở trách dữ dằn — Đức Giê-hô-va đã tuyên bố như thế!
\v 16 Ta sẽ bắn những mũi tên độc của đói kém nghịch cùng các ngươi, chúng sẽ trở thành phương tiện mà với chúng ta sẽ huỷ diệt các ngươi. Vì ta sẽ thêm sự đói kém giáng trên các ngươi và sẽ bẻ gậy bánh của các ngươi đi.
\v 17 Ta sẽ giáng nạn đói kém và tai vạ nghịch cùng các ngươi để các ngươi sẽ bị mồ côi. Dịch lệ và huyết sẽ trải qua các ngươi và ta sẽ sai gươm đến nghịch cùng các ngươi — Ta, Đức Giê-hô-va đã công bố ra điều nầy!”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Lời Đức Giê-hô-va đến cùng ta và phán:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi nghịch cùng các núi Y-sơ-ra-ên rồi nói tiên tri với chúng.
\v 3 Hãy nói: Hỡi các núi Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe lời của Chúa Giê-hô-va! Chúa Giê-hô-va phán điều nầy với các núi và với các đồi, hầm hố, và đồng trũng như vầy: Nầy! Ta sẽ dẫn gươm đến nghịch cùng các ngươi, và ta sẽ tiêu diệt các nơi cao của các ngươi.
\s5
\v 4 Khi ấy, bàn thờ các ngươi sẽ bị hoang vu và các trụ của các ngươi sẽ bị huỷ diệt, và ta sẽ ném bỏ những kẻ chết của các ngươi trước mặt thần tượng của chúng.
\v 5 Ta sẽ đặt những xác chết của dân Y-sơ-ra-ên trước mặt thần tượng chúng nó, và rải cốt các ngươi quanh bàn thờ các ngươi.
\s5
\v 6 Hễ nơi nào các ngươi ở, các thành sẽ bị hủy hoại và các nơi cao sẽ bị hoang vu, đến nỗi các bàn thờ sẽ bị hủy hoại hoang tàn. Khi ấy chúng sẽ bị đập bể và biến mất, các trụ sẽ bị gãy vỡ và mọi công việc của các ngươi sẽ bị quét sạch.
\v 7 Những kẻ chết sẽ ngã xuống giữa các ngươi, và các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 8 Nhưng ta sẽ giữ lại giữa các ngươi một số dân sót, và sẽ có người thoát khỏi gươm giữa các nước, khi các ngươi bị tan rải khắp các xứ.
\v 9 Khi ấy, những kẻ nào được thoát ấy sẽ suy gẫm về ta giữa các nước mà chúng nó bị đùa đến làm phu tù, ta lấy làm buồn bực bởi tấm lòng tà dâm của chúng đã xây khỏi ta, và bởi ánh mắt đã hành dâm theo thần tượng chúng nó. Khi ấy chúng nó sẽ tỏ sự gớm ghiếc ra nơi mặt vì sự gian ác mà chúng nó đã phạm với mọi sự đáng tởm của chúng.
\v 10 Chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va. Đó là lý do mà ta đã nói ta sẽ giáng điều ác nầy cho chúng nó.
\s5
\v 11 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy vỗ tay giậm chân các ngươi! Hãy nói: “Than ôi! ” vì cớ mọi sự gớm ghiếc gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên! Vì nó sẽ ngã xuống bởi gươm dao, đói kém, và dịch lệ.
\v 12 Kẻ nào ở xa sẽ chết vì dịch lệ, và kẻ nào ở gần sẽ ngã bởi gươm. Người nào còn sống và sống sót sẽ chết bởi đói kém; theo phương thức nầy ta sẽ làm cho trọn sự giận của ta nghịch cùng họ.
\s5
\v 13 Khi ấy, các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, khi kẻ chết của chúng nó nằm giữa đám thần tượng, xung quanh bàn thờ chúng, trên mỗi gò cao — trên mọi đỉnh núi, và dưới từng cây xanh và cây sồi rậm — khắp những nơi mà chúng nó dâng hương cho các thần tượng mình.
\v 14 Ta sẽ tỏ ra quyền phép của ta và khiến cho xứ bị hoang vu và tàn nát, từ đồng vắng cho đến Đíp-lát, khắp mọi nơi chúng sinh sống. Khi ấy, chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến và phán cùng ta:
\v 2 Ngươi, hỡi con người — Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng đất Y-sơ-ra-ên: Sự cuối cùng! Sự cuối cùng đã đến cho bốn góc đất!
\s5
\v 3 Bây giờ, sự cuối cùng giáng trên các ngươi, vì Ta sẽ sai cơn thạnh nộ ta giáng trên các ngươi, và ta sẽ phán xét các ngươi tuỳ theo mọi đường lối các ngươi, khi ấy ta sẽ giáng mọi sự gớm ghiếc trên các ngươi.
\v 4 Vì mắt ta chẳng nhìn xem các ngươi với sự thương hại, và ta sẽ chẳng buông tha cho các ngươi; nhưng ta sẽ giáng đường lối các ngươi trên các ngươi, và những sự gớm ghiếc của các ngươi sẽ ở giữa các ngươi, nhơn đó các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tai vạ! Hết tai vạ nầy đến tai vạ khác! Kìa, nó đang đến!
\v 6 Sự cuối cùng chắc chắn đang tới đến; sự cuối cùng tỉnh thức mà nghịch cùng các ngươi! Kìa, nó đang đến!
\v 7 Số phận các ngươi đang đến với các ngươi, những ai ở trong xứ. Thì giờ đã đến; ngày huỷ diệt gần rồi, và núi non sẽ chẳng còn được vui mừng nữa.
\s5
\v 8 Bây giờ, ta ao ước đổ ra cơn giận ta nghịch cùng các ngươi và làm trọn cơn thạnh nộ giáng trên các ngươi khi ta đoán xét các ngươi theo đường lối các ngươi, và đem hết mọi sự gớm ghiếc giáng trên các ngươi.
\v 9 Vì mắt ta sẽ chẳng nhìn xem cách thương hại, và ta sẽ không buông tha các ngươi đâu. Như ta đã nói, Ta sẽ làm cho các ngươi; và những sự gớm ghiếc của các ngươi sẽ ở giữa các ngươi để các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng sửa phạt các ngươi.
\s5
\v 10 Nầy! Ngày đang đến! Sự bại hoại đã tới đến. Cây gậy đã trổ ra với nụ kiêu ngạo.
\v 11 Bạo lực đã dấy lên thành cây gậy gian ác — không một ai trong đám đông chúng nó, không một ai trong sự giàu có của họ, không một sự sang trọng nào của họ còn đấy nữa.
\s5
\v 12 Giờ đã đến; ngày ấy đến gần rồi. Nguyện kẻ mua chớ vui, kẻ bán chớ than vãn, một khi cơn giận của ta giáng trên cả đoàn dân đông!
\v 13 Vì kẻ bán sẽ không trở về với thứ đã được bán bao lâu họ còn sống, kể từ khi sự khải thị nghịch cùng đoàn dân đông; họ sẽ không trở về, vì không một người nào sống trong tội lỗi mình sẽ được bổ sức lại!
\s5
\v 14 Họ đã thổi kèn lên và khiến cho mọi sự ra sẵn sàng, nhưng chẳng có ai ra trận; một khi cơn giận ta giáng trên cả đoàn dân đông!
\v 15 Gươm hiện đang ở bên ngoài, còn dịch lệ và đói kém thì đang ở bên trong các toà nhà. Kẻ nào đang ở ngoài đồng sẽ chết bởi gươm, đang khi đói kém và dịch lệ sẽ vồ nuốt kẻ ở trong thành.
\v 16 Nhưng một số người sống sót sẽ thoát khỏi giữa chúng, và họ sẽ đi lên trên núi. Giống như bầy chim bò câu trong đồng bằng, hết thảy họ sẽ than vãn — mỗi người vì tội lỗi mình.
\s5
\v 17 Mọi tay đều mòn mỏi và từng đầu gối đều yếu giống như nước,
\v 18 và họ sẽ mặc lấy bao gai, và sự kinh khiếp phủ lấy họ; và sự xấu hổ sẽ ở trên từng bộ mặt, mọi đầu đều trọc trọi.
\v 19 Chúng sẽ quăng bạc mình trên đường phố và vàng của chúng sẽ bị chối từ. Bạc và vàng của chúng sẽ không thể cứu chúng nơi ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va. Mạng sống của chúng sẽ không được cứu, và cơn đói khát của chúng sẽ không được thoả, vì tội lỗi của chúng đã trở thành vầng đá vấp chơn.
\s5
\v 20 Chúng chiếm lấy các thứ trang sức trong sự kiêu ngạo và chúng tạo thành các thứ hình tượng gớm ghiếc — những hành vi đáng tởm mà chúng đã làm với các thứ ấy, vì lẽ đó, ta khiến các thứ nầy ra ô uế cho chúng!
\v 21 Và ta sẽ phó các thứ ấy cho người lạ như chiến lợi phẩm và cho kẻ dữ trên đất làm chiến lợi phẩm, và chúng sẽ làm ô uế những kẻ ấy.
\v 22 Khi ấy, Ta sẽ xây mặt khỏi chúng nó khi họ làm ô uế nơi ta ưa thích; những kẻ trộm cướp sẽ vào đó và làm ô uế nó.
\s5
\v 23 Hãy làm xiềng xích, vì xứ đầy dẫy với sự phán xét bằng huyết, và thành phố đầy sự bạo lực.
\v 24 Vậy, Ta sẽ đem những kẻ hung ác nhất trong các dân ngoại đến, và họ sẽ chiếm lấy nhà chúng nó, và ta sẽ đem dấu chấm hết cho sự kiêu căng của kẻ mạnh, vì các nơi thánh của chúng sẽ bị ô uế!
\v 25 Sự sợ hãi sẽ đến! Chúng nó sẽ tìm sự bình an, nhưng sẽ chẳng có sự bình an nào hết!
\s5
\v 26 Hết tai vạ nầy đến tai vạ khác, hết tiếng đồn nầy đến tiếng đồn khác! Khi ấy chúng nó sẽ tìm sự hiện thấy nơi vị tiên tri, nhưng luật pháp lìa khỏi thầy tế lễ, và mưu luận lìa khỏi các trưởng lão.
\v 27 Vua sẽ than vãn và quan trưởng sẽ mặc lấy sự thất vọng, trong khi tay của dân sự trong đất đều run rẩy lo sợ. Tuỳ theo các đường lối riêng của chúng, Ta sẽ đãi chúng nó y như thế! Và ta sẽ xét đoán chúng với các tiêu chuẩn riêng của chúng cho đến khi chúng nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Năm thứ sáu và tháng thứ sáu, nhằm ngày mùng năm của tháng, khi ta đang ngồi trong nhà, và các trưởng lão Giu-đa ngồi trước mặt ta, thì tay Chúa Giê-hô-va một lần nữa giáng trên ta ở đó.
\v 2 Vậy, ta thấy, và kìa, có một hình trạng giống như một người, với hình trạng giống như lửa từ hông người trở xuống! Và từ hai bên hông người trở lên thì như hình trạng sáng chói giống như kim loại sáng láng!
\s5
\v 3 Và người ấy giơ ra như hình bàn tay rồi nắm lấy ta bởi tóc trên đầu ta; Thần cất ta lên giữa đất và trời, trong các sự hiện thấy từ Đức Chúa Trời, người đem ta đến thành Giê-ru-sa-lem, nơi lối vào cổng trong phía bắc, ở đó hình tượng kích thích sự ghen tương đang đứng.
\v 4 Và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, dáng dấp người y như ta đã thấy ở ngoài đồng, đứng ở đó.
\s5
\v 5 Khi ấy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy ngước mắt về phía bắc”. Vậy, ta ngước mắt về phía bắc, và về phía bắc cổng dẫn đến bàn thờ, ở đó tại lối vào, là hình tượng của sự ghen tương.
\v 6 Vậy Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi thấy mọi việc họ đang làm không? Đây là những sự gớm ghiếc lớn mà nhà Y-sơ-ra-ên đang làm ở đây để khiến cho ta đi xa khỏi nơi thánh ta! Nhưng ngươi sẽ còn thấy nhiều sự gớm ghiếc lớn khác nữa!”
\s5
\v 7 Khi ấy, Ngài đưa ta đến lối vào hành lang, và ta nhìn xem, có một cái lỗ trên tường.
\v 8 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy xoi chỗ tường ấy”. Vậy, ta xoi chỗ tường ấy, và ở đó có một cánh cửa!
\v 9 Thế rồi Ngài phán cùng ta: “Hãy đi và xem những sự gian ác gớm ghiếc mà chúng nó đang làm ở đây”.
\s5
\v 10 Vậy, ta bước vào rồi xem thấy, và kìa! Có từng hình tượng côn trùng và thú vật gớm ghiếc! Từng hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên đã khắc ở chung quanh tường.
\v 11 Bảy mươi trưởng lão của nhà Y-sơ-ra-ên có mặt ở đó, và Gia-a-xa-nia, con trai Sa-phan, đang đứng ở giữa họ. Họ đang đứng trước các hình tượng, và từng người có lư hương trên tay, mùi hương rất thơm bay lên.
\s5
\v 12 Khi ấy Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi thấy những điều các trưởng lão nhà Y-sơ-ra-ên đang làm trong nơi tối tăm không? Mỗi người làm việc nầy trong các gian phòng kín với hình tượng mình, vì chúng nói: Đức Giê-hô-va không thấy chúng ta đâu! Đức Giê-hô-va đã lìa bỏ đất nầy! ’”
\v 13 Và Ngài phán cùng ta: “Hãy xây lại rồi thấy những sự gớm ghiếc lớn khác nữa mà chúng nó đang làm!”
\s5
\v 14 Kế đó, Ngài đưa ta đến lối vào cổng nhà Đức Giê-hô-va nằm ở phía bắc, và kìa! Những phụ nữ đang ngồi ở đó than khóc Tham-mu.
\v 15 Vậy, Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy việc nầy? Hãy xây qua một lần nữa thì ngươi sẽ thấy nhiều sự gớm ghiếc lớn hơn các việc nầy nữa!”
\s5
\v 16 Và Ngài đưa ta vào hành lang trong của nhà Đức Giê-hô-va, và kìa! Ở lối vào đền thờ Đức Giê-hô-va, giữa hiên cửa và bàn thờ, đã có hai mươi lăm người xây lưng về phía đền thờ Đức Giê-hô-va và mặt họ hướng về phía đông, và họ đang thờ lạy Sê-mét.
\s5
\v 17 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy điều nầy? Có phải đây là việc nhỏ đối với nhà Giu-đa khi thực hiện những sự gớm ghiếc mà họ đang làm ở đây? Vì họ đã làm đầy dẫy đất với bạo lực, và xây lại chọc giận ta, họ lấy các nhánh cây đưa lên mũi mình.
\v 18 Vậy, ta cũng sẽ làm giữa vòng họ; mắt ta chẳng thương xót chút nào, và ta không buông tha họ đâu. Dầu họ kêu la om sòm nơi tai ta, ta chẳng thèm nghe họ nữa”.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Thế rồi, khi ta lắng nghe, Ngài kêu lớn tiếng: “Hãy để cho những người lính đứng canh thành phố, mỗi người với khí giới mình trong tay”.
\v 2 Và kìa! Có sáu người đến từ cửa thượng đối diện phía bắc, mỗi người với vũ khí trong tay. Và có một người giữa vòng họ mặc vải gai với dụng cụ của văn sĩ ở bên hông. Thế là sáu người bước vào trong, đứng bên bàn thờ bằng đồng.
\s5
\v 3 Khi ấy sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên dấy lên từ chê-ru-bin, nó thường ở đó, cho đến ngạch cửa nhà. Và Ngài gọi người mặc vải gai, có dụng cụ của văn sĩ ở bên hông.
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng người: “Hãy đi qua giữa thành — giữa thành Giê-ru-sa-lem — đánh dấu trên trán những người nào than thở khóc lóc về mọi sự gớm ghiếc đã được làm ra ở giữa thành nầy”.
\s5
\v 5 Khi ấy, Ngài phán cùng những người kia khi tôi đang lắng nghe: “Hãy đi qua thành phố, theo sau người kia rối hãy giết đi! Đừng để mắt ngươi có chút thương xót nào, và đừng buông tha
\v 6 người già, kẻ trẻ, gái đồng trinh, trẻ nhỏ hay đàn bà. Hãy giết đi hết thảy! Nhưng chớ lại gần kẻ nào có dấu ghi trên trán. Hãy khởi sự từ nơi thánh của ta! ” Thế là họ khởi sự với các người già cả ở trước ngôi nhà.
\s5
\v 7 Ngài phán cùng họ: “Hãy làm cho ngôi nhà ra ô uế, và làm cho các hành lang đầy những xác chết! Hãy làm đi! Thế là họ tiếp tục đi ra tấn công thành phố.
\v 8 Rồi khi họ tấn công nó, ta thấy ta có một mình và ta sấp mặt xuống đất, kêu la như sau: “Ôi, hỡi Chúa Giê-hô-va! Liệu Ngài sẽ hủy diệt dân sót của Y-sơ-ra-ên khi đổ ra cơn giận Ngài trên thành Giê-ru-sa-lem sao?
\s5
\v 9 Ngài phán cùng tôi: “Sự gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa cực kỳ lớn. Đất đầy những máu và trong thành đầy sự trái ngược, một khi họ nói: Đức Giê-hô-va đã lìa bỏ đất nầy, và Đức Giê-hô-va chẳng thấy chi hết.
\v 10 Vì thế, mắt ta sẽ chẳng nhìn với sự thương xót, và ta không buông tha chúng. Thay vì thế, ta sẽ khiến hết thảy mọi sự đổ lại trên đầu chúng nó”.
\v 11 Và kìa! Người mặc áo vải gai, là người có dụng cụ của văn sĩ ở bên hông trở lại. Người tường trình như sau: “Tôi đã làm mọi sự mà Ngài đã căn dặn”.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Khi ấy, ta nhìn xem mái vòm trên đầu của chê-ru-bin; một thứ xuất hiện bên trên chúng giống như đá bích ngọc, có hình trạng như cái ngai.
\v 2 Và Đức Giê-hô-va phán cùng người mặc vải gai như sau: “Hãy vào giữa mấy cái bánh xe, bên dưới chê-ru-bin, lấy đầy hai bàn tay ngươi những than lửa từ giữ chê-ru-bin rồi rải chúng ra trên thành”. Thế rồi người ấy bước vào khi ta đang quan sát.
\s5
\v 3 Chê-ru-bin đứng bên phải ngôi nhà khi người ấy bước vào, và một đám mây đầy dẫy hành lang trong.
\v 4 Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ chê-ru-bin rồi đứng trên ngạch cửa nhà; sự vinh hiển ấy đầy dẫy ngôi nhà với đám mây, và hành lang loé sáng sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va.
\v 5 Khi ấy, tôi nghe thấy tiếng của các cặp cánh chê-ru-bin nơi hành lang ngoài, giống như tiếng của Đức Chúa Trời Toàn Năng khi Ngài phán.
\s5
\v 6 Khi Đức Giê-hô-va truyền cho người mặc vải gai như sau: “Hãy lấy lửa từ giữa mấy cái bánh xe ở giữa các chê-ru-bin”, thì người ấy bước vào và đứng bên một bánh xe.
\v 7 Một chê-ru-bin chìa tay ra giữa các chê-ru-bin vói lấy lửa có ở giữa các chê-ru-bin, nhấc tay lên rồi đặt vào tay của người mặc vải gai. Người nầy tiếp lấy rồi lui ra.
\v 8 Tôi thấy nơi chê-ru-bin một thứ giống như bàn tay người ta ở dưới cánh của chúng.
\s5
\v 9 Vậy, ta nhìn xem, thì kìa! Bốn cái bánh xe bên cạnh các chê-ru-bin — một bánh xe bên một chê-ru-bin — và bề ngoài mấy cái bánh xe giống như bích ngọc.
\v 10 Chúng xuất hiện y như hình trạng bốn cái bánh xe ấy, bốn cái có đồng một hình như bánh xe nầy ở trong bánh xe kia.
\v 11 Khi chúng nó di chuyển, chúng đi theo bất kỳ hướng nào; chúng không xây lại khi chúng di chuyển đến chỗ mà cái đầu hướng tới. Khi đi chúng chẳng xây lại.
\s5
\v 12 Toàn thân của chúng — gồm lưng, tay, cánh của chúng — bao phủ đầy những mắt, và những con mắt cũng bao phủ quanh bốn cái bánh xe nữa.
\v 13 Như ta lắng nghe, mấy cái bánh xe được gọi: “Hãy lao tới đi”.
\v 14 Các chê-ru-bin có bốn mặt: mặt thứ nhất là mặt chê-ru-bin, mặt thứ nhì là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử; mặt thứ tư là mặt chim ưng.
\s5
\v 15 Khi ấy chê-ru-bin — đây là những tạo vật sống mà ta đã thấy bên bờ sống Kê-ba — dấy lên.
\v 16 Bất cứ khi nào chê-ru-bin di chuyển, mấy cái bánh xe sẽ đi kề với chúng; và bất cứ khi nào chê-ru-bin giương cánh ra để cất lên khỏi đất, mấy cái bánh xe không xây trở. Chúng vẫn ở bên cạnh chê-ru-bin.
\v 17 Khi các chê-ru-bin đứng yên, các bánh xe đứng yên, và khi chúng cất lên, mấy cái bánh xe cùng cất lên với chúng, vì thần của tạo vật sống ấy có ở trong các bánh xe.
\s5
\v 18 Khi ấy sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va ra khỏi ngạch cửa nhà và đứng trên các chê-ru-bin.
\v 19 Các chê-ru-bin giương cánh cất lên khỏi đất trước mắt ta khi chúng đi ra, mấy cái bánh xe cũng làm y như thế bên cạnh chúng. Chúng đứng ở lối vào phía đông nhà Đức Giê-hô-va, và sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên giáng trên chúng từ trên cao.
\s5
\v 20 Đây là các tạo vật sống mà ta đã thấy dưới quyền Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bên bờ sông Kê-ba, và ta biết chúng là chê-ru-bin!
\v 21 Chúng có bốn mặt và bốn cánh mỗi chê-ru-bin, và có hình bàn tay người ở dưới cánh của chúng;
\v 22 và hình trạng của mặt chúng thì giống như những cái mặt mà ta đã thấy trong sự hiện thấy bên bờ sông Kê-ba, và mỗi một cái mặt đều hướng tới đàng trước.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Khi ấy, Thần cất ta lên và đưa ta đến cổng phía đông nhà Đức Giê-hô-va, đối diện phía đông; và kìa! Nơi lối vào cửa có hai mươi lăm người. Ta thấy Gia-a-xa-nia con trai A-xua, và Phê-la-tia con trai Bê-na-gia, giữa vòng các cấp lãnh đạo dân sự.
\s5
\v 2 Thần phán cùng ta: “Hỡi con người, đây là những người mưu tính sự gian ác, và họ quyết những điều gian trá trong thành nầy.
\v 3 Chúng nói rằng: “Thì giờ xây nhà cửa không phải là lúc nầy; thành nầy là nồi, và chúng ta là thịt”.
\v 4 Vậy nên, hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng nó. Hỡi con người, hãy nói tiên tri đi!”
\s5
\v 5 Lúc đó Thần của Đức Giê-hô-va giáng trên ta và Ngài cùng ta: “Hãy nói đi: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên; y như các ngươi nói; vì ta biết những điều có trong lý trí các ngươi.
\v 6 Các ngươi đã giết rất nhiều người trong thành nầy, và làm cho các đường phố nó đầy xác chết.
\v 7 Cho nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Những kẻ các ngươi đã giết, thi thể họ các ngươi để ở giữa thành Giê-ru-sa-lem, ấy là thịt, và thành nầy là nồi. Nhưng các ngươi sẽ bị đem ra khỏi giữa thành ấy.
\s5
\v 8 Các ngươi sợ gươm, vì thế ta sẽ khiến gươm đến trên các ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 9 Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa thành nầy, và sẽ phó các ngươi trong tay các dân ngoại, vì ta sẽ đem sự phán xét nghịch cùng các ngươi.
\v 10 Các ngươi sẽ ngã bởi gươm. Ta sẽ xét đoán các ngươi bên trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên để các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Thành nầy sẽ chẳng phải là nồi nấu nướng của các ngươi, các ngươi cũng sẽ chẳng phải là thịt ở giữa nó. Ta sẽ xét đoán các ngươi bên trong các đường biên giới của Y-sơ-ra-ên.
\v 12 Khi ấy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, các ngươi đã không bước theo luật lệ ta và không giữ theo các mạng lịnh ta. Thay vì thế, các ngươi đã làm theo mạng lịnh của các nước chung quanh mình”.
\s5
\v 13 Và khi ta nói tiên tri, thì Phê-la-tia, con trai Bê-na-gia, ngã chết. Vậy, ta bèn sấp mặt xuống đất và kêu lên lớn tiếng rằng: “Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Liệu Ngài sẽ tiêu diệt hoàn toàn số dân sót của Y-sơ-ra-ên sao?
\s5
\v 14 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta như vầy:
\v 15 Hỡi con người, anh em ngươi! Các anh em ngươi! Những người bà con của ngươi và cả nhà Y-sơ-ra-ên! Hãy nói với hết thảy họ, những người sống trong thành Giê-ru-sa-lem: Họ đã lìa xa Đức Giê-hô-va! Đất nầy đã được ban cho chúng ta làm cơ nghiệp của chúng ta.
\s5
\v 16 Vậy nên, hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: mặc dù ta dời chúng xa khỏi trong các nước, và dù ta tan rải chúng nó giữa nhiều xứ, ta là nơi thánh cho chúng nó trong một thời gian ngắn ở những xứ mà chúng nó đi đến.
\v 17 Vậy nên, hãy nói: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ giữa các dân, và thâu lấy các ngươi từ những nước mà các ngươi đã bị tan rải, và ta sẽ ban cho các ngươi đất Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Khi ấy, chúng nó sẽ đi đến đó và sẽ trừ bỏ mọi vật đáng ghét và mọi sự gớm ghiếc ra khỏi chỗ đó.
\s5
\v 19 Và ta sẽ ban cho chúng nó một tấm lòng, và ta đặt thần mới trong chúng khi chúng đến gần ta; ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi xác thịt chúng nó, và ban cho chúng tấm lòng bằng thịt,
\v 20 hầu cho chúng nó sẽ bước theo luật lệ ta, chúng sẽ giữ theo các mạng lịnh ta và làm theo. Khi ấy chúng sẽ làm dân sự ta, và ta là Đức Chúa Trời của chúng nó.
\v 21 Nhưng đối với những kẻ bước theo sự ham mê của vật đáng ghét và những sự gớm ghiếc của chúng, ta sẽ làm cho cách ăn ở chúng nó giáng trên đầu chúng nó. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 22 Bấy giờ, chê-ru-bin giương cánh cất lên và mấy cái bánh xe ở bên cạnh chúng, và sự vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cũng cất lên bên trên chúng nó.
\v 23 Và sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ giữa thành và đứng trên núi về phía đông của thành.
\s5
\v 24 Và Thần cất ta lên và đưa ta vào trong xứ Canh-đê, đến với những kẻ phu tù, trong sự hiện thấy từ Thần của Đức Chúa Trời. Và sự hiện thấy mà ta đã thấy cất lên ở bên trên ta.
\v 25 Khi ấy ta công bố cho những kẻ phu tù biết mọi sự của Đức Giê-hô-va mà ta đã thấy.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, ngươi sống ở giữa nhà loạn nghịch, ở đó chúng nó có mắt để thấy mà chúng không thấy; và có tai để nghe song chẳng nghe, vì chúng là nhà loạn nghịch!
\s5
\v 3 Vậy, về ngươi, hỡi con người; hãy sửa soạn đồ đạt đi làm phu tù, rồi khởi dời đi giữa ban ngày trước mắt chúng, vì ta sẽ đày ngươi trước mắt chúng nó từ chỗ nầy sang chỗ kia. Có lẽ chúng sẽ khởi sự nhìn thấy, mặc dầu chúng là nhà loạn nghịch.
\s5
\v 4 Và ngươi sẽ đem theo đồ đạt để đi đày lúc ban ngày, trước mắt chúng nó; hãy đi ra lúc chiều trước mắt chúng nó theo cách kẻ bị đi đày.
\v 5 Hãy đục một cái lỗ qua tường trước mắt chúng nó, rồi đi ra qua ngõ đó.
\v 6 Trước mắt chúng nó, hãy vác đồ đạt ngươi lên vai, rồi đem chúng đi lúc trời tối. Hãy che mặt ngươi lại, vì ngươi không nhìn thấy đất, một khi ta đã đặt ngươi làm một dấu cho nhà Y-sơ-ra-ên”.
\s5
\v 7 Vậy ta làm theo điều nầy, y như ta đã được căn dặn. Ta mang đồ đạt đi đày lúc ban ngày, và đến chiều bằng tay của mình, ta đục một cái lỗ qua tường. Lúc trời tới, ta vác đồ đạt mình đi, nhấc chúng lên vai trước mắt chúng nó.
\s5
\v 8 Khi sớm mai, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 9 “Hỡi con người, có phải nhà Y-sơ-ra-ên, là nhà loạn nghịch ấy, hỏi ngươi rằng: Ngươi làm gì vậy?
\v 10 Hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: hành động nầy mang tính tiên tri liên quan đến nhà vua trong Giê-ru-sa-lem, và cả nhà Y-sơ-ra-ên ở giữa đó’.
\s5
\v 11 Hãy nói: Ta là dấu cho các ngươi. Như ta đã làm, cũng vậy điều đó sẽ thực hiện cho họ; họ sẽ đi đày, và bước vào cuộc phu tù.
\v 12 Nhà vua có mặt giữa chúng nó sẽ vác đồ đạt trên vai mình mà đi ra trong lúc trời tối, và chúng nó đi ngang qua bức tường. Họ sẽ đục lỗ qua bức tường rồi đem đồ đạt của họ ra. Người sẽ che mặt lại, vì mắt người sẽ không còn nhìn thấy đất nầy nữa.
\v 13 Ta cũng sẽ trải lưới ta trên người và người sẽ mắc vào bẫy ta; khi ấy ta sẽ đưa người qua Ba-by-lôn, là đất của người Canh-đê, nhưng người sẽ không nhìn thấy đất ấy. Người sẽ chết ở đó.
\s5
\v 14 Ta cũng tan rải theo mọi hướng hết thảy những kẻ ở quanh người, họ cần phải trợ giúp người và toàn thể quân đội người, ta sẽ sai gươm theo sau chúng.
\v 15 Khi ấy, chúng sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, lúc ta tan rải chúng giữa các dân và phân tán chúng khắp các xứ.
\v 16 Nhưng ta sẽ buông tha một ít người từ giữa vòng chúng thoát khỏi gươm dao, đói kém, dịch lệ, hầu cho chúng có thể ghi lại mọi sự gớm ghiếc của chúng trong các xứ mà ta đưa chúng nó đến, để chúng sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 17 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta như vầy:
\v 18 “Hỡi con người, hãy ăn bánh với sự run rẩy, và uống nước với sự lay động và lo lắng.
\s5
\v 19 Khi ấy, hãy nói với dân trong đất rằng: Đức Giê-hô-va phán về dân cư Giê-ru-sa-lem, và đất của Y-sơ-ra-ên: Chúng nó sẽ ăn bánh với sự run rẩy, và uống nước trong sự lay động, một khi đất nầy bị hoang vu lên tới mức đầy trọn của nó vì cớ sự cường bạo của hết thảy những kẻ sống ở đó.
\v 20 Các thành đông dân sẽ trở nên hoang vu, và đất sẽ trống trơn; để các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\v 21 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 22 “Hỡi con người, câu châm ngôn mà các ngươi có trong xứ của Y-sơ-ra-ên có nghĩa gì khi nói: Thời thế kéo dài, mọi sự hiện thấy chẳng ứng nghiệm?
\v 23 Vì lẽ đó, hãy nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đặt dấu chấm hết cho câu châm ngôn nầy để dân Y-sơ-ra-ên không còn dùng đến nó nữa. Khi ấy, hãy nói cùng chúng rằng: Thời thế sắp đến, và từng sự hiện thấy sẽ ứng nghiệm.
\s5
\v 24 Vì sẽ chẳng còn có một sự hiện thấy giả dối nào hoặc một sự bói khoa nào đáng ưa trong nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 25 Vì ta là Đức Giê-hô-va! Ta phán, và cưu mang lời mà ta đã phán. Sự việc không còn chậm trễ nữa. Vì ta sẽ phán lời nầy trong thời buổi của các ngươi, hỡi nhà loạn nghịch, và ta sẽ làm thành nó — Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 26 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 27 “Hỡi con người, kìa! Nhà Y-sơ-ra-ên đã nói: Sự hiện thấy mà người nầy thấy tính từ bây giờ trở đi, và người nói tiên tri về thời kỳ còn xa lắm.
\v 28 Vì lẽ đó, hãy nói với chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Lời của ta sẽ chẳng còn trì trệ nữa, nhưng lời mà ta đã phán sẽ được làm thành — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Một lần nữa, lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng như vầy:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng các tiên tri đang nói tiên tri trong Y-sơ-ra-ên, và hãy nói với những kẻ nói tiên tri theo chính lý trí của họ: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 3 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho các tiên tri ngu ngốc theo thần riêng mình, mà chưa từng thấy ai cả!
\v 4 Hỡi Y-sơ-ra-ên, các tiên tri của ngươi là loài cáo sống trong chốn hoang vu.
\s5
\v 5 Các ngươi chưa lên nơi đổ vỡ trên bức tường chung quanh nhà Y-sơ-ra-ên để tu sửa nó, để chống đỡ trong ngày chiến trận của Đức Giê-hô-va.
\v 6 Dân sự có những sự hiện thấy giả dối và những lời tiên đoán phỉnh phờ, những kẻ nào nói: “Đấy là lời công bố của Đức Giê-hô-va”. Nhưng Đức Giê-hô-va đã không sai chúng nó, tuy nhiên chúng nó đã làm cho dân sự hy vọng sứ điệp của chúng sẽ là đúng.
\v 7 Các ngươi không nên có những sự hiện thấy giả dối và đừng đưa ra những lời tiên đoán phỉnh phờ, người nào trong các ngươi nói: “Đấy là lời công bố của Đức Giê-hô-va” khi chính ta đâu đã phán như thế bao giờ.
\s5
\v 8 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì các ngươi có những sự hiện thấy giả dối, và đã nói ra những lời dối trá — vì lẽ ấy đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va nghịch cùng các ngươi:
\v 9 Tay ta sẽ nghịch cùng các tiên tri nào có những sự hiện thấy giả dối và đưa ra các lời tiên đoán phỉnh phờ. Chúng nó sẽ không được ở trong hội chúng của dân ta nữa, hoặc không được ghi vào sổ trong nhà Y-sơ-ra-ên nữa; họ không được vào trong đất của Y-sơ-ra-ên. Để các ngươi sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 10 Vì cớ điều nầy, và vì chúng nó dẫn dân ta đi sai lạc, chúng nói: “Bình an” khi chẳng có bình an chi hết, chúng đang xây bức tường mà chúng sẽ tô lên với vôi trắng.
\v 11 Hãy nói với kẻ nào đang tô vôi trắng lên tường, Tường ấy sẽ sụp đổ; sẽ có mưa to đổ xuống, và ta sẽ sai mưa đá đến để làm cho tường phải sụp xuống, và gió bão sẽ đánh sập nó.
\v 12 Hãy xem, bức tường sẽ sụp xuống. Phải chăng nhiều người khác chẳng nói cùng ngươi rằng: “Lớp vôi trắng mà các ngươi đã tô lên tường giờ ở đâu? ”’
\s5
\v 13 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến gió bão đến đương cơn giận ta, và sẽ có lũ lụt đến theo mưa trong sự thạnh nộ ta! Trong cơn giận phừng ta, mưa đá sẽ huỷ diệt nó hoàn toàn!
\v 14 Vì ta sẽ làm sụp bức tường mà các ngươi đã tô vôi lên đó, và ta diệt nó sát đất và làm cho các nền nó bày ra trơ trụi. Vậy, tường sẽ sụp xuống, và các ngươi sẽ bị diệt hết thảy ở giữa nó. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 15 Vì ta sẽ huỷ diệt bức tường đương cơn giận và kẻ nào tô vôi lên đó. Ta sẽ nói với ngươi rằng: “Tường chẳng còn nữa, kẻ tô vôi cũng vậy —
\v 16 tức là các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, những ai nói tiên tri về Giê-ru-sa-lem và kẻ nào có những sự hiện thấy về bình an cho thành ấy. Nhưng chẳng có bình an chi hết — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 17 Vậy, hỡi con người, hãy hướng mặt nghịch cùng con gái của dân sự ngươi, kẻ nào nói tiên tri theo ý riêng mình, và hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng.
\v 18 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những phụ nữ nào thêu thứ bùa mê đeo trên đầu của họ và may voan đeo trên đầu dù là kích cỡ nào, dùng để săn linh hồn. Lẽ nào các ngươi săn dân ta rồi cứu lấy chính mạng sống các ngươi sao?
\s5
\v 19 Các ngươi báng bổ ta giữa vòng dân sự ta vì mấy nắm mạch nha, mấy miếng bánh vụn, để giết những người nào sẽ không đáng chết, và để bảo tồn sinh mạng của những kẻ không đáng sống, vì cớ lời lẽ dối trá của các ngươi nói cùng dân sự ta, những người đã nghe các ngươi nói.
\s5
\v 20 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng các thứ bùa thêu mà các người dùng để gài bẫy sinh mạng dân sự giống như thể họ là loài chim vậy. Thực vậy, ta sẽ tước chúng ra khỏi cánh tay các ngươi; và những ai các ngươi đã bẫy họ giống như các loài chim — ta sẽ thả họ đi.
\v 21 Ta cũng sẽ xé khăn voan các ngươi rồi giải cứu dân ta ra khỏi tay các ngươi, để chúng nó sẽ không bị bẫy trong tay các ngươi nữa. Và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 22 Vì các ngươi làm nãn lòng người công bình với lời lẽ dối trá, mặc dù ta không muốn họ phải ngã lòng, và vì các ngươi khích lệ thay vì hành động với kẻ dữ hầu cho nó không xây bỏ đường xấu mình để cứu lấy mạng sống của nó —
\v 23 vì cớ đó, các ngươi sẽ không còn có những sự hiện thấy giả dối, hay đưa ra những lời tiên đoán phỉnh phờ nữa, vì ta sẽ cứu dân ta ra khỏi tay các ngươi. Và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Một vài trưởng lão kia của Y-sơ-ra-ên đến cùng ta, ngồi trước mặt ta.
\v 2 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta như vầy:
\v 3 “Hỡi con người, những kẻ nầy mang thần tượng mình ở trong lòng họ và đặt trước mặt mình hòn đá vấp chơn tội lỗi của họ. Lẽ nào ta để cho chúng nó cầu hỏi ta một chút gì sao?
\s5
\v 4 Vì lẽ đó, hãy loan báo điều nầy cho họ, hãy nói cùng chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hễ người nào trong nhà Y-sơ-ra-ên mang thần tượng mình trong lòng, hay kẻ nào đặt vầng đá vấp chơn tội lỗi mình trước mặt mình, và người ấy đến cùng nhà tiên tri — thì ta, Đức Giê-hô-va sẽ trả lời cho nó tuỳ theo số thần tượng đông nhiều của nó.
\v 5 Ta sẽ làm như vậy hầu cho ta bắt được nhà Y-sơ-ra-ên từ trong tấm lòng của họ vì đã xa lánh ta qua các hình tượng của chúng nó.
\s5
\v 6 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy ăn năn và xây khỏi hình tượng của các ngươi! Hãy xây mặt các ngươi khỏi mọi sự gớm ghiếc của các ngươi!
\s5
\v 7 Vì mỗi người từ nhà Y-sơ-ra-ên và từng khách lạ trú ngụ trong Y-sơ-ra-ên, họ lìa bỏ ta, họ mang thần tượng mình ở trong lòng và đặt vầng đá vấp phạm tội lỗi mình trước mặt mình, và ai đến cùng nhà tiên tri để tìm kiếm ta — Ta, Đức Giê-hô-va, chính ta sẽ trả lời cho nó.
\v 8 Vậy, ta sẽ sấp mặt lại nghịch cùng người ấy, khiến người thành một dấu và một câu châm ngôn, vì ta sẽ dứt bỏ người ấy khỏi giữa dân ta; và các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 9 Nếu một tiên tri bị gạt mà thốt ra sứ điệp, khi ấy ta, Đức Giê-hô-va, sẽ dối gạt tiên tri ấy; ta sẽ chìa tay ra nghịch cùng người ấy và diệt nó khỏi giữa dân Y-sơ-ra-ên ta.
\v 10 Và họ sẽ mang lấy tội lỗi của chính họ; tội lỗi của vị tiên tri sẽ y như tội lỗi của kẻ cầu hỏi từ nơi người.
\v 11 Vì cớ điều nầy, nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng còn xa lánh mà không theo ta nữa, chúng cũng không làm ô uế mình nữa do các quá phạm của chúng. Chúng nó sẽ là dân ta, và ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 12 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 13 “Hỡi con người, khi một đất phạm tội nghịch cùng ta đến nỗi ta chìa tay ra nghịch cùng nó và bẻ gãy gậy bánh của nó, giáng cho nó sự đói kém và dứt bỏ cả người và thú vật ra khỏi xứ;
\v 14 khi ấy, dầu có ba người nầy —Nô-ê, Đa-ni-ên, và Gióp — có mặt ở trong xứ, họ cũng chỉ cứu được mạng sống mình bởi sự công bình mình — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Nếu ta sai loài thú dữ trải qua trong đất và khiến nó ra hoang vu hầu cho nó trơ trọi chẳng ai đi qua nữa vì cớ loài thú ấy,
\v 16 thì dẫu trong xứ có ba người đó — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ không cứu được con trai con gái ruột của mình; chỉ mạng sống họ được cứu, nhưng đất sẽ ra hoang vu!
\s5
\v 17 Hoặc nếu ta sai gươm dao nghịch cùng xứ ấy, hãy nói: Hỡi gươm dao, hãy trải qua đất và dứt bỏ hết cả người và thú vật ra khỏi nó
\v 18 thì dẫu trong đất có ba người đó — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ chẳng cứu được thậm chí con trai con gái ruột của mình; chỉ mạng sống của chính họ mới được cứu mà thôi.
\s5
\v 19 Hoặc nếu ta sai ôn dịch đến trong xứ ấy và đổ cơn giận ta ra nghịch cùng nó qua việc làm đổ huyết, để dứt bỏ hết người và vật,
\v 20 thì dẫu có Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp trong xứ — Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng sống — họ sẽ chẳng cứu được con trai con gái ruột của mình, chỉ mạng sống của chính họ được cứu bởi sự công bình của họ mà thôi.
\s5
\v 21 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chắc chắn ta sẽ làm cho mọi việc ra tồi tệ bằng cách sai đến bốn sự sửa phạt —gươm dao, đói kém, thú dữ, và ôn dịch — nghịch cùng Giê-ru-sa-lem để dứt bỏ khỏi nó người và thú vật.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, kìa! Một số dân sót sẽ được chừa lại trong nó, những kẻ sống sót nào sẽ đi ra với con trai con gái. Kìa! Chúng sẽ đi ra đến cùng ngươi, và ngươi sẽ thấy đường lối cùng các việc làm của chúng nó thì sẽ thấy yên ủi về sự sửa phạt mà ta đã giáng trên Giê-ru-sa-lem, và về mọi sự khác mà ta đã sai đến nghịch cùng xứ.
\v 23 Những kẻ sống sót sẽ yên ủi ngươi khi ngươi nhìn thấy đường lối và việc làm chúng nó, thì ngươi sẽ nhìn biết mọi sự nầy ta đã làm nghịch cùng nó, ta đã làm ra chúng chẳng phải là vô ích đâu — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-
\s5
\c 15
\p
\v 1 Khi ấy, có lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta rằng:
\v 2 “Hỡi con người, cây nho so với bất kỳ cây nào khác, với nhiều nhánh ở giữa các cây rừng, thì tốt hơn ở chỗ nào?
\v 3 Có phải người ta lấy gỗ từ cây nho để tạo ra cái gì chứ? Hoặc có phải họ dùng nó làm đinh để treo vật gì được chăng?
\v 4 Hãy xem đi! Nếu nó bị ném vào lửa để làm củi, và nếu lửa đã thiêu hai đầu của nó và luôn khúc giữa, nó có còn tốt để tạo ra thứ gì khác được chăng?
\s5
\v 5 Hãy xem đi! Khi nó còn nguyên, chẳng dùng nó để tạo ra thứ chi được; chắc chắn là khi lửa đã thiêu đốt rồi, khi ấy nó chẳng còn dùng để tạo ra thứ chi có ích được nữa!
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Không giống như cây cối ở trong rừng, ta đã ban cây nho cho lửa làm củi; ta sẽ làm một thể ấy cho dân cư Giê-ru-sa-lem
\s5
\v 7 Vì ta sẽ để mặt ta nghịch cùng chúng nó. Dù chúng nó sẽ ra khỏi lửa, nhưng lửa sẽ thiêu đốt chúng nó; vì vậy ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta để mặt nghịch cùng chúng nó.
\v 8 Khi ấy ta sẽ biến đất nầy thành xứ hoang bỏ đi vì chúng nó đã phạm tội — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy báo cho Giê-ru-sa-lem biết về mọi sự gớm ghiếc của nó,
\v 3 và hãy công bố: Chúa Giê-hô-va phán điều nầy cùng Giê-ru-sa-lem: Khởi đầu và sự sanh ra của ngươi diễn ra trong xứ Ca-na-an; cha ngươi là một người A-mô-rít, còn mẹ ngươi là người Hê-tít.
\s5
\v 4 Vào ngày ngươi ra đời, mẹ ngươi không cắt rún ngươi, cũng không rửa ngươi trong nước hoặc xát ngươi bằng muối, hay chưa quấn tả quanh ngươi.
\v 5 Chẳng có mắt nào thương xót ngươi đặng làm một việc nào trong các việc đó cho ngươi vì lòng thương xót ngươi! Vào ngày ngươi chào đời, với sự gớm ghiếc dành cho đời sống ngươi, ngươi bị quăng ra giữa đồng trống.
\s5
\v 6 Nhưng ta đi ngang qua ngươi, và ta thấy ngươi quằn quại trong chính máu mình, vậy ta phán cùng ngươi trong huyết ngươi: “Hãy sống! ”
\v 7 Ta khiến ngươi lớn lên giống như một cây mọc trong đồng ruộng. Ngươi nẩy nở, lớn lên, và ngươi trở nên một món trang sức đẹp đẽ lắm. Ngực ngươi dậy lên và tóc ngươi dài ra, dầu ngươi bị trần truồng và ở lỗ.
\s5
\v 8 Ta đi ngang qua ngươi một lần nữa, ta nhìn thấy ngươi và hãy xem đi! Thì yêu đương đã đến với ngươi, vậy ta trải áo xống ta lên trên ngươi và che sự trần truồng ngươi. Khi ấy, ta đã thề cùng ngươi và đưa ngươi vào một giao ước — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và ngươi thuộc về ta.
\s5
\v 9 Vậy, ta dùng nước rửa ngươi và làm cho sạch máu vấy mình ngươi, rồi ta xức dầu cho ngươi.
\v 10 Ta mặc áo thêu cho ngươi và xỏ giày da vào chơn ngươi; ta quấn ngươi bằng vải gai mịn và che ngươi bằng lụa là.
\v 11 Kế đó, ta điểm trang ngươi bằng đồ trang sức và ta xỏ vòng vào tay, rồi mang kiềng vào cổ ngươi.
\v 12 Ta tra khoen nơi mũi rồi đeo hoa vào tai, và đội vương miện đẹp lên đầu ngươi.
\s5
\v 13 Vậy, ngươi được điểm trang với vàng và bạc, và ngươi mặc lấy vải gai mịn, vải lụa, và áo quần có thêu thùa; ngươi ăn thứ bột hạng nhất, mật ong và dầu rồi ngươi trở nên cực kỳ xinh đẹp, và ngươi đã trở thành một quận chúa.
\v 14 Danh tiếng ngươi nổi lên giữa các nước vì cớ sự đẹp đẽ ngươi, vì sự đẹp ấy là hoàn hảo với sự oai nghi mà ta đã ban cho ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Nhưng ngươi tin tưởng nơi chính sắc đẹp mình, và ngươi đã hành động giống như ả điếm vì cớ tiếng tăm ngươi; ngươi tỏ ra các hành động đĩ điếm trên người nào đi ngang qua. Ngươi trở thành tài sản của những kẻ ấy!
\v 16 Khi ấy ngươi lấy quần áo mình rồi ngươi đến với họ ở các chùa miễu được trang hoàng với đủ loại màu sắc, và ngươi đã hành xử như ả điếm với họ. Đây là những điều không nên có! Điều ấy chẳng nên có!
\s5
\v 17 Ngươi đã lấy những đồ trang sức trọng thể bằng vàng và bạc mà ta đã ban cho ngươi, và ngươi làm cho mình các thứ giống như nam giới, và ngươi đã hành xử với chúng giống như ả điếm đã làm.
\v 18 Ngươi lấy quần áo có thêu thùa rồi đắp cho chúng nó, và ngươi lấy dầu và hương liệu của ta bày ra trước mặt chúng nó.
\v 19 Còn bánh của ta bằng bột nhất hạng, dầu và mật mà ta đã ban cho ngươi — ta cho ngươi ăn — ngươi đem bày ra trước mặt chúng nó để tạo ra mùi thơm tho. Điều nầy thật đã xảy ra! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 20 Khi ấy, ngươi bắt con trai con gái mà ngươi đã sanh ra cho ta, rồi ngươi dâng chúng nó làm của lễ cho các hình tượng để bị nuốt đi. Có phải các hành vi đĩ điếm của các ngươi là việc nhỏ mọn sao?
\v 21 Ngươi đã giết con cái ta, rồi dâng chúng nó lên làm của lễ bằng lửa cho các hình tượng.
\v 22 Trong mọi sự gớm ghiếc và các hành động đĩ điếm của ngươi, ngươi không tưởng đến những ngày ấu thơ, khi ngươi hãy còn trần truồng và ở lỗ cả người còn vấy máu của ngươi.
\s5
\v 23 “Khốn nạn! Khốn nạn cho ngươi! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — thêm vào mọi sự gian ác nầy,
\v 24 ngươi xây cho mình một chỗ đầy lễ lạc, rồi đã dựng lên một cái miễu ở từng chốn công cộng.
\s5
\v 25 Ngươi xây chùa miễu ở đầu từng con đường và làm cho sự đẹp đẽ ngươi ra gớm ghiếc, vì ngươi đã giang hai chân ra cho mọi người đi ngang qua và làm ra nhiều hành động đĩ điếm.
\v 26 Ngươi đã hành động giống như đĩ điếm với người Ai-cập, là kẻ lân cận ngươi có những ham muốn nhục dục mạnh mẽ, và ngươi đã phạm nhiều hành động đĩ điếm khiến ta phải nổi cơn thạnh nộ.
\s5
\v 27 Vậy, hãy nhìn đi! Ta sẽ đánh ngươi với bàn tay của ta và dứt bỏ đồ ăn của ngươi. Ta sẽ trao sự sống ngươi cho kẻ thù của ngươi, tức các con gái của dân Phi-li-tin, để khiến ngươi phải xấu hổ vì cớ lối sống dâm đảng của ngươi.
\v 28 Ngươi đã hành xử như gái điếm với người A-si-ri vì ngươi không lấy làm thoả mãn. Ngươi hành xử giống như gái điếm mà vẫn không lấy làm thoả mãn.
\v 29 Ngươi đã làm nhiều hành vi của đĩ điếm trong xứ của các thương buôn xứ Canh-đê, và thậm chí điều nầy đã không làm cho người thấy thoả mãn!
\s5
\v 30 Tại sao tấm lòng của ngươi yếu đuối dường ấy chứ? — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ngươi đã làm mọi sự nầy, những việc làm của đàn bà tà dâm không biết xấu?
\v 31 Khi ngươi dựng lên những chỗ lễ lạc của ngươi nơi đầu mỗi con đường và dựng lên các chùa miễu ở nơi công cộng, thực sự ngươi không phải là đứa điếm đĩ, một khi ngươi từ chối không chịu ai trả công cho các hành vi của mình!
\s5
\v 32 Ngươi là thứ đàn bà dâm đảng, ngươi tiếp người lạ thay vì chồng mình!
\v 33 Ngươi ta trả công cho từng ả điếm, nhưng ngươi dâng tiền công mình cho hết thảy tình nhân của ngươi và hối lộ chúng để đến với chúng từ khắp mọi nơi vì các hành vi đĩ điếm của ngươi.
\v 34 Vậy, có một sự khác biệt giữa ngươi và các người nữ khác kia, một khi chẳng có ai đến với ngươi đặng yêu cầu ngươi ngủ với họ. Thay vì thế, ngươi trả tiền cho họ! Không có ai trả tiền cho ngươi cả!
\s5
\v 35 Vì lẽ đó, hỡi ngươi, ả điếm kia, hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 36 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đã đổ ra sự dâm dục và phơi bày các chi thể riêng của ngươi qua các hành vi đĩ điếm của ngươi với hết thảy các tình nhân ngươi và với hết thảy các hình tượng gớm ghiếc của ngươi, và vì cớ huyết của con cái ngươi đã dâng cho các hình tượng ngươi;
\v 37 vì lẽ đó, nầy! Ta sẽ nhóm hết thảy tình nhân của ngươi mà ngươi đã gặp, hết thảy những kẻ ngươi yêu và mọi kẻ ngươi ghét, và ta sẽ nhóm chúng nó lại từ mọi phía đến nghịch cùng ngươi. Ta sẽ phơi bày các chi thể riêng của ngươi ra cho chúng thấy hết sự trần truồng của ngươi!
\s5
\v 38 Vì Ta sẽ sửa phạt ngươi vì sự tà dâm và sự đổ huyết ra, và ta sẽ giáng trên ngươi cơn thạnh nộ và sự ghen tương ta.
\v 39 Ta sẽ trao ngươi vào trong tay chúng nó hầu cho chúng nó sẽ quăng ngươi xuống những chỗ lễ lạc và phá đỗ các chùa miễu của ngươi, và chúng nó sẽ lột quần áo ngươi và tước hết đồ trang sức của ngươi; chúng nó sẽ để cho ngươi ở lỗ và trần truồng.
\s5
\v 40 Khi ấy, chúng nó sẽ đem một số dân đông đến nghịch cùng ngươi và lấy đá ném ngươi, và chúng sẽ dùng gươm xẻo ngươi.
\v 41 Và chúng sẽ đốt nhà ngươi và sẽ làm ra nhiều hành động phán xét ngươi trước mắt nhiều người nữ, vì ta sẽ đặt dấu chấm hết cho thái độ đĩ điếm của ngươi và ngươi sẽ không trả tiền công cho bất kỳ ai trong số chúng nữa.
\v 42 Khi ấy, ta sẽ thôi không giận ngươi nữa; cơn thạnh nộ ta sẽ lìa khỏi ngươi, vì ta đã vừa lòng, và sẽ không còn cưu giận nữa.
\s5
\v 43 Vì ngươi không nhớ những ngày mình còn thơ ấu khi ngươi khiến ta lay động với giận dữ về mọi việc nầy — kìa! Chính ta cũng đem sự sửa phạt đến cho cách xử sự ngươi giáng trên đầu ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — để ngươi sẽ không còn hành xử cách gian ác trong mọi lối gớm ghiếc của ngươi nữa!
\s5
\v 44 Nầy! Hễ người nào nói ra những câu châm ngôn về người, họ sẽ nói: “Mẹ nào, con nấy! ”
\v 45 Ngươi là con gái của mẹ ngươi, là kẻ chán hê chồng con mình; và ngươi là em gái các chị ngươi, họ đã chán hê chồng con mình. Mẹ ngươi là người Hê-tít, và cha ngươi là một người A-mô-rít!
\s5
\v 46 Chị ngươi là Sa-ma-ri cùng các con gái nó là những kẻ sống ở phương bắc, trong khi em gái ngươi là những kẻ sống ở phương nam của ngươi, tức là Sô-đôm cùng các con gái nó.
\s5
\v 47 Giờ đây, đừng bước theo các lối của chúng hay bắt chước theo các hành động gớm ghiếc của chúng, giống như thể đó là những việc nhỏ mọn. Thực vậy, ngươi còn tệ lậu hơn mọi sự mà chúng nó đã làm nữa.
\v 48 Như ta hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — Sô-đôm, em gái ngươi và con gái của nó, chưa phạm nhiều điều ác như ngươi và các con gái ngươi đã phạm!
\s5
\v 49 Kìa! Đây là tội lỗi của Sô-đôm em gái ngươi cùng các con gái nó: nó kiêu ngạo trong sự nhàn rỗi nó, vô tư và chẳng quan tâm đến bất cứ việc gì cả. Nó không trợ giúp cho tay kẻ nghèo nàn và thiếu thốn.
\v 50 Nó sống cao ngạo và phạm những hành vi gớm ghiếc trước mặt ta, vậy ta gạt bỏ chúng nó đi giống như ngươi đã thấy.
\s5
\v 51 Sa-ma-ri chưa phạm đến phân nửa tội lỗi mà ngươi đã phạm; thay vì thế, ngươi đã phạm nhiều sự gớm ghiếc hơn chúng nó đã phạm, và ngươi đã tỏ ra rằng các chị em của ngươi thì tốt hơn ngươi vì cớ mọi sự gớm ghiếc mà ngươi đã phạm!
\v 52 Đặc biệt là ngươi, tỏ ra chính sự xấu hổ ngươi; theo cách thức nầy thì ngươi đã tỏ ra rằng các chị em ngươi đã sống tốt hơn ngươi, vì cớ tội lỗi mà ngươi đã phạm trong các đường lối gớm ghiếc đó. Giờ đây, các chị em ngươi dường như tốt đẹp hơn ngươi. Đặc biệt là ngươi, tỏ ra chính sự xấu hổ của ngươi, vì trong đường lối nầy ngươi đã tỏ ra rằng các chị em ngươi đã sống tốt hơn ngươi.
\s5
\v 53 Vì ta sẽ phục hồi lại số phận của họ — số phận của Sô-đôm và các con gái nó, và số phận của Sa-ma-ri và các con gái nó; nhưng số phận của ngươi sẽ ở giữa chúng
\v 54 nó. Về việc tính sổ các sự nầy, ngươi sẽ tỏ ra sự xấu hổ của ngươi; ngươi sẽ bị sỉ nhục vì cớ mọi sự mà ngươi đã làm, và theo cách thức nầy ngươi sẽ trở thành một sự yên ủi cho chúng.
\v 55 Cũng vậy, các chị em gái ngươi, Sô-đôm và các con gái nó sẽ được phục hồi trở lại như khi xưa, và Sa-ma-ri cùng các con gái nó sẽ được phục hồi lại như tình trạng trước đây. Khi ấy, ngươi cùng các con gái ngươi sẽ được phục hồi lại như tình trạng trước đây.
\s5
\v 56 Sô-đôm em gái ngươi thậm chí không còn được nhắc tới bởi miệng ngươi trong những ngày ngươi sống kiêu ngạo,
\v 57 trước khi sự gian ác ngươi lộ ra. Nhưng giờ đây, ngươi là đối tượng của sự khinh chê cho các con gái Ê-đôm và cho hết thảy con gái Phi-li-tin ở chung quanh ngươi. Người ta thảy đều xem khinh ngươi.
\v 58 Ngươi sẽ tỏ ra sự xấu hổ ngươi và các hành động gớm ghiếc của ngươi — đây là lời công bố của Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 59 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đối xử ngươi y như ta đối xử với bất kỳ ai xem khinh lời thề mà người ấy thốt ra, người ấy đã phá vỡ giao ước.
\s5
\v 60 Nhưng chính ta sẽ nhớ lại giao ước ta đã lập với ngươi trong lúc ngươi còn thơ ấu, và ta sẽ lập một giao ước đời đời với ngươi.
\v 61 Khi ấy, ngươi sẽ nhớ lại mọi đường lối của ngươi và thấy xấu hổ khi ngươi tiếp nhận những chị em ngươi. Ta sẽ ban chúng cho ngươi làm con gái, nhưng không phải vì cớ giao ước của ngươi đâu.
\s5
\v 62 Chính ta sẽ lập giao ước ta với ngươi, và ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va!
\v 63 Vì cớ các việc nầy, ngươi sẽ nhớ lại mọi sự và thấy xấu hổ, cho nên ngươi chẳng còn mở miệng ra nữa vì cớ sự xấu hổ ngươi, khi ta đã tha thứ cho ngươi mọi điều mà ngươi đã làm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Lời Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy ra ra câu đố và nói một ví dụ cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Một con chim ưng lớn với hai cánh lớn và lông cánh thật dài, đầy lông, và có nhiều màu sắc đến Li-ban và lấy ngọn cây hương bách đi.
\v 4 Nó bẻ các nhành non rồi đem chúng đến xứ Ca-na-an; nó trồng nhành ấy trong một thành của các thương buôn.
\s5
\v 5 Nó cũng lấy một hột giống của xứ, và đem trồng nó chỗ đất dọn sẵn cho việc gieo giống. Nó trồng hột giống ấy bên cạnh dòng nước giống như cây liễu.
\v 6 Hột giống nứt mộng rồi trở thành một gốc nho phủ cả đất. Các nhánh nó hướng lên cao, và bộ rễ nó lan ra dưới đất. Vậy, nó trở thành một gốc nho và đâm tược nứt chồi.
\s5
\v 7 Nhưng có chim ưng lớn khác, đội cánh thật rộng và lông nhiều. Và kìa! Gốc nho nầy, bộ rễ của nó hướng về phía chim ưng, rồi nó đốc ra nhiều nhánh hướng về chim ưng từ chỗ nó được trồng để nó được tưới tiêu.
\v 8 Nó được trồng nơi đất tốt bên dòng nước lớn hầu cho nó đâm tược, ra trái, trở nên cây nho tốt.
\s5
\v 9 Hãy nói với dân sự: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cây nho ấy sẽ thạnh mậu sao? Chim ưng kia chẳng moi rễ nó rồi ngắt trái nó, hầu cho lá nó khô héo hết? Không cần có nhiều cánh tay mạnh, cũng không cần nhiều người để làm trốc rễ nó.
\v 10 Kìa, sau khi nó được trồng, nó có thạnh mậu không? Có phải lá nó héo đi đi gió đông đụng đến nó không? Nó sẽ hoàn toàn héo đi trong chính luống đất của nó”.
\s5
\v 11 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 12 “Hãy nói cùng nhà loạn nghịch: Có phải các ngươi không biết các việc nầy có nghĩa gì sao? Kìa! Nhà vua xứ Ba-by-lôn đã kéo đến Giê-ru-sa-lem rồi bắt vua và các quan trưởng nó và đem họ đi với mình về Ba-by-lôn.
\s5
\v 13 Thế rồi ông ta chọn một dòng dõi của hoàng tộc, lập giao ước với người, và buộc người phải thề. Và ông ta đem hết những người có quyền lực ra khỏi xứ,
\v 14 đặng cho nước phải suy yếu đi và không tự dấy lên được. Bằng cách giữ giao ước mình, xứ sẽ tồn tại.
\s5
\v 15 Nhưng vua của Giê-ru-sa-lem nổi loạn chống lại ông ta bằng cách sai các sứ thần mình đến Ai-cập xin giúp ngựa và quân đội. Liệu người có thành công hay không? Người thực hiện các việc nầy có thoát được không? Nếu người vi phạm giao ước, người có thoát được không?
\v 16 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — người chắc chắn sẽ chết trong xứ của nhà vua đã lập người làm vua, là vua đã xem khinh lời thề mình và người đã phá vỡ giao ước của mình. Người sẽ chết tại giữa Ba-by-lôn.
\s5
\v 17 Còn Pha-ra-ôn với quân đội hùng mạnh của mình và tập trung nhiều lính chiến sẽ không bảo vệ người tại chiến trường, khi quân đội Ba-by-lôn đắp lũy dựng đồn để hủy diệt nhiều người.
\v 18 Vì nhà vua đã xem khinh lời thề của mình bằng cách phá vỡ giao ước. Kìa, người đã giơ tay mình ra thề rồi, nhưng người đã làm mọi sự ấy. Nó chắc không thoát khỏi.
\s5
\v 19 Vì lẽ đó — Chúa Giê-hô-va phán như vầy —như ta là hằng sống, có phải nó xem khinh lời thề ta và phá vỡ giao ước ta không? Ta sẽ giáng sự sửa phạt lên đầu nó!
\v 20 Ta sẽ giăng lưới ta phủ lên nó, và nó sẽ mắc vào lưới mà ta đã săn. Khi ấy ta sẽ đem nó qua Ba-by-lôn và thi hành sự phán xét giáng trên nó ở đó về sự phản bội mà nó đã phạm khi nó phản ta!
\v 21 Và hết thảy những kẻ tị nạn trong quân đội nó sẽ ngã bởi gươm, và những kẻ nào còn sót lại sẽ bị tan rải khắp bốn hướng. Khi ấy, các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va; ta đã công bố, điều nầy sẽ xảy ra!
\s5
\v 22 Chúa Giê-hô-va phán điều nầy: Chính ta sẽ cất lấy phần cao nhất của cây hương bách, và ta sẽ trồng nó từ các nhánh của nó. Ta sẽ bẻ gãy nó, và chính ta sẽ trồng nó trên một hòn núi cao!
\v 23 Ta sẽ trồng nó trên đồi núi của Y-sơ-ra-ên để nó sẽ đâm nhánh và kết trái, rồi nó sẽ trở nên cây hương bách oai nghi hầu cho từng loài chim sẽ đến sống ở dưới nó. Chúng sẽ làm tổ nơi bóng mát của các nhánh cây.
\s5
\v 24 Khi ấy mọi cây cối của đồng ruộng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va. Ta đã hạ cây cao xuống; và ta khiến cây thấp cao lên! Ta đã làm khô héo cây tươi xanh; và ta làm cho cây khô tươi tốt lên; Ta đã công bố thì điều nầy sẽ xảy ra, và ta đã làm điều đó’”.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va lại đến và phán cùng ta:
\v 2 Các ngươi muốn nói gì chứ? Các ngươi dùng tục ngữ nầy về đất Y-sơ-ra-ên, và nói: Cha ăn trái nho chua, mà con ghê răng.?
\s5
\v 3 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chắc chắn sẽ chẳng còn có cơ hội nào cho các ngươi dùng câu tục ngữ nầy nữa trong Y-sơ-ra-ên.
\v 4 Kìa! Mọi linh hồn đều thuộc về ta! Và cũng một thể ấy, sự sống của cha, và sự sống của con: đều thuộc về ta! Người nào phạm tội sẽ chết!
\s5
\v 5 Đối với một người, nếu người sống công bình, tỏ ra sự ngay thẳng và công bình —
\v 6 nếu người không ăn ở các chùa miễu trên núi, và không ngước mắt trông các hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên — nếu người không làm nhục vợ kẻ lân cận mình, cũng không lại gần người nữ đang có tháng — thì người đó có phải là người công bình không?
\s5
\v 7 nếu người không ức hiếp ai, song thay vì thế trả của cầm lại cho kẻ mắc nợ — không cướp vật gì của ai, song thay vì thế ban bánh cho kẻ đói và mặc áo cho kẻ trần truồng;
\v 8 nếu người không cho vay lấy lời, không lấy nhiều lời quá — người biểu hiện sự công bình và tỏ ra thái độ trung tín giữa dân sự —
\v 9 nếu người bước theo luật lệ ta và vâng giữ mạng lịnh ta, hành xử cách trung tín — thì lời hứa cho người công bình là đây: Người sẽ sống! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Nhưng nếu con trai người có tánh bạo lực, nó làm đổ huyết và làm bất cứ điều nào trong những điều nầy —
\v 11 mặc dầu cha nó chẳng làm một việc nào trong các việc nầy — nhưng nếu con trai người ăn uống ở các chùa miễu trên núi và làm nhục vợ kẻ lân cận mình — thì ta có thể nói gì về người?
\s5
\v 12 nếu nó ức hiếp kẻ nghèo nàn thiếu thốn, nếu nó tước đoạt và cướp lấy không trả của cầm, nếu nó ngước mắt trông các hình tượng hay phạm các hành động gớm ghiếc;
\v 13 nếu người cho vay ăn lời và lấy lợi bất công, thì nó có đáng sống không? Nó sẽ không sống đâu! Nó đã phạm hết thảy các hành động gớm ghiếc nầy. Chắc chắn nó sẽ chết; và huyết nó sẽ đổ trên nó.
\s5
\v 14 Nhưng mà nầy! Nếu người ấy sanh con trai, con ấy nhìn thấy mọi tội lỗi cha mình đã phạm, và nếu nó kính sợ Đức Chúa Trời rồi không làm những việc như thế —
\v 15 nếu nó không ăn uống ở các chùa miễu trên núi, cũng không ngước mắt lên trông hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên — nếu nó không làm nhục vợ kẻ lân cận mình; thì ta có thể nói gì về người?
\s5
\v 16 nếu nó không ức hiếp ai, không lấy của cầm, hay không cướp của người ta, nhưng thay vì thế nó ban bánh cho kẻ đói và mặc áo cho kẻ trần truồng —
\v 17 nếu nó rút tay lại không xét đoán kẻ nghèo và không lấy lời hoặc lấy lợi bất công; nếu nó làm theo mạng lịnh ta và bước theo luật lệ ta, thì nó sẽ không chết vì tội lỗi của cha nó. Chắc chắn nó sẽ sống!
\s5
\v 18 Cha nó, khi người ức hiếp người khác bằng cách tống tiền và cướp đoạt anh em nó, và đã làm điều không nhơn đức giữa dân sự mình — kìa, nó sẽ chết trong sự gian ác nó.
\s5
\v 19 Nhưng các ngươi nói: Sao đứa con không gánh lấy cái ác của cha nó? Vì đứa con làm theo sự công bình và ngay thẳng và giữ hết thảy luật lệ ta; nó làm theo các việc ấy. Chắc chắn nó sẽ sống.
\v 20 Người nào phạm tội, người ấy sẽ chết. Con sẽ không mang lấy tội của cha, và cha sẽ không mang lấy tội của con. Sự công bình của người nào ăn ở ngay thẳng sẽ giáng trên chính mình người ấy, và sự gian ác của kẻ gian ác sẽ giáng trên chính mình người.
\s5
\v 21 Nhưng nếu kẻ ác xây khỏi mọi tội mà mình đã phạm, và vâng giữ mọi luật lệ ta và làm theo sự công bình và ngay thẳng, khi ấy chắc chắn người ấy sẽ sống và không chết đâu.
\v 22 Mọi sự quá phạm mà người đã phạm sẽ không bị nhớ lại nghịch cùng người. Người sẽ sống bởi sự công bình mà người đã làm.
\s5
\v 23 Có phải ta rất vui về cái chết của kẻ dữ không? — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và không vui khi người xây khỏi đường lối người hầu cho người được sống sao?
\s5
\v 24 Nhưng nếu người công bình xây bỏ sự ngay thẳng mình rồi phạm tội và làm theo những sự gớm ghiếc giống như bao sự gớm ghiếc mà kẻ dữ đang làm, khi ấy nó sẽ sống không? Hết thảy sự công bình mà nó đã làm sẽ không được nhớ đến khi nó phản ta trong sự bội phản của nó. Vậy, nó sẽ chết trong tội lỗi mà nó phạm phải.
\s5
\v 25 Nhưng các ngươi nói: Đường lối của Chúa không công bằng! Hãy lắng nghe, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Có phải đường lối ta bất công chăng? Đường lối các ngươi không phải là bất công sao?
\v 26 Khi người công bình xây bỏ sự công bình mình, và phạm tội rồi chết vì cớ ấy, thế thì nó sẽ chết trong tội lỗi mà nó đã phạm.
\s5
\v 27 Nhưng khi kẻ dữ xây bỏ sự dữ mình đã phạm và làm theo sự công bình ngay thẳng, khi ấy nó sẽ bảo vệ được sự sống của nó!
\v 28 Vì nó đã nhìn thấy rồi xây bỏ mọi sự quá phạm mà nó đã làm. Nó sẽ có sự sống; nó sẽ chẳng chết đâu!
\s5
\v 29 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nói: Đường lối của Chúa là không công bằng. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, đường lối của ta không công bằng ở chỗ nào? Và đường lối của các ngươi là không công bằng ở chỗ nào?
\v 30 Vì lẽ đó, ta sẽ phán xét từng người giữa vòng các ngươi theo mọi đường lối của nó, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đoán xét các ngươi, mỗi người theo việc làm của nó. — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — Hãy trở lại và xây bỏ mọi sự quá phạm của các ngươi hầu cho chúng sẽ không trở thành hòn đá vấp chơn tội lỗi nghịch cùng các ngươi.
\s5
\v 31 Hãy quăng xa khỏi các ngươi mọi sự quá phạm mà các ngươi đã làm; hãy làm cho mình một tấm lòng mới và một tâm thần mới.
\v 32 Vì, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, sao các ngươi lại muốn chết chứ? Vì ta không vui nơi cái chết của kẻ nào chết — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vậy hãy ăn năn mà sống!”
\s5
\c 19
\p
\v 1 “Hỡi ngươi! Hãy cất giọng ca thương nghịch cùng các cấp lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên,
\v 2 hãy nói: Ai là mẹ ngươi? Một sư tử cái, nó sống với sư tử đực; ở giữa bầy sư tử tơ, nó nuôi bầy con nó.
\v 3 Và nó nuôi một trong các con nó để trở nên một sư tử tơ, nó tập bắt mồi. Nó nuốt người ta.
\v 4 Khi ấy các dân nghe nói về nó. Họ bắt nó trong bẫy, rồi đưa nó đến đất Ê-díp-tô với móc nơi hàm.
\s5
\v 5 Khi sư tử cái trông chờ nó đã lâu không thấy nó trở về, nó mất sự trông cậy, vậy nó bắt con khác trong bầy rồi dưỡng nó thành một sư tử tơ.
\v 6 Con sư tử tơ nầy đi lại giữa bầy sư tử. Nó là một sư tử tơ, tập bắt mồi; và nó nuốt người ta.
\v 7 Khi ấy nó hãm hiếp các goá phụ rồi phá huỷ các thành; đất cùng mọi vật trong nó đều bị hoang vu, vì cớ tiếng gầm của nó!
\s5
\v 8 Nhưng các nước ở mọi miền chung quanh nghịch cùng nó; họ bủa lưới trên nó. Nó bị bắt trong bẫy.
\v 9 Họ nhốt nó trong một cái chuồng với móc hàm nó rồi đưa nó đến vua xứ Ba-by-lôn. Họ đem nó vào đồn lũy trên núi, hầu cho tiếng nó không còn nghe thấy nữa trên đồi núi Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 10 Mẹ ngươi giống như một cây nho được trồng trong máu ngươi bên dòng nước. Nó trịu những trái và đầy các nhánh vì cớ có nhiều nước.
\v 11 Nó có nhiều nhánh cứng để làm gậy cho kẻ cầm quyền, và chiều cao nó được tôn vinh giữa các nhánh sum sê.
\s5
\v 12 Nhưng gốc nho bị nhổ trong sự giận dữ rồi bị quăng xuống đất, và ngọn gió đông đã làm khô trái nó. Các nhánh cứng chắc của nó bị bẻ gãy và khô đi; lửa thiêu nuốt chúng!
\v 13 Bây giờ nó bị đem trồng nơi đồng vắng, trong một đất khô khan chẳng nước.
\s5
\v 14 Vì lửa ra từ các nhánh lớn của nó, thiêu nuốt trái nó. Chẳng còn có nhánh nào cứng chắc cho nó nữa, không có cây trượng nào để cai trị. Đây là bài ca thương và sẽ được hát lên như một bài ca thương”.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Năm thứ bảy, ngày mùng mười tháng năm, một số trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cầu hỏi Đức Giê-hô-va và họ ngồi trước mặt ta.
\s5
\v 2 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 3 “Hỡi con người, hãy công bố với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên và bảo chúng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi đến đặng cầu hỏi ta sao? Như ta là hằng sống, ta không muốn các ngươi cầu hỏi ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Hỡi con người, ngươi có muốn xét đoán chúng nó không, ngươi muốn xét đoán chúng nó không? Hãy cho chúng nó biết về những sự gớm ghiếc của tổ phụ chúng!
\v 5 Hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nhằm ngày ta đã chọn Y-sơ-ra-ên và dấy tay ta lên để thề cùng dòng dõi nhà Gia-cốp, ta tỏ mình cho chúng nó biết ta trong đất Ê-díp-tô, khi ta giơ tay lên thề cùng chúng nó. Ta phán: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi” —
\v 6 nhơn ngày đó ta giơ tay lên đưa ra lời thề với chúng rằng ta sẽ đem chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô đặng vào một đất mà ta cẩn thận chọn lựa cho chúng. Đây là đất đượm sữa và mật; đây là thứ trang sức đẹp nhất giữa vòng các đất!
\s5
\v 7 Ta phán cùng chúng: “Mỗi người phải ném bỏ những sự gớm ghiếc ra khỏi mắt nó và các hình tượng của xứ Ai-cập. Đừng tự làm ô uế mình; Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”.
\s5
\v 8 Nhưng chúng đã nổi loạn nghịch cùng ta và không bằng lòng nghe theo ta. Mỗi người không quăng bỏ những sự gớm ghiếc ra khỏi mắt mình cũng không lìa bỏ các hình tượng của xứ Ê-díp-tô. vì thế ta quyết rằng ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng, làm thoả mãn cơn giận ta giữa vòng chúng trong đất Ê-díp-tô.
\v 9 Ta đã hành động vì cớ danh ta, hầu cho danh ấy không bị báng bổ trước mắt các dân tộc mà chúng đang ở giữa đó. Ta tự làm cho chúng nhìn biết ta, trước mắt chúng, bằng cách đưa chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô.
\s5
\v 10 Vậy ta sẽ đưa chúng ra khỏi đất Ê-díp-tô và đem chúng ra nơi đồng vắng.
\v 11 Khi ấy, ta ban cho chúng luật lệ ta và khiến cho chúng nhìn biết các mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người ấy vâng theo chúng.
\v 12 Ta cũng ban cho chúng những ngày Sa-bát ta làm một dấu giữa mình ta và chúng, để chúng nó biết rằng ta là Đức Giê-hô-va là Đấng dâng chúng cho chính mình ta.
\s5
\v 13 Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nổi loạn nghịch cùng ta trong đồng vắng. Chúng không ăn ở theo lệ luật ta; thay vì thế, chúng chối bỏ mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người làm theo chúng. Chúng báng bổ các ngày Sa-bát ta nặng lắm, vì vậy ta phán ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó trong đồng vắng để diệt chúng đi.
\v 14 Nhưng ta đã hành động vì cớ danh ta hầu cho danh ấy không bị báng bổ trước mắt các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem chúng nó ra khỏi Ai-cập.
\s5
\v 15 Vậy, đích thân ta đã giơ tay ra thề cùng chúng nó trong đồng vắng rằng ta sẽ không đem chúng nó vào xứ mà ta sẽ ban cho chúng nó, là đất đượm sữa và mật, là xứ vinh hiển nhất trong mọi đất.
\v 16 Ta đã thề điều nầy vì chúng đã chối bỏ các mạng lịnh ta và không ăn ở theo lệ luật ta, và chúng báng bổ những ngày Sa-bát ta, một khi lòng chúng nó hướng theo các hình tượng chúng nó.
\v 17 Nhưng mắt ta có sự thương xót dành cho chúng vì cớ sự huỷ diệt chúng, vậy ta không làm tận tuyệt chúng nó trong đồng vắng.
\s5
\v 18 Ta đã phán cùng con trai con gái chúng nó trong đồng vắng: “Đừng ăn ở theo tập tục của cha mẹ các ngươi; đừng giữ theo lệ định của họ hay các ngươi tự báng bổ mình với các hình tượng.
\v 19 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi! Hãy ăn ở theo luật lệ ta; hãy giữ theo các mạng lịnh ta và tuân theo chúng!
\v 20 Hãy giữ những ngày Sa-bát ta ra thánh hầu cho chúng sẽ trở thành một dấu giữa ta và các ngươi, hầu cho các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”.
\s5
\v 21 Nhưng con trai con gái chúng nổi loạn nghịch cùng ta. Chúng không noi theo luật lệ ta hoặc không tuân giữ các mạng lịnh ta, bởi đó một người sẽ sống nếu người ấy tuân giữ chúng. Chúng nó báng bổ những ngày Sa-bát ta, vậy ta quyết định đổ cơn giận ta trên chúng nó để làm thoả mãn cơn thạnh nộ ta nghịch cùng chúng trong đồng vắng.
\v 22 Nhưng ta đã xây tay ta lại và đã hành động vì cớ danh ta, để danh ấy không bị báng bổ trước mắt của các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi.
\s5
\v 23 Đích thân ta cũng đã giơ tay lên thề cùng chúng nơi đồng vắng, ta thề rằng ta sẽ tan rải chúng giữa vòng các dân, ta sẽ phát tán chúng giữa các nước.
\v 24 Ta quyết định thực hiện điều nầy một khi chúng không vâng theo các mạng lịnh ta, và một khi chúng chối bỏ lệ luật ta, và báng bổ những ngày Sa-bát ta. Mắt chúng mong mỏi nhìn theo các hình tượng của tổ phụ chúng.
\s5
\v 25 Khi ấy, Ta cũng ban cho chúng những luật lệ chẳng lành, và các mạng lịnh bởi đó chúng không được sống.
\v 26 Ta làm cho chúng nó ra ô uế bởi của lễ chúng nó, khi chúng khiến từng con đầu lòng ra khỏi tử cung đưa qua lửa. Ta đã làm điều nầy làm cho chúng nó phải kinh khiếp để chúng nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 27 Vì lẽ đó, hỡi con người, hãy công bố cho nhà Y-sơ-ra-ên; hãy nói với chúng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tổ phụ các ngươi đã phạm thượng đối với ta bằng cách phản ta nghịch cùng ta. Chúng đã sống như thế theo cách nầy:
\v 28 khi ta đem chúng vào trong xứ mà ta đã giơ tay ra thề ban cho chúng, và khi chúng đã nhìn thấy mọi đồi cao cùng các cây rậm, khi ấy chúng dâng của lễ mình tại đó và chọc giận ta bằng các của lễ ở đó. Tại đó chúng cũng đốt các thức hương có mùi thơm, và đã đổ ra các lễ quán.
\v 29 Khi ấy, ta phán cùng chúng rằng: “Nơi cao nầy là gì mà các ngươi dâng của lễ ở đó? ” Thế là danh Ba-ma được gọi cho đến ngày nay.
\s5
\v 30 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Sao các ngươi tự làm ô uế mình với các đường lối của tổ phụ các ngươi? Và tại sao các ngươi hành xử như đĩ điếm, tìm theo những sự gớm ghiếc chứ?
\v 31 Vì khi các ngươi dâng lễ vật và khiến các con trai mình qua lửa, các ngươi tự làm cho mình ra ô uế với các hình tượng mình cho đến ngày nay sao? Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng lẽ ta để cho các ngươi cầu hỏi sao? Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta sẽ không để cho các ngươi cầu hỏi ta đâu!
\v 32 Suy nghĩ hình thành trong lý trí các ngươi sẽ thành ra sự thực. Các ngươi nói: “Chúng ta sẽ sống giống như các dân khác, giống như các dân trong những xứ khác, họ thờ lạy gỗ và đá”.
\s5
\v 33 Như ta là hằng sống Chúa Giê-hô-va — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chắc chắn ta sẽ trị vì trên các ngươi với một bàn tay mạnh sức, một cánh tay giơ lên, và cơn thạnh nộ sẽ đổ ra trên các ngươi!
\v 34 Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân khác và ta sẽ thâu các ngươi lại từ các nước giữa vòng họ mà các ngươi đã bị tan rải ra. Ta sẽ thực hiện điều nầy với bàn tay mạnh sức và với cơn thạnh nộ đổ ra.
\v 35 Khi ấy, Ta sẽ đem các ngươi vào trong đồng vắng của các dân, và tại đó ta sẽ đối mặt xét đoán các ngươi.
\s5
\v 36 Giống như ta đã xét đoán tổ phụ các ngươi ở đồng vắng đất Ê-díp-tô thể nào, ta cũng xét đoán các ngươi cũng một thể ấy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 37 Ta sẽ khiến các ngươi nếm gậy của ta, và ta sẽ đem các ngươi vào trong dây giao ước;
\v 38 Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi những kẻ loạn nghịch và những kẻ phạm pháp nghịch cùng ta. Ta sẽ đuổi chúng nó ra khỏi đất mà chúng đang trú ngụ trong vai trò dân ngoại, nhưng chúng nó sẽ không bước vào đất Y-sơ-ra-ên. Như vậy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 39 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, cũng vậy với các ngươi, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mỗi một người các ngươi nên đến cùng chính hình tượng của mình. Hãy thờ lạy chúng nếu các ngươi từ chối không chịu nghe ta, nhưng các ngươi không còn báng bổ danh thánh của ta với các lễ vật và các hình tượng của các ngươi.
\s5
\v 40 Vì trên hòn núi thánh của ta, trên đỉnh núi của Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên sẽ thờ lạy ta ở đó trong xứ. Tại đó ta sẽ đẹp lòng đòi hỏi của lễ các ngươi tại đó, và cũng đòi thuế hoa quả đầu mùa với hết thảy các vật thánh của các ngươi.
\v 41 Ta sẽ chấp nhận các ngươi như mùi hương khi ta đem các ngươi ra khỏi giữa các dân, và thâu các ngươi lại từ những nước mà các ngươi đã bị tan rải. Ta sẽ tỏ mình ra thánh giữa vòng các ngươi ở trước mắt các dân để họ xem thấy.
\s5
\v 42 Khi ấy, lúc ta sẽ đem các ngươi vào đất của Y-sơ-ra-ên, trong xứ mà ta đã giơ tay lên thề ban cho tổ phụ các ngươi, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\v 43 Lúc đó, các ngươi sẽ nhớ lại đường lối gian ác mình, và mọi việc làm các ngươi bởi đó tự làm ô uế bản thân mình, và các ngươi sẽ thù ghét bản thân mình trước chính mắt mình vì mọi sự dữ mà các ngươi đã phạm.
\v 44 Vậy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va khi ta thực hiện điều nầy vì cớ danh ta, chớ không theo đường lối gian ác và các việc làm đồi bại của các ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 45 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta,
\v 46 “Hỡi con người, hãy xây mặt về các xứ phía nam, rồi nói nghịch cùng phương nam; hãy nói tiên tri nghịch cùng rừng của Nê-giép.
\v 47 Hãy nói cùng rừng của Nê-giép: Hãy nghe lời công bố của Đức Giê-hô-va! Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy xem, ta sẽ nhen lửa giữa vòng các ngươi. Lửa sẽ thiêu nuốt hết từng cây xanh và từng cây khô giữa vòng các ngươi. Ngọn lửa hừng sẽ không bị dập tắt, mọi mặt từ phương nam cho đến phương bắc sẽ bị thiêu cháy.
\s5
\v 48 Khi ấy, mọi xác thịt sẽ nhìn thấy rằng Ta là Đức Giê-hô-va khi ta châm lửa và lửa ấy sẽ không hề bị dập tắt”.
\v 49 Lúc đó ta phán: “Than ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, họ nói về tôi: Nó chẳng phải là kẻ nói thí dụ sao? ’”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía Giê-ru-sa-lem, rồi nói nghịch với các nơi thánh; hãy nói tiên tri nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Hãy nói với đất Y-sơ-ra-ên: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Ta nghịch cùng ngươi! Ta sẽ rút gươm ra khỏi vỏ nó và chém bỏ cả người công bình và kẻ dữ khỏi giữa ngươi!
\s5
\v 4 Đối với ta, để dứt bỏ người công bình và kẻ dữ khỏi giữa ngươi, gươm của ta sẽ ra khỏi vỏ nó nghịch cùng mọi xác thịt từ nam đến bắc.
\v 5 Khi ấy, mọi xác thịt sẽ nhìn biết ta, Đức Giê-hô-va, đã rút gươm ra khỏi vỏ. Nó sẽ không trở vào nữa!
\s5
\v 6 Còn ngươi, hỡi con người, hãy than thở như lưng đã gãy! Trong sự cay đắng, hãy than vản trước mắt chúng nó!
\v 7 Khi ấy chúng sẽ hỏi ngươi: Ngươi than vản là vì việc gì chứ? Lúc đó, ngươi sẽ nói: Vì cớ các tin tức đang tới đến, vì mọi lòng đều tan chảy, và mọi tay đều sẽ yếu đuối! Từng tâm thần đều sẽ hao mòn, và từng đầu gối đều nhũn ra như nước. Kìa! tin tức ấy đến và nó sẽ là như vầy đây! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 8 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 9 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri đi, hãy nói: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy nói: Gươm! Gươm! Gươm ấy rất bén nhọn và bóng láng!
\s5
\v 10 Gươm ấy nhọn để lao vào một cuộc chém giết lớn! Gươm ấy bóng láng để giống như chớp nhoáng. Chúng ta có nên vui mừng nơi cây trượng của con ta chăng? Gươm hầu đến ghét bỏ từng cây roi như thế!
\v 11 Vậy, gươm nầy được chìa ra để đánh bóng, rồi khi tay cầm lấy nó! Gươm được mài bén! Và nó được đánh bóng để giao cho tay kẻ sát thủ.
\s5
\v 12 Hỡi con người, hãy kêu cứu và than vản đi! Vì gươm đã đến trên dân ta! Các cấp lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên họ sẽ bị quăng vào thanh gươm! Họ là dân sự ta, vậy, hãy vỗ bắp vế trong buồn rầu!
\v 13 Vì có sự thử thách, nhưng sẽ ra sao nếu cây trượng không còn nữa? — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 14 Giờ đây, hỡi con người, hãy nói tiên tri và đập hai tay vào nhau, vì gươm sẽ tấn công thậm chí đến lần thứ ba! Gươm dành cho những kẻ sẽ bị giết! Đây là gươm dành cho nhiều người sẽ bị giết, gươm đâm chúng nó ở khắp mọi nơi!
\s5
\v 15 Để làm cho lòng chúng nó tan chảy và thêm nhiều hòn đá vấp chơn, ta đã đặt ra gươm giết chóc nghịch cùng các cổng nó. Khốn thay! Gươm được làm ra giống như chớp nhoáng, đồ tể được tự do!
\v 16 Hỡi gươm! Hãy đánh phía bên phải! Hãy đánh phía bên trái! Hãy tới bất cứ đâu lưỡi gươm bén muốn tới.
\v 17 Vì ta cũng đập hai tay lại với nhau, và khi ấy ta đưa cơn giận đến với phần còn lại! Ta, Đức Giê-hô-va, công bố điều đó!”
\s5
\v 18 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 19 Bây giờ, hỡi con người, hãy chỉ định hai con đường cho gươm của vua nước Ba-by-lôn đến. Hai con đường ấy sẽ khởi sự trong cùng một đất, và gạch một dấu sẽ đánh dấu một trong hai con đường đó dẫn đến một thành kia.
\v 20 Hãy đánh dấu một con đường cho quân đội Ba-by-lôn đến tại Ráp-ba, thành của dân Am-môn. Hãy đánh dấu con đường kia dẫn quân đội đến xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, là thành có phòng thủ kiên cố.
\s5
\v 21 Vì vua xứ Ba-by-lôn sẽ dừng quân tại ngã ba, nơi tiếp giáp, để bói hầu có được một sứ điệp mang tính tiên tri. Vua ấy lắc các mũi tên để xin xâm rồi hỏi các hình tượng về phương hướng. Vua ấy sẽ xem xét một lá gan!
\v 22 Trong tay phải người sẽ là dấu hiệu chỉ về thành Giê-ru-sa-lem, vì vua ấy dùng máy đặng phá thành! Vì vua ấy mở miệng mình ra lịnh sự tàn sát bắt đầu! Vì vua ấy hô lên tiếng chiến tranh! Vì vua ấy dùng máy phá thành nghịch cùng các cửa thành! Vì vua ấy muốn đắp lũy và dựng lên các bức tường vây hãm!
\v 23 Dường như đó chỉ là một dấu hiệu vô dụng trước mắt những kẻ sống trong thành Giê-ru-sa-lem, những người đã đưa ra lời thề với người Ba-by-lôn! Nhưng nhà vua sẽ tố cáo chúng vi phạm hiệp ước để bao vây chúng!
\s5
\v 24 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì các ngươi đưa tội lỗi mình vào bộ nhớ của ta, các sự quá phạm của các ngươi sẽ bị bày ra! Tội lỗi các ngươi sẽ được thấy hết trong mọi hành động của các ngươi! Vì lý do nầy các ngươi sẽ nhắc cho mọi người nhớ rằng các ngươi sẽ bị bắt dẫn tù bởi tay kẻ thù các ngươi!
\s5
\v 25 Và ngươi, là vua gian ác, phạm thượng của Y-sơ-ra-ên, ngày phán xét ngươi đã đến, thì giờ phạm tội của ngươi đã kết thúc rồi,
\v 26 Chúa Giê-hô-va phán: Hãy lột mũ triều và cất bỏ vương miện đi! Mọi việc chẳng còn giống như trước nữa! Hãy tôn cao kẻ thấp hèn và hãy hạ người được tôn cao xuống!
\v 27 Ta sẽ khiến cho mọi sự ra đống đổ nát! Đống đổ nát! Đống đổ nát! Vương quyền sẽ chẳng còn có nữa, cho đến chừng nào Đấng có quyền ấy hiện đến. Khi ấy ta sẽ giao vương quyền đó cho người.
\s5
\v 28 Vậy ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri đi: Chúa Giê-hô-va phán như vầy với dân Am-môn về bối cảnh thê thảm hầu đến của chúng: Gươm, thanh gươm đã rút ra! Gươm được mài nhọn cho sự tàn sát để ăn nuốt, vậy nó sẽ loé lên như chớp!
\v 29 Đang khi các tiên tri thấy những khải thị giả dối, đang khi chúng lo làm các nghi thức dối trá cho các ngươi, gươm nầy sẽ đặt trên cổ kẻ gian ác, họ sắp sửa bị giết, ngày thăm phạt chúng nó đã đến và thì giờ tội lỗi của chúng sắp kết thúc rồi.
\s5
\v 30 Hãy tra gươm vào vỏ của nó. Trong chỗ tạo dựng của ngươi, trong đất mà ngươi ra đời, ta sẽ xét đoán ngươi! 31Ta sẽ đổ cơn giận ta trên ngươi! Ta sẽ thổi lửa thạnh nộ ta nghịch cùng ngươi và phó ngươi vào tay kẻ hung bạo, giỏi sự hủy diệt!
\v 31 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa! Huyết của ngươi sẽ nằm ở giữa đất. Người ta chẳng còn nhớ tới ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố mọi sự nầy! ’”
\s5
\v 32 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa! Huyết của ngươi sẽ nằm ở giữa đất. Người ta chẳng còn nhớ tới ngươi, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố mọi sự nầy! ’”
\s5
\c 22
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta phán rằng:
\v 2 “Bây giờ, ngươi, hỡi con người, ngươi sẽ phán xét chăng? Ngươi sẽ xét đoán thành huyết nầy chăng? Hãy làm cho người ta nhìn biết mọi sự gớm ghiếc của nó.
\v 3 Ngươi phải nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đây là thành phố đổ huyết ra ở giữa nó hầu cho thời thế nó sẽ đến; một thành tạo ra các hình tượng khiến bản thân nó ra ô uế!
\s5
\v 4 Ngươi phạm tội bởi huyết mà ngươi làm đổ ra, và bị làm cho ô uế bởi các hình tượng mà ngươi đã chế ra! Vì ngươi đã kéo những ngày lại gần và tiếp cận với những năm sau cùng của ngươi. Vì lẽ đó, ta sẽ khiến ngươi thành ra một lời quở trách cho các dân tộc và là trò cười nhạo cho bốn phương trời.
\v 5 Cả những người ở gần và cũng như ở xa sẽ chế giễu ngươi, hỡi ngươi là thành ô uế, với tiếng tăm khắp mọi nơi đều nhìn biết là đủ thứ lộn xộn!
\s5
\v 6 Kìa, các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên, mỗi người với quyền lực của mình, đã đến cùng ngươi để làm huyết đổ ra!
\v 7 Họ không tôn trọng bậc làm cha làm mẹ ở trong ngươi, và họ thực hiện sự áp bức trên các dân ngoại ở giữa ngươi. Họ ngược đãi trẻ mồ côi cùng người góa bụa ở trong ngươi.
\v 8 Ngươi xem khinh các vật thánh ta và báng bổ những ngày Sa-bát ta!
\v 9 Những kẻ hay giết chóc đã đến giữa vòng ngươi để làm đổ huyết ngươi, và họ ăn uống trên các núi. Họ làm ra sự gian ác ở giữa ngươi!
\s5
\v 10 Sự trần truồng của một người cha được tỏ ra ở giữa ngươi. Họ ngược đãi người đàn bà ô uế ở giữa ngươi trong khi người có tháng.
\v 11 Những kẻ phạm các sự gớm ghiếc với vợ người lân cận mình, và những kẻ khác làm cho con dâu mình ra ô uế xấu hổ; những kẻ lạm dụng tình dục chị em ruột mình, là con gái của cha mình — mọi sự nầy đều có ở giữa ngươi.
\v 12 Những kẻ nầy nhận của hối lộ giữa vòng ngươi để làm đổ huyết ra. Ngươi đã lấy lời lãi và lấy quá nhiều lời lãi đó, ngươi đã gây thiệt hại cho kẻ lân cận mình qua sự áp bức, và ngươi đã quên ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Hãy xem đi! ta dùng tay mình đập vào lời lãi bất lương mà ngươi đã làm ra, và huyết đổ ra hiện có ở giữa ngươi.
\v 14 Lòng ngươi có yên chăng, với hai bàn tay ngươi có mạnh mẽ vào ngày mà đích thân ta sẽ xử lý với ngươi chăng? Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố ra điều nầy, thì sẽ làm trọn nó.
\v 15 Vậy, Ta sẽ tan rải ngươi giữa vòng các dân tộc và phân tán ngươi trong các nước. Theo cách nầy, ta sẽ làm diệt mất sự ô uế khỏi giữa ngươi.
\v 16 Vậy, ngươi sẽ bị ô uế trong con mắt của các dân tộc, và ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 17 Kế đó, lời của Đức Giê-hô-va đến cùng ta phán rằng:
\v 18 “Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên đã trở nên cặn bã đối với ta. Hết thảy chúng là cặn bã của đồng, thiếc, sắt và chì ở giữa ngươi. Chúng sẽ giống như là cáu cặn của bạc ở trong lò.
\v 19 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì hết thảy các ngươi đã trở nên giống như cáu cặn, vì vậy, kìa! Ta sẽ nhóm các ngươi lại ở giữa Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 20 Giống như người ta gom góp bạc, đồng sắt, và chì thiếc lại ở giữa lò, lửa được thổi lên nghịch cùng nó, ta sẽ làm cho các ngươi tan chảy. Vậy, ta sẽ nhóm các ngươi lại trong cơn giận và trong sự thạnh nộ ta. Ta sẽ nhóm các ngươi lại tại đó rồi làm cho tan chảy ra; vậy ta nhóm các ngươi lại trong cơn giận và trong sự thạnh nộ ta, và ta sẽ đặt ngươi ở đó và làm cho ngươi tan chảy ra.
\v 21 Vậy, ta sẽ nhóm các ngươi lại và thổi lửa nghịch cùng ngươi với lửa thạnh nộ ta hầu cho ngươi sẽ bị đổ ra ở giữa ngươi.
\v 22 Giống như làm cho bạc chảy ra ở giữa lò, thì các ngươi cũng sẽ tan chảy ra ở giữa thành ấy, và các ngươi sẽ nhìn biết ta, Đức Giê-hô-va đã đổ cơn giận ta nghịch cùng các ngươi”.
\s5
\v 23 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 24 “Hỡi con người, hãy nói cùng nó: Ngươi là một đất chẳng được sạch sẽ. Trong ngày thạnh nộ sẽ chẳng có mưa đâu!
\v 25 Có sự im ỉm của các tiên tri ở giữa nó, giống như sư tử hay gầm rống đang cắn xé một nạn nhân; chúng nuốt lấy sự sống và cướp lấy của cải quí báu! Chúng khiến ở giữa nó có nhiều goá phụ!
\s5
\v 26 Các thầy tế lễ nó thể hiện bạo lực đối với luật pháp ta, và họ báng bổ các vật thánh của ta. Họ không phân biệt giữa các vật thánh, và không dạy sự khác biệt giữa ô uế và thanh sạch. Họ nhắm mắt lại chẳng nhìn xem các ngày Sa-bát ta hầu cho ta bị nói phạm ở giữa họ!
\v 27 Các vương tử ở trong nó giống như bầy sói đang xé mồi của chúng. Họ làm đổ huyết ra và huỷ diệt sự sống, lấy lời lãi bất lương.
\v 28 Và các tiên tri nó dùng vôi tô trắng quét lên chúng; họ thấy những sự hiện thấy giả dối và loan báo giả dối cho chúng. Họ nói: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy” khi Đức Giê-hô-va không có phán!
\s5
\v 29 Dân trong xứ đã lấn lướt nhờ sự tống tiền và chiếm đoạt nhờ trộm cướp, và họ ngược đãi kẻ nghèo và người khốn khó, và ức hiếp người ngoại không có sự công bình.
\s5
\v 30 Vậy, ta đã tìm kiếm một người trong vòng chúng nó, người ấy sẽ xây lại tường thành, và người ấy sẽ đứng trước mặt ta tại chỗ sứt mẻ để ta sẽ không hủy diệt nó, nhưng ta chẳng tìm được một người nào.
\v 31 Vậy, ta đổ cơn thạnh nộ ta trên chúng! Ta sẽ dứt điểm chúng với lửa giận dữ của ta và đặt đường lối của chúng nó giáng trên đầu chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, có hai người nữ, là con gái của cùng một mẹ.
\v 3 Chúng nó làm điếm trong xứ Ê-díp-tô từ khi còn trẻ. Chúng làm điếm ở đó. Vú của chúng bị người ta bóp và chúng nó bị mất hoa con gái tại đó.
\v 4 Tên của chúng là Ô-hô-la — là chị — và Ô-hô-li-ba — là em. Khi ấy chúng nó thuộc về ta và sanh con trai con gái. Tên của chúng có ý nghĩa như vầy: Ô-hô-la là Sa-ma-ri, còn Ô-hô-li-ba là Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 5 Ô-hô-la làm điếm thậm chí khi nó đã thuộc về ta; nó tà dâm với tình nhân nó, vì dân A-si-ri họ đang thống trị,
\v 6 quan tổng đốc mặc áo tím, và các quan của hắn, thảy đều cường tráng và đẹp đẽ, hết thảy họ đều cỡi ngựa. Vậy, nó tự hiến thân làm điếm cho họ, cho những người đàn ông tốt nhất của A-si-ri!
\v 7 Và nó tự mình làm ô uế với mọi kẻ mà nó hành dâm, với mọi hình tượng của chúng nó mà vì đó nó đã hành dâm.
\s5
\v 8 Vì trong xứ Ê-díp-tô nó không bỏ thói làm điếm ấy, họ ngủ với nó khi nó hãy còn là thiếu nữ trẻ, khi lần đầu tiên họ làm cho nó mất hoa con gái, khi họ lần đầu tiên chung chạ với nó. 9Vậy nên, ta đã phó nó trong tay tình nhân nó, tức là trong tay những người A-si-ri, mà nó đã thương yêu.
\v 9 Vì lẽ đó, ta phó nó vào trong tay của các tình nhân nó, vào trong tay của người A-si-ri, những kẻ nó làm điếm cho!
\v 10 Chúng lột truồng nó. Chúng bắt con trai con gái nó, và chúng dùng gươm giết nó, và nó mang xấu với những người nữ khác, vì chúng chuyển sự phán xét giáng trên nó.
\s5
\v 11 Em gái nó là Ô-hô-li-ba đã nhìn thấy việc nầy, nhưng nó còn dâm đảng và làm điếm thậm chí còn hơn cả chị nó nữa!
\v 12 Nó làm điếm cho người A-si-ri, các quan tổng đốc và quan cai trị ăn mặc sang trọng, hay cỡi ngựa! Hết thảy họ đều là những người cường tráng đẹp đẽ!
\v 13 Ta đã thấy nó cũng đã làm cho mình ra ô uế. Cùng một cách cho cả hai chị em.
\s5
\v 14 Khi ấy, nó còn thêm nhiều sự dâm đảng nữa! Nó nhìn thấy hình đàn ông được khắc trên tường, các nhân vật Canh-đê sơn son,
\v 15 thắt dây lưng quanh hông, với khăn trên đầu thả thòng xuống! Hết thảy họ đều là các quan chỉ huy đạo binh có xe ngựa, những người ra đời ở xứ Ba-by-lôn.
\s5
\v 16 Bao lâu mắt nó nom thấy họ, nó làm điếm cho họ, vì vậy nó sai sứ giả đến cùng họ trong xứ Canh-đê.
\v 17 Khi ấy, những người Ba-by-lôn đến cùng nó và lên giường dâm đảng với nó, và họ làm cho nó ra ô uế với mọi thứ dâm đảng của nó. Bởi những gì nó đã làm, nó bị kể là ô uế, vậy nó tự xây mình đi trong sợ gớm ghiếc.
\s5
\v 18 Nó thể hiện ra mọi cử chỉ dâm đảng mình và nó loả thể ra, vậy linh hồn ta đã xây khỏi nó, giống như linh hồn ta xây khỏi chị nó!
\v 19 Khi ấy, nó phạm thêm nhiều thứ dâm đảng, khi nó nhớ lại và bắt chước theo thuở son trẻ nó, khi nó làm điếm trong xứ Ê-díp-tô!
\s5
\v 20 Vậy, nó làm điếm cho các tình nhân nó, bộ phận sinh dục của những kẻ ấy giống như bộ phận sinh dục của loài lừa, dâm đảng thái quá như loài ngựa.
\v 21 Và, nó phạm lại sự dâm đảng của lúc son trẻ, khi mà người Ê-díp-tô bóp vú nó, vì hai vú nó còn đầy đặn!
\s5
\v 22 Vì lẽ đó, hỡi Ô-hô-li-ba, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ khiến những tình nhân ngươi nghịch cùng ngươi! Những kẻ mà ngươi đã chán chê, ta sẽ đem chúng nó đến từ bốn phương nghịch cùng ngươi!
\v 23 những người Ba-by-lôn và hết thảy người Canh-đê! Phê-cốt, Soa, và Coa! Và hết thảy người A-si-ri với chúng nó! Những người cường tráng đẹp đẽ! Các quan tổng đốc và quan cai trị, hết thảy họ đều là quan trưởng và hạng người có tiếng tăm! Hết thảy đều cỡi ngựa!
\s5
\v 24 Chúng nó sẽ đến nghịch cùng người với các thứ vũ khí, và với xe có nhiều toa, cùng một đoàn dân đông! Chúng nó dùng những thuẫn lớn nhỏ, và mão trụ vây chung quanh ngươi! Ta sẽ giao cho chúng cơ hội trừng phạt ngươi, và chúng sẽ trừng phạt ngươi với mọi hành động của chúng!
\v 25 Vì ta sẽ thả cơn giận ta giáng trên ngươi, và chúng nó sẽ xử ngươi bằng sự giận dữ! Chúng nó sẽ cắt mũi và tai ngươi, và kẻ còn sót lại của ngươi sẽ ngã bởi gươm! Chúng nó sẽ bắt con trai con gái ngươi, hầu cho dòng dõi ngươi sẽ bị lửa nuốt mất!
\s5
\v 26 Chúng nó lột truồng ngươi và tước hết đồ ngươi trang sức!
\v 27 Vậy ta sẽ cất bỏ lối sống xấu hổ khỏi ngươi và lối sống đỉ điếm của ngươi từ xứ Ê-díp-tô. Ngươi sẽ không còn ngước mắt ngó theo chúng nó với ao ước nữa, và ngươi sẽ chẳng còn nghĩ đến Ê-díp-tô nữa!
\s5
\v 28 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ phó ngươi vào trong tay những kẻ mà ngươi ghét, giao ngươi vào trong tay những kẻ mà ngươi ngảnh mặt đi!
\v 29 Chúng sẽ xử ngươi theo cách gớm ghét; chúng sẽ tước hết mọi của cải ngươi rồi bỏ ngươi trong trơ trụi trần truồng. Nổi xấu hổ trần truồng của việc ngươi làm điếm sẽ bị bày ra, lối sống đầy xấu hổ của người và thói dâm đãng của ngươi!
\s5
\v 30 Những việc nầy sẽ được làm ra cho ngươi trong việc ngươi ăn ở như gái điếm, dâm đảng theo các dân, bởi đó ngươi bị ô uế với hình tượng chúng nó.
\v 31 Ngươi đã ăn ở theo cách của chị ngươi, vậy nên ta sẽ trao cái chén trừng phạt của nó vào trong tay ngươi.
\s5
\v 32 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi sẽ uống cái chén của chị ngươi, cái chén ấy sâu và rộng; cái chén ấy chứa được rất nhiều — ngươi sẽ trở thành đối tượng bị chê cười nhạo báng!
\s5
\v 33 Ngươi sẽ phải say sưa và buồn rầu lớn lắm, cái chén kinh khiếp và phá tán! Đây là cái chén của Sa-ma-ri chị ngươi!
\v 34 Ngươi sẽ uống cái chén ấy và phải uống cạn; khi ấy ngươi sẽ đập vỡ chén ấy rồi lấy mảnh vở nó mà rạch vú ngươi. Vì ta đã công bố điều đó! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 35 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đã quên ta và quăng ta ra sau lưng ngươi, vậy ngươi cũng phải mang lấy hậu quả của lối sống đầy xấu hổ và lối sống phi đạo đức về tình dục! ’”
\s5
\v 36 Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, ngươi có xét đoán Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba không? Hãy cho chúng nó biết về những sự gớm ghiếc của chúng,
\v 37 một khi chúng đã phạm tội tà dâm, và khi có huyết nơi tay chúng! Chúng nó đã phạm tội tà dâm, với các hình tượng mình và thậm chí chúng đã đưa con trai mà chúng đã sanh cho ta qua lửa để bị thiêu đốt đi!
\s5
\v 38 Và chúng cứ tiếp tục làm điều nầy cho ta: Chúng làm cho nơi thánh ra ô uế, và trong cùng một ngày chúng đã làm ô uế các ngày Sa-bát ta!
\v 39 Vì khi đã giết con cái mình dâng cho hình tượng, khi ấy chúng đến nơi thánh ta trong cùng ngày ấy đặng làm ô uế nó! Vì vậy, kìa! Đây là điều chúng nó đã làm ở giữa nhà của ta!
\s5
\v 40 Ngươi đã sai mời người đến từ xứ xa, các sứ giả được sai đến cùng họ — bấy giờ kìa! Thực sự họ đã đến, vì họ mà ngươi phải tắm rửa, vẽ mắt và trang sức cùng mình.
\v 41 Và ngươi lên giường đẹp đẽ và trước bàn ăn đã dọn sẵn. Khi ấy, ngươi đặt hương liệu và dầu ta lên bàn ấy!
\s5
\v 42 Vậy, có tiếng của đám đông ở với ngươi, họ sống với nhiều lo toan, và có nhiều kẻ say sưa được đưa đến từ đồng vắng với những kẻ chẳng ra gì cả. Chúng nó đeo vòng nơi tay ngươi, và đội vương miện lên đầu ngươi.
\s5
\v 43 Khi ấy, Ta nói về kẻ kiệt lực bởi các hành động dâm đãng: Bây giờ chúng sẽ gian dâm với nó, và nó sẽ hành đâm với chúng.
\v 44 Khi ấy chúng đến ngủ với nó như chúng đến cùng bất cứ gái điếm nào; đồng thời chúng ngủ với Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba, là những người nữ tà dâm!
\v 45 Nhưng những người công bình sẽ đoán xét chúng phải bị trừng phạt vì tà dâm và sự trừng phạt cho những kẻ làm đồ huyết ra, một khi chúng phạm tội tà dâm và có huyết trong tay chúng.
\s5
\v 46 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ dấy lên một đạo quân nghịch cùng chúng rồi phó chúng phải bị kinh khiếp và bị bóc lột.
\v 47 Khi ấy, đạo quân đó sẽ ném đá chúng và dùng gươm giết chúng. Họ sẽ giết con trai con gái chúng nó rồi lấy lửa đốt nhà chúng!
\s5
\v 48 Vì ta sẽ cất bỏ lối ăn ở đầy xấu hổ ra khỏi đất và kỷ luật hết thảy những người đàn bà hầu cho hết thảy họ sẽ không còn ăn ở giống như gái điếm nữa.
\v 49 Vậy chúng sẽ đưa lối sống xấu hổ kia ra nghịch cùng ngươi. Ngươi sẽ mang lấy tội lỗi ngươi với các hình tượng ngươi, bởi cách thức nầy các ngươi sẽ nhìn biết rằng ta là Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Một lần nữa, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta vào năm thứ chín, tháng thứ mười, ngày mùng mười trong tháng:
\v 2 “Hỡi con người, hãy ghi chép tên ngày nầy, chính ngày nầy; cũng chính ngày nầy vua Ba-by-lôn đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Hãy nói một câu tục ngữ nghịch cùng nhà loạn nghịch nầy, một thí dụ nói cùng họ: `Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy dùng nồi luột! Hãy dùng nó! Cũng hãy đổ nước vào trong nồi đó!
\v 4 Hãy sắp các miếng thức ăn vào trong nồi, từng miếng một — thịt đùi và thịt vai, hãy chất xương tốt nhứt vào nồi.
\v 5 Hãy chọn con tốt nhứt trong bầy rồi và luột xương ấy; hãy đun cho sôi, và cũng luột xương ở giữa nồi.
\s5
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành của huyết, cái nồi luột sôi bị gỉ ở trong, gỉ hãy còn ở trong đó chưa rửa sạch! Hãy lấy từng miếng thịt ra khỏi đó, nhưng đừng bắt thăm về thịt ấy.
\s5
\v 7 Vì máu nó ở giữa nó! Nó đặt thịt lên chỗ đá bóng láng; nó không bày thịt ra trên đất để bụi che lấp đi,
\v 8 nó làm cho cơn giận dấy lên để báo thù! Ta đặt huyết nó lên chỗ đá bóng láng để không ai có thể che đậy nó được!
\s5
\v 9 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành hay đổ máu! Ta cũng sẽ chất một đống củi lớn!
\v 10 Hãy thêm củi đi! Hãy nhóm lửa lên! Hãy luột thịt cho lâu, để khô nước! Rồi để cho xương bị xém đi.
\s5
\v 11 Khi ấy, hãy đặt cái nồi không lên mớ than lửa đỏ, để hâm nóng đồng nó, nhờ vậy sự ô uế ở bên trong sẽ tan chảy ra, chất gỉ nó bị thiêu đốt hết.
\v 12 Nó bị yếu đi vì mệt nhọc, nhưng ten rét chưa ra khỏi nó bởi lửa.
\s5
\v 13 Cách ăn ở xấu hổ của ngươi nằm trong sự ô uế của ngươi, vì ta làm cho ngươi được sạch, nhưng ngươi vẫn còn dơ dáy. Ngươi vẫn không ra khỏi sự ô uế ngươi cho tới chừng cơn giận ta lìa khỏi ngươi.
\s5
\v 14 Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố ra điều đó, nó sẽ xảy ra, và ta sẽ thực hiện nó! Ta sẽ không lui đi, ta sẽ không nghỉ ngơi về việc ấy. Theo mọi đường lối cũng như các việc làm của ngươi, ta sẽ phán xét ngươi! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 15 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 16 “Hỡi con người, kìa! Ta dùng dịch lệ cất sự ham muốn khỏi mắt ngươi, nhưng ngươi chẳng than vãn cũng chẳng khóc lóc, và nước mắt ngươi chẳng chảy ra.
\v 17 Hãy than thầm đi. Chớ cư tang cho kẻ chết. Hãy quấn khăn lên đầu ngươi và xỏ giày vào chân, nhưng chớ trùm tóc lại hay ăn bánh của những kẻ than khóc vì mất vợ mình”.
\s5
\v 18 Vậy, ta nói cùng dân sự lúc sáng ngày, rồi vợ ta ngã chết lúc ban chiều. Và ta đã làm y như lời đã truyền cho ta lúc ban sáng.
\s5
\v 19 Dân sự hỏi ta: “Ngươi sẽ không nói cho chúng ta biết mọi sự nầy có nghĩa gì, những việc mà ngươi đang làm đó? ”
\v 20 Vậy ta đáp cùng họ: “Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 Hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Sự kiêu ngạo về sức lực, sự ham muốn của mắt, và tư dục ngươi đang làm ô uế nơi thánh ta! Vậy, các con trai và con gái các ngươi mà các ngươi đã để lại sẽ ngã bởi gươm.
\s5
\v 22 Khi ấy, các ngươi sẽ làm y như ta đã làm: các ngươi không trùm tóc lại, không ăn bánh của những kẻ đang than khóc!
\v 23 Thay vì thế, khăn các ngươi sẽ để yên trên đầu, và giày các ngươi sẽ mang luôn dưới chân; các ngươi sẽ không than vãn không khóc lóc, vì các ngươi sẽ bị hao mòn trong tội ác mình, và mỗi người sẽ than vãn vì anh em mình.
\v 24 Vậy, Ê-xê-chi-ên sẽ là một dấu cho các ngươi, giống như mọi sự nó đã làm, các ngươi sẽ làm khi sự nầy xảy đến. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 25 “Còn ngươi, hỡi con người, nhằm ngày ta bắt lấy chùa miễu chúng nó, là sự vui vẻ, sự kiêu ngạo, và thứ chúng nom thấy và ham muốn — và khi ta cất bỏ con trai và con gái chúng nó —
\v 26 trong ngày đó, kẻ đi trốn đến cùng các ngươi đặng cho các ngươi hay tin tức!
\v 27 Trong ngày đó, miệng ngươi sẽ mở ra cùng với miệng của gã đó và các ngươi sẽ nói — các ngươi sẽ chẳng im lặng nữa. Các ngươi sẽ là một dấu cho chúng nó hầu cho chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt nghịch cùng dân Am-môn rồi nói tiên tri nghịch cùng chúng nó.
\s5
\v 3 Hãy nói với dân Am-môn, Hãy nghe lời của Chúa Giê-hô-va. Đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Ngươi đã nói: “A-ha! ” nghịch cùng nơi thánh ta khi nó bị báng bổ, và nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên khi nó bị hoang vu, và nghịch cùng nhà Giu-đa khi chúng bị đưa đi làm phu tù.
\v 4 Bởi cớ đó, kìa! Ta sẽ phó ngươi cho một dân ở phương đông làm của cải của chúng nó; chúng nó sẽ dựng trại ở giữa ngươi và dựng trại ở đó. Chúng nó sẽ ăn hoa quả của ngươi và chúng sẽ uống sữa của ngươi!
\v 5 Và ta sẽ khiến đồng cỏ Ra-ba thành chuồng lạc đà và dân Am-môn thành ruộng cho các bầy súc vật, như vậy các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi đã vỗ tay, dậm chân, và vui mừng với mọi sự khinh miệt ở trong lòng nghịch cùng đất Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Bởi cớ đó, kìa! Ta sẽ đánh ngươi bằng tay rồi ban ngươi làm chiến lợi phẩm cho các nước. Ta sẽ dứt ngươi khỏi các dân và ta sẽ khiến ngươi hư mất khỏi giữa các nước! Ta sẽ hủy diệt ngươi, và ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 8 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì Mô-áp và Sê-i-rơ nói: “Kìa! Nhà Giu-đa cũng giống như từng nước khác! ”
\v 9 Vì lẽ đó, kìa! Ta sẽ mở các bờ cõi của dân Mô-áp, khởi từ các thành của nó trên đường biên giới — thành lộng lẫy Bết-Giê-si-mốt, thành Ba-anh-Mê-ôn, và thành Ki-ri-a-ta-im —
\v 10 cho dân đông phương nào nghịch cùng dân Am-môn. Ta sẽ ban chúng làm của cải hầu cho dân Am-môn không được ghi nhớ giữa các dân nữa.
\v 11 Vậy, Ta cũng sẽ thi hành sự phán xét nghịch cùng Mô-áp, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 12 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: ‘Ê-đôm đã làm sự báo thù nghịch cùng nhà Giu-đa và đã phạm sai lầm trong việc ấy.
\v 13 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đánh Ê-đôm bằng tay ta và huỷ diệt từng người và vật ở đó. Ta sẽ khiến chúng ra một nơi đổ nát, vứt đi, từ Thê-man đến Đê-đan. Chúng nó sẽ ngã bởi gươm!
\s5
\v 14 Trong cách thức nầy, Ta sẽ thực hiện sự báo thù ta trên Ê-đôm bởi tay của dân Y-sơ-ra-ên ta, và họ sẽ đãi dân Ê-đôm tuỳ theo cơn giận ta và sự thạnh nộ ta. Vậy, chúng nó sẽ nhìn biết sự báo thù của ta! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Dân Phi-li-tin thực hiện sự báo thù theo lòng ghen ghét và từ trong lòng chúng đã tìm cách tiêu diệt Giu-đa rất nhiều lần.
\v 16 Vậy, đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Ta sẽ chìa tay ra nghịch cùng dân Phi-li-tin, và ta sẽ dứt bỏ những dân Kê-rê-thít và huỷ diệt dân sót sống dọc theo mé biển!
\v 17 Vì Ta sẽ thực hiện sự báo thù lớn nghịch cùng chúng nó với những hành động trừng phạt dữ dội, để chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ làm sự báo thù giáng trên chúng! ’”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Khi ấy là năm thứ mười một, nhằm ngày mùng một của tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, vì Ty-rơ đã nói nghịch cùng Giê-ru-sa-lem: “A-ha! Hai cánh cổng của dân sự đã vỡ nát rồi! Nó đã xây lại cùng ta; Ta sẽ được đầy dẫy khi nó bị đổ nát!
\s5
\v 3 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Hỡi Ty-rơ, ta nghịch cùng ngươi, và ta sẽ dấy nhiều nước lên nghịch cùng ngươi, như đại dương dậy sóng vậy!
\v 4 Chúng nó sẽ hủy phá các bức tường của Ty-rơ rồi xô-đổ các tháp của nó. Ta sẽ quét bụi nó đi và khiến nó giống như vầng đá trơ trụi.
\s5
\v 5 Nó sẽ thành ra một chỗ để phơi lưới ở giữa biển, một khi ta đã công bố điều nầy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — và nó sẽ trở thành chiến lợi phẩm cho các nước!
\v 6 Các con gái nó ở trong đồng ruộng sẽ bị giết bằng gươm, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 7 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ đem Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, nghịch cùng Ty-rơ từ phía Đông, là vua của các vua, với ngựa, xe cộ, lính kỵ! Một đoàn dân đông có nhiều người!
\v 8 Người sẽ dùng gươm giết các con gái của ngươi ngoài đồng ruộng và sẽ lập đồn đắp lũy nghịch cùng ngươi, và đưa thuẫn lên nghịch cùng ngươi!
\s5
\v 9 Người sẽ đặt máy phá vách thành của ngươi, và các công cụ người sẽ phá sập các tháp của ngươi!
\v 10 Người sẽ che phủ ngươi với bụi đất của nhiều xe ngựa! Các vách thành ngươi sẽ rúng động vì tiếng của kỵ binh và bánh xe do ngựa kéo khi người bước qua hai cánh cổng của ngươi, giống như cổng của thành bị tấn công!
\v 11 Người sẽ chà đạp trên các đường phố ngươi với móng của nhiều ngựa; người sẽ dùng gươm giết dân ngươi, và các trụ đá cứng cáp kia sẽ ngã xuống đất.
\s5
\v 12 Bằng cách thức nầy, họ sẽ tước hết sức lực ngươi và cướp hàng hóa ngươi! Họ sẽ phá sập vách thành ngươi và bầy ngựa chiến của ngươi cho đến khi đá, gỗ và bụi đất của ngươi phải nằm ở giữa các dòng sông.
\v 13 Vì ta sẽ dứt tiếng các bài ca của ngươi, và tiếng đàn cầm của ngươi chẳng còn ai nghe thấy nữa!
\v 14 Vì ta sẽ khiến ngươi thành ra vầng đá trơ trụi; ngươi sẽ trở thành một chỗ cho người ta phơi lưới. Ngươi sẽ không còn gượng dậy được nữa, vì ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều nầy! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng thành Ty-rơ: Có phải các hòn đảo rung rinh với tiếng sụp đổ của ngươi, và với tiếng than vãn của kẻ bị thương khi sự tàn sát ghê khiếp xảy ra ở giữa ngươi?
\v 16 Vì hết thảy các quan ở miền biển sẽ bước xuống khỏi ngai mình và cổi áo choàng ra và lột bỏ những áo có nhiều màu sắc của họ! Họ sẽ khoác lấy sự sợ hãi! Họ sẽ ngồi xuống đất, run rẩy luôn, và lấy làm kinh khiếp vì cớ ngươi!
\s5
\v 17 Họ sẽ vì cất giọng lên hát bài ca thương cho ngươi và nói cùng ngươi: Hỡi thành đã bị huỷ diệt, nơi ngươi có nhiều thuỷ thủ trú ngụ! Thành nổi tiếng là rất mạnh mẽ — giờ đây thành ấy đã ra khỏi biển! Và những người từng sống trong nó đặt sự khiếp sợ trong họ trên mọi dân nào sinh sống ở gần họ.
\v 18 Bây giờ các bờ biển run rẩy trong ngày ngươi sụp đổ! Các hòn đảo trong biển lấy làm khủng khiếp, vì ngươi đã chết mất.
\s5
\v 19 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta khiến ngươi trở nên một thành hoang vu, giống như các thành khác không có dân ở, khi ta dấy lên các vực sâu nghịch cùng ngươi, và khi các biển lớn che lấp ngươi,
\v 20 khi ấy, ta sẽ hạ ngươi xuống với những kẻ thời thượng cổ, giống như các dân khác sa xuống nơi thấp của đất; vì ta sẽ khiến ngươi sống trong những miền thấp nhất của đất như trong đống đổ nát thời thượng cổ. Vì cớ điều nầy, ngươi sẽ không còn trở lại vùng đất mà người ta sinh sống ở đó.
\v 21 Ta sẽ tra tai vạ trên ngươi, và ngươi sẽ chẳng còn tồn tại nữa. Người ta sẽ tìm kiếm ngươi, song chẳng có ai tìm gặp ngươi nữa — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va! ’”
\s5
\c 27
\p
\v 1 Một lần nữa lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Bây giờ ngươi, hỡi con người, hãy khởi sự một bài ca thương về thành Ty-rơ,
\v 3 và hãy nói cùng thành Ty-rơ: Ngươi là kẻ sống trong các cửa biển, buôn bán với các dân trong nhiều đảo, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Ty-rơ! Ngươi có nói: “Ta rất xinh tốt trọn vẹn!”
\s5
\v 4 Các đường biên giới của ngươi ở trong lòng biển; những kẻ xây dựng của ngươi đã làm cho sự xinh tốt ngươi được trọn vẹn.
\v 5 Họ đã ghép ván của ngươi với cây tùng lấy từ núi Hẹt-môn; họ lấy cây bách từ Li-ban đặng chế cột buồm cho ngươi.
\s5
\v 6 Họ làm cây chèo của ngươi bằng cây dẽ ở Ba-san; họ lấy gỗ hoàng dương của đảo Chíp làm ván lợp, và họ cẩn chúng bằng ngà voi.
\v 7 Buồm của ngươi là vải gai mịn có màu sắc dệt từ Ê-díp-tô giống như cờ xí của ngươi!
\s5
\v 8 Người nào sống trong Si-đôn và A-vát là bạn chèo của ngươi; những người khôn ngoan của Ty-rơ có mặt ở giữa ngươi; họ là hoa tiêu của ngươi.
\v 9 Những tay thợ kinh nghiệm cao đến từ Bíp-lô làm cho chỗ ghép nối được liền lạc; mọi tàu bè của biển cùng các thuỷ thủ ở giữa ngươi lo chuyên chở hàng hóa của ngươi!
\s5
\v 10 Người xứ Ba-tư, người Ly-đi, và Li-bi có mặt trong quân đội của ngươi, các lính chiến ngươi! Họ treo thuẫn và mão trụ trong ngươi; họ tỏ ra sự rực rỡ của ngươi!
\v 11 Những người xứ A-vát và Hê-léc trong quân đội ngươi đứng trên các vách thành chung quanh ngươi, và dân Gam-mát thì ở trên các tháp ngươi! Họ treo thuẫn quanh vách thành ngươi! Họ làm cho sự đẹp đẽ ngươi được trọn vẹn!
\s5
\v 12 Ta-rê-si là khách hàng của ngươi vì đủ mọi thứ của cải: bạc, sắt, thiếc, chì. Họ mua bán các thứ hàng hoá của ngươi!
\v 13 Gia-van, Tu-banh và Mê-siếc — buôn bán nô lệ và các thứ làm bằng đồng. Họ buôn bán hàng hoá với ngươi.
\s5
\v 14 Bết Tô-ga-ma cung ứng ngựa, ngựa chiến, và con la đổi lấy hàng hoá của ngươi.
\v 15 Những người của đảo Đê-đan là bạn hàng ngươi trên nhiều bờ biển. Hàng hoá nằm trong tay ngươi; họ đổi lại sừng, ngà voi và gỗ mun, như đồ cống nạp!
\s5
\v 16 A-ram là bạn hàng với nhiều sản phẩm của ngươi; họ cung ứng bích ngọc, vải màu, đồ thêu, vải gai mịn, ngọc trai, hồng ngọc mà đổi hàng của ngươi.
\v 17 Giu-đa và đất Y-sơ-ra-ên buôn bán với ngươi. Họ cung ứng lúa mì từ Min-nít, bánh ngọt, mật ong, dầu, và nhũ hương để đổi hàng hoá của ngươi.
\v 18 Đa-mách là lái buôn các sản phẩm ngươi, của cải ngươi đầy dẫy, và họ lấy rượu của Hên-bôn và lông chiên trắng ở Xa-ha mà đổi chác cùng ngươi.
\s5
\v 19 Vê-đan và Gia-van từ U-xa cung ứng cho ngươi hàng hoá đổi lấy sắt sáng, nhục quế, và xương bồ. Điều nầy trở nên hàng hoá cho ngươi.
\v 20 Đê-đan là bạn hàng của ngươi về các thứ vải hoa lót yên ngựa.
\v 21 A-ra-bi và mọi quan trưởng ở Kê-đa buôn bán với ngươi; họ cung ứng cho ngươi với chiên con, chiên đực, và dê đực.
\s5
\v 22 Những thương buôn ở Sê-ba và Ra-a-ma đến bán cho ngươi mọi thứ hương tốt nhất và mọi thứ đá quí; họ buôn vàng đổi lấy hàng hóa ngươi.
\v 23 Ha-ran, Can nê, và Ê-đen là thương buôn với ngươi, cùng với Sê-ba, A-sua và Kin-mát.
\s5
\v 24 Đây là các bạn hàng ngươi: áo màu tía và thêu, cùng các thứ vải, các thứ chăn nhiều màu sắc, thêu, và áo dệt trong thị trường ngươi.
\v 25 Tàu bè ở Ta-rê-si là phương tiện chuyên chở hàng hoá ngươi! Vậy, ngươi được đầy dẫy hàng hoá trong lòng biển!
\s5
\v 26 Các tay chèo của ngươi đưa ngươi vào các đại dương mênh mông; ngọn gió đông đã đập nát ngươi ở giữa biển.
\v 27 Sự giàu có, hàng hoá, các thứ buôn bán; thủy thủ, người đi biển, và thầy thợ đóng tàu; bạn hàng, hết thảy lính chiến ở với ngươi, cả đoàn dân đông — họ sẽ sa vào vực sâu của biển trong ngày huỷ diệt ngươi.
\s5
\v 28 Các thành nơi biển sẽ run rẩy nơi tiếng kêu của hoa tiêu ngươi.
\v 29 Hết thảy những kẻ cầm chèo sẽ xuống khỏi tàu của họ; những thủy thủ, từng người đi biển sẽ đứng trên đất.
\v 30 Khi ấy chúng nó sẽ làm cho ngươi nghe thấy tiếng của họ và kêu la cay đắng; họ sẽ vãi bụi đất lên đầu họ. Họ sẽ lăn lóc trong tro bụi.
\s5
\v 31 Họ sẽ cạo trọc đầu vì cớ ngươi và thắt lưng bằng bao gai, và họ sẽ khóc lóc cay đắng và họ sẽ kêu la vì ngươi.
\v 32 Họ sẽ cất tiếng ca thương vì ngươi và hát bài truy điệu về ngươi, ai giống như Ty-rơ, là thành bây giờ đã im ắng ở giữa biển?
\v 33 Khi hàng hóa ngươi từ bờ ra biển, nó làm thoả mãn nhiều dân; ngươi làm giàu cho các vua trên đất với của cải và hàng hoá nhiều của ngươi!
\s5
\v 34 Nhưng khi ngươi bị tan tác trên các biển, dưới nước sâu; hàng hoá ngươi và dân sự ngươi hết thảy đều đắm chìm!
\v 35 Hết thảy cư dân nơi bờ biển đều vì cớ ngươi mà sững sờ, và các vua chúng nó đều khiếp sợ! Mặt họ đều run rẩy!
\v 36 Các thương buôn trong dân chúng phỉ báng ngươi; ngươi trở nên một sự kinh khiếp, và ngươi sẽ không tồn tại nữa! ’”
\s5
\c 28
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói cùng vua của Ty-rơ rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì lòng ngươi rất ngạo mạn! Ngươi nói: Ta là một vì thần! Ta ngồi trên ngôi của các thần trong lòng các đại dương! ” Mặc dù ngươi là người chớ không phải là Thần, ngươi tưởng lòng ngươi giống như lòng của một vì thần;
\v 3 ngươi tưởng rằng ngươi khôn hơn Đa-ni-ên, và chẳng có sự mầu nhiệm nào làm cho ngươi phải ngạc nhiên!
\s5
\v 4 Ngươi tự mình làm giàu với sự khôn ngoan và thông sáng; và đã thâu chứa vàng bạc trong kho ngươi!
\v 5 Bởi tài lèo lách rất lớn và bởi sự buôn bán ngươi, ngươi đã nhân rộng sự giàu có mình, vậy lòng ngươi ngạo mạn vì cớ sự giàu có ngươi!
\s5
\v 6 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì lòng ngươi dâng cao lên giống như lòng của một vị thần,
\v 7 Vì lẽ đó, ta sẽ đem những người lạ đến nghịch cùng ngươi, những kẻ kinh khủng đến từ các nước khác! Và họ sẽ dùng gươm nghịch cùng vẻ đẹp của sự khôn khéo ngươi, và họ báng bổ sự rực rỡ của ngươi!
\s5
\v 8 Họ sẽ xô ngươi xuống hố, rồi ngươi sẽ chết cái chết của những kẻ chết trong lòng biển!
\v 9 Thực sự ngươi dám nói: “Ta là một vị thần” trước mặt kẻ đến giết ngươi sao? Ngươi là người chớ không phải là Thần, và ngươi sẽ sa vào tay của kẻ đâm ngươi!
\v 10 Ngươi sẽ chết cái chết của kẻ không chịu phép cắt bì bởi tay người ngoại, vì ta đã công bố điều đó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va! ’”
\s5
\v 11 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 12 “Hỡi con người, hãy làm một bài ca thương về vua Ty-rơ và hãy nói với người rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi là mẫu trọn vẹn, đầy sự khôn ngoan và tốt đẹp trọn vẹn!
\v 13 Ngươi vốn ở trong Ê-đen, là vườn của Đức Chúa Trời! Từng thứ đá quí phủ lên ngươi, là ngọc mã não, ngọc vàng lợt, và ngọc kim cương! Ngọc thủy thương, ngọc sắc biếc, và ngọc bích! Ngọc sắc chàm, ngọc sắc xanh, ngọc thông hành! Vàng lát giữa để các thứ đá nầy ở đúng vị trí trên ngươi! Chúng được sắm sẵn nhơn ngày ngươi mới được dựng nên để ngươi đeo chúng!
\s5
\v 14 Ta đặt ngươi trên hòn núi thánh như chê-ru-bin mà ta xức dầu để canh chừng nhân loại! Ta có mặt giữa các hòn đá quí mà ngươi bước đi trên đó.
\v 15 Ngươi có sự ngay thẳng kể từ ngày ngươi được dựng nên, cho đến lúc thấy sự bất công ở nơi ngươi.
\s5
\v 16 Nhân ngươi buôn bán thạnh lợi, ngươi đầy dẫy với bạo lực, vậy ngươi đã phạm tội! Ta đã xô ngươi như là vật ô uế xuống khỏi núi của Đức Chúa Trời và huỷ diệt ngươi, hỡi chê-ru-bin canh giữ kia, ra khỏi những hòn đá sáng như lửa!
\v 17 Lòng ngươi đã ngạo mạn với sự tốt đẹp ngươi; ngươi đã huỷ phá sự khôn ngoan vì sự rực rỡ của ngươi! Ta đã hạ ngươi xuống đất! Ta đã đặt ngươi trước mặt các vua để cho họ đều xem thấy ngươi.
\s5
\v 18 Vì cớ nhiều tội lỗi và sự buôn bán bất lương của ngươi, ngươi đã làm ô uế các nơi thánh ngươi! Vậy ta sẽ khiến lửa ra từ ngươi; nó sẽ thiêu đốt ngươi. Ta sẽ biến ngươi thành tro bụi ở trên đất trước mặt mọi kẻ đang nhìn vào ngươi.
\v 19 Hết thảy những kẻ biết ngươi giữa vòng các dân sẽ sững sờ về ngươi; họ sẽ lấy làm kinh khủng, và ngươi sẽ không còn tồn tại nữa! ’”
\s5
\v 20 Khi ấy Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi nghịch cùng Si-đôn và nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 22 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Si-đôn! Vì ta sẽ được tôn vinh ở giữa ngươi để dân sự ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va khi ta xét công bình nơi ngươi. Ta sẽ tỏ mình ra thánh nơi ngươi!
\s5
\v 23 Ta sẽ sai ôn dịch đến nơi ngươi và huyết nơi các đường phố ngươi, và giết chóc sẽ giáng xuống giữa ngươi. Khi gươm đến nghịch cùng ngươi từ bốn phương xung quanh, khi ấy ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va!
\v 24 Khi ấy, sẽ không còn có chà chuôm hay gai gốc gây đau đớn cho nhà Y-sơ-ra-ên từ bốn phía xung quanh nó, những kẻ xem khinh dân sự nó, bấy giờ chúng nó sẽ nhìn biết ta là Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 25 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta đã nhóm nhà Y-sơ-ra-ên lại từ giữa các dân mà chúng nó đã bị tan rải trong đó, và khi ta được biệt riêng ra giữa vòng chúng, để các dân nhìn thấy. Khi ấy chúng sẽ lập nhà cửa trong xứ mà ta sẽ ban cho Gia-cốp tôi tớ ta!
\v 26 Lúc đó chúng nó sẽ sống an ninh trong đó và cất nhà, trồng vườn nho, rồi sống yên ổn khi ta thực hiện sự công bình giáng trên những kẻ xem khinh chúng từ bốn phương xunh quanh; để chúng nó sẽ nhìn biết ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó! ’”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Năm thứ mười, tháng thứ mười, nhằm ngày mười hai trong tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt nghịch cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô; hãy nói tiên tri nghịch cùng người và cùng cả xứ Ê-díp-tô!
\v 3 Hãy công bố như vầy: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Hỡi Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, ta nghịch cùng ngươi! Ngươi là con thuỷ quái nằm ở giữa dòng sông, dám nói với ta: “Ta đã dựng dòng sông cho riêng ta!”
\s5
\v 4 Vì ta sẽ đặt những móc trong hàm ngươi, và cá trong sông Ni-lơ sẽ bám nơi vảy ngươi; Ta sẽ kéo ngươi lên khỏi giữa dòng sông ngươi cùng với hết thảy cá của dòng sông đang bám nơi vảy ngươi.
\v 5 Ta sẽ quăng ngươi vào trong đồng vắng, ngươi và hết thảy cá từ dòng sông của ngươi. Ngươi sẽ vấp ngã trên mặt ruộng; ngươi sẽ chẳng được thâu lại, cũng chẳng được ngước lên. Ta đã phó ngươi làm đồ ăn cho các loài vật sống của đất và cho các loài chim bay trên trời!
\s5
\v 6 Khi ấy, hết thảy dân cư Ê-díp-tô sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, vì chúng nó là cuống sậy cho nhà Y-sơ-ra-ên!
\v 7 Khi chúng nó cầm lấy ngươi trong tay chúng, ngươi gãy ra thành từng khúc nhỏ và đâm thủng vai chúng; khi chúng nó dựa trên ngươi, thì ngươi tự giập ra, và làm cho hông chúng nó phải lay động.
\s5
\v 8 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ đem gươm đến nghịch cùng ngươi; ta sẽ dứt khỏi ngươi cả người và thú.
\v 9 Vì thế đất Ê-díp-tô sẽ trở nên hoang vu và là một đống đổ nát; khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, vì con thuỷ quái đã nói: “Sông thuộc về ta, vì ta đã dựng nên nó! ”
\v 10 Vì lẽ đó, kìa! Ta nghịch cùng ngươi và nghịch cùng dòng sông của ngươi, vậy ta sẽ khiến đất Ê-díp-tô thành ra hoang vu vắng vẻ, và ngươi sẽ trở thành đồng hoang Mi-đô đến từ tháp Sy-e-nê cho đến bờ cõi của Cút.
\s5
\v 11 Chẳng có bàn chân người đi qua nó! Chẳng có bàn chân thú vật đi qua nó! Và sẽ chẳng có dân cư ở đó trong bốn mươi năm!
\v 12 Ta sẽ khiến đất Ê-díp-tô thành một chỗ hoang vu ở giữa các đất không người ở, và các thành nó ở giữa các thành bị tàn phá sẽ trở nên hoang vu trong bốn mươi năm; khi ấy ta sẽ tan rải dân Ê-díp-tô giữa vòng các dân, và ta sẽ làm cho chúng nó tan tác trong các nước.
\s5
\v 13 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cuối bốn mươi năm, ta sẽ thâu Ê-díp-tô lại từ giữa các dân mà chúng nó đã bị tan rải trong đó.
\v 14 Ta sẽ phục hồi những kẻ may mắn của Ê-díp-tô rồi đem chúng nó về với khu vực Pha-trốt, với nguyên quán của họ. Khi ấy họ sẽ trở thành một nước yếu hèn ở đó.
\s5
\v 15 Nó sẽ trở thành nước yếu hèn nhất trong các nước, và nó sẽ không dấy lên trên các nước nữa. Ta sẽ khiến chúng nó suy yếu đi để chúng nó không còn trị vì trên các nước nữa.
\v 16 Người Ai-cập sẽ không còn là cái cớ để nhà Y-sơ-ra-ên nương cậy. Thay vì thế, họ sẽ là một sự nhắc nhớ đến tội lỗi mà Y-sơ-ra-ên đã phạm khi họ xây sang Ai-cập để xin trợ giúp. Khi ấy họ sẽ nhìn biết rằng ta là Chúa Giê-hô-va
\s5
\v 17 Lúc đó là năm thứ hai mươi bảy, ngày mùng một tháng thứ nhứt, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 18 “Hỡi con người, Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, đã đặt quân đội mình vào những việc rất nặng nhọc nghịch cùng Ty-rơ. Mọi đầu đều cạo trọc, và mọi vai đều đã mỏi mòn, nhưng vua ấy chưa được tiền công nào từ thành Ty-rơ cho mình, hoặc cho quân đội mình, để bù lại công khó mà ông ta đã làm nghịch cùng Ty-rơ.
\s5
\v 19 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ ban đất Ê-díp-tô cho Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn, và người sẽ tước đoạt sự giàu có, tước hết của cải và lấy đi mọi thứ mà người tìm gặp ở đó; đó sẽ là tiền công của quân đội người!
\v 20 Ta đã ban cho người đất Ê-díp-tô làm tiền công cho công việc họ đã làm cho ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Trong ngày đó, ta sẽ dựng nên một cái sừng mọc ra cho nhà Y-sơ-ra-ên, và ta sẽ khiến ngươi rao giảng ở giữa chúng nó, hầu cho chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va! ’”
\s5
\c 30
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy khóc than! “Khốn nạn cho ngày hầu đến! ”
\v 3 Ngày gần rồi! Ngày ấy gần rồi, vì Đức Giê-hô-va! Là ngày có nhiều mây, kỳ định cho các dân tộc!
\s5
\v 4 Khi ấy, gươm sẽ đến nghịch cùng Ê-díp-tô, và sẽ có buồn rầu ở Cút khi những kẻ bị giết sẽ ngã xuống trong xứ Ê-díp-tô — họ cướp lấy sự giàu có của nó, và khi các nền nó bị huỷ hoại!
\v 5 Cút, Phút, và Lút, và hết thảy các dân ngoại, cùng với dân sự thuộc về giao ước — hết thảy họ sẽ ngã xuống bởi gươm!
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng một thể ấy, những người nào hỗ trợ Ê-díp-tô sẽ ngã xuống, và sự kiêu ngạo về sức lực nó sẽ sụp xuống. Từ Mi-đô cho đến Sy-e-nê binh lính của chúng sẽ ngã xuống bởi gươm! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\v 7 Chúng nó sẽ phải kinh hoảng ở giữa các nước bị bỏ, và các thành của chúng nó sẽ ở giữa các thành bị huỷ diệt!
\s5
\v 8 Khi ấy, chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta buông lửa xuống trong xứ Ê-díp-tô, và khi mọi kẻ vùa giúp nó đã bị huỷ diệt!
\v 9 Trong ngày đó, các sứ giả sẽ đi ra từ trước mặt ta trong các tàu bè làm cho Cút đang an ninh phải kinh hãi, và sẽ có đau khổ giữa vòng chúng nhơn ngày đã định của Ê-díp-tô. Vì kìa! Ngày ấy đang đến!
\s5
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ làm ra sự cuối cùng của đoàn dân đông ở Ê-díp-tô bởi tay của Nê-bu-cát-nết-sa, vua xứ Ba-by-lôn.
\v 11 Vua ấy cùng quân đội mình, nổi kinh hãi của các nước, sẽ được đem đến đặng huỷ diệt đất; chúng nó sẽ rút gươm nghịch cùng xứ Ê-díp-tô và làm cho đất đầy những người đã chết!
\s5
\v 12 Ta sẽ làm cho các sông khô đến tận đáy, và ta sẽ bán đất ấy vào trong tay những kẻ dữ. Ta sẽ khiến đất và sự hoang vu cùng khắp của nó bởi tay các dân ngoại! Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều đó!
\s5
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ hủy diệt các hình tượng và ta sẽ dứt điểm các hình tượng vô giá trị của Mem-phi. Sẽ chẳng có vua trong đất Ê-díp-tô, và ta sẽ mặc lấy sự kinh khiếp cho đất Ê-díp-tô!
\v 14 Khi ấy, ta sẽ làm cho Pha-trốt ra hoang vu và tra lửa lên Xô-an, và ta thực hiện các hành động phán xét giáng trên Thê-be.
\s5
\v 15 Vì Ta sẽ đổ cơn giận ta trên Phê-lu-si-um, là đồn luỹ của Ê-díp-tô, và dứt bỏ đoàn dân đông của Thê-be.
\v 16 Lúc ấy, ta sẽ tra lửa trong Ê-díp-tô. Phê-lu-si-um sẽ bị thương tích nặng nề và Thê-be sẽ bị phá tan. Mem-phi sẽ có nhiều kẻ thù mỗi ngày!
\s5
\v 17 Các thanh niên ở Hê-li-ô-bô-li và Bu-bát-ti sẽ ngã bởi gươm, và các thành ấy sẽ phải đi làm phu tù.
\v 18 Tại Tác-pha-nết, ban ngày sẽ tắt đèn của nó khi ta sẽ gãy cái ách của Ê-díp-tô ở đó, và sự kiêu ngạo về sức lực nó sẽ chấm dứt. Sẽ có một đám mây che lấp nó, và các con gái nó sẽ đi làm phu tù.
\v 19 Ta sẽ thực thi các hành động phán xét trong xứ Ê-díp-tô, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\v 20 Đến năm thứ mười một, tháng thứ nhứt, ngày mùng bảy trong tháng, Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 21 “Hỡi con người, ta đã bẻ gãy cánh tay của Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô. Kìa! Chẳng ai bó vít cho nó và không thể nhận lãnh thuốc men; không ai quấn chỗ bị thương, vì thế nó sẽ chẳng mạnh mẽ đủ để cầm gươm.
\s5
\v 22 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô! Vì ta sẽ bẻ cánh tay nó, cả hai: kẻ mạnh và kẻ gãy tay, và ta khiến gươm rớt xuống khỏi tay nó.
\v 23 Khi ấy, ta sẽ tan rải Ê-díp-tô giữa vòng các dân và làm cho họ tan tác giữa các nước.
\v 24 Ta sẽ làm cho cánh tay vua Ba-by-lôn thêm mạnh và đặt gươm ta trong tay người hầu cho ta sẽ huỷ diệt hai cánh tay của Pha-ra-ôn. Vua nầy rên la trước mặt vua xứ Ba-by-lôn với tiếng than vãn của một kẻ sắp chết.
\s5
\v 25 Vì ta sẽ làm cho hai cánh tay của vua Ba-by-lôn thêm mạnh, đang khi hai cánh tay của Pha-ra-ôn sẽ rơi xuống đất. Khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đặt gươm ta vào trong tay vua xứ Ba-by-lôn; vì người sẽ tấn công đất Ê-díp-tô bằng gươm ấy.
\v 26 Vậy, ta sẽ tan rải Ê-díp-tô giữa vòng các dân và làm cho chúng nó tan tác trong các nước. Khi ấy chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va! ’”
\s5
\c 31
\p
\v 1 Nhằm năm thứ mười một, vào tháng thứ ba, vào ngày thứ nhứt trong tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói cùng Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô, và các tôi tớ ở chung quanh người: Trong vẻ cao trọng của ngươi, ngươi giống ai vậy?
\s5
\v 3 Kìa! A-si-ri là cây bá hương trong Li-ban với các nhành nhánh xinh đẹp, cao lớn vào bóng phủ đất! Và ngọn của nó vượt lên khỏi các nhánh.
\v 4 Nhiều dòng sông giúp cho nó cao lên; dòng nước sâu khiến nó ra đồ sộ. Các dòng sông chảy quanh khu vực của nó, vì các con rạch của chúng vươn dài ra tưới mọi cây cối ở trong đồng ruộng.
\s5
\v 5 Chiều cao ngất ngưỡng của nó vượt khỏi mọi cây cối khác ngoài đồng, và nó đâm ra nhiều nhánh, và các nhành nó mọc dài ra là nhờ có nhiều nước làm cho nó lớn lên.
\v 6 Mọi giống chim trời làm tổ trong các nhành nhánh nó, trong khi các vật sống trong đồng ruộng đẻ con nhỏ nó dưới bóng nó. Hết thảy các dân tộc đến ngụ dưới bóng nó.
\v 7 Vì nó rất xinh tốt bởi sự cao lớn nó và nhành nhánh nó mọc dài ra, vì bộ rễ nó bắt theo các dòng nước!
\s5
\v 8 Các cây bá hương ở trong vườn Đức Chúa Trời không thể sánh với nó được! Không một cây tùng nào so cùng các nhánh nó được, và cây bàng không sánh bằng các nhành của nó được. Không một cây nào trong vườn của Đức Chúa Trời có thể sánh xinh tốt bằng nó cả!
\v 9 Ta đã làm cho nó ra xinh tốt với nhiều nhành nhánh nó; và hết thảy cây cối trong vườn Ê-đen mọc trong vườn của Đức Chúa Trời đều ganh tỵ với nó!
\s5
\v 10 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì ngươi đồ sộ như thế, và vì ngọn nó vượt cao lên khỏi các nhành nhánh nó, và tấm lòng nó ngước cao lên tới độ cao ấy —
\v 11 Vì lẽ ấy, ta sẽ phó nó trong tay một vua mạnh nhất trong các nước! Vua nầy đã hành động nghịch cùng nó rồi trục xuất nó vì sự gian ác nó!
\s5
\v 12 Những dân ngoại nào là sự kinh khiếp của các dân đã vứt bỏ nó. Các nhánh nó rớt xuống trên các núi và trong mọi đồng trũng, và các nhành nó bị gãy trôi sông trên đất. Khi ấy các dân trên đất tránh xa bóng nó và dứt bỏ nó.
\s5
\v 13 Mọi loài chim trời sẽ đậu trên sự đổ nát của nó, và mọi loài thú đồng sẽ đến ngồi trên các nhành nó.
\v 14 Điều nầy đã xảy ra hầu cho chẳng có cây cối nào khác trồng gần dòng nước sẽ cao lên đến bực ấy, hầu cho chúng sẽ không để ngọn của chúng vượt lên khỏi tàng cây, vì không một cây nào khác hút lấy nước từng cao lên tới mực đó nữa. Vì hết thảy chúng nó bị phó cho sự chết, cho phần vực sâu của đất, ở giữa con cái loài người, họ nhào xuống dưới hố sâu.
\s5
\v 15 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mà nó xuống đến âm phủ ta sẽ mang sự khóc than đến trên đất. Ta dùng các dòng sông sâu lấp nó, và ta giữ lại nước của đại dương. Ta cầm lại các dòng nước lớn, và ta đem sự khóc than đến Li-ban vì cớ nó! Vậy, mọi cây cối ngoài đồng đều khóc than về nó.
\s5
\v 16 Ta khiến cho các dân nghe thấy tiếng nó sụp đổ, khi ta quăng nó xuống đến âm phủ với những kẻ đi xuống hố sâu! Và ta yên ủi mọi cây cối trong vườn Ê-đen nơi các phần thấp nhất của đất! Đây là cây tốt nhứt được chọn và các loại cây tốt nhứt của Li-ban, những cây cối đã hút lấy nước từ các dòng sông!
\s5
\v 17 Vì chúng cũng đi xuống với nó trong âm phủ, với những kẻ đã bị gươm giết! Đây là cánh tay mạnh mẽ của nó, các dân ấy đã sống dưới bóng phủ của nó.
\v 18 Ngươi sánh sự cao trọng và vinh hiển với cây nào trong các cây cối ở vườn Ê-đen? Vì ngươi sẽ bị đốn hạ cùng với cây cối trong vườn Ê-đen xuống các phần thấp nhất của đất giữa kẻ không chịu phép cắt bì; ngươi sẽ sống với những kẻ bị gươm giết! Đây là Pha-ra-ôn và hết thảy các tôi tớ người! — Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va! ’”
\s5
\c 32
\p
\v 1 Nhằm năm thứ mười hai, tháng thứ mười hai, ngày mùng một tháng chạp, lời của Đức Giê-hô-va phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy cất tiếng ca thương về Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô; hãy nói cùng người: Ngươi giống như một con sư tử tơ ở giữa các dân, giống như con thuỷ quái; ngươi trướng lên trên mặt nước, ngươi cùng chân khuấy nước và khiến cho nước dậy bùn lên!
\s5
\v 3 Chúa Giê-hô-va phán: Vậy ta sẽ giăng lưới ta trên ngươi trong hội chúng của nhiều người, và họ sẽ kéo ngươi lên trong lưới ta!
\v 4 Ta sẽ bỏ ngươi lại trong xứ! Ta sẽ quăng ngươi vào thửa ruộng và khiến mọi loài chim trời đậu trên ngươi; sự đói khát của các loài vật sống trên đất sẽ no nê bởi ngươi.
\s5
\v 5 Ta sẽ đặt thịt ngươi trên các núi, và ta sẽ lấp đầy các nơi trũng với sâu bọ đầy dẫy thi thể ngươi!
\v 6 Khi ấy, Ta sẽ rưới huyết ngươi trên các núi, và các đáy sông sẽ đầy cả huyết ngươi!
\s5
\v 7 Khi ấy, ta sẽ dập tắt đèn của ngươi, ta sẽ che các từng trời lại và làm cho các ngôi sao nó ra tối tăm; ta sẽ che mặt trời lại với các đám mây, và mặt trăng sẽ không chiếu sáng nữa!
\v 8 Ta sẽ tắt đi mọi ngọn đèn lấp lánh chiếu trên ngươi từ trên trời, và ta sẽ bủa sự tăm tối trên đất ngươi! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Vậy, ta sẽ làm lòng nhiều người trong các nước mà ngươi không biết phải kinh khủng, khi ta đem sự sụp đổ của ngươi ra giữa các dân tộc.
\v 10 Ta sẽ gây sốc nhiều dân về ngươi; các vua chúng nó sẽ vì cớ ngươi mà hết hồn lo sợ, khi ta giơ gươm lên trước mặt họ. Từng phút từng người sẽ run sợ vì cớ ngươi, trong ngày ngươi phải sụp đổ.
\s5
\v 11 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Gươm của vua xứ Ba-by-lôn sẽ đến nghịch cùng ngươi!
\v 12 Ta sẽ khiến các tôi tớ ngươi ngã xuống dưới gươm của các chiến binh — mỗi chiến binh là một sự kinh hãi của các dân. Các chiến binh nầy sẽ phá tán sự vinh hiển của Ê-díp-tô cùng tiêu diệt số dân đông của Ê-díp-tô!
\s5
\v 13 Vì ta sẽ huỷ diệt mọi súc vật nơi các bờ sông lớn; bàn chân con người sẽ chẳng còn quậy cho nước đục nữa, hoặc bởi vó của thú vật!
\v 14 Khi ấy, ta làm cho các dòng nước của chúng nó được bình lặng và khiến các sông chúng nó chảy như dầu — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Khi ta khiến đất Ê-díp-tô — một đất đầy dẫy — thành ra một nơi đổ nát, một đất bị bỏ; khi ta tấn công hết thảy cư dân nó, khi ấy chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va!
\v 16 Sẽ có một bài ca thương! Vì con gái các nước sẽ than vãn về nó; chúng sẽ khóc than về Ê-díp-tô. Chúng sẽ than khóc về các tôi tớ của nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va! ’”
\s5
\v 17 Nhằm năm thứ mười hai, ngày thứ mười lăm của tháng, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 18 “Hỡi con người, hãy than khóc về Ê-díp-tô và hãy quăng họ — nó và con gái của các nước có danh tiếng — xuống chỗ đất thấp nhất với những kẻ đã xuống trong hố sâu đó!
\s5
\v 19 Hãy hỏi chúng: Có phải ngươi thực sự xinh đẹp hơn người khác chăng? Hãy đi xuống rồi và nằm với những kẻ không chịu cắt bì!
\v 20 Chúng sẽ ngã xuống giữa vòng những kẻ đã chết bởi gươm! Ê-díp-tô bị phó cho gươm; các kẻ thù nghịch nó sẽ túm lấy nó cùng các tôi tớ nó!
\v 21 Các chiến binh mạnh nhất ở âm phủ sẽ loan báo về Ê-díp-tô cùng các đồng minh nó: Chúng đã xuống tận đây, chúng sẽ nằm với những kẻ chưa chịu cắt bì đã chết bởi gươm!
\s5
\v 22 A-si-ri có mặt ở đó với hết thảy hội chúng của nó! Mồ mả nó ở chung quanh nó; hết thảy chúng nó đã bị gươm giết.
\v 23 Những mồ mả đó bị đặt ở chỗ sâu thẳm của hầm hố ở đó, với hết thảy hội chúng nó. Các mồ mả nó vây quanh những kẻ đã bị giết, họ ngã chết bởi gươm, những kẻ đem sự kinh khiếp giáng trên xứ của người sống!
\s5
\v 24 Tại đó có Ê-lam với hết thảy các tôi tớ nó! Các mồ mả nó ở chung quanh nó, hết thảy đều đã bị giết! Những kẻ đó ngã xuống bởi gươm, họ đi xuống các nơi thấp nhất của đất mà chưa chịu cắt bì, họ mang sự kinh khiếp của họ giáng trên đất người sống và giờ đây chúng mang sự xấu hổ theo với chúng, chúng đang đi xuống cái hố sâu!
\v 25 Họ đặt cho Ê-lam cái nghĩa địa và hết thảy các tôi tớ nó ở giữa những kẻ bị giết; các mồ mả nó ở chung quanh nó! Hết thảy chúng chưa chịu phép cắt bì, họ bị giết bởi gươm, những kẻ đem sự kinh hãi vào trong xứ của người sống! Vậy chúng mang chính sự xấu hổ của chính mình theo với chúng, cùng với những kẻ đang đi xuống hố sâu ở giữa mọi kẻ đã bị giết, những kẻ đang đi xuống hố sâu. Ê-lam có mặt giữa vòng hết thảy những kẻ đã bị giết.
\s5
\v 26 Tại đó có Mê-siếc và Tu-banh, cùng hết thảy các tôi tớ chúng! Mồ mả chúng ở chung quanh họ! Hết thảy chúng đều chưa chịu phép cắt bì, bị giết bởi gươm, vì chúng nó đã đem mọi điều kinh hãi của chúng trên đất của người sống.
\v 27 Có phải chúng nó không nằm chung với những chiến binh đã ngã xuống chưa chịu cắt bì, họ đã đi xuống âm phủ với đủ thứ khí giới của mình, và với gươm của chúng đặt dưới đầu của họ? Các cái khiêng của họ bị đặt trên hài cốt của họ. Vì họ là sự kinh hãi của chiến binh trong đất của người sống!
\s5
\v 28 Còn người, hởi Ê-díp-tô, sẽ bị huỷ diệt ở giữa kẻ chưa chịu phép cắt bì! Và ngươi sẽ nằm với những kẻ bị giết bởi gươm!
\v 29 Ê-đôm có mặt ở đó với các vua và hết thảy các quan trưởng nó. Họ rất năng động, nhưng giờ đây họ nằm với những kẻ bị gươm giết, với những kẻ chưa chịu cắt bì, những kẻ đó đã đi xuống hố sâu.
\s5
\v 30 Các quan trưởng phương bắc có mặt ở đó — hết thảy họ và hết thảy dân Si-đôn đều đi xuống với kẻ chết! Họ rất năng động và khiến cho nhiều người khác phải kinh hãi, song giờ đây họ nằm ở đó trong xấu hổ, chưa chịu cắt bì với những kẻ bị gươm giết. Chúng mang lấy chính sự xấu hổ của mình, cùng với những người khác đang đi xuống hố sâu.
\s5
\v 31 Pha-ra-ôn sẽ nom thấy thì được yên ủi về hết thảy các tôi tớ mình, những kẻ đã chết bởi gươm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 32 Ta khiến người thành lý do kinh hãi trong đất người sống, nhưng người sẽ nằm ở giữa kẻ chưa chịu phép cắt bì, giữa vòng những kẻ đã chết bởi gươm — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\c 33
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy công bố điều nầy với dân sự ngươi; hãy nói cùng họ: Khi ta sai gươm đến trên bất kỳ đất nào, khi ấy dân của đất ấy chọn một người từ giữa chúng nó rồi khiến người trở thành kẻ canh giữ cho họ.
\v 3 Người ấy nhìn thấy gươm đến trong xứ, thì phải thổi kèn lên để cảnh báo cho dân sự!
\v 4 Nếu dân sự nghe tiếng kèn mà chẳng chú ý đến, rồi nếu gươm đến giết họ, thì máu của từng người ấy sẽ đổ lại trên đầu nó.
\s5
\v 5 Nếu nó nghe tiếng kèn mà chẳng chú ý, máu nó sẽ đổ lại trên nó; nhưng nếu nó chịu chú ý, người ấy sẽ cứu lấy chính mạng sống mình.
\v 6 Tuy nhiên, nếu người canh nhìn thấy gươm đang xảy đến, nếu người chẳng trổi kèn lên, với kết quả là dân sự không được cảnh báo, và nếu gươm đến lấy mạng của bất kỳ ai, thì người ấy sẽ chết trong chính tội lỗi mình, nhưng ta sẽ đòi máu nó nơi người canh kia.
\s5
\v 7 Bây giờ, hỡi ngươi, là con người! Ta đã lập ngươi làm người canh cho nhà Y-sơ-ra-ên; ngươi sẽ nghe lời ra từ miệng ta và cảnh báo chúng vì cớ ta.
\v 8 Nếu ta phán cùng kẻ ác: Hỡi kẻ làm ác kia, chắc chắn ngươi sẽ chết! Nhưng nếu ngươi không loan báo điều nầy để cảnh báo kẻ ác kia về đường lối nó, khi ấy kẻ sống gian ác đó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi!
\v 9 Nhưng ngươi, nếu ngươi cảnh báo kẻ ác về đường lối nó, hầu cho nó trở ngược lại mà ra khỏi đó, và nếu nó không xây lại khỏi đường lối nó, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó, còn ngươi sẽ cứu được chính mạng sống mình.
\s5
\v 10 Cho nên, hỡi con người, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Các ngươi nói như vầy: Những sự quá phạm của chúng tôi, tội lỗi của chúng tôi đang giáng trên chúng tôi và chúng tôi hao mòn trong đó, làm sao chúng tôi sống cho được?
\v 11 Hãy nói cùng chúng nó: Như ta là hằng sống, — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta không lấy làm vui thích nơi cái chết của kẻ ác, vì nếu kẻ ác ăn năn ra khỏi đường lối mình, thế thì nó sẽ sống! Hãy ăn năn! Hãy ăn năn ra khỏi các lối ác của các ngươi! Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên?
\s5
\v 12 Còn ngươi, hỡi con người, khá nói cùng dân sự ngươi: Sự công bình của người công bình sẽ không cứu được nó một khi nó phạm tội! Và sự gian ác của kẻ ác sẽ không khiến nó phải hư mất một khi nó ăn năn xây khỏi tội lỗi nó. Vì người công bình sẽ không có khả năng sống vì cớ sự công bình của người nếu người phạm tội.
\v 13 Nếu ta nói với người công bình: “Chắc chắn người sẽ sống! ” Và nếu nó tin cậy nơi sự công bình mình và rồi phạm sự bất công, ta sẽ không nhớ đến bất kỳ việc công bình nào của nó; nó sẽ chết trong sự gian ác mà nó đã phạm.
\s5
\v 14 Và nếu ta nói cùng kẻ ác: “Ngươi chắc sẽ chết! ” Nhưng nếu nó ăn năn xây khỏi tội lỗi mình, và làm theo điều chi là đúng đắn và phải lẽ —
\v 15 nếu nó hồi lại sự bảo đảm món nợ mà nó đã đòi theo cách gian ác, hoặc nếu nó trả lại những gì nó cướp giựt, và nếu nó ăn ở theo luật lệ ban sự sống và không phạm tội nữa — khi ấy nó chắc sẽ sống; nó sẽ không chết đâu.
\v 16 Chẳng có một tội nào nó đã phạm sẽ được nhớ lại nghịch cùng nó. Nó đã hành động cách đúng đắn và phải lẽ; chắc chắn nó sẽ sống!
\s5
\v 17 Nhưng dân sự ngươi nói: “Đường lối của Đức Giê-hô-va không công bằng! ” Nhưng chính đường lối của các ngươi mới là không công bằng!
\v 18 Khi người công bình xây khỏi sự công bình mình mà phạm tội, thì nó sẽ chết trong đó!
\v 19 Và khi kẻ dữ xây khỏi sự gian ác mình mà làm theo những gì là công bình và ngay thẳng, người ấy sẽ sống vì cớ những việc ấy!
\v 20 Nhưng các ngươi nói: “Đường lối của Đức Giê-hô-va là không công bằng! ” Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ xét đoán từng người trong các ngươi theo đường lối của nó!”
\s5
\v 21 Việc xảy ra nhằm năm thứ mười hai, ngày mùng năm tháng thứ mười trong sự phu tù của chúng ta, một người đào tẩu đến với ta từ thành Giê-ru-sa-lem nói rằng: “Thành đã bị chiếm rồi! ”
\v 22 Bàn tay của Đức Giê-hô-va ở trên ta vào buổi chiều trước khi kẻ ấy đến, và miệng ta được mở ra ngay khi người ấy đến lúc sáng sớm. Vậy miệng ta được mở ra, ta không còn bị câm nữa! 23Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\s5
\v 23 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 24 “Hỡi con người, những kẻ ngụ ở nơi đống đổ nát trong đất Y-sơ-ra-ên đang nói như sau: Áp-ra-ham chỉ có một mình người, và ông hưởng được xứ nầy, còn chúng ta thì đông người! Xứ đã được ban cho chúng ta như một cơ nghiệp
\s5
\v 25 Vì lẽ đó, hãy nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi ăn huyết, rồi nhướng mắt nhìn về các hình tượng mình, rồi các ngươi làm đổ máu của dân sự ra. Các ngươi có thật hưởng đất nầy sao?
\v 26 Các ngươi nương vào gươm mình rồi phạm những điều gớm ghiếc; mỗi người làm ô uế vợ của kẻ lân cận mình. Các ngươi sẽ thực sự hưởng đất nầy sao?
\s5
\v 27 Ngươi hãy nói điều nầy với chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Như ta là hằng sống, chắc chắn những kẻ ngụ trong đống đổ nát sẽ ngã xuống bởi gươm, và ta sẽ phó những kẻ ở ngoài đồng cho các loài vật sống làm đồ ăn, còn những kẻ ở trong các đồn lũy và trong hang thì sẽ ngã chết vì dịch lệ.
\v 28 Khi ấy, ta sẽ khiến đất nầy ra hoang vu và kinh khiếp, và kẻ kiêu ngạo về sức mạnh nó sẽ thôi đi, vì núi non của Y-sơ-ra-ên sẽ ra hoang vu, và chẳng có ai qua lại nơi chúng nữa.
\v 29 Vậy chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta khiến đất ra hoang vu và kinh khiếp vì cớ mọi sự gớm ghiếc mà chúng nó đã phạm.
\s5
\v 30 Còn ngươi, hỡi con người — dân sự ngươi đang thốt ra những việc về ngươi bên cạnh các bức tường và cửa của mọi nhà, và mỗi người nói với nhau — mỗi người nói cùng anh em mình rằng: Chúng ta hãy đến nghe lời của vị tiên tri ra từ Đức Giê-hô-va!
\v 31 Vậy, dân sự ta sẽ đến cùng ngươi, y như họ vẫn thường làm, và sẽ ngồi ở trước mặt ngươi, rồi lắng nghe lời lẽ của ngươi, nhưng chúng nó sẽ không vâng theo đâu. Lời lẽ ngay thẳng nằm trong môi miệng của chúng nó, song tấm lòng của chúng nó đang nhắm vào lợi lộc bất công.
\s5
\v 32 Vì ngươi giống như một bài ca hay đối với chúng nó, một giọng hát dễ cảm và sử dụng nhạc cụ thông thạo, vậy chúng nó sẽ lắng nghe lời lẽ của ngươi, song chẳng có một người nào trong số chúng chịu làm theo.
\v 33 Cho nên, khi mọi sự nầy xảy ra — và kìa! Nó sẽ đến! — chúng nó sẽ nhìn biết rằng một tiên tri có mặt ở giữa chúng”.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Khi ấy lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng những kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên! Hãy nói tiên tri, và bảo họ: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên, là kẻ chỉ chăm về bản thân mình! Có phải người chăn không canh giữ bầy của mình sao?
\v 3 Các ngươi ăn phần mỡ và áo xống các ngươi mặc bằng lông chiên! Các ngươi giết những con mập béo trong bầy! Các ngươi không chăn gì hết cả!
\s5
\v 4 Các ngươi chẳng làm cho mạnh những con chiên có bịnh, các ngươi cũng chẳng chữa lành những con đau. Các ngươi chẳng bó vít những con bị thương, và các ngươi chẳng tìm những con bị ruồng bỏ hoặc tìm kiếm những con bị thất lạc. Thay vì thế, các ngươi dùng sức mạnh và bạo lực mà cai trị chúng.
\v 5 Khi ấy, chúng sẽ bị tan lạc vì không có người chăn, và chúng trở thành đồ ăn cho các loài vật sống trong đồng ruộng, sau khi chúng bị tản lạc.
\v 6 Bầy chiên ta đi lạc trên mọi núi và trên mọi đồi cao, và nó bị tan tác trên cả mặt đất. Tuy nhiên, chẳng có một ai tìm kiếm chúng hết.
\s5
\v 7 Vì lẽ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời công bố của Đức Giê-hô-va:
\v 8 Như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vì bầy của ta trở nên đồ ăn của mọi loài thú ngoài đồng (vì không có kẻ chăn và chẳng có kẻ chăn nào tìm kiếm bầy của ta, nhưng những kẻ chăn lo cho bản thân họ mà chẳng có chăn bầy của ta) —
\s5
\v 9 vì cớ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va:
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng những kẻ chăn, và ta sẽ đòi lại bầy chiên ta nơi tay chúng nó. Khi ấy, ta không để cho chúng nó chăn bầy của ta nữa; những kẻ chăn sẽ không còn nuôi lấy mình nữa một khi ta sẽ móc chiên ta ra khỏi miệng chúng nó, hầu cho chiên của ta không còn làm đồ ăn cho chúng nó nữa.
\s5
\v 11 Vì Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Chính ta sẽ tìm kiếm bầy chiên ta và ta sẽ trông lo cho chúng.
\v 12 giống như kẻ chăn tìm bầy mình trong ngày kẻ ấy ở giữa bầy chiên tan lạc của mình. Ta cũng sẽ tìm bầy chiên ta, và ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi nơi mà chúng nó đã bị tan lạc trong ngày mây mù tăm tối.
\v 13 Khi ấy, ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ thâu chúng nó lại từ các nước rồi đem chúng về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ đặt chúng trong các đồng cỏ trên các núi của Y-sơ-ra-ên, bên các dòng nước, và trong từng chỗ định cư trong xứ.
\s5
\v 14 Ta sẽ đặt chúng vào những đồng cỏ tốt; trên núi cao của Y-sơ-ra-ên sẽ là chỗ gặm cỏ của chúng. Chúng sẽ nằm xuống trong những chỗ tử tế để gặm cỏ, ở các cánh đồng màu mỡ, và chúng sẽ gặm cỏ trên các núi của Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Chính ta sẽ chăn bầy chiên ta, và chính ta sẽ khiến chúng phải nằm xuống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va —
\v 16 Ta sẽ tìm con nào thất lạc và phục hồi con nào bị ruồng bỏ; ta sẽ bó vít con chiên nào bị gãy chân và chữa lành chiên bị đau. Và ta sẽ hủy diệt những con mập và mạnh! Ta sẽ dùng sự công bình mà chăn chúng nó!
\s5
\v 17 Còn các ngươi, bầy chiên của ta — đây là những gì Chúa Giê-hô-va phán — Kìa! Ta sẽ xét đoán giữa vòng chiên, chiên đực và dê đực!
\v 18 Được chăn thả trong đồng cỏ tươi tốt là việc nhỏ sao, mà ngươi còn muốn giày đạp phần cỏ còn lại dưới chơn các ngươi? Hay uống thứ nước trong là việc nhỏ sao, mà các ngươi lại lấy chân làm vất bùn lên ở các dòng sông chứ?
\v 19 Nhưng bầy chiên ta giờ đây lại được thả phải ăn cỏ chỗ chân các ngươi giày đạp, giờ đây chúng phải uống nước mà chân các ngươi quậy đục cả bùn thế kia!
\s5
\v 20 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Chính ta sẽ xét đoán giữa những chiên mập và chiên gầy,
\v 21 vì các ngươi lấy hông lấy vai mà húc chúng, và các ngươi lấy sừng mà đâm vào mọi chiên con có ốm yếu cho đến chừng các ngươi làm cho chúng phải tan lạc ra khỏi xứ!
\s5
\v 22 Vì thế, ta sẽ cứu bầy chiên ta; chúng nó sẽ không còn làm chiến lợi phẩm nữa. Và ta sẽ xét đoán giữa bầy chiên.
\v 23 Ta sẽ dấy lên một người chăn chúng nó, và người sẽ chăn chúng nó — tức là Đa-vít, tôi tớ ta! Người sẽ chăn chúng nó; người sẽ làm kẻ chăn chúng nó!
\v 24 Vì ta, Đức Giê-hô-va, sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, và Đa-vít, tôi tớ ta, sẽ làm quan trưởng giữa chúng nó — Ta, Đức Giê-hô-va, đã công bố điều nầy!
\s5
\v 25 Khi ấy, ta sẽ lập một giao ước bình an với chúng và cất bỏ các loài thú dữ ra khỏi đất, hầu cho chiên ta sẽ sống an ninh trong đồng vắng và ngủ trong rừng.
\v 26 Ta cũng sẽ giáng ơn phước trên chúng và vùng đồi núi xung quanh, vì ta sẽ khiến mưa sa nơi mùa thuận tiện. Sẽ là những trận mưa phước lành!
\v 27 Khi ấy, cây ngoài đồng sẽ ra trái, và đất sẽ sanh hoa lợi. Chiên ta sẽ ở yên ổn trong đất của chúng; khi ấy chúng sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đã bẻ gãy những đòn cái ách của chúng nó, và khi ta giải cứu chúng nó ra khỏi tay những kẻ bắt chúng nó làm nô lệ.
\s5
\v 28 Chúng sẽ không còn làm chiến lợi phẩm cho các nước nữa, và các loài thú dữ trên đất sẽ chẳng còn cắn nuốt chúng nó nữa! Vì chúng nó sẽ sống yên ổn, và chúng sẽ chẳng còn lo sợ nữa.
\v 29 Vì ta sẽ tạo một chỗ trồng tỉa an bình cho chúng để chúng sẽ không còn đói khát trong đất mình nữa, và các nước cũng không còn sỉ nhục nghịch cùng chúng nữa.
\s5
\v 30 Khi ấy, chúng nó sẽ nhìn biết ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó, ở cùng chúng nó. Chúng nó là dân sự ta, nhà Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 31 Vì các ngươi là bầy chiên của ta, bầy của đồng cỏ ta; và là dân sự ta! Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 35
\p
\v 1 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy xây mặt ngươi đối cùng núi Sê-i-rơ rồi nói tiên tri nghịch cùng nó.
\v 3 Hãy nói cùng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Hỡi núi Sê-i-rơ, nầy, ta nghịch cùng ngươi, và ta sẽ dùng tay ta đánh ngươi, và khiến ngươi ra hoang vu và gở lạ.
\s5
\v 4 Ta sẽ khiến các thành ngươi ra những đống đổ nát, và bản thân ngươi sẽ trở nên hoang vu; lúc đó ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\v 5 Vì ngươi luôn thù nghịch cùng dân Y-sơ-ra-ên, và vì ngươi phó họ vào trong tay kẻ cầm gươm trong lúc họ gặp tai vạ, trong lúc nó bị sửa phạt nặng nề nhất
\v 6 vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — ta sẽ sắm sẵn ngươi về sự đổ huyết ra, và huyết đổ ra sẽ theo đuổi ngươi. Một khi ngươi không ghét sự đổ huyết, nên huyết sẽ đuổi theo ngươi!
\s5
\v 7 Ta sẽ làm cho núi Sê-i-rơ ra hoang vu — hoang vu khi ta dứt bỏ khỏi nó bất kỳ người nào đi qua và trở về lại.
\v 8 Và Ta sẽ làm cho các núi nó đầy sự chết chóc. Các đồi núi cao, đồng trũng, cùng mọi dòng suối của ngươi — những kẻ bị gươm giết sẽ ngã xuống trên chúng.
\v 9 Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang vu đời đời. Các thành ngươi sẽ chẳng có ai ở nữa, nhưng ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Vì ngươi nói: “Hai dân tộc ấy và hai nước ấy sẽ thuộc về ta, và chúng ta sẽ sở hữu chúng”, khi Đức Giê-hô-va đang ở với họ.
\v 11 Vì lẽ đó, như ta là hằng sống — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — vậy, ta sẽ đãi ngươi tuỳ theo cơn giận của ngươi và tuỳ theo sự ganh tỵ mà ngươi đã có trong sự thù hận của ngươi nghịch cùng Israel, và ta sẽ tự tỏ mình ra cho họ khi ta xét đoán ngươi.
\s5
\v 12 Vậy, ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va! Ta đã nghe những lời sỉ nhục ngươi đã nói ra nghịch cùng các núi Y-sơ-ra-ên, mà rằng: “Các núi ấy đã bị làm nên hoang vu! Chúng sẽ bị ban cho chúng ta để cắn nuốt”.
\v 13 Ta đã nghe ngươi nói khi ngươi lấy miệng khoe khoang nghịch cùng ta; các ngươi đã nói ra nhiều thứ nghịch cùng ta. Thật, ta đã nghe điều đó!
\s5
\v 14 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang vu, khi cả đất vui mừng.
\v 15 Vì ngươi vui vẻ trên cơ nghiệp của dân Y-sơ-ra-ên vì cớ nó hoang vu. Ta đãi ngươi y như vậy. Hỡi núi Sê-i-rơ, ngươi sẽ trở nên chốn hoang vu, và hết thảy Ê-đôm — hết thảy dân ấy! Khi ấy chúng nó sẽ nhận biết rằng ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 36
\p
\v 1 “Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri về các núi của Y-sơ-ra-ên như sau: Hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 2 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kẻ thù nghịch đã nói về ngươi: “A-ha” và “Các nơi cao ngày xưa đã trở thành tài sản của chúng ta! ’”
\v 3 Vì cớ đó, hãy nói tiên tri như vầy: Chúa Giê-hô-va phán: Vì cớ sự hoang vu của các ngươi và vì cớ những lần tấn công giáng trên ngươi từ bốn phía, ngươi đã trở nên thứ tài sản của các nước khác; ngươi là đề tài của môi miệng và lưỡi thóc mách, và là câu chuyện của thiên hạ.
\s5
\v 4 Vì cớ đó, hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Chúa Giê-hô-va: Chúa Giê-hô-va phán điều nầy cho các núi và các đồi cao, cho khe suối và đồng bằng, cho các thành hoang vu không dân ở và các thành bị bỏ phế, chúng đã trở thành đồ cướp giựt và là đề tài chế nhạo của các nước khác ở chung quanh chúng —
\v 5 vì cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chắc chắn trong lửa giận phừng ta đã nói nghịch cùng các nước ấy, nghịch cùng Ê-đôm và hết thảy những dân đã chiếm lấy xứ sở của ta dành cho chúng nó làm cơ nghiệp, nghịch lại hết thảy những kẻ nào có sự vui mừng và sự khinh thường trong tâm thần của họ, như họ đã chiếm lấy đất của ta mà họ xưng nhận là đồng cỏ cho bản thân họ.
\v 6 Vậy nên, hãy nói tiên tri về đất của Y-sơ-ra-ên; hãy nói với các núi và các gò, khe suối và đồng bằng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! trong cơn thạnh nộ và giận dữ ta công bố điều nầy vì các ngươi đã nhận lãnh chịu sự hổ nhuốc của các nước.
\s5
\v 7 Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: chính ta cùng với con gái đã thề rằng: Các nước chung quanh ngươi chắc sẽ chịu lấy chính sự xấu hổ của mình!
\s5
\v 8 Nhưng ngươi, hỡi các núi Y-sơ-ra-ên, ngươi sẽ trồng tỉa nhiều và kết quả cho Y-sơ-ra-ên là dân ta, một khi không lâu nữa chúng sẽ trở về cùng ngươi.
\v 9 Vì kìa, ta ban ơn cho các ngươi, các ngươi sẽ trồng tỉa và cày cấy.
\s5
\v 10 Trên đất các ngươi ta sẽ thêm số dân cư và số con cái của nhà Y-sơ-ra-ên. Các thành sẽ có người ở, các nơi đổ nát sẽ được dựng lại.
\v 11 Ta sẽ thêm người và thú đồng trên các núi ngươi, hầu cho chúng sẽ thêm nhiều lên và nẩy nở ra. Khi ấy, ta sẽ khiến các ngươi đông dân như lúc trước, và ta sẽ khiến cho các ngươi được thịnh vượng hơn các ngươi trong quá khứ, vì các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va.
\v 12 Ta sẽ làm cho nhiều người, dân Y-sơ-ra-ên ta, bước đi trên các ngươi. Chúng sẽ chiếm lấy các ngươi, và các ngươi sẽ không còn làm cớ khiến con cái chúng nó phải chết mất nữa.
\s5
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Vì chúng nói với các ngươi: “Hỡi các ngươi, là thứ ăn nuốt người ta, và con cái của xứ các ngươi đã ngã chết”,
\v 14 cũng vì cớ đó, các ngươi sẽ chẳng nuốt người ta nữa, và các ngươi sẽ chẳng còn làm cho xứ sở các ngươi phải than khóc cái chết của chúng nữa. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 15 Ta cũng không để cho các ngươi nghe thấy những lời nhiếc móc của các nước nữa; các ngươi sẽ không còn chịu sự xấu hổ của các dân nữa hoặc khiến cho dân ngươi phải sa ngã nữa — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\v 16 Khi ấy, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 17 “Hỡi con người, khi nhà Y-sơ-ra-ên ở trong đất mình, chúng đã làm ô uế đất ấy bởi đường lối và việc làm của chúng. Các đường lối của chúng thì giống như là sự ô uế chẳng sạch của một người đàn bà trước mặt ta.
\v 18 Ta đã đổ cơn thạnh nộ của ta ra nghịch cùng chúng nó vì huyết mà chúng đã làm đổ ra trên đất và vì sự ô uế của chúng trong đó bởi hình tượng của chúng.
\s5
\v 19 Ta đã tan rải chúng ở giữa các nước; chúng nó đã bị phân tán trong nhiều xứ. Ta đã xét đoán chúng nó theo các đường lối và việc làm của chúng nó.
\v 20 Khi chúng đi tới các nước, và bất cứ đâu chúng tới, chúng đã báng bổ danh thánh ta khi người ta nói về chúng: Có phải thực sự đây là dân của Đức Giê-hô-va không? Vì chúng nó đã bị quăng ra khỏi đất của Ngài!
\v 21 Nhưng ta động lòng thương xót vì danh thánh ta mà nhà Y-sơ-ra-ên đã xúc phạm ở giữa các nước, khi chúng nó tới các nơi đó.
\s5
\v 22 Vì lẽ đó, hãy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta không làm việc nầy vì cớ các ngươi đâu, song vì cớ danh thánh ta, là danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa các nước, là những chỗ các ngươi đã đi đến.
\v 23 Vì ta sẽ làm cho danh ta ra thánh, là danh các ngươi đã xúc phạm ở giữa các nước — ở giữa các nước mà các ngươi đã báng bổ danh ấy. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va: Khi ấy các dân tộc sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi các ngươi thấy rõ rằng ta là thánh.
\s5
\v 24 Ta sẽ thâu các ngươi lại từ giữa các nước và ta sẽ nhóm các ngươi lại từ từng xứ một, rồi đem các ngươi về xứ sở riêng của các ngươi.
\v 25 Khi ấy, Ta sẽ rưới nước trong trên các ngươi hầu cho các ngươi sẽ được sạch khỏi mọi vết uế của các ngươi. Và ta sẽ luyện lọc các ngươi khỏi mọi hình tượng của các ngươi.
\s5
\v 26 Ta sẽ ban cho các ngươi lòng mới và thần mới trong các nơi sâu kín nhất của các ngươi, và Ta sẽ cất lòng bằng đá ra khỏi thịt các ngươi.
\v 27 Vì ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng bằng thịt. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi và khiến các ngươi bước theo luật lệ ta và các ngươi sẽ giữ các mạng lịnh ta và các ngươi làm theo chúng.
\v 28 Khi ấy, các ngươi sẽ ở trong xứ mà ta đã ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ làm dân ta, còn ta sẽ làm Đức Chúa Trời các ngươi.
\s5
\v 29 Vì Ta sẽ giải cứu các ngươi ra khỏi mọi sự ô uế. Ta sẽ gọi lúa mì và làm cho nhiều thêm. Ta sẽ không cho đói kém giáng trên các ngươi nữa.
\v 30 Ta sẽ thêm nhiều trái cây và hoa lợi của đồng ruộng hầu cho các ngươi không còn mang xấu hổ vì đói kém ở giữa vòng các nước nữa.
\v 31 Khi ấy, các ngươi sẽ suy nghĩ về các đường lối gian ác, và những việc làm không tốt lành của mình, và các ngươi sẽ lấy làm gớm ghét mình vì cớ chính những tội lỗi cùng những việc làm gớm ghiếc của các ngươi.
\s5
\v 32 Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va: Chẳng phải ta làm điều nầy vì cớ các ngươi đâu, các ngươi khá biết rõ. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy lấy làm xấu hổ vì cớ mọi đường lối của mình.
\v 33 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nhằm ngày mà ta sẽ làm sạch mọi quá phạm của các ngươi, ta sẽ khiến các ngươi đến ở trong các thành và tái thiết lại những nơi bị đổ nát.
\v 34 Vì các ngươi sẽ cày cầy cấy chỗ đất hoang cho đến khi nó không còn là đống đổ nát ở trước mắt hết thảy những ai sẽ đi ngang qua.
\s5
\v 35 Khi ấy, họ sẽ nói: “Đất nầy là hoang vu, nhưng nó đã trở nên như vườn Ê-đen; các thành đổ nát, cùng những đống hoang tàn kia nay đã có thể ra vào được và có người ở! ”
\v 36 Khi ấy, các nước khác ở chung quanh các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, ta đã dựng lên các đống đổ nát và tái lập lại những nơi bị bỏ. Ta là Đức Giê-hô-va. Ta đã tuyên bố điều đó ra và ta sẽ làm thành.
\s5
\v 37 Chúa Giê-hô-va phán: Một lần nũa, ta sẽ được nhà Y-sơ-ra-ên cầu hỏi ta để ta làm sự nầy cho chúng, ta sẽ làm cho chúng tăng thêm lên giống như một bầy người vậy.
\v 38 Giống như các bầy đã được dâng lên cho Đức Giê-hô-va, giống như các bầy trong thành Giê-ru-sa-lem trong những kỳ lễ trọng thể, các thành hoang vu sẽ đầy ắp với các bầy người, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta; Thần Đức Giê-hô-va đưa ta ra ngoài, rồi để ta xuống giữa đồng bằng. Nơi đó đầy những hài cốt.
\v 2 Khi ấy, Ngài khiến ta đi vòng quanh những hài cốt ấy. Kìa! Có nhiều hài cốt lắm trong đồng bằng. Và nầy! Chúng trơ ra đó.
\v 3 Ngài phán cùng ta: “Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống một lần nữa chăng? ” Vậy, ta đáp: “Lạy Chúa Giê-hô-va, chỉ một mình Ngài biết sự ấy mà thôi!”
\s5
\v 4 Rồi Ngài phán cùng ta: “Hãy nói tiên tri về các hài cốt ấy, và bảo chúng nó rằng: Hỡi các hài cốt khô kia! Hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va.
\v 5 Chúa Giê-hô-va phán như vầy cùng các hài cốt nầy: Kìa! Ta sẽ đặt thần vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống.
\v 6 Ta sẽ tra gân trên các ngươi và đặt thịt trên các ngươi. Ta sẽ bao các ngươi bằng da và phú hơi thở trong các ngươi để các ngươi sẽ sống. Khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\v 7 Vậy ta đã nói tiên tri những điều được truyền cho ta; khi ta nói tiên tri, kìa, có tiếng nói rồi có động đất. Lúc ấy những bộ xương kết lại với nhau.
\v 8 Ta nhìn xem, kìa, những sợi gân kết lên trên các hài cốt đó! Rồi có thịt mọc ra và da bọc lấy chúng! Nhưng chưa có sự sống nơi chúng.
\s5
\v 9 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy nói tiên tri với gió; hãy nói với gió: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Thần Linh, hãy đến từ gió bốn phương! Rồi hà hơi vào những kẻ đã chết nầy hầu cho chúng nó lại sống”.
\v 10 Vậy ta đã nói tiên tri y như ta đã được truyền cho; Thần Linh vào trong chúng nó và chúng nó lại sống! Khi ấy chúng đứng dậy trên chân của mình, một đạo quân rất lớn!
\s5
\v 11 Và Đức Chúa Trời phán cùng ta: “Hỡi con người, những hài cốt nầy là toàn bộ nhà Y-sơ-ra-ên. Kìa! Chúng nó nói: Hài cốt của chúng ta đã khô, và lòng trông cậy của chúng ta không còn có nữa. Chúng ta bị dứt bỏ cho sự huỷ diệt!
\v 12 Vì lẽ đó, hãy nói tiên tri, và bảo chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy! Ta sẽ mở mồ mả các ngươi ra rồi nhấc các ngươi ra khỏi chúng! Và ta sẽ đem các ngươi về trong đất Y-sơ-ra-ên!
\s5
\v 13 Khi ấy, các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta mở mồ mả các ngươi ra và đem các ngươi ra khỏi chúng, hỡi dân sự ta.
\v 14 Ta sẽ đặt Thần ta vào trong các ngươi để các ngươi sẽ sống, và Ta sẽ khiến các ngươi yên nghỉ trong xứ của các ngươi, khi ấy các ngươi sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va. Ta công bố và sẽ làm thành việc ấy — đây là lời công bố của Đức Giê-hô-va”.
\s5
\v 15 Khi đó, lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 16 Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy cầm lấy gậy của mình rồi viết trên đó: Vì Giu-đa, và vì dân Y-sơ-ra-ên, là bạn ngươi. Rồi lấy một cây gậy khác mà viết trên đó: Vì Giô-sép, nhánh của Ép-ra-im, và vì hết thảy dân Y-sơ-ra-ên là bạn ngươi.
\v 17 Khi ấy, hãy ghép cả hai cây gậy nầy thành một cây gậy, hầu cho chúng trở thành một trong tay ngươi.
\s5
\v 18 Khi dân sự ngươi nói cùng ngươi: Ông sẽ nói cho chúng tôi biết mọi sự nầy có nghĩa gì chăng?
\v 19 lúc đó ngươi hãy đáp cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sẽ lấy nhánh của Giô-sép đang ở trong tay của Ép-ra-im và các chi phái Y-sơ-ra-ên bạn người rồi ghép nó với nhánh của Giu-đa, hầu cho chúng sẽ tạo thành một nhánh mà thôi, và chúng sẽ là một trong tay ta.
\v 20 Lúc đó, hãy cầm trong tay ngươi hai nhánh mà ngươi đã viết trên đó trước mắt chúng.
\s5
\v 21 Rồi hãy tuyên bố với chúng nó: `Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sắp sửa đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa các nước, những nơi chúng đi đến. Ta sẽ thâu chúng nó lại từ đất bốn phương. Vì ta sẽ đem chúng nó về trong xứ của chúng nó.
\v 22 Ta sẽ khiến chúng nó thành ra một dân trong xứ ấy, trên các đồi núi của Y-sơ-ra-ên; và sẽ có một vua làm vua trên hết thảy chúng nó, và chúng sẽ chẳng còn là hai quốc gia nữa, chúng sẽ không còn bị chia ra làm hai nước nữa.
\v 23 Khi ấy chúng nó sẽ không còn làm ô uế mình nữa bởi các hình tượng của chúng, những thứ đáng ghét của chúng, hoặc bởi bất kỳ tội lỗi nào khác. Vì ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi hành vi vô tín mà với các hành vi ấy chúng đã phạm tội, và ta sẽ luyện lọc chúng nó, hầu cho chúng nó sẽ làm dân ta, và ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó.
\s5
\v 24 Tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua trên chúng nó. Vậy, sẽ có chỉ một người chăn trên hết thảy chúng nó, và chúng nó sẽ bước theo các mạng lịnh của ta và chúng nó sẽ gìn giữ các luật lệ của ta và vâng theo chúng.
\v 25 Chúng sẽ ở trong xứ mà ta đã ban cho tôi tớ ta là Gia-cốp, các tổ phụ của ngươi đã ở đó. Chúng nó — con cái chúng nó và cháu chắt chúng nó sẽ sống ở đó cho đến đời đời, vì tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua chúng nó cho đến đời đời.
\s5
\v 26 Ta sẽ lập với chúng nó một giao ước hòa bình. Đó sẽ là một giao ước đời đời với chúng nó. Ta sẽ khiến cho chúng nó ngày được thêm nhiều ra và làm cho đông đúc và sẽ đặt nơi thánh ta giữa chúng nó cho đến đời đời.
\v 27 Nơi ngự của ta sẽ ở với chúng nó; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng nó, và chúng nó sẽ làm dân ta!
\v 28 Khi ấy, các nước sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng Y-sơ-ra-ên cho chính mình ta, khi nơi thánh ta ở giữa chúng nó cho đến đời đời”.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va đến phán cùng ta:
\v 2 “Hỡi con người, hãy hướng mặt ngươi đối cùng Gót, xứ Ma-gốc, là vua của Mê-siếc, và Tu-banh; rồi nói tiên tri nghịch cùng hắn!
\v 3 Hãy nói: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Gót, vua của Mê-siếc, và Tu-banh.
\s5
\v 4 Vậy, Ta sẽ xây ngươi lại rồi tra những móc trong hàm ngươi; ta sẽ khiến ngươi đi ra với cả đạo binh, ngựa cùng người cỡi ngựa, hết thảy đều mặc áo chiến, một đạo binh đông với những thuẫn lớn thuẫn nhỏ, hết thảy chúng đều cầm gươm!
\v 5 Người Phe-rơ-sơ, Cút, và Phút có mặt với chúng, hết thảy chúng với thuẫn và đội mão trụ!
\v 6 Gô-me cùng các đạo binh nó, và Bết Tô-ga-ma, từ cực bắc xa xôi với cả đạo binh nó! Nhiều dân đang ở với ngươi!
\s5
\v 7 Khá sẵn sàng! Phải, hãy tự sửa soạn các đạo binh ngươi nhóm lại cùng với ngươi và hãy làm đầu chúng nó.
\v 8 Sau nhiều ngày, ngươi sẽ được kêu gọi và sau nhiều năm ngươi sẽ đến một đất, là đất đã được giải cứu khỏi gươm và nhóm lại từ giữa nhiều dân tộc; nhóm lại phía sau vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên, từng là đống đổ nát. Nhưng dân của xứ được đem về từ giữa các dân, và chúng nó sẽ sống trong yên ổn, hết thảy chúng!
\v 9 Vậy, ngươi sẽ tràn đến như một cơn bão; ngươi sẽ như một đám mây che phủ đất, ngươi cùng mọi mọi đạo binh ngươi, hết thảy các chiến binh ở với ngươi.
\s5
\v 10 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Sẽ xảy ra trong ngày đó, mọi hoạch định hình thành trong lòng ngươi, và ngươi sẽ toan tính nhiều kế hoạch độc dữ.
\v 11 Khi ấy ngươi sẽ nói: Ta sẽ đi đến xứ rộng rãi kia; ta sẽ đến với thứ dân sống trong sự an nhàn kia, hết thảy họ đang sống ở chỗ không có tường hay rào chi hết, và ở đó không có cổng thành.
\v 12 Ta sẽ chiếm lấy của cải và chiến lợi phẩm, để khiến tay ta nghịch cùng những đống đổ nát mà nay đã có người ở, và nghịch cùng một dân nhóm lại từ giữa các nước, thứ dân có nhiều bầy gia súc và của cải, và họ đang sống tại trung tâm địa cầu.
\s5
\v 13 Sê-ba và Đê-đan, những con buôn của Ta-rê-si với hết thảy các chiến binh trẻ của chúng — chúng sẽ nói cùng ngươi: Có phải ngươi đến đặng bóc lột không? Có phải ngươi tập trung quân đội mình lại đặng cướp của, đặng lấy đi bạc vàng, đặng tước hết bầy gia súc và của cải, đặng làm một sự cướp giựt lớn sao?
\s5
\v 14 Vì lẽ đó, hỡi con người, hãy nói tiên tri cùng Gót: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Trong ngày đó, khi dân Y-sơ-ra-ên của ta đang sống yên ổn, có phải ngươi chẳng tiếp thu về họ sao?
\v 15 Ngươi sẽ đến từ chỗ của ngươi, từ phương cực bắc với một đạo binh đông, hết thảy chúng đều cởi ngựa, một đoàn quân đông đảo, một đạo binh lớn?
\v 16 Và ngươi sẽ tấn công dân Y-sơ-ra-ên ta như một đám mây che phủ đất. Việc nầy sẽ xảy ra trong những ngày hầu đến, ta sẽ khiến ngươi nghịch cùng đất ta, hầu cho các dân tộc sẽ nhìn biết ta khi Gót nhìn thấy sự thánh khiết ta.
\s5
\v 17 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Có phải người không phải là kẻ mà ta đã nói tới trong những ngày trước đây bởi tay của các tôi tớ ta, các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, họ đã nói tiên tri thời thế của ngươi, ta sẽ dùng ngươi nghịch cùng họ sao?
\v 18 Vậy, nhằm ngày Gót tấn công xứ Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — cơn giận ta sẽ dấy lên trong hai lỗ mũi ta!
\s5
\v 19 Vì ta công bố điều nầy ra trong cơn giận phừng và với lửa thạnh nộ ta: chắc chắn sẽ có một trận động đất lớn trong ngày ấy trên đất Y-sơ-ra-ên.
\v 20 Chúng sẽ lay động trước mặt ta — những cá biển, những chim trời, những loài thú đồng, và hết thảy những côn trùng bò trên đất, và từng người một sống trên mặt đất,. Các núi đều bị quăng xuống và những vách đá đều đổ xuống, cho đến khi từng bức tường đều bị sụp xuống đất hết.
\s5
\v 21 Vì ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng người trên các đồi núi ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — gươm của từng người sẽ nghịch cùng anh em mình.
\v 22 Và ta sẽ xét đoán chúng với dịch lệ, máu, mưa lũ, và mưa đá lửa. Ta sẽ đổ mưa diêm sinh xuống trên nó và trên đạo binh nó, và trên nhiều dân ở với nó.
\v 23 Vì ta sẽ tỏ ra sự cả thể và sự thánh khiết ta và ta sẽ được nhiều dân tộc nhận biết, và chúng nó sẽ nhìn biết ta là Đức Giê-hô-va”.
\s5
\c 39
\p
\v 1 Bây giờ, ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng Gót như vầy: Chúa Giê-hô-va phán: Kìa! Ta nghịch cùng ngươi, hỡi Gót, vua của Mê-siếc và Tu-banh.
\v 2 Ta sẽ xây qua ngươi và dẫn dắt ngươi; ta sẽ đem ngươi lên từ phía cực bắc và đem ngươi đến vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên.
\v 3 Khi ấy, ta sẽ đánh rơi cung ngươi khỏi tay trái và làm cho các mũi tên ngươi phải rớt xuống khỏi tay phải.
\s5
\v 4 Ngươi sẽ ngã chết trên vùng đồi núi Y-sơ-ra-ên — ngươi, mọi đạo binh ngươi, và các chiến binh nào ở với ngươi. Ta sẽ phó ngươi làm mồi cho mọi loài chim và cho loài thú đồng để làm đồ ăn.
\v 5 Ngươi sẽ ngã chết trên mặt ruộng, vì chính ta công bố ra việc ấy — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 6 Khi ấy, ta sẽ sai lửa giáng trên Ma-gốc và trên những kẻ sống yên ổn nơi các bờ biển, và chúng nó sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Vì ta sẽ khiến cho ai nấy nhìn biết danh thánh ta ở giữa Y-sơ-ra-ên dân ta, và ta không cho phép nói phạm đến danh thánh ta nữa; các nước sẽ nhìn biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng Thánh trong Y-sơ-ra-ên.
\v 8 Kìa! Ngày mà ta đã công bố đang tới đến, và nó sẽ diễn ra — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 9 Những kẻ sống trong các thành của Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra và thiêu đốt các thứ vũ khí, thuẫn nhỏ, thuẫn lớn, cung tên, giáo mác; chúng sẽ đem chụm lửa trong bảy năm.
\v 10 Chúng sẽ không lấy củi từ đồng ruộng hoặc đốn củi trong rừng, một khi chúng sẽ chụm các thứ vũ khí; chúng sẽ lấy từ những kẻ cướp lột chúng; chúng sẽ cướp giựt những kẻ đã cướp giựt chúng — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 11 Rồi sẽ xảy ra trong ngày đó, ta sẽ cho Gót một chỗ tại đó — một nghĩa địa trong Y-sơ-ra-ên, một chỗ đồng bằng dành cho những người nào đi về phương đông biển. Chỗ đó sẽ chặn những ai muốn vượt qua đó. Tại đó chúng sẽ chôn Gót cùng cả đoàn dân nó. Chúng sẽ gọi nơi đó là là đồng trũng của đảng Gót.
\s5
\v 12 Trong bảy tháng nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chôn chúng nó để làm cho sạch đất.
\v 13 Vì hết thảy dân cư trong đất sẽ chôn chúng nó; đây sẽ là một ngày đáng nhớ cho dân sự khi ta được vinh hiển — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 14 Lúc ấy, chúng sẽ cắt người giao cho phần việc tuần tra trong đất để chôn những thây còn sót lại trên mặt đất để làm cho sạch đất. Chúng sẽ khởi sự phần việc nầy sau tháng thứ bảy.
\v 15 Khi những kẻ nầy đi ngang qua xứ, khi họ nhìn thấy xương cốt của người ta, họ sẽ thì dựng tiêu chí bên cạnh đó, cho đến chừng nào những kẻ đào mồ đến rồi chôn hài cốt ấy trong đồng trũng của đảng Gót.
\v 16 Cũng sẽ có một thành được gọi tên là Đảng. Theo phương thức nầy họ sẽ làm cho đất được sạch.
\s5
\v 17 Giờ đây, ngươi, hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hãy nói với loài chim cùng hết thảy các loài thú trong đồng ruộng: Hãy cùng nhau nhóm lại! Hãy nhóm lại từ bốn phương vì một của lễ mà ta dọn cho các ngươi, một của lễ lớn trên vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên, hầu cho ngươi ăn thịt và uống huyết.
\v 18 Bay sẽ ăn thịt của những chiến binh và uống huyết của các quan trưởng trong thiên hạ; chúng sẽ là những chiên đực, chiên con, dê đực, và bò đực, hết thảy chúng được vỗ béo ở Ba-san.
\s5
\v 19 Khi ấy bay sẽ ăn mỡ cho tới khi no; bay sẽ uống huyết cho tới lúc say mèm; đây sẽ là con sinh mà ta sẽ giết cho các ngươi.
\v 20 Các ngươi sẽ ăn no nê nơi bàn ta với ngựa, chiến xa, chiến binh, và mọi lính chiến — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va!
\s5
\v 21 Lúc đó, ta sẽ tỏ sự vinh hiển ta ra trong các nước; và hết thảy các dân tộc sẽ nhìn thấy sự đoán xét mà ta làm ra, và tay ta đặt nghịch cùng chúng nó.
\v 22 Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ biết ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình từ ngày đó trở đi.
\s5
\v 23 Và các dân tộc sẽ nhìn biết rằng nhà Y-sơ-ra-ên đã bước vào chốn phu tù vì cớ tội lỗi nó nhơn đó chúng đã phản ta. Vậy ta giấu mặt ta khỏi chúng, và ta đã phó chúng nó trong tay những kẻ nghịch thù, và chúng nó chết hết thảy bởi gươm.
\v 24 Ta đã làm cho chúng nó tuỳ theo sự bất khiết và tội lỗi của chúng nó, khi ta che mặt khỏi chúng nó.
\s5
\v 25 Vì lẽ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Giờ đây, ta sẽ phục hồi số phận của Gia-cốp và ta sẽ thương xót cả nhà Y-sơ-ra-ên, khi ta hành xử với sự sốt sắng vì danh thánh ta!
\v 26 Lúc đó, chúng sẽ quên đi sự xấu hổ và mọi sự phản trắc mà chúng đã dùng để phản ta. Chúng sẽ quên hết mọi sự nầy khi chúng yên nghỉ an toàn trong đất mình, chẳng có ai làm cho chúng phải lo sợ hết.
\v 27 Khi ta phục hồi chúng từ giữa các dân và thâu chúng lại từ các đất kẻ thù chúng nó, ta sẽ bày tỏ chính mình ta ra là thánh ở trước mắt nhiều nước.
\s5
\v 28 Khi ấy, chúng sẽ nhìn biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng nó, vì ta đã đày chúng nó làm phu tù giữa các nước, rồi thâu chúng nó về lại đất của mình. Ta sẽ chẳng để sót một kẻ nào ở giữa vòng các nước.
\v 29 Ta sẽ không còn che mặt đối với chúng nó nữa khi ta đổ Thần ta trên nhà Y-sơ-ra-ên — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va! ’”
\s5
\c 40
\p
\v 1 Năm thứ hai mươi lăm cuộc phu tù của chúng ta, vào ngày thứ mười của tháng đầu năm, vào năm thứ mười bốn sau khi thành bị chiếm — vào chính ngày ấy, tay của Đức Giê-hô-va giáng trên ta và đem ta đến đó.
\v 2 Đức Chúa Trời đưa ta vào các sự hiện thấy về đất của Y-sơ-ra-ên. Ngài đưa ta đến yên nghỉ trên một hòn núi rất cao; đến phía nam, dường như có sự xây cất một thành ở đó.
\s5
\v 3 Khi ấy, Ngài dắt ta vào đó. Kìa! có một người hiện ra hình dáng giống như bằng đồng. Một sợi dây gai và một cái cần để đo ở trong tay người, và người đứng nơi cổng thành.
\v 4 Người ấy nói cùng ta: “Hỡi con người, hãy lấy mắt nhìn xem và để tai nghe, rồi hãy ghi nhớ mọi sự mà ta sẽ tỏ ra cho ngươi, vì ngươi đã được đem đến đây hầu cho ta có thể tỏ chúng ra cho ngươi thấy. Hãy tường trình lại mọi việc mà ngươi sẽ nhìn thấy về nhà Y-sơ-ra-ên”.
\s5
\v 5 Có một bức tường ở chung quanh đền thờ, và có một cái cần để đo ở trong tay người, dài sáu cu-đê — mỗi cu-đê “dài hơn” cu-đê thường một gang tay. Người đo bề rộng của bức tường — một cần — và bề cao — là một cần.
\v 6 Khi ấy, người đi đến cổng đền thờ đối mặt với hướng đông, và bước lên những nấc thang. Người đo thềm cửa — sâu vô một cần.
\v 7 Hốc tường phòng lính canh dài một cần và rộng một cần; có năm cu-đê giữa hai hốc tường, và thềm của cổng đền thờ rộng một cần.
\s5
\v 8 Người đo thềm ngoài của cổng; thềm ấy dài một cần.
\v 9 Người đo thềm cửa; sâu vào một cần. Và hai cột cửa rộng hai cu-đê. Đây là thềm cửa đối diện với đền thờ.
\v 10 Hốc tường lính canh nơi cửa mỗi bên ba cái của từng cánh cửa, cả ba đều nhau, và bức tường phân ra đều nhau ở mỗi bên.
\s5
\v 11 Khi ấy, người đo bề rộng lối vào ngay cửa — có mười cu-đê; và người đo bề dài lối vào ngay cửa — mười ba cu-đê.
\v 12 Người đo bức tường làm biên ở trước chỗ canh gát — cao một cu-đê. Và mỗi phòng — mỗi bề có sáu cu-đê.
\v 13 Rồi người đo lối vào từ mái của phòng gát nầy đến mái của phòng khác — là hai mươi lăm cu-đê, từ cửa nầy đến cửa kia.
\s5
\v 14 Khi ấy, người đo bức tường chạy ở giữa mấy phòng gát — dài sáu mươi cu-đê; người đo từ lối cổng vào.
\v 15 Lối vào trước mặt cổng cho đến phần cuối lối vào là năm mươi cu-đê.
\v 16 Có những cửa sổ hẹp ở các phòng gát, và trong các bức tường phân biệt trong ngoài, thảy đều có những cửa sổ chấn song. Nơi phía trong, chung quanh đều có những cửa sổ. Có hình cây kè trên các bức tường.
\s5
\v 17 Thế rồi, người dẫn ta vào nơi hành lang ngoài của đền thờ. Kìa! có nhiều phòng, và có lót đá ở hành lang, với ba mươi phòng gần lối đi.
\v 18 Lót đá ở bên hông của hai cửa, và bề dài cũng y như bề rộng cửa. Đây là phần lót đá thấp hơn.
\v 19 Khi ấy, người đo bề ngang khoảng cách từ trước cổng thấp hơn cho đến phía trước cửa trong; là một trăm cu-đê, phía đông cũng như phía bắc.
\s5
\v 20 Rồi người đo bề dài và bề rộng của cửa nằm ở phía bắc hành lang ngoài.
\v 21 Có ba phòng gát ở mỗi bên cửa, và cánh cổng và lối đi cũng được đo y như cửa chính — năm mươi cu-đê toàn bộ bề dài và hai mươi lăm cu-đê bề ngang.
\s5
\v 22 Những cửa sổ, lối đi, phòng gát, và các cây kè tương ứng với cánh cổng đối diện phía đông. Có bảy nấc thang đi đến đó, và đến cửa của nó.
\v 23 Có một cánh cửa đến hành lang sân trong trước cổng đối diện với phía Bắc, cũng giống như có một cánh cổng về phía đông; người đo từ cổng nầy đến cổng kia — dài độ một trăm cu-đê.
\s5
\v 24 Kế đó, người ấy đưa ta đến lối vào cổng phía nam, và các bức tường và lối đi của nó được đo y như cổng phía ngoài.
\v 25 Có những cửa sổ hẹp ở lối đi ra chỗ cửa giống như ở cổng kia. Cổng phía nam và lối đi đo được năm mươi cu-đê chiều dài, và chiều ngang hai mươi lăm cu-đê.
\s5
\v 26 Có bảy nấc thang bước lên đến cổng và lối đi của nó, và có hình cây kè trên các bức tường ở mỗi bên.
\v 27 Có một cánh cổng đến hành lang sân trong ở sườn phía nam, và người ấy đo từ cổng nầy đến cổng lối vào phía nam — dài khoảng một trăm cu-đê.
\s5
\v 28 Khi ấy, người đem ta vào hành lang trong bởi lối cổng phía nam, ở đây có cùng số đo y như các cổng khác.
\v 29 Những phòng gát, các bức tường, và lối đi được đo y như mấy cổng kia; có những cánh cửa sổ bao quanh lối đi. Cổng trong và lối đi của nó đo được năm mươi cu-đê chiều dài, và chiều ngang hai mươi lăm cu-đê.
\v 30 Cũng có các lối đi chung quanh bức tường phía trong; bề dài hai mươi lăm cu-đê và bề ngang năm cu-đê.
\v 31 Lối đi nầy đối diện với hành lang ngoài với hình cây kè trên các tường nó và tám nấc thang đi lên.
\s5
\v 32 Khi ấy, người đưa ta vào hành lang trong bằng lối đi phía đông và đo cánh cổng, chúng có cùng số đo y như các cổng khác.
\v 33 Các phòng gát, các bức tường, và lối đi đo được y như các cổng khác, và có những cánh cửa sổ bao quanh. Cổng trong và lối đi của nó đo được năm mươi cu-đê chiều dài, chiều rộng hai mươi lăm cu-đê.
\v 34 Lối đi của nó đối diện với hành lang ngoài; nó có các cây kè trên mỗi bên của nó và tám nấc thang đi lên.
\s5
\v 35 Kế đó, người đưa ta đến cổng phía bắc và đo nó; nó đo được y như các cổng khác.
\v 36 Những phòng gát, các bức tường, và lối đi được đo y như mấy cổng kia; có những cánh cửa sổ bao quanh lối đi. Cổng và lối đi nầy đo được năm mươi cu-đê chiều dài, chiều rộng hai mươi lăm cu-đê.
\v 37 Lối đi của nó đối diện với hành lang ngoài; nó có những hình cây kè ở mỗi bên, và có tám nấc thang bước lên.
\s5
\v 38 Có một gian phòng với cánh cửa bên từng cửa phía trong. Đây là chỗ họ rửa các của lễ thiêu ở đó.
\v 39 Có hai cái bàn ở mỗi bên lối đi, người ta giết những con sinh về của lễ thiêu trên đó, cũng y như thế cho của lễ chuộc sự mắc lỗi, và về của lễ chuộc tội.
\s5
\v 40 Cạnh bức tường của hành lang, đi tới cổng phía bắc, có hai cái bàn. Ở mỗi bên cũng có hai cái bàn nơi lối vào cổng.
\v 41 Có bốn cái bàn ở mỗi bên cửa; họ giết các con sinh trên tám cái bàn.
\s5
\v 42 Có bốn cái bàn cắt bằng đá dùng về của lễ thiêu, dài một cu-đê rưỡi, rộng một cu-đê rưỡi, và cao một cu-đê. Họ để các thứ công cụ trên chúng, với các thứ công cụ ấy họ dùng mà giết con sinh về của lễ thiêu và các của lễ khác.
\v 43 Có những móc rộng bằng lòng bàn tay cắm quanh lối đi, và thịt con sinh sẽ được đặt lên mấy cái bàn.
\s5
\v 44 Gần cửa trong, nơi hành lang trong, là phòng dành cho những kẻ ca hát. Một trong các phòng ấy nằm ở phía bắc, và một phòng ở phía nam.
\v 45 Rồi người nói cùng ta: “Phòng nầy đối diện phía nam thì dành cho các thầy tế lễ nào có bổn phận trong đền thờ.
\s5
\v 46 Và cái phòng đối diện phía bắc là dành cho các thầy tế lễ có bổn phận nơi bàn thờ. Đây là các con trai của Xa-đốc, họ đến gần Đức Giê-hô-va đặng hầu việc Ngài; họ có mặt giữa vòng các con trai của Lê-vi”.
\v 47 Kế đó, người đo hành lang — một trăm cu-đê chiều dài và một trăm cu-đê chiều ngang theo hình vuông, với bàn thờ đứng ở trước mặt gian nhà.
\s5
\v 48 Khi ấy, người đem ta vào lối đi của nhà rồi đo các cột ở đó — chúng dày năm cu-đê ở mỗi bên. Chính lối đi đo được mười bốn cu-đê chiều rộng, và các bức tường ở mỗi bên đều đo được ba cu-đê.
\v 49 Lối đi của nơi thánh là hai mươi cu-đê chiều dài, và mười một cu-đê bề ngang. Có các nấc thang bước lên nơi thánh và hai cây cột đứng ở hai bên.
\s5
\c 41
\p
\v 1 Lúc đó, người đem ta vào trong nơi thánh của đền thờ và người đo các cột cửa — sáu cu-đê mỗi bề.
\v 2 Bề ngang của lối vào là mười cu-đê; bức tường mỗi bên dài năm cu-đê. Khi ấy, người đo các chiều kích của nơi thánh —dài: bốn mươi cu-đê và ngang: hai mươi cu-đê.
\s5
\v 3 Rồi người vào bên trong chính nơi thánh và đo hai cột cửa ở lối vào — hai cu-đê; và lối vào rộng sáu cu-đê. Các bức tường mỗi bên rộng bảy cu-đê.
\v 4 Khi ấy, người đo chiều dài căn phòng — hai mươi cu-đê. Và bề ngang của nó — bề ngang hai mươi cu-đê đến phía trước hành lang, Rồi người bảo ta rằng: “Đây là nơi chí thánh”.
\s5
\v 5 Rồi người đo tường nhà — dày sáu cu-đê. Bề rộng của những phòng cạnh bên khắp chung quanh nhà là bốn cu-đê.
\v 6 Có ba cấp phòng bên hông, vì có rất nhiều phòng; ba mươi phòng cho từng cấp. Và mấy cái gờ nằm trên tường cho sáu phòng chung quanh nhà, để đỡ lấy các phòng ở trên, vì chẳng có một chỗ đỡ nào đặt trong tường nhà.
\v 7 Vậy, các phòng bên càng cao và đi vòng lên cao, vì nhà càng lên cao và cao hơn, các căn phòng càng rộng khi nhà lên cao. Và một cái thang dẫn lên đến tầng cao nhất, qua tầng giữa.
\s5
\v 8 Khi ấy, Ta thấy phần nhô cao ở quanh nhà, nền của các phòng bên, có chiều cao một cần — sáu cu-đê.
\v 9 Bề rộng của bức tường các phòng bên ở ngoài là năm cu-đê. Có một khoảng trống ra ngoài của các phòng nầy trong nơi thánh.
\s5
\v 10 Ở mặt kia khoảng trống nầy là phòng ốc phía ngoài của thầy tế lễ: khoảng trống nầy rộng hai mươi cu-đê ở chung quanh nơi thánh.
\v 11 Có những cánh cửa vào trong các phòng bên từ khoảng trống khác — một lối vào đặt ở phía bắc, và lối kia ở phía nam. Chiều rộng của khu vực trống nầy là năm cu-đê bao quanh.
\s5
\v 12 Toà nhà đối diện với hành lang ở phía tây rộng bảy mươi cu-đê. Bức tường của nó đo được dày năm cu-đê cả thảy và dài chín mươi cu-đê.
\v 13 Khi ấy người đo nơi thánh — dài một trăm cu-đê. Và toà nhà phân biệt, và tường của nó cũng đo được một trăm cu-đê theo chiều dài.
\v 14 Bề ngang phía trước hành lang nơi thánh cũng đo được một trăm cu-đê.
\s5
\v 15 Kế đó, người đo chiều dài của toà nhà ở đàng sau nơi thánh, về phía tây của nó, và các hành lang ở mỗi bên — là một trăm cu-đê. Nơi thánh và lối đi,
\v 16 các bức tường phía trong cùng những cánh cửa sổ, bao gồm các cửa sổ hẹp, cùng các hành lang bao chung quanh trên ba tầng, thảy đều lợp mái bằng ván.
\v 17 Trên lối vào nơi thánh và khoảng trống dọc theo các bức tường chung quanh có khắc hình chê-ru-bin và cây kè, đối với nhau.
\s5
\v 18 Và ở đó có trang trí với chê-ru-bin và cây kè; với một cây kè ở giữa mỗi chê-ru-bin. Và mỗi chê-ru-bin đều có hai mặt:
\v 19 mặt người ta xây theo hướng chê-ru-bin, và mặt sư tử tơ xây theo hướng cây kè ở mặt kia. Những hình chạm nầy trang trí khắp cả ngôi nhà.
\v 20 từ mặt đất lên đến cánh cửa có hình trang trí chê-ru-bin cùng các cây kè trên bức tường của đền thờ.
\s5
\v 21 Các cột cửa của nơi thánh đều vuông vức, và hết thảy chúng trông giống nhau.
\v 22 Bàn thờ thì bằng gỗ ở trước nơi thánh cao ba cu-đê, dài hai cu-đê ở mỗi bên. Các cột góc, nền, và khung đều bằng gỗ. Khi ấy người ấy bảo ta rằng: “Đây là cái bàn đặt trước mặt Đức Giê-hô-va”.
\v 23 Có hai cánh cửa kép dành cho nơi thánh và nơi chí thánh.
\v 24 Các cánh cửa nầy có hai cánh khép lại được, cửa nầy hai cánh, cửa kia hai cánh.
\s5
\v 25 Chạm khắc trên chúng — trên các cặp cửa của nơi thánh — là hình chê-ru-bin và cây kè giống như được trang trí trên các bức tường, và có cái mái gỗ đặt trên lối đi phía trước.
\v 26 Có những cửa sổ hẹp và những hình cây kè ở mỗi bên của lối đi. Có các phòng bên của ngôi nhà, và chúng cũng có những mái treo.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Kế đó, người đưa ta vào hành lang ngoài về phía bắc, và người đem ta vào trong mấy căn phòng ở phía trước hành lang ngoài và bức tường ngoài ở phía bắc.
\v 2 Các căn phòng ấy dài một trăm cu-đê phía trước và ngang năm mươi cu-đê.
\v 3 Một số phòng đối diện với hành lang trong dài hai mươi cu-đê dọc theo nơi thánh. Có ba tầng phòng, và các tầng phía trên nhìn xuống các tầng phía dưới và rất thoáng, có một lối đi. Và một số phòng ngó ngang qua hành lang ngoài.
\s5
\v 4 Một lối đi rộng mười cu-đê và dài một trăm cu-đê ở trước mặt các phòng. Những cửa phòng đều hướng về phía bắc.
\v 5 Nhưng các lối đi phía trên thì nhỏ hơn, vì các lối đi nầy chiếm khoảng trống nhiều hơn phía dưới và các tầng giữa của toà nhà.
\v 6 Vì chúng có ba tầng, và chẳng có cây cột nào, không giống như các hành lang, đều có cột. Vậy, các tầng trên bị co lại theo kích cở so với các tầng thấp hơn và tầng giữa.
\s5
\v 7 Và bức tường ngoài chạy dọc theo các phòng hướng về hành lang ngoài, hành lang nằm ở trước mặt các phòng. Bức tường ấy dài năm mươi cu-đê.
\v 8 Chiều dài của các phòng ở hành lang ngoài là năm mươi cu-đê, và các phòng đối diện với nơi thánh dài một trăm cu-đê.
\v 9 Có một lối vào các phòng thấp hơn từ mặt phía đông, đến từ hành lang ngoài.
\s5
\v 10 Dọc theo bức tường ngoài nơi mặt phía đông của hanh lang ngoài, trước mặt hành lang trong của nơi thánh, cũng có nhiều căn phòng.
\v 11 Có một lối đi trước các phòng ấy cũng có chiều dài chiều rộng y như các phòng ở phía bắc. Chúng cũng có cùng một số lối vào.
\v 12 Ở mặt phía nam cũng y như mặt phía bắc. Một lối đi vào bên trong có cánh cửa ở đầu ngõ của nó, và lối đi mở vào các gian phòng khác nhau. Ở mặt phía đông có một lối đi vào ở cuối ngõ của nó.
\s5
\v 13 Khi ấy, người bảo ta rằng: “Các phòng phía bắc và các phòng phía nam, ở ngay trước hành lang ngoài là những phòng thánh, ở đây các thầy tế lễ nào đến gần Đức Giê-hô-va có thể dùng thức ăn của nơi chí thánh. Họ sẽ đặt để các vật chí thánh ở đó — của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội — vì đây là nơi thánh.
\v 14 Khi các thầy tế lễ đã vào đó rồi, họ không phải ra khỏi nơi thánh mà đến hành lang ngoài, không đặt y phục họ mặc phục sự riêng ra, một khi y phục ấy là thánh. Vậy, họ phải mặc thứ y phục khác trước khi đến gần dân sự.
\s5
\v 15 Người ấy đã hoàn tất việc đo đạt phần nhà trong và rồi người đem ta ra nơi cổng đối diện với phía đông và mọi khu vực quanh đó.
\s5
\v 16 Người đo phần phía đông với cái cần đo — có năm trăm cần.
\v 17 Người đo phần phía bắc — năm trăm cần với cần đo đó.
\v 18 Người cũng đo phần phía nam — năm trăm cần với cần đo đó.
\v 19 Người cũng trở qua rồi đo phần phía tây — năm trăm cần với cần đó đó.
\s5
\v 20 Người đo khu vực ấy bốn phía, bức tường bao quanh ngôi nhà có chiều dài là năm trăm cần và chiều rộng là năm trăm cần phân biệt nơi thánh với nơi tục.
\s5
\c 43
\p
\v 1 Người đưa ta vào cổng mở ra về phía đông.
\v 2 Kìa! Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên đến từ phía đông; tiếng của Ngài giống như tiếng nước lớn, và đất sáng rực với sự vinh hiển Ngài!
\s5
\v 3 Và sự nầy giống như sự hiện thấy mà ta đã thấy khi Ngài đến để huỷ diệt thành, và giống như sự hiện thấy mà ta đã thấy bên bờ sông Kê-ba — và ta sấp mặt xuống!
\v 4 Thế là sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đã đến với ngôi nhà do cổng mở ra về phía đông.
\v 5 Khi ấy, Thần cất ta lên rồi đưa ta vào nơi hành lang trong. Kìa! Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy ngôi nhà!
\s5
\v 6 Người đến đứng bên cạnh ta, và ta nghe có ai nói với ta từ ngôi nhà.
\v 7 Người nói cùng ta: “Hỡi con người, đây là nơi đặt ngai ta, là nơi để bàn chân ta, tại đây ta sẽ ở đời đời giữa vòng dân sự Y-sơ-ra-ên. Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng còn báng bổ danh thánh ta nữa — chúng và các vua của chúng — với sự bất trung của chúng hay với “các thây ma” các vua chúng nó tại các chùa miễu của chúng.
\v 8 Chúng không còn báng bổ danh thánh ta bằng cách đặt thềm chùa miễu của chúng ở gần thềm cửa ta, và trụ cửa của chúng ở kề bên trụ cửa của ta, chẳng có chi khác trừ ra bức tường giữa ta và chúng. Chúng báng bổ danh thánh ta với các việc làm gớm ghiếc của chúng, vì thế ta tuyệt diệt chúng nó đi với cơn giận của ta.
\s5
\v 9 Bây giờ, hãy khiến chúng nó bỏ sự bất trung của chúng đi và “các thây ma” các vua của chúng khỏi mặt ta, thì ta sẽ ở giữa chúng nó cho đến đời đời!
\s5
\v 10 Hỡi con người, chính ngươi phải nói cho nhà Y-sơ-ra-ên biết về nhà nầy để chúng nó phải biết xấu hổ về tội lỗi mình. Chúng nó phải suy nghĩ về phần mô tả nầy.
\v 11 Vì nếu chúng nó lấy làm xấu hổ về mọi điều chúng đã làm, khi ấy hãy tỏ ra cho chúng biết thiết kế của ngôi nhà, các chi tiết, lối ra lối vào, hết thảy các chi tiết, các mạng lịnh và lệ luật của nó. Rồi hãy viết ra sự nầy trước mắt chúng hầu cho chúng nó giữ lấy thiết kế cùng mọi lệ luật, hầu cho chúng vâng theo chúng.
\s5
\v 12 Đây là luật lệ của ngôi nhà: Từ đỉnh núi cho đến các đường biên chung quanh nó, đó sẽ là nơi chí thánh. Hãy xem! Đây là luật lệ dành cho ngôi nhà.
\s5
\v 13 Những con số nầy sẽ số đo của bàn thờ tính bằng cu-đê — mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường một gang tay. Vậy, cái rãnh quanh bàn thờ sẽ sâu một cu-đê, và chiều rộng nó cũng là một cu-đê. Và đường biên quanh nó cao một gang. Đây sẽ là cái đế của bàn thờ.
\v 14 Từ cái đế ở mặt đất cho đến cái rãnh dưới là hai cu-đê, với cái gờ rộng một cu-đê. Từ cái gờ nhỏ cho đến cái gờ lớn là bốn cu-đê, với cái gờ lớn rộng một cu-đê.
\s5
\v 15 Mặt bàn thờ dành cho của lễ thiêu cao bốn cu-đê, và có bốn cái sừng chỉa thẳng lên mặt bàn thờ.
\v 16 Mặt bàn thờ vuông vức dài mười hai cu-đê và ngang mười hai cu-đê.
\v 17 Đường biên của nó dài mười bốn cu-đê và ngang mười bốn cu-đê ở mỗi cạnh của nó, và cái gờ rộng nửa cu-đê. Cái gờ rộng một cu-đê giáp vòng các nấc thang hướng về phía đông”.
\s5
\v 18 Kế đó, người nói cùng ta: “Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đây là các luật lệ về bàn thờ nhằm ngày họ xây dựng nó, để dâng của lễ thiêu trên đó, và rưới huyết trên đó.
\v 19 Ngươi sẽ dâng một con bò đực bắt từ bầy làm của lễ chuộc tội cho các thầy tế lễ người Lê-vi thuộc dòng Xa-đốc, những người đó đến gần ta đặng phục vụ ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 20 Khi ấy ngươi lấy một ít huyết nó rồi bôi trên bốn sừng bàn thờ và bốn góc bàn thờ, và trên cái gờ bao quanh nó; ngươi sẽ làm sạch bàn thờ và thực hiện sự chuộc tội cho nó.
\v 21 Lúc đó, ngươi lấy con bò đực làm của lễ chuộc tội rồi thiêu nó trong nơi đã ấn định trong khu vực đền thờ ngoài nơi thánh.
\s5
\v 22 Nhằm ngày thứ hai, ngươi sẽ dâng một con dê đực không tì vít từ bầy dê làm của lễ chuộc tội; các thầy tế lễ sẽ làm sạch bàn thờ y như họ làm sạch nó với con bò đực vậy.
\v 23 Khi ngươi làm sạch xong, hãy dâng một con bò đực không tì vít bắt từ bầy và một con chiên đực không tì vít bắt từ bầy.
\v 24 Hãy dâng chúng trước mặt Đức Giê-hô-va; các thầy tế lễ rưới muối lên chúng và dâng chúng làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 25 Ngươi phải sửa soạn một con dê đực làm của lễ chuộc tội hàng ngày trong bảy ngày, và các thầy tế lễ cũng phải sửa soạn một con bò đực bắt từ bầy và một con chiên đực không tì vít bắt từ bầy.
\v 26 Họ phải chuộc tội cho bàn thờ trong bảy ngày và làm sạch nó, và đồng thời họ phải làm cho bàn thờ ra thánh.
\v 27 Họ phải hoàn tất số ngày nầy, rồi qua ngày thứ tám trở đi, các thầy tế lễ sẽ sửa soạn dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân của các ngươi lên bàn thờ, thì ta sẽ nhậm cho — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 44
\p
\v 1 Khi ấy, người đưa ta trở lại cổng ngoài nơi thánh đối ngang với phía đông; cổng vẫn đóng chặt.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Cổng nầy sẽ đóng luôn với ấn niêm, nó sẽ không được mở. Không một ai sẽ đi qua đó, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã bước vào bởi cổng ấy; vì vậy, cổng ấy sẽ đóng chặt lại.
\v 3 Vua của Y-sơ-ra-ên sẽ ngồi ở đó để ăn bánh trước mặt Đức Giê-hô-va. Vua sẽ bước vào bởi lối vào nơi cổng và cũng đi ra bởi cùng một lối ấy”.
\s5
\v 4 Kế đó, người bởi lối cổng phía bắc đối ngang nhà đưa ta đến đó. Vậy, Ta nhìn xem, và kìa, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy nhà Đức Giê-hô-va, còn ta thì sấp mặt xuống!
\v 5 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán cùng ta: “Hỡi con người, hãy để tấm lòng ngươi và dùng mắt nhìn cho thật kỹ và lấy tai nghe mọi điều mà ta sẽ phán cùng ngươi, về mọi mạng lịnh mọi lệ luật của nhà Đức Giê-hô-va. Hãy suy nghĩ về lối vào lối ra của ngôi nhà.
\s5
\v 6 Lúc đó ngươi hãy nói cùng những kẻ bạn nghịch, tức là nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy xem xét những hành động đáng gớm ghiếc của các ngươi đã đủ rồi —
\v 7 các ngươi đã đưa những kẻ lạ với tấm lòng không chịu cắt bì cũng như thịt vào trong nơi thánh ta đặng báng bổ nó — trong khi các ngươi dâng cho ta bánh, mỡ và huyết của ta; để các ngươi đã phạm giao ước ta bởi mọi sự gớm ghiếc của các ngươi.
\s5
\v 8 Các ngươi không hành động đáp ứng theo đối với các bổn phận của các ngươi dành cho ta; thay vì thế, các ngươi đã dành cho nhiều người khác bổn phận phải quan tâm đến nơi thánh ta.
\v 9 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Không một người ngoại từ sắc dân nào đang sống giữa dân Israel, đã chịu phép cắt bì về lòng, cũng như về thịt nó mà được vào trong nơi thánh ta.
\s5
\v 10 Duy người Lê-vi lầm lạc cách xa ta phiêu bạt xa nhà, họ đã đi cách xa ta, bỏ ta đặng phục vụ thần tượng nó — họ sẽ trả giá về tội lỗi của họ.
\v 11 Họ là hạng tôi tớ ta trong nơi thánh ta, canh gát các cửa nhà và phục vụ ở trong nhà. Họ đã giết con sinh của lễ thiêu và các con sinh khác; họ đứng trước mặt dân sự phục vụ họ.
\v 12 Nhưng vì chúng nó đã dâng các thứ của lễ trước mặt các hình tượng của chúng, chúng trở thành vầng đá vấp chơn vì tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên. Vì lẽ đó, ta sẽ giơ tay lên thề nghịch cùng chúng nó — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va — chúng sẽ trả giá cho tội lỗi của chúng nó.
\s5
\v 13 Chúng nó sẽ không đến gần ta để làm công việc thầy tế lễ trước mặt ta hoặc sẽ không đến gần bất kỳ vật thánh nào của ta, không được đến gần những vật rất thánh! Thay vì thế, chúng sẽ lãnh lấy lời quở trách và tội lỗi của chúng vì những hành vi gớm ghiếc mà chúng đã phạm.
\v 14 Nhưng ta sẽ đặt chúng làm kẻ lo liệu các công việc trong nhà, vì mọi bổn phận trong nhà ấy và mọi sự được làm ra trong đó.
\s5
\v 15 Và các thầy tế lễ họ Lê-vi, con cháu của Xa-đốc, những kẻ lo chu toàn các bổn phận của nơi thánh ta khi dân sự Y-sơ-ra-ên phiêu bạt không còn bước theo ta nữa — những kẻ đó sẽ đến gần ta lo thờ phượng ta và sẽ đứng trước mặt ta đặng dâng mỡ và huyết cho ta — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 16 Chúng sẽ vào nơi thánh ta; chúng sẽ đến gần bàn ta để thờ lạy ta và chu toàn các bổn phận đối với ta.
\s5
\v 17 Vậy, khi chúng nó đến ở các cổng của hành lang trong, chúng sẽ phải mặt áo bằng vải gai mịn, vì chúng nó sẽ không đến khi mặc đồ bằng lông chiên trong các cổng hành lang trong và nhà của nó.
\v 18 Sẽ có khăn bằng gai đội trên đầu chúng và mặc quần đùi bằng gai nơi hông. Chúng không mặc các thứ ý phục làm cho chúng phải đồ mồ hôi.
\s5
\v 19 Khi chúng nó đi qua nơi hành lang ngoài, đến chỗ hành lang ngoài để đến với dân sự, chúng phải cởi lớp áo mà chúng đã mặc khi phục vụ; chúng phải cởi y phục ấy ra rồi để trong một phòng thánh, vậy chúng không làm cho người khác ra thánh bằng cách tiếp xúc với loại y phục đặc biệt của chúng.
\s5
\v 20 Chúng cũng không phải cạo đầu cũng không để tóc dài, nhưng tóc trên đầu chúng phải chỉnh tề.
\v 21 Chẳng có thầy tế lễ nào được uống rượu khi họ vào nơi hành lang trong.
\v 22 cũng không được lấy góa phụ hoặc người nữ bị ly dị mà làm vợ cho mình, nhưng chỉ lấy nữ đồng trinh về dòng nhà Y-sơ-ra-ên hoặc là lấy vợ góa của một thầy tế lễ trước đây.
\s5
\v 23 Vì chúng sẽ dạy cho dân ta biết phân biệt giữa thánh và tục; chúng sẽ khiến cho họ nhìn biết điều ô uế đối với điều thánh sạch.
\v 24 Trong một sự tranh chấp, chúng nó phải đứng xử đoán theo các mạng lịnh của ta; chúng phải sống công bình. Và chúng sẽ gìn giữ luật pháp ta và các lệ luật ta trong mọi kỳ lễ của ta; chúng sẽ làm cho các ngày Sa-bát ta ra thánh.
\s5
\v 25 Chúng sẽ chẳng đi đến một kẻ chết mà bị ô uế, trừ phi đó là cha hay mẹ, con trai, con gái, anh hay chị nào chưa ngủ với đàn ông, nói cách khác, chúng sẽ bị ô uế.
\v 26 Sau khi một thầy tế lễ bị ô uế, người ta sẽ đếm bảy ngày cho người.
\v 27 Trước ngày người đến với nơi thánh, trong hành lang trong để phục vụ trong nơi thánh, người phải dâng của lễ chuộc tội cho bản thân mình — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Và đây là cơ nghiệp của người: Ta sẽ là cơ nghiệp của chúng nó! Vậy các ngươi không trao cho chúng cơ nghiệp trong Y-sơ-ra-ên; ta là cơ nghiệp của chúng nó.
\v 29 Chúng sẽ ăn các thứ của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội; mọi thứ được dâng cho Đức Giê-hô-va trong Y-sơ-ra-ên, sẽ thuộc về chúng nó.
\s5
\v 30 Các thứ tốt nhứt trong hoa quả đầu mùa của mọi thứ sản vật và từng thứ đóng góp, bất cứ thứ chi từ hết thảy các thứ đóng góp đều thuộc về dòng thầy tế lễ, và các ngươi sẽ dâng thứ tốt nhứt trong các thứ của lễ dùng để ăn cho các thầy tế lễ, hầu cho ơn phước sẽ giáng trên nhà các ngươi.
\v 31 Các thầy tế lễ sẽ không nên ăn thịt của một con thú nào chết tự nhiên, hay là bị xé, dù là thịt chim, hoặc loài thú.
\s5
\c 45
\p
\v 1 Khi các ngươi bắt thăm phân chia xứ như một cơ nghiệp, các ngươi phải làm một của lễ dâng lên Đức Giê-hô-va, của lễ nầy sẽ là một phần thánh trong xứ, chiều dài sẽ là hai mươi lăm ngàn cần, và chiều ngang người ngàn cần. Phần ấy sẽ là thánh, chung quanh phần đất đó.
\v 2 Từ phần đất nầy, sẽ là một miếng đất vuông năm trăm cu-đê mỗi bề sẽ là nơi thánh, với đường biên bao quanh năm mươi cu-đê.
\s5
\v 3 Từ khu vực nầy, các ngươi sẽ đo một phần dài hai mươi lăm ngàn và rộng mười ngàn; đó sẽ là một phần thánh cho các ngươi; một nơi chí thánh.
\v 4 Đó sẽ là một phần thánh trong xứ dành cho thầy tế lễ nào phục vụ Đức Giê-hô-va, người đến gần Đức Giê-hô-va đặng hầu việc Ngài. Đó sẽ là chỗ cho nhà cửa của họ và một khu vực thánh dành cho nơi thánh.
\v 5 Một phần khác chiều dài hai mươi lăm ngàn và ngang mười ngàn cu-đê, và phần ấy sẽ dành cho các thị trấn thuộc về các người Lê-vi nào phục vụ trong ngôi nhà.
\s5
\v 6 Các ngươi sẽ ấn định một khu vực để xây thành, chiều ngang năm ngàn cu-đê, và hai mươi lăm ngàn chiều dài, kề bên khu vực được dành cho nơi thánh; thành nầy sẽ thuộc về cả nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Đất của nhà vua sẽ giáp hai bên khu vực được dành cho nơi thánh và thành phố. Phần đất ấy sẽ ở phía tây và phía đông của họ. Chiều dài sẽ tương ứng với chiều dài của một trong các phần nầy, từ tây sang đông.
\s5
\v 8 Phần đất nầy sẽ là tài sản dành cho nhà vua trong Y-sơ-ra-ên. Các vị vua của ta sẽ không lấn lướt dân ta nữa; thay vì thế, họ sẽ dâng đất cho nhà Y-sơ-ra-ên, cho các chi phái của họ.
\s5
\v 9 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi các vua Y-sơ-ra-ên, bấy nhiêu là đủ cho các ngươi rồi! Hãy cất bỏ bạo lực và tranh cạnh; hãy làm theo sự công bình và ngay thẳng! Hãy bỏ đi việc lạm dụng dân sự ta! — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\v 10 Các ngươi phải có những cây cân chính xác, những ê-pha chính xác, và những cái bát chính xác!
\v 11 Cái ê-pha và cái bát phải có sức chứa y như nhau, cái bát chứa được một phần mười của hô-me; cái ê-pha cũng là một phần mười hô-me. Sức chứa của nó sẽ tương ứng với hô-me.
\v 12 Một siếc-lơ sẽ là hai mươi ghê-ra; sáu mươi siếc-lơ sẽ tạo thành một min cho các ngươi.
\s5
\v 13 Đây là phần đóng góp mà các ngươi phải dâng lên: một phần sáu ê-pha cho từng hô-me lúa mì, và các ngươi sẽ dâng một phần sáu ê-pha cho từng hô-me mạch nha.
\v 14 Luật dâng dầu sẽ là một phần mười cái bát cho từng cô-rơ (10 cái bát), hoặc cho từng hô-me, một khi một hô-me là mười bát.
\v 15 Một con chiên hay một con dê bắt từ trong bầy trong từng hai trăm con từ các khu vực có nước tưới tiêu trong Y-sơ-ra-ên sẽ được sử dụng dùng làm của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ thù ân để thực hiện sự chuộc tội cho dân sự — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Hết thảy dân trong xứ sẽ dâng hiến phần đóng góp nầy cho nhà vua Y-sơ-ra-ên.
\v 17 Đây sẽ là trách nhiệm của nhà vua phải sắp đặt các con thú dùng làm của lễ thiêu, của lễ chay, và lễ quán trong các kỳ lễ, ngày trăng mới, ngày sa-bát, trong những ngày Sa-bát — hết thảy các kỳ lễ của nhà Y-sơ-ra-ên. Vua sẽ dâng của lễ chuộc tội, của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ thiêu, và của lễ thù ân để làm sự chuộc tội vì ích cho nhà Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 18 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Trong tháng thứ nhứt, ngày thứ nhứt trong tháng, các ngươi bắt lấy một con bò đực tơ từ trong bầy và dùng làm của lễ chuộc tội cho nơi thánh.
\v 19 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội rồi bôi huyết ấy lên mày cửa của ngôi nhà và trên bốn góc đường biên của bàn thờ, và trên mày cửa của cổng vào hành lang trong.
\v 20 Các ngươi sẽ làm điều nầy vào ngày thứ bảy trong tháng vì tội lỗi của mỗi người do tình cờ hoặc ngu dại; làm như thế các ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ.
\s5
\v 21 Trong tháng thứ nhứt nhằm ngày mười bốn của tháng, sẽ là một kỳ lễ cho các ngươi, một kỳ lễ có bảy ngày. Các ngươi sẽ ăn bánh không men.
\v 22 Vào ngày đó, nhà vua sẽ sửa soạn cho mình và vì cả dân sự trong xứ một con bò đực để dâng làm của lễ chuộc tội.
\s5
\v 23 Trong bảy ngày của kỳ lễ, nhà vua sẽ sửa soạn một của lễ thiêu dâng lên cho Đức Giê-hô-va: bảy con bò đực và bảy con chiên đực không vít, và một con dê đực mỗi ngày làm của lễ chuộc tội.
\v 24 Lúc đó, nhà vua sẽ dâng của lễ chay một ê-pha cho mỗi con bò đực và một ê-pha cho mỗi con chiên đực, với một hin dầu cho mỗi ê-pha
\s5
\v 25 Vào tháng thứ mười bảy nhằm ngày thứ mười lăm của tháng, tại kỳ lễ, nhà vua sẽ dâng của của lễ trong bảy ngày nầy: của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay và của lễ bằng dầu.
\s5
\c 46
\p
\v 1 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cổng của hành lang trong, đối diện với phía đông, sẽ đóng luôn trong sáu ngày làm việc; nhưng vào ngày Sa-bát cổng ấy sẽ mở ra, và vào ngày trăng mới cổng ấy cũng sẽ mở.
\v 2 Nhà vua sẽ bước vào hành lang ngoài bằng lối đi của cổng và hành lang của nó từ phía ngoài, và vua sẽ đứng trước hai cột cửa cổng phía trong khi các thầy tế lễ dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân. Lúc đó, vua sẽ thờ lạy tại thềm cửa cổng trong rồi đi ra ngoài, nhưng cổng sẽ không đóng lại cho đến chiều tối.
\s5
\v 3 Dân sự trong xứ cũng sẽ thờ lạy trước mặt Đức Giê-hô-va tại lối vào cổng nầy vào các ngày Sa-bát và những ngày trăng mới.
\v 4 Của lễ thiêu mà nhà vua dâng lên cho Đức Giê-hô-va vào ngày Sa-bát sẽ là sáu con chiên con không vít và một con chiên đực không vít.
\v 5 Của lễ chay với chiên đực sẽ là một ê-pha, và của lễ chay với các chiên con sẽ là những gì nhà vua muốn dâng, và một hin dầu với mỗi ê-pha gạo.
\s5
\v 6 Vào ngày trăng mới, các ngươi phải dâng một con bò đực tơ không tì vít, sáu con chiên con và một con chiên đực không tì vít.
\v 7 Nhà vua phải sắm của lễ chay một ê-pha cho con bò đực, một ê-pha cho con chiên đực, và những gì người muốn dâng cho các chiên con, và một hin dầu cho mỗi ê-pha gạo.
\v 8 Khi vua bước vào do đường cổng và hành lang của nó, người cũng phải rời đi theo cùng lối đó.
\s5
\v 9 Nhưng khi dân sự của đất đến trước mặt Đức Giê-hô-va theo kỳ lễ ấn định, thì hễ kẻ nào qua cổng phía bắc thờ phượng phải rời đi qua cổng phía Nam; còn kẻ nào bước vào qua cổng phía nam phải rời đi qua cổng phía bắc. Không một người nào được quay trở lại với cổng mà mình bước vào, vì người phải đi thẳng trước mặt mình.
\v 10 Và nhà vua sẽ ngự ở chính giữa; khi họ bước vào trong và khi họ rời đi, vua cũng rời đi.
\s5
\v 11 Và trong các kỳ lễ, của lễ chay phải là một ê-pha gạo cho con bò đực và một ê-pha cho con chiên đực, và bất cứ gì người muốn dâng với các chiên con, một hin dầu cho mỗi một ê-pha.
\v 12 Khi nhà vua dâng của lễ lạc ý cho Đức Giê-hô-va mỗi của lễ thiêu hay của lễ thù ân, nhà vua phải mở cổng hướng đông cho của lễ ấy, và dâng của lễ thiêu mình và của lễ thù ân mình y như người đã dâng nó nhằm ngày Sa-bát; khi ấy người phải đi ra và khi đã ra rồi phải đóng cổng lại.
\s5
\v 13 Mỗi ngày ngươi dâng lên cho Đức Giê-hô-va một con chiên con giáp năm, không tì vít; ngươi sẽ làm việc nầy vào mỗi buổi mai.
\v 14 Và ngươi sẽ dâng của lễ chay với nó mỗi buổi mai, một phần sáu ê-pha với một phần ba hin dầu để trộn với bột. Của lễ chay dâng cho Đức Giê-hô-va hằng ngày theo lệ luật đời đời.
\v 15 Họ sẽ sắm chiên con, của lễ chay, và dầu mỗi buổi mai, một của lễ thiêu thường trực.
\s5
\v 16 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nếu nhà vua dâng một của lễ cho bất kỳ con trai nào, của lễ ấy lấy trong cơ nghiệp của con ấy. Đây sẽ tài sản của các con trai người, đó là một cơ nghiệp.
\v 17 Nhưng nếu vua dâng một của lễ từ sản nghiệp mình thay cho một trong các tôi tớ người, thì vật ấy sẽ thuộc về kẻ đầy tớ cho đến năm phóng thích; rồi khi ấy thì vật đó sẽ trở về với nhà vua. Cơ nghiệp của vua chắc chắn sẽ thuộc về các con trai người.
\v 18 Nhà vua chớ lấy chi hết về sản nghiệp của dân sự, mà đuổi chúng nó khỏi chính cơ nghiệp nó; nhà vua phải tiếp trợ cho các con trai từ tài sản riêng của mình hầu cho dân ta ai nấy không bị tan lạc khỏi chính cơ nghiệp mình”.
\s5
\v 19 Kế đó, người dẫn ta qua lối vào ngay tại cổng đến các phòng thánh dành cho các thầy tế lễ, đối diện với phía bắc và kìa! Có một chỗ ở hướng về phía tây.
\v 20 Người bảo ta rằng: “Đây là chỗ mà các thầy tế lễ luột của lễ chuộc tội và của lễ chuộc sự mắc lỗi, và là chỗ họ sẽ nấu của lễ chay. Họ không được đem chúng ra nơi hành lang ngoài, để dâng dân sự cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Khi ấy người đưa ta ra nơi hành lang ngoài, và người dẫn ta ngang qua bốn góc hành lang ấy, và ta nhìn thấy mỗi góc hành lang có một cái sân khác.
\v 22 Nơi bốn góc hành lang ngoài có bốn góc sân, dài bốn mươi cu-đê và rộng ba mươi cu-đê. Ở đó các chiều kích giống như nhau cho bốn góc sân.
\v 23 Có một hàng đá bao quanh bốn cái sân ấy, và có chỗ nấu nướng ở dưới từng hàng đá đó.
\v 24 Người bảo ta rằng: “Đây là những chỗ mà các tôi tớ của đền thờ sẽ luột của thứ của lễ của dân sự”.
\s5
\c 47
\p
\v 1 Kế đó, người đưa ta trở lại lối vào đền thờ, và kìa! Nước tràn ra từ dưới thềm đền thờ trong nhà về phía đông — vì mặt trước đền thờ đối diện với phía đông — và nước ấy tràn xuống mặt phía nam đền thờ, chảy ngay vào bàn thờ.
\v 2 Vậy, người đưa ta ra qua cổng phía bắc và dẫn ta đi vòng đến cổng đối diện hướng đông. Kìa, nước tràn xuống từ cổng nầy xuôi về mặt phía nam của nó.
\s5
\v 3 Khi người dẫn ta hướng lên phía đông, có sợi dây đo trong tay người; người đo chẵn một ngàn cu-đê và khiến ta lội qua nước, nước lên đến mắt cá ta.
\v 4 Khi ấy, người lại đo một ngàn cu-đê một lần nữa và khiến ta lội qua nước, nước lên đến đầu gối ta; và người lại đo một ngàn cu-đê khác, và khiến ta lội qua nước, nước lên đến hông ta.
\v 5 Kế đó, người lại đo thêm một ngàn cu-đê nữa, ở đây, đó là một con sông mà ta không lội qua được, vì nước rất sâu. Một người chỉ có thể lội qua đó.
\s5
\v 6 Bấy giờ người bảo ta rằng: “Hỡi con người, có phải ngươi nhìn thấy con sông nầy không? rồi người vớt ta ra rồi đưa ta trở lại dọc theo bờ sông.
\v 7 Khi ta trở lại rồi, kìa, bờ sông có rất nhiều cây ở mặt nầy và cũng có ở mặt kia nữa.
\v 8 Người bảo ta rằng: “Sông nầy chảy thẳng đến lãnh thổ phía đông rồi xuống A-ra-ba; sông nầy chảy vào Biển Muối và nó sẽ biến biển ấy trở nên ngọt.
\s5
\v 9 Mọi tạo vật sống có ở chỗ sông chảy đến, có nhiều loài cá khi con sông chảy đi. Sông ấy sẽ biến muối ra ngọt. Muôn vật sẽ sống bất cứ đâu con sông chảy đến.
\v 10 Khi ấy, những ngư phủ ở Ên-Ghê-đi sẽ đứng bên bờ sông ấy, sẽ có một chỗ khô cạn để phơi khô lưới gần Ên-Ê-la-im. Sẽ có nhiều loại cá trong Biển Muối, giống như các loại cá dư dật trong Biển Lớn.
\s5
\v 11 Nhưng vùng bưng biền của Biển Muối sẽ không trở nên ngọt; chúng sẽ hiện hữu ở đó để cung cấp muối.
\v 12 Gần bên hai bên bờ sông ấy, ở cả hai bên, sẽ mọc lên đủ thứ cây có trái ăn được. Lá nó không hề tàn héo, và trái nó sẽ ra luôn không dứt. Cây cối mỗi tháng sẽ ra trái, một khi nước tưới chúng ra từ Nơi Thánh. Trái của chúng dùng để ăn, và lá nó dùng để làm thuốc.
\s5
\v 13 Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy sẽ là cách mà ngươi chia đất cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên: Giô-sép sẽ có hai phần.
\v 14 Và các ngươi, mỗi anh em giữa vòng các ngươi sẽ thừa hưởng đất làm sản nghiệp. Khi ta giơ tay lên thề ban xứ nầy cho các tổ phụ ngươi, cũng một thể ấy xứ nầy đã trở thành sản nghiệp của các ngươi.
\s5
\v 15 Đây sẽ là mốc giới của xứ về phía Bắc, từ Biển Lớn, theo con đường Hết-lôn và đến Lê-bô Ha-mát cho đến Xê-đát.
\v 16 Khi ấy, mốc giới sẽ chạy đến Bê-rốt, đến Síp-ra-im — phần ở giữa Đa-mách và Ha-mát, đến Hát-se-Hát-thi-côn — bên cạnh mốc giới của Ha-vơ-ran.
\v 17 Vậy mốc giới sẽ chạy từ biển đến Hát-sa-Ê-nôn trên đường biên giáp với Đa-mách và Ha-mát về phía bắc. Đây sẽ là mặt phía bắc.
\s5
\v 18 Về phía đông, giữa Ha-vơ-ran và Đa-mách và giữa Ga-la-át và đất Y-sơ-ra-ên sẽ là sông Giô-đanh. Mốc giới nầy sẽ chạy thật xa đến tận Tha-ma.
\v 19 Rồi về phía nam: phía nam Tha-ma cho đến sông Mê-ri-ba Ca-đe, đến khe Ê-díp-tô cho đến Biển Lớn; và là mặt phía nam hướng thẳng hướng nam.
\v 20 Rồi mốc giới phía tây sẽ là Biển Lớn cho đến lối vào Ha-mát. Đây sẽ là mặt phía tây.
\s5
\v 21 Theo cách nầy, các ngươi sẽ chia đất nầy cho nhau, cho các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\v 22 Và sự việc sẽ xảy ra, các ngươi sẽ bắt thăm cho các sản nghiệp chia cho mình và cho các dân ngoại sống ở giữa các ngươi, họ sanh con cái giữa các ngươi và họ, với các ngươi giống như dân bản xứ của Y-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ bóc thăm chọn lấy sản nghiệp giữa vòng các chi phái Y-sơ-ra-ên.
\v 23 Khi ấy, sự việc nầy sẽ xảy ra, người ngoại sẽ trú ngụ với chi phái mà họ sống trong đó. Các ngươi phải cấp cho người một sản nghiệp — đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va”.
\s5
\c 48
\p
\v 1 Đây là tên của các chi phái: Chi phái Đan sẽ nhận một phần đất; mốc giới của nó sẽ chạy từ mốc phía bắc Y-sơ-ra-ên theo con đường của Hết-lôn và Lê-bô Ha-mát. Mốc giới của nó sẽ chạy từ Ha-xa Ê-nan dọc theo biên giới với Đa-mách lên phía bắc và rồi đến Ha-mát. Mốc giới của Đan sẽ chạy từ phía Đông suốt con đường đến Biển Lớn.
\v 2 Về phía nam mốc giới của Đan sẽ là đất của A-se — chạy từ phía đông sang phía tây.
\v 3 Phía nam của mốc giới A-se sẽ là phần đất của Nép-ta-li, trải từ mặt phía đông cho đến mặt phía tây.
\s5
\v 4 Phía nam mốc giới với Nép-ta-li sẽ là phần đất của Ma-na-se, trải dài từ mặt phía đông cho đến mặt phía tây.
\v 5 Phía nam mốc giới của Ma-na-se, từ phía đông đến phía tây, sẽ là Ép-ra-im — một phần đất của Ép-ra-im.
\v 6 Phía nam mốc giới của Ép-ra-im, từ phía đông đến phía tây, sẽ là Ru-bên — phần đất của Ru-bên.
\v 7 Trên bờ cõi của Ru-bên, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Giu-đa — một phần đất.
\s5
\v 8 Phần đất cung hiến các ngươi sẽ chọn lấy dọc theo mốc giới với Giu-đa, chạy từ phía đông đến phía tây; nó sẽ rộng hai mươi lăm ngàn cu-đê, và chiều dài tương ứng với phần của một chi phái từ mặt phía đông sang phía tây, và đền thờ sẽ ở giữa phần đất ấy.
\v 9 Phần đất nầy các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va sẽ là hai mươi lăm ngàn cu-đê bề dài và mười ngàn cu-đê bề ngang.
\s5
\v 10 Phần đất nầy sẽ được định là phần đất thánh: các thầy tế lễ sẽ có đất được ấn định cho họ đo được hai mươi lăm ngàn cu-đê bề rộng về phía bắc; mười ngàn cu-đê bề ngang về phía tây, mười ngàn cu-đê bề ngang về phía đông; và hai mươi lăm ngàn cu-đê bề dài về phía nam, với nơi thánh của Đức Giê-hô-va sẽ ở giữa nó.
\v 11 Phần đất ấy sẽ được dâng cho Đức Giê-hô-va; các thầy tế lễ theo dòng Xa-đốc là những kẻ phục vụ ta một cách trung tín, họ không sai lạc khi con cái Y-sơ-ra-ên lạc sai, như người Lê-vi đã sai lạc.
\v 12 Sự ban hiến cho họ sẽ là một phần của nơi chí thánh nầy, chạy dài theo mốc giới của người Lê-vi.
\s5
\v 13 Phần đất của người Lê-vi dọc theo mốc giới với phần đất của các thầy tế lễ sẽ là hai mươi lăm ngàn cu-đê bề dài và mười ngàn cu-đê bề ngang. Toàn bộ chiều dài của phần đất sẽ hai mươi lăm ngàn cu-đê chiều dài và hai mươi ngàn cu-đê chiều rộng.
\v 14 Họ sẽ không được bán hay đổi đất ấy; không một hoa quả đầu mùa nào trong xứ Y-sơ-ra-ên bị biệt riêng ra khỏi các mộc giới nầy, vì hết thảy đều là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Phần đất còn lại, năm ngàn cu-đê chiều rộng và chiều dài hai mươi lăm ngàn cu-đê, sẽ là nơi thành phố chọn sử dụng, để xây nhà cửa và đồng cỏ; thành phố sẽ ở chính giữa nó.
\v 16 Đây sẽ là số đo của nó: phía bắc dài bốn ngàn năm trăm cu-đê, phía nam dài bốn ngàn năm trăm cu-đê, phía đông dài bốn ngàn năm trăm cu-đê, phía tây dài bốn ngàn năm trăm cu-đê.
\s5
\v 17 Sẽ là đồng cỏ cho thành phố về phía bắc, hai trăm năm chục cu-đê bề sâu, phía nam hai trăm năm chục bề sâu, phía đông hai trăm năm chục bề sâu; và phía tây sâu hai trăm năm chục cu-đê.
\v 18 Khu vực còn lại của phần cung hiến thánh sẽ trải dài là mười ngàn cu-đê về phía đông và mười ngàn cu-đê phía tây. Nó sẽ chạy dài dọc theo mốc giới của phần đất thánh, và hoa lợi của nó sẽ dùng làm đồ ăn cho những kẻ làm việc trong thành.
\s5
\v 19 Số người làm việc trong thành, là dân thuộc về hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên, sẽ canh tác phần đất ấy.
\v 20 Hết thảy phần đất thánh sẽ đo được hai mươi lăm ngàn cu-đê bề dài, hai mươi lăm ngàn cu-đê bề ngang. Theo cách nầy, các ngươi sẽ biến phần đất ấy ra thánh, cùng với phần đất dành cho thành phố.
\s5
\v 21 Phần xứ còn lại bốn bề quanh phần đất thánh và khu vực thành phố sẽ dành cho nhà vua. Mốc giới phần đất của nhà vua về phía đông sẽ trải dài hai mươi lăm ngàn cu-đê tính từ mốc giới phần đất thánh cho đến mối giới phía đông — và mốc giới của vua cho đến phía tây sẽ trải dài hai mươi lăm ngàn cu-đê cho đến mốc giới phía tây. Ở giữa sẽ là nơi thánh, và nơi thánh của đền thờ sẽ ở chính giữa nó.
\v 22 Phần đất chạy dài từ sản nghiệp của người Lê-vi và khu vực thành phố ở giữa nó sẽ thuộc về nhà vua; nó sẽ nằm giữa mốc giới của Giu-đa và mốc giới phần đất của Bên-gia-min — phần đất nầy sẽ thuộc về nhà vua.
\s5
\v 23 Về phần các chi phái còn lại, phần đất của họ cũng chạy từ mặt phía đông đến mặt phía tây. Bên-gia-min sẽ nhận một phần.
\v 24 Về phía nam mộc giới của Bên-gia-min, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất của Si-mê-ôn — một phần.
\v 25 Về phía nam mộc giới của Si-mê-ôn, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất cho Y-sa-ca — một phần.
\v 26 Về phía nam mộc giới của Y-sa-ca, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất của Sa-bu-lôn — một phần.
\s5
\v 27 Về phía nam mộc giới của Sa-bu-lôn, chạy từ đông sang tây, sẽ là phần đất cho Gát — một phần.
\v 28 Mộc giới phía nam của Gát sẽ chạy từ Tha-ma cho đến các con sông của Mê-ri-ba Ca-đe, và xa tít đến khe Ê-díp-tô, và rồi cho đến Biển Lớn.
\v 29 Đây là phần đất mà các ngươi sẽ dùng cách bắt thăm; nó sẽ là cơ nghiệp của các chi phái Y-sơ-ra-ên. Đây sẽ phần của họ. Đây là lời công bố của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 30 Đây là những lối ra của thành phố: về phía bắc, đi được bốn ngàn năm trăm cu-đê bề dài,
\v 31 sẽ là ba cổng, đặt theo tên của các chi phái Y-sơ-ra-ên: một cổng mang tên Ru-bên, một cổng mang tên Giu-đa, và một cổng mang tên Lê-vi.
\v 32 Về phía đông đo được bốn ngàn năm trăm cu-đê theo chiều dài, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Giô-sép, một cổng mang tên Bên-gia-min, và một cổng mang tên Đan.
\s5
\v 33 Về phía nam, đo được bốn ngàn năm trăm cu-đê chiều dài, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Si-mê-ôn; một cổng mang tên Y-sa-ca, và một cổng mang tên Sa-bu-lôn.
\v 34 Về phía tây, đo được bốn ngàn năm trăm cu-đê, sẽ là ba cổng: một cổng mang tên Gát; một cổng mang tên A-se; và một cổng mang theo tên Nép-ta-li.
\v 35 Chu vi quanh thành phố sẽ có mười tám ngàn cu-đê; kể từ ngày ấy trở đi, tên thành phố sẽ là: "Đức Giê-hô-va ngự ở đó!”

738
27-DAN.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,738 @@
\id DAN
\ide UTF-8
\h ĐA-NI-ÊN
\toc1 ĐA-NI-ÊN
\toc2 ĐA-NI-ÊN
\toc3 dan
\mt ĐA-NI-ÊN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Năm thứ ba thuộc triều đại của Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem và cắt mọi đường tiếp tế cho thành ấy.
\v 2 Chúa khiến Nê-bu-cát-nết-sa thắng Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, và Ngài phó vào tay vua những vật thánh trong nhà Đức Chúa Trời. Vua đem về xứ Ba-by-lôn, đến đền thờ các thần của vua và để những vật thánh đó trong kho của thần mình.
\s5
\v 3 Vua bảo Ách-pê-na, quan trưởng của vua, đem đến một số người Y-sơ-ra-ên, thuộc gia đình hoàng tộc và quý tộc
\v 4 gồm những thanh niên lành lặn, diện mạo thu hút, khôn ngoan tài giỏi, đầy dẫy kiến thức và sự thông biết, và đáp ứng đủ điều kiện để chầu trong cung vua. Ông phải dạy họ văn chương và ngôn ngữ Ba-by-lôn.
\v 5 Vua truyền cấp cho họ khẩu phần hàng ngày là những món ngon của vua và rượu vua uống. Các thanh niên này được huấn luyện trong ba năm, và sau đó họ sẽ chầu vua.
\s5
\v 6 Trong số đó có Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria, thuộc người Giu-đa.
\v 7 Quan trưởng đặt tên cho họ như sau: Đa-ni-ên được gọi là Bên-tơ-sác-xa, Ha-na-nia được gọi là Sa-đơ-rác, Mi-sa-ên được gọi là Mê-sác, và A-xa-ria được gọi là A-bết-nê-gô.
\s5
\v 8 Nhưng Đa-ni-ên định trong lòng rằng ông sẽ không tự làm mình ô uế bởi đồ ngon của vua hoặc rượu vua uống. Vì vậy, ông xin phép quan trưởng đừng bắt ông tự làm ô uế mình.
\v 9 Bấy giờ, Đức Chúa Trời cho Đa-ni-ên được ơn và thương xót qua sự tôn trọng của quan trưởng dành cho ông.
\v 10 Quan trưởng nói với Đa-ni-ên, “Ta e sợ vua là chủ ta. Người đã ra lệnh ta đem cho các ông đồ ăn và thức uống. Lẽ nào người thấy các ông có dáng vẻ tệ hơn những thanh niên khác đồng tuổi các ông? Vua có thể chém đầu ta vì cớ các ông.”
\s5
\v 11 Đa-ni-ên nói với người quản lý mà quan trưởng đã giao coi sóc Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria.
\v 12 Ông nói, “Xin thử chúng tôi, là những tôi tớ của ông, trong mười ngày. Xin cho chúng tôi ăn rau và uống nước.
\v 13 Sau đó hãy so sánh diện mạo chúng tôi với diện mạo của các thanh niên là những người dùng cao lương mỹ vị của vua, và xử chúng tôi, tôi tớ của ông, theo điều ông thấy.”
\s5
\v 14 Vậy, người quản lý đồng ý với Đa-ni-ên, và ông thử họ trong mười ngày.
\v 15 Khi đã mãn hạn mười ngày, họ trông khỏe mạnh hơn, và họ được nuôi dưỡng tốt hơn tất cả những thanh niên dùng cao lương mỹ vị của vua.
\v 16 Vậy, người quản lý cất phần cao lương mỹ vị và rượu của họ và chỉ cho họ ăn rau thôi.
\s5
\v 17 Về các thanh niên này, Đức Chúa Trời ban cho họ kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc về văn chương và sự khôn ngoan, và Đa-ni-ên có thể hiểu mọi loại khải tượng và chiêm bao.
\v 18 Khi hết thời hạn vua đã định, quan trưởng dẫn họ đến trước mặt Nê-bu-cát-nết-sa.
\s5
\v 19 Vua nói chuyện với họ, và trong cả nhóm không có ai sánh bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. Họ đứng trước mặt vua, sẵn sàng phục vụ vua.
\v 20 Khi vua hỏi họ những câu hỏi về sự khôn ngoan và thông biết, vua thấy họ giỏi gấp mười lần các pháp sư và những kẻ đồng bóng trong toàn vương quốc của vua.
\v 21 Đa-ni-ên ở tại đó cho đến năm thứ nhất trong đời Vua Si-ru.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Năm thứ nhì thuộc triều đại của Nê-bu-cát-nết-sa, vua có những giấc chiêm bao. Vua bồn chồn và không ngủ được.
\v 2 Sau đó, vua triệu tập các pháp sư và đồng bóng. Vua cũng gọi các thầy phù thủy và nhà thông thái. Vua muốn họ tỏ cho vua biết những giấc chiêm bao ấy. Vậy, họ đến chầu trước mặt vua.
\s5
\v 3 Vua nói cùng họ: “Ta có một giấc chiêm bao, và lòng ta băn khoăn muốn biết ý nghĩa của giấc mơ ấy. ”
\v 4 Các nhà thông thái tâu với vua bằng tiếng A-ram: “Muôn tâu bệ hạ, kính chúc bệ hạ sống đời đời! Xin bệ hạ kể giấc chiêm bao ấy cho chúng thần, rồi chúng thần sẽ tỏ ý nghĩa cho bệ hạ.”
\s5
\v 5 Vua trả lời các nhà thông thái: “Việc này là chắc chắn. Nếu các ngươi không tỏ cho ta giấc chiêm bao ấy và giải nghĩa nó, các ngươi sẽ bị phanh thây và nhà cửa các ngươi sẽ thành đống rác rưởi.
\v 6 Nhưng nếu các ngươi tỏ giấc chiêm bao cho ta và ý nghĩa của nó, ta sẽ ban cho các ngươi lễ vật, phần thưởng, và quyền cao chức trọng. Vậy hãy cho ta biết giấc chiêm bao và ý nghĩa nó.”
\s5
\v 7 Họ lại trả lời và tâu: “Xin bệ hạ tỏ cho chúng thần giấc chiêm bao ấy và chúng thần sẽ giải nghĩa. ”
\v 8 Vua trả lời: “Ta biết chắc rằng các ngươi trì hoãn thời gian vì các ngươi thấy quyết định của ta là chắc chắn rồi.
\v 9 Nhưng nếu các ngươi không tỏ giấc chiêm bao ấy cho ta, thì chỉ có một hình phạt dành cho các ngươi. Các ngươi đã chọn dùng những lời sai lệch và giả dối mà cấu kết lẫn nhau đặng tâu với ta cho đến khi ta đổi ý. Vậy bây giờ, hãy nói cho ta biết giấc chiêm bao đó, rồi ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa cho ta.”
\s5
\v 10 Các nhà thông thái tâu cùng vua: “Trên thế gian này không ai có thể đáp ứng yêu cầu của bệ hạ. Không có vua chúa vĩ đại và quyền thế nào lại yêu cầu pháp sư, hoặc đồng bóng, hoặc nhà thông thái làm điều như thế.
\v 11 Điều vua yêu cầu thật là khó, và không ai có thể tỏ cho vua biết ngoại trừ các thần, họ không sống giữa loài người.”
\s5
\v 12 Lời này khiến vua giận và rất giận, vua ra lệnh giết hết những nhà thông thái ở Ba-by-lôn.
\v 13 Vậy, sắc lệnh được ban ra. Tất cả những ai là nhà thông thái đều bị xử tử; họ cũng truy tìm Đa-ni-ên và các bạn ông để xử tử.
\s5
\v 14 Sau đó, Đa-ni-ên cẩn thận và thận trọng trả lời A-ri-ốt, quan chỉ huy quân thị vệ, là người đến đặng giết tất cả những nhà thông thái ở Ba-by-lôn.
\v 15 Đa-ni-ên hỏi quan chỉ huy của vua: “Sao sắc lệnh của vua cấp bách vậy? ” A-ri-ốt kể cho Đa-ni-ên nghe việc đã xảy ra.
\v 16 Đa-ni-ên vào, xin được hẹn gặp vua để giải nghĩa cho vua.
\s5
\v 17 Sau đó, Đa-ni-ên về nhà và giải thích cho Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria, về việc đã xảy ra.
\v 18 Ông giục họ tìm kiếm sự thương xót của Đức Chúa Trời trên trời về sự huyền bí này để ông và họ không bị giết cùng với những người khôn ngoan khác ở Ba-by-lôn.
\s5
\v 19 Đêm đó, sự kín nhiệm được tỏ cho Đa-ni-ên qua một sự hiện thấy. Đa-ni-ên ngợi khen Đức Chúa Trời trên trời
\v 20 và nói rằng: “Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời; vì sự khôn ngoan và quyền phép thuộc về Ngài.
\s5
\v 21 Ngài thay đổi thời gian và mùa màng; Ngài dời các vua và lập các vua lên ngai. Ngài ban sự khôn ngoan cho người khôn ngoan và kiến thức cho người thông biết.
\v 22 Ngài tỏ những điều sâu sắc và kín giấu vì Ngài biết sự gì ở trong bóng tối, và bên Ngài có sự sáng.
\s5
\v 23 Lạy Đức Chúa Trời của tổ phụ con, con cám ơn Ngài và ngợi khen Ngài vì Ngài đã ban cho con sự khôn ngoan và quyền phép. Ngài đã tỏ cho con điều chúng con cầu xin Ngài; Ngài đã tỏ cho chúng con biết việc của vua.”
\s5
\v 24 Như vậy, Đa-ni-ên đến gặp A-ri-ốt, là người mà vua sai đi giết những nhà thông thái ở Ba-by-lôn. Ông đến nói với A-ri-ốt: “Xin đừng giết các nhà thông thái ở Ba-by-lôn. Xin đưa tôi đến gặp vua rồi tôi sẽ tỏ cho vua biết ý nghĩa của giấc chiêm bao.”
\s5
\v 25 A-ri-ốt nhanh chóng đưa Đa-ni-ên đến trước mặt vua và tâu: “Thần đã tìm thấy trong vòng những người Giu-đa bị lưu đày có một người sẽ tỏ ý nghĩa về giấc chiêm bao của bệ hạ. ”
\v 26 Vua bảo Đa-ni-ên (hay còn được gọi là Bên-tơ-sác-xa): “Ngươi có thể kể cho ta nghe về giấc chiêm bao mà ta đã thấy và ý nghĩa của nó không?”
\s5
\v 27 Đa-ni-ên trả lời vua và tâu rằng: “Sự kín nhiệm mà bệ hạ đã yêu cầu không thể được tỏ ra bởi những người có sự khôn ngoan, hoặc những đồng bóng, pháp sư, hoặc chiêm tinh gia.
\v 28 Tuy nhiên, có một Đức Chúa Trời ngự trên các từng trời, là Đấng bày tỏ những sự kín nhiệm, và Ngài đã tỏ cho bệ hạ, là Vua Nê-bu-cát-nết-sa, về việc sẽ xảy đến về sau này. Giấc chiêm bao và các sự hiện thấy trong đầu bệ hạ khi bệ hạ nằm trên giường là như vầy:
\s5
\v 29 Muôn tâu bệ hạ, các tư tưởng của bệ hạ khi bệ hạ nằm trên giường là nói đến những việc sẽ xảy ra, và Đấng tỏ những sự kín nhiệm đã bày tỏ cho bệ hạ biết việc sẽ xảy ra.
\v 30 Về phần hạ thần, sự kín nhiệm này không được tỏ ra cho hạ thần vì hạ thần có nhiều sự khôn ngoan hơn bất cứ ai khác. Sự kín nhiệm này được tỏ cho hạ thần để bệ hạ có thể hiểu ý nghĩa và biết những tư tưởng sâu thẳm trong lòng bệ hạ.
\s5
\v 31 Tâu bệ hạ, bệ hạ nhìn lên và thấy một pho tượng lớn. Pho tượng này rất uy nghi và rực rỡ trước mặt bệ hạ. Sự sáng ngời của nó thật kinh khiếp.
\v 32 Đầu pho tượng được làm bằng vàng ròng. Ngực và cánh tay làm bằng bạc. Bụng và bắp đùi làm bằng đồng,
\v 33 và chân làm bằng sắt. Bàn chân được làm bằng một phần sắt và một phần đất sét.
\s5
\v 34 Bệ hạ nhìn lên, và thấy một hòn đá không phải bởi tay người đục ra, rơi vào chân bằng sắt và đất sét và làm chúng vỡ tan.
\v 35 Sau đó, sắt, đất sét, đồng, bạc, và vàng đều bị vỡ thành từng mảnh và trở nên như rơm rạ trên sân đạp lúa vào mùa hè. Gió cuốn chúng đi mất đến nỗi chẳng còn lại vết tích gì. Nhưng hòn đá đã đập vào pho tượng trở thành một ngọn núi lớn và đầy dẫy khắp đất.
\s5
\v 36 Giấc chiêm bao của bệ hạ là như vậy. Bây giờ, chúng thần sẽ giải nghĩa cho bệ hạ.
\v 37 Tâu bệ hạ, bệ hạ là vua muôn vua mà Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho vua vương quốc, quyền phép, sức mạnh, và sự cao trọng.
\v 38 Ngài phó vào tay bệ hạ nơi ở của loài người. Ngài phó các loài thú đồng và chim trời vào tay bệ hạ, và Ngài lập bệ hạ cai trị trên chúng. Bệ hạ là cái đầu làm bằng vàng của pho tượng.
\s5
\v 39 Sau bệ hạ, một vương quốc khác kém hơn bệ hạ sẽ nổi lên, và một vương quốc thứ ba bằng đồng sẽ cai trị khắp đất.
\s5
\v 40 Sẽ có một vương quốc thứ tư, cứng như sắt, vì sắt làm vỡ những thứ khác thành từng mảnh và làm tan tác mọi thứ. Vương quốc ấy sẽ đập vỡ những thứ này và nghiền nát chúng.
\s5
\v 41 Như bệ hạ đã thấy, bàn chân và ngón chân được làm một phần bằng đất sét và một phần bằng sắt, như vậy đó sẽ là một vương quốc bị chia đôi; trong vương quốc ấy sẽ có một phần sức mạnh của sắt, y như bệ hạ đã thấy sắt trộn với đất sét mềm.
\v 42 Về những ngón chân được làm bằng một phần sắt và một phần đất sét, vương quốc ấy sẽ nửa mạnh nửa giòn.
\v 43 Như bệ hạ đã thấy sắt trộn với đất sét, dân chúng sẽ là một dân hỗn tạp; họ sẽ không chung sống với nhau, như sắt không hòa lẫn với đất sét.
\s5
\v 44 Trong đời các vua ấy, Đức Chúa Trời trên trời sẽ lập nên một vương quốc không bao giờ bị hủy diệt, hoặc cũng không bao giờ bị dân khác xâm chiếm. Vương quốc đó sẽ đánh các vương quốc khác tan tành và tiêu diệt chúng, và vương quốc ấy sẽ còn lại đời đời.
\v 45 Như bệ hạ đã thấy, hòn đá được đục khỏi núi, chẳng phải bởi tay người. Nó đập vỡ sắt, đồng, đất sét, bạc, và vàng tan tành. Đức Chúa Trời vĩ đại đã bày tỏ cho bệ hạ về việc sẽ xảy đến sau này. Giấc chiêm bao này là thật và sự giải nghĩa nó là chắc chắn.”
\s5
\v 46 Vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống trước mặt Đa-ni-ên và kính trọng ông; vua ra lệnh đem lễ vật và hương đến dâng cho ông.
\v 47 Vua bảo Đa-ni-ên: “Thật Đức Chúa Trời ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, Chúa muôn vua, và là Đấng bày tỏ sự kín nhiệm, vì ngươi có thể bày tỏ sự huyền nhiệm này.”
\s5
\v 48 Sau đó, vua khiến Đa-ni-ên được tôn trọng lắm và ban cho ông nhiều lễ vật trọng. Vua lập ông cai trị toàn tỉnh Ba-by-lôn. Đa-ni-ên trở thành quan thống đốc chính cai trị những người khôn ngoan nhất ở Ba-by-lôn.
\v 49 Đa-ni-ên cầu xin vua, và vua lập Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô làm quan hành chính ở tỉnh Ba-by-lôn. Nhưng Đa-ni-ên ở lại trong cung vua.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Vua Nê-bu-cát-nết-sa làm một pho tượng vàng cao sáu mươi cu-bít và rộng sáu cu-bít. Vua dựng pho tượng trong Đồng bằng Đu-ra ở tỉnh Ba-by-lôn.
\v 2 Sau đó, vua sai các sứ giả đi triệu tập các quan thống đốc tỉnh, quan thống đốc vùng, và quan thống đốc địa phương, cùng với các quan cố vấn, thủ quỹ, thẩm phán, quan tòa, và mọi quan chức cấp cao khác từ các tỉnh đến dự lễ dâng pho tượng mà vua đã dựng.
\s5
\v 3 Vậy, các quan thống đốc tỉnh, thống đốc vùng, và thống đốc khu vực, cùng với các cố vấn, thủ quỹ, thẩm phán, quan tòa, và mọi quan chức cấp cao trong các tỉnh cùng đến dự lễ dâng pho tượng mà Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng lên. Họ đứng trước pho tượng ấy.
\v 4 Sứ giả truyền lệnh hô to lên rằng: “Các ngươi được ra lệnh, hỡi các dân, các nước, và các thứ tiếng,
\v 5 rằng khi các ngươi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, đàn tam thập lục, đàn lia, đàn hạc, ống sáo, và mọi loại nhạc, các ngươi phải sấp mình xuống và phủ phục trước pho tượng vàng mà Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng lên.
\s5
\v 6 Ai không sấp mình xuống và thờ lạy trong lúc đó sẽ bị ném vào lò lửa rực. ”
\v 7 Vậy khi tất cả các dân nghe tiếng kèn, sáo, đàn tam thập lục, đàn lia, đàn hạc, và ống sáo, cùng mọi loại nhạc, thì hết thảy các dân, các nước, và các thứ tiếng đều sấp mình xuống và phủ phục trước pho tượng mà Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng lên.
\s5
\v 8 Bấy giờ, có một số người Canh-đê đến và buộc tội những người Giu-đa.
\v 9 Họ tâu với vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Bệ hạ vạn tuế vạn vạn tuế!
\v 10 Bệ hạ đã ra lệnh rằng hễ ai nghe tiếng kèn, sáo, đàn tam thập lục, đàn lia, đàn hạc, và ống sáo, cùng mọi loại nhạc, thì phải sấp mình xuống và phủ phục trước pho tượng vàng.
\s5
\v 11 Ai không sấp mình xuống và thờ lạy sẽ bị ném vào lò lửa rực.
\v 12 Bây giờ có một số người Giu-đa mà bệ hạ đã lập làm quan cai trị tỉnh Ba-by-lôn; họ có tên là Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Tâu bệ hạ, những người này không chú ý đến bệ hạ. Họ sẽ không thờ lạy, phục vụ các thần của bệ hạ, hoặc phủ phục trước pho tượng vàng mà bệ hạ đã dựng lên.”
\s5
\v 13 Nê-bu-cát-nết-sa tức giận và nổi cơn thịnh nộ, ra lệnh truyền Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô đến gặp vua. Vậy họ đưa những người này đến trước mặt vua.
\v 14 Nê-bu-cát-nết-sa hỏi họ: “Hỡi Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, có phải các ngươi đã quyết định rằng các ngươi sẽ không thờ lạy các thần của ta hoặc phủ phục trước pho tượng và mà ta đã dựng nên?
\s5
\v 15 Bây giờ - khi các ngươi nghe tiếng kèn, sáo, đàn tam thập lục, đàn lia, đàn hạc, và ống sáo, cùng mọi loại nhạc nếu các ngươi sẵn sàng sấp mình xuống và phủ phục trước pho tượng mà ta đã dựng lên, thì các ngươi sẽ được sống. Nhưng nếu các ngươi không thờ lạy, các ngươi sẽ ngay lập tức bị ném vào lò lửa rực. Thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?”
\s5
\v 16 Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô trả lời vua: “Tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa, chúng thần không cần phải trả lời bệ hạ về việc này.
\v 17 Nếu có câu trả lời, thì ấy là Đức Chúa Trời của chúng thần là Đấng mà chúng thần phục vụ có thể giữ gìn chúng thần khỏi lò lửa rực, và Ngài sẽ giải cứu chúng thần khỏi tay bệ hạ.
\v 18 Nhưng nếu không, thì bệ hạ phải biết rằng chúng thần sẽ không thờ lạy các thần của bệ hạ, và chúng thần sẽ không phủ phục trước pho tượng và mà bệ hạ đã dựng lên.”
\s5
\v 19 Bấy giờ Nê-bu-cát-nết-sa nổi cơn thịnh nộ; vua thay đổi sắc mặt với Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Vua ra lệnh nung nóng lò lửa gấp bảy lần so với bình thường.
\v 20 Sau đó, vua ra lệnh những người cường tráng trong quân đội trói Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô và ném họ vào lò lửa rực.
\s5
\v 21 Họ bị trói trong khi vẫn mặc áo choàng, áo chẽn, khăn xếp, và quần áo khác, và họ bị ném vào lò lửa rực.
\v 22 Vì lệnh của vua được tuân thủ nghiêm ngặt và lò lửa rất nóng, nên ngọn lửa bén sang những người bắt Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô.
\v 23 Cả ba người, Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, rơi vào lò lửa rực khi họ bị trói.
\s5
\v 24 Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa kinh ngạc và vội đứng dậy. Vua hỏi các cố vấn: “Chẳng phải chúng ta đã trói ba người quăng vào trong lửa sao? ” Họ tâu với vua: “Tâu bệ hạ, hiển nhiên là vậy. ”
\v 25 Vua nói: “Nhưng ta thấy bốn người không bị trói đang đi lòng vòng trong lửa, và họ chẳng đau đớn gì. Độ chói của người thứ tư như con trai của các thần.”
\s5
\v 26 Sau đó, Nê-bu-cát-nết-sa tiến đến gần cửa lò lửa rực và kêu lên: “Hỡi Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, tôi tớ của Đức Chúa Trời Chí Cao, hãy đi ra! Hãy đến đây! ” Vậy, Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô ra khỏi lửa.
\v 27 Các quan thống đốc tỉnh, quan thống đốc vùng, các quan thống đốc khác, và các cố vấn của vua tụ tập lại xem ba người này. Lửa không làm hại cơ thể họ; tóc trên đầu họ không bị cháy sém; áo choàng họ không bị hư hại; và trên người họ không có mùi khét.
\s5
\v 28 Nê-bu-cát-nết-sa nói: “Chúng ta hãy ngợi khen Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, Đấng đã sai sứ giả của Ngài đến và ban sứ điệp cho các tôi tớ của Ngài. Họ tin cậy Ngài khi họ bỏ qua một bên lệnh của ta, và họ thà bỏ thân mình còn hơn là thờ lạy hoặc phủ phục trước các thần nào ngoài Đức Chúa Trời của họ.
\s5
\v 29 Vậy, Ta ra lệnh rằng bất kỳ dân nào, nước nào, hoặc thứ tiếng nào nói xấu Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, sẽ bị phanh thây, và nhà cửa của họ sẽ thành đống rác vì không thần nào khác có thể giải cứu như thế này. ”
\v 30 Vua thăng chức cho Sa-đơ-rác, Mê-sác, và A-bết-nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Vua Nê-bu-cát-nết-sa ban chiếu chỉ này cho tất cả các dân, các nước, và các thứ tiếng ở trên đất: “Nguyện các ngươi được bình an bội phần.
\v 2 Ta rất vui mà công bố cho các ngươi về những dấu kỳ và phép lạ mà Đấng Chí Cao đã làm cho ta.
\v 3 Các dấu kỳ của Ngài thật lớn lao, và các phép lạ của Ngài thật phi thường! Vương quốc của Ngài là vương quốc đời đời, quyền thống trị của Ngài trải từ đời này sang đời kia.”
\s5
\v 4 Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, đang sống vui vẻ trong nhà ta, và ta tận hưởng sự thịnh vượng trong cung điện ta.
\v 5 Nhưng ta có một giấc chiêm bao khiến ta sợ hãi. Khi ta nằm đó, những hình ảnh ta thấy và những sự hiện thấy trong đầu ta khiến ta băn khoăn.
\v 6 Vậy, ta ban chiếu chỉ sai đem đến trước mặt ta tất cả những người khôn ngoan ở Ba-by-lôn đặng họ giải mộng cho ta.
\s5
\v 7 Các pháp sư, đồng bóng, nhà thông thái, và chiêm tinh gia đều đến. Ta kể cho họ nghe về giấc chiêm bao ấy, nhưng họ không thể giải nghĩa cho ta.
\v 8 Nhưng cuối cùng, Đa-ni-ên đến đó là người được đặt tên là Bên-tơ-sác-xa theo tên thần của ta, và trong người có linh của các thần thánh. Ta kể cho người về giấc chiêm bao đó.
\v 9 ”Hỡi Bên-tơ-sác-xa, người đứng đầu các pháp sư, ta biết rằng linh của các thần thánh đang ở trong ngươi và không có sự huyền bí nào quá khó đối với ngươi. Hãy nói cho ta biết điều ta thấy trong giấc chiêm bao và ý nghĩa của nó.
\s5
\v 10 Này là những cảnh ta thấy trong đầu mình khi ta nằm trên giường: Ta nhìn, và có một cái cây ở giữa đất, cao lớn lạ thường.
\v 11 Cây ấy lớn lên và trở nên vững chắc. Ngọn cây vươn đến tận trời, khắp mọi nơi trên đất đều có thể thấy nó.
\v 12 Lá nó xinh đẹp, trái nó xum xuê, trên nó có đủ lương thực cho mọi loài. Các loài thú hoang tìm thấy bóng mát dưới cây, và các loài chim trời sống trên cành cây. Tất cả các sinh vật đều nhờ nó mà được no nê.
\s5
\v 13 Ta thấy trong đầu khi ta nằm trên giường, một sứ giả thánh từ trời giáng xuống.
\v 14 Người kêu lớn tiếng và nói rằng: “Hãy hạ cái cây và chặt nhánh nó, tước lá nó, và rải các trái của nó. Hãy để các loài thú chạy khỏi nó và chim bay khỏi cành nó.
\s5
\v 15 Hãy chừa lại gốc rễ nó dưới đất, hãy cột nó bằng một đai sắt và đồng, giữa cỏ non ngoài đồng. Hãy để nó thấm nhuần sương móc từ trời. Hãy để nó sống với các loài thú giữa cây cỏ trên đất.
\v 16 Hãy để tâm trí nó từ tâm trí của loài người chuyển sang tâm trí của loài thú cho đến khi mãn hạn bảy năm.
\s5
\v 17 Quyết định này theo sắc lệnh được truyền bởi sứ giả. Đây là quyết định được lập bởi các đấng thánh để những ai còn sống đều biết rằng Đấng Chí Cao cai trị các vương quốc của loài người và ban chúng cho bất kỳ ai mà Ngài muốn, ngay cả cho những người hèn mọn nhất.
\v 18 Ta, Vua Nê-bu-cát-nết-sa, có giấc chiêm bao này. Bây giờ ngươi, hỡi Bên-tơ-sác-xa, hãy giải nghĩa cho ta, vì không ai trong số những người khôn ngoan trong vương quốc ta có thể giải mộng được. Nhưng ngươi thì có thể, vì linh của các thần thánh ngự trong ngươi.”
\s5
\v 19 Bấy giờ Đa-ni-ên, hay còn được gọi là Bên-tơ-sác-xa, bối rối trong chốc lát, và những tư tưởng của ông khiến ông sợ hãi. Vua nói: “Hỡi Bên-tơ-sác-xa, chớ để giấc chiêm bao và việc giải nghĩa nó khiến ngươi sợ hãi. ” Bên-tơ-sác-xa trả lời: “Tâu bệ hạ, nguyện giấc chiêm bao này dành cho những ai ghét bệ hạ; nguyện sự giải nghĩa của nó dành cho kẻ thù của bệ hạ.
\s5
\v 20 Cái cây mà bệ hạ thấy lớn lên và trở nên vững chắc, ngọn cây vươn đến tận trời, khắp mọi nơi trên đất đều có thể nhìn thấy nó
\v 21 lá nó xinh đẹp, trái nó xum xuê, trên nó có đủ thức ăn cho mọi loài, và các loài thú đồng tìm thấy bóng mát dưới thân nó, các loài chim trời sống trên các nhánh nó
\v 22 cái cây này là bệ hạ, thưa vua, bệ hạ đã trở nên thật lớn mạnh. Sự vĩ đại của bệ hạ đã lớn lên và vươn đến tận trời, và quyền lực của bệ hạ vươn đến tận khắp nơi trên đất.
\s5
\v 23 Tâu bệ hạ, bệ hạ đã thấy một sứ giả thánh từ trời ngự xuống và nói rằng: “Hãy chặt cái cây và tiêu hủy nó, nhưng hãy chừa lại gốc rễ dưới đất, hãy cột nó bằng một đai sắt và đồng, giữa cỏ non trên đồng. Hãy để nó thấm nhuần sương móc từ trời. Hãy để nó sống với thú hoang ngoài đồng cho đến khi mãn hạn bảy năm.
\s5
\v 24 Muôn tâu bệ hạ, sau đây là lời giải nghĩa. Muôn tâu bệ hạ là chủ của hạ thần, đó là sắc lệnh của Đấng Chí Cao đã đến trên bệ hạ.
\v 25 Bệ hạ sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, và bệ hạ sẽ sống với các loài thú hoang ngoài đồng. Bệ hạ sẽ bị bắt phải ăn cỏ như bò đực, bệ hạ sẽ thấm nhuần sương móc từ trời, và bảy năm sẽ qua đi cho đến khi bệ hạ nhận biết rằng Đấng Chí Cao cai trị các vương quốc của loài người và rằng Ngài ban các vương quốc ấy cho bất kỳ ai mà Ngài muốn.
\s5
\v 26 Còn như lệnh đã truyền phải chừa lại gốc rễ cây, thì vương quốc của bệ hạ sẽ được trao lại cho bệ hạ kể từ khi bệ hạ biết rằng Trời cai trị.
\v 27 Như vậy, tâu bệ hạ, xin bệ hạ nhận lời khuyên của hạ thần. Xin đừng phạm tội và hãy làm điều lành. Xin bệ hạ từ bỏ những tội ác mình bằng cách thương xót người bị áp bức, hầu cho bệ hạ sẽ được thịnh vượng lâu hơn.”
\s5
\v 28 Tất cả những việc này xảy đến với Vua Nê-bu-cát-nết-sa trong mười hai tháng.
\v 29 Vua đang đi dạo trong hoàng cung ở Ba-by-lôn.
\v 30 Vua nói: “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã xây dựng để làm kinh đô vì sự vinh quang oai nghi của ta sao?”
\s5
\v 31 Đang khi vua vẫn còn nói như vậy, có tiếng phán từ trời: “Hỡi Vua Nê-bu-cát-nết-sa, có lệnh truyền nghịch lại ngươi rằng vương quốc này không còn thuộc về ngươi nữa.
\v 32 Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, ngươi sẽ ở chung với các loài thú hoang ngoài đồng. Ngươi sẽ bị bắt ăn cỏ như bò đực. Bảy năm sẽ trôi qua cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Chí Cao cai trị trên các vương quốc của loài người và Ngài ban chúng cho bất kỳ ai tùy ý Ngài.”
\s5
\v 33 Sắc lệnh nghịch lại Nê-bu-cát-nết-sa được thực thi ngay lập tức. Vua bị đuổi khỏi giữa loài người. Vua ăn cỏ như bò đực, và thân thể vua thấm nhuần sương móc từ trời. Tóc vua mọc dài như lông đại bàng, móng vua giống như vuốt của loài chim.
\s5
\v 34 Vào cuối các ngày đó, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, nhướng mắt hướng về trời, và ta được phục hồi sức mạnh. “Ta ngợi khen Đấng Chí Cao, ta tôn kính và dâng vinh quang cho Đấng sống đời đời. Vì sự cai trị của Ngài là sự cai trị đời đời, vương quốc của Ngài trường tồn từ đời này sang đời kia.
\s5
\v 35 Tất cả cư dân trên đất đều bị Ngài xem như chẳng là gì cả; Ngài thi hành giữa các vì tinh tú trên trời và cư dân trên đất bất cứ điều gì đẹp ý Ngài. Không ai có thể ngăn chặn hoặc thách thức Ngài. Không ai có thể hỏi Ngài rằng, Sao Ngài làm vậy? ’”
\s5
\v 36 Lúc đó, ta được nhận lại sức mạnh, sự oai nghi và huy hoàng của ta trở về với ta vì vinh quang của vương quốc ta. Các quan cố vấn và quý tộc tìm kiếm ân huệ của ta. Ta được ngồi trên ngôi trở lại, sự vĩ đại của ta càng lớn hơn nữa.
\v 37 Bấy giờ ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tán dương, và tôn kính Vua Trời, vì tất cả các công việc của Ngài là thiện, đường lối Ngài là chính nghĩa. Ngài có thể hạ thấp những ai kiêu ngạo.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Vua Bên-sát-xa dọn một đại tiệc lớn đãi một ngàn quý tộc, và vua uống rượu trước mặt tất cả một ngàn người đó.
\v 2 Đang khi Bên-sát-xa thưởng thức rượu, vua ra lệnh đem các khí dụng bằng vàng hoặc bạc mà vua cha là Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy ra khỏi đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, để vua, các quý tộc, hoàng hậu và cung phi của vua uống.
\s5
\v 3 Các tôi tớ đem đến các khí dụng bằng vàng đã bị lấy ra khỏi đền thờ, là nhà của Đức Chúa Trời, tại Giê-ru-sa-lem. Vua, các quý tộc, hoàng hậu và cung phi của vua uống bằng những thứ đó.
\v 4 Họ uống rượu và ca ngợi các hình tượng làm bằng vàng và bạc, đồng, sắt, gỗ, và đá.
\s5
\v 5 Khi đó, có những ngón tay của bàn tay người hiện ra phía trước chân đèn và viết trên tường thạch cao trong hoàng cung. Vua có thể thấy phần tay đang viết.
\v 6 Vua tái mặt và các tư tưởng vua khiến vua hoảng sợ; tay chân vua bủn rủn, và đầu gối vua run bần bật.
\s5
\v 7 Vua ra lệnh đem đến những đồng bóng, nhà thông thái, và chiêm tinh gia. Vua nói với những người khôn ngoan ở Ba-by-lôn: “Ai giải thích được chữ viết này và ý nghĩa của nó sẽ được mặt áo màu tía và đeo dây chuyền vàng quanh cổ. Người đó sẽ có quyền lực cai trị đứng hàng thứ ba trong vương quốc.”
\s5
\v 8 Vậy, tất cả những người khôn ngoan của vua đến, nhưng họ không thể đọc được chữ viết ấy hay giải thích ý nghĩa cho vua.
\v 9 Vậy Vua Bên-sát-xa càng lo sợ và sắc mặt vua thay đổi. Các quý tộc của vua bối rối.
\s5
\v 10 Bấy giờ thái hậu đến phòng tiệc vì có nghe lời vua và các quý tộc đã nói. Thái hậu nói: “Bệ hạ vạn tuế, vạn vạn tuế! Xin chớ để các tư tưởng của bệ hạ khiến bệ hạ lo lắng. Xin chớ thay đổi sắc mặt.
\s5
\v 11 Trong vương quốc của bệ hạ có một người được linh của các thần thánh ngự. Trong thời của vua cha, sự sáng, sự thông hiểu và sự khôn ngoan như sự khôn ngoan của các thần ở trong người. Vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua cha của bệ hạ, đã lập người làm đầu các pháp sư, cũng như các đồng bóng, nhà thông thái, và chiêm tinh gia.
\v 12 Một linh xuất sắc, kiến thức, sự thông biết, sự giải mộng, sự giải thích những điều bí ẩn và giải quyết vấn đề - những phẩm chất này đều được tìm thấy ở chính Đa-ni-ên, là người mà vua đã đặt tên là Bên-tơ-sác-xa. Bây giờ xin hãy gọi Đa-ni-ên và người sẽ nói cho bệ hạ biết ý nghĩa của điều đã được viết.”
\s5
\v 13 Sau đó, Đa-ni-ên được vời đến trước mặt vua. Vua bảo ông, “Ngươi là Đa-ni-ên, một trong số những người lưu đày của Giu-đa, mà vua cha ta đã đem ra khỏi Giu-đa.
\v 14 Ta có nghe về ngươi, rằng linh của các thần thánh ngự trong ngươi, và rằng người ta nhìn thấy trong ngươi có sự sáng, sự thông biết và sự khôn ngoan nổi trội.
\s5
\v 15 Bấy giờ, những người khôn ngoan và các đồng bóng đã được vời đến trước mặt ta đặng đọc chữ viết này và giải nghĩa cho ta, nhưng họ không thể giải nghĩa được.
\v 16 Ta có nghe rằng ngươi có thể giải nghĩa và giải quyết vấn đề. Bây giờ nếu ngươi có thể đọc chữ viết ấy và giải nghĩa cho ta, ngươi sẽ được mặc áo tía và đeo dây chuyền vàng quanh cổ ngươi, và ngươi sẽ có quyền lực cai trị đứng hàng thứ ba trong vương quốc này.”
\s5
\v 17 Vậy, Đa-ni-ên tâu trước mặt vua: “Xin bệ hạ giữ lại các món quà ấy, và ban thưởng cho người khác. Tuy nhiên, hạ thần sẽ đọc chữ viết ấy cho bệ hạ, và sẽ cho bệ hạ biết ý nghĩa.
\v 18 Về phần bệ hạ, Đấng Chí Cao đã ban cho Nê-bu-cát-nết-sa, vua cha của bệ hạ, vương quốc này, sự vĩ đại, tôn kính, và oai nghi.
\v 19 Vì cớ sự vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã ban cho người, tất cả các dân, các nước, và các thứ tiếng đều run sợ và sợ người. Người xử tử ai mà người muốn, và người tha mạng ai tùy ý người. Người cất nhắc ai mà người muốn, và người hạ thấp ai tùy ý người.
\s5
\v 20 Nhưng khi lòng người ngạo mạn và tâm linh người cứng cỏi đến nỗi người cư xử tự phụ, người bị hạ xuống khỏi ngai vua, và họ tước đi sự oai nghi của người.
\v 21 Người bị đuổi khỏi loài người, người mang tâm trí của động vật, và sống chung với lừa rừng. Người ăn cỏ như bò đực. Thân thể người thấm nhuần sương móc từ trời cho đến khi người nhận biết rằng Đấng Chí Cao cai trị trên các vương quốc loài người và Ngài ban chúng cho bất kỳ ai mà Ngài muốn.
\s5
\v 22 Bệ hạ, con trai của người, là Bên-sát-xa, không có lòng khiêm nhường, ngay cả dù bệ hạ biết rõ điều này.
\v 23 Bệ hạ đã tự nhấc mình lên cao nghịch lại Chúa trên trời. Họ đã đem ra khỏi nhà của Ngài những khí dụng mà bệ hạ, các quý tộc, hoàng hậu và cung phi của bệ hạ dùng để uống rượu, và bệ hạ ngợi khen các hình tượng làm bằng bạc và vàng, đồng, sắt, gỗ, và đá tức những hình tượng không thấy, không nghe, hoặc không biết gì cả. Bệ hạ không tôn kính Đức Chúa Trời là Đấng nắm giữ hơi thở của bệ hạ trong tay Ngài và là Đấng biết rõ đường lối của bệ hạ.
\v 24 Vậy, Đức Chúa Trời đã sai đến một bàn tay trước mặt Ngài và viết những chữ này.
\s5
\v 25 Đây là chữ được viết: MÊ-NÊ, MÊ-NÊ, TÊ-KEN, U-PHA-SIN.
\v 26 Này là ý nghĩa của nó: ME-NÊ, nghĩa là Đức Chúa Trời đã đếm vương quốc của bệ hạ và quyết định kết thúc nó.
\v 27 TÊ-KEN, nghĩa là bệ hạ được cân trên cái cân và bị xem là còn thiếu.
\v 28 PHÊ-RÊ, nghĩa là vương quốc của bệ hạ bị phân chia và bị phó vào tay người Mê-đi và Ba-tư.”
\s5
\v 29 Vậy Bên-sát-xa ra lệnh, và họ mặc áo màu tía cho Đa-ni-ên. Họ đeo dây chuyền vàng lên cổ ông, và vua rao báo về ông rằng ông sẽ nắm quyền lực cai trị hàng thứ ba trong vương quốc.
\v 30 Đêm đó, Bên-sát-xa, vua Ba-by-lôn, bị giết,
\v 31 và Đa-ri-út người Mê-đi lên kế vị trên vương quốc ấy khi ông được sáu mươi hai tuổi.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Đa-ri-út hài lòng bổ nhiệm 120 quan thống đốc tỉnh cai trị khắp vương quốc.
\v 2 Trên họ là ba quan đại thần, và trong số đó có Đa-ni-ên. Các quan đại thần được bổ nhiệm để giám sát quan thống đốc tỉnh, hầu cho vua không bị tổn thất.
\v 3 Đa-ni-ên ưu tú hơn các quan đại thần khác và những quan thống đốc tỉnh vì ông có một tâm linh lạ thường. Vua có kế hoạch đặt ông cai trị cả vương quốc.
\s5
\v 4 Khi ấy, các quan đại thần khác và quan thống đốc tỉnh tìm cách bắt lỗi trong công việc mà Đa-ni-ên làm cho vương quốc, nhưng họ không thấy có sự tham nhũng hay lỗi lầm gì trong nhiệm vụ của ông vì ông trung thành. Họ không thấy ông có lỗi hay sơ suất nào cả.
\v 5 Vậy những người này bảo nhau, “Chúng ta không tìm được lý do nào để khiếu nại về tên Đa-ni-ên này nếu chúng ta không thấy có điều gì nghịch lại hắn liên quan đến luật của Đức Chúa Trời hắn.”
\s5
\v 6 Vậy các quan đại thần và quan thống đốc trình kế hoạch lên trước mặt vua. Họ tâu cùng vua, “Kính thưa Vua Đa-ri-út, kính chúc bệ hạ sống đời đời!
\v 7 Tất cả các quan đại thần trong vương quốc, các quan thống đốc vùng, và quan thống đốc tỉnh, các cố vấn, và những quan thống đốc đều đã bàn bạc với nhau và quyết định xin bệ hạ ban chiếu chỉ và lập thành sắc lệnh có hiệu lực rằng bất cứ ai cầu xin bất kỳ thần nào hoặc người nào khác trong vòng ba mươi ngày, ngoài bệ hạ, thì người đó phải bị ném vào hang sư tử.
\s5
\v 8 Bây giờ, tâu bệ hạ, xin bệ hạ ban chiếu chỉ và ký vào văn bản để không ai thay đổi, chiếu theo luật của người Mê-đi và Ba-tư, và nó không bị hủy bỏ. ”
\v 9 Vậy vua Đa-ri-út ký văn bản lập chiếu chỉ thành luật.
\s5
\v 10 Khi Đa-ni-ên hay rằng văn bản đã được ký thành luật, ông về nhà (bấy giờ các cửa sổ của ông trên phòng cao được mở hướng về Giê-ru-sa-lem), và ông quỳ gối, cứ ba lần một ngày, ông cầu nguyện và tạ ơn trước mặt Đức Chúa Trời của ông, như trước đó.
\v 11 Khi ấy, những người đã đồng lập mưu thấy Đa-ni-ên cầu xin và cầu vấn Đức Chúa Trời.
\s5
\v 12 Sau đó, họ đến ra mắt và tâu với vua về chiếu chỉ của vua: “Chẳng phải bệ hạ đã lập chiếu chỉ rằng hễ ai cầu xin bất kỳ thần nào hay người nào khác trong vòng ba mươi ngày, ngoài bệ hạ, thì phỉa bị ném vào hang sư tử sao? ” Vua trả lời: “Việc đã được lập, chiếu theo luật của người Mê-đi và Ba-tư; việc ấy không thể bị hủy bỏ.”
\s5
\v 13 Họ tâu với vua: “Chính Đa-ni-ên, một trong những kẻ bị lưu đày khỏi Giu-đa, không ngó ngàng gì đến bệ hạ, hoặc chiếu chỉ mà bệ hạ đã ký. Hắn cầu nguyện với Đức Chúa Trời của hắn ba lần một ngày. ”
\v 14 Khi vua nghe điều này, vua rất đau buồn, và vua đã định trong đầu rằng sẽ giải cứu Đa-ni-ên khỏi quyết định này. Vua dốc sức cho đến khi hoàng hôn để cố cứu Đa-ni-ên.
\s5
\v 15 Những người đã lập mưu nhóm lại với nhau trước mặt vua và tâu rằng: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ biết rằng đây là luật của người Mê-đi và Ba-tư, không chiếu chỉ hay đạo luật nào mà vua ban ra có thể bị thay đổi.”
\s5
\v 16 Vậy, vua ra lệnh, và họ giải Đa-ni-ên đến, họ ném ông vào trong hang sư tử. Vua nói với Đa-ni-ên: “Nguyền xin Đức Chúa Trời của ngươi, Đấng mà ngươi hằng phục vụ, giải cứu ngươi.”
\s5
\v 17 Người ta lấy một hòn đá lấp cửa hang, và vua niêm phong bằng chiếc ấn tín của vua và ấn tín của các quý tộc để vụ của Đa-ni-ên không bị thay đổi.
\v 18 Sau đó vua trở về hoàng cung và nhịn ăn suốt đêm. Vua chẳng màng đến việc giải trí, và vua chẳng ngủ được.
\s5
\v 19 Hôm sau, vua thức dậy và mau chóng chạy đến hang sư tử.
\v 20 Khi đến gần hang, vua đau buồn cất tiếng gọi Đa-ni-ên. Vua kêu Đa-ni-ên: “Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ của Đức Chúa Trời hằng sống, Đức Chúa Trời của ngươi, Đấng mà ngươi hằng phục vụ, có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử không?”
\s5
\v 21 Đa-ni-ên tâu: “Bệ hạ vạn tuế, vạn vạn tuế!
\v 22 Đức Chúa Trời của hạ thần đã sai sứ giả của Ngài đến và bịt miệng sư tử, chúng chẳng làm hại hạ thần. Vì Ngài thấy hạ thần vô tội và trước mặt bệ hạ, hạ thần không làm gì tổn hại bệ hạ.”
\s5
\v 23 Vua rất vui mừng. Vua ban lệnh đem Đa-ni-ên ra khỏi hang. Vậy Đa-ni-ên được đem ra khỏi hang. Người ta không thấy ông bị hại gì, vì ông tin cậy Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 24 Vua ra lệnh, và họ giải đến những kẻ đã buộc tội Đa-ni-ên và ném họ và vợ con họ vào hang sư tử. Trước khi họ rơi xuống đất, sư tử đã vồ đến và xé xác xương cốt họ tan nát.
\v 25 Bấy giờ, Vua Đa-ri-ít viết cho các dân, các nước, và các thứ tiếng trên đất: “Nguyện các ngươi được thêm sự bình an.
\s5
\v 26 Ta ban chiếu chỉ rằng trong khắp lãnh địa vương quốc ta, ai nấy phải run rẩy và kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên, vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và sống đời đời, và vương quốc Ngài sẽ không bị diệt vong; quyền thống trị của Ngài không hề dứt.
\v 27 Ngài khiến chúng ta được an toàn và giải cứu chúng ta, Ngài làm những dấu kỳ và phép lạ trên trời và trên đất; Ngài đã bảo vệ Đa-ni-ên khỏi sức mạnh của sư tử.”
\s5
\v 28 Vậy Đa-ni-ên thành công trong suốt đời cai trị của Đa-ri-út và Si-ru người Ba-tư.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Năm thứ nhất trong đời Bên-sát-xa vua Ba-by-lôn, Đa-ni-ên có một giấc chiêm bao và những sự hiện thấy trong đầu ông khi đang nằm trên giường. Sau đó ông viết xuống những gì đã thấy trong giấc chiêm bao. Ông ghi lại những sự kiện quan trọng nhất:
\v 2 Đa-ni-ên giải thích, “Trong sự hiện thấy của tôi vào lúc ban đêm, tôi thấy bốn cơn gió từ trời đang chuyển động dữ dội trên mặt biển.
\v 3 Bốn con thú lớn, mỗi con đều khác nhau, đi lên từ dưới biển.
\s5
\v 4 Con thứ nhất giống như sư tử nhưng có cánh đại bàng. Khi tôi đang xem, các cánh của nó bị xé toạc, nó bị nhấc lên khỏi đất và đứng trên hai chân như người. Nó được ban cho tâm trí của loài người.
\v 5 Kế đến là con thú thứ nhì, giống con gấu, nó đứng khom lưng; trong miệng nó có ba xương sườn giữa những cái răng. Nó được bảo: “Hãy đứng dậy và ăn tươi nuốt sống nhiều người.
\s5
\v 6 Sau việc này, tôi lại nhìn xem. Có một con thú khác, trông giống như con báo. Trên lưng nó có bốn cánh như cánh chim, và nó có bốn cái đầu. Nó được ban cho thẩm quyền để cai trị.
\v 7 Sau đó, trong giấc chiêm bao vào ban đêm của tôi, tôi thấy một con thú thứ tư thật đáng sợ, kinh khiếp, và rất mạnh. Nó có răng lớn bằng sắt; nó cắn xé, nghiền nát, và giẫm đạp dưới chân những gì còn sót lại. Con thú này khác với những con kia, và nó có mười sừng.
\s5
\v 8 Đang khi tôi còn để ý đến các sừng, tôi nhìn thấy một cái sừng khác mọc lên giữa chúng, một cái sừng nhỏ. Ba trong số những cái sừng đầu tiên bị nhổ tận gốc. Tôi thấy trong cái sừng này có mắt như mắt của loài người và miệng khoe khoang về những điều to lớn.
\s5
\v 9 Khi tôi nhìn xem, các ngai đã được đặt vào chỗ, và Đấng Thượng Cổ ngồi trên đó. Áo Ngài trắng như tuyết, tóc trên đầu Ngài như lông chiên tinh sạch. Ngai của Ngài là những ngọn lửa, và bánh xe của nó là lửa hừng.
\s5
\v 10 Một dòng sông lửa chảy ra từ trước mặt Ngài; hàng triệu người phục vụ Ngài, và một trăm triệu người đứng trước mặt Ngài. Phiên tòa đã sẵn sàng, và các sách được mở ra.
\s5
\v 11 Tôi tiếp tục xem vì cớ những lời khoác lác từ sừng ấy nói ra. Tôi xem trong khi con thú bị giết, thây nó bị hủy, và nó bị phó cho lửa đốt.
\v 12 Với bốn con thú còn lại, quyền cai trị của chúng bị cất đi, nhưng mạng sống chúng được kéo dài trong một khoảng thời gian.
\s5
\v 13 Trong những sự hiện thấy của tôi vào đêm đó, tôi thấy Đấng trên mây trời ngự đến như con người; Ngài đến với Đấng Thượng Cổ và đứng trước mặt Ngài.
\v 14 Thẩm quyền cai trị, sự vinh quang và vương quyền được phó cho Ngài để mọi dân, mọi nước, và mọi thứ tiếng đều phục vụ Ngài. Thẩm quyền cai trị của Ngài là thẩm quyền đời đời sẽ không hề phai tàn, và vương quốc của Ngài là nước sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
\s5
\v 15 Còn tôi, Đa-ni-ên, tâm thần trong tôi đau buồn, và những sự hiện thấy trong đầu tôi khiến tôi bồn chồn.
\v 16 Tôi đến gần một trong số những người đang đứng đó và nhờ người cho tôi biết ý nghĩa của những sự này.
\s5
\v 17 Bốn con thú lớn là bốn vua sẽ trỗi dậy trên đất.
\v 18 Nhưng dân thánh của Đấng Chí Cao sẽ nhận lãnh vương quốc, và họ sẽ sở hữu vương quốc ấy đời đời vô cùng.
\s5
\v 19 Sau đó, tôi muốn biết thêm về con thú thứ tư con thú ấy thật khác so với những con khác và rất ghê khiếp với những răng bằng sắt và móng vuốt bằng đồng; nó ăn tươi nuốt sống, xé xác tan tành, và giẫm đạp dưới chân nó những gì còn sót lại.
\v 20 Tôi muốn biết về mười sừng trên đầu nó, và chiếc sừng khác mọc lên trước khi ba chiếc sừng kia rơi xuống. Tôi muốn biết về chiếc sừng có mắt và miệng khoe khoang về những điều to lớn và dường như lớn hơn những sừng khác.
\s5
\v 21 Khi tôi xem, chiếc sừng này gây chiến chống lại dân thánh và đánh bại họ
\v 22 cho đến khi Đấng Thượng Cổ đến, và công lý được ban cho dân thánh của Đấng Chí Cao. Rồi thì giờ cũng đã đến ấy là khi dân thánh nhận lãnh vương quốc.
\s5
\v 23 Người đó nói như vầy: “Còn về con thú thứ tư, nó sẽ là vương quốc thứ tư trên đất khác với tất cả các vương quốc kia. Nó sẽ tàn phá khắp đất, và nó sẽ giẫm đạp và nghiền nát.
\v 24 Còn về mười chiếc sừng, từ trong vương quốc này sẽ nổi lên mười vua, và một vua khác sẽ nổi lên sau chúng. Vua ấy sẽ khác các vua trước và sẽ đánh bại ba vua kia.
\s5
\v 25 Vua sẽ nói những lời nghịch lại Đấng Chí Cao và đàn áp dân thánh của Đức Chúa Trời Chí Cao. Vua sẽ cố thay đổi các lễ hội và luật pháp. Những sự này sẽ được phó vào tay vua ấy trong một năm, hai năm, và một nửa năm.
\v 26 Nhưng tòa án sẽ được mở ra, và người ta sẽ cất vương quyền khỏi vua ấy và cuối cùng là tiêu diệt đi.
\s5
\v 27 Vương quốc và quyền thế, sự vĩ đại của các nước dưới trời, sẽ được ban cho dân thuộc về dân thánh của Đấng Chí Cao. Vương quốc Ngài là vương quốc đời đời, và tất cả vương quốc khác sẽ phục vụ và vâng phục Ngài.
\v 28 Vấn đề này đến đây là hết. Còn về phần tôi, Đa-ni-ên, các tư tưởng của tôi khiến tôi thật lo sợ và sắc mặt tôi thay đổi. Nhưng tôi giữ kín những sự này trong lòng.”
\s5
\c 8
\p
\v 1 Năm thứ ba thuộc triều đại của Vua Bên-sát-xa, tôi, Đa-ni-ên, có một sự hiện thấy (sau sự hiện thấy thứ nhất).
\v 2 Tôi thấy trong sự hiện thấy, khi tôi đang nhìn, tôi thấy mình đang ở trong thành lũy Su-sa ở tỉnh Ê-lam. Trong sự hiện thấy đó, tôi thấy tôi đứng bên cạnh Sông U-lai.
\s5
\v 3 Tôi nhìn lên và thấy trước mặt tôi là một con chiên đực có hai sừng, đứng bên cạnh con sông. Sừng này dài hơn sừng kia, nhưng sừng dài hơn mọc lên chậm hơn sừng ngắn hơn và cao hơn.
\v 4 Tôi thấy con chiên đực tấn công về phía tây, phía nam, và phía bắc; không con thú nào có thể đứng trước mặt nó. Không ai trong số đó có thể cứu bất kỳ ai khỏi tay nó. Nó làm gì tùy ý, và nó trở nên lớn mạnh.
\s5
\v 5 Khi tôi đang suy ngẫm về việc này, tôi thấy một con dê đực đến từ phía tây, ngang qua trên mặt đất, nó phóng nhanh, chân dường như không chạm đất. Con dê ấy có một sừng lớn giữa đôi mắt.
\v 6 Nó tiến đến con chiên đực có hai sừng tôi đã thấy con chiên đực đứng trên bờ sông và con dê đực xông tới con chiên đực với tất cả cơn giận dữ.
\s5
\v 7 Tôi thấy con dê đực tiến đến gần con chiên đực. Nó rất giận con chiên đực, nó húc con chiên đực và làm gãy hai sừng của con chiên ấy. Con chiên đực không đủ sức đứng trước mặt nó. Con dê đực húc con chiên ngã xuống đất và giẫm lên nó. Không ai có thể cứu con chiên đực khỏi sức mạnh của con dê.
\v 8 Sau đó, con dê đực trở nên rất lớn. Nhưng khi nó trở nên mạnh mẽ, chiếc sừng lớn của nó bị gãy, và thay vào đó là có bốn chiếc sừng lờn khác mọc lên hướng về bốn hướng gió từ khắp phương trời.
\s5
\v 9 Trong số đó mọc ra một chiếc sừng nhỏ khác, nhưng nó trở nên rất lớn ở phía nam, phía đông, và trong miền vinh quang của Y-sơ-ra-ên.
\v 10 Nó trở nên lớn mạnh để gây chiến với đạo binh trên trời. Một phần trong đạo binh đó và một phần các vì sao bị quăng xuống đất, và nó giẫm đạp lên chúng.
\s5
\v 11 Nó trở nên lớn, thậm chí lớn như Đấng Thần hựu chỉ huy đạo quân. Của lễ hằng hiến bị cất khỏi nó, và nơi thánh của nó bị ô uế.
\v 12 Vì cớ sự nổi loạn, đạo quân sẽ bị phó vào sừng con dê đực, và của lễ thiêu sẽ bị dẹp bỏ. Chiếc sừng sẽ ném lẽ thật xuống đất, và nó sẽ thành công trong việc nó làm.
\s5
\v 13 Sau đó, tôi nghe một Đấng thánh nói và một Đấng thánh khác đang trả lời Ngài: “Những việc này sẽ kéo dài bao lâu, tức là sự hiện thấy về của lễ thiêu, tội lỗi dẫn đến sự hủy diệt, nơi thánh bị phế, và đạo quân trên trời bị giẫm đạp? ”
\v 14 Ngài trả lời tôi: “Việc ấy sẽ kèo dài trong 2. 300 buổi chiều và buổi sáng. Sau đó, nơi thánh sẽ được phục hồi.”
\s5
\v 15 Khi tôi, Đa-ni-ên, đã thấy sự hiện thấy này, tôi cố hiểu rõ. Và đứng trước mặt tôi là một người có hình dạng như con người.
\v 16 Tôi nghe tiếng gọi của một người phát ra từ giữa hai bờ sông U-lai. Người nói: “Hỡi Gáp-ri-ên, hãy giúp người này hiểu sự hiện thấy đó. ”
\v 17 Vậy, người đến gần nơi tôi đứng. Khi người đến, tôi khiếp đảm và nằm phủ phục trên đất. Người bảo tôi: “Hỡi con người, hãy hiểu rằng sự hiện thấy đó nói về thời kỳ cuối.”
\s5
\v 18 Khi người nói với tôi, tôi nằm sấp mặt ngủ mê trên đất. Sau đó người chạm tôi và đỡ tôi đứng dậy.
\v 19 Người nói: “Kìa, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy việc sẽ xảy đến trong kỳ thạnh nộ, vì sự hiện thấy đó liên quan với thời kỳ đã được ấn định cho sự cuối cùng.
\s5
\v 20 Về con chiên đực mà ngươi thấy, tức con chiên có hai sừng chúng là các vua Mê-đi và Ba-tư.
\v 21 Con dê đực là vua Hy Lạp. Chiếc sừng lớn giữa đôi mắt nó là vua thứ nhất.
\s5
\v 22 Về chiếc sừng bị gãy, thay vào đó là có bốn chiếc sừng khác mọc lên bốn vương quốc sẽ trỗi dậy từ nước đó, nhưng chúng không có quyền lực to lớn của vua ấy.
\v 23 Đến thời kỳ sau cùng của các vương quốc đó, khi những kẻ vi phạm đã đạt đến giới hạn, một vua có bộ mặt dữ tợn, là người rất thông minh, sẽ trỗi dậy.
\s5
\v 24 Quyền lực hắn sẽ to lớn, nhưng không phải bởi sức mạnh của hắn. Hắn sẽ tàn phá khắp nơi, và hắn sẽ thành công trong bất cứ việc gì hắn làm. Hắn sẽ tiêu diệt dân hùng mạnh, tức dân thánh.
\v 25 Bằng tính xảo quyệt của hắn, hắn sẽ khiến sự lừa dối thịnh hành dưới tay hắn. Hắn thậm chí sẽ nổi dậy chống lại Vua của các vua, và hắn sẽ bị bẻ gãy chẳng phải bởi sức mạnh của con người.
\s5
\v 26 Sự hiện thấy về buổi chiều và buổi sáng đã được kể là có thật. Nhưng hãy niêm phong sự hiện thấy này, vì nó liên quan đến những ngày về sau này.”
\s5
\v 27 Vậy tôi, Đa-ni-ên, bị kiệt sức và nằm mê mệt trong vài ngày. Sau đó tôi ngồi dậy, và làm việc của vua. Nhưng tôi cứ bần thần vì sự hiện thấy ấy, và không ai hiểu rõ nó.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đa-ri-út là con của A-ha-suê-ru, thuộc con cháu của người Mê-đi. A-ha-suê-ru đã được lập làm vua cai trị người Ba-by-lôn.
\v 2 Bấy giờ vào năm thứ nhất trong triều đại của Đa-ri-út, tôi Đa-ni-ên, đang nghiên cứu các sách có chép lời của Đức Giê-hô-va, là lời đã được truyền cho tiên tri Giê-rê-mi. Tôi theo dõi thấy rằng sẽ có bảy mươi năm cho đến khi sự từ bỏ Giê-ru-sa-lem chấm dứt.
\s5
\v 3 Tôi hướng mặt về Chúa là Đức Chúa Trời, tìm kiếm Ngài qua lời cầu nguyện, kêu cầu, kiêng ăn, mặc áo vải gai, và ngồi trong tro bụi.
\v 4 Tôi cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, và tôi xưng tội của chúng tôi. Tôi nói: “Con thiết tha khẩn cầu Ngài, lạy Chúa, Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng khiếp sợ, Đấng giữ giao ước và sự thành tín với những ai yêu mến Ngài và giữ điều răn Ngài.
\s5
\v 5 Chúng con đã phạm tội và làm điều sai trái. Chúng con đã hành xử gian ác và bội nghịch, từ bỏ mệnh lệnh và sắc lệnh của Ngài.
\v 6 Chúng con không nghe các tiên tri là những tôi tớ của Ngài, tức những người nhân danh Ngài mà rao báo với các vua, các lãnh đạo, tổ phụ của chúng con, và với cả dân trên đất.
\s5
\v 7 Lạy Chúa, sự công bình thuộc về Ngài. Tuy nhiên, đối với chúng con ngày nay, sự hổ thẹn đổ trên mặt chúng con là người Giu-đa và những người sống ở Giê-ru-sa-lem, và đối với toàn thể Y-sơ-ra-ên. Trong số này bao gồm những người ở gần và ở xa trong khắp những xứ mà Ngài đã đuổi họ đến. Ấy là bởi vì tội bội bạc mà chúng con đã phạm trước mặt Ngài.
\v 8 Lạy Đức Giê-hô-va, sự hổ thẹn đổ trên mặt chúng con các vua của chúng con, các lãnh đạo, và các tổ phụ - vì chúng con đã phạm tội đối với Ngài.
\s5
\v 9 Lòng thương xót và sự tha thứ thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con vì chúng con chống đối Ngài.
\v 10 Chúng con không vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con qua việc bước đi trong luật pháp Ngài mà Ngài đã ban cho chúng con qua các tôi tớ Ngài là những tiên tri.
\v 11 Toàn thể Y-sơ-ra-ên đã vi phạm luật pháp Ngài và từ bỏ, không chịu vâng theo tiếng Ngài. Lời rủa sả và lời thề được chép trong luật của Môi-se, là tôi tớ của Đức Chúa Trời, đã đổ lại trên chúng con, vì chúng con phạm tội nghịch lại Ngài.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va đã làm cho vững chắc lời Ngài phán nghịch cùng chúng con, và nghịch cùng những người cai trị chúng con, bằng cách giáng một tai họa lớn lên chúng con. Vì dưới trời, không có tai họa nào có thể sánh bằng tai họa đã giáng trên Giê-ru-sa-lem.
\v 13 Như có chép trong luật pháp Môi-se, cả tai họa này đã đến trên chúng con, nhưng chúng con không cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con thương xót bằng cách từ bỏ tội ác mình và lưu ý đến lẽ thật của Ngài.
\v 14 Vậy, Đức Giê-hô-va đã sắm sẵn tai họa đó và giáng trên chúng con, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con là công bình trong mọi việc Ngài làm, nhưng chúng con không vâng theo tiếng Ngài.
\s5
\v 15 Bây giờ, lạy Chúa là Đức Chúa Trời chúng con, Ngài đã đem dân Ngài ra khỏi xứ Ai Cập bằng cánh tay mạnh mẽ, và Ngài đã lập danh tiếng cho Ngài, như ngày nay. Nhưng chúng con vẫn phạm tội; chúng con làm điều ác.
\v 16 Lạy Chúa, vì cớ mọi việc công bình của Ngài, xin Chúa khiến cơn giận và cơn thạnh nộ của Ngài xây khỏi thành Giê-ru-sa-lem của Ngài, tức núi thánh Ngài. Vì cớ tội lỗi của chúng con, và vì cớ những tội ác của tổ phụ chúng con, Giê-ru-sa-lem và dân Ngài đã trở thành đối tượng bị chế nhạo của những người ở xung quanh chúng con.
\s5
\v 17 Bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của chúng con, xin nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời van xin sự thương xót; vì cớ danh Ngài, lạy Chúa, xin Chúa rạng ngời mặt Ngài tại nơi thánh là nơi hoang vắng.
\v 18 Lạy Đức Chúa trời của con, xin Ngài lắng tai nghe chúng con; mở mắt Ngài để xem chúng con. Chúng con đã bị tàn phá; xin Chúa nhìn xem thành được gọi bằng danh Ngài. Chúng con không cầu xin Ngài giúp đỡ vì sự công bình của chúng con, nhưng bởi sự thương xót to lớn của Ngài.
\v 19 Lạy Chúa, xin nghe! Lạy Chúa, xin Nghe! Lạy Chúa, xin Chúa lưu ý và hành động! Vì cớ danh Ngài, lạy Đức Chúa Trời của con, xin Chúa đừng trì hoãn, vì thành của Ngài và dân Ngài là dân được gọi bởi danh Ngài.”
\s5
\v 20 Trong khi tôi đang nói cầu nguyện và xưng tội lỗi tôi và tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên tôi, và trình các lời cầu xin của tôi lên trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi vì núi thánh của Đức Chúa Trời
\v 21 trong khi tôi đang cầu nguyện, Gáp-ri-ên, là người mà tôi thấy trong sự hiện thấy đầu tiên, mau bay đến bên tôi, trong giờ dâng của lễ chiều.
\s5
\v 22 Người cho tôi có sự hiểu biết và nói: “Hỡi Đa-ni-ên, bây giờ ta ra để ban cho ngươi sự sáng suốt và thông hiểu.
\v 23 Khi ngươi bắt đầu nài xin sự thương xót, có lệnh được ban ra và ta đã đến để cho ngươi câu trả lời, vì ngươi được yêu mến lắm. Vậy hãy xem xét lời này và hiểu sự mạc khải.
\s5
\v 24 Có bảy mươi bảy tuần lễ được định cho dân ngươi và thành thánh ngươi đặng chấm dứt tội lỗi và tội ác, đền cho tội ác, và đem đến sự công bình đời đời, thực thi sự hiện thấy và lời tiên tri, và thánh hóa nơi chí thánh.
\v 25 Hãy biết và hiểu rằng từ lúc ra lệnh phục hồi và xây lại thành Giê-ru-sa-lem cho tới sự hiện đến của Đấng được xức dầu (tức là Đấng làm lãnh đạo), sẽ có bảy tuần và sáu mươi hai tuần. Giê-ru-sa-lem sẽ được xây dựng lại, có đường phố và hào, dù trong thời kỳ túng quẫn.
\s5
\v 26 Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Đấng được xức dầu sẽ bị diệt và sẽ không có chi hết. Đạo quân của vua sắp lên sẽ hủy diệt thành và nơi thánh. Khắp các ngõ ngách sẽ có nước lụt, và sẽ có chiến tranh cho đến cuối cùng. Sự tàn phá đã được định.
\s5
\v 27 Hắn sẽ củng cố giao ước với nhiều người trong một tuần. Vào giữa tuần, hắn sẽ chấm dứt việc dâng của tế lễ và của lễ. Trên cánh ghê tởm sẽ xuất hiện kẻ tàn phá. Sự chấm dứt và hủy diệt hoàn toàn đã được định phải đổ trên kẻ gây ra sự tàn phá.”
\s5
\c 10
\p
\v 1 Năm thứ ba trong đời Si-ru vua Ba-tư, có một sứ điệp được tỏ cho Đa-ni-ên, (hay còn được gọi là Bên-tơ-sát-xa), và sứ điệp này là chân thật. Sứ điệp ấy nói về một cuộc chiến lớn. Đa-ni-ên hiểu sứ điệp đó khi ông hiểu ý nghĩa của sự hiện thấy.
\s5
\v 2 Trong những ngày đó tôi, Đa-ni-ên, đang than khóc được ba tuần.
\v 3 Tôi không ăn cao lương mỹ vị nào cả, tôi không ăn thịt, tôi không uống rượu, và tôi không xức dầu cho đến khi đã trọn ba tuần đó.
\s5
\v 4 Ngày hai mươi bốn tháng giêng, khi tôi đang đứng bên bờ sông lớn (nghĩa là sông Tíc-ri),
\v 5 tôi nhìn lên và thấy một người mặt đồ vải lanh, quanh lưng thắt đai bằng vàng ròng U-pha.
\v 6 Mình người như bích ngọc, mặt người như chớp, mắt người như đuốc rực lửa, cánh tay và chân người như đồng đánh bóng, và tiếng nói của người như tiếng của một đám đông lớn.
\s5
\v 7 Tôi, Đa-ni-ên, một mình tôi thấy sự hiện thấy, vì những người ở với tôi không thấy sự đó. Tuy nhiên, một sự khiếp sợ kinh hoàng giáng trên họ, và họ chạy trốn.
\v 8 Vậy chỉ còn một mình tôi ở lại và xem sự hiện thấy to lớn này. Tôi không còn sức lực; diện mạo hớn hở của tôi thay đổi đáng sợ, và tôi kiệt sức.
\v 9 Sau đó tôi nghe những lời người nói và khi tôi đang nghe, tôi sấp mặt lịm đi trên đất.
\s5
\v 10 Một bàn tay chạm vào tôi, và khiến tôi run lẩy bẩy hai đầu gối và lòng bàn tay mình.
\v 11 Thiên sứ bảo tôi: “Hỡi Đa-ni-ên, người được yêu mến, hãy hiểu những lời mà ta sẽ phán cùng ngươi, và hãy đứng thẳng lên, vì ta đã được sai đến bên ngươi. ” Khi người đã nói với tôi lời này, tôi run rẩy đứng lên.
\s5
\v 12 Người phán: “Hỡi Đa-ni-ên, đừng sợ. Từ ngày đầu tiên ngươi để trí mình hiểu và hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời ngươi, các lời ngươi đã được nghe, và ta đến vì cớ lời của ngươi.
\v 13 Vương tử của vương quốc Ba-tư chống cự ta, và ta bị giữ lại đó với các vua Ba-tư trong hai mươi mốt ngày. Nhưng Mi-ca-ên, một trong các vương tử trưởng, đã đến giúp ta.
\s5
\v 14 Bấy giờ ta đến đặng giúp ngươi hiểu việc sẽ xảy ra với dân ngươi trong những ngày sau rốt. Vì sự hiện thấy này liên quan đến những ngày chưa đến. ”
\v 15 Khi người đang nói với tôi những lời này, tôi cúi mặt xuống đất và không thể nói được.
\s5
\v 16 Một người giống như loài người chạm vào môi tôi, và tôi mở miệng mình và nói với người đứng trước mặt tôi: “Thưa chủ tôi, sự hiện thấy đó đã khiến tôi buồn rầu, và tôi kiệt sức.
\v 17 Tôi là tôi tớ của ngài. Làm sao tôi có thể nói chuyện với chủ của tôi? Vì bây giờ tôi không còn sức, và tôi cũng không còn hơi thở nào.”
\s5
\v 18 Người có hình dạng như loài người rờ chạm tôi và thêm sức cho tôi.
\v 19 Người nói: “Hỡi người được yêu mến, đừng sợ. Hãy bình an. Bây giờ hãy mạnh mẽ; hãy mạnh mẽ! ” Khi người nói với tôi, tôi được thêm sức và nói: “Xin chủ của tôi nói, vì ngài đã thêm sức cho tôi.”
\s5
\v 20 Người bảo: “Ngươi có biết tại sao ta đến gặp ngươi không? Bây giờ ta sẽ trở về đặng đánh vương tử Ba-tư. Khi ta đi, vương tử Hy Lạp sẽ đến.
\v 21 Nhưng ta sẽ cho ngươi biết điều được chép trong Sách Lẽ thật không ai mạnh mẽ để đứng bên ta, ngoại trừ Mi-ca-ên, vương tử của ngươi.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Năm thứ nhất trong đời Đa-ri-út người Mê-đi, chính ta đến hỗ trợ và bảo vệ Mi-ca-ên.
\v 2 Và bây giờ ta sẽ tỏ cho ngươi biết một lẽ thật. Ba vua sẽ trỗi dậy ở Ba-tư, và vua thứ tư sẽ giàu hơn tất cả những vua khác. Khi người đã đạt được quyền lực qua sự giàu có mình, người sẽ xúi giục mọi người chống lại vương quốc Hy Lạp.
\s5
\v 3 Một vua hùng mạnh sẽ trỗi dậy cai trị một vương quốc rất lớn, và người sẽ làm mọi điều tùy ý mình.
\v 4 Khi người trỗi dậy, vương quốc của người sẽ bị tan rã và bị chia theo bốn hướng gió. Tuy nhiên, vương quốc ấy sẽ không được trao cho con cháu của vua đó, và nó sẽ không có quyền lực như khi vua đó cai trị nó. Vì vương quốc của vua đó sẽ bị nhổ và phó cho những người không phải là con cháu của vua.
\s5
\v 5 Vua phương Nam sẽ lớn mạnh, nhưng một trong các sĩ quan chỉ huy của vua sẽ trở nên mạnh hơn vua và sẽ cai trị một vương quốc lớn hơn.
\v 6 Sau vài năm, khi thời điểm chín muồi, họ sẽ lập liên minh. Công chúa của vua phương Nam sẽ đến gặp vua phương Bắc đặng củng cố thỏa thuận. Nhưng nàng sẽ mất quyền lực, và nàng sẽ bị bỏ - ngay cả nàng và những người đưa nàng đến, cha nàng, và những người hỗ trợ nàng trong thời điểm đó cũng vậy.
\s5
\v 7 Nhưng một nhánh từ rễ của nàng sẽ nổi lên thế chỗ. Người sẽ đánh đạo quân và đi vào pháo đài của vua phương Bắc. Người sẽ đánh chúng, và người sẽ chinh phục chúng.
\v 8 Người sẽ lấy các thần tượng của chúng cùng với những hình tượng đúc bằng kim loại và các khí dụng quý giá bằng bạc và vàng mà đem đến Ai Cập, người sẽ không tấn công vua phương Bắc trong vài năm.
\v 9 Vua phương Bắc sẽ xâm chiếm địa hạt của vua phương Nam, nhưng vua ấy sẽ rút quân về xứ mình.
\s5
\v 10 Các con trai người sẽ gây chiến và tập hợp một đạo quân lớn, sẽ luôn kéo đến và ngập tràn như lũ, đi qua, và lặp lại cuộc đột kích trên đường đến pháo đài của vua ấy.
\s5
\v 11 Vua phương Nam sẽ tức giận hành quân và đánh lại vua phương Bắc. Vua phương Bắc sẽ dấy lên một đạo quân lớn, nhưng đạo quân ấy sẽ bị phó cho vua phương Nam.
\v 12 Khi đạo quân đó bị bắt đi, vua phương Nam sẽ đầy lòng kiêu ngạo, và giết hàng ngàn kẻ thù của người. Nhưng người sẽ không thành công.
\s5
\v 13 Vua phương Bắc sẽ dấy lên một đạo quân lớn, lớn hơn đạo quân ban đầu. Vài năm sau, vua phương Bắc chắc chắn sẽ kéo theo một đạo quân lớn trang bị nhiều đồ.
\s5
\v 14 Trong lúc đó, nhiều người sẽ nổi lên nghịch lại vua phương Nam. Những kẻ bạo lực nhất trong dân ngươi sẽ nổi dậy đặng làm ứng nghiệm sự hiện thấy, nhưng chúng sẽ vấp chân và ngã.
\s5
\v 15 Vua phương Bắc sẽ đến và dựng mô và chiếm một thành trì kiên cố. Các lực lượng phương Bắc sẽ không thể đứng vững được; ngay cả các chiến sĩ tinh nhuệ nhất cũng không đủ sức để đứng.
\v 16 Nhưng vua phương Bắc sẽ làm bất cứ điều gì mình muốn để chống lại vua phương Nam, không ai cản được người; người sẽ tự lập mình trong xứ xinh đẹp với sự hủy diệt hoàn toàn trong tay mình.
\s5
\v 17 Vua phương Bắc sẽ quyết định đến bằng sức mạnh của cả vương quốc người, và người sẽ lập thỏa thuận đúng đắn và thực thi với vua phương Nam. Người sẽ gả cho vua phương Nam một con gái đặng hủy diệt vương quốc phương Nam. Nhưng kế hoạch sẽ không thành công hoặc có lợi cho người.
\v 18 Sau đó, vua phương Bắc sẽ để ý các vùng duyên hải và chiếm nhiều nơi trong số đó. Nhưng một sĩ quan chỉ huy sẽ chấm dứt sự láo xược của người và khiến cho sự láo xược ấy đổ lại trên đầu người.
\v 19 Kế đến, người sẽ để ý các pháo đài trong xứ mình, nhưng người sẽ vấp chân và sa ngã; người ta sẽ không tìm thấy người.
\s5
\v 20 Bấy giờ, một người khác sẽ nổi lên thế cho người và sẽ áp thuế đặng duy trì sự huy hoàng của vương quốc. Nhưng chỉ trong ít ngày, người sẽ bị tiêu diệt, nhưng không phải vì bị phẫn nộ hay tử trận.
\v 21 Một kẻ đáng khinh sẽ nổi lên thế cho người, người ta không tôn hắn lên làm vua; hắn sẽ âm thầm đến và dùng lời xu nịnh chiếm lấy vương quốc.
\v 22 Một đạo quân lớn sẽ bị quét sạch như nước lũ trước mặt hắn. Cả đạo quân và tướng lãnh được lập nên bởi giao ước sẽ bị diệt.
\s5
\v 23 Kể từ khi nó lập liên minh, nó sẽ lừa dối; nó sẽ mạnh lên với một ít người.
\v 24 Đang lúc yên ổn, hắn sẽ đến nơi giàu có nhất trong tỉnh, hắn sẽ làm điều mà cha ông hắn không làm phân chia với những kẻ theo hắn của cướp được, của cắp, và của cải. Hắn sẽ lập mưu đánh bại các pháo đài, nhưng chỉ được một lần.
\s5
\v 25 Hắn sẽ dốc hết sức và dũng khí mà đánh vua phương Nam bằng một đạo quân lớn. Vua phương Nam sẽ nổi giận gây chiến bằng một đạo quân hùng mạnh, nhưng vua ấy sẽ không thể đứng vững vì cớ tất cả những âm mưu đã lập chống lại vua ấy.
\v 26 Ngay cả những người ăn ở bàn vua sẽ cố tiêu diệt vua. Đạo quân của vua sẽ bị quét sạch như cơn nước lụt, và nhiều người trong số chúng sẽ bị giết.
\v 27 Cả hai vua này, lòng của hai vua đều toan làm hại nhau, sẽ ngồi cùng bàn và nói dối nhau, nhưng không theo mục đích nào cả. Sự cuối cùng sẽ đến theo kỳ đã định.
\s5
\v 28 Sau đó, vua phương Bắc sẽ trở về xứ mình đem theo nhiều của cải, nhưng lòng vua sẽ nghịch lại giao ước thánh. Vua sẽ làm mọi việc tùy ý, và trở về xứ của mình.
\s5
\v 29 Đến kỳ đã định, vua sẽ trở lại và xâm chiếm phương Nam lần nữa. Nhưng lần này sẽ không như lần trước.
\v 30 Các tàu ở Kít-tim sẽ đến nghịch lại vua, vua sẽ nản lòng và quay về. Vua sẽ điên tiết về giao ước thánh, và vua sẽ ưu ái những kẻ bỏ giao ước thánh.
\s5
\v 31 Các lực lượng của vua sẽ trỗi dậy và làm ô uế nơi thánh và pháo đài; chúng sẽ cất đi của lễ thiêu hằng dâng, và chúng sẽ lập sự kinh tởm, sự ấy sẽ gây ra sự hoang vu hoàng toàn.
\v 32 Vua sẽ xu nịnh những ai vi phạm giao ước và quyến dụ họ, nhưng dân biết Đức Chúa Trời mình sẽ mạnh mẽ và hành động.
\s5
\v 33 Người khôn ngoan trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người. Nhưng dần dần, họ sẽ ngã bởi gươm và ngọn lửa, họ sẽ bị bắt làm tù binh và bị cướp hết tài sản.
\v 34 Khi họ vấp chân, họ sẽ được ít người giúp đỡ, nhưng nhiều người sẽ gia nhập với họ nhưng không thật lòng.
\v 35 Một số người khôn ngoan sẽ vấp chân để họ được tinh luyện, làm sạch, và trở nên trong trắng trước kỳ tận thế. Vì kỳ đã định vẫn chưa đến.
\s5
\v 36 Vua sẽ làm bất cứ điều gì mình muốn. Vua ấy sẽ tự tôn và tự cho mình vĩ đại hơn các thần, và sẽ nói những lời kinh dị nghịch lại Đức Chúa Trời của các thần. Vua sẽ thành công cho đến khi cơn thạnh nộ được hoàn tất. Vì việc đã định sẽ được thực hiện.
\v 37 Vua sẽ không quan tâm đến các thần của tổ phụ vua, thần đàn bà thèm muốn, hoặc bất kỳ thần nào khác. Vua sẽ hành động kiêu căng và tự cho mình cao hơn các thần khác.
\s5
\v 38 Thay cho chúng, vua sẽ tôn kính thần của các pháo đài. Vua sẽ tôn kính thần mà tổ phụ vua không biết bằng vàng và bạc, và đá quý và tặng vật đắt giá.
\v 39 Vua sẽ tấn công các pháo đài kiên cố nhất với sự giúp sức của dân theo một thần ngoại quốc. Vua sẽ ban danh dự cho ai tỏ lòng biết ơn vua. Vua sẽ lập họ làm quan cai trị nhiều người và chia đất cho họ theo giá cả.
\s5
\v 40 Trong thời sau rốt, vua phương Nam sẽ tấn công. Vua phương Bắc sẽ xông vào hắn như một cơn bão với xe chiến mã và kỵ binh, cùng nhiều tàu chiến. Vua sẽ xâm chiếm nhiều nước và quét sạch như một cơn lũ.
\v 41 Vua sẽ tiến vào xứ vinh quang, hàng chục ngàn người Y-sơ-ra-ên sẽ vấp chân và ngã xuống, nhưng nhiều người Ê-đôm và Mô-áp, và những người Am-môn còn lại sẽ thoát khỏi tay vua.
\s5
\v 42 Vua sẽ mở rộng quyền lực trên nhiều nước; xứ Ai Cập sẽ không thoát.
\v 43 Vua sẽ cầm quyền trên các kho vàng và bạc, và trên tất cả của cải ở Ai Cập; dân Li-bi và Ê-thi-ô-pi sẽ hầu hạ vua.
\s5
\v 44 Nhưng những tin đồn từ phương đông và phương bắc sẽ khiến vua lo sợ, vua sẽ nổi cơn thạnh nộ kéo quân ra tiêu diệt và hủy diệt nhiều người.
\v 45 Vua sẽ dựng doanh trại giữa biển, tại núi xinh đẹp, là núi thánh. Ngày tàn của vua sẽ đến, và sẽ không ai giúp đỡ vua.”
\s5
\c 12
\p
\v 1 Khi đó Mi-ca-ên, vương tử lớn bảo vệ dân ngươi, sẽ trỗi dậy. Khi ấy sẽ có một thời kỳ khó nhọc đến nỗi chưa từng có như vậy kể từ khi con người lập quốc. Khi đó, dân ngươi sẽ được cứu, tức là những ai có tên được ghi trong sách.
\v 2 Nhiều người ngủ trong bụi đất sẽ trỗi dậy, một số sẽ hưởng sự sống đời đời và một sống sẽ bị sỉ nhục và khinh miệt đời đời.
\s5
\v 3 Những người khôn ngoan sẽ tỏa sáng như ánh sáng trên trời, và những ai đưa dắt nhiều người đến với sự công bình sẽ như các ngôi sao đời đời vô cùng.
\v 4 Còn ngươi, Đa-ni-ên, hãy đóng lại những lời này; hãy niêm phong sách này cho đến kỳ cuối cùng. Nhiều người sẽ chạy đây đó, và kiến thức sẽ gia tăng.”
\s5
\v 5 Sau đó tôi, Đa-ni-ên, nhìn xem, và có hai người đang đứng, Một người đứng trên bờ ở phía bên này sông, và một người đứng trên bờ ở phía bên kia sông.
\v 6 Một người trong số đó nói với người mặc áo vải lanh, là người đứng ngược dòng sông: “Những sự kiện lạ lùng này sẽ kéo dài đến khi nào thì chấm dứt?”
\s5
\v 7 Tôi nghe người mặc áo vải lanh, là người đứng ngược dòng sông người giơ tay phải và tay trái lên trời và nhân danh Đấng sống đời đời mà thề rằng việc ấy sẽ trải qua một kỳ, các kỳ, và nửa kỳ, nghĩa là, ba năm rưỡi. Khi việc gây rối loạn quyền lực của dân thánh chấm dứt, tất cả những sự này sẽ hoàn tất.
\s5
\v 8 Tôi nghe, nhưng tôi không hiểu. Vì vậy tôi hỏi: “Thưa chủ tôi, kết quả của hết thảy những sự này sẽ là gì? ”
\v 9 Người đáp: “Hãy đi, hỡi Đa-ni-ên, vì các lời này được đóng lại và niêm phong cho đến thời kỳ cuối cùng.
\s5
\v 10 Nhiều người sẽ được tẩy uế, làm sạch, và tinh luyện, nhưng kẻ ác sẽ hành động gian ác. Không ai trong số kẻ ác sẽ hiểu, nhưng người khôn ngoan sẽ hiểu.
\v 11 Kể từ lúc của lễ thiêu hằng dâng bị cất đi và sự gớm ghiếc dẫn đến sự tan hoang hoàn toàn được lập nên, sẽ là 1. 290 ngày.
\s5
\v 12 Phước cho những ai chờ đợi đến khi kết thúc 1. 335 ngày.
\v 13 Ngươi hãy đi cho đến cuối cùng, và ngươi sẽ yên nghỉ. Ngươi sẽ trỗi dậy ở nơi dành cho ngươi, trong những ngày cuối cùng.”

434
28-HOS.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,434 @@
\id HOS
\ide UTF-8
\h Ô-SÊ
\toc1 Ô-SÊ
\toc2 Ô-SÊ
\toc3 hos
\mt Ô-SÊ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Ô-sê con Bê-ê-ri trong đời Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia, vua Giu-đa, và trong đời Giê-rô-bô-am con Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Khi Đức Giê-hô-va bắt đầu phán qua Ô-sê, Ngài nói với ông rằng, “Hãy đi, lấy một người vợ là gái điếm. Nàng sẽ có con là kết quả của việc nàng làm đĩ. Vì xứ này phạm tội điếm đĩ khi từ bỏ Ta.”
\s5
\v 3 Vậy, Ô-sê đi cưới Gô-me, con gái của Đíp-la-im, nàng thụ thai và sinh cho ông một con trai.
\v 4 Đức Giê-hô-va phán với Ô-sê, “Hãy đặt tên nó là Giê-rê-ên. Vì chẳng bao lâu nữa Ta sẽ phạt nhà Giê-hu vì đã làm đổ huyết ở Giê-rê-ên, và Ta sẽ chấm dứt vương quốc của nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Trong ngày đó, Ta sẽ bẻ gãy cây cung của Y-sơ-ra-ên trong thung lũng Giê-rê-ên.”
\s5
\v 6 Gô-me lại thụ thai và sinh một con gái. Sau đó, Đức Giê-hô-va bảo Ô-sê, “Hãy đặt tên đứa bé là Lô Ru-ha-ma, vì Ta sẽ không thương xót nhà Y-sơ-ra-ên nữa, Ta sẽ không tha thứ chúng nữa.
\v 7 Nhưng Ta sẽ thương xót nhà Giu-đa, và chính Ta sẽ cứu chúng, Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng. Ta sẽ không cứu chúng bằng cung, gươm, chiến trận, ngựa, hay kỵ binh.”
\s5
\v 8 Bấy giờ sau khi Gô-me cho Lô Ru-ha-ma cai sữa, nàng thụ thai và sinh một con trai khác.
\v 9 Đức Giê-hô-va phán, “Hãy đặt tên nó là Lô Am-mi, vì các ngươi không phải là dân Ta, và Ta không phải là Đức Chúa Trời các ngươi.
\s5
\v 10 Nhưng dân số Y-sơ-ra-ên sẽ đông như cát trên bờ biển, không thể đo hoặc đếm. Đó sẽ là nơi mà chúng được bảo rằng, Các ngươi không phải là dân Ta, chúng sẽ được bảo, Các ngươi là dân của Đức Chúa Trời hằng sống.
\v 11 Dân Giu-đa và dân Y-sơ-ra-ên sẽ được nhóm lại. Chúng sẽ chọn một người lãnh đạo, và chúng sẽ đi lên từ xứ này, vì ngày của Giê-rê-ên sẽ lớn.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Hãy nói với anh em ngươi rằng, Hỡi dân Ta! và hãy nói với chị em ngươi rằng, “Các ngươi đã được thương xót.”
\s5
\v 2 Hãy kiện cáo mẹ các ngươi, hãy kiện đi, vì nó không phải là vợ Ta, Ta không phải là chồng nó. Hãy để nó cất sự làm điếm khỏi trước mặt nó, và hành động ngoại tình khỏi ngực nó.
\v 3 Nếu không, Ta sẽ lột trần nó và phô bày sự trần truồng nó như ngày nó được sinh ra. Ta sẽ khiến nó như hoang mạc, đất khô cằn, và Ta sẽ làm cho nó chết khát.
\s5
\v 4 Ta sẽ không thương xót con cái của nó, vì chúng là con cái của sự điếm đĩ.
\v 5 Vì mẹ chúng là điếm, người mang thai chúng đã hành động đáng xấu hổ. Nó nói, “Tôi sẽ theo các tình nhân tôi, vì họ cho tôi bánh và nước, áo len và vải lanh, dầu và rượu.”
\s5
\v 6 Vậy, Ta sẽ dựng lên một hàng rào đầy gai để ngăn nó. Ta sẽ dựng lên một bức tường cản nó để nó không thể tìm lối đi.
\v 7 Nó sẽ theo đuổi các tình nhân của nó, nhưng nó sẽ không bắt kịp họ. Nó sẽ tìm kiếm họ nhưng không tìm được. Nó sẽ nói, “Tôi sẽ trở về bên người chồng đầu tiên của tôi, vì khi trước tôi sướng hơn bây giờ.”
\s5
\v 8 Vì nó không biết rằng chính Ta là Đấng ban cho nó lúa, rượu mới và dầu, và là Đấng ban cho nó bạc và vàng, nhưng sau đó chúng đem dùng cho Ba-anh.
\v 9 Vậy Ta sẽ lấy lại lúa của nó trong mùa thu hoạch, và rượu mới theo mùa. Ta sẽ lấy lại áo len và vải lanh đã được dùng để che đậy sự trần truồng của nó.
\s5
\v 10 Ta sẽ lột trần nó trước mặt những tình nhân nó, sẽ không ai cứu nó khỏi tay Ta.
\v 11 Ta cũng sẽ chấm dứt những cuộc vui của nó những bữa yến tiệc, các lễ hội trăng mới, ngày Sa-bát, và tất cả những ngày hội được ấn định.
\s5
\v 12 Ta sẽ phá hủy cây nho và cây vả của nó, là những thứ mà nó nói, “Đây là tiền công mà các tình nhân đưa cho tôi. ” Ta sẽ biến chúng thành rừng, và thú đồng sẽ ăn chúng.
\v 13 Ta sẽ phạt nó vì những ngày lễ hội của Ba-anh, là khi nó xông hương cho chúng, trang điểm bằng nhẫn và trang sức, đi theo các tình nhân của nó và quên Ta. ” Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 14 Vây Ta sẽ dẫn dụ nó. Ta sẽ đem nó vào trong hoang mạc và nói nhẹ nhàng với nó.
\v 15 Ta sẽ trả lại nó vườn nho, và thung lũng A-cô sẽ trở nên như cửa hy vọng. Tại đó nó sẽ trả lời Ta như nó đã làm trong ngày nó còn trẻ, như trong ngày nó ra khỏi xứ Ai Cập.
\s5
\v 16 Trong ngày đó Đức Giê-hô-va phán như vầy “ngươi sẽ gọi Ta là, Chồng tôi, và ngươi sẽ không còn gọi Ta là, Ba-anh của tôi.
\v 17 Ta sẽ loại bỏ tên của các hình tượng Ba-anh khỏi miệng nó; danh của các thần đó sẽ không còn được nhớ nữa.”
\s5
\v 18 Trong ngày đó, Ta sẽ lập giao ước vì chúng cùng với những thú đồng, chim trời, và những loài bò trên mặt đất. Ta sẽ đuổi cung, gươm, và chiến trận ra khỏi xứ, và Ta sẽ khiến ngươi nằm xuống an toàn.
\s5
\v 19 Ta sẽ hứa làm chồng ngươi mãi mãi. Ta sẽ hứa làm chồng ngươi trong sự công bình, công bằng, thành tín, và thương xót.
\v 20 Ta sẽ hứa làm chồng thành tín của ngươi. Và ngươi sẽ biết Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 21 Trong ngày đó, Ta sẽ trả lời Đức Giê-hô-va phán như vầy. “Ta sẽ trả lời các từng trời, và chúng sẽ trả lời trái đất.
\v 22 Đất sẽ trả lời cho lúa, rượu mới và dầu, và chúng sẽ trả lời Giê-rê-ên
\s5
\v 23 Chính Ta sẽ trồng, và Ta sẽ thương xót Lô Ru-ha-ma. Ta sẽ nói với Lô Am-mi, Ngươi là A-mi A-ta, và chúng sẽ nói với Ta rằng, Ngài là Đức Chúa Trời của chúng con. ’”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với tôi, “Hãy đi lần nữa, hãy yêu một người đàn bà, là người được chồng thương, nhưng lại là đàn bà ngoại tình. Hãy yêu nó như Ta, Đức Giê-hô-va, yêu dân Y-sơ-ra-ên, dù chúng hướng về các thần khác và ưa bánh nho khô. ”
\v 2 Vậy tôi mua nàng với giá mười lăm miếng bạc và một ô-me và một tạ lúa mạch.
\v 3 Tôi bảo nàng, “Em phải sống với anh trong nhiều ngày tới. Em không được làm điếm hoặc thuộc về người đàn ông nào khác. Tương tự như vậy, anh sẽ ở với em.”
\s5
\v 4 Vì dân Y-sơ-ra-ên sẽ sống trong nhiều ngày không có vua, vương tử, của tế lễ, trụ đá, áo lễ hoặc thần tượng trong nhà.
\v 5 Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên sẽ trở về và tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và vua Đa-vít mình. Trong những ngày cuối, chúng sẽ rung sợ trước mặt Đức Giê-hô-va và sự tốt lành của Ngài.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi dân Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va đã kiện cáo dân cư trong xứ, vì trong xứ này không có sự chân thật hoặc lòng trung thành, không có sự nhận biết Đức Chúa Trời.
\v 2 Tại nơi đó có sự chửi rủa, nói dối, giết người, trộm cắp và tà dâm. Dân chúng vi phạm, hết sự đổ huyết này đến sự đổ huyết khác.
\s5
\v 3 Vậy xứ sẽ khô hạn, dân sống trong xứ đó sẽ hao mòn: các loài thú đồng và chim trời; ngay cả cá biển cũng bị lấy đi.
\s5
\v 4 Nhưng đừng cho bất kỳ ai kiện cáo; đừng để bất kỳ ai tố cáo nhau. Vì chính các ngươi, hỡi những thầy tế lễ, là người mà Ta tố cáo.
\v 5 Các ngươi, thầy tế lễ, sẽ vấp chân giữa ban ngày; các tiên tri cũng sẽ vấp chân với ngươi lúc ban đêm, và Ta sẽ diệt mẹ ngươi.
\s5
\v 6 Dân Ta bị hủy diệt vì thiếu sự thông biết. Vì các ngươi, thầy tế lễ, đã từ bỏ sự thông biết, Ta cũng sẽ từ bỏ các ngươi để các ngươi không làm thầy tế lễ của Ta. Vì các ngươi đã quên luật pháp Ta, dù Ta là Đức Chúa Trời các ngươi, Ta cũng sẽ quên con cái các ngươi.
\v 7 Các thầy tế lễ càng thêm nhiều, chúng càng phạm tội nhiều hơn. Ta sẽ biến danh dự của chúng thành sự hổ thẹn.
\s5
\v 8 Chúng nuôi tội lỗi của dân Ta; chúng tham lam sự gian ác của chúng nhiều hơn.
\v 9 Việc sẽ xảy ra với các thầy tế lễ tương tự như với dân: Ta sẽ phạt chúng vì những thói quen của chúng; Ta sẽ báo trả chúng vì những việc làm của chúng.
\s5
\v 10 Chúng sẽ ăn nhưng không no; chúng sẽ phạm tội điếm đĩ nhưng không sinh sản, vì chúng đã lìa xa khỏi Ta, là Đức Giê-hô-va, và từ bỏ Ta.
\s5
\v 11 Tội dâm dục tạp hôn, rượu, và rượu mới đã lấy đi sự hiểu biết của chúng.
\v 12 Dân Ta cầu vấn các hình tượng bằng gỗ của chúng, và các cây gậy thờ của chúng ban cho chúng những lời tiên tri. Vì linh tạp hôn đã dẫn chúng đi lạc lối, chúng từ bỏ Ta, là Đức Chúa Trời của chúng.
\s5
\v 13 Chúng dâng của lễ trên các đỉnh núi và xông hương trên đồi, dưới cây sồi, cây bạch dương và cây thông, vì bóng nó mát mẻ. Vậy con gái các ngươi phạm tội phóng đãng tình dục, và con dâu các ngươi phạm tội tà dâm.
\v 14 Ta sẽ phạt con gái các ngươi khi chúng phạm tội phóng đãng tình dục, hoặc con dâu các ngươi khi chúng phạm tội tà dâm. Vì đàn ông cũng đi riêng với đồ điếm đĩ, và chúng dâng của lễ để có thể phạm tội phóng đãng với bọn điếm đĩ thờ cúng. Vậy dân này là dân không hiểu sẽ suy đồi.
\s5
\v 15 Hỡi Y-sơ-ra-ên, dù các ngươi phạm tội tà dâm, chớ để Giu-đa phạm tội. Chớ đến Ghinh-ganh, hỡi dân Ta; chớ lên Bết A-ven. Và chớ thề, “Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống. ”
\v 16 Vì Y-sơ-ra-ên hành xử ương ngạnh, như bò cái tơ ương ngạnh. Làm sao Đức Giê-hô-va có thể đem chúng đến đồng cỏ như chiên trong đồng cỏ?
\s5
\v 17 Ép-ra-im liên kết với hình tượng; hãy để mặc nó.
\v 18 Thậm chí khi đồ uống mạnh của chúng đã tan đi, chúng tiếp tục phạm tội tà dâm; những kẻ cai trị của nó yêu mến sự sỉ nhục.
\v 19 Gió sẽ lấy cánh cuốn nó; và chúng sẽ xấu hổ vì cớ những của lễ của chúng.
\s5
\c 5
\p
\v 1 “Hãy nghe điều này, hỡi các thầy tế lễ! Hãy chú ý, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe, hỡi triều đình! Vì sự phán xét sẽ nghịch lại các ngươi. Các ngươi là cái bẫy ở Mích-pa và lưới giăng trên Ta-bô.
\v 2 Những kẻ nổi loạn lún sâu trong sự tàn sát, nhưng Ta sẽ trừng phạt tất cả bọn chúng.
\s5
\v 3 Ta biết Ép-ra-im, và Y-sơ-ra-ên không giấu được Ta. Hỡi Ép-ra-im, bây giờ ngươi giống như điếm đĩ; Y-sơ-ra-ên bị ô uế.
\v 4 Các việc làm của chúng không cho phép chúng trở về bên Ta, là Đức Chúa Trời của chúng, vì linh tà dâm ở trong chúng, và chúng không biết Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Sự kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên làm chứng nghịch lại nó; vậy Y-sơ-ra-ên và Ép-ra-im sẽ vấp chân trong tội lỗi chúng; và Giu-đa cũng sẽ vấp chân với chúng.
\v 6 Chúng sẽ đi cùng bầy chiên và bầy bò mình tìm kiếm Đức Giê-hô-va, nhưng chúng sẽ không tìm được Ngài, vì Ngài đã lìa khỏi chúng.
\v 7 Chúng bất trung với Đức Giê-hô-va, vì chúng sinh ra con hoang. Bấy giờ các lễ hội trăng mới sẽ nuốt chúng cùng với đồng ruộng chúng.
\s5
\v 8 Hãy thổi tù và ở Ghi-bê-a, và thổi kèn ở Ra-ma. Hãy trỗi tiếng la xông trận tại Bết A-ven: Chúng tôi sẽ theo ngươi, hỡi Ben-gia-min!
\v 9 Ép-ra-im sẽ thành nơi bị tàn phá trong ngày sửa phạt. Giữa các chi phái của Y-sơ-ra-ên Ta đã rao điều chắc chắn sẽ xảy đến.
\s5
\v 10 Các lãnh đạo Giu-đa như những kẻ dời mốc ranh giới. Ta sẽ giáng cơn thạnh nộ Ta trên chúng như nước đổ.
\v 11 Ép-ra-im bị nghiền nát; nó bị nghiền nát trong sự đoán xét, vì nó đã quyết định quỳ lạy trước các thần tượng.
\s5
\v 12 Vậy, Ta giống như bướm đêm cho Ép-ra-im, và như sự mục nát cho nhà Giu-đa.
\v 13 Khi Ép-ra-im thấy bệnh mình, và Giu-đa thấy vết thương mình, Ép-ra-im đi đến A-sy-ri, và Giu-đa sai các sứ giả đến gặp vua lớn. Nhưng nó không thể điều trị dân ngươi hoặc chữa lành vết thương ngươi.
\s5
\v 14 Vậy Ta sẽ như sư tử cho Ép-ra-im, và sư tử con cho nhà Giu-đa. Ta, thậm chí Ta, sẽ cắn xé rồi bỏ đi; Ta sẽ tha chúng đi, và sẽ không ai cứu chúng.
\v 15 Ta sẽ đi và trở về nơi của Ta, cho đến khi chúng nhận biết tội lỗi chúng và tìm kiếm mặt Ta, cho đến khi chúng nghiêm túc tìm kiếm Ta trong cơn đau khổ của chúng.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 “Hãy đến, chúng ta hãy trở về với Đức Giê-hô-va. Vì Ngài đã xé tan chúng ta, nhưng Ngài sẽ chữa lành chúng ta; Ngài đã làm chúng ta bị thương, nhưng Ngài sẽ băng bó vết thương chúng ta.
\v 2 Hai ngày sau, Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại; Ngài sẽ dấy chúng ta lên vào ngày thứ ba, và chúng ta sẽ sống trước mặt Ngài.
\v 3 Chúng ta hãy nhận biết Đức Giê-hô-va; chúng ta hãy cố gắng nhận biết Đức Giê-hô-va. Sự hiện ra của Ngài là chắc chắn như bình minh; Ngài sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa xuân tưới trên xứ.”
\s5
\v 4 Hỡi Ép-ra-im, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giu-đa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Sự trung tín của ngươi như mây buổi sáng, như sương tan lúc sáng sớm.
\v 5 Vậy Ta đã dùng các tiên tri cắt chúng thành nhiều mảnh, Ta đã giết chúng bằng lời của miệng Ta. Những sắc lệnh của Ngài như ánh sáng tỏa sáng.
\s5
\v 6 Vì Ta ưa thích lòng trung thành chứ không phải của tế lễ, và sự nhận biết Ta, là Đức Chúa Trời, hơn là của lễ thiêu.
\v 7 Như A-đam, chúng đã vi phạm giao ước; chúng không trung thành với Ta.
\s5
\v 8 Ghi-lê-át là thành có nhiều kẻ làm ác, đầy dẫy dấu chân dính huyết.
\v 9 Như những băng đảng trộm cướp rình người, các thầy tế lễ cũng tụ họp lại để giết người trên đường đến Si-chem; chúng phạm những tội ác đáng hổ thẹn.
\s5
\v 10 Ta đã thấy một điều kinh khủng trong nhà Y-sơ-ra-ên; Ép-ra-im phạm tội điếm đĩ, và Y-sơ-ra-ên thì ô uế.
\v 11 Hỡi Giu-đa, ngươi cũng vậy, mùa gặt đã được định, ấy là khi Ta phục hồi vận mệnh của dân Ta.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Hễ khi nào Ta muốn chữa lành Y-sơ-ra-ên, thì tội lỗi của Ép-ra-im bị phơi bày, cũng như những việc làm gian ác của Sa-ma-ri, vì chúng làm sự giả dối; tên trộm vào trong, và nhóm cướp bóc tấn công ngoài đường.
\v 2 Chúng không nhận thức trong lòng rằng Ta nhớ tất cả việc ác của chúng. Bây giờ việc làm của chúng bao vây chúng; chúng ở trước mặt Ta.
\s5
\v 3 Chúng lấy sự gian ác làm vua vui lòng, và lấy những lời dối trá làm hài lòng các quan chức.
\v 4 Tất cả bọn chúng đều là những kẻ tà dâm, như cái lò được người nướng bánh đốt lửa, thôi chụm lửa từ khi nhào bột đến khi bột dậy lên.
\v 5 Trong ngày của vua chúng ta, các quan chức ngã bệnh vì độ nóng của rượu. Vua bắt tay với những người nhạo báng.
\s5
\v 6 Với lòng như cái lò, chúng nghĩ ra những kế hoạch lừa dối. Cơn giận của chúng cháy âm ỉ thâu đêm; đến sáng thì nó bùng lên như một ngọn lửa.
\v 7 Tất cả bọn chúng đều nóng như cái lò, và chúng cắn nuốt những kẻ cai trị chúng. Hết thảy các vua của chúng đã ngã; không ai trong số chúng kêu cầu Ta.
\s5
\v 8 Ép-ra-im xen lẫn với các dân khác, Ép-ra-im là cái bánh phẳng chưa được lật qua mặt kia.
\v 9 Dân ngoại quốc nuốt sức mạnh nó, nhưng nó không biết. Trên đầu nó lốm đốm tóc bạc, nhưng nó không biết.
\s5
\v 10 Sự kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên làm chứng nghịch lại nó; tuy nhiên, trong mọi sự này, chúng không trở về bên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng, chúng không tìm kiếm Ngài.
\v 11 Ép-ra-im như chim bồ câu, khờ dại và thiếu nhận thức, kêu cầu Ai Cập, rồi bay đến A-sy-ri.
\s5
\v 12 Khi chúng đi, Ta sẽ giăng lưới trên chúng, Ta sẽ đem chúng nó xuống như chim trời. Ta sẽ phạt chúng khi chúng hội họp nhau.
\v 13 Khốn cho chúng! Vì chúng đã lầm đường lạc lối khỏi Ta. Sự tàn phá sẽ đến với chúng! Chúng đã chống nghịch Ta! Lẽ ra Ta sẽ cứu chúng, nhưng chúng nói những lời giả dối nghịch lại Ta.
\s5
\v 14 Chúng không hết lòng kêu cầu Ta, nhưng chúng rên rĩ trên giường mình. Chúng tự rạch da mình để thu được lúa và rượu mới, và chúng lìa bỏ Ta.
\v 15 Dù Ta đã huấn luyện chúng và thêm sức mạnh cho tay chúng, nhưng bây giờ chúng toan mưu ác nghịch lại Ta.
\s5
\v 16 Chúng trở về, nhưng chúng không trở về với Ta, là Đấng Chí Cao. Chúng như cây cung hỏng. Các quan chức của chúng sẽ ngã xuống bởi gươm dao vì lưỡi chúng buông lời láo xược. Chúng sẽ bị nhạo báng trong xứ Ai Cập.
\s5
\c 8
\p
\v 1 “Môi ngươi hãy thổi kèn. Một con đại bàng sẽ đến trên nhà của Ta, là Đức Giê-hô-va. Việc này sẽ xảy ra vì dân này đã vi phạm giao ước Ta và chống lại luật pháp Ta.
\v 2 Chúng kêu cầu Ta, Lạy Đức Chúa Trời tôi, ở Y-sơ-ra-ên chúng con biết Ngài.
\v 3 Nhưng Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ điều lành, kẻ thù sẽ theo đuổi nó.
\s5
\v 4 Chúng đã lập lên các vua mà không bởi Ta. Chúng đã lập lên các vương tử mà Ta không biết. Chúng dùng bạc và vàng để dựng nên những thần tượng, nhưng hầu cho chúng bị dứt đi. ”
\v 5 Các tiên tri nói, “Hỡi Sa-ma-ri, bò con của ngươi đã bị ném đi rồi. ” Đức Giê-hô-va phán, “Cơn giận của Ta nổi bừng nghịch lại dân này. Chúng sẽ ô uế cho đến bao giờ?
\s5
\v 6 Vì thần tượng này đến từ Y-sơ-ra-ên; một người thợ đã chế ra nó; nó không phải là Đức Chúa Trời! Bò con của Sa-ma-ri sẽ vỡ vụn.
\v 7 Dân chúng gieo gió và gặt gió xoáy. Cây lúa đang đứng không có bông lúa; nó không sinh ra bột mì. Nếu nó chín, dân ngoại sẽ ăn nuốt hết.
\s5
\v 8 Y-sơ-ra-ên sẽ bị nuốt; bây giờ chúng nằm giữa các nước như đồ vô dụng.
\v 9 Vì chúng đã đi lên A-sy-ri như lừa rừng đi một mình. Ép-ra-im đã trả tiền cho các tình nhân nó.
\v 10 Dù chúng đã trả tiền cho các tình nhân giữa các nước, nay Ta sẽ nhóm chúng lại. Chúng sẽ bắt đầu hao mòn vì sự áp bức của vua các vương tử.
\s5
\v 11 Ép-ra-im đã thêm nhiều bàn thờ dâng của lễ chuộc tội, nhưng trái lại chúng trở thành những bàn thờ mà chúng phạm tội.
\v 12 Ta có thể ghi xuống luật pháp của Ta cho chúng mười ngàn lần, nhưng chúng sẽ xem luật pháp ấy như thứ lạ lẫm với chúng.
\s5
\v 13 Còn về các của tế lễ dâng cho Ta, chúng dâng thịt và ăn, nhưng Ta, Đức Giê-hô-va, không chấp nhận những của lễ ấy. Bây giờ Ta sẽ nhớ lại tội ác chúng và trừng phạt tội lỗi chúng. Chúng sẽ trở về Ai Cập.
\v 14 Y-sơ-ra-ên đã quên Ta, Đấng Tạo dựng của nó, và nó đã xây các cung điện. Giu-đa đã xây nhiều thành trì kiên cố, nhưng Ta sẽ giáng lửa trên các thành của nó; lửa sẽ hủy diệt các pháo đài của nó.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 “Hỡi Y-sơ-ra-ên, chớ vui mừng hớn hở như những dân khác. Vì các ngươi phản bội, từ bỏ Đức Chúa Trời các ngươi. Các ngươi thích trả tiền công cho điếm đĩ trên các sân đạp lúa.
\v 2 Nhưng sân đạp lúa và hầm ép rượu sẽ không nuôi chúng; chúng sẽ không có rượu mới.
\s5
\v 3 Chúng sẽ không sống trong xứ của Đức Giê-hô-va nữa; trái lại, Ép-ra-im sẽ quay về Ai Cập, và một ngày kia chúng sẽ ăn thức ăn ô uế ở A-sy-ri.
\v 4 Chúng sẽ không đổ của lễ quán bằng rượu cho Đức Giê-hô-va, chúng sẽ không làm Ngài vui lòng. Các của tế lễ của chúng sẽ như thức ăn của người tang chế: ai ăn đồ ăn đó sẽ bị ô uế. Vì thức ăn đó sẽ chỉ được dành cho chúng; nó không được mang vào nhà của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 5 Các ngươi sẽ làm gì vào ngày lễ hội đạ định, tức là lễ hội dành cho Đức Giê-hô-va?
\v 6 Vì kìa, nếu chúng thoát khỏi sự hủy diệt, Ai Cập sẽ nhóm chúng lại, và Mem-phi sẽ chôn chúng. Các kho bạc của chúng chà chuôm sắt nhọn sẽ bao trùm, và gai góc sẽ mọc đầy lều chúng.
\s5
\v 7 Các ngày trừng phạt sẽ đến; những ngày báo thù sẽ đến. Hãy cho toàn thể Y-sơ-ra-ên biết những việc này”. Tiên tri là người ngu dại, và người có cảm hứng là người điên cuồng, vì cớ tội ác lớn và hành vi thù địch lớn của các ngươi.
\s5
\v 8 Tiên tri là người ở với Đức Chúa Trời tôi là người canh gác Ép-ra-im, nhưng bẫy chim được giăng trên khắp các con đường của nó, và trong nhà Đức Chúa Trời của nó có hành vi thù địch nó.
\v 9 Chúng đã đồi bại sâu sắc như trong những ngày ở Ghi-bê-a. Đức Chúa Trời sẽ nhớ lại tội ác của chúng, và Ngài sẽ phạt tội lỗi của chúng.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán, “Khi Ta tìm thấy Y-sơ-ra-ên, nó như những trái nho trong hoang mạc. Ta đã tìm thấy tổ phụ các ngươi như trái đầu mùa trên cây vả. Nhưng chúng đến Ba-anh Phê-ô, và phó mình vào thần tượng đáng xấu hổ đó. Chúng trở nên ghê tởm như thần tượng chúng yêu.
\s5
\v 11 Còn về Ép-ra-im, vinh quang của chúng sẽ bay mất như chim. Sẽ không có sự sinh đẻ, mang thai, và thụ thai.
\v 12 Dù chúng đã sinh con, Ta sẽ cất chúng đi đến nỗi không còn lại ai. Khốn cho chúng khi Ta rời bỏ chúng!
\s5
\v 13 Ta có thấy Ép-ra-im, như Ty-rơ, được trồng trên đồng cỏ, nhưng Ép-ra-im sẽ dẫn con cái nó đến kẻ tàn sát. ”
\v 14 Lạy Đức Giê-hô-va, xin ban cho họ - Ngài sẽ ban gì cho họ? Xin ban cho họ một tử cung sẩy thai và ngực không có sữa.
\s5
\v 15 “Vì cớ hết thảy sự gian ác của chúng ở Ghinh-ganh, đó là nơi Ta bắt đầu ghét chúng. Vì cớ những việc làm tội lỗi của chúng, Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi nhà Ta. Ta sẽ không yêu chúng nữa; tất cả các quan chức của nó đều là những kẻ nổi loạn.
\s5
\v 16 Ép-ra-im bị bệnh; rễ của chúng bị khô cằn; chúng không sinh bông trái. Ngay cả nếu chúng có con cái, Ta sẽ giết con cái yêu dấu của chúng. ”
\v 17 Đức Chúa Trời của tôi sẽ từ bỏ họ vì họ không vâng phục Ngài. Họ sẽ trở thành những người lang thang giữa các nước.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Y-sơ-ra-ên là cây nho sum suê sinh ra trái. Khi nó ra nhiều trái, thì nó lập càng nhiều bàn thờ hơn. Khi đất của nó phồn thịnh hơn, nó cải tạo các trụ thờ của nó.
\v 2 Lòng chúng giả dối; nay chúng phải gánh chịu tội lỗi chúng. Đức Giê-hô-va sẽ đánh đổ các bàn thờ của chúng; Ngài sẽ phá hủy các trụ thờ của chúng.
\s5
\v 3 Bấy giờ chúng sẽ nói, “Chúng tôi không có vua, vì chúng tôi không sợ Đức Giê-hô-va. Và vua ông ấy có thể làm gì được cho chúng ta? ”
\v 4 Chúng nói những lời sáo rỗng và lập giao ước bằng cách thề dối. Vậy công lý nảy mầm như cỏ độc trên các luống cày ở ruộng. Bấy giờ chúng sẽ nói, “Chúng tôi không có vua, vì chúng tôi không sợ Đức Giê-hô-va. Và vua ông ấy có thể làm gì được cho chúng ta? ” 4Chúng nói những lời sáo rỗng và lập giao ước bằng cách thề dối. Vậy công lý nảy mầm như cỏ độc trên các luống cày ở ruộng.
\s5
\v 5 Dân cư Sa-ma-ri sẽ sợ hãi vì những bò con của Bết A-ven. Dân của nó than khóc vì chúng, như những thầy tế lễ thờ thần tượng vốn hớn hở nơi chúng và sự lộng lẫy của chúng, nhưng chúng không còn ở đó nữa.
\v 6 Chúng sẽ bị đem qua A-sy-ri làm quà tặng vua lớn. Ép-ra-im sẽ bị ghét bỏ, và Y-sơ-ra-ên sẽ hổ thẹn vì làm theo lời khuyên của các thần tượng.
\s5
\v 7 Vua Sa-ma-ri sẽ bị tiêu diệt, như mảnh gỗ trên mặt nước.
\v 8 Các điện thờ của sự gian ác tức là tội lỗi của Y-sơ-ra-ên sẽ bị tiêu hủy. Gai góc và cây kế sẽ mọc trên các bàn thờ của chúng. Dân chúng sẽ bảo núi, “Hãy đè chúng tôi! ” và với đồi, “Hãy đổ sập trên chúng tôi!”
\s5
\v 9 “Hỡi Y-sơ-ra-ên, các ngươi đã phạm tội từ những ngày ở Ghi-bê-a; các ngươi vẫn còn tại đó. Chiến tranh không bắt kịp những kẻ làm ác ở Ghi-bê-a sao?
\s5
\v 10 Khi nào Ta muốn, Ta sẽ kỷ luật chúng. Các nước sẽ nhóm lại chống nghịch chúng và xiềng xích chúng vì tội ác lớn gấp đôi của chúng.
\v 11 Ép-ra-im là bò cái tơ đã thuần hóa, nó thích đạp lúa, vậy Ta sẽ đặt một ách lên cái cổ xinh đẹp của nó. Ta sẽ đặt ách lên Ép-ra-im; Giu-đa sẽ cày; Gia-cốp sẽ kéo bừa.
\s5
\v 12 Hãy gieo sự công bình và gặt bông trái của sự thành tín theo giao ước. Hãy xới đất chưa cày xới, vì đây là lúc tìm kiếm Đức Giê-hô-va, cho đến khi Ngài đến và ban mưa công bình trên ngươi.
\v 13 Ngươi đã cày sự gian ác, gặt sự bất công. Ngươi đã ăn bông trái của sự lừa dối vì ngươi cậy vào các kế hoạch của mình và đội quân đông đảo của ngươi.
\s5
\v 14 Vậy sự náo động chiến tranh sẽ nổi lên từ giữa dân ngươi, và các thành trì kiên cố của ngươi sẽ bị hủy diệt. Như Sanh-man đã tiêu diệt Bết Ạc-bên trong ngày tranh chiến, là khi người mẹ bị đánh tan nát cùng với con cái.
\v 15 Vậy hỡi Bê-tên, điều đó sẽ xảy đến với ngươi vì cớ tội ác lớn của ngươi. Vừa lúc rạng đông, vua Y-sơ-ra-ên sẽ bị diệt hoàn toàn.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 “Khi Y-sơ-ra-ên còn nhỏ, Ta yêu nó, và Ta đã gọi con trai Ta ra khỏi Ai Cập.
\v 2 Chúng càng được gọi, chúng càng ngoảnh mặt. Chúng dâng tế lễ cho các tượng Ba-anh và xông hương cho các thần tượng.
\s5
\v 3 Nhưng chính Ta là Đấng đã dạy Ép-ra-im bước đi. Chính tay Ta bồng ẵm chúng, nhưng chúng không biết rằng Ta chăm sóc chúng.
\v 4 Ta dùng dây nhân tình và băng yêu thương mà dẫn dắt chúng. Đối với chúng, Ta giống như người nới ách trên hàm chúng, Ta cúi xuống và cho chúng ăn.
\s5
\v 5 Chúng sẽ không trở về xứ Ai Cập sao? A-sy-ri sẽ không cai trị chúng vì chúng không chịu về bên Ta sao?
\v 6 Gươm dao sẽ rơi trên các thành phố của chúng và phá hủy các then cửa; gươm sẽ hủy diệt chúng vì cớ những kế hoạch của chúng.
\v 7 Dân Ta quyết định ngoảnh mặt khỏi Ta. Dù chúng kêu cầu Ta, Ta là Đấng ngự trên cao, nhưng sẽ không ai giúp chúng.
\s5
\v 8 Làm sao Ta có thể từ bỏ ngươi, hỡi Ép-ra-im? Làm sao Ta có thể phó ngươi cho kẻ khác, hỡi Y-sơ-ra-ên? Làm sao Ta có thể khiến ngươi giống như Át-ma? Làm sao Ta có thể khiến ngươi như Sê-bô-im? Lòng Ta đã thay đổi trong Ta; lòng thương xót của Ta đã nhen lên.
\v 9 Ta sẽ không thực thi cơn giận sôi sục của Ta; Ta sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im. Vì Ta là Đức Chúa Trời chứ không phải là người phàm; Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi, Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ.
\s5
\v 10 Chúng sẽ bước theo Ta, là Đức Giê-hô-va. Ta sẽ gầm như sư tử. Ta sẽ gầm lên, và dân ở phương tây sẽ run sợ mà đến.
\v 11 Chúng sẽ run sợ mà đến như chim bay từ Ai Cập, như bồ câu từ xứ A-sy-ri. Ta sẽ cho chúng sống trong nhà chúng. ” Đức Giê-hô-va phán như vậy
\s5
\v 12 “Ép-ra-im vây quanh Ta bằng sự giả dối, và nhà Y-sơ-ra-ên dùng sự lừa gạt. Nhưng Giu-đa vẫn kính sợ Đức Chúa Trời và trung thành với Đấng Thánh.”
\s5
\c 12
\p
\v 1 Ép-ra-im đón gió và theo gió đông. Nó luôn thêm lời nói dối và bạo lực. Chúng lập giao ước với A-sy-ri và đem cây ô-liu qua Ai Cập.
\v 2 Đức Giê-hô-va cũng kiện cáo Giu-đa và sẽ phạt Gia-cốp về việc ông đã làm; Ngài sẽ báo trả ông vì những việc làm của ông.
\s5
\v 3 Gia-cốp nắm gót chân anh mình trong tử cung, và vật lộn với Đức Chúa Trời khi trưởng thành.
\v 4 Ông vật lộn với thiên sứ và thắng. Ông khóc và van nài Đấng ấy ban ơn. Ông gặp Đức Chúa Trời tại Bê-tên; Ngài phán với ông tại đó.
\s5
\v 5 Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân; danh phải kêu cầu muôn đời của Ngài là “Giê-hô-va”.
\v 6 Vậy hãy trở về với Đức Chúa Trời của quý vị
\s5
\v 7 Các lái buôn cầm cân giả trong tay; họ thích ăn gian.
\v 8 Ép-ra-im nói, “Tôi chắc chắn đã trở nên rất giàu có rồi; tôi đã tìm thấy của cải cho chính mình. Trong mọi việc làm của tôi, họ sẽ không tìm thấy ở tôi bất cứ lỗi gì, sẽ không có bất cứ tội lỗi nào cả.”
\s5
\v 9 “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngươi, Đấng ở cùng ngươi từ khi ngươi ra khỏi xứ Ai Cập. Ta sẽ làm cho ngươi sống trong lều trại như trong những ngày lễ hội đã định.
\v 10 Ta cũng đã phán với các tiên tri, và Ta ban cho họ nhiều sự hiện thấy về ngươi. Ta ban cho các ngươi những ngụ ngôn qua chính các tiên tri.”
\s5
\v 11 Nếu ở Ghi-lê-át có sự gian ác, chắc chắn dân sự không xứng đáng. Chúng cúng tế bò đực tại Ghi-lê-át; bàn thờ của chúng sẽ như đống đá nơi các luống cày ngoài đồng.
\v 12 Gia-cốp chạy trốn qua xứ A-ram; Y-sơ-ra-ên làm việc đặng cưới vợ; và ông chân bầy chiên để có vợ.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va đã dùng một tiên tri để đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, và Ngài chăm sóc họ qua một tiên tri.
\v 14 Ép-ra-im đã chọc giận Đức Giê-hô-va một cách đắng cay. Vậy Chúa của nó sẽ bắt nó lãnh hậu quả của tội làm đổ huyết và sẽ báo trả nó vì những việc làm đáng hổ thẹn của nó.
\s5
\c 13
\p
\v 1 “Khi Ép-ra-im nói, có sự run sợ. Nó tự tôn cao mình trong Y-sơ-ra-ên, nhưng nó đã mắc tội vì thờ Ba-anh, và nó chết.
\v 2 Bây giờ chúng phạm tội càng ngày càng nhiều hơn. Chúng đúc tượng bằng bạc, tức là những thần tượng khéo được dựng, tất cả đều là do thợ thủ công làm ra. Người ta nói về chúng rằng, Những kẻ dâng tế lễ này hôn bò con.
\s5
\v 3 Vậy chúng sẽ như mây buổi sáng, như sương ban mai chóng tan, như rơm rạ bị gió cuốn khỏi sân đạp lúa, và như khói bay ra khỏi lò sưởi.
\s5
\v 4 Nhưng Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngươi, Đấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai Cập. Ngươi không được thừa nhận thần nào khác ngoài Ta; ngươi phải thừa nhận rằng ngoài Ta, không có đấng giải cứu chuộc nào khác.
\v 5 Ta đã biết ngươi trong hoang mạc, trong xứ khô cằn.
\v 6 Khi ngươi có đồng cỏ, ngươi no nê; và khi ngươi no nê, lòng ngươi tự cao; vì lẽ đó ngươi quên Ta.
\s5
\v 7 Ta trở nên như sư tử đối với chúng; Ta sẽ rình rập bên đường như con báo.
\v 8 Ta sẽ vồ chúng như gấu bị cướp mất gấu con. Ta sẽ xé toạc lồng ngực chúng, và Ta sẽ cắn xé chúng như sư tử - như thú rừng xé tan xác
\s5
\v 9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, sự hủy diệt của ngươi đang đến, vì ngươi chống nghịch Ta, là Đấng giúp đỡ ngươi.
\v 10 Bây giờ vua của ngươi đâu, để nó cứu ngươi trong tất cả các thành? Những kẻ cai trị ngươi đâu, tức những kẻ mà ngươi nói với Ta rằng, Xin ban cho tôi một vua và các vương tử?
\v 11 Trong cơn giận, Ta đã ban cho ngươi một vua, và Ta đã cất nó trong cơn thịnh nộ của Ta.
\s5
\v 12 Tội của Ép-ra-im bị chất đầy; tội lỗi nó bị cất giữ.
\v 13 Nó sẽ mang cơn đau đẻ, nhưng nó là con trai không khôn ngoan, vì khi đến lúc chào đời, nó không ra khỏi tử cung.
\s5
\v 14 Thật Ta sẽ giải cứu chúng khỏi quyền lực của âm phủ sao? Thật Ta sẽ giải cứu chúng khỏi sự chết sao? Hỡi sự chết, tai họa của mày ở đâu? Hãy đem chúng đến đây. Hỡi âm phủ, sự tiêu diệt của mày ở đâu? Hãy đem nó đến đây. Sự thương xót bị giấu khỏi mắt Ta.”
\s5
\v 15 Dù Ép-ra-im thịnh vượng giữa các anh em mình, nhưng một cơn gió đông sẽ đến; gió của Đức Giê-hô-va sẽ thổi lên từ hoang mạc. Suối của Ép-ra-im sẽ khô cạn, giếng nó sẽ không có nước. Kẻ thù nó sẽ cướp kho chứa bảo vật của nó.
\s5
\v 16 Sa-ma-ri sẽ mang tội, vì nó nổi loạn nghịch lại Đức Chúa Trời của nó. Chúng sẽ ngã xuống bởi gươm dao; con cái chúng sẽ bị đập nát, và đàn bà có thai của chúng sẽ bị mổ bụng.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về bên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ngươi, vì ngươi đã vấp ngã vì cớ tội ác ngươi.
\v 2 Hãy nói lời ăn năn và trở về bên Đức Giê-hô-va. Hãy thưa với Ngài, “Xin Ngài cất bỏ mọi tội ác của chúng con và tỏ lòng nhân từ chấp nhận chúng con, để chúng con dâng Ngài lời ngợi khen, là bông trái từ môi miệng chúng con.
\s5
\v 3 A-sy-ri sẽ không cứu chúng con; chúng con sẽ không cưỡi ngựa ra trận. Chúng con sẽ không còn nói với công việc của tay chúng con rằng, Ngài là thần của chúng tôi, vì người mồ côi cha tìm được sự thương xót trong Ngài.”
\s5
\v 4 “Ta sẽ chữa lành chúng khi chúng quay lại với Ta sau khi từ bỏ Ta; Ta sẽ yêu thương chúng hết lòng, vì cơn giận Ta đã xây khỏi nó.
\v 5 Ta sẽ như sương móc cho Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ trổ hoa như hoa huệ và đâm rễ như cây tuyết tùng ở Li-băng.
\v 6 Các nhánh nó sẽ dang ra; sự xinh đẹp của nó sẽ như cây ô-liu, và hương thơm của nó sẽ như cây tuyết tùng ở Li-băng.
\s5
\v 7 Dân sống dưới bóng nó sẽ trở về; chúng sẽ hồi sinh như lúa và trổ hoa như cây nho. Danh tiếng nó sẽ như rượu Li-băng.
\v 8 Ép-ra-im sẽ nói, Tôi còn phải làm gì nữa với các thần tượng? Ta sẽ trả lời nó và chăm sóc nó. Ta giống như cây bách có lá luôn xanh; từ nơi Ta sinh ra trái của ngươi.”
\s5
\v 9 Ai khôn ngoan để hiểu những sự này? Ai thông hiểu những sự này để biết chúng? Vì đường lối của Đức Giê-hô-va là đúng đắn, người công bình sẽ bước đi trên đó, nhưng kẻ chống nghịch sẽ vấp chân trên đó.

158
29-JOL.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,158 @@
\id JOL
\ide UTF-8
\h GIÔ-ÊN
\toc1 GIÔ-ÊN
\toc2 GIÔ-ÊN
\toc3 jol
\mt GIÔ-ÊN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giô-ên con Phê-thu-ên.
\v 2 Hãy nghe đây, hỡi các trưởng lão, hãy nghe, hỡi dân cư trong xứ. Việc này đã bao giờ xảy ra trong thời của các ngươi hoặc tổ phụ các ngươi chưa?
\v 3 Hãy kể lại cho con cái các ngươi, và hãy cho con cái các ngươi kể cho con cái của chúng, và con cái của chúng kể cho thế hệ kế tiếp.
\s5
\v 4 Vật chi mà bầy cào cào bỏ lại thì bọ rầy ăn; vật chi mà bọ rầy bỏ lại thì châu chấu ăn; và vật chi mà châu chấu bỏ lại thì sâu bướm ăn.
\s5
\v 5 Hãy thức dậy, hỡi những kẻ say sưa, hãy khóc lóc! Hãy rên rỉ, hỡi những kẻ uống rượu, vì rượu ngọt đã bị cất khỏi ngươi.
\v 6 Vì một dân đã đến xứ Ta, ấy là một dân mạnh và đông đúc. Răng nó là răng sư tử, và nó có răng của sư tử cái.
\v 7 Nó biến vườn nho của Ta thành nơi kinh hãi và lột cây vả của Ta. Nó lột vỏ cây ấy và ném đi; nhánh trở nên trắng.
\s5
\v 8 Hãy than khóc như trinh nữ mặc tang phục than khóc người chồng đã mất thuở còn trẻ.
\v 9 Của lễ chay và của lễ quán đã bị cất khỏi nhà Đức Giê-hô-va. Hỡi các thầy tế lễ, là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, hãy than khóc.
\v 10 Đồng ruộng đã bị tàn phá, đất đai sầu thảm. Lúa mì bị phá hoại, rượu mới đã cạn, và dầu thì hư tổn.
\s5
\v 11 Hãy xấu hổ, hỡi nông dân, và hãy rên rỉ, hỡi những kẻ làm vườn nho, vì cớ lúa mì và mạch nha. Mùa gặt ở đồng ruộng đã tàn.
\v 12 Cây nho héo úa và cây vả cằn cỗi, cây lựu, cây cọ, và cây táo tất cả những cây ngoài đồng đều tàn héo. Vì sự vui mừng của con cái loài người đã khô héo.
\s5
\v 13 Hãy mặc tang phục mà than khóc, hỡi các thầy tế lễ! Hãy rên rỉ, hỡi những người phục vụ nơi bàn thờ. Hãy đến, mặc tang phục mà nằm suốt đêm, hỡi các tôi tớ của Đức Chúa Trời. Vì của lễ chay và của lễ quán đã bị ngăn khỏi nhà Đức Chúa Trời.
\v 14 Hãy dành ra một kỳ kiêng ăn thánh, và hãy tập hợp một hội đồng thánh. Hãy tập hợp các trưởng lão và tất cả dân cư trong xứ đến nhà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời các ngươi, và hãy kêu cầu Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Chao ôi, những ngày ấy! Vì ngày của Đức Giê-hô-va đang đến gần. Trong ngày đó sẽ có sự hủy diệt của Đấng Toàn năng.
\v 16 Chẳng phải lương thực đã bị cất khỏi trước mặt chúng ta, niềm vui và sự vui mừng đã bị cất khỏi nhà Đức Chúa Trời chúng ta sao?
\v 17 Hạt giống mục nát dưới đất, các vựa lúa trở nên tan hoang, kho thóc đổ nát, vì lúa mì đã tàn héo.
\s5
\v 18 Kìa, súc vật rên rỉ! Bầy gia súc bị tổn thất vì chúng không có cỏ để ăn. Đàn chiên cũng bị tổn hại.
\v 19 Lạy Đức Giê-hô-va, con kêu cầu Ngài. Vì lửa đã tàn phá những đồng cỏ trong hoang mạc, và ngọn lửa thiêu đốt cây cối ngoài đồng.
\v 20 Ngay cả các loài thú đồng cũng thở hổn hển vì Ngài, vì các khe suối đã cạn, và lửa thiêu rụi cỏ nơi hoang mạc.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Hãy thổi kèn trong Si-ôn, hãy vang tiếng báo động trên núi thánh Ta! Hãy để hết thảy dân cư trên đất run sợ, vì ngày của Đức Giê-hô-va sắp đến; thật vậy, ngày ấy đến gần rồi.
\v 2 Đó là ngày tối tăm và ảm đạm, một ngày đầy mây và tối tăm mù mịt. Như bình minh giăng khắp núi đồi, một đội quân lớn và hùng mạnh sẽ đến. Chưa từng có đội quân nào như vậy, và sau này cũng sẽ không bao giờ có nữa, ngay cả sau nhiều thế hệ.
\s5
\v 3 Lửa sẽ thiêu đốt mọi thứ trước mặt nó, và đằng sau nó là một ngọn lửa hừng. Xứ này như vườn Ê-đen trước mặt nó, nhưng đằng sau nó là một vùng hoang vu điêu tàn. Thật vậy, chẳng vật chi thoát khỏi được.
\s5
\v 4 Hình dạng của đội quân như ngựa, và chúng chạy như người cưỡi ngựa.
\v 5 Chúng nhảy lên, giống như tiếng của các xe chiến mã trên đỉnh núi đồi, như tiếng của ngọn lửa ngụt cháy tàn phá gốc rạ, như một đội quân hùng mạnh sẵn sàng ra trận
\s5
\v 6 Khi thấy chúng, người ta khổ sở và mặt tái nhợt.
\v 7 Chúng chạy như dũng sĩ; chúng leo tường như lính chiến; chúng hành quân theo từng bước và không rời khỏi hàng ngũ.
\s5
\v 8 Chúng không xô đẩy nhau; chúng hành quân, ai theo đường nấy; chúng xông qua hàng phòng ngự và không bỏ đường mình.
\v 9 Chúng xông vào thành phố, chúng chạy trên tường, chúng trèo vào nhà, và chúng trèo qua cửa sổ như trộm.
\s5
\v 10 Đất rúng động trước mặt chúng, các từng trời rung rinh, mặt trời và mặt trăng trở nên tối tăm, các vì sao vụt tắt.
\v 11 Đức Giê-hô-va cất tiếng nói trước mặt đội quân Ngài, vì quân của Ngài nhiều vô số; những người thi hành mạng lệnh Ngài đều mạnh mẽ. Vì ngày của Đức Giê-hô-va là lớn và rất kinh khủng. Ai có thể sống sót?
\s5
\v 12 Nhưng ngay cả bây giờ, ” Đức Giê-hô-va phán, “Hãy hết lòng trở về bên Ta. Hãy kiêng ăn, khóc lóc và xót xa. ”
\v 13 Hãy xé lòng mình chứ đừng xé áo, và hãy trở về bên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của quý vị. Vì Ngài nhân từ và hay thương xót, chậm nóng giận và đầy yêu thương, và Ngài muốn bỏ ý định giáng phạt.
\s5
\v 14 Nào ai hay biết? Liệu Ngài sẽ đổi ý và tỏ lòng thương xót, để lại một phước lành đằng sau Ngài, là của lễ chay và của lễ quán dành cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị?
\s5
\v 15 Hãy thổi kèn ở Si-ôn, hãy dành ra một kỳ kiêng ăn thánh, và hãy tập hợp một hội đồng thánh.
\v 16 Hãy tập hợp dân sự, hãy biệt riêng một hội chúng thánh. Hãy nhóm họp các trưởng lão, hãy tập hợp trẻ con và trẻ sơ sinh. Hãy để chú rể ra khỏi phòng, và nàng dâu ra khỏi phòng hoa chúc.
\s5
\v 17 Hãy để các thầy tế lễ, là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, khóc lóc giữa cổng vòm và bàn thờ. Hãy để họ nói, “Xin thương xót dân sự chúng con, lạy Đức Giê-hô-va, xin Ngài đừng khiến cơ nghiệp Ngài xấu hổ, và bị các nước cai trị. Tại sao họ nói giữa các nước rằng Đức Chúa Trời của chúng ở đâu?”
\s5
\v 18 Khi đó Đức Giê-hô-va nổi ghen vì xứ của Ngài và thương xót dân Ngài.
\v 19 Đức Giê-hô-va trả lời dân Ngài: “Kìa, Ta sẽ ban cho các ngươi lúa, rượu mới, và dầu. Các ngươi sẽ thỏa mãn, và Ta sẽ không khiến các ngươi thành nỗi ô nhục giữa các nước.
\s5
\v 20 Ta sẽ loại bỏ những kẻ tấn công của phương bắc ra xa khỏi các ngươi, và đuổi chúng vào một xứ khô cằn và hoang vu. Tiền quân của chúng sẽ đi vào biển đông, và hậu quân của chúng đi vào biển tây. Chúng sẽ bốc mùi hôi thối và nồng nặc. Ta sẽ làm những việc lớn lao.”
\s5
\v 21 Hỡi đất, đừng sợ, hãy vui mừng và hớn hở, vì Đức Giê-hô-va đã làm những việc lớn.
\v 22 Đừng sợ, hỡi các loài thú đồng, vì cỏ ngoài hoang mạc sẽ mọc, cây cối sẽ ra trái, cây vả và cây nho sẽ sinh trái đầy vụ mùa.
\v 23 Hãy vui mừng, hỡi dân Si-ôn, và hãy hớn hở trong Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị. Vì Ngài sẽ ban mưa mùa thu theo kỳ và giáng mưa xuống cho quý vị, mưa mùa thu và mưa xuân như trước kia.
\s5
\v 24 Sân đạp lúa sẽ đầy lúa mì, các chum sẽ tràn rượu mới và dầu.
\v 25 ”Ta sẽ phục hồi cho các ngươi những năm vụ mùa mà đàn châu chấu đã ăn, châu chấu lớn, cào cào và sâu bướm, tức là đội quân hùng mạnh mà Ta đã sai đến giữa các ngươi.
\s5
\v 26 Các ngươi sẽ ăn dư dật và no nê, và ngợi khen danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng làm những điều lạ lùng giữa các ngươi, và Ta sẽ không bao giờ giáng sự xấu hổ trên dân Ta.
\v 27 Các ngươi sẽ biết rằng Ta ở giữa Y-sơ-ra-ên, và Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, và chẳng có đấng nào khác, Ta sẽ không bao giờ giáng sự xấu hổ trên dân Ta.
\s5
\v 28 Sau đó, Ta sẽ đổ Thần Ta trên mọi loài xác thịt, con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri. Người già sẽ mơ ước những giấc mơ, người trẻ sẽ thấy những khải tượng.
\v 29 Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Ta trên các tôi trai tớ gái của Ta.
\s5
\v 30 Ta sẽ tỏ ra những điều kỳ diệu trên trời và dưới đất, huyết, lửa và những cột khói.
\v 31 Mặt trời sẽ tối tăm và mặt trăng sẽ hóa thành huyết, trước khi đến ngày lớn và khủng khiếp của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 32 Ai kêu cầu danh Đức Giê-hô-va sẽ được cứu. Vì trên Núi Si-ôn và ở Giê-ru-sa-lem sẽ có những người trốn thoát, như Đức Giê-hô-va đã phán, và giữa những người sống sót sẽ có những người mà Đức Giê-hô-va gọi.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Kìa, trong những ngày đó và trong kỳ đó, khi Ta đem những kẻ bị lưu đày của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trở về,
\v 2 Ta sẽ tập hợp tất cả các nước, và đem chúng xuống thung lũng Giô-sa-phát. Tại đó Ta sẽ đoán xét chúng, vì cớ dân Ta và cơ nghiệp Y-sơ-ra-ên của Ta, tức là những kẻ mà Ta đã phân tán giữa các nước, và vì chúng đã chia xứ của Ta.
\v 3 Chúng bốc thăm về dân Ta, đổi con trai để lấy điếm đĩ, và bán con gái để lấy rượu uống.
\s5
\v 4 Bây giờ, sao các ngươi giận Ta, hỡi Ty-rơ, Si-đôn và hết thảy các miền của Phi-li-tin? Các ngươi báo trả Ta sao? Thậm chí nếu các ngươi báo trả Ta, Ta sẽ ngay lập tức đổ sự báo thù lại trên đầu các ngươi.
\v 5 Vì các ngươi đã lấy bạc và vàng Ta, và các ngươi đem châu báu quý giá của Ta vào đền thờ của các ngươi.
\v 6 Các ngươi bán dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem cho người Hy Lạp, để loại bỏ chúng ra khỏi lãnh thổ các ngươi.
\s5
\v 7 Kìa, Ta sẽ khiến chúng rời khỏi những nơi mà các ngươi đã bán chúng, và báo trả trên đầu các ngươi việc các ngươi làm.
\v 8 Ta sẽ phó con trai con gái các ngươi vào tay dân Giu-đa. Chúng sẽ bán cho dân Sa-biên, là một dân ở xa. Vì Đức Giê-hô-va đã phán.
\s5
\v 9 Hãy rao tin này giữa các nước: Hãy chuẩn bị chiến tranh, hãy giục lòng các chiến sĩ, hãy cho họ đến gần, hãy để họ xông lên.
\v 10 Hãy biến lưỡi cày thành gươm và lưỡi liềm thành giáo. Hãy để kẻ yếu nói, “Tôi mạnh mẽ.”
\s5
\v 11 Hãy nhanh chân đến, hỡi các nước xung quanh, hãy tập hợp lại. Lạy Đức Giê-hô-va, xin Ngài sai các dũng sĩ của Ngài xuống đó.
\s5
\v 12 Hãy để các nước dấy lên và đến trên thung lũng Giô-sa-phát. Vì tại đó Ta sẽ ngồi đoán xét các nước lân bang.
\v 13 Hãy tra liềm, vì mùa gặt đã chín. Hãy đến, đạp nho, vì bồn ép nho đã đầy, các chum đầy tràn, vì sự gian ác của chúng thật to lớn.”
\s5
\v 14 Có một sự xáo động, một sự xáo động trong thung lũng Đoán xét. Vì ngày của Đức Giê-hô-va đã đến gần trong thung lũng Đoán xét.
\v 15 Mặt trời và mặt trăng trở nên tối tăm, và các vì sao vụt tắt.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va sẽ gầm từ Si-ôn, và cất tiếng Ngài từ Giê-ru-sa-lem. Các từng trời và đất sẽ rúng động, nhưng Đức Giê-hô-va sẽ là nơi ẩn náu cho dân Ngài, là pháo đài cho dân Y-sơ-ra-ên.
\v 17 ”Vậy các ngươi sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng ngự tại Si-ôn, là núi thánh của Ta. Sau đó Giê-ru-sa-lem sẽ nên thánh, và sẽ không có đội quân nào đi qua nó nữa.
\s5
\v 18 Trong ngày đó, núi sẽ ướt đẫm rượu ngọt, đồi sẽ chảy sữa tràn trề, tất cả các khe suối của Giu-đa sẽ chảy tràn nước, và một suối nước sẽ chảy từ nhà Đức Giê-hô-va và tưới thung lũng A-ca.
\v 19 Ai Cập sẽ trở thành nơi bị tàn phá hoang vu, và Ê-đôm sẽ trở thành hoang mạc hoang vu, vì cớ bạo lực chúng đã gây trên dân Giu-đa, vì cớ chúng làm đổ huyết vô tội trong xứ của họ.
\s5
\v 20 Nhưng Giu-đa sẽ sống đời đời, và Giê-ru-sa-lem sẽ sống từ đời này qua đời kia.
\v 21 Ta sẽ báo thù huyết của chúng mà Ta chưa báo thù, ” vì Đức Giê-hô-va ngự trong Si-ôn.

325
30-AMO.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,325 @@
\id AMO
\ide UTF-8
\h A-MỐT
\toc1 A-MỐT
\toc2 A-MỐT
\toc3 amo
\mt A-MỐT
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là những điều liên quan đến Y-sơ-ra-ên mà A-mốt, một người chăn trong giới mục đồng tại Tê-cô-a, đã tiếp nhận qua mặc khải. Ông nhận được những điều này trong thời Ô-xia, vua Giu-đa, và trong thời Giê-rô-bô-am, con trai Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, hai năm trước trận động đất.
\v 2 Ông nói: “Giê-hô-va gầm thét từ Si-ôn; Ngài lên tiếng từ Giê-ru-sa-lem. Các đồng cỏ của bọn chăn chiên than khóc, đỉnh núi Cạt-mên khô héo.”
\s5
\v 3 Giê-hô-va phán thế này: “Do tội của Đa-mách gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ chẳng miễn trừ hình phạt, vì chúng đã dùng đồ sắt mà đánh Ga-la-át.
\v 4 Ta sẽ sai lửa vào trong nhà của Ha-xa-ên và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì của Bên-ha-đát.
\s5
\v 5 Ta sẽ bẻ gãy các then cài cổng thành Đa-mách và đánh bại kẻ sống tại Bi-cát A-ven, cũng như kẻ cầm cây quyền trượng từ Bết Ê-đen; dân A-ram sẽ bị lưu đày qua Ki-rơ, ” Giê-hô-va phán.
\s5
\v 6 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Do tội của Ga-xa gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì chúng đã bắt đi lưu đày cả một dân tộc mà nộp họ cho Ê-đôm.
\v 7 Ta sẽ sai lửa đến trên các vách thành Ga-xa, và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì nó.
\s5
\v 8 Ta sẽ hủy diệt kẻ sống tại Ách-đốt và kẻ cầm cây quyền trượng từ Ách-ca-lôn. Ta sẽ trở tay nghịch lại Éc-rôn, và phần sót lại của Phi-li-tin sẽ diệt vong, ” Chúa Giê-hô-va phán.
\s5
\v 9 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Do tội của Ty-rơ gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì chúng đã giao nộp hết những các bộ tộc cho Ê-đôm, và chúng đã vi phạm giao ước anh em của mình.
\v 10 Ta sẽ sai lửa đến trên các vách thành của Ty-rơ, và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì nó.”
\s5
\v 11 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Do tội của Ê-đôm gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì nó đã dùng gươm săn đuổi em mình không chút xót thương. Cơn giận của nó cứ mãi sôi sục, cơn thạnh nộ nó còn đến muôn đời.
\v 12 Ta sẽ sai lửa giáng xuống Thê-man, và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài của Bốt-ra.”
\s5
\v 13 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Do tội của Am-môn gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì chúng đã mổ bụng các thai phụ của Ga-la-át, để có thể mở rộng bờ cõi mình.
\s5
\v 14 Ta sẽ đốt lửa trong các vách thành của Ráp-ba, và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài nó, với tiếng la trong ngày chiến trận, với giông tố trong ngày gió xoáy.
\v 15 Vua chúng nó cùng các triều thần đều sẽ bị lưu đày, ” Giê-hô-va phán.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Do tội của Mô-áp gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì nó đã đốt xương cốt của vua Ê-đôm ra tro bụi.
\s5
\v 2 Ta sẽ sai lửa giáng xuống Mô-áp, và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì của Kê-ri-giốt. Mô-áp sẽ chết trong cảnh náo loạn, có tiếng la hét cùng tiếng kèn thổi.
\v 3 sẽ diệt quan xét của nó, và ta sẽ giết chết toàn thể các quan tướng cùng với nó, ” Giê-hô-va phán.
\s5
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Do tội của Giu-đa gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ chẳng miễn trừ hình phạt, vì chúng khước từ luật pháp của Giê-hô-va và không vâng giữ các luật lệ Ngài. Những sự giả dối của chúng khiến chúng lầm lạc, theo cùng con đường mà cha ông chúng đã đi.
\v 5 Ta sẽ sai lửa giáng xuống Giu-đa, và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì của Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\v 6 Đây là lời Giê-hô-va phán: “Do tội của Y-sơ-ra-ên gấp ba, thậm chí gấp bốn lần, nên Ta sẽ không miễn trừ hình phạt, vì chúng đã bán người vô tội để lấy bạc, bán kẻ cùng túng để lấy một đôi dép.
\s5
\v 7 Chúng đạp lên đầu kẻ nghèo như người ta chà đạp bụi dưới đất; chúng xua đuổi kẻ bị áp bức. Con và cha ngủ với cùng một cô gái, và vì vậy xúc phạm đến danh thánh Ta.
\v 8 Chúng nằm xuống cạnh mọi bàn thờ trên các áo bị cầm cố, và trong nhà của Đức Chúa Trời mình chúng uống rượu của những người nộp phạt.
\s5
\v 9 Ấy thế mà trước kia Ta đã tiêu diệt dân A-mô-rít trước mặt chúng, là giống dân cao lớn như cây bá hương, khỏe chắc như cây sồi. Vậy mà Ta đã diệt trái nó bên trên cùng rễ nó bên dưới.
\v 10 Ta cũng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập và dắt các ngươi bốn mươi năm trong hoang mạc để chiếm hữu xứ của dân A-mô-rít.
\s5
\v 11 Ta đã lập lên những nhà tiên tri từ giữa vòng các con trai các ngươi và những người Na-xi-rê từ giữa vòng giới thanh niên các ngươi. Không phải vậy sao, hỡi dân Y-sơ-ra-ên? —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. ”
\v 12 “Nhưng các ngươi lại khiến các người Na-xi-rê uống rượu và ban lệnh cấm các nhà tiên tri nói tiên tri.
\s5
\v 13 Này, Ta sẽ đè bẹp các ngươi như chiếc xe chở đầy thóc lúa cán lên người ta.
\v 14 Kẻ nhanh nhẹn chẳng trốn thoát được; người khỏe chẳng thêm được sức lực; kẻ mạnh cũng chẳng thể tự cứu mình.
\s5
\v 15 Người cầm cung chẳng đứng nổi; kẻ chạy nhanh không thoát khỏi; người cưỡi ngựa cũng không cứu được mình.
\v 16 Thậm chí những chiến binh gan dạ nhất cũng phải mình trần chạy trốn trong ngày ấy —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời này mà Giê-hô-va đã phán nghịch cùng các ngươi, nghịch cùng cả dòng tộc mà Ta đã đem lên từ xứ Ai Cập:
\v 2 “Từ trong tất cả các dòng tộc trên đất Ta chỉ chọn một mình các ngươi. Vậy nên Ta sẽ hình phạt các ngươi vì mọi tội lỗi các ngươi."
\s5
\v 3 Nếu hai người không đồng ý với nhau thì họ có cùng đi với nhau hay không?
\v 4 Khi sư tử không có mồi thì nó có rống lên trong rừng chăng? Liệu sư tử tơ có gầm gừ từ trong hang nó nếu nó không bắt được gì chăng?
\s5
\v 5 Có thể nào con chim lại sa vào bẫy dưới đất khi chẳng có mồi gài bẫy nó? Liệu chiếc bẫy có từ dưới đất bật lên khi chưa có gì bị sập?
\v 6 Kèn thổi lên trong thành mà dân chúng lại chẳng run sợ sao? Tai vạ có xảy ra cho một thành nào đó mà không do Giê-hô-va sai đến chăng?
\s5
\v 7 Hẳn là Chúa Giê-hô-va sẽ chẳng làm gì nếu Ngài không tỏ chương trình của Ngài cho những đầy tớ Ngài là các tiên tri.
\v 8 Sư tử đã gầm lên thì ai mà chẳng sợ? Chúa Giê-hô-va đã phán thì ai mà chẳng nói tiên tri?
\s5
\v 9 Hãy công bố tin này trong các thành trì của Ách-đốt, và trong các thành trì của xứ Ai Cập; hãy bảo: “Hãy tập hợp lại trên các núi Sa-ma-ri và chứng kiến cảnh đại loạn xảy ra trong xứ cũng như tình trạng áp bức kinh khiếp tại đó.
\v 10 Vì chúng chẳng biết làm điều phải là thế nào” —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va— “Chúng chất chứa sự hung bạo và hủy diệt trong các đồn lũy mình.”
\s5
\v 11 Vì vậy, đây là lời Chúa Giê-hô-va phán: “Kẻ thù sẽ vây hãm xứ. Nó sẽ kéo sập đồn lũy các ngươi và cướp bóc những thành kiên cố của các ngươi. ”
\v 12 Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Như kẻ chăn chỉ gỡ được hai chân hoặc một mảnh tai khỏi miệng sư tử, thì dân Y-sơ-ra-ên sống tại Sa-ma-ri cũng sẽ được cứu như vậy, với chỉ một phần trường kỷ hoặc một mảnh vải trải gường.”
\s5
\v 13 Hãy nghe và làm chứng nghịch lại nhà Gia-cốp —đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh.
\v 14 "Vì trong ngày Ta phạt tội lỗi của Y-sơ-ra-ên thì Ta cũng sẽ phạt các đền thờ Bê-tên. Các sừng của bàn thờ sẽ bị chặt đứt và rơi xuống đất.
\s5
\v 15 Ta sẽ phá hủy nhà mùa đông cùng với nhà mùa hạ. Các nhà bằng ngà sẽ bị phá hủy, các dinh thự sẽ biến mất, ” —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va."
\s5
\c 4
\p
\v 1 Hãy nghe lời này, hỡi các ngươi là những bò cái của Ba-san, ở trên núi Sa-ma-ri, chuyên áp bức kẻ nghèo và chà đạp người thiếu thốn, những kẻ bảo chồng mình: “Hãy mang thức uống cho bọn tôi. ”
\v 2 Chúa Giê-hô-va đã lấy sự thánh khiết Ngài mà thề, rằng: “Kìa, sẽ đến ngày chúng sẽ dùng móc mà đem các ngươi đi, dùng lưỡi câu mà lôi đi hết những kẻ cuối cùng trong các ngươi.
\s5
\v 3 Các ngươi sẽ đi ra qua những lỗ hổng trên tường, mỗi người trong các ngươi đi ngay qua đó, và các người sẽ bị quăng ra về phía Ha-môn —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.”
\s5
\v 4 “Hãy đến Bê-tên mà phạm tội, đến Ghinh-ganh mà thêm tội lên cho nhiều. Mỗi sáng hãy đem sinh tế đến, cứ ba ngày thì dâng phần mười mình.
\v 5 Hãy dùng bánh mì dâng làm của lễ cảm tạ; hãy công bố các của lễ tự nguyện; hãy rao báo chúng đi, vì làm vậy khiến các ngươi vui thích, hỡi dân Y-sơ-ra-ên —đó là lời rao báo của Giê-hô-va.”
\s5
\v 6 “Ta đã làm cho răng các ngươi sạch sẽ trong mọi thành mình và khiến các ngươi thiếu bánh ăn trong mọi nơi các ngươi ở. Nhưng các ngươi vẫn không trở về với Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. ”
\v 7 “Ta cũng đã giữ không cho mưa xuống trên các ngươi khi vẫn còn ba tháng nữa mới tới mùa gặt. Ta đã khiến có mưa ở thành này và khiến không có mưa ở thành khác. Có thửa đất thì được mưa, còn mảnh đất không có mưa thì khô cằn.
\s5
\v 8 Hai, ba thành phải loạng choạng đến một thành khác để có nước uống, nhưng vẫn không đã khát. Vậy mà các ngươi lại chẳng trở về với Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\v 9 “Ta đã giáng trên các ngươi bệnh rụi lá và nấm mốc. Rất nhiều khu vườn các ngươi, từ vườn nho đến cây vả và cây ô liu đã bị châu chấu ăn nuốt hết. Vậy mà các ngươi lại chẳng trở về với Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.”
\s5
\v 10 “Ta đã giáng tai họa trên các ngươi như đã giáng trên Ai Cập. Ta đã dùng gươm giết chết thanh niên các ngươi, đem ngựa các ngươi đi, và khiến mùi hôi thối của lều trại các ngươi bốc lên mũi các ngươi. Vậy mà các ngươi vẫn không trở về cùng Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. ”
\v 11 “Ta đã đánh đổ các thành của các ngươi, như khi Đức Chúa Trời đánh hạ Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Các ngươi như khúc củi đang cháy bị rút khỏi đống lửa. Vậy mà các ngươi vẫn không trở về cùng Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.”
\s5
\v 12 “Cho nên, hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ làm cho các ngươi một việc kinh khủng; và vì Ta sẽ làm một việc kinh khủng cho các ngươi nên, hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi hãy sửa soạn mà gặp Đức Chúa Trời mình!
\v 13 Vì, kìa, Đấng tạo thành núi cũng là Đấng dựng nên gió, bày tỏ cho người ta biết ý định của Ngài, khiến ban mai ra tối tăm, và bước đi trên các nơi cao của đất. ” Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh, chính là danh của Ngài."
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời mà Ta sẽ tỏ ra đây như một bài ai ca về các ngươi.
\v 2 Trinh nữ Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống; nó sẽ không đứng lên nữa; nó đã bị bỏ mặc trên mảnh đất mình; chẳng có ai đỡ nó dậy.
\s5
\v 3 Vì đây là lời phán của Chúa Giê-hô-va: “Thành có một ngàn người ra trận sẽ chỉ còn một trăm, thành có một trăm người ra trận thì chỉ còn mười là thuộc về nhà Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 4 Vì đây là lời Giê-hô-va phán với nhà Y-sơ-ra-ên: “Hãy tìm kiếm Ta để được sống!
\v 5 Đừng tìm kiếm Bê-tên; cũng đừng vào Ghinh-ganh; đừng đi đến Bê-e-sê-ba. Vì Ghinh-ganh chắc chắn bị đày ải, còn Bê-tên sẽ thảm sầu.
\s5
\v 6 Hãy tìm kiếm Giê-hô-va mà được sống, nếu không Ngài sẽ như lửa bùng lên trong nhà Giô-sép. Lửa đó sẽ thiêu nuốt và sẽ chẳng có ai tại Bê-tên dập tắt nó.
\v 7 Những kẻ đó đổi lẽ phải ra ngải đắng và vất bỏ sự công chính xuống đất!”
\s5
\v 8 Đức Chúa Trời đã dựng nên chòm sao Thất Tinh và sao Cày; Ngài biến bóng tối thành buổi mai; Ngài đổi ngày ra đêm tối và gọi nước biển lại; Ngài trút đổ chúng xuống mặt đất. Danh Ngài là Giê-hô-va.
\v 9 Ngài bất ngờ tiêu diệt kẻ mạnh, khiến sự hủy diệt ập đến trên các đồn lũy.
\s5
\v 10 Chúng ghét người chỉnh sửa chúng nơi cổng thành, chúng ghê tởm người nói ra sự thật.
\v 11 Vì các ngươi chà đạp người nghèo và cướp đi phần lúa mì của họ— cho nên dầu các ngươi đã xây nhà bằng đá đẽo, các ngươi sẽ chẳng được ở trong đó. Các ngươi có các vườn nho tươi đẹp, nhưng các ngươi sẽ không được uống rượu nó.
\s5
\v 12 Vì Ta biết các vi phạm của các ngươi thật là nhiều, các tội ngươi là lớn lắm— hỡi các ngươi là kẻ áp bức người công bình, nhận của hối lộ, và từ chối bênh vực cho kẻ cùng túng tại cửa thành.
\v 13 Cho nên người cẩn trọng nào cũng nín lặng vào một thời kỳ như vậy, vì đó là thời kỳ đen tối.
\s5
\v 14 Hãy tìm điều lành thay vì điều dữ để các ngươi được sống. Để Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh, sẽ thật sự ở với các ngươi, như Ngài đã phán.
\v 15 Hãy ghét điều ác và yêu mến điều thiện lành, thiết lập lẽ công bằng tại cửa thành các ngươi. Biết đâu Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh, sẽ bao dung với những kẻ còn sót lại của Giô-sép.
\s5
\v 16 Vậy nên Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh, là Chúa, phán thế này: “Sẽ có sự than khóc ở mọi quãng trường, và trên mọi đường phố người ta sẽ bảo: Thật khốn khổ! Khổ quá đi! Họ sẽ kêu các nông dân đến khóc thương, và những kẻ khóc mướn đến than khóc.
\v 17 Trong tất cả các vườn nho sẽ có sự than van, vì Ta sẽ đi qua giữa các ngươi, ” Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 18 Bất hạnh thay cho các ngươi là kẻ trông mong ngày của Giê-hô-va! Vì sao các ngươi trông mong ngày của Giê-hô-va? Đó sẽ là ngày tăm tối chứ không phải sáng sủa.
\v 19 Cũng giống như người kia chạy trốn con sư tử nhưng lại gặp con gấu, hoặc đi vào ngôi nhà và đặt tay lên vách thì bị rắn cắn.
\v 20 Phải chăng ngày của Giê-hô-va sẽ là ngày tăm tối thay vì sáng sủa? U ám thay vì quang minh?
\s5
\v 21 “Ta ghét, Ta xem khinh các lễ lạc của các ngươi, Ta chẳng vui thích các cuộc nhóm họp trọng thể của các ngươi.
\v 22 Cho dầu các ngươi có dâng lên cho Ta các của lễ thiêu cùng của lễ chay thì Ta cũng không nhận, mà Ta cũng chẳng đoái đến các của lễ thù ân bằng thú béo tốt.
\s5
\v 23 Hãy dẹp đi tiếng ồn ào của những bài ca của các ngươi; ta sẽ chẳng nghe tiếng đàn hát các ngươi đâu.
\v 24 Thay vì vậy, hãy để lẽ công bằng phun ra như nước, và sự công chính như dòng suối mãi tuôn chảy.
\s5
\v 25 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, suốt bốn mươi năm trong hoang mạc các ngươi có đem dâng cho Ta sinh tế và của lễ chăng?
\v 26 Các ngươi sẽ tôn Si-cút làm vua mình, và Cai-quan làm thần sao của mình —tức các tượng thần mà các ngươi đã làm cho mình.
\s5
\v 27 Vì vậy, Ta sẽ đày các ngươi sang tận bên kia thành Đa-mách, ” đó là lời phán của Giê-hô-va, danh Ngài là Đức Chúa Trời của các đạo binh.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho những kẻ sống nhàn hạ tại Si-ôn, cùng những kẻ được yên ổn trong vùng đồi Sa-ma-ri, tức những kẻ danh vọng trong số giới ưu tú của các dân, những kẻ mà nhà Y-sơ-ra-ên phải đến để cầu cạnh!
\v 2 Giới lãnh đạo các ngươi bảo: “Hãy đến Ca-ne mà xem; từ đó hãy đến thành lớn Ha-ma; rồi xuống thành Gát của dân Phi-li-tin. Chúng có phồn thịnh hơn hai vương quốc này của các ngươi chăng? Bờ cõi của chúng có rộng lớn hơn bờ cõi các ngươi không?”
\s5
\v 3 Bất hạnh thay cho kẻ đẩy xa ngày tai họa mà khiến ngai hung tàn đến gần.
\v 4 Chúng nằm trên giường bằng ngà và uể oải trên trường kỷ mình. Chúng ăn thịt chiên con từ trong bầy và bò tơ từ trong chuồng.
\s5
\v 5 Chúng hát bài ca xuẩn ngốc theo tiếng nhạc của đàn hạc; chúng ứng biến khi chơi nhạc giống như Đa-vít.
\v 6 Chúng uống rượu bằng tô, và xức loại dầu hảo hạng, nhưng chúng chẳng đau buồn về sự lụi tàn của Giô-sép.
\s5
\v 7 Cho nên giờ đây chúng sẽ bị lưu đày cùng với những kẻ bị lưu đày trước nhất, và yến tiệc của những kẻ sống nhàn rỗi đó sẽ chấm dứt.
\v 8 Ta, Chúa Giê-hô-va, đã lấy chính mình mà thề —đây là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh: “Ta ghê tởm tánh kiêu căng của Gia-cốp; Ta thù ghét các thành trì của nó. Vậy nên Ta sẽ phó thành cùng với mọi thứ có trong thành.”
\s5
\v 9 Nếu trong một nhà nọ còn lại mười người nam thì chúng đều sẽ chết.
\v 10 Khi thân nhân của một người đến để lấy xác họ—tức người có bổn phận hỏa thiêu sau khi đem các thây ra khỏi nhà—nếu người này hỏi người trong nhà: “Còn có ai ở với anh không? ” và nếu người kia đáp: “Không, ” thì người này sẽ bảo: “Suỵt, chúng ta không được nhắc đến danh Giê-hô-va.”
\s5
\v 11 Vì, kìa, Giê-hô-va sẽ ban lệnh, rồi nhà lớn sẽ bị đập nát, nhà nhỏ sẽ vỡ vụn.
\s5
\v 12 Ngựa có phi trên vách đá chăng? Người ta có dùng bò mà cày ở đó không? Vậy mà các ngươi lại đổi lẽ công bằng ra chất độc, và trái công chính ra chất đắng.
\v 13 Các ngươi là kẻ vui mừng về Lô Đê-ba, là kẻ nói: “Chẳng phải chúng ta đã nhờ sức mình mà chiếm được Các-na-im sao?”
\s5
\v 14 “Nhưng, kìa, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ khiến một dân nổi lên nghịch cùng các ngươi”—đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh. “Chúng sẽ hành hạ các ngươi từ Lê-bô Ha-mát cho đến suối A-ra-ba.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đây là điều mà Chúa Giê-hô-va đã tỏ cho tôi thấy. Này, Ngài tạo ra một đàn châu chấu khi hoa màu vụ xuân nảy mầm; đây là mùa vụ trễ sau kỳ thu hoạch của vua.
\v 2 Khi chúng ăn xong cây cỏ trong xứ, tôi thưa: “Ôi Chúa Giê-hô-va, xin Ngài tha thứ; làm sao Gia-cốp sống nổi? Vì nó nhỏ bé quá.
\v 3 Giê-hô-va động lòng thương. Ngài đáp: “Việc đó sẽ không xảy ra.”
\s5
\v 4 Đây là điều Chúa Giê-hô-va tỏ cho tôi thấy: Kìa, Chúa Giê-hô-va gọi lửa để đoán phạt. Lửa làm khô cạn khối nước sâu mênh mông bên dưới đất và hăm he thiêu nuốt luôn cả đất.
\v 5 Nhưng tôi thưa: “Ôi Chúa Giê-hô-va, xin hãy dừng tay; làm sao Gia-cốp sống nổi? Vì nó nhỏ bé quá. ”
\v 6 Giê-hô-va động lòng thương; Ngài đáp: “Việc này cũng sẽ không xảy ra.”
\s5
\v 7 Đây là điều Ngài tỏ cho tôi thấy: Kìa, Chúa đứng cạnh một vách tường, tay Ngài cầm dây dọi.
\v 8 Giê-hô-va hỏi tôi: “Này, A-mốt, con thấy gì? ” Tôi đáp: “Cái dây dọi. ” Chúa bảo: “Này, Ta sẽ đặt một dây dọi giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên của Ta. Ta sẽ không tha cho chúng nó nữa.
\s5
\v 9 Các nơi cao của Y-sác sẽ bị phá hủy, các nơi thánh của Y-sơ-ra-ên sẽ bị phá nát, và Ta sẽ khiến gươm đao nổi lên chống lại nhà Giê-rô-bô-am.”
\s5
\v 10 Lúc ấy, A-ma-xia, thầy tế lễ ở Bê-tên sai báo cho Giê-rô-bô-am, vua Y-sơ-ra-ên, rằng: “A-mốt âm mưu chống lại vua giữa vòng nhà Y-sơ-ra-ên. Xứ không thể chịu nổi mọi lời của y.
\v 11 Vì đây là lời y đã nói: Giê-rô-bô-am sẽ chết bởi gươm, và chắc chắn Y-sơ-ra-ên sẽ bị đày đi khỏi xứ sở mình. "
\s5
\v 12 A-ma-xia nói với A-mốt: “Này, nhà tiên kiến, hãy đi, chạy về đất Giu-đa, rồi ở đó mà ăn bánh và nói tiên tri.
\v 13 Còn ở Bê-tên thì đừng nói tiên tri nữa, vì đây là chốn thiêng liêng của vua và là nhà của vua.”
\s5
\v 14 A-mốt đáp lại A-ma-xia: “Tôi chẳng phải là nhà tiên tri, cũng không phải con của nhà tiên tri. Tôi làm nghề chăn nuôi, và tôi chăm sóc cây sung.
\v 15 Nhưng Giê-hô-va đã bắt tôi rời bỏ việc chăn bầy và phán với tôi: “Hãy đi nói tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên của Ta.
\s5
\v 16 Bây giờ, hãy nghe lời của Giê-hô-va. Ông bảo: Đừng nói tiên tri bất lợi cho Y-sơ-ra-ên và đừng phát biểu nghịch lại nhà Y-sác.
\v 17 Vậy nên đây là lời Giê-hô-va phán: Vợ ngươi sẽ làm điếm trong thành; con trai và con gái ngươi sẽ ngã chết vì gươm; đất ngươi sẽ bị đo và chia cắt; ngươi sẽ chết trong một xứ ô uế, và Y-sơ-ra-ên hẳn sẽ bị lưu đày khỏi xứ mình. ’”
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đây là điều Giê-hô-va tỏ cho tôi thấy. Kìa, có một giỏ trái cây mùa hạ!
\v 2 Chúa hỏi: “Này, A-mốt, con thấy gì? ” Tôi đáp: “Một giỏ trái cây mùa hạ. ” Vậy là Giê-hô-va phán với tôi: “Dân Y-sơ-ra-ên của Ta đã đến lúc tận chung; Ta sẽ chẳng tha thứ nữa.
\v 3 Các bài ca của đền thờ sẽ trở thành tiếng khóc than. Trong ngày đó, sẽ có nhiều xác chết, ở khắp mọi nơi người ta sẽ lặng thinh mà quăng ra ngoài! ”—đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Hãy nghe lời này, hỡi các ngươi là kẻ chà đạp người cùng túng và trừ khử người nghèo trong xứ.
\v 5 Chúng bảo: “Khi nào sẽ hết ngày trăng mới, để chúng ta bán thóc trở lại? Còn ngày Sa-bát nữa, khi nào hết để chúng có thể bày lúa mì ra? Chúng ta sẽ làm cái lường nhỏ lại và tăng giá, cũng như dùng cân dối mà ăn gian,
\v 6 để chúng ta có thể bán loại lúa xấu rồi lấy bạc mà mua bọn người nghèo, dùng đôi dép mua lũ cùng túng.”
\s5
\v 7 Giê-hô-va đã lấy sự kiêu hãnh của Gia-cốp mà thề, rằng: “Hẳn Ta sẽ chẳng bao giờ quên bất kỳ việc làm nào của chúng. ”
\v 8 Vì tình trạng ấy, xứ sở sẽ chẳng rúng động, và mọi người sống ở đó chẳng than khóc sao? Toàn cả xứ sẽ trồi lên như Sông Nin, rồi nó sẽ lắc lư và sụt xuống trở lại, giống như Sông Ai Cập.
\s5
\v 9 “Trong ngày đó, Ta sẽ khiến mặt trời mọc vào buổi trưa, và Ta sẽ khiến đất bị tăm tối lúc ban ngày” —đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va.
\v 10 “Ta sẽ đổi các kỳ lễ lạc các ngươi thành tang chế và mọi bài hát các ngươi thành lời ai ca. Ta sẽ khiến hết thảy các ngươi phải mặc vải thô và mọi đầu các ngươi bị hói.
\s5
\v 11 Này, sẽ đến ngày Ta sai nạn đói đến trong xứ, không phải đói bánh, cũng không phải khát nước, mà là đói khát được nghe lời của Giê-hô-va.
\v 12 Người ta sẽ đi loạng choạng từ biển này đến biển kia; họ sẽ chạy từ phương nam sang phương đông để tìm kiếm lời của Giê-hô-va nhưng không tìm được
\s5
\v 13 Trong ngày đó, các trinh nữ xinh đẹp và nam thanh niên sẽ ngất đi vì khát.
\v 14 Những kẻ chỉ tội lỗi của Sa-ma-ri mà thề, rằng: Này, Đan, như thần ngươi vẫn sống và: Như thần của Bê-e-sê-ba vẫn sống— bọn chúng sẽ ngã xuống và chẳng bao giờ đứng dậy lại.”
\s5
\c 9
\p
\v 1 Tôi thấy Chúa đứng cạnh bàn thờ, và Ngài phán: “Hãy đập các đầu trụ để các nền ngạch rúng động. Hãy đập nát chúng ra trên đầu tất cả chúng nó, rồi Ta sẽ dùng gươm giết chết những kẻ cuối cùng của chúng. Sẽ chẳng còn ai trong chúng nó thoát được, một người cũng không.
\v 2 Dầu chúng có đào đến âm phủ thì ở đó tay Ta cũng sẽ nắm được chúng. Dầu chúng có leo lên đến tận trời thì ở đó Ta cũng sẽ đem chúng xuống.
\s5
\v 3 Dầu chúng có ẩn trên đỉnh núi Cạt-mên thì ở đó Ta cũng sẽ tìm và bắt lấy chúng. Dầu chúng có nấp dưới đáy biển khuất khỏi mắt Ta thì ở đó Ta cũng sẽ ban lệnh cho rắn, và rắn sẽ cắn chúng nó.
\v 4 Dầu chúng nó có bị đày ải, bị lùa đi trước mặt quân thù, thì ở đó Ta cũng sẽ ra lệnh cho gươm đao, và gươm đao sẽ giết chết chúng nó.
\s5
\v 5 Chúa, là Giê-hô-va của các đạo binh, chạm đến mảnh đất này, thì nó tan chảy; mọi kẻ sống ở đó đều than khóc; toàn xứ đều sẽ nhô lên như Sông Lớn, và lại sụt xuống như Sông Ai Cập.
\v 6 Chính Chúa xây dựng các phòng của Ngài trên trời, và đã lập hầm Ngài dưới đất. Ngài gọi nước biển đến và đổ chúng ra trên mặt đất, danh Ngài là Giê-hô-va.
\s5
\v 7 “Chẳng phải các ngươi đối với Ta cũng như dân Ê-thi-ô-bi sao, hỡi dân Y-sơ-ra-ên? —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Chẳng phải Ta đã đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi đất Ai Cập, dân Phi-li-tin khỏi Cơ-rết, và dân A-ram khỏi Ki-rơ đó sao?
\v 8 Kìa, mắt của Chúa Giê-hô-va nhìn xuống vương quốc tội lỗi này, và Ta sẽ diệt nó khỏi mặt đất, dầu Ta sẽ không diệt sạch nhà Gia-cốp—đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.”
\s5
\v 9 “Kìa, Ta sẽ ban lệnh, rồi Ta sẽ sàng lọc nhà Y-sơ-ra-ên giữa mọi dân, như người ta sàng lọc lúa trong cái rây, đến nỗi viên đá nhỏ nhất cũng không thể lọt xuống được.
\v 10 Mọi kẻ phạm tội trong dân ta sẽ chết vì gươm, tức những kẻ nói: Tai họa sẽ chẳng đuổi kịp hoặc xảy đến cho chúng ta đâu. ’”
\s5
\v 11 Trong ngày đó Ta sẽ dựng lại lều trại đã đổ của Đa-vít, và vá lại những chỗ thủng của nó. Ta sẽ dựng lại đống đổ nát của nó và tái thiết nó như ngày xưa,
\v 12 để chúng có thể chiếm hữu phần sót lại của Ê-đôm, cùng mọi dân được xưng bằng danh Ta —đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va, Đấng thực hiện việc này.”
\s5
\v 13 “Này, sẽ đến ngày người cày theo kịp kẻ gặt, kẻ đạp nho đuổi kịp người sạ giống”—đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. “Các núi sẽ ứa ra rượu ngọt, chảy lan khắp mọi ngọn đồi.
\s5
\v 14 Ta sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên trở về từ cảnh lưu đày. Chúng sẽ dựng lại các thành bị đổ nát và ở trong đó, chúng sẽ trồng vườn nho và uống rượu nó, chúng sẽ làm vườn và ăn trái nó.
\v 15 Ta sẽ trồng chúng trên đất của chúng, và chúng sẽ chẳng bao giờ lại bị nhổ khỏi mảnh đất mà Ta đã ban cho, ” Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi phán vậy.

51
31-OBA.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,51 @@
\id OBA
\ide UTF-8
\h ÁP-ĐIA
\toc1 ÁP-ĐIA
\toc2 ÁP-ĐIA
\toc3 oba
\mt ÁP-ĐIA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Khải tượng của Áp-đia. Chúa Giê-hô-va phán lời này về Ê-đôm: Chúng ta có nghe lời Giê-hô-va phán, và một sứ giả đã được sai đến giữa vòng các dân, rằng: “Hãy đứng lên! Chúng ta hãy đứng lên chiến đấu chống lại nó! ”
\v 2 Này, Ta sẽ khiến ngươi ra nhỏ bé giữa các nước, ngươi sẽ bị khinh dễ thậm tệ.
.
\s5
\v 3 Sự kiêu ngạo trong lòng ngươi đã đánh lừa ngươi, hỡi kẻ sống trong các khe đá, trong chỗ ở trên cao của mình, là kẻ nói trong lòng: “Ai sẽ hạ ta xuống đất? ”
\v 4 Dầu ngươi có bay vút lên như đại bàng, và dầu ngươi làm tổ giữa các ngôi sao, thì Ta cũng hạ ngươi xuống, Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 5 Nếu kẻ trộm đến chỗ ngươi, nếu bọn cướp đến trong ban đêm (ngươi bị tàn hại biết dường nào!), thì chẳng phải chúng sẽ chỉ lấy đủ cho mình thôi sao? Nếu kẻ hái nho đến chỗ ngươi, chẳng lẽ chúng không để sót lại một ít nho mót?
\v 6 Ê-sau đã bị bới tung lên, và của báu cất giấu của nó đã bị phát hiện rồi!
\s5
\v 7 Mọi kẻ liên minh với ngươi sẽ đuổi ngươi đến tận biên cương. Những kẻ từng sống hòa hảo với ngươi đã đánh lừa ngươi, và chiếm ưu thế.
\v 8 Trong ngày đó, Giê-hô-va phán, Ta lại chẳng diệt mất giới thông thái của Ê-đôm và những kẻ hiểu biết từ núi Ê-sau sao?
\v 9 Và, hỡi Thê-man, các chiến binh của ngươi sẽ hoảng sợ, đến nỗi mọi người ở núi Ê-sau có thể bị giết chết trong cuộc tàn sát.
\s5
\v 10 Vì sự cư xử hung bạo của ngươi với em mình là Gia-cốp, nên ngươi sẽ phải xấu hổ, và ngươi sẽ bị diệt mất mãi mãi.
\v 11 Trong ngày mà ngươi đứng bàng quan, là ngày những kẻ xa lạ lấy của cải nó mang đi và dân ngoại quốc vào các cửa thành nó rút thăm về số phận của Giê-ru-sa-lem, thì ngươi chẳng khác nào một kẻ trong bọn chúng.
\s5
\v 12 Nhưng chớ hả hê về ngày của em ngươi, là ngày bất hạnh của nó, cũng đừng vui mừng về dân Giu-đa trong ngày chúng bị tiêu diệt; đừng khoe khoang trong ngày chúng bị hiểm nguy.
\v 13 Đừng vào cửa thành của dân ta trong ngày chúng gặp nạn; đừng hả hê về sự khốn khổ chúng phải chịu trong ngày tai họa, và chớ cướp phá tài sản của chúng trong ngày chúng sa bại.
\v 14 Cũng đừng đứng nơi ngã ba đường để tiêu diệt người dân nó chạy lánh nạn; đừng giao nộp những kẻ sống sót của nó trong ngày nguy khốn.
\s5
\v 15 Vì ngày của Giê-hô-va sắp ập xuống trên mọi dân. Ngươi cư xử thế nào thì người ta sẽ cư xử lại với ngươi thể ấy; các việc ngươi làm sẽ đổ lại trên đầu của ngươi.
\v 16 Vì ngươi đã uống trên núi thánh Ta thể nào thì mọi dân cũng sẽ cứ uống lại giống như vậy. Chúng sẽ uống, rồi nuốt đi, và nó sẽ như thể chúng chưa từng tồn tại.
\s5
\v 17 Nhưng trong núi Si-ôn sẽ có những kẻ trốn thoát, và nó sẽ là núi thánh; nhà Gia-cốp sẽ được sở hữu tài sản mình.
\v 18 Nhà Gia-cốp sẽ là đám lửa, và nhà Giô-sép là ngọn lửa, còn nhà Ê-sau sẽ là gốc rạ mà chúng sẽ đốt và thiêu rụi. Sẽ chẳng còn ai sống sót trong nhà Ê-sau, vì Giê-hô-va đã phán như vậy.
\s5
\v 19 Những kẻ từ vùng Nê-ghép sẽ chiếm hữu núi Ê-sau, những kẻ ở vùng Se-phê-la sẽ được lãnh thổ của dân Phi-li-tin; và chúng sẽ chiếm hữu lãnh thổ của Ép-ra-im và lãnh thổ Sa-ma-ri; còn Bên-gia-min sẽ chiếm hữu vùng Ga-la-át.
\s5
\v 20 Những kẻ bị lưu đày trong nhóm người Y-sơ-ra-ên này sẽ chiếm hữu xứ Ca-na-an cho đến tận Sa-rép-ta. Những kẻ bị lưu đày của Giê-ru-sa-lem ở tại Sê-pha-rát sẽ được các thành thuộc vùng Nê-ghép.
\v 21 Những kẻ giải cứu sẽ lên núi Si-ôn để phán xét núi Ê-sau, và vương quốc sẽ thuộc về Giê-hô-va.

107
32-JON.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,107 @@
\id JON
\ide UTF-8
\h GIÔ-NA
\toc1 GIÔ-NA
\toc2 GIÔ-NA
\toc3 jon
\mt GIÔ-NA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Bấy giờ có lời của Giê-hô-va đến với Giô-na, con trai A-mi-tai, rằng:
\v 2 “Hãy đứng dậy đi đến thành Ni-ni-ve rộng lớn đó và lên tiếng cáo tội nó, vì sự gian ác chúng nó đã thấu đến trước mặt Ta. ”
\v 3 Nhưng Giô-na đứng dậy chạy lánh mặt Giê-hô-va và đi qua Ta-rê-si. Ông xuống Giốp-bê và thấy có con tàu sắp đi Ta-rê-si. Vậy là ông trả tiền rồi lên tàu cùng đi với họ sang Ta-rê-si, lánh mặt Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Nhưng Giê-hô-va sai một cơn gió mạnh thổi trên biển, cơn gió trở thành trận bão lớn trên biển. Chẳng mấy chốc con tàu muốn vỡ tan.
\v 5 Lúc ấy các thủy thủ rất sợ hãi, mỗi người đều kêu cứu thần của mình. Họ ném hàng hóa trên tàu xuống biển để làm nhẹ tàu. Còn Giô-na thì đã đi xuống dưới lòng tàu rồi nằm ở đó ngủ thật say.
\s5
\v 6 Vì vậy, thuyền trưởng đến chỗ ông, bảo: “Anh làm gì đó, ngủ ư? Dậy đi! Hãy kêu cầu thần mình! Biết đâu thần của anh sẽ đoái đến chúng ta và chúng ta sẽ khỏi vong mạng. ”
\v 7 Mọi người bảo nhau “Nào, chúng ta sẽ rút thăm để biết ai là nguyên nhân của tai họa đang xảy đến cho chúng ta này. ” Vậy là họ rút thăm, và thăm trúng ngay Giô-na.
\s5
\v 8 Họ bảo ông: “Hãy cho chúng tôi biết ai gây ra tai họa đang xảy ra cho chúng ta đây. Anh làm nghề gì, anh từ đâu đến? Anh là người xứ nào, anh là dân tộc nào? ”
\v 9 Giô-na đáp lại họ “Tôi là người Hê-bơ-rơ; tôi kính sợ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ở trên trời, Đấng đã làm ra biển lẫn đất khô. ”
\v 10 Lúc đó, những người kia càng thêm sợ hãi; họ hỏi ông: “Anh đã làm gì vậy? ” Họ đã biết được ông đang chạy lánh mặt Giê-hô-va, vì ông cho họ biết như vậy.
\s5
\v 11 Rồi họ hỏi Giô-na: “Chúng tôi phải xử anh thế nào để biển lặng cho chúng ta đây? ” Vì biển càng lúc càng nổi sóng gió.
\v 12 Giô-na đáp lại họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển, thì biển sẽ lặng cho các anh, vì tôi biết rằng chính vì tôi mà cơn bão lớn này xảy đến cho các anh. ”
\v 13 Những người đó ráng sức chèo chống để vào được đất liền, nhưng họ không làm được vì biển càng lúc càng động dữ dội thêm.
\s5
\v 14 Vì vậy, họ kêu cầu Giê-hô-va, rằng: “Ôi, Giê-hô-va, chúng tôi xin Ngài đừng để chúng tôi phải vong mạng vì mạng sống của người này, và đừng buộc tội chúng tôi về cái chết của anh ta vì, Giê-hô-va ôi, chính đã làm điều Ngài vừa ý. ”
\v 15 Vậy, họ đem Giô-na ném xuống biển, thì biển lặng.
\v 16 Những người đó rất kinh sợ Giê-hô-va. Họ dâng sinh tế cho Giê-hô-va và hứa nguyện.
\s5
\v 17 Bấy giờ, Giê-hô-va đã chuẩn bị một con cái lớn để nuốt Giô-na, và Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Từ trong bụng cá, Giô-na cầu nguyện cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 2 Ông nói: “Con kêu cầu cùng Giê-hô-va về nỗi nguy khốn mình và Ngài đáp lời con; từ lòng âm phủ con kêu cứu! Chúa đã nghe tiếng con.
\s5
\v 3 Chúa đã ném con xuống vực thẳm, vào lòng biển cả; các dòng nước bao phủ con; mọi cơn sóng và cơn ba đào của Chúa tràn qua con.
\v 4 Con nói: Mình đã bị đuổi khỏi trước mặt Chúa; làm sao mình có thể nhìn ngắm lại đền thánh của Ngài được đây?
\s5
\v 5 Nước phủ lấp con để lấy đi mạng sống con; vực sâu bao quanh con bốn phía; rong biển vấn vít khắp đầu con.
\v 6 Con đã xuống tận nền các núi; đất đã cài các then nó nhốt con mãi mãi. Nhưng, hỡi Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con, Chúa đã cứu mạng sống con khỏi hầm hố.
\s5
\v 7 Khi linh hồn con mòn mỏi trong con, thì con nhớ đến Giê-hô-va; và lời cầu nguyện con thấu đến Ngài, đến đền thánh của Ngài.
\v 8 Kẻ nào hướng về các tượng thần hư không tức khước từ lòng thành tín Chúa đối với mình.
\s5
\v 9 Nhưng phần con, con sẽ dâng của lễ cho Chúa bằng tiếng cảm tạ; con sẽ làm thành điều mình đã hứa nguyện. Sự cứu rỗi đến từ Giê-hô-va! ”
\v 10 Bấy giờ, Giê-hô-va phán với con cá, thì nó mửa Giô-na ra trên đất khô.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Lời của Giê-hô-va đến với Giô-na lần thứ hai, rằng:
\v 2 “Hãy đứng dậy đi đến thành Ni-ni-ve rộng lớn đó và công bố cho nó sứ điệp mà Ta truyền cho ngươi phải rao báo. ”
\v 3 Vậy là Giô-na đứng dậy đi đến Ni-ni-ve theo như lời của Giê-hô-va. Ni-ni-ve là thành phố rất lớn, phải đi mất ba ngày mới hết.
\s5
\v 4 Giô-na khởi sự vào thành và sau khi đi được một ngày, ông lớn tiếng rao báo, rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa thành sẽ bị đổ sập. ”
\v 5 Dân thành Ni-ni-ve tin Đức Chúa Trời và họ công bố một cuộc kiêng ăn. Tất cả họ, từ những người quyền cao chức trọng cho đến những kẻ thấp kém nhất, đều mặc vải thô vào.
\s5
\v 6 Chẳng mấy chốc tin tức đến tai vua Ni-ni-ve. Vua đứng dậy khỏi ngai, cởi áo bào ra mà mặc vải thô vào, rồi ngồi trong tro bụi.
\v 7 Vua ban hành một công bố, rằng: “Theo lệnh của nhà vua cùng các quan tướng, chẳng người nào hoặc con vật nào, dầu là bò hay chiên, được nếm bất kỳ thứ gì. Tất cả đều không được ăn, cũng không được uống nước.
\s5
\v 8 Cả ngươi ta và thú vật đều phải mặc vải thô và phải lớn tiếng kêu khóc với Đức Chúa Trời. Mỗi người phải từ bỏ lối ác mình cũng như hành vi hung bạo của tay mình.
\v 9 Biết đâu Đức Chúa Trời sẽ dung thứ và đổi ý mà từ bỏ cơn giận phừng phừng của Ngài, nhờ đó chúng ta không phải bị diệt vong.”
\s5
\v 10 Đức Chúa Trời nhìn thấy việc họ làm, tức từ bỏ các lối ác mình. Vậy là Đức Chúa Trời đổi ý về hình phạt mà Ngài phán sẽ giáng xuống trên họ và Ngài thôi không phạt họ nữa.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Nhưng có vẻ như điều này rất trái ý Giô-na, nên ông nổi giận.
\v 2 Ông cầu nguyện với Giê-hô-va, rằng: “Ôi, hỡi Giê-hô-va, chẳng phải đây chính là điều con đã nói khi con còn ở trong xứ mình sao? Đó là lý do vì sao con đã hành động như lúc đầu, tìm cách trốn đi Ta-rê-si—vì con biết Chúa là Đức Chúa Trời bao dung, hay thương xót, chậm giận, đầy lòng thành tín, và hay đổi ý về việc giáng họa.
\v 3 Vậy nên, hỡi Giê-hô-va, con xin Ngài hãy cất lấy mạng sống con đi, vì với con thà chết còn hơn sống.”
\s5
\v 4 Giê-hô-va phán: “Con giận dữ như vậy xem có phải không? ”
\v 5 Rồi Giô-na đi ra ngoài thành và ngồi ở mạn phía đông thành phố. Tại đó ông dựng một cái chòi và ngồi dưới bóng nó để chứng kiến những gì có thể xảy ra cho thành.
\s5
\v 6 Giê-hô-va sắp đặt sẵn một cái cây, khiến nó vươn lên bên trên Giô-na và phủ bóng trên đầu ông, giúp ông đỡ bị kiệt sức.
\v 7 Nhưng đến lúc mặt trời mọc sáng hôm sau, Đức Chúa Trời lại sắp đặt sẵn một con sâu. Nó cắn cái cây và cây bị khô héo.
\s5
\v 8 Khi mặt trời mọc lên sáng hôm sau, Đức Chúa Trời sắp đặt có một luồng gió nóng thổi từ phương đông. Rồi mặt trời cũng chiếu xuống đầu Giô-na, khiến ông ngất đi. Vậy là Giô-na ước được chết. Ông tự nhủ: “Với mình thì thà chết còn hơn sống. ”
\v 9 Lúc đó, Đức Chúa Trời phán với Giô-na: “Con nổi giận như vậy về cái cây đó xem có đúng không? ” Giô-na đáp: “Con giận muốn chết được cũng phải thôi.”
\s5
\v 10 Giê-hô-va phán: “Con đã động lòng vì cái cây mà con chưa từng khó nhọc vì nó, cũng chẳng làm cho nó mọc. Nó lớn lên sau một đêm, rồi nó lại chết sau một đêm.
\v 11 Cho nên, về phần Ta, Ta lại chẳng động lòng thương thành Ni-ni-ve rộng lớn này, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được tay phải với tay trái, cùng với nhiều gia súc, hay sao?

228
33-MIC.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,228 @@
\id MIC
\ide UTF-8
\h MI-CHÊ
\toc1 MI-CHÊ
\toc2 MI-CHÊ
\toc3 mic
\mt MI-CHÊ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời của Giê-hô-va phán với Mi-chê người Mô-rê-sết trong thời Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia, các vua Giu-đa, là lời mà ông thấy về Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 2 tất cả các dân, hãy nghe. Hỡi trái đất cùng mọi vật trên đất, hãy nghe đây. Nguyện Chúa Giê-hô-va từ đền thánh Ngài làm chứng nghịch cùng các ngươi.
\v 3 Giê-hô-va ra khỏi chỗ mình; Ngài sẽ giáng hạ và giày đạp trên các miếu thờ ngoại giáo ở dưới đất.  
\v 4 Các núi sẽ tan chảy dưới chân Ngài; các thung lũng sẽ nứt ra như sáp gặp lửa, như nước bị đổ xuống triền dốc cao.
\s5
\v 5 việc ấy là vì sự bội nghịch của Gia-cốp và vì tội lỗi của nhà Y-sơ-ra-ên. Nguyên do sự bội nghịch của Gia-cốp là gì? Chẳng phải là Sa-ma-ri sao? Do đâu có các miếu thờ tại Giu-đa? Chẳng phải là Giê-ru-sa-lem sao?
\s5
\v 6 sẽ khiến Sa-ma-ri thành một đống đổ nát ngoài đồng, như nơi để lập vườn nho. Ta sẽ kéo đá các tòa nhà xuống thung lũng; Ta sẽ khiến các nền nó trơ ra.  
\v 7 tượng chạm của nó sẽ bị nghiền nát và mọi quà cáp đem đến cho nó sẽ bị thiêu hủy. Mọi tượng thần nó Ta sẽ khiến ra tang hoang. Vì nhờ các quà cáp trả cho nghề mãi dâm mình mà nó có được các thứ đó, nên các thứ đó cũng sẽ trở thành công giá trả lại cho gái mãi dâm.”
\s5
\v 8 Vì lý do này tôi sẽ than khóc, tiếc thương; tôi sẽ đi chân đất, để mình trần truồng; tôi sẽ kêu gào như chó rừng, than khóc như chim cú.
\v 9 Vì các vết thương nó vô phương cứu chữa và các vết thương đó đã xảy đến cho Giu-đa. Chúng đã đến tận cửa ngõ của dân tộc tôi, đến tận Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Chớ thuật lại việc này tại Gát; đừng khóc lóc gì cả. Tại Bết Lê-áp-ra, tôi lăn lóc trong tro bụi.
\s5
\v 11 Hỡi thành Sa-phi-rơ, hãy đi qua, chịu cảnh trần truồng và xấu hổ. Các dân thành Xa-a-nan không đi ra. Bết Ê-xen than khóc, vì sự bảo vệ mình đã bị cất đi.
\v 12 Dân thành Ma-rốt nóng lòng chờ đợi tin lành, vì tai họa từ Giê-hô-va đã xuống đến cửa thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 13 Hỡi dân thành La-ki, hãy thắng ngựa vào xe. Chính ngươi, La-ki, là cớ gây phạm tội cho con gái Si-ôn, vì các vi phạm của Y-sơ-ra-ên đều được thấy ở nơi ngươi.
\v 14 Vì vậy, ngươi sẽ trao quà từ biệt cho Mô-rê-sết Gát; thành Ạc-xíp sẽ khiến vua Y-sơ-ra-ên thất vọng.
\s5
\v 15 Hỡi dân thành Ma-rê-sa, Ta sẽ đem đến chỗ các ngươi một kẻ sẽ chiếm hữu các ngươi. Giới lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên sẽ đi đến hang A-đu-lam.
\v 16 Hãy cạo đầu và cắt tóc vì con cái mà các ngươi vui thích. Hãy khiến mình hói đầu như chim đại bàng, vì con cái các ngươi sẽ bị lưu đày cách xa các ngươi.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Bất hạnh thay cho kẻ mưu toan phạm tội, kẻ trên gường mình trù tính làm việc tà ác. Khi trời sáng, chúng thực hiện toan tính đó vì chúng có quyền.
\v 2 Thèm muốn đồng ruộng là chúng cướp lấy; thèm muốn nhà cửa là chúng chiếm đoạt. Chúng áp chế người ta và nhà họ, cả người lẫn sản nghiệp họ.
\s5
\v 3 Vì vậy, đây là lời Giê-hô-va phán: “Này, Ta sẽ đem tai họa đến hành hại gia tộc này mà các ngươi không thể rút cổ ra được. Các ngươi sẽ không bước đi kiêu kỳ vì đó sẽ là thời buổi nhiễu nhương.
\v 4 Trong ngày đó, kẻ thù các ngươi sẽ hát một bài về các ngươi và than van bằng lời ca ai oán. Chúng sẽ hát: Người Y-sơ-ra-ên chúng ta bị diệt vong cả rồi; Giê-hô-va thay đổi phần đất của dân tộc tôi. Sao Ngài lại có thể lấy đi mất của tôi? Ngài chia ruộng đồng của tôi cho quân phản bội! ’”
\v 5 Vì vậy, giới giàu các người sẽ chẳng có con cái để rút thăm chia đất trong hội của Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Chúng bảo: “Chớ nói tiên tri. Chúng nó không được nói tiên tri các việc này; chúng nó không được quở trách. ”
\v 7 Hỡi nhà Gia-cốp, có cần phải thật sự nói: “Thần Linh của Đức Chúa Trời nổi giận sao? Đây có thật là công việc của Ngài chăng? ” Phải chăng các lời tôi không ích lợi cho ai bước đi cách ngay thẳng?
\v 8 Gần đây, dân Ta đã nổi dậy như quân thù. Các ngươi lột áo dài, đồ mặc của những khách qua đường vô tư, chẳng khác gì những người lính từ mặt trận trở về nơi mà họ tưởng là chốn an toàn.
\s5
\v 9 Các ngươi đuổi các phụ nữ trong dân ta khỏi những ngôi nhà họ ưa thích; các ngươi đoạt lấy phước lành của con cái họ mãi mãi.
\v 10 Hãy đứng dậy đi đi, vì đây chẳng phải là nơi các ngươi có thể ở lại, do sự ô uế của nó; nó đã bị hủy hoại hoàn toàn.
\v 11 Nếu có ai đến gặp các ngươi với tinh thần giả trá và nói dối, rằng: “Tôi sẽ nói tiên tri cho anh em về rượu và rượu mạnh, ” thì nó sẽ được xem là nhà tiên tri cho dân này.
\s5
\v 12 Hỡi Gia-cốp, chắc chắn Ta sẽ tập hợp tất cả các ngươi lại. Chắc chắn Ta sẽ nhóm họp số dân còn lại của Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ nhóm chúng lại như chiên cùng một chuồng, như bầy chiên giữa đồng cỏ. Sẽ có tiếng ồn lớn vì đoàn người đông đảo.
\v 13 Kẻ mở đường cho chúng sẽ đi trước chúng. Chúng sẽ phá cổng và đi ra ngoài; vua chúng sẽ đi qua trước chúng. Giê-hô-va sẽ dẫn đầu chúng nó.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Tôi nói: “Này, xin hãy nghe đây, các lãnh đạo Gia-cốp cùng các vị cai trị nhà Y-sơ-ra-ên: Hiểu đâu là công lý chẳng phải là điều các người cần phải biết sao?
\v 2 Các người vốn là kẻ ghét điều lành và yêu chuộng điều dữ, kẻ lột da họ, róc thịt từ xương họ —
\v 3 các người cũng là kẻ ăn thịt dân Ta, lột da họ, bẻ gãy xương cốt họ, rồi chặt thành từng mãnh, giống như thịt để nấu, như thịt trong chảo.
\s5
\v 4 Rồi giới lãnh đạo các người sẽ kêu cứu Giê-hô-va mà Ngài sẽ chẳng đáp lời. Ngài sẽ ẩn mặt khỏi các người lúc đó, vì các người đã làm việc ác.
\s5
\v 5 Giê-hô-va phán thế này về các tiên tri khiến cho dân Ta lầm lạc: “Đối với kẻ cho chúng ăn thì chúng rao: Ông sẽ được thịnh vượng. Nhưng đối với người không đút gì vào miệng chúng thì chúng gây chiến với họ.
\v 6 Vì vậy, đối với các người chỉ có đêm mà không có khải tượng; các ngươi sẽ chịu tăm tối để chẳng xem quẻ bói toán gì được. Đối với các nhà tiên tri này mặt trời sẽ lặn và ngày sẽ thành ra tối tăm đối với chúng.
\v 7 Các nhà tiên kiến sẽ xấu hổ và bọn thầy bói sẽ hoang mang. Tất cả bọn chúng sẽ che môi miệng lại, vì chẳng được Ta đáp lời.”
\s5
\v 8 Nhưng về phần mình, tôi được đầy năng quyền nhờ Thần Linh của Giê-hô-va và đầy công lý cùng sức mạnh, để công bố cho Gia-cốp biết sự vi phạm của nó, cho Y-sơ-ra-ên tội lỗi nó.
\s5
\v 9 Giờ thì hãy nghe đây, các người là kẻ lãnh đạo nhà Gia-cốp và giới cai trị nhà Y-sơ-ra-ên, những kẻ thù ghét công lý và bẻ cong mọi điều ngay thật.
\v 10 Các ngươi xây dựng Si-ôn bằng máu và Giê-ru-sa-lem bằng sự gian ác.
\v 11 Giới lãnh đạo của các người xét xử vì của hối lộ, các thầy tế lễ giảng dạy để nhận công giá và những tiên tri thì bói toán vì tiền. Thế mà các người lại dựa vào Giê-hô-va để bảo: “Chẳng phái Giê-hô-va ở với chúng ta sao? Sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến cho chúng ta đâu.”
\s5
\v 12 Vậy nên, do các ngươi mà Si-ôn sẽ bị cày như đám ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ thành ra đống đổ nát và núi đền thờ sẽ giống như ngọn đồi rậm rạp.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Nhưng trong những ngày cuối cùng, núi của nhà Giê-hô-va sẽ được lập lên trên các núi khác. Núi ấy sẽ được tôn lên cao hơn các đồi và các dân sẽ đổ về đó.
\s5
\v 2 Nhiều dân tộc sẽ đi và bảo: “Hãy đến, chúng ta hãy đi lên núi của Giê-hô-va, lên nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Ngài sẽ dạy chúng ta các đường lối Ngài và chúng ta sẽ bước theo các nẻo Ngài. ” Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn và lời của Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Ngài sẽ đoán xét giữa nhiều dân tộc và sẽ phân xử cho nhiều đất nước xa xôi. Họ sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn thành dao tỉa cây. Sẽ chẳng có nước nào vung gươm chống nghịch nước khác, họ cũng sẽ không học cách gây chiến nữa.
\s5
\v 4 Thay vào đó, họ sẽ mỗi người ngồi dưới cây nho mình và dưới cây vả mình. Sẽ chẳng có ai dọa dẫm họ, vì chính miệng Giê-hô-va đã phán.
\v 5 Vì mọi dân ai nấy bước đi nhân danh thần của mình. Nhưng chúng tôi sẽ bước đi nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi đời đời.
\s5
\v 6 Giê-hô-va phán: “Vào ngày đó, Ta sẽ tập hợp người què và quy tụ những kẻ bị xua đuổi, tức kẻ mà ta đã khiến phải chịu khổ.
\v 7 Ta sẽ biến những kẻ què quặt thành một dân sót và những kẻ bị xua đuổi thành một đất nước hùng mạnh và Ta, Giê-hô-va, sẽ cai trị chúng nó trên núi Si-ôn, từ nay cho đến đời đời.
\v 8 Còn ngươi, là tháp canh giữ bầy, là ngọn đồi của con gái Si-ôn, quyền cai trị lúc trước, tức vương quốc của con gái Giê-ru-sa-lem, sẽ đến với ngươi.
\s5
\v 9 Này, vì sao ngươi lại khóc lớn? Phải chăng nơi ngươi không có vua, mưu sĩ ngươi đã chết, khiến ngươi phải chịu đau đớn như người phụ nữ chuyển dạ?
\v 10 Hỡi con gái Si-ôn, hãy đau đớn và quặn thắt mà sinh ra như người phụ nữ chuyển dạ. Vì giờ đây ngươi sẽ ra ngoài thành, sống ngoài đồng ruộng và đi qua Ba-by-lôn. Tại đó ngươi sẽ được giải cứu. Ở đó, Giê-hô-va sẽ giải cứu ngươi khỏi tay kẻ thù mình.
\s5
\v 11 Còn bây giờ thì nhiều dân đã tập hợp lại chống nghịch ngươi; chúng bảo: Hãy để cho nó bị ô uế; nguyện mắt chúng ta hả hê về Si-ôn. ’”
\v 12 Nhà tiên tri nói: “Chúng không biết ý tưởng của Giê-hô-va, chúng cũng chẳng hiểu các chương trình của Ngài, vì Ngài đã gom chúng lại như những bó lúa đem vào sân đạp.”
\s5
\v 13 Giê-hô-va phán: “Hãy đứng dậy mà đập, hỡi con gái Si-ôn, vì Ta sẽ khiến sừng ngươi ra sắt, Ta sẽ làm cho móng guốc ngươi ra đồng. Ngươi sẽ nghiền nát nhiều dân. Ta sẽ dành hết của cải phi nghĩa của chúng nó cho chính mình, tức Giê-hô-va, các tài sản nó cho chính Ta, là Chúa của cả đất.”
\s5
\c 5
\p
\v 1 Này, hỡi người dân Giê-ru-sa-lem, hãy tập hợp lại theo đội ngũ ra trận. Có tường bao quanh thành các ngươi, nhưng chúng sẽ dùng roi mà đánh lên má nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 2 Còn ngươi, hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, dầu ngươi nhỏ bé giữa vòng các dòng tộc Giu-đa, nhưng từ ngươi sẽ ra cho Ta một người cai trị Y-sơ-ra-ên; gốc tích người là từ ngàn xưa, từ trước vô cùng.
\v 3 Vì vậy, Đức Chúa Trời sẽ bỏ mặc chúng, cho đến lúc người phụ nữ đang chuyển dạ sinh được con và những anh em còn lại của người trở về với dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 4 Người sẽ đứng chăn bầy mình bằng sức mạnh của Giê-hô-va, bằng uy quyền của danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Chúng sẽ trường tồn, vì lúc đó người sẽ rất quyền uy cho đến các chốn tận cùng trái đất.
\v 5 Người sẽ làm sự bình an của chúng ta. Khi quân A-si-ri vào xứ chúng ta, chúng sẽ công hãm các thành trì chúng ta, rồi chúng ta sẽ tôn lên bảy kẻ chăn cùng tám nhà lãnh đạo dân chúng chống lại bọn chúng.
\s5
\v 6 Những người này sẽ dùng gươm cai trị đất A-si-ri và cầm gươm nơi tay mình mà kiềm chế xứ của Nim-rốt. Người sẽ giải cứu chúng ta khỏi người A-si-ri, khi chúng xâm nhập xứ sở của chúng ta, khi chúng đi lại bên trong lãnh thổ chúng ta.
\v 7 Phần sót lại của Gia-cốp sẽ ở giữa nhiều dân tộc, giống sương móc từ Giê-hô-va, như mưa rào trên cỏ không chờ đợi con người, không chần chừ vì loài người.
\s5
\v 8 Phần sót lại của Gia-cốp sẽ ở giữa các nước, ở giữa nhiều dân tộc, giống như sư tử ở giữa thú rừng, như sư tử tơ ở giữa các bầy chiên. Khi nó đi qua thì nó sẽ giẫm đạp lên chúng và xé chúng ra từng mảnh và sẽ chẳng có ai cứu được chúng.
\v 9 Tay các ngươi sẽ đưa lên đối địch lại kẻ thù mình và sẽ tiêu diệt chúng.
\s5
\v 10 Giê-hô-va phán: “Trong ngày đó, Ta sẽ diệt hết các ngựa ngươi khỏi giữa ngươi và sẽ phá hủy các xe ngựa chiến của ngươi.
\v 11 Ta sẽ hủy diệt các thành trong xứ các ngươi và phá sập mọi đồn lũy ngươi.
\s5
\v 12 Ta sẽ diệt trừ ma thuật khỏi tay ngươi và ngươi sẽ chẳng còn kẻ bói toán nữa.
\v 13 Ta sẽ hủy diệt các tượng chạm cùng các trụ thờ bằng đá ở giữa ngươi. Ngươi sẽ không còn thờ lạy sản phẩm tay mình làm ra.
\v 14 Ta sẽ nhổ tượng A-sê-ra giữa vòng ngươi và Ta sẽ hủy phá các thành ngươi.
\v 15 Trong cơn thạnh nộ, giận dữ, Ta sẽ thi hành sự báo thù đối với các dân không chịu nghe Ta.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Này, hãy nghe lời Giê-hô-va phán: “Hãy đứng dậy trình bày lý lẽ của ngươi trước mặt các núi; hãy khiến các đồi nghe được tiếng ngươi.
\v 2 Hỡi các núi và các nền bền vững của đất, hãy nghe vụ kiện của Giê-hô-va. Vì Giê-hô-va đang kiện cáo dân Ngài và Ngài sẽ biện luận trước tòa để cáo tội Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 3 “Này, dân Ta, Ta đã làm gì cho các ngươi? Ta đã gây phiền hà các ngươi như thế nào? Hãy cứ làm chứng phản bác Ta đi!
\v 4 Vì Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, giải cứu các ngươi khỏi nhà nô lệ. Ta đã sai phán Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am đến cùng các ngươi.
\v 5 Hỡi dân Ta, hãy nhớ là điều mà Ba-lác, vua Mô-áp, đã mưu tính, cùng những gì mà Ba-la-am, con trai Bê-ô, đã đáp lại với hắn khi các ngươi đi từ Si-tim đến Ghinh-ganh, để các ngươi biết được các việc công chính Ta, tức Giê-hô-va, đã làm”
\s5
\v 6 Tôi phải đem gì cho Giê-hô-va khi tôi sấp mình thờ lạy Đức Chúa Trời cao cả? Phải chăng tôi sẽ mang theo của lễ thiêu, chiên con một tuổi đến ra mắt Ngài?
\v 7 Giê-hô-va sẽ hài lòng với cả ngàn chiên đực, hoặc hàng vạn suối dầu sao? Tôi có phải dâng con trưởng để chuộc lại sự vi phạm mình, dâng bông trái của thân thể mình chuộc tội cho chính mình, chăng?
\v 8 Hỡi người, Ngài đã cho ngươi biết đâu là phải và Giê-hô-va đòi hỏi ngươi điều gì: đó là hành xử công bình, yêu thích sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 9 Tiếng của Giê-hô-va đang kêu gọi thành—kẻ khôn ngoan đều thừa nhận danh Ngài: “Hãy lưu ý đến chiếc roi và người đã sửa soạn nó.
\v 10 Có của cải trong nhà kẻ gian ác bất lương, cùng cái lường non thật đáng tởm.
\s5
\v 11 Ta có nên xem kẻ dùng cân gian với các trái cân giả trong bao là vô tội chăng?
\v 12 Vì kẻ giàu thì đầy sự bạo lực, cư dân thì nói dối và lưỡi trong miệng họ thì lừa lọc.
\s5
\v 13 Vậy nên Ta đã đánh ngươi thương tích trầm trọng, Ta đã khiến ngươi ra hoang tàn vì tội lỗi ngươi.
\v 14 Ngươi sẽ ăn mà chẳng được no; cơn đói vẫn còn lại trong ngươi. Ngươi sẽ cất giấu tài sản, nhưng không giữ được, còn những thứ ngươi giữ được thì Ta sẽ phó cho thanh gươm.
\v 15 Ngươi sẽ gieo, nhưng không được gặt; ngươi sẽ đạp trái ô liu, nhưng không được xức dầu; ngươi sẽ ép nho nhưng không được uống rượu.
\s5
\v 16 Ngươi đã giữ các quy định Ôm-ri đặt ra, cùng mọi công việc của nhà A-háp. Các ngươi bước đi theo lời chỉ bảo của chúng nó. Vậy nên, Ta sẽ khiến ngươi, cái thành, ra hoang tàn và các ngươi, là cư dân, ra lời chế nhạo và ngươi sẽ chịu khinh miệt như dân Ta.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Thật bất hạnh cho tôi! Đối với tôi thì như thể vụ gặt hái trái mùa hạ đã qua, thậm chí đi mót lại số nho còn sót trong vườn: Chẳng tìm thấy còn chùm nho nào, nhưng tôi vẫn thèm thuồng những trái vả đầu mùa.
\v 2 Người tin kính đã bị diệt khỏi đất; chẳng còn ai ngay thẳng giữa vòng dân chúng. Tất cả chúng đều rình rập làm đổ máu người khác; mọi người cùng với anh em mình đều dùng lưới săn đuổi một ai đó.
\s5
\v 3 Tay chúng rất giỏi hãm hại: kẻ cai trị đòi đút lót, giới quan tòa sẵn sàng nhận hối lộ, còn kẻ quyền chẳng ngại bảo cho người khác biết mình muốn thâu tóm gì. Chúng cứ thế mà toa rập với nhau.
\v 4 Trong chúng nó, kẻ đàng hoàng nhất cũng như bụi tầm xuân, người ngay thẳng nhất chẳng khác gì đám gai gốc. Đó là ngày các lính canh của ngươi đã báo trước, tức ngày hình phạt các ngươi. Tình trạng hỗn độn của chúng đã đến.
\s5
\v 5 Đừng cậy bất kỳ người hàng xóm nào; đừng tin bất kỳ bạn hữu nào. Hãy cẩn trọng về lời mình nói ngay cả đối với người phụ nữ nằm trong vòng tay ngươi.
\v 6 Vì con trai sỉ nhục cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, còn con dâu thì nghịch với mẹ chồng. Kẻ thù của người ta lại là người nhà mình.
\s5
\v 7 Nhưng về phần tôi, tôi sẽ trông chờ Giê-hô-va. Tôi sẽ chờ đợi Đức Chúa Trời của sử cứu rỗi tôi; Đức Chúa Trời tôi sẽ nghe tôi.
\v 8 Hỡi kẻ thù tôi, chớ vui mừng về tôi. Sau khi té ngã tôi sẽ đứng dậy. Khi tôi ngồi trong bóng tối, Giê-hô-va sẽ là sự sáng cho tôi.
\s5
\v 9 Vì tôi đã phạm tội với Giê-hô-va, cho nên tôi sẽ phải chịu cơn giận của Ngài cho đến khi Ngài bên vực duyên cớ tôi. Ngài sẽ đem tôi ra nơi sáng và tôi sẽ thấy Ngài giải cứu mình trong sự công bình của Ngài.
\s5
\v 10 Rồi kẻ thù tôi sẽ thấy và kẻ đã hỏi tôi: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mày đâu? ” sẽ phải xấu hổ. Mắt tôi sẽ nhìn xem nó; nó sẽ bị giày đạp như bùn ngoài đường.
\s5
\v 11 Sẽ đến ngày các tường thành ngươi được xây dựng lại; vào ngày đó các ranh giới sẽ mở rộng thêm nhiều.
\v 12 Vào ngày đó, dân ngươi sẽ đến cùng ngươi, từ A-si-ri và các thành tại Ai Cập, từ Ai Cập cho đến sông lớn, tức sông Ơ-phơ-rát, từ biển này đến biển kia, từ núi này đến núi nọ.
\v 13 Và các vùng đất đó sẽ bị bỏ hoang vì cớ những người hiện đang sống tại đó, vì cớ hậu quả các việc làm của họ.
\s5
\v 14 Hãy dùng gậy chăn dắt dân ngươi, tức bầy của sản nghiệp ngươi. Cho dầu chúng có sống đơn độc trong rừng cạnh núi Cạt-mên, nguyện chúng được no đủ ở Ba-san và ở Ga-la-át như ngày xưa.
\v 15 Ta sẽ tỏ cho chúng các phép lạ như trong những ngày ngươi ra khỏi đất Ai Cập.
\s5
\v 16 Các dân sẽ nhìn thấy và xấu hổ về năng lực mình. Chúng sẽ lấy tay che miệng lại; tai chúng sẽ điếc.
\v 17 Chúng sẽ liếm bụi đất như con rắn, như các sinh vật bò dưới đất. Chúng sẽ ra khỏi hang ổ mình cách sợ hãi; chúng sẽ sợ hãi mà đến cùng Chúa, tức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi và chúng sẽ sợ hãi vì cớ Ngài.
\s5
\v 18 Có ai là Đức Chúa Trời giống như Chúa, Đấng cất tội lỗi đi, bỏ qua sự vi phạm của dân sót của cơ nghiệp Ngài? Chúa chẳng giữ lòng gận đến đời đời, vì Chúa vui thích tỏ cho chúng tôi sự thành tín của Ngài.
\s5
\v 19 Chúa sẽ lại thương xót chúng tôi; Ngài sẽ giẫm lên các tội lỗi chúng tôi dưới chân Ngài. Ngài sẽ ném mọi tội lỗi của chúng tôi xuống biển sâu.
\v 20 Ngài sẽ tỏ chân lý cho Gia-cốp và sự thành tín cho Áp-ra-ham, như Ngài đã thề hứa với các tổ tiên chúng tôi khi xưa.

110
34-NAM.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,110 @@
\id NAM
\ide UTF-8
\h NA-HUM
\toc1 NA-HUM
\toc2 NA-HUM
\toc3 nam
\mt NA-HUM
\s5
\c 1
\p
\v 1 Lời tuyên bố về Ni-ni-ve. Sách Khải tượng của Na-hum, người Ên-cốt.
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời đố kỵ và báo thù; Đức Giê-hô-va báo thù và đầy cơn thạnh nộ; Đức Giê-hô-va báo thù kẻ địch Ngài, Ngài vẫn duy trì cơn giận của Ngài đối với kẻ thù Ngài.
\v 3 Đức Giê-hô-va chậm giận và đầy uy quyền; Ngài sẽ không khi nào tuyên bố kẻ thù Ngài là vô tội. Đức Giê-hô-va thể hiện đường lối Ngài trong gió lốc và bão tố, mây là bụi dưới chân Ngài.
\s5
\v 4 Ngài quở trách biển và khiến nó khô; Ngài làm khô cạn tất cả sông ngòi. Ba-san yếu đuối, và Cạt-mên cũng vậy; hoa Li-băng héo rụng.
\v 5 Núi non rúng động trước sự hiện diện Ngài, các ngọn đồi tan chảy; đất đổ sập trước sự hiện diện Ngài, thật vậy, thế giới và muôn dân trên đất đều ngã quỵ.
\s5
\v 6 Ai có thể đứng nổi trước cơn thạnh nộ của Ngài? Ai có thể cưỡng lại cơn giận dữ của Ngài? Cơn thạnh nộ của Ngài đổ ra như lửa, và đá vỡ ra bởi Ngài.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va là tốt lành, Ngài là thành trì trong ngày gian khổ; Ngài thành tín với ai nương náu nơi Ngài.
\v 8 Nhưng Ngài sẽ dùng nước lụt diệt sạch kẻ thù Ngài; Ngài sẽ đuổi theo chúng vào trong bóng tối.
\s5
\v 9 Các ngươi lập mưu gì chống lại Đức Giê-hô-va? Ngài sẽ diệt hết; sự gian khổ sẽ chẳng nổi lên lần thứ nhì.
\v 10 Vì chúng sẽ lộn xộn như bụi gai; chúng sẽ ngấm trong đồ uống của chúng; chúng sẽ hoàn toàn bị lửa thiêu đốt như rơm khô.
\v 11 Hỡi Ni-ni-ve, từ giữa ngươi xuất hiện người lập mưu ác nghịch lại Đức Giê-hô-va, nó là kẻ lập ra sự gian ác.
\s5
\v 12 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán: “Dù chúng đầy sức mạnh và đông người, nhưng chúng sẽ bị xén bớt; người của chúng sẽ không còn nữa. Nhưng ngươi, hỡi Giu-đa: Dù Ta khiến ngươi đau đớn, Ta sẽ không làm khổ ngươi nữa.
\v 13 Bây giờ Ta sẽ bẻ gãy ách của chúng khỏi ngươi; Ta sẽ bẻ gãy xiềng xích ngươi.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va đã truyền lệnh về ngươi, hỡi Ni-ni-ve: “Ngươi sẽ không có con cháu nào mang danh ngươi. Ta sẽ diệt các tượng chạm và tượng đúc bằng kim loại khỏi đền thờ các thần của ngươi. Ta sẽ đào mộ ngươi, vì ngươi đê tiện.”
\s5
\v 15 Kìa, trên cao nguyên có bàn chân của người đem tin lành, là người rao báo sự bình an! Hỡi Giu-đa, hãy vui mừng tổ chức các lễ hội của ngươi, hãy giữ lời thề ngươi, vì kẻ ác sẽ không xâm chiếm ngươi; nó bị tiêu diệt hoàn toàn.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Kẻ đập ngươi tan tác đang tiến đến chống lại ngươi. Hãy giữ những tường thành, bảo vệ đường phố, hãy làm cho ngươi nên mạnh mẽ, tập hợp quân đội ngươi.
\v 2 Vì Đức Giê-hô-va sẽ phục hồi sự uy nghi của Gia-cốp, như sự uy nghi của Y-sơ-ra-ên, dù những kẻ cưỡng đoạt đã tàn phá chúng và hủy diệt các nhánh nho của chúng.
\s5
\v 3 Khiên của các dũng sĩ nó là màu đỏ, lính can đảm mặc áo màu đỏ tươi; thân kim loại của xe chiến mã lóe sáng trong ngày chúng dàn trận, rừng gươm giáo được vẫy trên không.
\v 4 Xe chiến mã chạy nhanh trên khắp đường phố; chúng chạy đi chạy lại trên những đường rộng. Chúng như ngọn đuốc, chúng chạy như chớp nhoáng.
\s5
\v 5 Kẻ đập ngươi tan tác gọi các sĩ quan của nó; chúng sẩy chân vào nhau khi hành quân; chúng mau chóng tấn công tường thành. Cái khiên lớn đã sẵn sàng để bảo vệ những kẻ tấn công này.
\s5
\v 6 Các cửa sông đều bị mở toang, cung điện sụp đổ điêu tàn.
\v 7 Nữ hoàng bị lột quần áo và bị bắt đi; các nữ tì của bà ấy rên rĩ như bồ câu, đấm ngực mình.
\s5
\v 8 Ni-ni-ve như hồ nước rỉ, dân nó chạy trốn như nước tuôn ồ ạt. Những người khác la lên, “Dừng lại, dừng lại, ” nhưng không ai ngoái xem.
\v 9 Hãy cướp bạc, cướp vàng, vì nó nhiều vô kể, những vật xinh đẹp của Ni-ni-ve nhiều vô ngần.
\v 10 Ni-ni-ve hoang vắng và điêu tàn. Lòng người tan chảy, đầu gối họ va vào nhau, ai nấy đều thống khổ; mặt mày tái nhợt.
\s5
\v 11 Chuồng sư tử đâu rồi, nơi mà sư tử con ăn thịt, sư tử đực và sư tử cái dạo bước với sư tử con, nơi mà chúng chẳng sợ hãi đâu rồi?
\v 12 Sư tử đực xé xác con mồi cho sư tử con; nó bóp cổ con mồi cho sư tử cái, và chất đầy thịt con mồi trong hang, hang nó đầy thịt con mồi bị vồ xé.
\s5
\v 13 ”Kìa, Ta nghịch lại ngươi” Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. “Ta sẽ đốt xe chiến mã của ngươi thành khói, và gươm dao sẽ tàn sát sư tử con của ngươi. Ta sẽ dứt của cướp của ngươi khỏi đất, và tiếng của những sứ giả ngươi sẽ không còn được nghe nữa.”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Khốn thay cho thành đầy huyết! Nó đầy sự dối trá và của cắp; nạn nhân luôn luôn ở trong thành đó.
\v 2 Nhưng bây giờ có tiếng roi và tiếng bánh xe rầm rầm, ngựa nhảy dựng lên, xe chiến mã rền vang.
\s5
\v 3 Có lính kỵ xông tới, gươm sáng lòe, giáo lấp lánh, những đống thi hài, những đống xác chết. Xác chết nhiều vô kể; những kẻ tấn công chúng vấp ngã trên chúng.
\v 4 Việc này xảy đến vì những hành động dâm dật của con điếm quyến rũ, chuyên làm tà thuật, nó bán các nước qua sự dâm đãng của nó, và các dân qua hành động tà thuật của nó.
\s5
\v 5 ”Kìa, Ta nghịch lại ngươi” Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. “Ta sẽ tốc váy ngươi lên phủ mặt và phô bày những phần kín của ngươi cho các dân, sự xấu hổ ngươi cho các vương quốc.
\v 6 Ta sẽ ném rác rưởi ghê tởm lên ngươi và khiến ngươi nên hèn hạ; Ta sẽ biến ngươi thành người mà ai nấy sẽ dòm ngó.
\v 7 Hễ ai thấy ngươi thì sẽ lánh xa ngươi và nói rằng, Ni-ni-ve bị tiêu diệt; ai sẽ than khóc cho nó? Ta có thể tìm ai ở đâu để an ủi ngươi?”
\s5
\v 8 Hỡi Ni-ni-ve, ngươi tốt hơn Thê-be sao, là nơi được xây trên Sông Nin, có nước bao quanh, đại dương bảo vệ, biển là tường?
\v 9 Ê-thi-ô-pi và Ai Cập là sức mạnh của nó, sức mạnh ấy không có giới hạn; Phút và Li-by là đồng minh của nó.
\s5
\v 10 Nhưng Thê-be bị bắt; nó bị bắt làm phu tù; con cái nó bị nghiền nát ở đầu đường; kẻ thù nó bốc thăm trên những tướng công nó, và tất cả những người quyền quý của nó bị xiềng xích.
\v 11 Ngươi cũng sẽ say; ngươi sẽ cố trốn, ngươi cũng sẽ tìm nơi ẩn náu khỏi kẻ thù mình.
\s5
\v 12 Tất cả các pháo đài của ngươi sẽ như cây vả đầy trái vả đầu mùa: nếu chúng bị rung, chúng rơi vô miệng người ăn.
\v 13 Kìa, những người ở giữa ngươi là phụ nữ; các cổng trong xứ ngươi bị mở toang cho quân thù ngươi; lửa thiêu đốt các then cửa.
\s5
\v 14 Hãy lấy nước cho ngày bao vây; củng cố các pháo đài ngươi; hãy nhào đất sét và trộn vữa; chọn khuôn cho gạch.
\v 15 Lửa sẽ thiêu đốt ngươi tại đó, và gươm dao sẽ hủy diệt ngươi. Nó sẽ ăn nuốt ngươi như châu chấu con, nhiều như châu chấu trưởng thành.
\s5
\v 16 Ngươi đã thêm các lái buôn nhiều hơn sao trên trời; nhưng chúng như châu chấu con: chúng cắn phá xứ và bay đi chỗ khác.
\v 17 Các hoàng thân ngươi nhiều như châu chấu trưởng thành, và các quan tướng ngươi như đàn châu chấu đậu trên tường khi trời lạnh. Nhưng khi mặt trời mọc, chúng bay đi chỗ khác và không ai biết chúng đi đâu.
\s5
\v 18 Hỡi vua A-sy-ri, những người chăn chiên của ngươi đang ngủ; những kẻ cai trị của ngươi đang nghỉ. Dân ngươi bị rải tan tác trên miền núi, không ai nhóm họp chúng.
\v 19 Vết thương ngươi không thể được chữa lành. Vết thương ngươi trầm trọng lắm. Hễ ai nghe tin về ngươi cũng sẽ vỗ tay hớn hở trên ngươi. Ai thoát khỏi sự gian ác triền miên của ngươi?

127
35-HAB.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,127 @@
\id HAB
\ide UTF-8
\h HA-BA-CÚC
\toc1 HA-BA-CÚC
\toc2 HA-BA-CÚC
\toc3 hab
\mt HA-BA-CÚC
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời công bố mà tiên tri Ha-ba-cúc đã nhận lãnh:
\v 2 “Lạy Đức Giê-hô-va, con sẽ kêu xin cứu giúp cho đến khi nào, và Ngài sẽ không nghe cho đến khi nào? Con đã kêu la với Ngài trong cơn kinh khiếp, Bạo lực! nhưng Ngài không cứu con!
\s5
\v 3 Sao Ngài khiến con nhìn thấy tội lỗi và xem điều phạm pháp? Sự hủy diệt và bạo lực ở trước mặt con; có sự xung đột, và sự tranh chấp dấy lên!
\v 4 Vậy, luật pháp trở nên yếu đi, và công lý không tồn tại dài lâu. Vì kẻ ác bao vây người công bình; như vậy công lý bị sai lệch. ” Đức Giê-hô-va trả lời Ha-ba-cúc,
\s5
\v 5 “Hãy xem các dân và dò xét chúng; hãy sững sờ và kinh ngạc! Vì Ta chắc chắn sẽ làm một việc trong thời của ngươi mà ngươi sẽ chẳng tin khi người ta thuật lại việc đó cho ngươi.
\v 6 Vì kìa! Ta sẽ dấy lên dân Canh-đê một dân hung tợn và bạo tàn chúng sẽ hành quân qua khắp xứ đặng bao vây nhà cửa chẳng phải của chúng.
\v 7 Chúng thật đáng sợ và kinh hãi; sự đoán xét và huy hoàng của chúng đều đến từ chúng!
\s5
\v 8 Ngựa của chúng cũng phi nhanh hơn loài báo, tinh ranh hơn muông sói ban đêm! Ngựa của chúng phi nước đại, và kỵ binh chúng đến từ đàng xa chúng bay như đại bàng sà xuống vồ mồi!
\v 9 Tất cả bọn chúng đến để hành hung, quân nó đi như gió sa mạc, chúng gom tù binh như cát!
\s5
\v 10 Chúng chế nhạo các vua, những người cai trị chỉ là trò cười của chúng! Chúng cười nhạo đồn lũy, chúng đắp mô đất và đánh chiếm!
\v 11 Gió sẽ ùa đến; gió sẽ lùa những kẻ có tội, những kẻ coi sức mạnh mình là thần! ” Ha-ba-cúc hỏi Đức Giê-hô-va một câu hỏi khác,
\s5
\v 12 “Chẳng phải Ngài đã có từ thời xưa sao, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, Đấng Thánh của con? Chúng con sẽ không chết. Đức Giê-hô-va đã quyết định đoán xét dân ấy, và Ngài, là Vầng đá, đã lập chúng lên để sửa phạt!
\s5
\v 13 Mắt Ngài quá tinh sạch đến nỗi không nhìn điều ác, và Ngài không thể nhìn thấy điều phạm pháp mà không làm gì cả; vậy tại sao Ngài nhìn xem những kẻ phản bội? Sao Ngài nín lặng khi kẻ ác nuốt người công bình hơn chúng?
\v 14 Ngài khiến loài người như cá, như loài bò sát không ai hướng dẫn.
\s5
\v 15 Chúng đem theo mồi câu; chúng kéo người ta trong lưới đánh cá và gom lại trong lưới mình. Đây là lý do chúng hớn hở và hồ hởi reo mừng!
\v 16 Vậy chúng dâng tế lễ cho lưới đánh cá mình và xông hương cho lưới của chúng, vì phần của chúng là thú vật mập béo và thịt nhiều mỡ là thức ăn của chúng!
\v 17 Vậy chúng sẽ giũ sạch lưới mình và tiếp tục giết các dân, không chút thương xót sao?”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Tôi sẽ đứng nơi trạm canh và đứng yên nơi tháp canh, và tôi sẽ cẩn thận xem Ngài sẽ phán gì với tôi và tôi nên thưa lại thế nào về lời than thở của tôi.
\s5
\v 2 Đức Giê-hô-va trả lời tôi và nói, “Hãy ghi lại sự hiện thấy này, và hãy ghi rõ ràng trên các bảng đá để ai nấy có thể đọc được khi đang chạy!
\v 3 Vì sự hiện thấy này hướng đến tương lai và cuối cùng sẽ xảy ra chứ không lừa dối đâu. Dù nó chậm xảy ra, nhưng hãy cứ chờ! Vì chắc chắn nó sẽ xảy đến và sẽ không trì hoãn!
\s5
\v 4 Kìa! Kẻ có lòng thèm muốn không ngay thẳng thì vênh váo. Nhưng người công bình sẽ sống bởi đức tin mình!
\v 5 Vì rượu là kẻ phản bội của kẻ ngạo mạn để rồi nó sẽ không tồn tại, nhưng lòng ham mê nó rộng như mồ mả, và như sự chết, nó không bao giờ thỏa mãn. Nó thâu tóm từng nước và quy tụ lại tất cả các dân.
\s5
\v 6 Chẳng phải những dân này sáng tác ra chuyện ngụ ngôn nghịch về nó và những câu cách ngôn chế giễu nó, rằng: “Khốn thay cho kẻ gom góp thứ chẳng thuộc về mình! Ngươi sẽ còn chất đầy vật cầm cố đến bao giờ?
\v 7 Kẻ nghiến răng trước mặt ngươi sẽ bỗng dưng không vùng dậy, và những kẻ khiến ngươi sợ hãi không thức giấc sao? Ngươi sẽ trở thành nạn nhân của chúng!
\v 8 Vì ngươi đã cướp bóc nhiều nước, tất cả những người còn sót lại của các dân sẽ cướp ngươi, vì cớ huyết người ta và bạo lực trong xứ, làng mạc, và cư dân của nó.
\s5
\v 9 Khốn cho kẻ kiếm lợi lộc gian ác cho nhà mình, để xây tổ mình trên cao và ẩn mình khỏi tay của kẻ ác!
\v 10 Ngươi đã làm ô uế nhà mình bằng việc giết nhiều dân, và phạm tội nghịch cùng ngươi.
\v 11 Đá trên vách tường sẽ lên tiếng tố cáo ngươi rườn trên mái sẽ trả lời:
\s5
\v 12 Khốn cho kẻ lấy huyết xây thành và lấy sự phạm pháp để thiết lập thị trấn!
\v 13 Chẳng phải bởi Đức Giê-hô-va vạn quân mà các dân dốc sức cực nhọc cho lửa và các nước nhọc nhằn cho sự hư vô sao?
\v 14 Nhưng khắp đất sẽ đầy dẫy sự hiểu biết về vinh quang của Đức Giê-hô-va như nước tràn khắp biển.
\s5
\v 15 Khốn cho kẻ xúi người lân cận mình uống, pha chất độc cho làm cho nó say đặng nhìn xem sự trần truồng của nó!
\v 16 Ngươi sẽ xấu hổ ê chề hơn là được vinh quang! Ngươi cũng hãy uống để phơi bày sự trần truồng của ngươi! Chén trên tay phải của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên ngươi, và sự hổ thẹn sẽ bao trùm danh dự ngươi.
\s5
\v 17 Bạo lực ở Li-băng sẽ bao trùm ngươi, và sự giết hại các loài thú sẽ khiến ngươi kinh hãi vì ngươi làm đổ huyết và gây ra trong xứ, trong thành, và cư dân trong đó.
\s5
\v 18 Tượng chạm có ích gì cho ngươi? Vì kẻ chạm nó, hoặc kẻ dùng kim loại nấu chảy đúc nên nó, đều là kẻ dạy lời dối trá; vì nó trông cậy vào việc tay nó làm khi đúc nên những thần câm điếc ấy.
\v 19 Khốn thay cho kẻ nói với khúc gỗ rằng, Xin ngài thức dậy! Hoặc nói với hòn đá câm rằng, Xin ngài trỗi dậy! Những thứ này thể dạy dỗ gì chăng? Kìa, nó được mạ vàng và bạc, trong nó chẳng có hơi thở.
\v 20 Nhưng Đức Giê-hô-va ngự trong đền thánh Ngài! Hãy im lặng trước mặt Ngài, hỡi mọi dân trên đất!”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Lời cầu nguyện của tiên tri Ha-ba-cúc:
\v 2 Lạy Đức Giê-hô-va, con đã nghe về danh tiếng của Ngài, và con sợ hãi! Lạy Đức Giê-hô-va, xin khơi lại công việc Ngài trong thời nay; xin Ngài tỏ ra cho biết trong thời nay; xin Ngài nhớ thương xót chúng con trong cơn thạnh nộ của Ngài!
\s5
\v 3 Đức Chúa Trời đến từ Tê-man, Đấng Thánh đến từ Núi Pha-ran! Sê-la. Vinh quang Ngài tràn ngập khắp các từng trời, đất đầy dẫy sự ngợi khen Ngài.
\s5
\v 4 Tia sáng từ tay Ngài tỏa như hào quang, Ngài giữ quyền năng Ngài trong đó.
\v 5 Bệnh dịch đi trước mặt Ngài, và tai họa theo sau chân Ngài.
\s5
\v 6 Ngài đứng yên và đo trái đất; Ngài nhìn và lay động các nước! Ngay cả những ngọn núi vĩnh cửu cũng tan tác, và những ngọn đồi đời đời đều quỳ xuống! Đường lối của Ngài là đời đời!
\s5
\v 7 Tôi thấy lều của người Cu-san gặp tai họa, và màn trại trong xứ Mi-đi-an lung lay.
\v 8 Có phải Đức Giê-hô-va nổi giận với sông ngòi? Có phải Ngài nổi cơn thạnh nộ với các con sông, hoặc Ngài phẫn nộ với biển khi Ngài cưỡi ngựa và xe chiến mã đặng giải cứu?
\s5
\v 9 Ngài lấy cung ra khỏi bao; Ngài tra tên vào cung! Sê-la. Ngài phân rẽ đất bằng sông ngòi.
\v 10 Núi non thấy Ngài thì oằn mình đau khổ! Mưa trút nước trên chúng; biển sâu vang tiếng! Biển gợn cao những con sóng!
\s5
\v 11 Mặt trời và mặt trăng đứng yên trên trời, chúng dừng lại khi thấy ánh sáng của mũi tên Ngài và chớp nhoáng lòe ra từ ngọn giáo Ngài!
\v 12 Ngài bước đều trên đất trong cơn phẫn nộ. Ngài giận dữ chà đạp các nước.
\s5
\v 13 Ngài đi ra đặng giải cứu dân Ngài, tức là giải cứu người được xức dầu của Ngài! Ngài đập vỡ đầu của phường gian ác đặng phơi trụi nó cho đến tận cổ! Sê-la.
\s5
\v 14 Ngài lấy cây tên của lính chiến đâm đầu nó vì chúng như cơn bão khiến chúng con tan tác, chúng hả hê khi cắn nuốt người nghèo trong nơi kín đáo.
\v 15 Ngài cưỡi ngựa đi khắp biển, và đạp trên đống nước lớn.
\s5
\v 16 Con nghe, và thân thể con run rẩy! Môi con run khi nghe tiếng! Xương cốt con mục nát, và con run rẩy khi con yên lặng chờ ngày tai họa giáng trên những kẻ xâm chiếm chúng con.
\s5
\v 17 Dù cây vả không trổ bông và cây nho không ra trái; dù cây ô-liu không sinh sản, và đồng ruộng không sanh ra đồ ăn; dù bầy chiên bị dứt khỏi ràn, và trong chuồng không có gia súc
\s5
\v 18 Nhưng con vẫn sẽ vui mừng nơi Đức Giê-hô-va! Con sẽ vui mừng vì Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của con!
\v 19 Chúa Giê-hô-va là sức mạnh của con. Ngài khiến chân con như chân hươu cái và dẫn con đến nơi cao! Gửi cho nhạc trưởng, dùng với đàn dây của tôi.

114
36-ZEP.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,114 @@
\id ZEP
\ide UTF-8
\h SÔ-PHÔ-NI
\toc1 SÔ-PHÔ-NI
\toc2 SÔ-PHÔ-NI
\toc3 zep
\mt SÔ-PHÔ-NI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Sô-phô-ni con Cu-si, cháu Ghê-đa-lia, chắt A-ma-ria, chít Ê-xê-chia, trong đời Giô-si-a con A-môn, vua Giu-đa.
\v 2 ”Ta sẽ hủy diệt hoàn toàn mọi vật khỏi mặt đất! Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 3 Ta sẽ tiêu diệt loài người và loài thú; Ta sẽ tiêu diệt chim trời và cá biển, những sự suy đồi của kẻ ác! Ta sẽ diệt loài người khỏi mặt đất! Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 4 ”Ta sẽ giang tay ra trên Giu-đa và mọi dân cư Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ trừ diệt tàn dư của Ba-anh khỏi nơi này và tên của những kẻ thờ lạy thần tượng giữa các thầy tế lễ,
\v 5 là những kẻ đứng trên nóc nhà thờ lạy các cơ binh trên trời, và những kẻ thờ lạy và thề với Đức Giê-hô-va nhưng cũng thề với Minh-côm.
\v 6 cũng sẽ diệt những kẻ đã từ bỏ bước theo Đức Giê-hô-va, những kẻ không tìm kiếm Đức Giê-hô-va và không tìm cầu sự hướng dẫn của Ngài.”
\s5
\v 7 Hãy im lặng trước sự hiện diện của Chúa Giê-hô-va, vì ngày của Đức Giê-hô-va đang đến gần; vì Đức Giê-hô-va đã chuẩn bị sẵn của tế lễ và biệt riêng các khách của Ngài.
\v 8 ”Trong ngày dâng tế lễ của Đức Giê-hô-va, Ta sẽ phạt các hoàng thân và vương tử, và những kẻ mặc quần áo ngoại bang.
\v 9 Trong ngày đó, Ta sẽ phạt những kẻ nhảy qua ngạch cửa, những kẻ chất đầy nhà mình bằng sự bạo lực và gian dối!
\s5
\v 10 Trong ngày đó” Đức Giê-hô-va phán vậy “sẽ có tiếng kêu la khốn khổ từ Cổng Cá, tiếng khóc than từ Quận Nhì, và một tiếng đổ ầm từ miền đồi núi.
\v 11 Hãy than khóc, hỡi cư dân Quận Chợ, vì các lái buôn sẽ phá sản; những kẻ chở bạc sẽ bị diệt mất.
\s5
\v 12 đó, Ta sẽ dùng đèn tìm trong Giê-ru-sa-lem những kẻ lắng xuống trong rượu và nói trong lòng rằng, Đức Giê-hô-va sẽ không ban phước hoặc giáng họa!
\v 13 Của cải chúng sẽ thành của cướp, và nhà cửa chúng sẽ thành nơi hoang phế! Chúng sẽ xây nhà nhưng không ở, và trồng vườn nho mà không được uống rượu!
\s5
\v 14 Ngày lớn của Đức Giê-hô-va đã đến gần, gần và đến nhanh chóng! Tiếng động trong ngày của Đức Giê-hô-va sẽ là tiếng của người chiến sĩ khóc lóc cay đắng!
\v 15 Ngày ấy sẽ là ngày thạnh nộ, ngày đau buồn và thống khổ, ngày của bão tố và tàn phá, ngày tối tăm và ảm đạm, ngày đầy mây và đen tối!
\v 16 Đó sẽ là ngày của tiếng kèn và kẻng báo động xông trận vào các thành trì kiên cố và lỗ châu mai trên cao!
\s5
\v 17 Vì Ta sẽ giáng sự đau khổ trên loài người, để chúng bước đi như người mù vì chúng đã phạm tội nghịch lại Đức Giê-hô-va! Huyết của chúng sẽ tuôn trào như bụi, và nội tạng của chúng như phân!
\v 18 Bạc hay vàng cũng sẽ không thể cứu chúng khỏi ngày thịnh nộ của Đức Giê-hô-va! Lửa thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ thiêu đốt cả xứ, vì sự tiêu diệt mà Ngài sẽ giáng trên hết thảy dân cư trong xứ là kinh khủng lắm!”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Hãy tập hợp lại và nhóm lại, hỡi dân chẳng xấu hổ -
\v 2 trước khi lệnh dẫn đến kết quả, trước khi ngày trôi qua như trấu, trước khi cơn giận thạnh nộ bừng bừng của Đức Giê-hô-va giáng trên các ngươi! Trước khi ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va giáng trên các ngươi!
\v 3 Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, hỡi các ngươi là dân khiêm nhường trên đất vâng phục mạng lệnh của Ngài! Hãy tìm kiếm sự công bình! Hãy tìm kiếm sự khiêm nhường, thì có thể các ngươi sẽ được bảo vệ trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va!
\s5
\v 4 Vì Ga-xa sẽ bị ruồng bỏ, và Ách-kê-lôn sẽ trở thành nơi bị tàn phá! Chúng sẽ đuổi Ách-đốt vào buổi trưa, và chúng sẽ nhổ Éc-rôn!
\v 5 Khốn cho dân cư vùng duyên hải, là dân Kê-rê-thi! Đức Giê-hô-va đã phán nghịch lại ngươi, hỡi Ca-na-an, xứ Phi-li-tin! Ta sẽ tiêu diệt các ngươi cho đến khi không còn dân cư nào sót lại!
\s5
\v 6 Vậy, vùng duyên hải sẽ trở thành đồng cỏ cho người chăn chiên và ràn chiên.
\v 7 Vùng ven biển sẽ thuộc về những người còn sót lại của nhà Giu-đa, là những người sẽ chăn bầy mình tại đó. Người của họ sẽ nằm xuống vào ban đêm trong nhà của Ách-kê-lôn, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ sẽ chăm sóc họ và phục hồi vận mệnh họ.
\s5
\v 8 ”Ta có nghe lời chế nhạo của Mô-áp và lời chửi rủa của dân Am-môn khi chúng chế nhạo dân Ta và xâm phạm biên giới của họ.
\v 9 Vậy, như Ta hằng sống” Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy, “Mô-áp sẽ như Sô-đôm, và dân Am-môn sẽ như Gô-mô-rơ; một nơi lắm cỏ dại và đầy hầm muối, một nơi hoang vu đời đời! Nhưng những người còn sót lại trong dân Ta sẽ cướp chúng, và những người còn sót lại của dân Ta sẽ thừa hưởng chúng!”
\s5
\v 10 Việc này sẽ xảy đến trên Mô-áp và Am-môn vì lòng kiêu ngạo của chúng, vì chúng chế nhạo và coi thường dân của Đức Giê-hô-va vạn quân!
\v 11 Sau đó chúng sẽ sợ Đức Giê-hô-va, vì Ngài sẽ chế giễu tất cả các thần trên đất. Ai nấy sẽ thờ phượng Ngài, tất cả mọi người từ nơi của mình, từ khắp bờ biển!
\s5
\v 12 Dân Cút cũng sẽ bị đâm bởi gươm của Ta,
\v 13 và tay của Đức Chúa Trời sẽ đánh phương bắc và tiêu diệt A-sy-ri, Ni-ni-ve sẽ thành nơi hoang vu, khô cằn như sa mạc.
\v 14 Bầy súc vật sẽ nằm nghỉ giữa A-sy-ri, mọi loài thú của các nước, chim và cú sẽ làm tổ trên đầu trụ. Sẽ có tiếng hót líu lo trên cửa sổ và quạ sẽ kêu trên ngưỡng cửa, vì Ngài đã dỡ bỏ những cây xà bằng gỗ tuyết tùng.
\s5
\v 15 Đây là thành hoan hỉ đã sống mà không sợ hãi, tự nhủ trong lòng rằng, “Ta đây, không nơi nào ngang sức với ta! ” Nó đã trờ thành một nỗi kinh khiếp, là nơi cho loài thú nằm nghỉ! Ai nấy đi ngang qua nó đều sẽ huýt sáo chê cười và lắc tay thất vọng!
\s5
\c 3
\p
\v 1 Khốn cho thành phản nghịch! Thành hung tợn bị ô uế!
\v 2 Nó không nghe tiếng của Đức Chúa Trời, không chấp nhận sự sửa phạt của Đức Giê-hô-va! Nó không trông cậy Đức Giê-hô-va và sẽ không đến gần Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 3 Các hoàng thân của nó là sư tử gầm thét ở giữa nó! Các quan xét của nó là muông sói ban đêm không chừa gì lại để gặm vào buổi sáng!
\v 4 Các tiên tri nó là những kẻ xấc láo và phản nghịch! Các thầy tế lễ của nó xúc phạm nơi thánh và vi phạm luật pháp!
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va là công bình ở giữa nó! Ngài không thể làm sai! Mỗi buổi sáng Ngài sẽ tỏ ra công lý của Ngài! Nó sẽ không bị che khuất khỏi ánh sáng, nhưng tội phạm không biết xấu hổ!
\s5
\v 6 ”Ta đã diệt các dân; các pháo đài của chúng bị đổ nát. Ta đã làm đường phố của chúng ra hoang tàn, đến nỗi không ai đi qua. Các thành phố của chúng bị hủy diệt đến nỗi không còn ai ở đó.
\v 7 Ta nói, Chắc chắn các ngươi sẽ sợ Ta! Hãy chấp nhận sự sửa phạt và đừng để bị dứt khỏi nhà của ngươi mà Ta đã định sẽ làm đối với ngươi! Nhưng chúng háo hức bắt đầu mỗi buổi sáng bằng việc làm hư hại những việc làm mình.
\s5
\v 8 Vậy, hãy đợi Ta” Đức Giê-hô-va phán vậy “cho đến ngày Ta đứng lên đặng cướp bóc! Vì Ta đã quyết định nhóm lại các nước, tập hợp các vương quốc, và giáng trên chúng cơn giận của Ta, là cơn thạnh nộ dữ dội, đến nỗi khắp đất đều sẽ bị lửa giận dữ của Ta thiêu đốt.
\s5
\v 9 Nhưng sau đó Ta sẽ ban môi tinh sạch cho dân chúng, để tất cả chúng sẽ nhân danh Ta mà kêu cầu đặng vai kề vai phục vụ Ta.
\v 10 Từ bên kia sông Ê-thi-ô-pi, những người thờ phượng Ta dân bị tản lạc của Ta sẽ dâng của lễ cho Ta.
\v 11 Trong ngày đó, ngươi sẽ không bị xấu hổ về hết thảy những việc ngươi đã phạm nghịch lại Ta, vì khi đó, Ta sẽ loại khỏi ngươi những kẻ kiêu ngạo, và bởi vì ngươi sẽ không còn hành động ngạo mạn trên núi thánh của Ta nữa.
\s5
\v 12 Nhưng Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân thấp hèn và nghèo khổ, và ngươi sẽ ẩn náu trong danh Đức Giê-hô-va.
\v 13 Những kẻ còn sót lại của Y-sơ-ra-ên sẽ không còn làm điều gian ác hoặc nói dối, và lưỡi dối gạt sẽ không còn ở trong miệng chúng; vậy chúng sẽ đi qua và nằm nghỉ, sẽ không ai khiến chúng sợ hãi.”
\s5
\v 14 Hãy hát, hỡi con gái Si-ôn! Hãy phấn khởi, hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy hết lòng vui mừng và hớn hở, hỡi con gái Giê-ru-sa-lem!
\v 15 Đức Giê-hô-va đã bỏ sự hình phạt ngươi; Ngài đã đuổi kẻ thù ngươi! Đức Giê-hô-va là vua Y-sơ-ra-ên giữa ngươi. Ngươi sẽ không bao giờ sợ tai họa!
\v 16 Trong ngày đó, chúng sẽ bảo Giê-ru-sa-lem, “Đừng sợ, hỡi Si-ôn. Đừng bủn rủn tay chân.
\s5
\v 17 Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ở giữa ngươi, Đấng quyền năng sẽ giải cứu ngươi. Ngài sẽ vui mừng vì ngươi và với niềm vui Ngài sẽ khiến ngươi yên tịnh trong tình yêu của Ngài. Ngài sẽ vui mừng trên ngươi và Ngài sẽ cất tiếng vui mừng.
\v 18 Những kẻ đau buồn vì lễ hội đã định Ta đã nhóm chúng từ ngươi, chúng trở thành gánh nặng và là cớ xấu hổ giữa ngươi.
\s5
\v 19 Kìa, khi đó Ta sẽ xử lý những kẻ ngược đãi ngươi. Ta sẽ cứu người què và nhóm lại những người bơ vơ. Ta sẽ loại bỏ sự xấu hổ của chúng và ban cho chúng sự khen ngợi và vinh dự khắp đất.
\v 20 Khi đó Ta sẽ dẫn dắt ngươi và khi đó Ta sẽ nhóm ngươi lại. Ta sẽ khiến tất cả các dân trên đất tôn trọng và khen ngợi ngươi, khi ngươi thấy là Ta đã phục hồi ngươi, ” Đức Giê-hô-va phán.

81
37-HAG.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,81 @@
\id HAG
\ide UTF-8
\h A-GHÊ
\toc1 A-GHÊ
\toc2 A-GHÊ
\toc3 hag
\mt A-GHÊ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Năm thứ hai đời vua Đa-ri-út, vào ngày một của tháng thứ sáu, lời của Giê-hô-va bởi nhà tiên tri A-ghê đến với Xô-rô-ba-bên, quan tổng đốc vùng Giu-đa, con trai Sa-la-thi-ên, và với thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, rằng:
\v 2 “Giê-hô-va của các đạo binh phán: Dân này nói: “Bây giờ chưa phải lúc chúng ta đến hoặc xây dựng nhà của Giê-hô-va. ”’”
\s5
\v 3 Vậy nên có lời của Giê-hô-va phán qua nhà tiên tri A-ghê, rằng:
\v 4 “Phải chăng đây là lúc các ngươi được sống trong những ngôi nhà đàng hoàng, còn nhà này thì hoang tàn, đổ nát?
\v 5 Cho nên bây giờ Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Hãy xem xét đường lối mình!
\v 6 Các ngươi đã gieo nhiều nhưng thu hoạch ít; các ngươi ăn mà không đủ; các ngươi uống mà chẳng say. Các ngươi mặc mà chẳng được ấm, còn người làm thuê thì lại đựng tiền trong túi lủng!
\s5
\v 7 Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Hãy xem xét các đường lối mình!
\v 8 Hãy lên núi đem gỗ về xây nhà Ta; rồi Ta sẽ vui thích về nó, và Ta sẽ được tôn vinh! Giê-hô-va phán vậy.
\v 9 'Các ngươi mong được nhiều nhưng, kìa! các ngươi đem về thật ít, vì Ta đã thổi đi hết! Vì sao? - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh! Vì nhà Ta thì hoang tàn, trong khi mọi người chỉ vui thích về nhà riêng của mình.
\s5
\v 10 Vì vậy, trời giữ lại sương móc, đất giữ lại sản vật nó.
\v 11 Ta đã gọi một cơn hạn hán đến trên đất và trên các núi, trên ngũ cốc và trên rượu mới, trên dầu và trên hoa mầu của đất, trên người ta và trên thú vật, trên mọi công khó của tay các ngươi! ’”
\s5
\v 12 Vậy là Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với toàn thể số dân còn sót lại vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và lời của nhà tiên tri A-ghê, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời họ đã sai phái ông, và dân chúng thì sợ phải đối mặt với Giê-hô-va.
\v 13 Rồi A-ghê, sứ giả của Giê-hô-va, nói ra sứ điệp của Giê-hô-va cho dân chúng, rằng: “Ta ở cùng các ngươi! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va!”
\s5
\v 14 Như vậy, Giê-hô-va khuấy động tâm thần của quan tổng đốc vùng Giu-đa là Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, tâm thần của thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, và tâm thần của hết thảy số dân sót, để họ đến xây dựng nhà của Giê-hô-va của các đạo binh, Đức Chúa Trời mình
\v 15 vào ngày hai mươi bốn của tháng thứ sáu, năm thứ hai đời vua Đa-ri-út.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Trong tháng bảy, vào ngày hai mươi mốt của tháng, có lời của Giê-hô-va phán qua nhà tiên tri A-ghê, rằng:
\v 2 “Hãy nói với quan tổng đốc vùng Giu-đa là Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, và thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với số dân còn sót lại, rằng
\s5
\v 3 Ai còn sót lại giữa vòng các ngươi đã từng thấy sự vinh quang trước đây của nhà này? Bây giờ các ngươi thấy nó thế nào? Trong mắt các ngươi, chẳng phải nó như chẳng ra gì hay sao?
\v 4 Này, Xô-rô-ba-bên, hãy mạnh mẽ lên! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác, hãy mạnh mẽ lên; rồi toàn thể các ngươi là dân trong xứ, cũng hãy mạnh mẽ lên! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va- và làm việc đi, vì Ta ở với các ngươi! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.
\v 5 Bởi các lời hứa trong giao ước mà Ta đã lập với các ngươi khi các ngươi ra khỏi Ai Cập và Thần Linh Ta ngự giữa các ngươi, các ngươi đừng sợ!
\s5
\v 6 Vì Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ lại làm rung chuyển trời và đất, biển và đất khô!
\v 7 Ta sẽ khiến mọi nước rúng động và mọi nước sẽ mang các báu vật đến cho Ta, rồi Ta sẽ khiến vinh quang tràn ngập nhà này! Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\s5
\v 8 Bạc và vàng là của Ta! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.
\v 9 'Vinh quang của nhà này trong tương lai sẽ rực rỡ hơn lúc ban đầu, Giê-hô-va của các đạo binh phán, và Ta sẽ ban bình an tại nơi đây! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.”
\s5
\v 10 ”Vào ngày hai mươi bốn của tháng thứ chín, năm thứ hai đời Đa-ri-út, có lời của Giê-hô-va phán qua nhà tiên tri A-ghê, rằng:
\v 11 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Hãy hỏi các thầy tế lễ về luật pháp, rằng:
\v 12 Nếu có người mang thịt đã dâng cho Giê-hô-va trong vạt áo mình, và nếu người đó chạm vạt áo vào bánh, thịt hầm, rượu, dầu, hoặc bất kỳ thức ăn nào khác, thì thức đó có nên thánh không? ’” Các thầy tế lễ đáp: “Không.”
\s5
\v 13 ” Rồi A-ghê hỏi: “Nếu ai đó đã ô uế vì thây người chết chạm vào món nào trong các thức đó thì món ấy có bị ô uế chăng? ” Các thầy tế lễ đáp: “Có, món đó bị ô uế. ”
\v 14 Vậy là A-ghê đáp: “Dân tộc này và đất nước này cũng như vậy trước mặt Ta! Và mọi việc tay chúng nó thực hiện cũng vậy: những gì chúng dâng lên cho Ta đều ô uế- đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Vậy, giờ đây, hãy xét rằng từ hôm nay trở đi, trước khi có bất kỳ viên đá nào được đặt lên một viên đá khác trong đền thờ của Giê-hô-va,
\v 16 là khi người ta đến kho lúa mong được hai mươi lường thì chỉ được có mười, khi người ta đến hầm rượu để rút năm mươi lường thì chỉ được hai mươi.
\v 17 Ta đã khiến các ngươi cùng mọi việc của tay các ngươi phải chịu tai họa, nấm mốc, nhưng các ngươi vẫn không quay trở về với Ta- đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\s5
\v 18 Hãy xét là từ hôm nay, tức ngày hai mươi bốn tháng chín, từ ngày đặt nền móng đền thờ của Giê-hô-va. Hãy xét xem!
\v 19 Hạt giống có còn trong kho chăng? Cây nho, cây vả, cây lựu và cây ô liu vẫn chưa sinh trái! Nhưng từ hôm nay Ta sẽ ban phước cho các ngươi! ’”
\s5
\v 20 Sau đó lời của Giê-hô-va lại đến với A-ghê lần thứ hai vào ngày hai mươi bốn tháng đó, rằng:
\v 21 “Hãy nói với quan tổng đốc vùng Giu-đa là Xô-rô-ba-bên, rằng: Ta sẽ khiến trời và đất rung chuyển,
\v 22 vì Ta sẽ lật đổ ngai của các vương quốc và hủy diệt sức mạnh nước của các dân! Ta sẽ lật độ xe ngựa chiến và kẻ cưỡi ngựa; cả ngựa cùng người cưỡi ngựa, mỗi người đều sẽ té ngã bởi gươm của anh em mình.
\s5
\v 23 Vào ngày ấy- đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh - Ta sẽ chọn ngươi, là Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-la-thi-ên, làm tôi tớ Ta- đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Ta sẽ đặt ngươi như ấn tín trên nhẫn Ta, vì ngươi chính là kẻ Ta đã lựa chọn! - đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh!”

434
38-ZEC.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,434 @@
\id ZEC
\ide UTF-8
\h XA-CHA-RI
\toc1 XA-CHA-RI
\toc2 XA-CHA-RI
\toc3 zec
\mt XA-CHA-RI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Vào tháng thứ tám năm thứ hai triều Đa-ri-út, có lời của Giê-hô-va phán với tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, rằng:
\v 2 “Giê-hô-va rất giận tổ phụ các ngươi!
\v 3 Hãy bảo chúng: Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Hãy quay về với Ta! ” đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh “rồi Ta sẽ trở lại với các ngươi! ” Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\s5
\v 4 Đừng như tổ phụ các ngươi, là kẻ mà các nhà tiên tri trước đây đã rao báo rằng: “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: hãy xây bỏ các đường lối xấu xa và thói tục gian ác của các ngươi đi! ” Nhưng họ không chịu nghe và chẳng lưu ý đến Ta. ’” Đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va:
\v 5 “Họ đâu rồi, tổ phụ các ngươi ấy? Còn các nhà tiên tri nữa, họ có sống mãi ở đây chăng?
\v 6 Nhưng phải chăng lời Ta và các sắc chỉ mà Ta đã truyền cho tôi tớ Ta, tức các nhà tiên tri, không theo kịp tổ phụ các ngươi? Nên họ đã ăn năn và nói: Mọi điều Giê-hô-va của các đạo binh định làm cho chúng ta vì các đường lối và việc làm của chúng ta thì Ngài đã làm cho chúng ta cả. ’”
\s5
\v 7 Vào ngày hai mươi bốn tháng thứ mười một, tức là tháng Sê-bát, năm thứ hai triều Đa-ri-út, có lời của Giê-hô-va đến với tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu của Y-đô, thế này:
\v 8 “Trong ban đêm tôi nhìn và, kìa, có một người cưỡi ngựa đỏ, người này ở giữa các các sim dưới thung lũng, có những con ngựa màu đỏ, màu hung và màu trắng ở phía sau. ”
\v 9 Tôi hỏi: “Thưa Chúa, những con ngựa này là gì vậy? ” Vị thiên sứ trò chuyện với tôi bảo tôi: “Ta sẽ tỏ cho anh biết các ngựa là gì.”
\s5
\v 10 Rồi người đứng giữa các cây sim đáp lại, rằng: “Đây là những người Giê-hô-va sai phái đi rảo khắp đất. ”
\v 11 Những kẻ đứng giữa các cây sim trả lời vị thiên sứ của Giê-hô-va; họ nói với thiên sứ: “Chúng tôi đã đi rảo khắp đất; kìa, toàn cõi đất đều ở yên và thư thái.”
\s5
\v 12 Rồi thiên sứ của Giê-hô-va đáp lại, rằng: “Lạy Giê-hô-va của các đạo binh, còn bao lâu nữa Ngài mới tỏ lòng thương xót Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa vốn phải chịu cơn thịnh nộ của Ngài bảy mươi năm nay? ”
\v 13 Giê-hô-va dùng lời lẽ nhân từ, là lời vỗ về, đáp lại vị thiên sứ đã trò chuyện với tôi.
\s5
\v 14 Vậy là vị thiên sứ đã nói chuyện với tôi bảo tôi: “Hãy la lớn rằng: Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Ta đã vì Giê-ru-sa-lem và vì Si-ôn động lòng ghen tức!
\v 15 Ta rất giận các dân đang được thư thái; vì Ta chỉ hơi không bằng lòng, nhưng chúng lại hùa vào gây họa.”
\s5
\v 16 Vậy nên Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Ta đã lấy lòng khoan dung mà quay lại với Giê-ru-sa-lem. Nhà Ta sẽ được xây cất giữa nó” đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh “và dây đo sẽ được giăng ra trên Giê-ru-sa-lem! ”
\v 17 Lại hãy la lớn, rằng: Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Các thành của Ta sẽ lại tràn đầy phước lành, Giê-hô-va sẽ lại yên ủi Si-ôn, và Ngài sẽ lại chọn Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\v 18 Kế đó, tôi ngước mắt lên và thấy bốn cái sừng!
\v 19 Tôi hỏi vị thiên sứ đã trò chuyện với mình: “Các sừng này là gì vậy? ” Người đáp lại tôi: “Đây là những sừng đã khiến Giu-đa, Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem phải tan tác.”
\s5
\v 20 Rồi Giê-hô-va chỉ cho tôi thấy bốn thợ rèn.
\v 21 Tôi hỏi: “Mấy người này đến để làm gì vậy? ” Ngài đáp rằng: “Kia là các sừng đã làm tan tác Giu-đa, khiến chẳng ai ngẩng đầu lên được. Nhưng những người này đến để xua đuổi chúng, đánh hạ sừng của các dân đã giương sừng lên nghịch lại xứ Giu-đa khiến nó phải tan tác.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Tiếp đó, tôi ngước mắt lên và thấy có một người tay cầm dây đo.
\v 2 Tôi hỏi: “Ông đi đâu đó? ” Người ấy đáp lại tôi: “Đi đo Giê-ru-sa-lem, để xác định chiều rộng và chiều dài của thành.”
\s5
\v 3 Rồi vị thiên sứ đã nói chuyện với tôi bỏ đi và có một thiên sứ khác đi ra nói chuyện với người.
\v 4 Vì thiên sứ thứ hai nói với người: “Hãy chạy đi nói với anh thanh niên ấy rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ tọa lạc ở vùng đất trống trải vì sẽ có rất nhiều người và thú vật ở đó.
\v 5 Vì Ta đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va Ta đối với nó sẽ như vách tường lửa bao quanh, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó.
\s5
\v 6 Nào! Hãy chạy trốn khỏi đất phương bắc đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va vì Ta đã rải các ngươi ra như gió bốn thứ gió trên trời! đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va
\v 7 Nào! Hỡi các ngươi là kẻ sống với con gái Ba-by-lôn, hãy thoát về Si-ôn! ’”
\s5
\v 8 Vì sau khi Giê-hô-va của các đạo binh tôn vinh ta và sai phái ta địch lại các dân đã cướp bóc các ngươi vì ai đụng đến các ngươi tức đụng đến con ngươi của mắt Đức Chúa Trời! sau khi Giê-hô-va làm vậy, Ngài phán:
\v 9 “Chính Ta sẽ phất tay trên chúng nó, thì chúng nó sẽ trở thành mồi cho các nô lệ mình cướp bóc. ” Rồi các ngươi sẽ biết rằng Giê-hô-va của các đạo binh đã sai phái ta!
\s5
\v 10 “Hỡi con gái Si-ôn, hãy hát mừng vì chính Ta sẽ đến đóng trại giữa vòng các ngươi! đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. ”
\v 11 Trong ngày đó, các nước lớn sẽ liên kết với Giê-hô-va. Ngài phán: “Rồi các ngươi sẽ trở thành dân Ta; vì Ta sẽ đóng trại giữa các ngươi. ” Và các ngươi sẽ biết Giê-hô-va của các đạo binh đã sai ta đến với các ngươi.
\s5
\v 12 Vì Giê-hô-va sẽ được Giu-đa làm cơ nghiệp chính đáng của Ngài tại xứ thánh và sẽ lại một lần nữa chọn Giê-ru-sa-lem cho chính Ngài.
\v 13 Hỡi mọi xác phàm, hãy yên lặng trước mặt Giê-hô-va, vì Ngài đã thức dậy từ nơi thánh Ngài!
\s5
\c 3
\p
\v 1 Rồi Giê-hô-va chỉ cho tôi thấy thầy thượng tế Giê-hô-sua đứng trước thiên sứ của Giê-hô-va, còn Sa-tan thì đứng bên tay phải ông cáo tội ông.
\v 2 Thiên sứ của Giê-hô-va nói với Sa-tan: “Hỡi Sa-tan, nguyện Giê-hô-va quở trách ngươi; nguyện Giê-hô-va, Đấng đã chọn Giê-ru-sa-lem, quở trách ngươi. Đây chẳng phải là khúc củi được kéo ra khỏi lửa sao? ”
\v 3 Giê-hô-sua mặc quần áo bẩn thỉu khi ông đứng trước vị thiên sứ.
\s5
\v 4 cho nên thiên sứ phán bảo những kẻ đứng trước mặt mình: “Hãy lột bỏ bộ đồ bẩn thỉu khỏi người ông ta. ” Rồi thiên sứ nói với Giê-hô-sua: “Xem đó, ta đã khiến tội lỗi ngươi qua khỏi ngươi, và ta sẽ mặc áo quần đẹp đẽ cho ngươi. ”
\v 5 Thiên sứ nói: “Hãy bảo họ đội khăn sạch lên đầu ông ta! ” Vậy là họ đội khăn sạch lên đầu Giê-hô-sua và mặc cho ông áo quần sạch sẽ trong lúc thiên sứ của Giê-hô-va đang đứng cạnh.
\s5
\v 6 Kế đó, thiên sứ của Giê-hô-va long trọng truyền bảo Giê-hô-sua, rằng:
\v 7 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Nếu ngươi bước đi trong các đường lối Ta, và nếu ngươi tuân giữa các điều răn Ta, thì ngươi sẽ cai quản nhà Ta và canh giữ các sân đền thờ của Ta, vì Ta sẽ cho ngươi đi lại giữa vòng những kẻ đứng chầu Ta ở đây.
\s5
\v 8 Này, thầy thượng tế Giê-hô-sua, hãy nghe đây, cả ngươi và những đồng bạn sống cùng với ngươi! Vì những người này là dấu hiệu, vì chính Ta sẽ khiến tôi tớ mình là Cành Nhánh xuất hiện.
\v 9 Nào, hãy nhìn hòn đá mà Ta đã đặt trước mặt Giê-hô-sua. Có bảy mặt chỉ trên hòn đá này, và Ta sẽ chạm khắc chữ lên đó’ đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va rồi Ta sẽ cất tội lỗi khỏi đất này nội trong một ngày.
\s5
\v 10 Trong ngày đó’ đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va mỗi người sẽ mời mọc người láng giềng mình thư giãn dưới cây nho và dưới cây vả của mình. ’”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Rồi vị thiên sứ đang nói chuyện với tôi quay sang đánh thức tôi như đánh thức kẻ đang ngủ.
\v 2 Người hỏi tôi: “Anh thấy gì? ” Tôi đáp: “Tôi thấy một chân đèn làm toàn bằng vàng, với một cái tô trên chót. Nó có bảy cây đèn cùng bảy tim đèn ở đầu mỗi cây.
\v 3 Có hai cây ô liu ở cạnh, một cây bên phải cái tô, một cây ở bên trái.”
\s5
\v 4 Vậy, tôi lại nói với vị thiên sứ đang trò chuyện với mình. Tôi hỏi: “Mấy thứ này nghĩa là thế nào, thưa chúa? ”
\v 5 Vị thiên sứ đang trò chuyện với tôi đáp lại tôi, rằng: “Anh không biết các thứ ấy nghĩa là gì sao? ” Tôi đáp: “Không, thưa chúa.”
\s5
\v 6 Vậy là người nói với tôi: “Đây là lời Giê-hô-va phán cho Xô-rô-ba-bên: Chẳng phải bởi sức mạnh, cũng chẳng phải bởi năng lực, mà là bởi Thần Linh của Ta, Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\v 7 Này, núi lớn, ngươi là gì? Trước mặt Xô-rô-ba-bên ngươi sẽ trở nên đồng bằng, và người sẽ đem viên đá đỉnh ra giữa tiếng reo hò: “Xin ban ơn! Xin ban ơn! ”’”
\s5
\v 8 Có lời của Giê-hô-va phán với tôi:
\v 9 “Tay của Xô-rô-ba-bên đã đặt nền móng cho nhà này và tay người cũng sẽ hoàn tất nó. Rồi các ngươi sẽ biết rằng Giê-hô-va của các đạo binh đã sai phái ta đến với các ngươi.
\v 10 Kẻ nào khinh dễ ngày của các việc nhỏ nhặt? Những người này sẽ vui mừng và sẽ được chứng kiến dây dọi trong tay Xô-rô-ba-bên. (Bảy cây đèn này là con mắt của Giê-hô-va soi xét khắp đất.) ”
\v 11 Rồi tôi hỏi vị thiên sứ: “Còn hai cây ô liu ở bên trái và bên phải chân đèn là gì vậy?”
\s5
\v 12 Tôi lại hỏi người nữa rằng: “Hai nhánh ô liu bên cạnh hai ống vòi bằng vàng có dầu vàng chảy ra nghĩa là thế nào?
\v 13 “Anh vẫn không biết các thứ đó là gì sao? ” Tôi đáp: “Thưa chúa, không.”
\s5
\v 14 Vậy là người bảo: “Đó là hai cây ô liu đứng chầu Chúa của toàn cõi đất.”
\s5
\c 5
\p
\v 1 Kế đó, tôi ngoảnh lại và ngước mắt nhìn thì thấy, kìa, có một cuốn sách bay!
\v 2 Thiên sứ hỏi tôi: “Anh thấy gì? ” Tôi đáp: “Tôi thấy một cuốn sách bay, dài hai mươi cu-đê, rộng mười cu-đê.”
\s5
\v 3 Vậy là người bảo tôi: “Đó là lời nguyền rủa lan ra khắp mặt đất, vì mọi kẻ trộm cắp từ nay trở đi sẽ bị loại trừ, dựa vào những gì được nói trên mặt này của sách, trong khi mọi kẻ thề dối theo như lời chúng nói sẽ bị loại trừ dựa vào điều được nói trên trên mặt kia.
\v 4 Ta sẽ phái nó đi đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh, ‘để nó sẽ vào nhà của kẻ trộm cắp cũng như vào nhà của kẻ lấy danh Ta mà thề dối. Nó sẽ ở lại trong nhà chúng thiêu hủy cả gỗ lẫn đá trong đó. ’”
\s5
\v 5 Vị thiên sứ phán với tôi đi ra bảo tôi: “Hãy nhướng mắt lên xem có gì đang đến kia! ”
\v 6 Tôi hỏi: “Cái gì vậy? ” Người bảo: “Có cái thúng chứa được một ê-pha đang đến. Đó là tội lỗi của người ta trên khắp đất. ”
\v 7 Một nắp chì được nhấc lên, và có một người phụ nữ ở bên dưới ngồi trong thúng!
\s5
\v 8 Thiên sứ bảo: “Sự Gian Ác đó! ” Rồi người quăng mụ ta vào lại trong thúng, và ập nắp chì lên miệng thúng.
\v 9 Tôi ngước mắt lên và thấy có hai phụ nữ đi về phía mình, cánh bọc gió vì chúng có cánh như cánh con cò. Chúng nhấc cái thúng lên giữa trời và đất.
\s5
\v 10 Vậy là tôi hỏi vị thiên sứ nói chuyện với mình: “Họ đem cái thúng đi đâu thế kia? ”
\v 11 Người đáp lại tôi: “Đem đi xây cho nó một ngôi đền ở đất Si-na, để khi ngôi đền xây xong thì cái thúng sẽ được đặt tại đó trên cái bệ được dành cho nó.”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Kế đó, tôi ngoảnh lại và ngước mắt nhìn thì thấy có bốn xe ngựa chiến tiến ra từ giữa hai quả núi; đó là hai quả núi bằng đồng.
\v 2 Xe thứ nhất thắng ngựa đỏ, xe thứ hai thắng ngựa ô,
\v 3 xe thứ ba thắng ngựa trắng, còn xe thứ tư thì thắng ngựa xám có vá.
\v 4 Vậy, tôi mới đáp lại và hỏi vị thiên sứ trò chuyện với mình: “Thưa chúa, các ngựa đó là thế nào vậy?”
\s5
\v 5 Thiên sứ trả lời tôi, rằng: “Đó là bốn thứ gió trên trời xuất phát từ nơi chúng đứng chầu Chúa của toàn cõi đất.
\v 6 Chiếc xe thắng ngựa ô ra đi về nước phương bắc; các ngựa trắng ra đi về nước phương tây; còn các ngựa xám có vá ra đi về nước phương nam.”
\s5
\v 7 Những con ngựa khỏe này tiến ra để đi rảo khắp đất, vì vậy, thiên sứ bảo: “Hãy đi rảo khắp đất! ” thì chúng ra đi đến khắp nơi trên đất.
\v 8 Rồi người gọi tôi và phán với tôi, rằng: “Hãy nhìn những con ngựa ra đi đến nước phương bắc; chúng sẽ khiến thần linh Ta nguôi ngoai về nước phương bắc.”
\s5
\v 9 Vậy, có lời của Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 10 “Hãy lấy lễ vật từ những người bị lưu đày tức Hiên-đai, Tô-bi-gia và Giê-đa-gia và nội trong ngày hãy đem lễ vật ấy vào trong nhà Giô-si-a, con trai Sô-phô-ni, kẻ từ Ba-by-lôn trở về.
\v 11 Hãy lấy bạc và vàng ấy làm một vương miện rồi đội nó lên đầu thầy thượng tế Giê-hô-sua, con trai Giô-xa-đác.
\s5
\v 12 Hãy nói với người, rằng: Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Con người này, tên là Cành Nhánh! Người sẽ mọc lên từ chỗ mình và rồi sẽ xây dựng đền thờ của Giê-hô-va!
\v 13 Chính người sẽ xây dựng đền thờ của Giê-hô-va và sẽ tôn tạo vẻ rực rỡ nó; rồi người sẽ ngồi và cai trị trên ngai. Người sẽ là thầy tế lễ ở trên ngai mình, và sẽ có sự thông hiểu hòa bình giữa hai bên.
\s5
\v 14 Một vương miện sẽ được để trong đền thờ của Giê-hô-va để tôn vinh Hiên-đai, Tô-bi-gia và Giê-gia-đa, và làm vật ghi nhớ lòng quãng đại của con trai Sô-phô-ni.
\v 15 Rồi những kẻ ở xa sẽ đến xây dựng đền thờ của Giê-hô-va, để các ngươi biết rằng Giê-hô-va của các đạo binh đã sai phái ta đến với các ngươi; vì việc này sẽ xảy ra nếu các ngươi thật nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình! ”’”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Năm thứ tư triều vua Đa-ri-út, vào ngày bốn tháng Kít-lêu (tức tháng thứ chín), có lời của Giê-hô-va phán với Xa-cha-ri.
\v 2 Trước đó, dân Bê-tên có sai Sa-rết-se và Rê-ghem-Mê-léc cùng người của họ đến cầu ơn của Giê-hô-va.
\v 3 Họ nói với các thầy tế lễ ở tại nhà của Giê-hô-va của các đạo binh và với nhà tiên tri; họ hỏi: “Tôi có phải tỏ ra đau buồn trong tháng năm bằng việc kiêng ăn, như tôi vẫn làm nhiều năm nay không?”
\s5
\v 4 Vì vậy, có lời của Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 5 “Hãy nói với toàn dân trong xứ và các thầy tế lễ, rằng: “Khi các ngươi kiêng ăn và than khóc trong tháng năm và tháng bảy suốt bảy mươi năm nay thì các ngươi có thật kiêng ăn vì Ta chăng?
\v 6 Rồi khi các ngươi ăn, uống, thì chẳng phải các ngươi ăn, uống vì bản thân mình sao?
\v 7 Chẳng phải đây cũng chính là những lời mà Giê-hô-va đã cậy miệng các nhà tiên tri trước đây công bố, khi các ngươi vẫn còn sống sung túc tại Giê-ru-sa-lem và các thành chung quanh, và được an cư tại Nê-ghép cùng vùng đồi núi thấp phía tây hay sao?”
\s5
\v 8 Lời của Giê-hô-va phán với Xa-cha-ri rằng:
\v 9 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Hãy lấy sự lẽ công bình đích thực, sự thành tín và lòng thương xót mà xử đoán. Mỗi người phải đối xử với anh em mình như vậy.
\v 10 Về các qúa phụ, cô nhi, khách ngoại kiều và kẻ nghèo khó, thì đừng áp bức họ. Còn trong việc cư xư, các ngươi không được mưu tính trong lòng để hãm hại nhau.
\s5
\v 11 Nhưng chúng chẳng thèm để tâm đến, mà lại tỏ ra ương ngạnh; chúng bưng tai để khỏi phải nghe.
\v 12 Chúng khiến lòng mình rắn lại như đá để khỏi nghe luật pháp hoặc lời phán của Giê-hô-va của các đạo binh. Ngài đã bởi Thần Linh mình mà gửi các sứ điệp này cho dân chúng, cậy miệng của các nhà tiên tri. Nhưng chúng chẳng chịu nghe, cho nên Giê-hô-va của các đạo binh nổi giận với chúng.
\s5
\v 13 Khi Ngài gọi chúng chẳng thèm nghe. Cũng vậy, chúng sẽ kêu cầu Ta, nhưng Ta sẽ không nghe, Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.
\v 14 Vì Ta sẽ dùng gió lốc rải chúng ra khắp mọi nước chúng nó chưa từng nghe thấy, và xứ sẽ hoang tàn sau khi chúng ra đi. Chẳng ai đi qua xứ hoặc quay về vì dân chúng đã khiến cho xứ sở tươi đẹp của mình thành ra vùng đất hoang. ’”
\s5
\c 8
\p
\v 1 Có lời của Giê-hô-va của các đạo binh phán với tôi, rằng:
\v 2 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Ta say mê Si-ôn cách nồng cháy, Ta say đắm Si-ôn đến nỗi phát giận!
\v 3 Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Ta sẽ quay lại với Si-ôn và sẽ ngự giữa Giê-ru-sa-lem, vì Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là Thành Chân Lý và núi của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ được gọi là Núi Thánh! ’”
\s5
\v 4 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Những cụ ông, cụ bà sẽ lại có mặt trên các đường phố Giê-ru-sa-lem, và ai cũng cần gậy trên tay vì cớ mình đã lớn tuổi.
\v 5 Đường phố trong thành sẽ đầy các trẻ em trai, gái vui đùa tại đó. ’”
\s5
\v 6 Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Nếu việc nào đó có vẻ như bất khả thi trong mắt phần sót lại của dân này vào những ngày ấy, thì phải chăng nó cũng có vẻ như bất khả thi đối với Ta? ’”—đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\v 7 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Này, Ta sẽ giải cứu dân Ta khỏi xứ mặt trời mọc cũng như khỏi xứ mặt trời lặn!
\v 8 Vì Ta sẽ đem chúng trở về, và chúng sẽ sống giữa Giê-ru-sa-lem, để rồi chúng sẽ lại làm dân Ta, Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó trong sự chân thật và trong sự công bình! ’”
\s5
\v 9 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Các ngươi là kẻ hiện vẫn cứ được nghe cùng những lời ra từ miệng các nhà tiên tri khi đặt nền móng của nhà Ta đây là nhà của Ta, tức Giê-hô-va của các đạo binh thì hãy làm cho tay mình mạnh mẽ để đền thờ được xây lên.
\v 10 Vì trước những ngày đó chẳng có ai thu hoạch hoa mầu; cả người lẫn thú vật đều không được tiền công. Kẻ ra người vào thì chẳng ai được bình an trước kẻ thù. Ta đã khiến ai nấy trở nên thù địch với người láng giềng mình.
\s5
\v 11 Nhưng giờ đây sẽ không như những ngày trước; Ta sẽ ở với phần sót lại của dân này! ’” Đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh.
\v 12 “Vì người ta sẽ gieo giống hòa bình. Dây nho sẽ sinh trái, và đất sẽ sinh sản vật nó. Trời sẽ xuống sương móc, vì Ta sẽ khiến phần sót lại của dân này được hưởng mọi điều ấy.
\s5
\v 13 Hỡi nhà Giu-đa và nhà Y-sơ-ra-ên, các ngươi đã từng là thí dụ về dân tộc bị nguyền rủa đối với các dân khác. Nhưng nay Ta sẽ giải cứu các ngươi, và các ngươi sẽ được phước. Đừng sợ; hãy khiến tay mình nên mạnh mẽ! ’”
\v 14 “Vì Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Như Ta đã định ý làm hại các ngươi khi tổ phụ các ngươi chọc giận Ta, và chẳng động lòng Giê-hô-va của các đạo binh phán,
\v 15 thì cũng vậy, trong những ngày này Ta sẽ định ý làm ơn lại cho Giê-ru-sa-lem và cho nhà Giu-đa! Đừng sợ!
\s5
\v 16 Đây là những việc các ngươi phải làm: Ai cũng phải nói thật với người láng giềng. Hãy phán xét cách chân thật, công bình và bình an trong cửa thành mình.
\v 17 Đừng có ai trong các ngươi mưu tính trong lòng làm điều ác cho người láng giềng, hoặc để mình bị dẫn dụ thề dối, vì mọi việc đó đều là những điều Ta ghét! ’”
\s5
\v 18 Rồi có lời của Giê-hô-va của các đạo binh phán với tôi, rằng:
\v 19 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Việc kiêng ăn trong tháng tư, tháng năm, tháng bảy và tháng mười sẽ trở nên những dịp lễ lạc hoan hỉ, sung sướng, vui vẻ cho nhà Giu-đa! Vì vậy, hãy yêu mến chân lý và hòa bình! ’”
\s5
\v 20 “Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Dân chúng, thậm chí những kẻ sống tại nhiều thành khác nhau, sẽ lại đến.
\v 21 Dân cư thành này sẽ đến một thành khác, và nói: “Chúng ta hãy mau đi nài xin ơn của Giê-hô-va và tìm kiếm Giê-hô-va của các đạo binh! Chính chúng tôi cũng đi đây. ’”
\v 22 Nhiều người và các dân hùng mạnh sẽ đến tìm kiếm Giê-hô-va của các đạo binh tại Giê-ru-sa-lem và nài xin ơn của Giê-hô-va!”
\s5
\v 23 Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: Trong những ngày đó, mười người từ mọi thứ tiếng, mọi dân tộc sẽ nắm gấu áo của các ngươi và xin: “Hãy cho chúng tôi đi với anh em, vì chúng tôi có nghe rằng Đức Chúa Trời ở cùng anh em! ”’”
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va tuyên phán về đất Ha-đơ-rắc và Đa-mách. Vì con mắt của Giê-hô-va soi xét toàn thể loài người, cũng như mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Lời tuyên phán này cũng liên quan đến Ha-mát, vùng giáp ranh với Đa-mách, và liên quan đến Ty-rơ cùng Si-đôn, dầu chúng rất khôn ngoan.
\s5
\v 3 Ty-rơ đã xây đồn lũy cho mình và thâu trữ bạc nhiều như cát bụi, còn vàng thì như bùn đất ngoài phố.
\v 4 Này, Chúa sẽ tước hết của cải nó và tiêu diệt sức mạnh của nó trên biển, để nó bị lửa thiêu nuốt đi.
\s5
\v 5 Ách-ca-lôn sẽ thấy và sợ! Ga-xa cũng sẽ run lẩy bẩy! Hy vọng của Éc-rôn sẽ thành nỗi thất vọng! Vua sẽ bị diệt khỏi Ga-xa, Ách-ca-lôn sẽ không còn người ở nữa!
\v 6 Giê-hô-va phán: “Khách lạ sẽ đến ở tại Ách-đốt, và Ta sẽ phá diệt niềm kiêu hãnh của người Phi-li-tin.
\v 7 Vì Ta sẽ làm cho miệng nó sạch máu, khiến răng nó sạch hết những vật kinh tởm mình. ” Rồi chúng sẽ nên một dân sót cho Đức Chúa Trời chúng ta, giống như một đại tộc trong Giu-đa, còn Éc-rôn sẽ giống như dân Giê-bu-sít.
\s5
\v 8 Giê-hô-va phán: “Ta sẽ đóng trại quanh xứ mình đối địch lại các đội quân của kẻ thù để không ai qua lại được, vì sẽ chẳng có kẻ áp chế nào đi qua đó nữa. Vì giờ đây chính mắt Ta sẽ canh giữ xứ mình!
\s5
\v 9 Hỡi con gái Si-ôn, hãy lớn tiếng reo mừng! Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, hãy trổi tiếng reo vui! Kìa, vua ngươi đang đến với ngươi trong sự công chính và sẽ giải cứu ngươi. Người khiêm nhường và cưỡi lừa, là con của lừa cái.
\v 10 Rồi Ta sẽ trừ diệt xe ngựa chiến khỏi Ép-ra-im, trừ diệt ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem, cung sẽ bị trừ diệt khỏi mặt trận; vì người sẽ công bố hòa bình cho các dân, và quyền thế người sẽ trải từ biển này đến biển kia, từ Sông Lớn cho đến tận cùng cõi đất!
\s5
\v 11 Còn ngươi vì cớ máu giao ước giữa Ta với ngươi nên Ta đã phóng thích các kẻ tù của ngươi khỏi cái hố không nước.
\v 12 Hỡi các tù nhân hy vọng, hãy quay trở về đồn lũy! Thậm chí hôm nay, Ta tuyên bố sẽ hoàn lại cho các ngươi gấp đôi,
\v 13 vì Ta đã giương Giu-đa ra như cây cung. Ta đã lấy Ép-ra-im làm đầy ống tên mình. Ta đã khích động các con trai ngươi, hỡi Si-ôn, nghịch lại các con trai ngươi, hỡi Hy Lạp, và đã khiến ngươi, hỡi Si-ôn, ra giống như thanh gươm người chiến binh!”
\s5
\v 14 Giê-hô-va sẽ hiện ra với họ, các mũi tên Ngài sẽ bắn ra như chớp! Vì Chúa tôi là Giê-hô-va sẽ thổi kèn và tiến tới cùng với bão tố từ Thê-man.
\v 15 Giê-hô-va của các đạo binh sẽ bảo vệ họ; họ sẽ ăn nuốt chúng và đánh bại các đá từ trành bắn ra. Rồi họ sẽ uống và reo hò như kẻ say rượu; họ sẽ no rượu như các chén nơi bàn thờ, như các góc của bàn thờ.
\s5
\v 16 Như vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ sẽ giải cứu họ trong ngày đó; họ sẽ như đàn chiên của Ngài, vì họ sẽ là đá quý trên vương miện, được tôn lên trong xứ Ngài.
\v 17 Họ sẽ tốt đẹp biết bao! Ngũ cốc sẽ khiến các thanh niên phát triển, rượu ngọt khiến các trinh nữ được thịnh vượng!
\s5
\c 10
\p
\v 1 Hãy cầu Giê-hô-va tức Giê-hô-va làm ra dông tố! ban mưa vào thời điểm mưa xuân thì Ngài sẽ ban cho họ mưa rào, cùng cây cỏ ngoài đồng cho người ta.
\v 2 Vì mấy tượng thần trong nhà chỉ nói dối; giới thầy bói thì tưởng tượng điều dối trá; chúng thuật lại các giấc mơ lừa dối và yên ủi những lời rỗng tuếch, nên họ lang thang như chiên và chịu khốn đốn vì thiếu người chăn
\s5
\v 3 Cơn giận Ta bùng lên cùng những kẻ chăn; chính bọn dê đực tức giới lãnh đạo là đối tượng Ta sẽ hình phạt; Giê-hô-va của các đạo binh sẽ chăm sóc bầy chiên Ngài, tức nhà Giu-đa, và khiến họ nên giống như ngựa chiến của Ngài ngoài trận mạc!
\s5
\v 4 Từ nơi họ sẽ xuất hiện viên đá góc; từ nơi họ sẽ xuất hiện cái cọc lều; từ nơi họ sẽ xuất hiện cây cung trận; từ nơi họ sẽ xuất hiện mọi nhà lãnh đạo.
\v 5 Họ sẽ như các chiến binh giẫm đạp quân thù ở trận mạc xuống bùn đất ngoài đường; họ sẽ giao chiến, vì Giê-hô-va ở với họ, và họ sẽ khiến những kẻ cưỡi ngựa chiến phải xấu hổ.
\s5
\v 6 “Ta sẽ khiến nhà Giu-đa mạnh mẽ và cứu rỗi nhà Giô-sép; vì Ta sẽ phục hồi họ và thương xót họ. Họ sẽ giống như kẻ chưa từ bị ta loại bỏ, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ, và Ta sẽ đáp lời họ.
\v 7 Rồi Ép-ra-im sẽ như người chiến binh, và lòng họ sẽ hớn hở như thể vì rượu; con cái họ sẽ nhìn thấy và vui mừng. Lòng họ sẽ vui thích về Ta!
\s5
\v 8 Ta sẽ huýt sáo gọi họ, và tập hợp họ lại, vì Ta sẽ giải cứu họ, và họ sẽ trở nên vĩ đại như họ đã từng trước đó!
\v 9 Ta đã rải họ ra giữa các dân, nhưng họ sẽ nhớ đến Ta tại những đất nước xa xôi, nên họ và con cái họ sẽ được sống và trở về.
\v 10 Vì Ta sẽ phục hồi họ từ đất Ai Cập và tập hợp họ từ A-si-ri. Ta sẽ đem họ đến xứ Ga-la-át và Li-ban cho đến khi chẳng còn chỗ cho họ nữa.
\s5
\v 11 Ta sẽ đi qua biển khổ nạn của họ; Ta sẽ đánh các ngọn sóng của biển ấy và sẽ làm cạn khô mọi vực sâu của sông Nin. Quyền lực của A-si-ri sẽ bị hạ xuống, và cây quyền trượng của Ai Cập sẽ rời khỏi người Ai Cập.
\v 12 Ta sẽ khiến họ mạnh mẽ trong chính Ta, và họ sẽ bước đi trong danh Ta. ” Đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Hỡi Li-ban, hãy mở cửa ra, để lửa thiêu nuốt các cây bá hương ngươi!
\v 2 Hỡi những cây bách, hãy than khóc, vì các cây bá hương đã ngã đổ! Những gì trước đây oai vệ thì nay đã tan hoang! Hỡi các ngươi là những cây sồi của Ba-san, hãy than khóc vì khu rừng hùng vĩ đã đổ xuống.
\v 3 Bọn chăn chiên gào lên, vì vinh quang mình đã bị tiêu hủy! Tiếng của sư tử tơ gầm rú, vì niềm kiêu hãnh của sông Giô-đanh đã bị đánh đổ.
\s5
\v 4 Đây là lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi phán bảo: “Hãy làm như kẻ chăn canh giữ bầy chiên đã bị định để giết thịt!
\v 5 (Những kẻ mua chúng về làm thịt chẳng bị phạt, còn những kẻ bán chúng đi thì nói: Ngợi khen Giê-hô-va! Mình đã giàu lên! vì những kẻ chăn làm việc cho chủ bầy chẳng tiếc thương chúng.)
\v 6 Vì Ta sẽ chẳng thương tiếc cư dân của đất này! ” đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. “Này, chính Ta sẽ giao nộp mọi người vào tay người láng giềng mình và vào tay vua mình. Chúng sẽ tàn phá xứ sở. Ta sẽ không giải cứu Giu-đa khỏi tay chúng.”
\s5
\v 7 Vậy là tôi trở nên kẻ chăn giữ bầy chiên đã bị định đem đi giết thịt, giúp việc cho giới thương lái chiên. Tôi lấy hai cây gậy; một cây tôi gọi là “Ân Huệ, ” còn cây kia tôi gọi là “Kết Liên. ” Rồi tôi canh giữ bầy chiên.
\v 8 Trong một tháng tôi giết chết ba mục đồng. Tôi dần chán ghét các chủ chiên, vì bọn họ cũng ghét tôi.
\v 9 Rồi tôi nói với giới chủ: “Tôi sẽ không chăn chiên cho các người nữa. Con chiên nào sắp chết thì cứ để cho chết; con chiên nào sắp bị giết thì cứ để người ta giết. Những chiên còn lại thì cứ để chúng ăn thịt lẫn nhau.”
\s5
\v 10 Vậy là tôi lấy cây gậy tên “Ân Huệ” của mình và bẻ đi để hủy bỏ giao ước mà tôi đã lập với mọi bộ tộc của mình.
\v 11 Vào ngày đó giao ước bị phá bỏ, và mấy kẻ buôn bán chiên đang theo dõi tôi biết rằng đó là điều Giê-hô-va đã phán.
\v 12 Tôi bảo chúng: “Nếu các người thấy được thì hãy trả công cho tôi. Còn không thì khỏi trả. ” Vậy, bọn họ cân tiền công cho tôi là ba mươi miếng bạc.
\s5
\v 13 Rồi Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy nộp số bạc đó vào kho bạc, vốn là giá rất cao mà chúng đã định cho con đó! ” Vậy là tôi đem ba mươi miếng bạc nộp vào kho bạc trong nhà của Giê-hô-va.
\v 14 Rồi tôi bẻ gãy cây thứ hai của mình, gậy “Hiệp Nhất, ” để phá bỏ quan hệ huynh đệ giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 15 Giê-hô-va phán với tôi: “Bây giờ, hãy lấy cho mình các món đồ của một gã mục tử điên khùng,
\v 16 vì này, Ta sẽ cắt đặt trong xứ một kẻ chăn. Nó chẳng quan tâm đến chiên đang chết mất. Nó chẳng tìm kiếm chiên bị lạc, cũng không chữa cho chiên bị què. Nó sẽ chẳng cho chiên khỏe ăn, nhưng lại ăn thịt các chiên mập mạnh và lóc luôn móng chúng nó.
\s5
\v 17 Thật bất hạnh cho kẻ chăn vô dụng bỏ rơi bầy chiên! Nguyện gươm sẽ đâm vào cánh tay nó cùng mắt phải nó! Nguyện tay nó bị teo đi, và nguyên mắt phải nó bị mù lòa!”
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là lời Giê-hô-va tuyên phán về Y-sơ-ra-ên tức lời tuyên phán của Giê-hô-va, Đấng trương bầu trời ra và đặt nền của trái đất, Đấng tạo ra thần linh loài người bên trong người ta:
\v 2 “Này, Ta sẽ khiến Giê-ru-sa-lem thành cái chén khiến mọi dân chung quanh phải choáng váng; tình trạng cũng sẽ giống như vậy đối với Giu-đa khi Giê-ru-sa-lem bị vây hãm.
\v 3 Trong ngày đó, Ta sẽ khiến Giê-ru-sa-lem thành một khối đá nặng cho mọi dân tộc. Bấy kỳ ai cố nhấc khối đá ấy sẽ bị tổn hại trầm trọng, và mọi nước trên đất sẽ tập hợp lại chống nghịch nó.
\s5
\v 4 Trong ngày đó, Ta sẽ giáng sự kinh hãi xuống mọi con ngựa, và giáng sự cuồng nộ xuống mọi kẻ cưỡi ngựa”—đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. “Ta sẽ đoái xem nhà Giu-đa và sẽ đánh mọi con ngựa của các đạo quân cho đui mù.
\v 5 Bấy giờ, các lãnh đạo Giu-đa sẽ nói trong lòng: Cư dân Giê-ru-sa-lem là sức mạnh của chúng ta nhờ Giê-hô-va của các đạo binh, Đức Chúa Trời của họ.
\s5
\v 6 Trong ngày đó, Ta sẽ khiến giới lãnh đạo Giu-đa giống như các bếp lò giữa đống củi, như ngọn đuốc cháy giữa đám lúa, vì chúng sẽ thiêu sạch các dân chung quanh cả bên phải và bên trái. Giê-ru-sa-lem sẽ lại được sống tại chỗ của mình.”
\s5
\v 7 Giê-hô-va sẽ cứu các lều trại của Giu-đa trước hết, để sự tôn trọng của nhà Đa-vít và sự tôn trọng của những kẻ sống tại Giê-ru-sa-lem không trổi hơn phần còn lại của Giu-đa.
\v 8 Trong ngày đó, Giê-hô-va sẽ bảo vệ các cư dân Giê-ru-sa-lem; trong ngày đó, những kẻ yếu sức giữa vòng họ sẽ giống như Đa-vít, còn nhà Đa-vít sẽ giống như Đức Chúa Trời, như thiên sứ của Giê-hô-va trước mặt chúng.
\v 9 “Trong ngày đó, ta sẽ khởi tiêu diệt mọi nước đã đến đánh Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\v 10 “Nhưng Ta sẽ đổ thần linh thương cảm và khẩn cầu trên nhà Đa-vít cũng như cư dân Giê-ru-sa-lem, để chúng sẽ nhìn xem Ta, Đấng chúng nó đã đâm. Chúng sẽ thương tiếc Ta, như người ta thương tiếc con trai một của mình; chúng sẽ khóc lóc thảm thiết vì cớ nó như những kẻ khóc than sự chết của con trai đầu lòng.
\v 11 Trong ngày đó, những lời than vãn tại Giê-ru-sa-lem sẽ giống như những lời than vãn tại Ha-đát Rim-môn trong đồng bằng Mê-ghi-đô.
\s5
\v 12 Xứ sở sẽ than khóc, mỗi chi tộc tách riêng ra. Chi tộc thuộc nhà Đa-vít sẽ tách riêng ra, vợ sẽ tách khỏi chồng. Bộ tộc thuộc nhà Na-than sẽ tách riêng ra, vợ sẽ tách khỏi chồng.
\v 13 Chi tộc thuộc nhà Lê-vi sẽ tách riêng ra, vợ sẽ tách khỏi chồng. Chi tộc Si-mê-i sẽ tách riêng ra, vợ sẽ tách khỏi chồng.
\v 14 Mọi chi tộc trong số các chi tộc còn lại mỗi chi tộc đều tách riêng ra, và các người vợ cũng tách riêng khỏi người chồng.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 “Trong ngày đó, một dòng suối sẽ mở ra cho nhà Đa-vít và cư dân Giê-ru-sa-lem, để tẩy sạch tội lỗi và sự ô uế của chúng nó.
\v 2 Chính trong ngày đó, ”—đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh—“Ta sẽ diệt khỏi xứ tên tuổi các tượng thần để chúng sẽ chẳng còn được nhớ đến nữa. Ta cũng sẽ trục xuất các tiên tri giả cùng uế linh của chúng ra khỏi xứ.
\s5
\v 3 Nếu kẻ nào tiếp tục nói tiên tri thì cha mẹ đã sinh ra nó sẽ bảo nó: Con sẽ chẳng được sống vì con nhân danh Giê-hô-va mà nói lời dối trá! Rồi cha mẹ đã sinh ra nó sẽ đâm nó khi nó nói tiên tri.
\s5
\v 4 ngày đó, mỗi nhà tiên tri sẽ hổ thẹn về khải tượng của mình khi chúng sắp nói tiên tri. Các tiên tri này sẽ chẳng còn mặc áo choàng lông để đánh lừa dân chúng.
\v 5 Vì mỗi người sẽ bảo: Tôi không phải là nhà tiên tri! Tôi chỉ là người làm đất, vì canh tác đã là công việc của tôi trong thời trai trẻ!
\v 6 Nhưng sẽ có người hỏi: Mấy vết thương này giữa hai tay anh là gì vậy? và anh ta sẽ đáp: Tôi bị thương tích vì những kẻ ở trong nhà bạn tôi.”
\s5
\v 7 “Hỡi gươm! Hãy thức dậy đánh lại kẻ chăn của Ta, tức kẻ đứng cạnh Ta” đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va các đạo binh. “Hãy giết chết kẻ chăn thì bầy chiên sẽ tan lạc! Vì Ta sẽ trở tay đánh những kẻ tầm thường.
\s5
\v 8 Rồi trong khắp cả xứ” đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va “hai phần ba dân cư sẽ bị tiêu diệt! Số người ấy sẽ diệt vong; chỉ còn lại một phần ba.
\v 9 Ta sẽ đưa một phần ba đó qua lửa và luyện lọc chúng như luyện bạc; Ta sẽ thử chúng như người ta thử vàng. Chúng sẽ kêu cầu danh Ta, và Ta sẽ đáp lời chúng, rằng: Này là dân Ta! còn chúng sẽ nói: Giê-hô-va là Đức Chúa Trời tôi. ’”
\s5
\c 14
\p
\v 1 Này, sắp đến ngày của Giê-hô-va, khi chiến lợi phẩm ngươi sẽ bị phân chia ở giữa ngươi!
\v 2 Vì Ta sẽ tập hợp mọi nước lại để tranh chiến với Giê-ru-sa-lem, và thành sẽ bị chiếm! Nhà nhà sẽ bị cướp bóc và phụ nữ bị hãm hiếp! Phân nửa thành sẽ bị bắt đi, nhưng số còn lại trong dân chúng sẽ không bị diệt khỏi thành.
\s5
\v 3 Nhưng Giê-hô-va sẽ ra giao chiến với các nước ấy như khi Ngài giao chiến trong ngày chiến trận.
\v 4 Trong ngày đó, chân Ngài sẽ đứng trên núi Ô Liu, là núi cận kề Giê-ru-sa-lem về hướng đông. Núi Ô Liu sẽ bị tách làm đôi từ đông sang tây bởi một thung lũng rất lớn; phân nửa núi sẽ lùi về phía bắc và phân nửa sẽ lùi về phía nam.
\s5
\v 5 Lúc đó, các ngươi sẽ trốn chạy xuống thung lũng ở giữa các núi của Giê-hô-va, vì thung lũng giữa các núi ấy sẽ kéo dài đến Át-san. Các ngươi sẽ trốn chạy như khi các ngươi chạy lánh cơn động đất trong thời Ô-xia, vua Giu-đa. Bấy giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi sẽ đến, và mọi thánh đồ sẽ cùng có mặt với Ngài.
\s5
\v 6 Trong ngày đó sẽ không có ánh sáng, mà cũng chẳng có lạnh lẽo, băng giá.
\v 7 Trong ngày đó, ngày mà chỉ có Giê-hô-va biết, sẽ chẳng còn ban ngày, ban đêm, vì buổi chiều tối trời vẫn là lúc có ánh sáng.
\v 8 Cũng trong ngày đó, nước theo đường dẫn sẽ tuôn chảy từ Giê-ru-sa-lem. Phân nửa lượng nước sẽ chảy vào biển phía đông, và phân nửa sẽ chảy về biển phía tây, trong cả mùa hạ lẫn mùa đông.
\s5
\v 9 Giê-hô-va sẽ là vua trong toàn cõi đất. Vào ngày đó sẽ có Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời duy nhất, và chỉ có danh Ngài mà thôi.
\v 10 Khắp cả xứ sẽ giống như A-ra-ba, từ Ghê-ba cho đến Rim-môn về phía nam Giê-ru-sa-lem. Và Giê-ru-sa-lem sẽ tiếp tục được tôn lên; nó sẽ được sống trong chỗ mình, từ cổng Bên-gia-min cho đến chỗ cửa thứ nhất hiện nay là Cửa Góc, và từ Tháp Ha-na-ên cho đến bồn ép rượu của vua.
\v 11 Dân chúng sẽ sống tại Giê-ru-sa-lem và sẽ chẳng còn chuyện Đức Chúa Trời tận diệt họ; Giê-ru-sa-lem sẽ được sống yên ổn.
\s5
\v 12 Đây sẽ là tai họa mà Giê-hô-va sẽ giáng trên các dân giao chiến với Giê-ru-sa-lem: thịt chúng sẽ rữa ra ngay khi chúng đang đứng trên chân mình. Mắt chúng sẽ rữa ra trong hốc mắt, lưỡi chúng sẽ rữa ra trong miệng.
\v 13 Trong ngày đó, Giê-hô-va sẽ giáng sự kinh khiếp xuống giữa chúng. Mỗi người sẽ nắm tay người láng giềng mình; tay người này sẽ giá lên chống lại tay người khác.
\s5
\v 14 Giu-đa cũng tranh chiến với Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ gom lấy tài sản của các nước chung quanh rất nhiều vàng, bạc, quần áo tốt đẹp.
\v 15 Cũng có tai họa giáng trên ngựa, la, lạc đà, lừa, và trên mọi con vật trong các trại đó; chúng cũng phải chịu cùng một tai họa.
\s5
\v 16 Sau đó, mọi kẻ còn lại trong các nước đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem sẽ hằng năm đi lên thờ phượng Vua, tức Giê-hô-va vạn quân, và giữ Lễ Lều Tạm.
\v 17 Nếu kẻ nào giữa vòng mọi dân trên đất không đi lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Vua, tức Giê-hô-va của các đạo binh, thì Giê-hô-va sẽ không ban mưa cho chúng.
\v 18 Cho nên, nếu dân Ai Cập không đi lên thì chúng sẽ không nhận được mưa. Một tai họa của Giê-hô-va sẽ giáng xuống các dân không đi lên giữ Lễ Lều Tạm.
\s5
\v 19 Đó sẽ là hình phạt dành cho Ai Cập, cũng là hình phạt dành cho mọi nước nào không đi lên giữ Lễ Lều Tạm.
\s5
\v 20 Nhưng vào ngày đó, các chuông trên mình ngựa sẽ có dòng chữ: “Thánh hiến cho Giê-hô-va, ” và các chậu trong nhà của Giê-hô-va sẽ giống như những bát trước bàn thờ.
\v 21 Vì mọi nồi niêu ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa sẽ được hiến cho Giê-hô-va của các đạo binh, và mọi người mang sinh tế đến sẽ ăn từ trong đó và nấu luộc trong đó. Trong ngày đó, các thương nhân sẽ không còn ở trong nhà của Giê-hô-va của các đạo binh.

118
39-MAL.usfm Normal file
View File

@ -0,0 +1,118 @@
\id MAL
\ide UTF-8
\h MA-LA-CHI
\toc1 MA-LA-CHI
\toc2 MA-LA-CHI
\toc3 mal
\mt MA-LA-CHI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Lời tuyên bố của Đức Giê-hô-va cho dân Y-sơ-ra-ên qua Ma-la-chi.
\v 2 đã yêu các ngươi, ” Đức Giê-hô-va phán. Nhưng các ngươi hỏi, “Ngài yêu chúng tôi thế nào? ” “Ê-sau chẳng phải là anh Gia-cốp sao? ” Đức Giê-hô-va phán. “Nhưng Ta yêu Gia-cốp,
\v 3 ghét Ê-sau. Ta đã biến núi non của nó thành nơi hoang vu, và Ta biến cơ nghiệp nó trở thành nơi ở của chó rừng nơi hoang mạc.”
\s5
\v 4 Nếu Ê-đôm nói, “Chúng tôi đã bị đập tan, nhưng chúng tôi sẽ trở về và xây lại những gì đã đổ nát; ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Chúng sẽ xây dựng, nhưng Ta sẽ đánh đổ; và người ta sẽ gọi chúng là Xứ gian ác, Dân mà Đức Giê-hô-va giận mãi mãi. ’”
\v 5 Mắt các ngươi sẽ thấy điều này, và các ngươi sẽ nói, “Đức Giê-hô-va thật lớn lao ngoài biên giới Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 6 ”Con trai tôn kính cha mình, và đầy tớ tôn kính chủ mình. Vậy, nếu Ta là cha, thì sự tôn kính Ta ở đâu? Nếu Ta là chủ, thì lòng kính trọng dành cho Ta ở đâu? Đức Giê-hô-va phán với các ngươi, hỡi những thầy tế lễ, là những kẻ khinh dể danh Ta. Nhưng các ngươi nói, Chúng tôi khinh dể danh Ngài như thế nào?
\v 7 Bằng cách dâng bánh ô uế trên bàn thờ Ta. Các ngươi hỏi, Chúng tôi làm ô uế Ngài ra sao? Bằng cách nói rằng bàn của Đức Giê-hô-va đáng bị khinh dể.
\s5
\v 8 Khi các ngươi dâng con vật đui mù, chẳng phải đó là điều dữ sao? Và khi các ngươi dâng con vật què và bệnh tật, chẳng phải việc đó là điều dữ sao? Hãy thử biếu nó cho quan thống đốc của các ngươi; người sẽ nhận hoặc vừa lòng ngươi không? ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\v 9 Và bây giờ, hãy cố nài xin Đức Chúa Trời làm ơn, để Ngài tỏ lòng khoan dung với chúng ta. “Các ngươi dâng của lễ như vậy, liệu Ngài sẽ chấp nhận bất cứ ai trong các ngươi sao? ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\s5
\v 10 ”Ôi, giá như trong các ngươi có một người đóng cửa đền thờ, để các ngươi không đốt lửa vô ích trên bàn thờ Ta! Ta không hài lòng về các ngươi, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Và Ta sẽ không nhận bất kỳ của lễ nào từ nơi tay các ngươi dâng.
\v 11 nơi mặt trời mọc cho đến nơi mặt trời lặn, danh Ta sẽ là lớn giữa các nước; ở mọi nơi, người ta sẽ dâng hương cho danh Ta, và cũng dâng một của lễ tinh sạch. Vì danh Ta sẽ là lớn giữa các nước, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán. ”
\v 12 Nhưng các ngươi báng bổ danh Ta khi các ngươi nói rằng bàn của Chúa bị ô uế, và trái cây, đồ ăn trên đó đáng khinh bỉ.
\s5
\v 13 ngươi cũng nói, Việc này thật chán ngắt, các ngươi khinh bỉ nó, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán. “Các ngươi đem đến một con vật bị thú rừng vồ hoặc bị què hay bị bệnh; rồi các ngươi đem làm của lễ dâng Ta! Ta phải nhận nó nơi tay các ngươi sao? ” Đức Giê-hô-va phán.
\v 14 rủa thay là kẻ lừa dối, nó có con đực trong bầy mình và thề sẽ dâng cho Ta, nhưng nó lại dâng cho Ta, là Chúa, một con vật bị tật nguyền; vì Ta là Vua vĩ đại, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Danh Ta được kinh sợ giữa các nước.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 bây giờ, hỡi các thầy tế lễ, Ta truyền lệnh này cho các ngươi.
\v 2 các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không để lòng dâng sự vinh quang cho danh Ta, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Ta sẽ giáng sự rủa sả trên các ngươi, Ta sẽ rủa sả những ơn phước của các ngươi. Thật vậy, Ta đã rủa chúng rồi, vì các ngươi không ghi nhớ lệnh Ta vào lòng.
\s5
\v 3 Ta sẽ quở trách con cháu các ngươi, Ta sẽ rải phân trên mặt các ngươi, là phân của những của lễ các ngươi, các ngươi sẽ bị người ta đem đi cùng với nó.
\v 4 ngươi sẽ biết rằng Ta đã ban lệnh này cho các ngươi, để giao ước của Ta ở cùng người Lê-vi, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\s5
\v 5 ước của Ta với nó là giao ước của sự sống và bình an, Ta đã ban những điều này cho nó để nó tôn kính Ta. Nó tôn kính Ta và run sợ đứng trước danh Ta.
\v 6 miệng nó có sự dạy dỗ chân thật, trên môi nó không có sự trái lẽ nào. Nó đi với Ta trong sự bình an và ngay thẳng, nó khiến nhiều người từ bỏ tội lỗi.
\v 7 môi của thầy tế lễ phải giữ kiến thức, và người ta nên tìm kiếm sự chỉ dẫn từ miệng nó, bởi nó là sứ giả của Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân.
\s5
\v 8 các ngươi đã từ bỏ đường lối chân thật. Các ngươi gây cho nhiều người vấp ngã vi phạm luật pháp. Các ngươi làm hỏng giao ước của người Lê-vi, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\v 9 lại, Ta cũng đã khiến các ngươi trở nên đáng khinh và hèn hạ trước mặt tất cả dân chúng, vì các ngươi không giữ đường lối Ta, nhưng trái lại, các ngươi thể hiện sự thiên vị trong lời dạy của các ngươi.”
\s5
\v 10 phải tất cả chúng ta đều có một cha sao? Chẳng phải chỉ một Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta sao? Tại sao chúng ta ai nấy đều bội bạc anh em mình, làm ô uế giao ước của cha ông chúng ta?
\v 11 đã ăn ở cách bội bạc, và đã phạm một điều gớm ghiếc trong Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem. Vì Giu-đa đã làm ô uế nơi thánh của Đức Giê-hô-va mà Ngài ưa thích, và cưới con gái của thần ngoại quốc.
\v 12 Đức Giê-hô-va dứt bỏ khỏi lều của Gia-cốp bất cứ con cháu nào của kẻ làm vậy, thậm chí là kẻ đem của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va vạn quân.
\s5
\v 13 ngươi cũng làm điều này. Các ngươi che bàn thờ của Đức Giê-hô-va bằng nước mắt, sự than khóc và thở dài, vì Ngài không muốn xem của lễ và nhận lấy từ tay các ngươi.
\s5
\v 14 các ngươi nói, “Sao Ngài không nhận? ” Vì Đức Giê-hô-va là Đấng làm chứng giữa các ngươi và vợ lúc còn trẻ, là người mà các ngươi không chung thủy, dù nàng là bạn đời và là vợ giao ước của các ngươi.
\v 15 phải Ngài đã dựng nên một người, với một tâm linh sao? Và tại sao Ngài dựng nên cho các ngươi một người? Vì Ngài muốn có dòng dõi thánh. Vậy hãy bảo vệ các ngươi về tâm thần mình, và chớ có ai lật lọng với vợ lúc mình còn trẻ.
\v 16 Ta ghét ly dị, ” Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán, “Và Ta ghét kẻ nào che áo mình bằng sự bạo lực, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán. “Vậy hãy bảo vệ chính mình các ngươi trong tâm thần mình và chớ xảo trá.”
\s5
\v 17 Các ngươi làm Đức Giê-hô-va mệt mỏi vì những lời nói của mình. Các ngươi hỏi, “Chúng tôi làm Ngài mệt mỏi thế nào? ” Ấy là khi các ngươi nói, “Ai làm điều dữ là tốt trước mặt Đức Giê-hô-va, Ngài vui thích những điều đó, ” hoặc “Đức Chúa Trời của sự công bình ở đâu?”
\s5
\c 3
\p
\v 1 ”Kìa, Ta sẽ sai sứ giả của Ta đến, người sẽ dọn đường trước mặt Ta. Và Chúa, Đấng mà các ngươi tìm kiếm, sẽ thình lình đến trong đền thờ; và sứ giả của giao ước mà các ngươi trông mong, kìa, Ngài đang đến, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\v 2 Nhưng ai có thể cam chịu ngày Ngài đến? Và ai sẽ đứng nổi khi Ngài xuất hiện? Vì Ngài giống như lửa của thợ luyện, và như xà phòng giặt đồ.
\v 3 Ngài sẽ ngồi cai trị như thợ luyện và người luyện bạc, Ngài sẽ làm tinh sạch các con trai của Lê-vi. Ngài sẽ luyện họ như bạc và vàng, họ sẽ dâng của lễ công bình cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 đó, của lễ của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sẽ làm hài lòng Đức Giê-hô-va, như khi xưa, và như trong những năm thượng cổ.
\v 5 đó, Ta sẽ đến gần các ngươi để đoán xét. Ta sẽ nhanh chóng làm chứng nghịch lại các phù thủy, những kẻ tà dâm, các nhân chứng giả, và những kẻ áp bức người làm công về tiền công, và nghịch lại những kẻ không tôn kính Ta, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
\s5
\v 6 Ta, Đức Giê-hô-va, không thay đổi; vậy các ngươi, hỡi nhà Gia-cốp, các ngươi chưa bị hao mòn.
\v 7 từ ngày của tổ phụ các ngươi, các ngươi đã từ bỏ những quy định của Ta và không giữ chúng. Hãy trở lại bên Ta, rồi Ta sẽ trở về với các ngươi, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán. “Nhưng các ngươi hỏi, Chúng tôi trở về thế nào?
\s5
\v 8 ta sẽ ăn trộm Đức Chúa Trời sao? Nhưng các ngươi đang ăn trộm Ta. Tuy nhiên các ngươi nói, Chúng tôi ăn trộm Ngài thế nào? Các ngươi ăn trộm về các khoản phần mười và của lễ.
\v 9 ngươi bị rủa sả, vì các ngươi ăn trộm Ta, cả nước các ngươi.
\s5
\v 10 đem đầy đủ phần mười vào kho, để trong nhà Ta có lương thực. Và bây giờ hãy thử Ta về điều này, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Để xem Ta có mở cho các ngươi các cửa sổ trên trời và tuôn đổ phước trên các ngươi, đến nỗi không đủ chỗ chứa không.
\v 11 sẽ vì các ngươi quở trách kẻ cắn nuốt, để nó sẽ không phá hủy mùa gặt của đất các ngươi; cây nho của các ngươi ngoài đồng sẽ không rụng trái trước khi vào mùa, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\v 12 cả các nước sẽ gọi các ngươi là người được phước; vì các ngươi sẽ là xứ vui mừng, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\s5
\v 13 ngươi nói những lời nặng nghịch lại Ta, ” Đức Giê-hô-va phán. “Nhưng các ngươi hỏi, Chúng tôi nói nghịch gì về Ngài?
\v 14 ngươi nói, Phục vụ Đức Chúa Trời là vô ích. Chúng ta giữ điều Ngài dạy hoặc buồn rầu bước đi trước mặt Đức Giê-hô-va vạn quân thì có ích gì?
\v 15 bây giờ chúng tôi gọi kẻ ngạo mạn là có phước. Kẻ làm ác sẽ không chỉ thịnh vượng, nhưng chúng thách thức Đức Chúa Trời và thoát. ’”
\s5
\v 16 đó, những người kính sợ Đức Giê-hô-va cùng nói với nhau; Đức Giê-hô-va chú ý lắng nghe, và một sách ghi nhớ được chép trước mặt Ngài dành cho những ai kính sợ Đức Giê-hô-va và kính mến danh Ngài.
\s5
\v 17 sẽ thuộc về Ta, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Họ sẽ là tài sản quý báu của Ta trong ngày Ta hành động; Ta sẽ miễn cho họ, như người cha miễn cho con trai mình là người phục vụ mình.
\v 18 đó, các ngươi sẽ lại phân biệt giữa người công bình và kẻ ác, giữa người thờ phượng Đức Chúa Trời và kẻ không thờ phượng Ngài.
\s5
\c 4
\p
\v 1 kìa, ngày ấy đang đến, cháy như lò lửa, khi tất cả những kẻ kiêu ngạo và làm ác sẽ như gốc rạ. Ngày gần đến sẽ thiêu đốt chúng, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán, “Đến nỗi chẳng chừa lại rễ hay nhánh của chúng.
\v 2 với các ngươi là người kính sợ danh Ta, mặt trời công bình sẽ mọc lên với sự chữa lành trong cánh nó. Các ngươi sẽ đi ra nhảy nhót như bò con ra khỏi chuồng.
\v 3 ngươi sẽ chà đạp kẻ ác, chúng sẽ như tro dưới bàn chân các ngươi trong ngày Ta hành động, ” Đức Giê-hô-va vạn quân phán.
\s5
\v 4 nhớ vâng theo luật pháp của Môi-se, tôi tớ Ta, tức là những luật thánh và sắc lệnh mà Ta đã truyền cho người tại Hô-rếp để người truyền cho cả Y-sơ-ra-ên.
\v 5 ta sẽ sai tiên tri Ê-li đến với các ngươi trước khi đến ngày to lớn và khủng khiếp của Đức Giê-hô-va.
\v 6 sẽ làm cho lòng cha trở lại với con cái, và lòng con cái trở lại với cha; hầu cho Ta sẽ không đến và đánh xứ này bằng sự hủy diệt hoàn toàn.”

View File

@ -1,9 +1,8 @@
# vi_ulb
Vietnamese ULB. STR https://git.door43.org/Door43/SourceTextRequestForm/issues/149
Vietnamese ULB. STR https://git.door43.org/Door43/SourceTextRequestForm/issues/149 and https://git.door43.org/Door43/SourceTextRequestForm/issues/166
Issues as of 12 Feb 2018:
* Version of English source text is not specified in STR. Manifest.yaml indicates version "x".
Issues as of 11 Apr 2018:
* Only one name or pseudonym is given for contributors or checkers.
* Acts 10:33 is not translated. Last sentence of 10:32 translates the footnote.
* 1 Corinthians 13:4 is not translated.

View File

@ -7,12 +7,12 @@ dublin_core:
description: 'An unrestricted literal Bible'
format: 'text/usfm'
identifier: 'ulb'
issued: '2018-02-12'
issued: '2018-04-11'
language:
direction: 'ltr'
identifier: 'vi'
title: Vietnamese
modified: '2018-02-12'
modified: '2018-04-11'
publisher: 'unfoldingWord'
relation:
- 'vi/tw'
@ -24,11 +24,11 @@ dublin_core:
-
identifier: 'ulb'
language: 'en'
version: 'x'
version: '6'
subject: 'Bible'
title: 'Vietnamese Unlocked Literal Bible'
type: 'bundle'
version: 'x.1'
version: '6.2'
checking:
checking_entity:
@ -37,6 +37,279 @@ checking:
checking_level: '3'
projects:
-
title: '1 SỬ KÝ '
versification: ufw
identifier: '1ch'
sort: 13
path: ./13-1CH.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: '1 CÁC VUA '
versification: ufw
identifier: '1ki'
sort: 11
path: ./11-1KI.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: '1 SA-MU-ÊN '
versification: ufw
identifier: '1sa'
sort: 9
path: ./09-1SA.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'II SỬ KÝ '
versification: ufw
identifier: '2ch'
sort: 14
path: ./14-2CH.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: '2 CÁC VUA '
versification: ufw
identifier: '2ki'
sort: 12
path: ./12-2KI.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'II SA-MU-ÊN '
versification: ufw
identifier: '2sa'
sort: 10
path: ./10-2SA.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'A-MỐT '
versification: ufw
identifier: 'amo'
sort: 30
path: ./30-AMO.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'ĐA-NI-ÊN '
versification: ufw
identifier: 'dan'
sort: 27
path: ./27-DAN.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'PHỤC TRUYỀN '
versification: ufw
identifier: 'deu'
sort: 5
path: ./05-DEU.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'TRUYỀN ĐẠO '
versification: ufw
identifier: 'ecc'
sort: 21
path: ./21-ECC.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'Ê-xơ-tê '
versification: ufw
identifier: 'est'
sort: 17
path: ./17-EST.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'XUẤT AI CẬP '
versification: ufw
identifier: 'exo'
sort: 2
path: ./02-EXO.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'Ê-XÊ-CHI-ÊN '
versification: ufw
identifier: 'ezk'
sort: 26
path: ./26-EZK.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'E-XƠ-RA '
versification: ufw
identifier: 'ezr'
sort: 15
path: ./15-EZR.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'SÁNG THẾ '
versification: ufw
identifier: 'gen'
sort: 1
path: ./01-GEN.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'HA-BA-CÚC '
versification: ufw
identifier: 'hab'
sort: 35
path: ./35-HAB.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'A-GHÊ '
versification: ufw
identifier: 'hag'
sort: 37
path: ./37-HAG.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'Ô-SÊ '
versification: ufw
identifier: 'hos'
sort: 28
path: ./28-HOS.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'Ê-SAI '
versification: ufw
identifier: 'isa'
sort: 23
path: ./23-ISA.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'CÁC QUAN XÉT '
versification: ufw
identifier: 'jdg'
sort: 7
path: ./07-JDG.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'Giê-rê-mi '
versification: ufw
identifier: 'jer'
sort: 24
path: ./24-JER.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'GIÓP '
versification: ufw
identifier: 'job'
sort: 18
path: ./18-JOB.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'GIÔ-ÊN '
versification: ufw
identifier: 'jol'
sort: 29
path: ./29-JOL.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'GIÔ-NA '
versification: ufw
identifier: 'jon'
sort: 32
path: ./32-JON.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'GIÔ-SUÊ '
versification: ufw
identifier: 'jos'
sort: 6
path: ./06-JOS.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'CA THƯƠNG '
versification: ufw
identifier: 'lam'
sort: 25
path: ./25-LAM.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'LÊ-VI KÝ '
versification: ufw
identifier: 'lev'
sort: 3
path: ./03-LEV.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'MA-LA-CHI '
versification: ufw
identifier: 'mal'
sort: 39
path: ./39-MAL.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'MI-CHÊ '
versification: ufw
identifier: 'mic'
sort: 33
path: ./33-MIC.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'NA-HUM '
versification: ufw
identifier: 'nam'
sort: 34
path: ./34-NAM.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'NÊ-HÊ-MI '
versification: ufw
identifier: 'neh'
sort: 16
path: ./16-NEH.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'DÂN SỐ KÝ '
versification: ufw
identifier: 'num'
sort: 4
path: ./04-NUM.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'ÁP-ĐIA '
versification: ufw
identifier: 'oba'
sort: 31
path: ./31-OBA.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'CHÂM NGÔN '
versification: ufw
identifier: 'pro'
sort: 20
path: ./20-PRO.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'THI THIÊN '
versification: ufw
identifier: 'psa'
sort: 19
path: ./19-PSA.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'RU-TƠ '
versification: ufw
identifier: 'rut'
sort: 8
path: ./08-RUT.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'NHÃ CA '
versification: ufw
identifier: 'sng'
sort: 22
path: ./22-SNG.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'XA-CHA-RI '
versification: ufw
identifier: 'zec'
sort: 38
path: ./38-ZEC.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'SÔ-PHÔ-NI '
versification: ufw
identifier: 'zep'
sort: 36
path: ./36-ZEP.usfm
categories: [ 'bible-ot' ]
-
title: 'MA-THI-Ơ '
versification: 'ufw'