vi_gl_vi_ult_act_book/vi_ult_act_book.usfm

1421 lines
175 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id ACT unfoldingWord Literal Text
\ide UTF-8
\h Công vụ các sứ đồ
\toc1 Công vụ các sứ đồ
\toc2 Công vụ các sứ đồ
\toc3 act
\mt Công vụ các sứ đồ
\c 1
\s5
\v 1 Anh Thê-ô-phi-lơ, trong cuốn sách trước đây, tôi có ghi chép mọi điều Chúa Giê-xu khởi thực hiện và giảng dạy, \v 2 cho đến ngày Ngài được tiếp lên trời, sau khi Ngài đã bởi Chúa Thánh Linh ban mạng lệnh cho các sứ đồ mà Ngài đã chọn.
\s5
\v 3 Sau khi chịu khổ, Ngài cũng tỏ cho họ thấy Ngài đang sống bằng nhiều chứng cớ thuyết phục. Trong bốn mươi ngày, Ngài hiện ra với họ và nói những điều về vương quốc của Thiên Chúa. \v 4 Khi họp mặt với họ, Ngài dặn họ không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải chờ đợi điều Cha đã hứa. Về điều đó, Ngài nói: “ Anh em có nghe Thầy nói
\s5
\v 5 rằng Giăng làm báp-têm cho anh em bằng nước, nhưng không bao lâu nữa, anh em sẽ nhận báp-têm bằng Chúa Thánh Linh.” \v 6 Vì vậy, khi nhóm lại với nhau, họ hỏi Ngài: “Thưa Chúa, có phải đây là lúc Ngài sẽ phục quốc cho Y-sơ-ra-ên không?” \v 7 Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần phải biết về thời giờ hay kỳ hạn mà Cha định ra theo thẩm quyền của Ngài. \v 8 Nhưng khi Chúa Thánh Linh giáng trên anh em, anh em sẽ nhận lấy quyền năng và sẽ làm chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong cả vùng Giu-đê và vùng Sa-ma-ri, cho đến tận cùng trái đất.
\v 9 Khi Ngài phán những lời ấy xong, đang lúc họ nhìn lên trời, thì Ngài được cất lên, và một đám mây che khuất Ngài khỏi mắt họ. \v 10 Khi họ đang chăm chú nhìn lên trời trong lúc Ngài thăng thiên thì, đột nhiên, có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng cạnh họ. \v 11 Họ nói: “ Mấy người Ga-li-lê kia, sao các anh đứng nhìn lên trời vậy? Giê-xu này được đem lên trời khỏi các anh, cũng sẽ trở lại y như cách các anh đã thấy Ngài lên trời vậy.”
\s5
\v 12 Rồi họ từ ngọn núi gọi là Ô-liu quay trở về Giê-ru-sa-lem; núi đó gần Giê-ru-sa-lem, cách một quãng đường đi trong ngày Sa-bát. \v 13 Đến nơi, họ lên gian phòng trên lầu nơi họ đang ở, gồm Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con trai A-phê, Si-môn Xê-lốt và Giu-đe, con của Gia-cơ. \v 14 Tất cả đều đồng lòng sốt sắng tiếp tục trong sự cầu nguyện cùng với các phụ nữ cũng như Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-xu, và các em trai của Ngài.
\s5
\v 15 Trong những ngày đó, Phi-e-rơ đứng dậy giữa các anh em số tên của những người nhóm nhau lại hôm đó khoảng một trăm hai mươi và nói rằng: \v 16 “ Thưa anh em, lời Kinh Thánh mà Chúa Thánh Linh bởi miệng Đa-vít phán tuyên trước đây về Giu-đa, đứa dẫn đường cho những kẻ bắt Chúa Giê-xu, phải ứng nghiệm.
\s5
\v 17 Vì hắn được kể trong số chúng ta và đã nhận phần của mình về chức vụ này.” \v 18 (Tên này đã mua một cánh đồng bằng số tiền kiếm được từ việc làm gian ác mình, và ở đó hắn té chúi đầu xuống đất, bụng vỡ tung, ruột đổ cả ra ngoài. \v 19 Việc này mọi người sống tại Giê-ru-sa-lem đều biết nên họ gọi cánh đồng đó bằng thứ tiếng riêng của họ là “Hác-en-đa-ma”, nghĩa là “Cánh Đồng Huyết.”)
\s5
\v 20 ”Vì trong sách Thi Thiên có chép rằng: Hãy để cánh đồng hắn bị tan hoang, và đừng có ai sống ở đó, Hãy để người khác nhận lấy chức vụ lãnh đạo của hắn.
\s5
\m \v 21 Vì vậy, cần phải có một người từ những người đã đồng hành với chúng ta suốt thời gian mà Chúa Giê-xu đi lại giữa chúng ta, \v 22 bắt đầu từ lúc Giăng làm báp-têm cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi chúng ta, và đó phải là người đã cùng chúng ta chứng kiến sự sống lại của Ngài.” \v 23 Họ cử ra hai người, Giô-sép gọi là Ba-sa-ba, cũng được gọi là Giúc-tu, và Ma-thia.
\s5
\v 24 Vậy, họ cầu nguyện, rằng: “Lạy Chúa, Ngài biết lòng của mọi người, vì thế, xin bày tỏ ai trong hai người này là người mà Ngài đã chọn \v 25 để nhận lấy vị trí trong mục vụ này và chức sứ đồ mà Giu-đa đã từ chối để đi đến chỗ của hắn.” \v 26 Họ bắt thăm để chọn; thăm trúng nhằm Ma-thia, và ông được kể vào hàng mười một sứ đồ.
\c 2
\s5
\v 1 Đến ngày Lễ Ngũ Tuần, tất cả họ đều nhóm lại tại cùng một chỗ. \v 2, Rồi, thình lình, từ trời phát ra một âm thanh giống như tiếng của luồng gió mạnh, đầy khắp cả ngôi nhà nơi họ đang ngồi. \v 3 Rồi có những lưỡi giống như lửa xuất hiện, rải ra, rồi đáp đậu trên mỗi người trong họ. \v 4 Tất cả họ được đầy dẫy Chúa Thánh Linh và bắt đầu nói bằng các thứ tiếng khác, tùy theo Thánh Linh cho họ nói.
\s5
\v 5 Lúc đó, có những người Do Thái tin kính từ mọi nước ở dười trời về Giê-ru-sa-lem lưu trú. \v 6 Khi tiếng đó phát ra, đám đông tụ tập lại và rất hoang mang vì mỗi người đều nghe họ nói bằng thứ tiếng của mình. \v 7 Họ đều kinh ngạc và lấy làm lạ; họ bảo: “Thật, chẳng phải mọi kẻ đang nói đó đều là dân Ga-li-lê sao?
\s5
\v 8 Vậy, sao chúng ta lại nghe mỗi người trong họ nói bằng tiếng bản địa của mình? \v 9 Người Bạt-thê, người Mê-đi, người Ê-la-mít, người sống tại Mê-sô-bô-ta-mi, tại Giu-đê, tại Cáp-ba-đốc, tại Bông, tại A-si, \v 10 Phi-ri-gi, Bam-phi-ly, tại Ai Cập, và tại các vùng thuộc Li-by gần Sy-ren,, cùng các khách viếng từ Rô-ma đến, \v 11 cả người Do Thái lẫn người tin đạo Do Thái, người Cơ-rết và người Ả-rậpvậy mà chúng ta lại nghe họ nói về những công việc vĩ đại của Thiên Chúa bằng tiếng bản địa của mình.”
\s5
\v 12 Vì thế, họ đều kinh ngạc và thấy khó hiểu; họ nói với nhau: “Điều này nghĩa là thế nào?” \v 13 Nhưng những người khác thì chế giễu, rằng: “Họ bị say rượu mới mà!”
\s5
\v 14 Nhưng Phi-e-rơ đang đứng với mười một sứ đồ khác, đã lên tiếng nói với họ: “ Thưa anh em là người ở vùng Giu-đê và hết thảy những người sống tại Giê-ru-sa-lem, xin hãy biết điều này, và chú ý nghe lời tôi nói đây. \v 15 Những người này không say như anh em tưởng, vì bây giờ mới là giờ thứ ba trong ngày.
\q
\s5
\v 16 Nhưng đây là điều đã được tuyên phán qua tiên tri Giô-ên, rằng: \q \v 17 Thiên Chúa phán: \q “Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đồ Thần Linh Ta trên mọi xác thịt.
\q
Con trai và con gái ngươi sẽ nói tiên tri,
\q
giới thanh niên của ngươi sẽ thấy khải tượng,
\q
và người già của ngươi sẽ mơ thấy chiêm bao.
\q \v 18 Trong những ngày đó, thậm chí trên các đầy tớ trai và đầy tớ gái của ta,
\q
ta cũng sẽ tuôn đổ Thần Linh ta, và họ sẽ nói tiên tri. \q \v 19 Ta sẽ tỏ những điềm lạ trên trời cao
\q
và những dấu hiệu dưới đất thấp này,
\q
là máu, lửa và hơi khói.
\q \v 20 Mặt trời sẽ tối lại,
\q
mặt trăng biến thành máu,
\q
trước khi đến ngày lớn và trọng đại của Chúa. \q \v 21 Mọi người kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu.”’
\m
\s5
\v 22 Thưa các anh em Y-sơ-ra-ên, xin hãy nghe những lời này: Giê-xu Na-xa-rét là người mà Thiên Chúa sai phái đến anh em kèm theo những việc quyền năng, phép lạ và dấu kỳ mà Thiên Chúa đã bởi Ngài thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. \v 23 Theo chương trình đã định và bởi sự biết trước của Thiên Chúa, Ngài bị nộp bởi tay những kẻ vô luật pháp, và anh em xử tử Ngài bằng cách đóng đinh trên cây thập tự. \v 24 Ngài là Đấng mà Thiên Chúa khiến sống lại, giải thoát Ngài khỏi nỗi thống khổ của sự chết, vì sự chết không thể cầm giữ Ngài.
\q
\s5
\v 25 Vì Đa-vít có nói về Ngài rằng: \q Tôi luôn thấy Chúa ở trước mặt tôi,
\q
vì Ngài ở bên phải tôi, nên tôi không bị chuyển dời. \q \v 26 Bởi vậy, lòng tôi sung sướng và lưỡi tôi vui mừng.
\q
Thật, xác thịt tôi sẽ sống trong niềm hy vọng chắc chắn.
\q \v 27 Vì Ngài sẽ không bỏ linh hồn tôi nơi Âm phủ,
\q
cũng sẽ không để cho Đấng Thánh Ngài nhìn thấy sự mục rữa. \q \v 28 Ngài đã bày tỏ cho tôi con đường sự sống; Ngài sẽ khiến tôi đầy dẫy sự vui sướng trước mặt Ngài.
\s5
\m \v 29 Thưa anh em, về tổ phụ Đa-vít, tôi dám nói không chút e ngại rằng ông đã chết và được an táng; mộ của ông còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. \v 30 Nhưng ông là tiên tri và biết Thiên Chúa đã thề hứa với mình rằng Ngài sẽ lập một bông trái của thân thể mình ngồi trên ngai mình. \v 31 Vì đã thấy việc phải xảy ra về sau này, nên ông nói về sự sống lại của Chúa Cứu Thế, rằng: \q Ngài không bị bỏ nơi Âm phủ, xác thịt Ngài cũng không thấy sự mục rửa.
\m
\s5
\v 32 Giê-xu này Đấng mà Thiên Chúa khiến sống lại, và tất cả chúng tôi là nhân chứng cho điều đó. \v 33 Vì vậy, sau khi được tôn lên bên phải Thiên Chúa và nhận lãnh lời hứa về Chúa Thánh Linh từ Cha, thì Ngài đã đổ Chúa Thánh Linh xuống như anh chị em đang thấy và nghe.
\m
\s5
\v 34 Vì Đa-vít đã không lên trời, nhưng ông lại nói : \q Chúa phán với Chúa tôi: “Hãy ngồi bên phải Ta, \q \v 35 cho đến khi Ta khiến các kẻ thù của Con thành bệ để chân Con.”’
\m
\s5
\v 36 Vì vậy, cả nhà Y-sơ-ra-ên cần biết chắc rằng Thiên Chúa đã lập Ngài, tức là Giê-xu mà anh chị em đã đóng đinh, làm Chúa và làm Đấng Cứu Thế.”
\s5
\v 37 Khi nghe các lời này, họ đau nhói trong lòng, nên hỏi Phi-e-rơ và các sứ đồ kia, rằng: “Các anh ơi, chúng tôi phải làm gì đây?” \v 38 Phi-e-rơ đáp: “Mỗi người trong anh chị em hãy ăn năn và chịu phép báp-têm nhân Danh Chúa Giê-xu để được tha thứ tội mình, rồi anh chị em sẽ nhận lãnh tặng phẩm Chúa Thánh Linh. \v 39 Vì lời hứa đó là dành cho anh chị em, cho con cháu của anh chị em và cho tất cả những người ở xa, tùy theo số người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.”
\s5
\v 40 Ông còn làm chứng và khuyên giục họ bằng nhiều lời khác nữa, rằng: “Hãy cứu mình khỏi thế hệ gian ác này.” \v 41 Vậy, họ tiếp nhận lời của ông và chịu. báp-têm; ngày hôm ấy, có khoảng ba ngàn người được thêm vào. \v 42 Rồi họ cứ tiếp tục trong giáo huấn của các sứ đồ và mối thông công, trong sự bẻ bánh và trong lời cầu nguyện.
\s5
\v 43 Mọi người đều sợ hãi; có nhiều điều kỳ diệu và dấu lạ xảy ra qua các sứ đồ. \v 44 Mọi người tin đều nhóm lại và sở hữu chung mọi thứ; \v 45 họ bán đi tài sản và của cải mình, rồi phân phát cho mọi người, theo nhu cầu của mỗi người.
\s5
\v 46 Hằng ngày họ cứ một lòng ở trong đền thờ, đồng thời cũng bẻ bánh tại nhà, cùng san sẻ thức ăn với lòng vui sướng, thật thà, \v 47 ngợi khen Thiên Chúa và chiếm được thiện cảm của mọi người. Mỗi ngày Chúa thêm những người được cứu vào số của họ.
\c 3
\s5
\v 1 Vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phi-e-rơ và Giăng đi lên đền thờ. \v 2 Có một người nọ bị què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đặt ở chỗ gọi là Cửa Đẹp của đền thờ để xin tiền bố thí của những người vào đền thờ. \v 3 Khi thấy Phi-e-rơ và Giăng sắp vào đền thờ, anh ta xin họ bố thí cho mình.
\s5
\v 4 Nhưng Phi-e-rơ, cùng với Giăng, nhìn chằm chằm vào anh, đáp: “ Nhìn chúng tôi đây.” \v 5 Anh què nhìn họ, mong họ sẽ cho mình chút gì đó. \v 6 Nhưng Phi-e-rơ nói : “Bạc và vàng tôi không có, nhưng điều tôi có, tôi sẽ cho anh. Nhân Danh Chúa Cứu Thế Giê-xu ở Na-xa-rét, hãy bước đi.”
\s5
\v 7 Nắm lấy tay phải của anh, Phi-e-rơ đỡ anh đứng dậy; lập tức, bàn chân và mắt cá của anh được cứng mạnh. \v 8 Nhảy dựng lên, anh què đứng và bắt đầu bước đi; anh vào đền thờ cùng với họ, vừa đi vừa nhảy và ngợi khen Thiên Chúa.
\s5
\v 9 Mọi người đều nhìn thấy anh bước đi và ngợi khen Thiên Chúa. \v 10 Họ cũng nhận ra anh chính là người vẫn ngồi xin tiền bố thí tại Cửa Đẹp của đền thờ; họ vô cùng ngạc nhiên và sửng sốt vì việc đã xảy ra cho anh.
\s5
\v 11 Khi anh cứ đeo theo Phi-e-rơ và Giăng, mọi người đều đổ xô đến chỗ họ tại cổng vòm, gọi là Cổng Vòm Sa-lô-môn, vô cùng ngạc nhiên. \v 12 Khi Phi-e-rơ thấy vậy, ông hỏi dân chúng: “ Thưa anh chị em Y-sơ-ra-ên, sao anh chị em lấy làm lạ về việc này? Sao anh chị em lại nhìn chúng tôi chằm chằm như thể chúng tôi đã nhờ quyền năng hoặc công đức riêng của mình để khiến anh ta bước đi?
\s5
\v 13 Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Y-sác và Thiên Chúa của Gia-cốp, là Thiên Chúa của tổ phụ chúng ta, đã tôn vinh Giê-xu, tôi tớ của Ngài, Đấng mà anh chị em đã nộp và khước từ trước mặt quan tổng đốc Phi-lát khi ông ấy đã quyết định thả Ngài. \v 14 Anh chị em đã khước từ Đấng Thánh và công chính mà xin tha cho mình một kẻ giết người.
\s5
\v 15 Anh chị em đã giết Chúa của sự sống, Đấng Thiên Chúa đã khiến sống lại từ cõi chết, và chúng tôi là nhân chứng cho điều này. \v 16 Giờ đây, bởi đức tin nơi danh Ngài, người mà anh chị em đều thấy và biết này đã được mạnh mẽ. Danh Giê-xu và đức tin bởi Ngài khiến người này được mạnh khỏe hoàn toàn trước mặt tất cả anh chị em.
\s5
\v 17 Bây giờ, thưa anh chị em, tôi biết rằng anh chị em đã hành động vì thiếu hiểu biết, cũng như giới cầm quyền của mình vậy. \v 18 Nhưng những điều mà Thiên Chúa đã báo trước bởi miệng của tất cả các nhà tiên tri, rằng Đấng Cứu Thế của Ngài phải chịu thương khó, thì Ngài đã làm ứng nghiệm như vậy.
\s5
\v 19 Vì vậy, hãy ăn năn, và quay đầu, để tội mình được bôi xóa, \v 20 để rồi có những thời kỳ tươi mới đến từ sự hiện diện của Chúa; và Ngài sai phái Đấng đã được chỉ định cho anh chị em, tức Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\s5
\v 21 Ngài là Đấng trời phải tiếp nhận cho đến thời kỳ phục hồi muôn vật mà từ xưa Thiên Chúa đã nói đến bởi miệng các tiên tri thánh của Ngài. \v 22 Thật vậy, Môi-se có nói: Chúa là Thiên Chúa của anh chị em sẽ lập nên giữa vòng anh chị em một vị tiên tri giống như tôi. Anh chị em sẽ nghe theo người trong mọi điều bất cứ điều gì người sẽ nói với anh chị em. \v 23 Người nào không nghe theo vị tiên tri đó sẽ bị diệt khỏi giữa vòng dân sự.
\s5
\v 24 Thật vậy, tất cả các tiên tri từ Sa-mu-ên và những người đến sau ông cũng đã rao báo về những ngày này. \v 25 Anh chị em là con cháu của các tiên tri và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với tổ phụ mình khi Ngài phán với Áp-ra-ham, rằng: Tất cả các dòng tộc sẽ dưới đất đều sẽ được phước nhờ dòng dõi con. \v 26 Sau khi đã lập tôi tớ Ngài lên, Thiên Chúa sai phái Ngài đến với anh chị em trước tiên, ban phước cho anh em bằng cách xoay hướng mọi người trong anh chị em khỏi tình trạng gian ác mình.”
\c 4
\s5
\v 1 Khi Phi-e-rơ và Giăng đang nói với dân chúng, các thầy tế lễ, lãnh binh đền thờ và người Sa-đu-sê ập đến. \v 2 Họ rất lúng túng vì Phi-e-rơ và Giăng đang giảng dạy dân chúng về Chúa Giê-xu và công bố sự sống lại từ cõi chết nơi Chúa Giê-xu. \v 3 Vậy là họ bắt hai người giam vào ngục chờ đến sáng hôm sau, vì lúc đó đã chiều tối. \v 4 Nhưng nhiều người nghe sứ điệp đó đã tin; và số người tin khoảng năm ngàn người.
\s5
\v 5 Ngày hôm sau, giới quan quyền, các trưởng lão và các thầy dạy luật họp lại tại Giê-ru-sa-lem. \v 6 Có thầy cả thượng phẩm An-ne cùng với Cai-phe, Giăng, A-léc-xan-đơ và cả dòng tộc của thầy cả thượng phẩm. \v 7 Khi đã đem Phi-e-rơ và Giăng ra trình diện ở chính giữa, họ hỏi hai người: “Bởi quyền phép nào, hay nhân danh ai, mà các ông làm việc đó?”
\s5
\v 8 Lúc đó, Phi-e-rơ được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, đáp lại họ: “Thưa các vị quan chức và các trưởng lão, \v 9 nếu hôm nay chúng tôi bị chất vấn về việc lành đã làm cho một người bệnh, rằng nhờ đâu anh ta được lành, \v 10 thì tất cả các ông và toàn dân Y-sơ-ra-ên cần biết rằng nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu người Na-xa-rét, Đấng mà các ông đã đóng đinh trên cây thập tự, nhưng được Thiên Chúa làm cho sống lại từ cõi chết, ấy là nhờ Ngài mà người này đứng được trước mặt các ông đây.
\s5
\v 11 Chúa Cứu Thế Giê-xu là hòn đá mà thợ xây các ông đã khước từ, nhưng lại được trở nên đá góc nhà. \v 12 Chẳng có sự cứu rỗi nơi bất kỳ ai khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác được ban cho con người nhờ đó chúng ta được cứu.”
\s5
\v 13 Khi họ thấy sự dạn dĩ của Phi-e-rơ và Giăng, cũng như biết được hai ông chỉ là những người bình dân, không được học hành, thì họ ngạc nhiên; họ cũng nhận ra hai người đã từng ở với Chúa Giê-xu. \v 14 Vì thấy người được chữa lành đứng với hai ông, nên họ không thể nói gì để phản bác lại.
\s5
\v 15 Nhưng sau khi ra lệnh cho các sứ đồ ra ngoài, họ bàn bạc với nhau. \v 16 Họ nói: “Chúng ta sẽ làm gì với những người này? Vì, thật, mọi người sống tại Giê-ru-sa-lem đều biết họ đã làm một phép lạ rành rành, và ta không thể phủ nhận điều đó. \v 17 Nhưng để việc này không lan truyền thêm nữa giữa vòng dân chúng, chúng ta hãy cảnh cáo họ không được tiếp tục nhân danh này giảng dạy cho bất kỳ ai.” \v 18 Vậy, họ gọi Phi-e-rơ và Giăng vào, ra lệnh cho hai người không được nhân Danh Chúa Giê-xu phát biểu hoặc giảng dạy gì nữa.
\s5
\v 19 Nhưng Phi-e-rơ và Giăng đáp lại họ, rằng: “ Các ông cứ xét xem, trước mặt Thiên Chúa, liệu có đúng không khi vâng lời các ông thay vì vâng lời Thiên Chúa. \v 20 Vì chúng tôi không thể thôi nói về những điều chúng tôi đã thấy và nghe.”
\s5
\v 21 Sau khi cảnh cáo thêm Phi-e-rơ và Giăng, họ để cho hai người đi. Họ không tìm được cớ gì để hình phạt hai người vì cớ dân chúng, bởi ai cũng ngợi khen Thiên Chúa về việc đã xảy ra. \v 22 Vì người trải nghiệm phép lạ chữa lành này đã hơn hơn bốn mươi tuổi.
\s5
\v 23 Sau khi được trả tự do, Phi-e-rơ và Giăng đến gặp anh chị em mình và thuật lại mọi điều mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão đã nói với họ. \v 24 Khi nghe điều đó, họ cùng lên tiếng thưa với Thiên Chúa, rằng: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng đã dựng nên các tầng trời, đất và biển, cùng mọi vật ở trong đó, \v 25 Ngài là Đấng bởi Chúa Thánh Linh đã phán qua miệng của đầy tớ Ngài, tức tổ phụ Đa-vít của chúng tôi, rằng: \q Vì sao các ngoại bang nổi giận,
\q
và các dân tưởng tượng chuyện vô ích?
\s5
\m \v 26 \q Các vua trên đất nổi dậy,
\q
và các quan tướng hiệp lại
\q
chống lại Chúa, và chống lại Đấng chịu xức dầu của Ngài.”
\s5
\m \v 27 Thật, cả Hê-rốt và Bôn-xơ Phi-lát, cùng với các dân ngoại và dân Y-sơ-ra-ên, đã hiệp lại với nhau trong thành này chống lại tôi tớ thánh của Ngàilà Giê-xu, Đấng mà Ngài xức dầu. \v 28 Họ tập hợp lại để thực hiện mọi việc mà tay Ngài và chương trình của Ngài đã định trước sẽ xảy ra.
\s5
\v 29 Giờ đây, Chúa ôi, xin hãy xem những lời đe dọa của họ và cho các tôi tớ của Ngài rao truyền lời Ngài cách dạn dĩ. \v 30 Xin Ngài giơ tay ra để chữa lành, và làm những dấu lạ cùng những việc diệu kỳ bởi danh của tôi tớ thánh Ngài, là Chúa Giê-xu.” \v 31 Khi họ cầu nguyện xong, nơi họ đang nhóm lại rúng động; tất cả họ đều được đầy dẫy Chúa Thánh Linh và dạn dĩ nói ra đạo của Thiên Chúa.
\s5
\v 32 Số tín hữu đông đảo ấy đều đồng tâm hiệp ý. Không ai xem điều mình có là của riêng, mà cùng san sẻ mọi thứ cho nhau. \v 33 Bằng quyền năng mạnh mẽ, các sứ đồ công bố lời chứng mình về sự sống lại của Chúa Giê-xu, và ai trong họ cũng được dư dật ơn Chúa.
\s5
\v 34 Trong vòng họ, không ai thiếu thốn gì, vì tất cả những người sở hữu đất đai hay nhà cửa đều bán đi và đem tiền thu được đến \v 35 đặt ở chân các sứ đồ, và nó được cấp phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu của từng người.
\v 36 Giô-sép, một người Lê-vi và công dân Chíp-rơ, được các sứ đồ gọi là Ba-na-ba (nghĩa là Con Sự Khích Lệ), \v 37 bán đi đồng ruộng mình có và đem tiền đó đặt ở chân các sứ đồ.
\c 5
\s5
\v 1 Bấy giờ, có một người nọ tên A-na-nia, với vợ là Sa-phi-ra, bán một thửa đất, \v 2 và giữ lại một phần tiền bán ( người vợ cũng biết việc đó) rồi đem một phần đến đặt nơi chân các sứ đồ.
\s5
\v 3 Nhưng Phi-e-rơ hỏi: “ Này, anh A-na-nia, sao Sa-tan chiếm hữu lòng anh, khiến anh nói dối Chúa Thánh Linh và giữ lại một phần tiền bán đất đó? \v 4 Chẳng phải khi chưa bán, nó vẫn là của anh, và sau khi bán, chẳng phải anh cũng có toàn quyền với nó sao? Sao trong lòng anh lại toan tính việc này? Chẳng phải anh nói dối người ta đâu, nhưng là nói dối Thiên Chúa đó.” \v 5 Sau khi nghe những lời ấy, A-na-nia ngã xuống và tắt thở. Mọi người nghe biết đều rất sợ hãi. \v 6 Rồi các thanh niên đứng dậy khâm liệm xác anh ta và đem đi chôn.
\s5
\v 7 Khoảng ba tiếng sau, vợ anh ta bước vào, chưa biết gì về chuyện đã xảy ra. \v 8 Phi-e-rơ hỏi chị: “Hãy cho tôi biết có phải anh chị đã bán thửa đất được chừng đó tiền hay không.” Chị đáp: “ Vâng, được bấy nhiêu đó.”
\s5
\v 9 Vậy là Phi-e-rơ nói với chị: “Sao hai người lại thông đồng với nhau để thử Thánh Linh của Chúa? Kìa, bàn chân của những người chôn chồng chị đang ở cửa, và họ sẽ đem chị đi luôn.” \v 10 Lập tức, chị ta ngã xuống tại chân ông và tắt thở. Các thanh niên bước vào, thấy chị đã chết, họ thì đem chị đi chôn bên cạnh chồng. \v 11 Sự kinh khiếp rất lớn giáng trên cả Hội Thánh và trên tất cả những ai nghe chuyện.
\s5
\v 12 Có nhiều dấu lạ và việc diệu kỳ xảy ra giữa vòng dân chúng qua bàn tay của các sứ đồ. Tất cả họ đều đồng lòng nhóm lại tại Cổng Vòm Sa-lô-môn. \v 13 Nhưng không ai khác dám gia nhập họ, dầu dân chúng rất nể phục họ.
\s5
\v 14 Tuy nhiên, có thêm nhiều người tin được thêm vào cho Chúa, cả nam lẫn nữ đều đông rất, \v 15 đến nỗi người ta thậm chí đem cả người bệnh ra đường, đặt nằm trên giường và ghế, để khi Phi-e-rơ đi ngang qua, ít nữa bóng của ông cũng che được mấy người trong họ. \v 16 Cũng có rất nhiều người từ các thành xunh quanh Giê-ru-sa-lem đến, đem theo người bệnh và người bị uế linh hành hạ. Tất cả đều được chữa lành.
\s5
\v 17 Nhưng thầy cả thượng phẩm đứng dậy, cùng với tất cả những kẻ theo ông ta (là phái Sa-đu-sê); họ đầy lòng đố kỵ, \v 18 ra tay bắt các sứ đồ và giam vào khám công.
\s5
\v 19 Thế nhưng trong đêm, một thiên sứ của Chúa đã mở cửa nhà lao đem họ ra ngoài, và dặn: \v 20 “Hãy vào đền thờ và đứng đó giảng cho dân chúng mọi lời của của sự sống này.” \v 21 Khi nghe như vậy, họ đi vào đền thờ vào lúc rạng sáng và giảng dạy. Nhưng thầy cả thượng phẩm cùng những kẻ theo ông ta đến, triệu tập hội đồng và tất cả các trưởng lão trong dân Y-sơ-ra-ên, rồi truyền cho nhà giam giải các sứ đồ đến.
\s5
\v 22 Nhưng các cảnh vệ đi mà không thấy họ trong nhà lao, nên quay trở lại báo cáo, \v 23 rằng: “Chúng tôi thấy nhà lao đóng chặt, lính canh đứng ngoài cửa, nhưng khi mở ra thì không thấy ai ở bên trong cả.”
\s5
\v 24 Khi viên lãnh binh đền thờ và các thầy tế lễ cả nghe những lời ấy, họ rất bối rối, không biết chuyện gì đã xảy ra. \v 25 Rồi có người đến báo rằng: “Những người mà các ông giam vào ngục hiện đang đứng trong đền thờ giảng dạy dân chúng.”
\s5
\v 26 Vậy, viên lãnh binh cùng các cảnh vệ đi và bắt họ về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ dân chúng ném đá. \v 27 Khi đã đem các sứ đồ về, họ để các sứ đồ đứng trước mặt hội đồng. Rồi thầy cả thượng phẩm thẩm vấn họ, \v 28 rằng: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông lấy danh này giảng dạy, vậy mà các ông lại khiến Giê-ru-sa-lem tràn ngập giáo huấn mình, và muốn đem máu của người ấy đổ trên chúng tôi.”
\s5
\v 29 Nhưng Phi-e-rơ và các sứ đồ đáp : “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa thay vì vâng lời người ta. \v 30 Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã khiến Chúa Giê-xu sống lại; Ngài là Đấng mà các ông đã giết bằng cách treo Ngài trên cây gỗ. \v 31 Thiên Chúa đã đem Ngài lên bên phải mình để làm Vua và Đấng Cứu Thế, để ban sự ăn năn cho Y-sơ-ra-ên, cùng sự tha tội. \v 32 Chúng tôi là chứng nhân của các việc ấy, và Chúa Thánh Linh, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho kẻ vâng lời Ngài, cũng vậy.”
\s5
\v 33 Khi các thành viên hội đồng nghe lời ấy, họ rất tức giận và muốn giết chết các sứ đồ. \v 34 Nhưng có một thành viên hội đồng, một người Pha-ri-si tên Ga-ma-li-ên, là giáo sư luật, được mọi người nể trọng, đứng dậy truyền đem các sứ đồ ra ngoài một lát.
\s5
\v 35 Rồi ông nói với họ: “Hỡi người Y-sơ-ra-ên, hãy giữ mình và lưu ý đến những gì các ông định làm với mấy người này. \v 36 Vì trước đây ít lâu, Thêu-đa nổi dậy, tự xưng mình thế này thế nọ, và có một số, chừng bốn trăm người, đã theo hắn. Hắn bị giết và tất cả những kẻ vâng lệnh hắn đều tan tác, chẳng được gì hết. \v 37 Sau hắn có Giu-đa người Ga-li-lê nổi lên trong thời kỳ kiểm tra dân số và lôi kéo được một số người theo mình. Rồi hắn cũng bỏ mạng và tất cả những người phục tùng hắn đều tan rã.
\s5
\v 38 Giờ thì tôi tôi xin nói với các ông, hãy tránh xa những người này và để mặc họ, vì nếu âm mưu hay công việc này là của loài người, thì nó sẽ sụp đổ. \v 39 Nhưng nếu là việc của Thiên Chúa thì các ông sẽ không thể phá đổ họ, mà không chừng các ông lại còn nhận ra mình đang đấu địch lại Thiên Chúa.” Vậy là họ nghe theo ông.
\s5
\v 40 Họ gọi các sứ đồ vào, đánh đòn và ra lệnh cho các ông không được nhân danh Chúa Giê-xu giảng dạy nữa, rồi để cho đi. \v 41 Vậy, các sứ đồ rời khỏi hội đồng, vui mừng vì được kể là xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa. \v 42 Hằng ngày từ đó trở đi, trong đền thờ cũng như từ nhà này sang nhà khác, họ cứ giảng dạy và công bố Phúc âm, rằng Giê-xu là Chúa Cứu Thế.
\c 6
\s5
\v 1 Trong những ngày đó, khi số môn đồ đang tăng mạnh, thì người Do Thái nói tiếng Hy-lạp bắt đầu phàn nàn về người Hê-bơ-rơ, vì các góa phụ của họ bị bỏ bê trong việc cấp phát lương thực hàng ngày.
\s5
\v 2 Vậy, mười hai sứ đồ triệu tập số đông đảo các môn đồ lại và nói : “ Chúng tôi mà bỏ lời của Thiên Chúa để đi hầu bàn thì không đúng. \v 3 Vì thế, thưa anh chị em, xin hãy chọn ra những người có tiếng tốt giữa vòng anh chị em,, bảy người đầy dẫy Chúa Thánh Linh và khôn ngoan, để chúng tôi có thể chỉ định lo công việc này. \v 4 Còn chúng tôi thì sẽ tiếp tục luôn trong sự cầu nguyện và trong chức vụ giảng đạo.”
\s5
\v 5 Lời họ nói khiến mọi người đều hài lòng. Vậy, họ chọn Ê-tiên, một người đầy dẫy đức tin và Chúa Thánh Linh, Phi-líp, Bô-cô-rơ, Ni-ca-nô, Ti-môn, Ba-mê-na và Ni-cô-la, một người An-ti-ốt theo Do Thái giáo. \v 6 Họ trình những người đó trước mặt các sứ đồ, rồi các sứ đồ cầu nguyện và đặt tay trên họ.
\s5
\v 7 Như vậy, lời Thiên Chúa tiếp tục lan ra và số môn đồ tại Giê-ru-sa-lem gia tăng nhiều; cũng có rất đông thầy tế lễ vâng phục đức tin.
\s5
\v 8 Bấy giờ, Ê-tiên, đầy ơn và quyền năng, làm việc diệu kỳ và phép lạ lớn trong dân chúng. \v 9 Nhưng có một số người thuộc nhà hội gọi là, “Những Con Người Tự Do” A-si cùng với mấy kẻ từ Sy-ren, A-léc-xan-tri, Si-li-si và A-si nổi lên tranh luận với Ê-tiên.
\s5
\v 10 Nhưng họ không thể địch lại sự khôn ngoan và Chúa Thánh Linh mà ông cậy vào khi nói. \v 11 Rồi họ mua chuộc mấy người, bảo,: “Chúng tôi đã nghe Ê-tiên nói những lời phạm thượng Môi-se và Thiên Chúa.”
\s5
\v 12 Họ cũng kích động dân chúng cùng các trưởng lão và các thầy dạy luật, và họ đến bắt Ê-tiên rồi giải ông ra trước hội đồng. \v 13 Họ đưa những kẻ làm chứng dối đến, khai: “Tên này cứ nói phạm đến nơi thánh và luật pháp. \v 14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giê-xu người Na-xa-rét kia sẽ hủy phá nơi này và thay đổi những tập tục mà Môi-se đã truyền lại cho chúng ta.” \v 15 Mọi người ngồi tại hội đồng chăm chú nhìn ông, thấy mặt ông giống như mặt của thiên sứ vậy.
\c 7
\s5
\v 1 Thầy cả thượng phẩm hỏi: “ Có đúng vậy không?” \v 2 Ê-tiên đáp : \p “Thưa các anh và các bậc cha chú, xin hãy nghe tôi: Thiên Chúa vinh hiển đã hiện ra với tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta khi người ở tại Mê-sô-bô-ta-mi, trước khi người sống tại Cha-ran. \v 3 Ngài phán cùng người rằng: Hãy rời bỏ xứ sở và bà con mình đi đến xứ ta sẽ chỉ cho con.
\s5
\v 4 Vậy là người ra khỏi xứ của dân Canh-đê đến sống tại Cha-ran; từ đó, sau khi cha người qua đời, Thiên Chúa đã đem người vào xứ này, nơi quý vị hiện đang sinh sống. \v 5 Nhưng Ngài chẳng ban cho người sản nghiệp trong xứ, thậm chí một tấc đất cũng không. Nhưng Ngài có hứa ban xứ cho người, và cho con cháu người, làm sản nghiệp, dầu người chưa có con.
\s5
\v 6 Thiên Chúa phán với người rằng con cháu người sẽ kiều ngụ tại một xứ xa lạ, rồi dân ở đó sẽ bắt họ làm nô lệ và ngược đãi họ trong bốn trăm năm. \v 7 Nhưng, Thiên Chúa phán: Ta sẽ đoán phạt dân mà họ phải phục dịch đó, và sau đó, họ sẽ ra ra đi và thờ phượng ta tại nơi này. \v 8 Rồi Thiên Chúa ban cho Áp-ra-ham giao ước cắt bì, nên, khi Áp-ra-ham sinh Y-sác, người làm phép cắt bì cho Y-sác vào ngày thứ tám; rồi Y-sác sinh Gia-cốp, và Gia-cốp sinh mười hai tộc trưởng.
\s5
\v 9 Vì các tộc trưởng đố kỵ với Giô-sép, họ bán người sang Ai-cập; nhưng Thiên Chúa ở với người, \v 10 và giải cứu người khỏi mọi sự khốn khó. Ngài ban ơn và sự khôn ngoan cho người trước mặt Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và vua ấy đã lập người lên làm kẻ cai quản Ai Cập cùng cả nhà mình.
\s5
\v 11 Bấy giờ, có nạn đói xảy ra trên khắp xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an; tình cảnh rất khốn đốn vì tổ phụ chúng ta chẳng tìm được thức ăn. \v 12 Khi Gia-cốp nghe nói ở Ai-cập có lúa mì, người sai tổ phụ chúng ta đến đó lần thứ nhất. \v 13 Đến lần thứ hai thì Giô-sép tỏ mình cho các anh, và Pha-ra-ôn biết gia đình của Giô-sép.
\s5
\v 14 Giô-sép phái các anh về đón Gia-cốp, cha mình, cùng toàn thể người thân, bảy mươi lăm người tất cả. \v 15 Vậy, Gia-cốp xuống Ai-cập, rồi người và các tổ phụ của chúng ta qua đời. \v 16 Họ được đưa đến Si-chem, chôn trong mộ mà Áp-ra-ham đã dùng bạc mua của các con của Hê-mô tại Si-chem.
\s5
\v 17 Khi thời điểm của lời hứa, tức lời Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham, đến gần, thì số dân gia tăng và trở nên đông đúc tại Ai-cập, \v 18 cho đến khi một vị vua khác không biết Giô-sép lên cai trị Ai Cập. \v 19 Vua này lừa dối dân ta và đối xử tệ bạc với tổ phụ chúng ta, buộc họ phải bỏ đi con cái mới sinh của mình, không được giữ cho sống.
\s5
\v 20 Lúc đó, Môi-se ra đời; người đẹp đẽ trước mặt Thiên Chúa, và được nuôi dưỡng ba tháng trong nhà cha mình. \v 21 Khi người bị bỏ ra ngoài, con gái của Pha-ra-ôn đã đem người về nuôi như con mình.
\s5
\v 22 Môi-se được dạy cho mọi sự khôn ngoan của người Ai-cập; người có năng lực trong lời nói và việc làm. \v 23 Nhưng khi được khoảng bốn mươi tuổi, người định ý đi thăm anh em mình, tức con cháu Y-sơ-ra-ên. \v 24 Nhìn thấy một người Y-sơ-ra-ên bị ngược đãi, Môi-se bênh vực anh ta và báo thù cho kẻ bị áp bức này bằng cách đánh giết người Ai-cập kia: \v 25 vì người tưởng anh em sẽ hiểu Thiên Chúa đang dùng tay mình giải cứu họ, nhưng họ không hiểu.
\s5
\v 26 Ngày hôm sau, người đến với mấy người Y-sơ-ra-ên đang cãi vả, và thuyết phục họ hòa thuận, rằng: Này, các anh đều là anh em mà. Sao lại gây thương tổn cho nhau? \v 27 Nhưng người đã làm quấy với kẻ lân cận mình đẩy đẩy người ra, hỏi: Ai lập anh làm người cai trị và xét xử chúng tôi? \v 28 Anh không muốn giết tôi như đã giết người Ai Cập hôm qua đấy chứ?
\s5
\v 29 Khi nghe như vậy, Môi-se chạy trốn và trở thành khách kiều ngụ trong xứ Ma-đi-an, nơi người sinh được hai con trai. \v 30 Bốn mươi năm sau, một thiên sứ hiện ra với người tại hoang mạc Si-nai, trong một ngọn lửa cháy nơi bụi gai.
\s5
\v 31 Khi Môi-se nhìn thấy ngọn lửa đó, người lấy làm lạ; người đến gần để xem, thì có tiếng Chúa phán rằng: \v 32 Ta là Thiên Chúa của tổ phụ con, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của Y-sác và của Gia-cốp. Môi-se run rẩy và không dám nhìn.
\s5
\v 33 Rồi Chúa phán với người: Hãy cởi giày con ra vì chỗ con đang đứng là đất thánh. \v 34 Ta đã nhìn thấy nỗi khổ của dân Ta tại Ai-cập; Ta đã nghe tiếng rên siết của họ, và Ta xuống để giải cứu họ; bây giờ, hãy đến, rồi Ta sẽ sai con đi Ai-cập.
\s5
\v 35 Môi-se này, người họ khước từ, rằng: Ai đã lập anh làm kẻ cai trị hay quan tòa? chính người được Thiên Chúa sai phái làm kẻ cai trị và giải cứu bởi tay vị thiên sứ đã hiện ra với người nơi bụi gai. \v 36 Chính Môi-se này đã dẫn họ ra khỏi Ai-cập, sau khi làm các phép lạ và dấu kỳ tại xứ Ai-cập và tại Biển Đỏ, cũng như trong hoang mạc suốt bốn mươi năm. \v 37 Cũng chính Môi-se đã nói với con cái Y-sơ-ra-ên rằng: Thiên Chúa sẽ lập lên một tiên tri cho anh chị em giống như tôi đây, từ giữa vòng anh em của anh chị em.
\s5
\v 38 Đây là người ở trong đại hội chúng dân nơi hoang mạc với vị thiên sứ đã phán cùng mình trên Núi Si-nai, và ở với tổ phụ chúng ta; ông là người đã nhận lãnh lời sống để ban cho chúng ta. \v 39 Đây là người mà tổ phụ chúng ta không chịu vâng phục, nên đã gạt bỏ và trở lòng mình hướng về Ai-cập. \v 40 Họ đã nói với A-rôn: Hãy làm cho chúng tôi các thần sẽ dẫn dắt chúng tôi. Về phần Môi-se này, người đã đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho ông ấy.
\s5
\v 41 Vậy, trong những ngày đó, họ làm một con bò con và dâng sinh tế cho hình tượng đó, rồi vui mừng vì công việc của tay mình. \v 42 Nhưng Thiên Chúa đã quay lưng và bỏ mặc họ thờ phượng các tinh tú trên trời, như lời chép trong sách của các tiên tri, rằng: \q Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên,
\q
ngươi nào có dâng cho ta thú bị giết và sinh tế suốt bốn mươi năm trong hoang mạc đâu, đúng không?
\q \v 43 Ngươi chấp nhận đền của của thần Mo-lóc
\q
và ngôi sao của thần Rom-phan,
\q
cùng các ảnh tượng mà ngươi đã làm để phụng thờ chúng;
\q
và Ta sẽ đem các ngươi sang bên kia Ba-by-lôn.
\s5
\m \v 44 Lều chứng ước đồng hành cùng tổ phụ chúng ta trong hoang mạc, y như Đấng đã phán với Môi-se truyền dạy, rằng phải làm lều ấy theo mẫu ông đã nhìn thấy. \v 45 Đây là đền tạm mà tổ phụ chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, cũng đã tiếp nhận và đem theo khi họ chiếm hữu xứ của các dân. Thiên Chúa đã đuổi chúng đi trước mặt tổ phụ chúng ta cho đến thời Đa-vít, \v 46 người được ơn trước mặt Thiên Chúa, và đã cầu vấn để biết mình có thể tìm cho Thiên Chúa của Gia-cốp một nơi ngự hay không.
\s5
\v 47 Tuy nhiên, Sa-lô-môn cất ngôi nhà cho Thiên Chúa. \v 48 Nhưng Đấng Chí Cao không ở trong nhà tay người ta làm ra, như nhà tiên tri có nói: \q \v 49 Chúa phán: Trời là ngôi Ta, và đất là bệ đặt chân Ta.
\q
Ngươi có thể xây cho Ta nhà thế nào?
\q
Hoặc đâu là nơi Ta yên nghỉ? \q \v 50 Chẳng phải tay Ta làm ra tất cả những thứ này sao?
\s5
\v 51 Quý vị thật cứng cổ, lòng và tai không chịu cắt bì. Quý vị luôn chống cự Chúa Thánh h. Linh; quý vị chống cự y như tổ phụ mình. \v 52 Có tiên tri nào mà tổ phụ quý vị không bức hại? Họ giết các tiên tri rao báo trước sự xuất hiện của Đấng Công Chính; còn quý vị giờ lại trở thành kẻ phản bội Ngài và giết chết Ngài, \v 53 những kẻ đã nhận luật pháp các thiên sứ chuyển giao, nhưng lại không giữ nó.”
\s5
\v 54 Khi nghe các lời ấy, những thành viên hội đồng sôi sục trong lòng, và họ nghiến răng với Ê-tiên. \v 55 Nhưng ông, được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, nhìn chăm chăn lên trời và thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa; ông nhìn thấy Chúa Giê-xu đang đứng bên tay phải Thiên Chúa. \v 56 Ê-tiên nói : “ Kìa, tôi thấy bầu trời mở ra, và Con Người đang đứng bên tay phải Thiên Chúa.”
\s5
\v 57 Nghe vậy, các thành viên hội đồng bịt tai, la lên lớn tiếng, cùng nhau xông vào Ê-tiên. \v 58 Rồi lôi ông ra ngoài thành, họ ném đá ông. Những người chứng kiến để áo ngoài của mình nơi chân một thanh niên tên Sau-lơ.
\s5
\v 59 Khi họ đang ném đá Ê-tiên, ông cầu nguyện lớn tiếng, rằng: “Chúa Giê-xu ôi, xin tiếp lấy linh hồn con.” \v 60 Rồi quỵ xuống trên hai đầu gối, ông kêu lớn: “Chúa ôi, xin đừng đổ tội này cho họ.” Khi đã nói xong lời đó thì ông ngủ.
\c 8
\s5
\v 1 Sau-lơ tán thành việc giết chết Ê-tiên.,
Vì vậy, trong ngày đó có cơn bức hại lớn đối với Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem; thật vậy, ngoại trừ các sứ đồ, còn tín hữu đều tan lạc khắp vùng Giu-đê và Sa-ma-ri. \v 2 Những người sốt sắng chôn cất Ê-tiên và khóc thương ông rất nhiều. \v 3 Sau-lơ gây tổn hại lớn cho Hội Thánh; ông vào từng nhà, bắt cả đàn ông lẫn phụ nữ, rồi tống họ vào tù.
\s5
\v 4 đã Nhưng chính các tín hữu đã bị tan lạc lại đi đây đó công bố tin mừng về đạo. \v 5 Phi-líp xuống thành Sa-ma-ri công bố Chúa Cứu Thế cho họ.
\s5
\v 6 Dân chúng nghe ông giảng và thấy các phép lạ ông làm, thì họ cùng chú ý đến lời ông nói. \v 7 Vì uế linh la lớn rồi ra khỏi nhiều người trong họ. Nhiều người bị bại và bị què cũng được chữa lành. \v 8 Cho nên trong thành đó người ta rất vui mừng.
\s5
\v 9 Nhưng trong thành có một người kia tên Si-môn, trước đây làm thầy phù thủy, tự xưng mình tài giỏi và khiến dân Sa-ma-ri phải kinh ngạc. \v 10 Mọi người Sa-ma-ri, từ lớn đến nhỏ, đều chú ý nghe ông. Họ bảo: “Người này là quyền năng của Thiên Chúa, gọi là Đấng Vĩ Đại.” \v 11 Họ nghe theo ông vì trong một thời gian dài, ông đã khiến họ kinh ngạc bằng các trò ma thuật của mình.
\s5
\v 12 Nhưng khi họ tin Phi-líp, người công bố tin mừng về Nước Thiên Chúa và Danh của Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì cả đàn ông, phụ nữ đều chịu báp-têm. \v 13 Chính Si-môn cũng tin, và sau khi chịu báp-têm, ông thường xuyên ở với Phi-líp. Khi nhìn thấy các dấu lạ và những việc quyền năng được thực hiện, ông ông rất kinh ngạc.
\s5
\v 14 Bấy giờ, khi các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem hay tin vùng Sa-ma-ri đã tiếp nhận đạo của Thiên Chúa, họ sai Phi-e-rơ và Giăng xuống. \v 15 Đến nơi, hai sứ đồ cầu nguyện cho họ để họ nhận được Chúa Thánh Linh. \v 16 Vì Chúa Thánh Linh vẫn chưa giáng trên một ai trong số họ, mà họ chỉ được báp-têm trong danh Chúa Giê-xu mà thôi. \v 17 Vậy, Phi-e-rơ và Giăng đặt tay trên họ, thì họ nhận lãnh Chúa Thánh Linh.
\s5
\v 18 Khi Si-môn thấy Chúa Thánh Linh được ban cho qua sự đặt tay của các sứ đồ, thì ông biếu tiền cho họ. \v 19 Ông nói: “Xin cũng ban cho tôi thẩm quyền này để tôi đặt tay trên ai, thì người đó cũng có thể nhận lãnh Chúa Thánh Linh.”
\s5
\v 20 Nhưng Phi-e-rơ đáp: “Nguyện cho bạc của ông bị diệt vong cùng với ông, ông tưởng có thể dùng tiền để mua ơn ban của Thiên Chúa. \v 21 Ông chẳng có phần hoặc vai trò gì trong việc này, vì lòng ông không ngay thẳng với Thiên Chúa. \v 22 Vậy, hãy ăn năn về việc ác này của ông, và cầu nguyện với Chúa để biết đâu Ngài có thể tha thứ cho ông về ý định trong lòng ông. \v 23 Vì tôi thấy ông bị tiêm nhiễm chất độc cay đắng và bị tội lỗi trói buộc. ”
\s5
\v 24 Si-môn đáp: “Xin cầu nguyện Chúa cho tôi, để không một điều nào mà ông đã nói xảy ra cho tôi.”
\s5
\v 25 Khi đã làm chứng và giảng lời của Chúa xong, thì họ quay về Giê-ru-sa-lem, vừa đi vừa công bố Phúc Âm cho nhiều làng của người Sa-ma-ri.
\s5
\v 26 Bấy giờ, một thiên sứ của Chúa phán với Phi-líp: “Hãy đứng dậy đi về phía nam đến con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-xa.” (Đường này ở trong sa mạc.) \v 27 Vậy, ông đứng dậy và đi. Kìa, có một người từ Ê-thi-ô-bi đến, một vị quan thái giám đầy uy quyền phục vụ Can-đác, nữ hoàng Ê-thi-ô-bi. Ông chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ kho tàng của bà. Ông đã đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng. \v 28 Ông đang trên đường trở về và đang ngồi trên xe ngựa của mình đọc sách tiên tri Ê-sai.
\s5
\v 29 Chúa Thánh Linh phán với Phi-líp : “Hãy tiến đến và bám sát xe đó.” \v 30 Vậy, Phi-líp chạy đến và nghe ông đang đọc sách tiên tri Ê-sai. Ông hỏi: “Ngài có thật sự hiểu lời mình đang đọc đó chăng?” \v 31 Ông ta đáp: “Trừ khi có ai đó hướng dẫn tôi, chứ làm sao tôi hiểu được?” Vậy, ông mời Phi-líp lên xe ngồi với mình.
\q
\s5
\v 32 Lời Kinh Thánh mà người Ê-thi-ô-bi đang đọc là thế này: \q “ Người bị dẫn đi như chiên bị dẫn đi giết thịt;
\q
và như chiên con im lặng trước mặt người hớt lông,
\q
Người chẳng mở miệng. \q \v 33 Công lý dành cho Người bị tước đoạt thật nhục nhã.
\q
Ai có thể tả hết dòng dõi Người?
\q
Vì sự sống Người đã bị cất khỏi đất.”
\s5
\m \v 34 Vậy, quan thái giám hỏi Phi-líp : “Xin ông cho tôi biết vị tiên tri này đang nói về ai, về chính mình hay về một ai khác?” \v 35 Vậy là Phi-líp mở miệng, bắt từ phần Kinh Thánh này công bố Phúc Âm về Chúa Giê-xu cho ông ta.
\s5
\v 36 Đang lúc đi trên đường, họ gặp chỗ có nước, nên quan thái giảm hỏi: “ Này, ở đây có nước. Còn điều gì ngăn trở tôi chịu báp-têm?”
\s5
\v 37 \f +\ft Các cổ bản đáng tin cậy nhất không có Công Vụ 8:37: \fqa Phi-líp đáp: “Nếu ông hết lòng tin thì ông có thể chịu báp-têm.” Người Ê-thi-ô-bi đáp: “Tôi tin rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu là Con Thiên Chúa” \fqa*.\f*
\s5
\v 38 Vậy, người Ê-thi-ô-bi ra lệnh dừng xe lại. Rồi cả hai người, Phi-líp và quan thái giám, đều xuống nước, và Phi-líp làm báp-têm cho ông ta.
\s5
\v 39 Khi họ từ dưới nước trồi lên, Thánh Linh của Chúa đem Phi-líp đi; quan thái giám không còn nhìn thấy ông nữa, nhưng cứ vui mừng tiếp tục đi đường mình. \v 40 Còn Phi-líp thì xuất hiện tại A-xốt. Ông đi khắp vùng đó, rao giảng Phúc Âm cho tất cả các thành cho đến khi ông đến Sê-sa-rê.
\c 9
\s5
\v 1 Nhưng Sau-lơ cứ buông lời hăm dọa và giết chóc với các môn đồ Chúa. Anh đến gặp thầy cả thượng phẩm \v 2 yêu cầu ông này viết thư cho các nhà hội tại Đa-mách, để nếu anh bắt gặp người nào theo đạo, dù là đàn ông hay phụ nữ, thì anh có thể trói và giải họ về Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Khi anh đang đi đường, lúc gần đến thành Đa-mách, thình lình có ánh sáng từ trời chiếu rọi chung quanh anh. \v 4 Anh té xuống đất và nghe một tiếng phán với mình: “ Sau-lơ, Sau-lơ, sao con bức hại ta?”
\s5
\v 5 Sau-lơ đáp : “Thưa Chúa, Ngài là ai?” Chúa đáp: “Ta là Giê-xu mà con đang bức hại. \v 6 Nhưng hãy đứng dậy, đi vào trong thành, và sẽ có người chỉ cho con việc phải làm.” \v 7 Những người cùng đi với Sau-lơ đứng; ngây ra đó, vì họ nghe tiếng, nhưng không thấy người.
\s5
\v 8 Sau-lơ đứng dậy, nhưng khi mở mắt ra, ông chẳng thấy gì; vì thế, họ nắm tay dẫn ông vào thành Đa-mách. \v 9 Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng không ăn hay uống.
\s5
\v 10 Lúc đó, tại thành Đa-mách có một môn đồ nọ tên A-na-nia. Chúa phán với ông trong một khải tượng, rằng: “Này A-na-nia.” Ông đáp: “Con đây, thưa Chúa.” \v 11 Rồi Chúa phán với ông: “Hãy đứng dậy đi đến con đường gọi là Đường Thẳng, tới nhà của Giu-đa, hỏi gặp một người tên Sau-lơ, gốc Tạt-sơ, vì anh này đang cầu nguyện \v 12 và trong một khải tượng, anh thấy một người tên A-na-nia vào đặt tay trên mình để anh được sáng mắt lại.”
\s5
\v 13 Nhưng A-na-nia đáp : “Thưa Chúa, con đã nghe nhiều người nói về con người này, từng gây biết bao tổn hại cho các thánh đồ Ngài tại Giê-ru-sa-lem. \v 14 Anh ta được các thầy tế lễ cả ủy quyền để bắt giữ mọi người kêu cầu danh Ngài ở tại đây.” \v 15 Nhưng Chúa phán với ông: “Hãy đi, vì người ấy là công cụ được lựa chọn của Ta, để đem truyền danh Ta ra trước các dân ngoại quốc, cũng như các vua và con cái Y-sơ-ra-ên; \v 16 và ta sẽ tỏ cho anh ta biết phải chịu khổ vì danh ta đến mức nào.”
\s5
\v 17 Vậy, A-na-nia ra đi và vào nhà đó. Đặt tay trên Sau-lơ, ông nói: “Anh Sau-lơ, Chúa Giê-xu, là Đấng đã hiện ra cùng anh lúc đi đường, đã sai tôi đến để anh có thể được sáng mắt và được đầy dẫy Chúa Thánh Linh.” \v 18 Ngay lập tức, một vật gì đó giống như vảy rơi khỏi mắt của Sau-lơ và anh được sáng mắt trở lại. Anh đứng dậy và chịu phép báp-têm; \v 19 Rồi anh ăn và được lại sức.
Anh ở lại với các môn đồ tại Đa-mách mấy ngày.
\s5
\v 20 Anh lập tức công bố Chúa Giê-xu trong các nhà hội, rằng Ngài là Con Thiên Chúa. \v 21 Mọi người nghe anh đều kinh ngạc, bảo: “Chẳng phải đây là kẻ đã tiêu diệt những người cầu khẩn danh này tại Giê-ru-sa-lem sao? Vì lý do đó anh ta đã đến đây, để bắt họ giải về cho các thầy tế lễ cả ấy.” \v 22 Nhưng Sau-lơ cứ mạnh mẽ thêm, và gây bối rối cho những người Do Thái sống tại Đa-mách bằng cách chứng minh rằng Giê-xu là Chúa Cứu Thế.
\s5
\v 23 Sau nhiều ngày, người Do Thái cùng nhau lập mưu giết anh. \v 24 Nhưng Sau-lơ biết được âm mưu đó. Vì thật, ngày đêm họ canh gác cổng thành để giết chết anh. \v 25 Nhưng đang ban đêm, các môn đồ dòng anh xuống qua bức tường thành, trong một chiếc thúng.
\s5
\v 26 Khi đến Giê-ru-sa-lem, Sau-lơ tìm cách hòa nhập với các môn đồ, nhưng tất cả họ đều sợ anh, không tin rằng anh là môn đồ. \v 27 Nhưng Ba-na-ba dẫn ông đến gặp các sứ đồ. Ông cho họ biết Sau-lơ đã gặp Chúa trên đường như thế nào, rằng Chúa đã phán với anh ta, và Sau-lơ đã dạn dĩ nhân Danh Chúa Giê-xu lên tiếng tại thành Đa-mách ra sao.
\s5
\v 28 Vậy, anh được đi cùng với họ khi họ tới lui Giê-ru-sa-lem. Anh dạn dĩ phát biểu nhân danh Chúa Giê-xu. \v 29 Anh cũng phát biểu và tranh luận với người Do Thái nói tiếng Hy-lạp; nhưng họ cứ tìm cách giết anh. \v 30 Khi các anh em biết như vậy, họ đem anh xuống Sê-sa-rê và đưa anh sang Tạt-sơ.
\s5
\v 31 Vậy, Hội Thánh khắp cả vùng Giu-đê, vùng Ga-li-lê, và vùng Sa-ma-ri được bình yên và gây dựng; nhờ bước đi trong sự kính sợ Chúa và được sự an ủi của Chúa Thánh Linh, Hội Thánh được tăng trưởng về lượng. \v 32 Trong khi Phi-e-rơ đi khắp nơi trong vùng, ông cũng xuống thăm các thánh đồ sống tại thành Ly-đa.
\s5
\v 33 Tại đó, ông gặp một người tên Ê-nê, nằm liệt giường suốt tám năm vì vì bị bệnh bại.
\s5
\v 34 Vậy, Phi-e-rơ nói với anh ta: “ Anh Ê-nê, Chúa Cứu Thế Giê-xu chữa lành cho anh. Hãy đứng dậy và dọn giường đi.” Ngay lập tức, anh đứng dậy. \v 35 Vậy, mọi người sống tại Ly-đa và Sa-rôn thấy anh như vậy, thì họ trở lại cùng Chúa.
\s5
\v 36 Tại Giốp-bê có một môn đồ tên Ta-bi-tha, dịch ra là “Đô-ca.” Người phụ nữ này làm nhiều việc lành và việc nhân đức để giúp người nghèo. \v 37 Trong những ngày đó, chị ngã bệnh và qua đời. Tắm rửa cho chị xong, người ta đặt chị trong phòng trên lầu.
\s5
\v 38 Vì Ly-đa gần Giốp-bê, nên khi các môn đồ nghe Phi-e-rơ đang ở đó, họ sai hai người đến gặp ông, năn nỉ ông, rằng: “Xin hãy đến chỗ chúng tôi, đừng chậm trễ.” \v 39 Vậy, Phi-e-rơ đứng dậy đi với họ. Khi ông đến nơi, họ đưa ông lên phòng trên lầu. Tất cả các góa phụ đứng cạnh ông khóc, chỉ cho ông xem những chiếc áo khoác cùng các trang phục khác mà Đô-ca đã may cho họ khi chị còn sống.
\s5
\v 40 Phi-e-rơ bảo tất cả ra ngoài, rồi ông quỳ xuống cầu nguyện. Rồi, quay sang cái xác, ông nói: “Ta-bi-tha, hãy dậy đi.” Chị mở mắt ra, và khi nhìn thấy Phi-e-rơ, chị ngồi dậy. \v 41 Phi-e-rơ đưa tay đỡ chị đứng lên; ông gọi các thánh đồ và những góa phụ vào cho họ thấy chị đã sống. \v 42 Cả thành Giốp-bê đều biết việc này và có nhiều người tin Chúa. \v 43 Phi-e-rơ ở lại Giốp-bê nhiều ngày tại nhà một người thợ thuộc da tên Si-môn.
\c 10
\s5
\v 1 Tại thành Sê-sa-rê có một người tên Cọt-nây, là đại đội trưởng trong đơn vị gọi là Trung Đoàn Y-ta-li. \v 2 Ông là người nhiệt thành và kính sợ Thiên Chúa, cùng với cả nhà mình; ông bố thí rộng rãi cho người thiếu thốn và thường xuyên cầu nguyện với Thiên Chúa.
\s5
\v 3 Khoảng giờ thứ chín trong ngày, trong một khải tượng, ông nhìn thấy rõ ràng một thiên sứ của Thiên Chúa hiện đến với mình, gọi: “ Anh Cọt-nây!” \v 4 Cọt-nây nhìn thiên sứ chằm chằm và sợ hãi đáp: “Thưa Ngài, có việc gì?” Thiên sứ nói với ông: “Lời cầu nguyện và tặng phẩm anh cứu giúp người nghèo đã thấu đến trước mặt Thiên Chúa như một của lễ được Ngài ghi nhớ. \v 5 Vậy, bây giờ, hãy sai người đến Giốp-bê và mời về một người có tên Si-môn, gọi là Phi-e-rơ. \v 6 Ông ta đang ở với người thợ thuộc da tên Si-môn, có nhà ở mé biển.”
\s5
\v 7 Khi thiên sứ phán với ông đã rời đi, Cọt-nây gọi hai đầy tớ trong nhà, cùng với một người lính có lòng nhiệt thành trong số những người phục vụ mình. \v 8 Sau khi thuật lại cho họ mọi điều đã xảy ra, ông sai họ đến Giốp-bê.
\s5
\v 9 Ngày hôm sau, chừng giờ thứ sáu, khi họ đang đi đường gần đến thành Giốp-bê, thì Phi-e-rơ lên sân thượng cầu nguyện. \v 10 Rồi ông thấy đói và thèm ăn, nhưng trong khi người ta đang nấu đồ ăn, thì ông thấy một khải tượng. \v 11 Ông thấy bầu trời mở ra và có một vật gì đó giống như một tấm khăn lớn túm bốn góc, từ trên trời hạ xuống. \v 12 Trong đó chứa đủ thứ loài vật bốn chân, loài bò sát và chim trời.
\s5
\v 13 Rồi có tiếng phán cùng ông: “Phi-e-rơ, hãy dậy giết thịt mà ăn đi.” \v 14 Nhưng Phi-e-rơ đáp: “Thưa Chúa, không được đâu, vì con chưa từng ăn bất cứ thứ gì ô uế và không thanh sạch.” \v 15 Nhưng tiếng đó phán với ông lần thứ hai, rằng: “Những gì Thiên Chúa đã làm sạch, thì đừng gọi đó là ô uế.” \v 16 Việc này xảy ra ba lần; sau đó, tấm khăn lập tức được thu lại lên trời.
\s5
\v 17 Trong khi Phi-e-rơ rất hoang mang trong trí không biết khải tượng ông vừa thấy có nghĩa gì, thì kìa, những người được Cọt-nây sai đi đứng trước cổng, sau khi hỏi được đường đến nhà Si-môn. \v 18 Họ gọi lớn, hỏi có phải Si-môn, được gọi là Phi-e-rơ, đang ở đó không.
\s5
\v 19 Trong khi Phi-e-rơ vẫn còn đang ngẫm nghĩ về khải tượng kia, thì Chúa Thánh Linh phán với ông: “ Kìa, có người đang tìm con.
\f +\ft Một số cổ bản đọc: \fqa có hai người đang tìm con \fqa* hoặc \fqa có mấy người đang tìm con \fqa*.\f*
\s5
\v 20 Hãy đứng dậy đi xuống, rồi đi với họ. Đừng ngần ngại, vì Ta đã sai họ đó.” \v 21 Vậy, Phi-e-rơ đi xuống gặp mấy người ấy, nói: “Tôi là người các ông đang tìm. Các ông đến đây có việc gì vậy?”
\s5
\v 22 Họ đáp: “Đại đội trưởng Cọt-nây, một người công chính và kính sợ Thiên Chúa, cũng được toàn dân Do Thái khen ngợi, đã được một thiên sứ thánh truyền dạy phải mời ông đến nhà để được nghe sứ điệp của ông.” \v 23 Vậy, Phi-e-rơ mời họ vào nhà ở lại với mình.
Rồi sánghôm sau, ông thức dậy đi với họ, có mấy anh em từ Giốp-bê đồng hành với ông.
\s5
\v 24 Ngày hôm sau, họ đến Sê-sa-rê. Cọt-nây đang chờ họ; ông đã gọi bà con và bạn hữu nhóm họp lại.
\s5
\v 25 Khi Phi-e-rơ bước vào, Cọt-nây tiếp ông và quỳ xuống nơi chân ông thờ lạy. \v 26 Nhưng Phi-e-rơ đỡ ông dậy, nói: “ Xin hãy đứng dậy! Chính tôi đây cũng là người phàm thôi.”
\s5
\v 27 Trong khi nói với Cọt-nây, ông bước vào và thấy nhiều người đã tụ tập lại. \v 28 Ông nói với họ: “ Các ông biết rằng luật pháp không cho phép một người Do Thái giao thiệp hay viếng thăm một người thuộc dân tộc khác. Nhưng Thiên Chúa đã tỏ cho tôi thấy rằng tôi không được gọi bất kỳ người nào là ô uế hay không thanh sạch. \v 29 Đó là lý do tại sao tôi đến mà không chống chế gì. Vậy, tôi muốn hỏi tại sao các ông cho người mời tôi?”
\s5
\v 30 Cọt-nây đáp : “Bốn ngày trước, cũng chính giờ này, đang khi tôi cầu nguyện trong nhà vào giờ thứ chín, thì kìa, có một người người mặc đồ sáng chói đứng trước mặt tôi. \v 31 Người ấy nói : “ Anh Cọt-nây, Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của anh và những tặng phẩm anh giúp cho người nghèo đã được nhớ đến trước mặt Thiên Chúa. \v 32 Vậy, hãy sai người đến Giốp-bê và mời một người tên Si-môn, gọi là Phi-e-rơ. Người đang ở nhà của Si-môn, một thợ thuộc da, cạnh bờ biển.' \f +\ft Một số cổ bản thêm: \fqa Khi ông ta đến, ông ta sẽ nói cho anh biết \fqa*.\f* \v 33 Vậy, tôi lập tức cho người đi mời ông đến. Ông đến là phải lắm. Vậy, bây giờ, tất cả chúng tôi đều đã ở đây trước mặt Thiên Chúa để nghe mọi lời mà ông được Chúa truyền dạy phải nói.” \f +\ft Thay vì \fqa được Chúa truyền dạy phải nói, \fqa* một số cổ bản đọc: \fqa được Thiên Chúa truyền dạy phải nói \fqa*.\f*
\s5
\v 33
\s5
\v 34 Rồi Phi-e-rơ lên tiếng, nói: “Thật, tôi hiểu rằng Thiên Chúa không thiên vị ai hết. \v 35 Thay vào đó, trong mọi dân tộc, người nào kính sợ Ngài và làm điều công chính thì Ngài chấp nhận.
\s5
\v 36 Sứ điệp mà Ngài đã gởi cho con dân Y-sơ-ra-ên, loan báo Tin Lành về sự bình an bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa của mọi người— \v 37 chính ông cũng biết sứ điệp được ban truyền và lan ra khắp vùng Giu-đê, bắt đầu tại Ga-li-lê, sau phép báp-têm mà Giăng đã rao báo; \v 38 những sự kiện liên quan đến Giê-xu, người Na-xa-rét, cho thấy Thiên Chúa đã xức dầu cho Ngài bằng Chúa Thánh Linh và quyền năng ra sao. Ngài đi đây đó làm việc nhân đức và chữa lành mọi người bị quỷ ám, vì Thiên Chúa ở với Ngài.
\s5
\v 39 Chúng tôi là những nhân chứng về tất cả những việc mà Ngài đã làm trên đất nước của người Do Thái cũng như tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã giết Ngài đi bằng cách treo Ngài trên cây gỗ, \v 40 nhưng Thiên Chúa đã khiến Ngài sống lại vào ngày thứ ba và tỏ Ngài ra, \v 41 không phải cho tất cả mọi người, mà cho những nhân chứng được Thiên Chúa đã lựa chọn từ trước tức chúng tôi đây, những người đã cùng ăn uống với Ngài sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.
\s5
\v 42 Ngài truyền cho chúng tôi rao giảng cho dân chúng và làm chứng cách đầy đủ rằng đây là người mà Thiên Chúa đã lựa chọn để làm Đấng phán xét kẻ sống lẫn kẻ chết. \v 43 Ấy là về Ngài mà tất cả các tiên tri đều làm chứng, để mọi người tin Ngài sẽ nhận lãnh sự tha tội nhờ danh Ngài.”
\s5
\v 44 Trong khi Phi-e-rơ vẫn còn đang nói những lời ấy, thì Chúa Thánh Linh giáng trên mọi người đang nghe sứ điệp của ông. \v 45 Các tín hữu đã chịu cắt bì tức tất cả những kẻ đi cùng với Phi-e-rơ đều kinh ngạc, vì sự ban tặng Thánh Linh cũng được tuôn đổ trên dân ngoại.
\s5
\v 46 Vì họ nghe những người ngoại quốc này nói bằng những thứ tiếng khác và ngợi khen Thiên Chúa. Rồi Phi-e-rơ hỏi: \v 47 “ Có ai dám ngăn trở những người này chịu phép báp-têm bằng nước, khi mà họ đã nhận lãnh Chúa Thánh Linh cũng như chúng ta?” \v 48 Rồi ông truyền cho họ chịu báp-têm trong danh Chúa Cứu Thế Giê-xu. Sau đó, họ họ xin ông ở lại với họ mấy ngày.
\c 11
\s5
\v 1 Bấy giờ, các sứ đồ và anh em ở Giu-đê nghe tin dân ngoại cũng đã tiếp nhận đạo của Thiên Chúa. \v 2 Khi Phi-e-rơ về đến Giê-ru-sa-lem, những người thuộc nhóm chịu cắt bì chỉ trích ông; \v 3 họ bảo: “Ông giao thiệp với kẻ không chịu phép cắt bì và ăn chung với họ!”
\s5
\v 4 Nhưng Phi-e-rơ lên tiếng giải thích vấn đề cho họ một cách tường tận. Ông nói: \v 5 Tại thành Giốp-bê, khi tôi đang cầu nguyện, trong cơn xuất thần, tôi nhìn thấy khải tượng về một vật gì đó giống tấm khăn lớn túm bốn góc từ trời hạ xuống. Nó đáp xuống chỗ tôi. \v 6 Tôi nhìn chăm nó và ngẫm nghĩ về nó. Tôi thấy nào là các loài vật bốn chân trên đất, các loài dã thú, các loài bò sát, cùng các loài chim trời.
\s5
\v 7 Rồi tôi cũng nghe một tiếng phán với mình: “ Phi-e-rơ, hãy dậy giết thịt và ăn đi!” \v 8 Nhưng tôi đáp: “Không được đâu, thưa Chúa, vì chưa từng có thứ gì bất khiết hoặc không thanh sạch vào miệng con bao giờ.” \v 9 Nhưng tiếng từ trời đó phán lần thứ hai, rằng: “Điều gì Thiên Chúa đã tuyên bố là sạch thì đừng gọi là không sạch.” \v 10 Việc xảy ra ba lần như vậy, sau đó, mọi thứ được đem lên trời trở lại.
\s5
\v 11 Kìa, ngay tức thì, có ba người đứng trước cửa nhà nơi chúng tôi đang ở; họ từ Sê-sa-rê được sai đến gặp tôi. \v 12 Chúa Thánh Linh truyền cho tôi đi với họ, không được phân biệt gì đối với họ. Có sáu anh em đây cũng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà người đó. \v 13 Rồi ông ấy kể cho chúng tôi thể nào ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà mình, dạy: “Hãy sai người đến Giốp-bê và mời về Si-môn, gọi là Phi-e-rơ. \v 14 Ông ta sẽ nói cho anh sứ điệp nhờ đó anh chị em tức anh và mọi người trong nhà sẽ được cứu.”
\s5
\v 15 Nhưng khi tôi khởi nói, thì Chúa Thánh Linh giáng xuống trên họ giống như ban đầu Ngài giáng trên chúng ta vậy. \v 16 Rồi tôi nhớ đến lời Chúa, thể nào Ngài từng phán: “Giăng thật đã làm báp-têm bằng nước; nhưng anh chị em sẽ được báp-têm bằng Chúa Thánh Linh.”
\s5
\v 17 Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cùng một ơn mà Ngài ban cho chúng ta khi chúng ta tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì tôi là ai mà dám chống lại Thiên Chúa?” \v 18 Khi nghe mấy lời ấy, họ chẳng đáp lại gì mà chỉ ngợi khen Thiên Chúa, rằng: “Vậy thì Thiên Chúa cũng ban lòng ăn năn để hưởng sự sống cho các dân ngoại quốc nữa.”
\s5
\v 19 Thật, các tín hữu bị tan tác bởi cuộc bức hại xảy ra sau trường hợp Ê-tiên đã phân tán ra đến tận Phê-ni-xi, Chíp-rơ và An-ti-ốt, không nói lời Chúa cho ai khác ngoại trừ người Do Thái. \v 20 Nhưng có mấy người trong họ xuất thân từ Chíp-rơ và Sy-ren, đến An-ti-ốt và cũng nói cho người Hy Lạp, công bố Phúc Âm về Chúa Giê-xu cho họ. \v 21 Tay của Chúa ở với họ; rất nhiều người tin và trở lại cùng Chúa.
\s5
\v 22 Tin đồn về họ truyền đến tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa- lem, nên họ sai phái Ba-na-ba đến tận An-ti-ốt. \v 23 Khi đến nơi và nhìn thấy ân điển của Thiên Chúa, ông vui sướng; và ông khích lệ tất cả họ cứ hết lòng theo Chúa. \v 24 Vì ông là người nhân hậu, đầy dẫy Chúa Thánh Linh và đức tin, nên có nhiều người được thêm vào cho Chúa.
\s5
\v 25 Sau đó, Ba-na-ba đi đến Tạt-sơ để tìm Sau-lơ. \v 26 Khi tìm được, ông đưa Sau-lơ đến An-ti-ốt. Suốt cả một năm, họ nhóm lại với Hội Thánh và dạy dỗ nhiều người. Các môn đồ được gọi là Cơ-đốc nhân tại An-ti-ốt trước tiên.
\s5
\v 27 Trong những ngày đó, có mấy tiên tri từ Giê-ru-sa-lem xuống An-ti-ốt. \v 28 Một người trong số họ tên A-ga-bút đã đứng dậy và, bởi Chúa Thánh Linh, cho biết rằng sắp có nạn đói lớn trên khắp thế giới. Việc này xảy ra trong thời của Cơ-lốt.
\s5
\v 29 Vì vậy, các môn đồ, tùy theo khả năng mình, quyết định mỗi người sẽ gởi quà cứu trợ cho anh chị em sống tại Giu-đê. \v 30 Và họ đã làm như vậy; họ nhờ Ba-na-ba và Sau-lơ chuyển tiền cho các trưởng lão.
\c 12
\s5
\v 1 Vào khoảng thời gian đó, vua Hê-rốt ra tay với mấy người trong Hội Thánh, và ngược đãi họ. \v 2 Ông ta dùng gươm giết chết Gia-cơ, anh của Giăng.
\s5
\v 3 Khi thấy việc ấy làm hài lòng người Do Thái, ông ta bắt tiếp Phi-e-rơ. Chuyện xảy ra vào kỳ lễ bánh không men. \v 4 Sau khi bắt giữ Phi-e-rơ, ông ta giam ông vào ngục, giao cho bốn toán lính canh giữ. Ông ta định sẽ trình diện Phi-e-rơ ra cho dân chúng sau Lễ Vượt Qua.
\s5
\v 5 Vậy, Phi-e-rơ bị giam trong ngục, còn Hội Thánh khẩn thiết cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho ông. \v 6 Vào đêm trước ngày vua Hê-rốt định đưa ông ra xét xử, Phi-e-rơ ngủ giữa hai tên lính, bị xiềng bằng hai sợi xích, trong lúc trước cửa cũng có lính canh giữ ngục.
\s5
\v 7 Kìa, một thiên sứ của Chúa thình lình xuất hiện bên ông, ánh sáng chiếu rọi trong phòng giam. Người đập vào hông Phi-e-rơ đánh thức ông, rằng: “ Hãy dậy mau,” và xích rơi khỏi tay ông. \v 8 Rồi Thiên sứ nói với ông: “Hãy mặc đồ và mang giày vào.” Phi-e-rơ làm theo. Thiên sứ tiếp: “Hãy mặc áo ngoài vào, rồi theo tôi.”
\s5
\v 9 Vậy, Phi-e-rơ theo thiên sứ đi ra ngoài. Ông không biết việc thiên sứ làm là thật. Ông cứ tưởng mình thấy khải tượng. \v 10 Sau khi đi qua toán lính canh thứ nhất, rồi thứ hai, họ đến cánh cổng sắt dẫn vào thành; cổng tự mở ra cho họ. Rồi họ đi ra đường, và thiên sứ liền lìa khỏi ông.
\s5
\v 11 Khi tỉnh lại, Phi-e-rơ nói: “Thật giờ mình mới biết Chúa đã sai thiên sứ Ngài giải cứu mình khỏi tay Hê-rốt và khỏi mọi điều người Do Thái trông đợi.” \v 12 Khi hiểu được như vậy, ông đi đến nhà Ma-ri, mẹ của Giăng,; cũng gọi là Mác, nơi có nhiều tín hữu nhóm lại và đang cầu nguyện.
\s5
\v 13 Khi ông gõ cửa, một cô đầy tớ gái tên là Rô-đơ ra trả lời. \v 14 Khi nhận ra tiếng của Phi-e-rơ, cô ta mừng quá nên quên cả mở cửa; thay vào đó, cô chạy vào phòng thuật lại rằng Phi-e-rơ đang đứng ngoài cửa.
\s5
\v 15 Họ nói với cô : “ Mày điên chắc.” Nhưng cô cứ khăng khăng như vậy, nên họ bảo: “ Thiên sứ của ông ấy đó.” \v 16 Nhưng Phi-e-rơ tiếp tục gõ cửa, và khi mở cửa ra, họ nhìn thấy ông nên đều kinh ngạc. \v 17 Phi-e-rơ dùng tay ra hiệu cho họ im lặng, rồi ông thuật cho họ biết Chúa đã đem ông ra khỏi ngục như thế nào. Ông dặn: “Hãy thuật các việc này lại cho Gia-cơ và anh chị em.” Sau đó, ông đi đến một nơi khác.
\s5
\v 18 Khi trời sáng, có sự xôn xao lớn trong đám binh về việc đã xảy ra cho Phi-e-rơ. \v 19 Sau đã lục soát mà không tìm được ông, Hê-rốt tra hỏi các lính canh và ra lệnh xử tử họ. Rồi ông ta từ Giu-đê đi Sê-sa-rê và ở lại đó.
\s5
\v 20 Khi đó, Hê-rốt rất giận dân thành Ty-rơ và Si-đôn. Vậy, họ kéo đến gặp ông. Họ thuyết phục được Ba-la-tút, quan hầu cận của vua, giúp họ. Rồi họ xin cầu hòa vì xứ họ mua lương thực từ xứ của vua. \v 21 Vào ngày đã định, Hê-rốt khoác hoàng bào, rồi ngồi trên ngai nói chuyện với họ.
\s5
\v 22 Nhưng dân chúng kêu lớn: “ Đó là tiếng của thần thánh, không phải tiếng của người phàm!” \v 23 Ngay lập tức, một thiên sứ của Chúa đánh vua vì ông ta không nhường sự vinh hiển cho Thiên Chúa; ông ta bị giun sán hành hại rồi chết.
\s5
\v 24 Nhưng đạo của Thiên Chúa thì mạnh lên và phát triển.
\s5
\v 25 Sau khi Ba-na-ba và Sau-lơ hoàn tất sứ mạng của mình, họ trở về Giê-ru-sa-lem \f + ft Một số cổ bản đọc: \fqa họ từ Giê-ru-sa-lem trở về \fqa*.\f* đem theo Giăng, cũng gọi là Mác.
\c 13
\s5
\v 1 Lúc bấy giờ, trong Hội Thánh tại An-ti-ốt có các nhà tiên tri và thầy giáo. Đó là Ba-na-ba, Si-mê-ôn (được gọi là Ni-giê), Lu-si-út người Sy-ren, Ma-na-hem (em nuôi của vua chư hầu Hê-rốt), và Sau-lơ. \v 2 Trong khi họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Chúa Thánh Linh phán : “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ ra, để làm công việc mà ta đã kêu gọi họ làm.” \v 3 Sau khi đã kiêng ăn, cầu nguyện và đặt tay trên hai người đó, họ sai phái hai người ra đi.
\s5
\v 4 Vậy, Ba-na-ba và Sau-lơ được Chúa Thánh Linh sai đi và họ xuống Sê-lơ-xi; từ đó, họ đi thuyền đến đảo Chíp-rơ. \v 5 Khi đến thành Sa-la-min, họ công bố đạo của Thiên Chúa trong các nhà hội của người Do Thái. Họ cũng có Giăng Mác làm phụ tá cho mình.
\s5
\v 6 Khi đã đi qua băng qua đảo đến Ba-phô, họ gặp một thuật sĩ nọ, một tiên tri giả người Do Thái, tên Ba-Giê-su. \v 7 Tay thuật sĩ này quen thân với quan trấn thủ Sê-giút Phau-lút, vốn là người thông sáng. Ông này cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến, vì ông muốn nghe đạo của Thiên Chúa. \v 8 Nhưng “thuật sĩ” Ê-ly-ma (đó là tên được dịch ra của ông ta) chống đối họ; ông ta ra sức xoay hướng quan trấn thủ để đừng tin Chúa.
\s5
\v 9 Nhưng Sau-lơ, còn gọi là Phao-lô, được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, chằm chằm nhìn ông ta \v 10 và nói : “ Này ông, đứa con của ma quỷ, ông đầy dẫy mọi điều lừa dối và đủ thứ gian ác. Ông là kẻ thù của mọi điều công chính. Ông sẽ chẳng bao giờ thôi bẻ cong đường lối ngay thẳng của Chúa, phải vậy không?
\s5
\v 11 Bây giờ hãy xem, tay của Chúa giá trên ông và ông sẽ bị mù. Ông sẽ không nhìn thấy mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, sự mù mịt tối tăm giáng trên Ê-ly-ma; ông ta bắt đầu đi lòng vòng nhờ người nắm tay dắt mình. \v 12 Sau khi quan trấn thủ thấy việc đã xảy ra,, ông tin, vì ông kinh ngạc trước giáo huấn về Chúa.
\s5
\v 13 Phao-lô và đồng bạn xuống thuyền từ Ba-phô đi đến Bẹt-giê trong vùng Bam-phi-ly. Nhưng Giăng bỏ họ quay trở về Giê-ru-sa-lem. \v 14 Phao-lô và đồng bạn từ Bẹt-giê đi đến An-ti-ốt thuộc Bi-si-đi. Tại đó, vào ngày Sa-bát, họ vào nhà hội ngồi dự. \v 15 Sau khi tuyên đọc các sách luật pháp và tiên tri, các quản lý nhà hội chuyển cho họ lời nhắn, rằng: “ Này, anh em, nếu có sứ điệp khích lệ nào cho dân chúng ở đây, thì xin cứ nói.”
\s5
\v 16 Vậy, Phao-lô đứng dậy, lấy tay ra hiệu, và nói : “Thưa anh em người Y-sơ-ra-ên và những người tôn kính Thiên Chúa, xin nghe đây. \v 17 Thiên Chúa của dân Y-sơ-ra-ên này đã chọn tổ phụ chúng ta, khiến họ nên đông đúc khi họ kiều ngụ tại xứ Ai-cập, và bằng cánh tay đưa lên, Ngài dẫn họ ra khỏi đó. \v 18 Vì trong khoảng bốn mươi năm Ngài chịu đựng họ trong hoang mạc. \f +\ft Một số cổ bản đọc: \fqa Vì trong khoảng bốn mươi năm Ngài chăm sóc họ trong hoang mạc \fqa*.\f*
\s5
\v 19 Sau khi đã hủy diệt bảy dân tộc trong xứ Ca-na-an, Ngài ban xứ ấy cho dân tộc chúng ta làm sản nghiệp. \v 20 Mọi việc ấy diễn ra trong bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Thiên Chúa ban cho họ các thẩm phán cho đến thời của tiên tri Sa-mu-ên.
\s5
\v 21 Rồi dân chúng cầu xin một vua, nên Thiên Chúa ban cho họ Sau-lơ, con trai của Kích, một người thuộc chi tộc Bên-gia-min, trong bốn mươi năm. \v 22 Sau khi Thiên Chúa phế bỏ ông, Ngài lập Đa-vít lên làm vua của họ. Cũng về Đa-vít mà Thiên Chúa phán : Ta đã thấy Đa-vít, con trai Gie-sê, là người theo lòng ta, sẽ làm mọi điều ta muốn.
\s5
\v 23 Từ con cháu của người này, Thiên Chúa đã đem đến cho Y-sơ-ra-ên một Đấng Cứu Thế, là Chúa Giê-xu, như Ngài đã hứa. \v 24 Việc này khởi sự khi, trước lúc Chúa Giê-xu đến, Giăng lần đầu tiên rao truyền phép báp-têm về sự ăn năn cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. \v 25 Khi Giăng hoàn tất công tác mình, ông nói: Anh chị em nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Đấng ấy đâu. Mà hãy nghe đây, có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng mở dây giày Ngài.
\s5
\v 26 Thưa anh em, là con cháu thuộc dòng tộc Áp-ra-ham và những người kính sợ Thiên Chúa giữa vòng anh em, sứ điệp về sự cứu rỗi này đã được ban cho chúng ta. \v 27 Vì những người sống tại Giê-ru-sa-lem và quan chức của họ không nhìn biết Ngài, nên họ kết tội Ngài, làm ứng nghiệm lời các sách tiên tri vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát.
\s5
\v 28 Cho dù họ không tìm thấy lý do để tử hình Ngài, nhưng họ vẫn xin Phi-lát giết Ngài đi. \v 29 Khi đã làm trọn mọi điều đã chép về Ngài, họ đem Ngài xuống khỏi cây gỗ và đặt Ngài trong phần mộ.
\s5
\v 30 Nhưng Thiên Chúa đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết. \v 31 Trong nhiều ngày, những người đã từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem cùng với Ngài đã nhìn thấy Ngài. Những người ấy giờ đây đều là nhân chứng về Ngài trước dân chúng.
\s5
\v 32 Vậy, chúng tôi công bố cho anh em Phúc âm mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ chúng ta. \v 33 Vì Thiên Chúa đã làm thành lời hứa ấy với chúng ta, các con cháu họ, khi khiến Chúa Giê-xu sống lại từ cõi chết. Như cũng được chép trong Thi Thiên thứ hai: \q Con là Con ta, ngày nay ta đã sinh Con. \m \v 34 Về việc Thiên Chúa khiến Ngài sống lại từ cõi chết, để thân thể Ngài không bao giờ mục rữa, thì Ngài phán thế này: \q Ta sẽ ban cho Con những ơn phước thánh và chắc chắn đã hứa với Đa-vít.
\s5
\m \v 35 Đó là lý do Ngài cũng phán trong một Thi Thiên khác, rằng: \q Ngài sẽ không để cho Đấng Thánh Ngài thấy sự hư nát. \m \v 36 Vì, thật, sau khi Đa-vít đã phục vụ những điều Thiên Chúa muốn trong thời của mình, thì người ngủ, được an táng cùng tổ phụ mình, và xác thể người bị mục rửa, \v 37 Nhưng Đấng mà Thiên Chúa đã khiến sống lại thì không thấy tình trạng mục rửa đó.
\s5
\v 38 Cho nên, thưa anh em, anh em phải biết rằng bởi Người này mà ơn tha tội được công bố cho anh em, cùng sự giải thoát khỏi mọi điều không thể được xưng công chính theo luật pháp Môi-se. \v 39 Nhờ Ngài mà mọi người tin đều được xưng công chính
\s5
\v 40 Vậy, hãy cẩn thận để điều các tiên tri đã nói không xảy đến cho anh em: \q \v 41 Những kẻ hay khinh dễ kia, hãy nhìn, thất kinh rồi tiêu vong đi;
\q
Vì trong thời các ngươi, ta sẽ làm một việc,
\q
việc mà các ngươi sẽ không bao giờ tin, dù là có ai đó loan báo cho các ngươi đi nữa.
\s5
\v 42 Khi Phao-lô và Ba-na-ba ra về, dân chúng xin hai người giảng lại cho họ cùng những lời ấy vào ngày Sa-bát kế tiếp. \v 43 Khi buổi nhóm họp tại nhà hội kết thúc, nhiều người Do Thái và những người ngoại quốc nhiệt thành theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba; hai người nói chuyện với họ và nài khuyên họ tiếp tục trong ân điển của Thiên Chúa.
\s5
\v 44 Rồi đến ngày Sa-bát sau, gần như cả thành tập trung lại để nghe lời Chúa. \v 45 Nhưng khi người Do Thái nhìn thấy đám đông, họ đầy lòng đố kỵ, phản bác những điều Phao-lô nói và nhục mạ ông.
\s5
\v 46 Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba dạn dĩ đáp lại: “ Cần phải giảng đạo của Thiên Chúa cho các ông trước hết. Nhưng vì thấy các ông khước từ lời ấy và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, nên này, chúng tôi sẽ đến với các dân ngoại quốc. \v 47 Vì Chúa đã truyền dạy chúng tôi như vậy khi Ngài phán :
\q
Ta đã đặt các con làm sự sáng cho dân ngoại,
\q
để các con đem sự cứu rỗi đến những vùng xa xôi nhất trên trái đất.”
\s5
\m \v 48 Khi những người ngoại quốc nghe vậy, thì họ vui mừng và tán dương đạo Chúa. Những ai đã được định cho sự sống đời đời đều tin. \v 49 Vậy, đạo Chúa được truyền ra khắp nơi trong vùng.
\s5
\v 50 Nhưng người Do Thái xúi giục các phụ nữ sốt sắng và có vai vế, cũng như những người lãnh đạo trong thành. Những người này khuấy động một cuộc bức hại đối với Phao-lô và Ba-na-ba, rồi đuổi hai người ra khỏi địa phận của thành mình. \v 51 Đáp lại, Phao-lô và Ba-na-ba phủi bụi ở chân để phản đối họ. Rồi hai người đi đến thành Y-cô-ni. \v 52 Các môn đồ được đầy dẫy sự vui mừng và Chúa Thánh Linh.
\c 14
\s5
\v 1 Tại Y-cô-ni, Phao-lô và Ba-na-ba cùng vào nhà hội của người Do Thái nói chuyện, kết quả đến nỗi có rất nhiều người, cả Do Thái lẫn Hy Lạp, tin Chúa. \v 2 Nhưng những người Do Thái vô tín kích động tâm trí số người ngoại quốc và và khiến họ có ác cảm với các anh em.
\s5
\v 3 Vậy, họ ở đó một thời gian dài, dạn dĩ bênh vực đạo Chúa, trong khi Chúa xác chứng cho sứ điệp của ân điển Ngài bằng những dấu lạ và việc diệu kỳ được thực hiện bởi tay Phao-lô và Ba-na-ba. \v 4 Nhưng có sự chia phe giữa vòng dân cư trong thành: một số theo phe người Do Thái, số khác đứng về phía các sứ đồ.
\s5
\v 5 Khi cả những người ngoại quốc và người Do Thái cố gắng thuyết phục giới lãnh đạo ngược đãi và ném đá Phao-lô với Ba-na-ba, \v 6 hai người biết được âm mưu đó nên chạy lánh đến các thành Ly-cao-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ, và vùng chung quanh, \v 7 rồi tiếp tục rao giảng Phúc Âm tại đó.
\s5
\v 8 Tại Lít-trơ, có một anh kia phải ngồi vì chân cẳng bị liệt từ lúc mới sinh, chưa từng đi được. \v 9 Anh ngồi nghe Phao-lô giảng. Phao-lô nhìn chăm vào anh và thấy anh có đức tin để được chữa lành. \v 10 Vậy, ông nói lớn với anh: “Hãy đứng dậy bằng đôi chân mình.” Anh bật đứng lên và bước đi.
\s5
\v 11 Khi dân chúng nhìn thấy điều Phao-lô đã làm, họ lên tiếng nói bằng thổ ngữ Ly-cao-ni, rằng: “Các thần đã xuống viếng chúng ta trong hình hài con người.” \v 12 Họ gọi Ba-na-ba là thần “Dớt,” còn Phao-lô là thần “Héc-mê,” vì Phao-lô là người nói chính. \v 13 Thầy tư tế của thần Dớt, vốn có đền thờ nằm ngay phía ngoài thành, đem bò và vòng hoa đến trước cổng; ông ta và dân chúng muốn dâng tế lễ.
\s5
\v 14 Nhưng khi các sứ đồ, tức Ba-na-ba và Phao-lô, hay được, họ xé áo mình và xông ngay ra chỗ đám đông, rồi la lớn, \v 15 rằng: “Này, anh em, sao lại làm như vậy? Chúng tôi cũng chỉ là người phàm có cùng các cảm xúc như anh em thôi. Chúng tôi công bố Phúc âm cho anh em, rằng anh em phải bỏ mấy thứ vô tích sự này mà quay về với Thiên Chúa hằng sống, Đấng tạo dựng trời, đất và biển, cùng mọi vật trong đó. \v 16 Trong các thời đại trước, Ngài đã để cho mọi dân ăn ở theo ý riêng của mình.
\s5
\v 17 Dầu vậy, Ngài vẫn không để cho người ta thiếu chứng cớ về Ngài, khi Ngài cứ xuống phước, ban mưa từ trời và mùa màng tốt tươi cho anh em, khiến lòng anh em được no đủ và vui sướng.” \v 18 Thậm chí nói như vậy, nhưng Phao-lô và Ba-na-ba cũng chỉ ngăn được dân chúng dâng sinh tế cho mình.
\s5
\v 19 Tuy nhiên, có một số người Do Thái từ An-ti-ốt và Y-cô-ni đến thuyết phục dân chúng. Vậy, họ ném đá Phao-lô rồi kéo ông ra ngoài thành vì tưởng ông đã chết. \v 20 Nhưng khi các môn đồ đang nhóm lại quanh ông, thì ông đứng dậy và đi vào trong thành. Ngày hôm sau, ông cùng Ba-na-ba đi Đẹt-bơ.
\s5
\v 21 Sau khi đã công bố Phúc Âm tại thành đó và môn đồ hóa nhiều người, họ quay trở lại Lít-trơ, rồi Y-cô-ni, rồi An-ti-ốt. \v 22 Họ tiếp tục làm vững lòng các môn đồ và khích lệ họ tiếp tục trong đức tin, rằng: “Chúng ta phải trải qua nhiều sự khốn khó trước khi vào vương quốc của Thiên Chúa.”
\s5
\v 23 Sau khi bổ nhiệm các trưởng lão để chăm sóc tín hữu tại mỗi Hội Thánh và kiêng ăn cầu nguyện, họ giao phó những người này cho Chúa, là Đấng mình đã tin. \v 24 Sau đó, họ băng qua Bi-si-đi đến Bam-phi-ly. \v 25 Sau khi đã giảng đạo tại Bẹt-giê, họ đi xuống Át-ta-li. \v 26 Từ đó, họ đi thuyền đến An-ti-ốt, nơi họ đã được giao thác cho ân điển củaThiên Chúa để làm công việc mà giờ đây họ đã hoàn thành.
\s5
\v 27 Khi đến An-ti-ốt và nhóm Hội Thánh lại, họ báo cáo mọi việc Thiên Chúa đã cùng làm với họ, và thể nào Ngài đã mở cửa đức tin cho các dân ngoại quốc. \v 28 Họ ở lại với các môn đồ một thời gian dài.
\c 15
\s5
\v 1 Khi ấy, có một số người từ Giu-đê xuống An-ti-ốt, dạy anh em: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo tập tục Môi-se, thì anh em không thể được cứu.” \v 2 Điều này khiến Phao-lô và Ba-na-ba cãi vả và tranh luận dữ dội với họ. Vậy nên anh em cử Phao-lô và Ba-na-ba cùng một số người khác giữa vòng họ lên Giê-ru-sa-lem hội kiến với các sứ đồ và trưởng lão về vấn đề này.
\s5
\v 3 Được Hội Thánh sai đi, họ băng qua Phê-ni-xi và Sa-ma-ri, loan báo việc dân ngoại tiếp nhận Chúa. Họ khiến hết thảy anh chị em rất vui mừng. \v 4 Khi đến Giê-ru-sa-lem, họ được Hội Thánh, các sứ đồ và các trưởng lão chào đón, rồi họ báo cáo mọi việc Thiên Chúa đã cùng làm với mình.
\s5
\v 5 Nhưng có mấy kẻ đã tin thuộc phái Pha-ri-siđứng dậy, nói : “Cần phải làm phép cắt bì cho họ và dạy họ phải giữ luật pháp Môi-se.” \v 6 Vậy, các sứ đồ và các trưởng lão họp lại để xem xét vấn đề này.
\s5
\v 7 Sau khi bàn cãi nhiều, Phi-e-rơ đứng dậy nói với họ : \p “Thưa anh em, anh em đều biết cách đây một thời gian, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa vòng anh em, để bởi môi miệng tôi mà các dân ngoại quốc được nghe đạo của Phúc Âm và tin. \v 8 Thiên Chúa, Đấng biết tấm lòng, làm chứng cho họ, ban Chúa Thánh Linh cho họ, như Ngài đã làm cho chúng ta; \v 9 và Ngài cũng không phân biệt chúng ta với họ, khi khiến lòng họ được thanh sạch bởi đức tin.
\s5
\v 10 Vậy thì tại sao bây giờ anh em lại thử Thiên Chúa, muốn tròng vào cổ các môn đồ cái ách mà tổ phụ chúng ta lẫn chúng ta đều không thể mang nổi? \v 11 Chúng ta tin mình được cứu bởi ân điển của Chúa Giê-xu, cũng như họ vậy.”
\s5
\v 12 Rồi cả hội đồng đều im lặng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và việc diệu kỳ mà Thiên Chúa đã dùng họ thực hiện giữa vòng các dân ngoại quốc.
\s5
\v 13 Khi họ nói xong, Gia-cơ đáp lại, rằng: \p “Thưa anh em, xin nghe tôi đây. \v 14 Si-môn đã thuật lại thể nào Thiên Chúa trước hết đã thương xót cứu giúp các dân ngoại quốc để từ đó chọn ra một dân cho danh Ngài.
\s5
\v 15 Lời của các tiên tri cũng phù hợp với điều này, như có chép: \q \v 16 Sau những việc ấy, ta sẽ trở lại,
\q
rồi ta sẽ lập lại trại của Đa-vít, là trại đã bị đổ xuống;
\q
Ta sẽ phục hồi tàn tích của nó và dựng nó lên, \q \v 17 để những người còn sót lại tìm kiếm Chúa,
\q
kể cả mọi người ngoại quốc được gọi bằng danh ta.
\q
Đó là lời phán của Chúa, Đấng đã làm các việc này, \v 18 vốn đã được biết đến từ thời xa xưa.
\f +\ft Một số phiên bản cũ hơn đọc: \fqa Đó là lời phán của Chúa, Đấng biết hết mọi việc Ngài làm từ thời xa xưa \fqa*.\f*
\m
\s5
\v 19 Vì vậy, theo ý tôi, chúng ta không nên gây phiền hà cho những người ngoại quốc trở lại với Thiên Chúa. \v 20 Nhưng chúng ta sẽ viết thư dặn họ phải tránh sự ô uế của hình tượng, sự gian dâm, thịt thú vật chết ngạt và huyết. \v 21 Vì từ các thế hệ, trước, trong mỗi thành đều có người rao giảng luật Môi-se, và luật ấy được đọc mỗi ngày Sa-bát.”
\s5
\v 22 Rồi các sứ đồ và trưởng lão, cùng với cả Hội Thánh, thấy cần phái những người được chọn ra giữa vòng họ để đến An-ti-ốt cùng với Phao-lô và Ba-na-ba. Vậy, họ cử Giu-đa gọi là Ba-sa-ba và Si-la, thuộc hàng lãnh đạo trong anh em. \v 23 Họ viết thư này nhờ tay họ chuyển giao: “Các sứ đồ, trưởng lão và anh em gởi các tín hữu ngoại quốc tại An-ti-ốt, Sy-ri và Si-li-si. Chúc anh chị em mọi điều an lành!
\s5
\v 24 Chúng tôi nghe nói có những người không bởi chúng tôi sai phái đã gây xao động cho anh chị em bằng những giáo huấn khiến lòng anh em bối rối. \v 25 Trước tình hình đó, chúng tôi thấy phải họp lại để chọn ra những người đặng phái đến nơi anh chị em cùng với anh Ba-na-ba và Phao-lô yêu quý của chúng ta, \v 26 những người đã liều mạng sống mình vì danh Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta.
\s5
\v 27 Vì vậy, chúng tôi sai Giu-đa và Si-la, để họ cũng sẽ nói cho anh chị em rõ nội dung này bằng chính lời của họ. \v 28 Vì Chúa Thánh Linh và chúng tôi thấy không nên áp đặt lên anh chị em gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết sau đây, \v 29 đó là anh chị em phải tránh các thứ dâng cúng cho hình tượng, huyết, thú vật chết ngạt, và sự gian dâm. Anh chị em giữ mình khỏi những điều này là tốt rồi. Kính chào tạm biệt.”
\s5
\v 30 Vậy, sau khi được tiễn biệt, họ xuống An-ti-ốt; Rồi họ nhóm mọi người lại và trao bức thư cho. \v 31 Khi đã đọc thư xong, các tín hữu vui mừng vì được khích lệ. \v 32 Cả Giu-đa và Si-la, vốn cũng là những tiên tri, dùng nhiều lời khích lệ anh chị em và khiến họ mạnh mẽ.
\s5
\v 33 Sau khi đã ở đó một thời gian, họ được anh chị em đưa tiễn tiễn trở về với những người sai phái mình cách bình an.
\s5
\v 34 Trong các cổ bản đáng tin cậy nhất không có câu 34 (xem Công Vụ 15:40): \fqa Nhưng Si-la thấy cần lưu lại đó \fqa*.\f*
\s5
\v 35 Còn Phao-lô và Ba-na-ba ở lại An-ti-ốt dạy dỗ và công bố lời Chúa (cùng với nhiều người khác).
\s5
\v 36 Một thời gian sau, Phao-lô nói với Ba-na-ba: “ Giờ chúng ta hãy quay trở lại thăm số anh chị em tại các thành mà chúng ta đã rao truyền lời Chúa, để biết tình hình của họ thể nào.” \v 37 Ba-na-ba cũng muốn đem theo Giăng, được gọi là Mác. \v 38 Nhưng Phao-lô thấy dẫn theo Mác không ổn, vì cậu đã bỏ họ ở Bam-phi-ly, không đi tiếp với họ để cùng hầu việc.
\s5
\v 39 Rồi có sự bất đồng lớn, đến nỗi họ phân rẽ nhau. Ba-na-ba dẫn Mác theo mình và đi thuyền đến Chíp-rơ. \v 40 Còn Phao-lô thì chọn Si-la rồi lên đường, sau khi được anh chị em phó thác cho ân điển Chúa. \v 41 Ông đi khắp tỉnh Sy-ri và Si-li-si, củng cố các Hội Thánh.
\c 16
\s5
\v 1 Phao-lô cũng đến Đẹt-bơ và Lít-trơ; và kìa, tại đó có một môn đồ tên Ti-mô-thê, con trai của một nữ tín hữu Do Thái, nhưng cha là người Hy-lạp. \v 2 Anh chị em tại Lít-trơ và Y-cô-ni đều khen ngợi cậu. \v 3 Phao-lô muốn Ti-mô-thê đi với mình; vì thế, ông làm phép cắt bì cho cậu vì người Do Thái ở các nơi đó đều biết cha của Ti-mô-thê là người Hy-lạp.
\s5
\v 4 Khi họ đi qua các thành, họ chuyển cho các Hội Thánh những huấn thị cần tuân giữ mà các sứ đồ và các trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem đã quy định. \v 5 Vậy, các Hội Thánh được mạnh mẽ trong đức tin và mỗi ngày đều thêm lên số người tin.
\s5
\v 6 Phao-lô cùng đồng bạn đi băng qua các vùng thuộc Phi-ri-gi và Ga-la-ti, vì Chúa Thánh Linh đã cấm họ công bố đạo trong tỉnh A-si. \v 7 Khi đến gần My-si-a, họ định vào Bi-thi-ni, nhưng Thánh Linh của Chúa Giê-xu ngăn cản họ. \v 8 Vì vậy, bỏ qua My-si-a, họ xuống thành Trô-ách.
\s5
\v 9 Trong đêm, Phao-lô nằm thấy khải tượng: Có một người Ma-xê-đoan đứng đó, gọi ông, rằng: “Xin hãy đến Ma-xê-đoan giúp chúng tôi.” \v 10 Vậy, sau khi Phao-lô thấy khải tượng đó, chúng tôi lập tức lên đường đi Ma-xê-đoan, vì kết luận rằng Thiên Chúa đã kêu gọi chúng tôi rao giảng Phúc Âm cho họ.
\s5
\v 11 Vì vậy, từ Trô-ách, chúng tôi đi thuyền thẳng đến Sa-mô-tra-xơ, và ngày hôm sau, chúng tôi đến Nê-a-bô-li. \v 12 Từ đó, chúng tôi đi đến Phi-líp, thành phố quan trọng nhất trong vùng Ma-xê-đoan, một thuộc địa của La-mã, và chúng tôi ở lại thành phố này mấy ngày. \v 13 Vào ngày Sa-bát, chúng tôi ra bên ngoài cổng thành, bên bờ sông, nơi chúng tôi nghĩ sẽ có chỗ để cầu nguyện. Rồi chúng tôi ngồi lại trò chuyện với các phụ nữ đang nhóm lại ở đó.
\s5
\v 14 Có một phụ nữ nọ tên Ly-đi, làm nghề buôn bán vải tía từ thành Thi-a-ti-rơ đến, là người kính thờ Thiên Chúa, chịu nghe chúng tôi. Chúa mở lòng chị, khiến chị chú ý đến những điều Phao-lô nói. \v 15 Khi chị và cả nhà chịu báp-têm, chị nài nỉ chúng tôi: “Nếu các ông xét thấy tôi trung tín với Chúa, thì xin hãy vào nhà tôi mà trọ.” Chị thuyết phục chúng tôi như vậy.
\s5
\v 16 Ngày nọ, đang trên đường đến chỗ cầu nguyện, chúng tôi gặp một thiếu phụ bị linh bói toán ám. Chị đã làm lợi cho chủ mình rất nhiều bằng cách xem bói. \v 17 Thiếu phụ này đi theo sau Phao-lô và chúng tôi, la lên: “Những người này là tôi tớ của Thiên Chúa Chí Cao. Họ công bố cho các ông con đường cứu rỗi.” \v 18 Chị ta làm như vậy trong nhiều ngày. Quá khó chịu vì chị, nên Phao-lô quay lại nói với linh đó, rằng: “Nhân Danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, ta truyền cho mày phải ra khỏi chị ta.” Nó lập tức xuất ra.
\s5
\v 19 Nhưng khi những người chủ của chị thấy cơ hội kiếm tiền bây giờ không còn nữa, thì họ bắt Phao-lô và Si-la, rồi kéo kéo hai người đến khu phố chợ để gặp nhà chức trách. \v 20 Khi đã đưa hai người đến trước các quan chức, họ cáo: “ Mấy người này kích động thành phố chúng ta. Họ là dân Do Thái. \v 21 Họ truyền bá những thói tục mà dân La-mã chúng ta không được phép chấp nhận hay thực hành.”
\s5
\v 22 Rồi đám đông cùng nổi lên chống lại Phao-lô và Si-la, nên các quan chức xé áo họ ra và truyền đánh họ bằng roi. \v 23 Khi đã đánh đập hai người nhiều rồi, họ tống hai người vào nhà lao và truyền cho cai ngục phải canh giữ họ cẩn mật. \v 24 Sau khi nhận lệnh, viên cai ngục nhốt họ vào khám trong và cùm chân họ lại.
\s5
\v 25 Chừng giữa đêm, Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện và hát thánh ca ngợi khen Thiên Chúa, còn khi các tù nhân khác thì lắng nghe. \v 26 Thình lình, có một cơn động đất lớn, đến nỗi nền nhà tù rung chuyển; lập tức, tất cả cửa đều mở toang và dây xích mọi người tháo tung.
\s5
\v 27 Viên cai ngục tỉnh giấc, thấy các cửa tù mở toang; ông ta rút gươm, toan tự vẫn vì tưởng tù nhân đã trốn hết rồi. \v 28 Nhưng Phao-lô la lớn tiếng, rằng: “Đừng làm hại mình, vì chúng tôi còn cả đây.”
\s5
\v 29 Vậy, viên cai ngục sai lấy đèn và chạy vội vào trong, run rẫy sợ hãi. Ông sụp xuống trước Phao-lô và Si-la, \v 30 rồi đem họ ra ngoài, hỏi: “Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu?” \v 31 Họ đáp : “Hãy tin Chúa Giê-xu, thì ông và nhà ông sẽ được cứu.”
\s5
\v 32 Hai người nói đạo Chúa cho ông, cùng với tất cả những người trong nhà. \v 33 Chính giờ đó trong đêm, viên cai ngục đem họ đi rửa vết thương cho, rồi ông và mọi người trong nhà liền chịu báp-têm. \v 34 Sau đó ông đem Phao-lô và Si-la lên nhà mình, và dọn thức ăn cho họ. Ông cùng những người trong nhà nhà hết sức vui mừng vì mình đã tin nhận Thiên Chúa.
\s5
\v 35 Đến sáng, các quan chức truyền cho lính canh, rằng: “Hãy cho mấy người đó đi.” \v 36 Viên cai ngục thuật lại những lời ấy cho Phao-lô, rằng: “Các quan sai tôi thả các ông đi: vậy, bây giờ, mời các ông ra và lên đường bình an.”
\s5
\v 37 Nhưng Phao-lô nói với họ : “Họ đã công khai đánh đập chúng tôi mà không xét xử, bất chấp chúng tôi là công dân La-mã, rồi tống chúng tôi vào ngục.. Bây giờ họ lại muốn lén thả chúng tôi đi sao? Không có chuyện đó. Chính họ phải đến đem chúng tôi ra.” \v 38 Các lính canh thuật lại những lời đó cho các quan; khi nghe biết Phao-lô và Si-la là người La-mã, họ đều e sợ. \v 39 Vậy là các quan đến xin lỗi họ và đem họ ra, rồi xin họ đi khỏi thành mình.
\s5
\v 40 Phao-lô và Si-la ra khỏi ngục và đến nhà của Ly-đi. Khi gặp lại anh em, Phao-lô và Si-la khích lệ họ, rồi họ rời khỏi thành phố.
\c 17
\s5
\v 1 Sau khi băng qua thành Am-phi-bô-lít và A-bô-lô-ni, họ đến thành Tê-sa-lô-ni-ca, nơi có một nhà hội của người Do Thái. \v 2 Theo thói quen, Phao-lô đến nhóm với họ, và trong ba ngày Sa-bát, ông tranh luận với họ, dựa vào Kinh Thánh.
\s5
\v 3 Ông mở Kinh Thánh ra và giải thích rằng Chúa Cứu Thế cần phải chịu thương khó và sống lại từ cõi chết. Ông nói : “Giê-xu mà tôi công bố cho anh chị em chính là Chúa Cứu Thế.” \v 4 Một số người Do Thái được thuyết phục, đi theo Phao-lô và Si-la, trong đó có nhiều người Hy Lạp nhiệt thành lẫn một số phụ nữ có vai vế.
\s5
\v 5 Nhưng những người Do Thái vô tín sinh lòng đố kỵ; họ huy động mấy tay gian hùng ngoài phố chợ và nhóm một đám đông dân chúng lại, làm náo động cả thành. Họ xông vào nhà Gia-sôn, định bắt Phao-lô và Si-la ra trình diện dân chúng. \v 6 Nhưng khi không tìm thấy hai ông, họ lôi Gia-sôn cùng mấy anh em khác ra trước các quan chức thành phố, rồi gào lên, rằng: “ Mấy tên làm đảo lộn thế giới này cũng đã đến đây rồi. \v 7 Mọi kẻ mà Gia-sôn đón tiếp này đã chống lại các sắc lệnh của Xê-xa; bọn chúng nói có một vua khác là Giê-xu.”
\s5
\v 8 Khi nghe mấy lời ấy, đám đông dân chúng và các quan chức thành phố đều xao động. \v 9 Nhưng sau khi nhận tiền bảo lãnh từ Gia-sôn và những người còn lại, các quan chức để cho họ đi.
\s5
\v 10 Vậy, ngay tối hôm đó, anh chị em đưa Phao-lô và Si-la đi Bê-rê. Khi đến nơi, họ vào nhà hội của người Do Thái. \v 11 Những người này cởi mở hơn người ở Tê-sa-lô-ni-ca, vì họ rất sẵn lòng tiếp nhận lời Chúa, hàng ngày tra xem Kinh Thánh để biết những điều ấy có đúng như vậy chăng. \v 12 Cho nên, thật, có nhiều người trong họ chịu tin, kể cả một số phụ nữ Hy-lạp có ảnh hưởng và khá nhiều đàn ông.
\s5
\v 13 Nhưng khi người Do Thái ở Tê-sa-lô-ni-ca biết Phao-lô cũng đang rao truyền lời Thiên Chúa tại Bê-rê, thì họ đến kích động và gây rối đám đông. \v 14 Ngay lập tức, anh chị em đưa Phao-lô ra biển, còn Si-la và Ti-mô-thê vẫn ở lại đó. \v 15 Những người dẫn đường Phao-lô đưa ông đến tận thành A-thên. Sau khi nhận huấn thị của Phao-lô gửi Si-la và Ti-mô-thê, dặn hai người phải đến chỗ ông càng sớm càng tốt, thì họ quay trở về.
\s5
\v 16 Trong khi ở A-thên chờ họ đến, tâm thần Phao-lô bức bối trong ông khi ông thấy thành đầy dẫy hình tượng. \v 17 Vậy là ông tranh luận với người Do Thái và những người kính thờ Thiên Chúa khác trong nhà hội, cũng như với những người ông gặp hằng ngày ngoài phố chợ.
\s5
\v 18 Nhưng cũng có mấy triết gia thuộc phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ đối đầu với ông. Một số bảo: “Gã nhiều lời này muốn nói gì vậy?” Số khác nói: “Hình như ông ta rao giảng mấy thần lạ,” vì Phao-lô công bố Phúc âm về Chúa Giê-xu và sự sống lại.
\s5
\v 19 Họ Họ bắt Phao-lô đem đến nghị trường A-rê-ô-ba, rồi bảo: “Xin cho chúng tôi biết giáo huấn mới mà ông đang dạy đó là sao vậy? \v 20 Vì ông nói một số điều chúng tôi nghe lạ tai, nên chúng tôi muốn biết các điều ấy có nghĩa thế nào.” \v 21 ( Sự thể là dân A-thên và những khách lạ sống tại đó đều dành hết thời gian chỉ để kể hoặc nghe chuyện lạ.)
\s5
\v 22 Vậy, Phao-lô đứng giữa nghị trường A-rê-ô-ba phát biểu: \p “Thưa quý vị là người A-thên, tôi thấy quý vị rất sùng đạo theo đủ cách. \v 23 Vì khi tôi đi đi dạo và để ý các đối tượng phụng thờ của quý vị, tôi thấy có một bàn thờ, ghi: “Thờ Thần Vô Danh.” Vậy, thần vô danh mà quý vị phụng thờ đó là vị thần tôi rao báo cho quý vị.
\s5
\v 24 Thiên Chúa, vị Thần đã tạo dựng thế giới và mọi vật trong đó, vì là Chúa của trời và đất, nên Ngài không sống trong các đền đài do tay người ta dựng lên. \v 25 Ngài cũng không cần bàn tay con người phục vụ như thể Ngài thiếu thốn điều gì, vì chính Ngài ban cho mọi người sự sống, hơi thở cùng mọi thứ khác.
\s5
\v 26 Vì từ một người, Ngài đã tạo ra mọi tộc người sống trên khắp mặt đất, sau khi ấn định thời gian dành cho họ và ranh giới khu vực họ sinh sống. \v 27 để họ tìm kiếm Thiên Chúa và biết đâu họ cảm nhận được cách đến gần và tìm được Ngài. Nhưng Ngài chẳng ở cách xa người nào trong chúng ta cả.
\s5
\v 28 Vì trong Ngài, chúng ta sống, động và tồn tại, như lời của một trong các thi sĩ của quý vị có nói, rằng: \p Chúng ta cũng là con cái của Ngài. \v 29 Vậy, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa nên chúng ta đừng nghĩ rằng Thiên Chúa có những phẩm chất giống như vàng, bạc, hay đá những hình tượng được tạo ra bởi tài khéo và óc tưởng tượng của con người.
\s5
\v 30 Vì vậy, Thiên Chúa đã bỏ qua thời kỳ thiếu hiểu biết đó, và giờ đây Ngài truyền cho mọi người ở khắp mọi nơi phải ăn năn. \v 31 Ấy là vì Ngài đã ấn định ngày Ngài sẽ đoán xét thế gian trong sự công chính bởi Đấng mà Ngài đã chọn lựa. Thiên Chúa đã xác chứng về Đấng ấy với mọi người bằng cách khiến Ngài sống lại từ cõi chết.”
\s5
\v 32 Khi họ nghe về sự sống lại của người chết, một số chế giễu Phao-lô; nhưng những người khác thì bảo: “Chúng tôi sẽ nghe ông nói lại về vấn đề này.” \v 33 Sau đó, Phao-lô rời khỏi họ. \v 34 Nhưng có mấy người theo ông và tin, trong số đó có Đi-ô-ni-xi-út, thành viên hội đồng A-rê-ô-ba, và một phụ nữ tên Đa-ma-ri, cùng những người khác.
\c 18
\s5
\v 1 Sau các việc ấy, Phao-lô rời A-thên đi đến Cô-rinh-tô. \v 2 Tại đó, ông gặp một người Do Thái tên A-qui-la, người xứ Bông, mới cùng vợ là Bê-rít-sin từ Y-ta-li đến, vì Cơ-lốt đã ra lệnh cho tất cả người Do Thái phải rời khỏi La-mã. Phao-lô đến thăm họ, \v 3 và vì ông làm nghề giống như họ, tức nghề may trại, nên ông ở lại cùng làm việc.
\s5
\v 4 Vậy, cứ mỗi ngày Sa-bát, Phao-lô đều tranh luận trong nhà hội. Ông thuyết phục cả người Do Thái lẫn người Hy-lạp. \v 5 Nhưng khi Si-la và Ti-mô-thê từ Ma-xê-đoan xuống, Phao-lô dành hết tâm lực rao giảng đạo, long trọng làm chứng cho người Do Thái rằng Giê-xu là Chúa Cứu Thế. \v 6 Khi người Do Thái chống đối và nhục mạ ông, Phao-lô giũ áo và nói với họ: “Nguyện máu các ông đổ lại trên đầu các ông; còn tôi vô tội. Từ giờ trở đi, tôi sẽ đến với các dân ngoại quốc.”
\s5
\v 7 Rồi ông rời khỏi đó đi đến nhà Ti-ti-u Giút-tu, một người kính thờ Thiên Chúa. Nhà người này ở cạnh nhà hội. \v 8 Cơ-rít-bu, viên quản lý nhà hội, cùng mọi người trong nhà đều tin Chúa. Nhiều người Cô-rinh-tô nghe sứ điệp cũng tin và chịu báp-têm.
\s5
\v 9 Ban đêm, Chúa phán với Phao-lô trong một khải tượng, rằng: “ Đừng sợ, mà phải cứ nói, và không được làm thinh. \v 10 Vì ta ở cùng con và sẽ không có ai ra tay hãm hại con vì ta có nhiều người trong thành này.” \v 11 Vậy, Phao-lô ở lại đó một năm sáu tháng, dạy đạo của Thiên Chúa ở giữa họ.
\s5
\v 12 Nhưng khi Ga-li-ôn lên làm tổng đốc tỉnh A-chai, thì người Do Thái cùng nhau nổi dậy chống lại Phao-lô và đưa ông ra trước tòa. \v 13 Họ cáo: “Người này thuyết phục dân chúng thờ phượng Thiên Chúa trái luật.”
\s5
\v 14 Nhưng khi Phao-lô định mở miệng, thì Ga-li-ôn nói với người Do Thái : “ Mấy anh Do Thái kia, nếu đây thật là vấn đề về việc làm sai trái hoặc tội ác, thì giải quyết cho các người cũng phải. \v 15 Nhưng vì đây là vấn đề về lời lẽ, danh hiệu và luật lệ riêng của các người, nên các người dàn xếp lấy. Tôi không muốn xử những vấn đề thế này.”
\s5
\v 16 Vậy, Ga-li-ôn yêu cầu họ rời khỏi tòa án. \v 17 Thế là tất cả bọn họ bắt Sốt-then, quản lý nhà hội, rồi đánh đập ông trước tòa. Nhưng Ga-li-ôn không quan tâm đến việc ấy.
\s5
\v 18 Sau khi ở đó thêm nhiều ngày nữa, Phao-lô từ giã anh chị em rồi đi thuyền đến Sy-ri cùng với Bê-rít-sin và A-qui-la. Vì đã khấn hứa, nên Phao-lô cạo đầu tại Sen-cơ-rê. \v 19 Khi họ đến Ê-phê-sô, Phao-lô để Bê-rít-sin và A-qui-la ở đó, còn chính ông thì vào nhà hội tranh luận với người Do Thái.
\s5
\v 20 Khi họ yêu cầu Phao-lô ở lại thêm, thì ông từ chối. \v 21 Nhưng khi từ giã họ, ông nói: “Tôi sẽ quay trở lại với anh em nếu Thiên Chúa muốn.” Rồi ông xuống thuyền rời khỏi Ê-phê-sô.
\s5
\v 22 Khi đã lên bờ tại Sê-sa-rê, ông đi lên chào thăm Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, rồi xuống An-ti-ốt. \v 23 Sau khi ở đó ít lâu, Phao-lô khởi hành đi qua các vùng Ga-la-ti và Phi-ri-gi, khích lệ toàn thể các môn đồ.
\s5
\v 24 Lúc đó, có một người Do Thái tên A-bô-lô, sinh quán tại A-léc-xan-đờ-ri-a, đến Ê-phê-sô. Ông nói năng lưu loát và vững Kinh Thánh. \v 25 A-bô-lô đã được đào luyện trong đạo của Chúa. Với tinh thần sốt sắng, ông nói và dạy chính xác những điều liên quan đến Chúa Giê-xu nhưng ông chỉ biết phép báp-têm của Giăng mà thôi. \v 26 A-bô-lô bắt đầu giảng dạy cách dạn dĩ trong nhà hội. Tuy nhiên, khi Bê-rít-sin và A-qui-la nghe ông giảng, họ đem ông về giải thích cho ông hiểu đúng hơn về đạo của Thiên Chúa.
\s5
\v 27 Khi ông muốn đi qua A-chai, thì anh chị em khích lệ ông và viết thư gửi gắm cho các môn đồ tại A-chai. Lúc ông đến, ông đã nhờ ân điển Chúa giúp ích rất nhiều cho anh chị em tín đồ. \v 28 A-bô-lô mạnh mẽ phản bác người Do Thái qua tranh luận công khai, dùng Kinh Thánh tỏ ra rằng Giê-xu là Chúa Cứu Thế.
\c 19
\s5
\v 1 Trong khi A-bô-lô ở tại Cô-rinh-tô, thì Phao-lô đi khắp vùng ở bên trên, rồi đến thành Ê-phê-sô và gặp một số môn đồ ở đó. \v 2 Phao-lô hỏi họ: “Khi anh chị em tin, thì anh chị em có nhận được Chúa Thánh Linh không?” Nhưng họ đáp: “Không, chúng tôi thậm chí chưa từng nghe nói về Chúa Thánh Linh.”
\s5
\v 3 Phao-lô hỏi: “Vậy anh chị em nhận báp-têm nào?” Họ đáp: “ Phép báp-têm của Giăng.” \v 4 Phao-lô giải thích: “ Phép báp-têm mà Giăng làm là báp-têm về sự ăn năn tội. Ông dạy dân chúng phải tin Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giê-xu.”
\s5
\v 5 Khi nghe như vậy, họ bèn chịu phép báp-têm trong danh Chúa Giê-xu. \v 6 Khi Phao-lô đặt tay lên họ, thì Chúa Thánh Linh giáng trên họ; họ vừa nói các thứ tiếng khác, vừa nói tiên tri. \v 7 Tổng cộng có khoảng mười hai người.
\s5
\v 8 Rồi Phao-lô vào nhà hội và dạn dĩ giảng dạy trong ba tháng, biện luận và thuyết phục họ về vương quốc của Thiên Chúa. \v 9 Nhưng khi một số người Do Thái cứng lòng và bất phục, họ bắt đầu nói xấu đạo trước đám đông. Vì vậy Phao-lô bỏ họ và dẫn các môn đồ theo mình, hằng ngày biện luận với họ tại giảng đường Ti-ra-nu. \v 10 Việc ấy cứ tiếp diễn trong hai năm, đến nỗi mọi người sống tại A-si, cả Do Thái lẫn Hy Lạp, đều được nghe lời Chúa.
\s5
\v 11 Thiên Chúa bởi tay của Phao-lô thực hiện những phép lạ khác thường, \v 12 đến nỗi thậm chí khăn và tạp dề đã chạm vào người Phao-lô đem đến cho người bệnh thì bệnh dứt, còn uế linh thì xuất ra khỏi họ.
\s5
\v 13 Nhưng cũng có mấy thầy trừ tà người Do Thái đi khắp vùng đó. Họ kêu cầu danh Chúa Giê-xu để chữa trị những kẻ bị tà linh ám, rằng: “Bởi danh Giê-xu mà Phao-lô rao giảng, ta truyền cho mày phải ra khỏi.” \v 14 Có mấy người thuộc gia đình của Sê-va, một thầy tế lễ cả người Do Thái bảy con trai của ông ta làm việc ấy.
\s5
\v 15 Nhưng một tà linh đáp lại họ, rằng: “Giê-xu thì ta biết, Phao-lô ta cũng biết; nhưng các người là ai?” \v 16 Rồi người bị tà linh ám nhảy bổ vào những thầy trừ tà ấy, chế ngự rồi đánh đập họ. Họ phải chạy trốn khỏi nhà đó, trần truồng và đầy thương tích. \v 17 Tất cả dân chúng sống tại Ê-phê-sô, cả Do Thái lẫn Hy Lạp, đều biết việc này. Hết thảy họ đều sợ hãi và danh Chúa Giê-xu được tôn trọng.
\s5
\v 18 Ngoài ra, cũng có nhiều tín đồ đến xưng nhận những việc ác mà họ đã làm. \v 19 Nhiều người hành nghề ma thuật dồn sách vở của mình lại rồi đốt trước mặt mọi người. Người ta tính giá trị của chúng là năm mươi ngàn miếng bạc. \v 20 Vậy, đạo Chúa lan ra và phổ biến cách mạnh mẽ.
\s5
\v 21 Sau khi Phao-lô hoàn tất mục vụ tại Ê-phê-sô, ông quyết định trong Chúa Thánh Linh băng ngang qua vùng Ma-xê-đoan và A-chai trên đường đi Giê-ru-sa-lem; ông nói : “ Đến đó rồi, mình cũng phải thăm Rô-ma nữa.” \v 22 Rồi Phao-lô sai hai trong số những người phụ giúp mình là Ti-mô-thê và Ê-rát đi Ma-xê-đoan. Nhưng chính ông thì ở ở lại A-si thêm ít lâu.
\s5
\v 23 Vào khoảng thời gian đó, tại Ê-phê-sô có một sự náo loạn lớn liên quan đến Đạo. \v 24 Vì có tay thợ bạc nọ tên Đê-mê-triu, chuyên làm tượng nữ thần Ạt-tê-mít bằng bạc, đem lại nhiều công ăn việc làm cho giới thợ thủ công. \v 25 Vậy, ông ta tập hợp những người thợ làm nghề này lại và nói : “ Thưa anh em, anh em biết rằng chúng ta kiếm được nhiều tiền nhờ nghề này.
\s5
\v 26 Anh em cũng thấy và nghe rằng không chỉ tại Ê-phê-sô, mà hầu như trên khắp A-si, tên Phao-lô này đã thuyết phục và khiến nhiều người trở lòng. Hắn nói rằng các thứ tay người ta làm ra chẳng phải là thần thánh gì cả. \v 27 Cho nên không những nghề nghiệp chúng ta có nguy cơ bị mang tiếng xấu, mà đền thờ nữ thần Ạt-tê-mít vĩ đại của chúng ta cũng có thể bị xem thường. Vậy là đấng mà khắp A-si và thế giới tôn thờ sắp thực sự đánh mất sự vĩ đại của mình.”
\s5
\v 28 Khi nghe như vậy, họ nổi giận và hô lớn: “Vĩ đại thay nữ thần Ạt-tê-mít của người Ê-phê-sô!” \v 29 Rồi cả thành náo loạn và dân chúng cùng đổ xô đến hí trường. Họ bắt các bạn đồng hành của Phao-lô là Gai-út và A-ri-tạc, người Ma-xê-đoan.
\s5
\v 30 Phao-lô muốn ra mặt trước dân chúng, nhưng các môn đồ ngăn ông lại. \v 31 Ngoài ra, một số quan chức tỉnh A-si là bạn của Phao-lô cũng gửi tin nhắn cho ông, mạnh mẽ yêu cầu ông không được vào hí trường. \v 32 Người thì gào kiểu này, kẻ lại la kiểu khác vì đám đông đang hỗn loạn. Đa số họ thậm chí không biết tụ tập lại vì lý do gì.
\s5
\v 33 Rồi từ trong đám đông xuất hiện A-léc-xan-đơ, do bị người Do Thái đẩy ra. A-léc-xan-đơ dùng tay ra hiệu, tỏ ý muốn biện bạch với dân chúng. \v 34 Nhưng khi biết được anh ta là người Do Thái, thì thì tất cả họ đồng thanh la lên. Trong suốt hai giờ, họ hô lớn: “Vĩ đại thay nữ thần Ạt-tê-mít của người Ê-phê-sô.”
\s5
\v 35 Khi viên thư ký thành phố đã khiến được đám đông bình tĩnh lại, ông ta nói: “Thưa dân thành Ê-phê-sô, ai mà chẳng biết thành Ê-phê-sô là người giữ đền của Ạt-tê-mít vĩ đại và pho tượng từ trời rơi xuống của người? \v 36 Vậy, vì đây là những điều không thể phủ nhận được, nên mọi người hãy bình tĩnh và đừng làm điều gì hấp tấp. \v 37 Vì anh em đã kéo những người này đến tòa án trong khi họ chẳng phải là kẻ cướp đền thờ, cũng không phải là kẻ báng bổ nữ thần chúng ta.
\s5
\v 38 Cho nên, nếu thật Đê-mê-triu và giới thợ thủ công cùng đi với ông ta muốn tố cáo ai, thì tòa vẫn để mở và đã có các quan đầu tỉnh. Cứ để họ kiện cáo nhau. \v 39 Còn nếu anh em muốn giải quyết những vấn đề khác, thì phải giải quyết trong cuộc họp thường lệ. \v 40 Vì thật, chúng ta có thể bị buộc tội dấy loạn vì chuyện xảy ra ngày hôm nay. Chúng ta chẳng có thể viện lý do nào để giải thích cho tình trạng hỗn loạn này.” \f +\ft Một số cổ bản thêm: \fqa Sau khi nói như vậy thì ông giải tán cuộc tụ họp. \fqa*. ở đây thay vì trong câu 41.\f* \v 41 Sau khi nói như vậy, ông giải tán cuộc tụ họp. \f+\ft. Some ancient copies place this text at the end of verse 40.\f*
\c 20
\s5
\v 1 Sau khi tình trạng náo động kết thúc, Phao-lô cho mời các môn đồ đển; khích lệ họ xong, ông nói lời từ giã rồi đi đến Ma-xê-đoan. \v 2 Khi đã đi qua các vùng đó và dùng nhiều lời khích lệ họ, thì ông đến Hy-lạp. \v 3 Sau khi ở đó ba tháng, lúc ông chuẩn bị đáp thuyền đi Sy-ri, thì người Do Thái lập mưu hại ông, nên ông quyết định trở về qua ngã Ma-xê-đoan.
\s5
\v 4 Đi cùng với ông có Sô-ba-tê, con Bi-ru, người Bê-rê; A-ri-tạc; Sê-cun-đu, người Tê-sa-lô-ni-ca; Gai-út, người Đẹt-bơ; Ti-mô-thê; Ti-chi-cơ; và Trô-phim, người A-si. \v 5 Nhưng những người ấy đã đi trước chúng tôi và đang chờ chúng tôi tại Trô-ách. \v 6 Sau những ngày lễ bánh không men, chúng tôi ra đi bằng thuyền từ thành Phi-líp, và năm ngày sau, chúng tôi gặp họ tại Trô-ách. Chúng tôi ở lại đó bảy ngày.
\s5
\v 7 Rồi vào ngày thứ nhất trong tuần, khi chúng tôi nhóm lại với nhau để bẻ bánh, Phao-lô nói chuyện với các tín hữu. Ông dự định lên đường ngày hôm sau, nên ông cứ nói cho đến nửa đêm. \v 8 Trong gian phòng trên lầu nơi chúng tôi nhóm lại có thắp nhiều đèn.
\s5
\v 9 Ngồi cạnh cửa sổ là một thanh niên nọ, tên Ơ-tích. Anh ta ngủ mê quá. Khi Phao-lô giảng lâu thêm nữa, thì thanh niên này, vì mê ngủ, đã té từ tầng lầu thứ ba xuống đất. Khi đỡ dậy, thì anh đã chết. \v 10 Nhưng Phao-lô đi xuống, giang tay ra ôm lấy chàng trai. Rồi ông nói: “Đừng bối rối nữa, vì cậu ta còn sống.”
\s5
\v 11 Rồi ông lại lên lầu và bẻ bánh ăn. Sau khi nói chuyện với họ đến rạng sáng thì ông đi. \v 12 Họ đem chàng trai lên, thấy vẫn còn sống, thì được an ủi rất nhiều.
\s5
\v 13 Nhưng chính chúng tôi đáp tàu đi trước Phao-lô đến A-sốt, là nơi chúng tôi dự định sẽ đón Phao-lô lên tàu. Đây là sự sắp xếp của chính ông, vì ông đã lên kế hoạch đi bằng đường bộ. \v 14 Khi ông gặp chúng tôi tại A-sốt, chúng tôi đón ông lên tàu để đi Mi-ti-len.
\s5
\v 15 Rồi khởi đi từ nơi đó, ngày hôm sau chúng tôi đến ngang đảo Chi-ô. Ngày kế tiếp, chúng tôi đến đảo Sa-mốt, và ngày sau đó, chúng tôi đến thành Mi-lê. \v 16 Vì Phao-lô đã quyết định không ghé lại Ê-phê-sô, để khỏi mất thời gian lưu lại A-si; vì ông đang vội để có mặt tại Giê-ru-sa-lem cho kịp Lễ Ngũ Tuần, nếu có thể được.
\s5
\v 17 Vậy, từ Mi-lê, ông sai người đến Ê-phê-sô mời các trưởng lão của Hội Thánh đến. \v 18 Khi họ đã đến, ông nói với họ: \p “Chính anh em biết rõ từ ngày đầu tiên đến A-si, tôi đã ở giữa anh chị em như thế nào suốt thời gian đó. \v 19 Tôi cứ hầu việc Chúa bằng tất cả lòng khiêm nhu và nước mắt, giữa những khốn khó xảy ra cho tôi vì mưu mô của người Do Thái. \v 20 Anh chị em cũng biết tôi không giữ lại, nhưng đã rao giảng cho anh chị em mọi điều hữu ích, và thể nào tôi đã dạy dỗ anh chị em ở chốn đông người, cũng như từ nhà này sang nhà khác, \v 21 làm chứng cho cả anh chị em Do Thái lẫn Hy Lạp về sự ăn năn đối với Thiên Chúa và về đức tin nơi Chúa Giê-xu chúng ta.
\s5
\v 22 Giờ đây, do Chúa Thánh Linh thúc ép, tôi sắp đi Giê-ru-sa-lem mà chẳng biết việc gì sẽ xảy đến cho mình tại đó, \v 23 ánh Linh ngoài việc Chúa Thánh Linh xác chứng với tôi trong mỗi thành, rằng xiềng xích và khổ nạn đang chờ đợi tôi. \v 24 Nhưng tôi không xem mạng sống là quý đối với mình, để hoàn tất cuộc đua và chức vụ mà tôi đã nhận lãnh từ Chúa Giê-xu, long trọng làm chứng cho Phúc Âm của ân điển Thiên Chúa.
\s5
\v 25 Kìa, tôi biết rằng tất cả anh chị em trong số những người tôi đi lại công bố Nước Trời sẽ chẳng ai còn thấy mặt tôi nữa. \v 26 Vì thế, ngày nay tôi làm chứng trước anh em rằng tôi vô tội về huyết của bất kỳ ai. \v 27 Vì tôi không giữ lại, mà công bố hết cho anh chị em toàn thể ý muốn của Thiên Chúa.
\s5
\v 28 Anh em hãy giữ mình, và luôn cả bầy mà Chúa Thánh Linh đã đặt để anh em làm người coi sóc. Hãy cẩn thận chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình. \f +\ft Thay vì \fqa bằng chính huyết mình \fqa*, cụm từ này có thể được dịch: \fqa bằng huyết của chính Con Ngài \fqa*.\f* \v 29 Tôi biết rằng sau khi tôi đi, muông sói hung tợn sẽ xen vào giữa vòng anh chị em và không thương tiếc bầy chiên. \v 30 Tôi biết rằng thậm chí từ giữa vòng anh chị em sẽ xuất hiện một số người nói ra những điều sai lạc nhằm lôi kéo môn đồ theo họ.
\s5
\v 31 Vậy nên phải cảnh giác. Hãy nhớ rằng trong suốt ba năm, ngày đêm tôi hằng đổ nước mắt dạy dỗ từng người trong anh chị em. \v 32 Giờ đây, tôi phó thác anh chị em cho Thiên Chúa và cho lời của ân điển Ngài, vốn có thể gây dựng anh chị em và ban cho anh chị em cơ nghiệp giữa vòng mọi người đang được thánh hóa.
\s5
\v 33 Tôi không tham bạc, vàng hay quần áo của ai. \v 34 Chính anh chị em biết rằng đôi bàn tay này đã phục vụ cho nhu cầu của tôi và nhu cầu của những người cùng đi với tôi. \v 35 Trong tất cả mọi việc, tôi đều tỏ cho anh chị em thấy chúng ta phải chịu khó làm lụng để giúp đỡ người kém sức, và cũng để nhớ đến lời của Chúa Giê-xu, khi chính Ngài dạy rằng: “ Cho được phước hơn nhận.”
\s5
\v 36 Sau khi đã nói như vậy, ông quỳ gối xuống cầu nguyện với tất cả họ. \v 37 Họ đều khóc rất nhiều, và ôm hôn Phao-lô. \v 38 Điều khiến họ buồn nhất là lời ông nói, rằng họ sẽ không bao giờ gặp mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
\c 21
\s5
\v 1 Khi đã chia tay họ và ra khơi, chúng tôi đi thẳng đến thành Cốt; qua ngày hôm sau thì đến thành Rô-đơ, rồi từ đó đến thành Ba-ta-ra. \v 2 Tìm được tàu đi qua Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và ra khơi.
\s5
\v 3 Sau khi nhìn thấy đảo Chíp-rơ, chúng tôi lách qua mạn trái đảo và đi tiếp đến Sy-ri, rồi lên bờ tại Ty-rơ vì tàu phải dỡ hàng ở đó. \v 4 Rồi sau khi tìm được các môn đồ, chúng tôi ở lại đó bảy ngày. Bởi Chúa Thánh Linh, họ cứ nài nỉ Phao-lô đừng đi Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 5 Nhưng sau mấy ngày đó, chúng tôi lại ra đi và tiếp tục hành trình. Tất cả họ, cùng với vợ con, đều đều theo tiễn chúng tôi cho đến bờ rìa của thành phố. Rồi chúng tôi quỳ xuống trên bờ biển cầu nguyện, \v 6 và nói lời từ giã nhau. Chúng tôi lên tàu, còn họ thì trở về nhà.
\s5
\v 7 Khi đã hoàn tất chuyến hải trình từ Ty-rơ, chúng tôi đến Bê-tô-lê-mai. Tại đó, chúng tôi chào thăm anh chị em và ở lại với họ một ngày. \v 8 Ngày hôm sau, chúng tôi ra đi và đến Sê-sa-rê. Chúng tôi vào nhà của Phi-líp, nhà truyền bá Phúc Âm, một trong bảy chấp sự, và ở lại với ông. \v 9 Ông có bốn cô con gái đồng trinh nói tiên tri.
\s5
\v 10 Trong nhiều ngày chúng tôi lưu lại đó, có một tiên tri tên A-ga-bút từ Giu-đê xuống. \v 11 Ông đến gặp chúng tôi và lấy dây thắt lưng của Phao-lô tự trói chân tay mình lại, rồi nói: “Chúa Thánh Linh phán thế này: Người Do Thái tại Giê-ru-sa-lem sẽ trói chủ của dây lưng này như vầy, và họ sẽ nộp người vào tay dân ngoại.’”
\s5
\v 12 Khi nghe mấy lời ấy, cả chúng tôi và những người sống ở đó đều nài nỉ Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. \v 13 Nhưng Phao-lô đáp : “Anh em làm gì vậy? Khóc lóc và khiến tôi thêm đau lòng ư? Vì tôi đã sẵn sàng, không chỉ để bị trói, mà còn chịu chết vì danh Chúa Giê-xu tại Giê-ru-sa-lem nữa kìa.” \v 14 Vì Phao-lô không chịu nghe, nên chúng tôi cứ yên lặng, rồi nói: “Nguyện ý Chúa được nên.”
\s5
\v 15 Sau những ngày đó, chúng tôi thu gom hành trang và lên Giê-ru-sa-lem. \v 16 Đi cùng chúng tôi cũng có một số môn đồ từ Sê-sa-rê. Họ đem theo một người tên Ma-na-sôn, một môn đồ từ buổi đầu quê ở Chíp-rơ, là người mà chúng tôi sẽ ở chung với.
\s5
\v 17 Khi chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, anh chị em vui mừng chào đón chúng tôi. \v 18 Ngày hôm sau, Phao-lô đi với chúng tôi đến gặp Gia-cơ, và tất cả các trưởng lão đều có mặt. \v 19 Chào thăm họ xong, ông thuật lại từng việc Thiên Chúa đã làm giữa các dân ngoại quốc mục vụ của mình.
\s5
\v 20 Khi nghe như vậy, họ ngợi khen Thiên Chúa, rồi họ nói với ông: “Người anh em, anh thấy đấy, nhiều ngàn người Do Thái đã tin. Họ đều sốt sắng đối với luật pháp. \v 21 Họ đã nghe nói về anh, rằng anh dạy mọi người Do Thái sống giữa dân ngoại từ bỏ luật Môi-se, và anh còn dạy họ đừng cắt bì cho con cái mình, và cũng đừng theo những tập tục.
\s5
\v 22 Chúng ta phải làm gì đây? Chắc chắn họ sẽ nghe biết anh đã đến. \v 23 Vậy, hãy làm như chúng tôi nói đây.Chúng tôi có bốn người đã phát lời thề nguyện. \v 24 Hãy đưa những người này theo và thanh tẩy chính anh cùng với họ, rồi trả chi phí cho họ, để họ cạo đầu mình. Vậy, mọi người sẽ biết rằng những điều họ nghe nói về anh là không đúng, và rằng anh cũng ăn theo và tuân giữ luật pháp.
\s5
\v 25 Còn về những người ngoại quốc đã tin Chúa, chúng tôi có viết và đưa ra những huấn thị dạy họ phải giữ mình khỏi đồ cúng tế hình tượng, huyết, thú vật chết ngạt, và sự gian dâm.” \v 26 Vậy, Phao-lô dẫn những người đó đi; ngày hôm sau, thanh tẩy mình cùng với họ, ông vào đền thờ để thông báo số ngày của kỳ thanh tẩy, tính cho đến khi dâng của lễ cho từng người.
\s5
\v 27 Nhưng khi bảy ngày sắp hết, một số người Do Thái đến từ A-si thấy Phao-lô trong đền thờ, thì kích động cả đám đông và ra tay bắt ông. \v 28 Họ la lên : “ Này, người Y-sơ-ra-ên, xin giúp chúng tôi. Đây là kẻ dạy mọi người ở khắp nơi những điều chống lại dân tộc, luật pháp, và nơi này. Ngoài ra, hắn còn đem người Hy-lạp vào trong đền thờ và làm ô uế nơi thánh.” \v 29 Vì trước đó, họ đã thấy Trô-phim, người Ê-phê-sô, trong thành cùng với ông, nên họ tưởng Phao-lô đã đem anh này vào đền thờ.
\s5
\v 30 Cả thành đều bị kích động, dân chúng cùng ùa đến bắt giữ Phao-lô. Họ lôi ông ra khỏi đền thờ, rồi lập tức đóng cửa lại. \v 31 Khi họ đang cố giết ông thì chỉ huy trưởng quân đội nghe tin cả thành Giê-ru-sa-lem đang náo loạn.
\s5
\v 32 Lập tức, ông dẫn theo binh lính cùng với các đại đội trưởng chạy xuống chỗ đám đông. Khi dân chúng nhìn thấy viên chỉ huy và binh lính, họ ngưng đánh đập Phao-lô. \v 33 Rồi viên chỉ huy tiến đến bắt giữ Phao-lô và ra lệnh trói ông bằng hai sợi xích. Rồi ông hỏi Phao-lô là ai và đã làm gì.
\s5
\v 34 Trong đám đông người thì la thế này, kẻ thì gào thế khác. Vì viên chỉ huy không tìm ra được điều gì chắc chắn do quá ồn ào, nên ông ra lệnh giải Phao-lô về đồn. \v 35 Khi đến bậc tam cấp, binh lính phải khiêng ông vì dân chúng hung hãn quá. \v 36 Đám người cứ đeo theo và liên tục la lên: “Khử nó đi!”
\s5
\v 37 Khi sắp sửa bị đưa vào đồn, ông nói với viên chỉ huy : “Xin cho tôi nói đôi điều với ông.” Viên chỉ huy hỏi: “Ông nói tiếng Hy-lạp à? \v 38 Vậy ông không phải là gã Ai-cập trước đây đã khởi xướng cuộc nổi loạn và dẫn bốn ngàn tay sát thủ vào hoang mạc sao?”
\s5
\v 39 Phao-lô đáp: “Tôi là người Do Thái, quê ở thành Tạt-sơ, xứ Si-li-si. Tôi là công dân của thành phố quan trọng đó. Tôi xin ông cho phép tôi nói với dân chúng.” \v 40 Khi viên chỉ huy cho phép, Phao-lô đứng trên bậc tam cấp và dùng tay ra hiệu cho dân chúng. Khi tất cả đều im lặng, ông bắt đầu. nói với họ bằng tiếng Hy-bá, rằng
\c 22
\s5
\v 1 “Thưa anh em và những bậc cha chú, xin nghe lời tôi biện hộ với anh em đây.”
\s5
\v 2 Khi đám đông nghe Phao-lô nói với, mình bằng tiếng Hy-bá, thì họ lại càng im lặng. Rồi ông tiếp:
\s5
\v 3 “Tôi là người Do Thái, sinh tại thành Tạt-sơ xứ Si-li-si, nhưng được học hành trong thành này dưới chân thầy Ga-ma-li-ên. Tôi được đào luyện theo đường lối luật pháp nghiêm nhặt của cha ông chúng ta. Tôi sốt sắng vì Thiên Chúa, cũng giống như hết thảy anh em ngày nay. \v 4 Tôi đã bức hại Đạo này cho đến chết, bắt trói và tống họ vào tù, cả đàn ông lẫn phụ nữ, \v 5 như thầy cả thượng phẩm và tất cả các trưởng lão có thể làm chứng cho tôi. Tôi cũng nhận thư của họ viết cho anh chị em tại Đa-mách, và thật, tôi có đi đến thành ấy để bắt trói những kẻ ở đó giải về Giê-ru-sa-lem chịu tội.
\s5
\v 6 Chuyện xảy ra khi tôi đang đi và gần đến Đa-mách, khoảng giữa trưa,, thình lình, có ánh sáng lớn từ trời bắt đầu chiếu rọi xung quanh tôi. \v 7 Vậy, tôi ngã xuống đất và nghe một tiếng phán với mình, rằng: “Sau-lơ, Sau-lơ, sao con bức hại ta?” \v 8 Tôi đáp : Ngài là ai, thưa Chúa? Chúa đáp lại tôi: Ta là Giê-xu Na-xa-rét mà con đang bức hại.
\s5
\v 9 Những người cùng đi với tôi thật có thấy ánh sáng đó, nhưng họ không hiểu tiếng của Đấng phán với tôi. \v 10 Rồi tôi hỏi: Con phải làm gì, thưa Chúa? Chúa đáp : Hãy đứng dậy đi vào thành Đa-mách; tại đó con sẽ được bảo cho biết mọi việc đã định cho con làm. \v 11 Do ánh sáng chói chang khiến tôi không còn thấy đường, nên những người cùng đi nắm tay dẫn tôi vào thành Đa-mách.
\s5
\v 12 Tại đó, tôi gặp anh A-na-nia nọ, một người sốt sắng theo tiêu chuẩn của luật pháp và được mọi người Do Thái sống tại đó khen ngợi. \v 13 Anh đến gặp tôi và đứng bên tôi, nói: “Anh Sau-lơ, hãy sáng mắt lại.” Chính giờ đó, tôi nhìn thấy anh ấy.
\s5
\v 14 Rồi anh tiếp: “Thiên Chúa của tổ phụ chúng ta đã chọn anh để biết ý muốn Ngài, và để nhìn thấy Đấng Công Chính, cũng như nghe tiếng phán từ chính miệng Ngài. \v 15 Vì anh sẽ là một chứng nhân cho Ngài trước mọi người về những gì anh đã thấy và nghe. \v 16 Vậy, anh còn chờ gì nữa? Hãy đứng dậy, kêu cầu danh Chúa, chịu báp-têm và làm sạch tội lỗi mình.
\s5
\v 17 Sau khi trở về Giê-ru-sa-lem, lúc đang cầu nguyện trong đền thờ, thì tôi rơi vào trạng thái xuất thần. \v 18 Tôi thấy Chúa phán với tôi: Hãy mau mau rời khỏi Giê-ru-sa-lem cho nhanh, vì họ sẽ không chấp nhận lời chứng của con về ta.
\s5
\v 19 Tôi trả lời: Thưa Chúa, chính họ biết rằng con đã bỏ tù và đánh đập những người tin Ngài trong mỗi nhà hội mà. \v 20 Khi máu của Ê-tiên, chứng nhân của Ngài, đổ ra, chính con cũng đứng đó, thuận tình với họ, và con còn giữ áo cho những người đã giết anh ấy. \v 21 Nhưng Ngài phán với tôi: Hãy đi, vì ta sẽ sai con đến với các dân ngoại quốc ở xa.’”
\s5
\v 22 Họ chịu nghe ông nói đến đó. Rồi họ la lớn tiếng: “ Phải trừ khử người thế này khỏi mặt đất, chẳng nên để hắn sống.” \v 23 Khi họ đang hò hét, cởi tung áo ra và hất bụi lên trời, \v 24 thì viên chỉ huy truyền đem Phao-lô vào đồn. Ông ra lệnh dùng roi tra khảo Phao-lô để biết được tại sao dân chúng lại kêu gào phản đối ông như thế.
\s5
\v 25 Nhưng khi họ đã căng ông ra chuẩn bị đánh đòn, thì Phao-lô hỏi viên đại đội trưởng đang đứng đó: “Luật pháp có cho phép các ông dùng roi đánh một công dân La-mã chưa bị kết án không?” \v 26 Khi viên đại đội trưởng nghe như vậy, ông ta đến gặp viên chỉ huy báo lại, rằng: “ Ngài định làm gì vậy? Vì người này là công dân La-mã.”
\s5
\v 27 Vậy, viên chỉ huy hỏi ông: “Hãy cho tôi biết, anh có phải là công dân La-mã không?” Phao-lô trả lời: “Phải.” \v 28 Viên chỉ huy nói: “Tôi phải chi một số tiền lớn mới mua được quyền công dân đó.” Phao-lô đáp lại: “ Còn tôi sinh ra đã là công dân La-mã.” \v 29 Rồi mấy người định hỏi cung ông lập tức bỏ đi. Viên chỉ huy cũng sợ hãi khi biết rằng Phao-lô là công dân La-mã, mà mình lại bắt trói lại.
\s5
\v 30 Ngày hôm sau, ông muốn biết sự thật về những lời cáo buộc người Do Thái đưa ra chống lại Phao-lô, nên ông mở trói và ra lệnh cho các thầy tế lễ cả cùng toàn thể hội đồng họp lại. Rồi ông đưa Phao-lô xuống đứng ở giữa họ.
\c 23
\s5
\v 1 Phao-lô nhìn thẳng vào các thành viên hội đồng và nói: “Thưa anh em, tôi đã sống như một công dân có lương tâm thanh sạch trước mặt Thiên Chúa cho đến ngày nay.” \v 2 Lúc đó, thầy cả thượng phẩm A-na-nia ra lệnh cho những người đứng gần cạnh ông vả vào miệng ông. \v 3 Phao-lô nói với ông ta: “ Bức tường tô trắng kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông. Ông ngồi xét xử tôi theo luật pháp, nhưng lại bảo người đánh tôi trái luật như vậy sao?”
\s5
\v 4 Nhưng những người đứng cạnh đó trách Phao-lô, rằng: “ Ông dám sỉ nhục thầy cả thượng phẩm của Thiên Chúa ư?” \v 5 Phao-lô đáp: “ Thưa anh em, tôi không biết ông ấy là thầy cả thượng phẩm. Vì có lời chép:
\q
Ngươi chớ sỉ nhục người lãnh đạo dân mình.”
\s5
\v 6 Khi Phao-lô thấy một nhóm trong hội đồng là người Sa-đu-sê còn nhóm kia là người Pha-ri-si, thì ông nói lớn tiếng giữa hội đồng, rằng: “ Thưa anh em, tôi là một người Pha-ri-si, con của người Pha-ri-si. Tôi bị xét xử bữa nay là vì hy vọng chắc chắn về sự sống lại của kẻ chết. \v 7 Khi ông nói vậy thì có cuộc tranh cãi nổi lên giữa người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê, và hội đồng chia phe ra. \v 8 Vì người Sa-đu-sê nói rằng không có sự sống lại, không có thiên sứ, cũng không có các linh, nhưng người Pha-ri-si thì nhận có mọi điều đó.
\s5
\v 9 Tình trạng to tiếng xảy ra và một số h thầy dạy luật thuộc phe đảng Pha-ri-si đã đứng dậy tranh luận, rằng: “Chúng tôi chẳng thấy người này có gì sai cả. Biết đâu một linh hoặc một thiên sứ đã phán cùng ông ta thì sao?” \v 10 Khi cuộc tranh cãi bùng lên gay gắt, viên chỉ huy e Phao-lô sẽ bị họ xé xác, nên ông ra lệnh cho binh lính xuống dùng vũ lực giành lấy ông từ các thành viên hội đồng, và đem ông về đồn.
\s5
\v 11 Đêm hôm sau, Chúa đứng bên cạnh ông và phán rằng: “ Hãy vững lòng. Con đã làm chứng về ta tại Giê-ru-sa-lem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rô-ma.”
\s5
\v 12 Đến sáng, một số người Do Thái âm mưu với nhau. Họ phát lời thề và hứa sẽ không ăn không uống cho đến khi giết được Phao-lô. \v 13 Có khoảng bốn mươi người lập mưu này.
\s5
\v 14 Họ đến gặp các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, đề nghị: “Chúng tôi đã thề rằng sẽ không ăn gì cho đến khi chúng tôi giết chết tên Phao-lô. \v 15 Vì vậy, xin các ông cùng với cả hội đồng trình lại với viên chỉ huy, như thể các ông muốn tìm hiểu kỹ càng hơn các vấn đề liên quan đến tên Phao-lô, để ông ta sẽ giải hắn xuống gặp các ông. Còn về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ sẵn sàng giết chết hắn trước khi hắn đến đây.”
\s5
\v 16 Nhưng cháu gọi Phao-lô bằng cậu nghe biết về cuộc mai phục, nên cậu đến đồn báo cho Phao-lô hay. \v 17 Vậy, Phao-lô gọi một trong những viên đại đội trưởng lại, bảo: “Hãy dẫn cậu này đến chỗ chỉ huy trưởng, vì cậu ta có điều muốn thưa trình.”
\s5
\v 18 Vậy, viên đại đội trưởng đưa chàng thanh niên đến gặp viên chỉ huy, thưa: “Tù nhân Phao-lô nhờ tôi đưa chàng thanh niên này đến gặp ngài. Cậu ta có điều muốn báo với ngài.” \v 19 Viên chỉ huy nắm tay dẫn cậu riêng ra, rồi hỏi: “Cậu muốn báo cho tôi việc gì?”
\s5
\v 20 Cậu thanh niên đáp: “Người Do Thái đã thỏa thuận sẽ xin ngài ngày mai đưa Phao-lô xuống hội đồng, như thể họ muốn tra hỏi kỹ càng hơn về vụ việc liên quan đến ông ấy. \v 21 Nhưng xin ngài đừng nghe họ, vì có hơn bốn mươi người đang rình đợi ông ấy. Họ đã thề rằng sẽ không ăn không uống cho đến khi giết chết ông. Thậm chí bây giờ họ đã sẵn sàng, chỉ chờ ngài thuận ý.”
\s5
\v 22 Chỉ huy trưởng cho chàng trai trẻ ra về sau khi căn dặn cậu: “Đừng cho ai biết cậu đã thuật cho tôi chuyện này.” \v 23 Rồi, ông cho gọi hai viên đại đội trưởng đến, dặn: “ Hãy sửa soạn hai trăm binh lính đi đến Sê-sa-rê cùng với bảy mươi kỵ binh và hai trăm binh sĩ cầm giáo. Các anh sẽ lên đường vào giờ thứ ba đêm nay.” \v 24 Ông cũng ra lệnh cho họ đem theo ngựa để Phao-lô cỡi và đưa ông an toàn đến chỗ tổng đốc Phê-lít.
\s5
\v 25 Rồi, ông viết bức thư đại thể như sau đây:
\s5
\v 26 “Cơ-lốt Ly-sia gởi ngài tổng đốc khả kính Phê-lít! Kính chúc mọi sự an lành. \v 27 Người này bị người Do Thái bắt và sắp sửa giết chết thì tôi cùng binh sĩ đến giải cứu ông ta vì tôi biết được rằng ông là công dân La-mã.
\s5
\v 28 Tôi muốn biết họ cáo ông ta tội gì, nên tôi giải ông ta xuống hội đồng của họ. \v 29 Tôi được biết ông ta bị cáo buộc về các vấn đề liên quan đến luật pháp riêng của họ, nhưng chẳng có cáo buộc nào đáng để xử ông ta tội chết hoặc bỏ tù. \v 30 Sau đó, tôi nghe nói sẽ có âm mưu thực hiện ám hại người này, vì thế tôi lập tức đưa ông ta đến chỗ ngài, và cũng bảo bên nguyên cáo đem việc kiện tụng trình bày trước mặt ngài. ”
\s5
\v 31 Vậy, binh lính theo lệnh họ nhận được, đang ban đêm đưa Phao-lô đến An-ti-ba-tri. \v 32 Ngày hôm sau, hầu hết binh lính đều quay về đồn, chỉ còn các kỵ binh đi tiếp với Phao-lô. \v 33 Khi các kỵ binh đến Sê-sa-rê và giao bức thư cho quan tổng đốc, họ cũng đem trình diện Phao-lô với ông ta.
\s5
\v 34 Quan tổng đốc đọc thư và hỏi Phao-lô là người tỉnh nào. Khi biết rằng là người Si-li-si, \v 35 ông ta bảo: “Tôi sẽ nghe anh trình bày mọi việc khi bên nguyên cáo đến đây.” Rồi, ông truyền giam giữ Phao-lô trong cung của Hê-rốt.
\c 24
\s5
\v 1 Năm ngày sau, có thầy cả thượng phẩm A-na-nia, mấy trưởng lão, và nhà hùng biện nọ tên Tẹt-tu-lu đến đó. Những người này cáo tội Phao-lô trước mặt quan tổng đốc. \v 2 Khi Phao-lô đứng trước quan tổng đốc, Tẹt-tu-lu lên tiếng tố cáo ông với quan, thế này: “ Bởi ơn ngài mà chúng tôi được hưởng thái bình, và nhờ ngài biết nhìn xa trông rộng mà đất nước chúng tôi được canh tân tốt đẹp,
\s5
\v 3 thưa ngài Felix. Với tất cả lòng biết ơn, chúng tôi xin công nhận công lao ấy của ngài, bằng mọi cách và khắp mọi nơi.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, để khỏi bắt Ngài chờ đợi thêm nữa, tôi xin ngài vui lòng nghe tôi trình bày đôi lời. \v 5 Vì chúng tôi thấy gã này đúng là kẻ gây rối, sách động mọi người Do Thái khắp thế giới nổi loạn. Ngoài ra, hắn còn là lãnh tụ của môn phái Na-xa-rét.
\s5
\v 6 Thậm chí hắn còn tìm cách phàm tục hóa đền thờ, nên chúng tôi bắt hắn. \f +\ft Một số cổ bản thêm: \fqa Chúng tôi muốn xét xử hắn theo luật của chúng tôi \fqa*.
\s5
\v 7 \f*\f +\ft Một số cổ bản thêm câu này mở đầu trong câu 7 và kết thúc ở đầu câu 8. \fqa Nhưng Ly-sia, viên sĩ quan, đến, dùng vũ lực cướp hắn khỏi tay chúng tôi, và lệnh cho bên nguyên cáo phải đến gặp ngài \fqa*.\f*
\s5
\v 8 Ngài có thể đích thân thẩm vấn hắn về mọi việc này để biết về các tội mà chúng ta kiện cáo hắn.” \v 9 Rồi người Do Thái cũng hùa theo, xác nhận mọi điều đó là đúng.
\s5
\v 10 Khi quan tổng đốc ra hiệu cho Phao-lô nói, Phao-lô đáp: “Tôi biết ngài đã làm quan xử án dân tộc này nhiều năm, vì thế tôi hân hạnh tự biện hộ về những việc liên quan đến mình.
\s5
\v 11 Ngài có thể xác minh rằng từ khi tôi lên thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem đến nay không quá mười hai ngày; \v 12 Họ không bắt gặp tôi tranh cãi với ai trong đền thờ, mà tôi cũng chẳng sách động đám đông nào hoặc ở nhà hội, hoặc trong thành phố. \v 13 Họ không thể chứng minh cho ngài về những việc họ kiện cáo tôi.
\s5
\v 14 Nhưng tôi thừa nhận với ngài rằng tôi phục vụ Thiên Chúa của tổ phụ chúng tôi, theo như đạo mà họ gọi là môn phái. Tôi trung thành với tất cả những gì đúng theo luật pháp và được chép trong các sách tiên tri. \v 15 Tôi có cùng niềm hy vọng vững chắc nơi Thiên Chúa như chính những người này đang trông đợi, đó là sẽ có sự sống lại của cả người công chính lẫn kẻ ác. \v 16 Cho nên, với hy vọng ấy, tôi luôn cố gắng để có một lương tâm trong sạch trước mặt Thiên Chúa và loài người.
\s5
\v 17 Sau nhiều năm, tôi trở về, đem theo tiền cứu tế cho người nghèo của đất nước tôi, và dâng của lễ. \v 18 Họ bắt gặp tôi đang làm việc này, chịu tẩy uế trong đền thờ, chứ chẳng có đám đông hay cuộc tụ tập náo động nào. \v 19 Nhưng có mấy người Do Thái từ A-si về, đáng ra phải đến hầu trước mặt ngài ở đây để kiện cáo, nếu họ có việc gì kiện cáo tôi.
\s5
\v 20 Còn không thì chính mấy người này phải nói ra điều sai trái họ thấy nơi tôi khi tôi đứng trước hội đồng của người Do Thái; \v 21 có chăng chỉ là lời mà tôi đã la lớn khi đứng giữa họ, rằng: Tôi bị xét xử trước mọi người bữa nay liên quan đến sự sống lại của kẻ chết.’”
\s5
\v 22 Rồi Phê-lít, vốn biết rõ hơn về những điều liên quan đến đạo Chúa, đình hoãn phiên xử lại. Ông ta nói: “Khi nào viên chỉ huy Ly-sia từ Giê-ru-sa-lem xuống đây, thì tôi sẽ quyết định về việc của các ông.” \v 23 Rồi ông ta ra lệnh cho viên đại đội trưởng giam Phao-lô lại, nhưng phải để cho Phao-lô được thong thả, và đừng ngăn trở bạn bè đến giúp đỡ ông.
\s5
\v 24 Sau vài ngày, Phê-lít quay trở lại cùng với vợ là Đơ-ru-si, một phụ nữ Do Thái. Ông ta cho gọi Phao-lô và nghe Phao-lô nói về đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. \v 25 Nhưng khi Phao-lô tranh cãi với ông ta về sự công bình, sự tiết độ và sự đoán xét trong tương lai, thì Phê-lít sợ hãi, bảo: “Bây giờ ông tạm lui ra. Khi tìm được dịp, tôi sẽ tôi sẽ cho gọi đến.”
\s5
\v 26 Đồng thời, ông ta hy vọng Phao-lô sẽ đút lót tiền bạc cho mình, nên ông ta thường cho gọi Phao-lô đến để nói chuyện. \v 27 Khi hết hai năm, Bốt-tiu Phê-tu lên làm tổng đốc thay Phê-lít, nhưng Phê-lít muốn lấy lòng dân Do Thái nên ông ta cứ giam giữ Phao-lô.
\c 25
\s5
\v 1 Đến nhậm chức trong tỉnh được ba ngày thì Phê-tu từ Sê-sa-rê lên Giê-ru-sa-lem. \v 2 Các thầy tế lễ cả và những người có vai vế trong dân Do Thái bèn cáo tội Phao-lô với Phê-tu và cố thuyết phục ông ta \v 3 ban cho họ một ân huệ đó là cho giải Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem vì họ đã sắp xếp một cuộc mai phục để giết chết ông dọc đường.
\s5
\v 4 Nhưng Phê-tu đáp rằng Phao-lô đang bị giam tại Sê-sa-rê, và không lâu nữa, chính ông sẽ xuống đó. \v 5 Ông nói: “Vì vậy, những người thuộc trong giới lãnh đạo các ông phải xuống đó gặp chúng tôi. Nếu ông ta có gì sai trái, thì họ cứ việc tố cáo.”
\s5
\v 6 Phê-tu ở lại với họ thêm tám hoặc mươi ngày gì đó, rồi ông ta xuống Sê-sa-rê. Ngày hôm sau, ông ta ngồi vào ghế xử án và truyền lệnh đem Phao-lô ra gặp mình. \v 7 Khi Phao-lô đến, những người Do Thái đã từ Giê-ru-sa-lem xuống vây lấy ông, đưa ra nhiều lời cáo buộc nghiêm trọng mà họ không thể chứng minh. \v 8 Phao-lô lên tiếng bào chữa cho mình, rằng: “Tôi chưa từng làm điều gì sai trái chống lại luật pháp của người Do Thái, hay đền thờ, hoặc Xê-xa.”
\s5
\v 9 Nhưng vì muốn chìu lòng người Do Thái, nên Phê-tu hỏi Phao-lô: “ Ông có muốn lên Giê-ru-sa-lem để chịu tôi xét xử về các việc này không?” \v 10 Phao-lô đáp : “Phao-lô đáp: “Tôi sẽ ra hầu tòa trước Xê-xa, nơi tôi phải chịu xét xử. Tôi chẳng làm gì sai trái với người Do Thái, như ngài cũng biết rất rõ rồi.
\s5
\v 11 Dù nếu tôi có làm gì sai và làm điều gì đáng chết, thì tôi không từ chối án tử đâu. Nhưng nếu lời họ cáo tôi không đúng, thì không ai được nộp tôi cho họ. Tôi khiếu nại đến Xê-xa.” \v 12 Vậy, sau khi khi Phê-tu nói chuyện với hội đồng ông ta trả lời: “ Ông đã khiếu nại lên Xê-xa. Ông sẽ được hầu Xê-xa!”
\s5
\v 13 Mấy ngày sau, vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít đến Sê-sa-rê để viếng thăm xã giao Phê-tu. \v 14 Sau khi họ ở đó được nhiều ngày, Phê-tu trình bày trường hợp của Phao-lô cho vua, rằng: “Có một tù nhân do Phê-lít để lại. \v 15 Khi tôi ở Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ cả và trưởng lão người Do Thái cáo tội người này, đòi phải kết án ông ta. \v 16 Tôi trả lời họ rằng người La-mã không có lệ giao nộp ai trước khi bị cáo có cơ hội đối chất với nguyên cáo, để tự biện hộ trước những lời buộc tội.
\s5
\v 17 Vì vậy, khi họ kéo nhau đến đây, tôi không chờ đợi lâu, mà ngay ngày hôm sau, tôi ngồi vào ghế xử án rồi truyền đem người đó vào. \v 18 Khi bên nguyên cáo lên tiếng, họ chẳng cáo buộc ông ta tội nào mà tôi trông đợi cả. \v 19 Thay vào đó, họ chỉ tranh cãi với ông ta về tôn giáo của mình và về một người tên Giê-xu đã chết nào đó mà Phao-lô xưng là vẫn còn sống. \v 20 Vậy nên tôi phân vân không biết phải điều tra vấn đề này như thế nào. Tôi hỏi ông ta có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xét xử về các cáo buộc kia hay không.
\s5
\v 21 Nhưng vì Phao-lô yêu cầu được giam trong nhà lao đang lúc chờ Xê-xa quyết định, nên tôi đã ra lệnh giam giữ ông ta cho đến khi có thể giải ông ta lên Xê-xa.” \v 22 Ạc-ríp-ba nói với Phê-tu : “ Chính tôi cũng muốn nghe người này.” Phê-tu đáp : “Ngày mai vua sẽ được nghe.”
\s5
\v 23 Vậy, vào ngày hôm sau, Ạc-ríp-ba cùng Bê-rê-nít ngự giá cách long trọng và đi vào sảnh đường cùng với các sĩ quan và chức sắc thành phố. Phê-tu truyền lệnh, và họ giải Phao-lô vào. \v 24 Rồi Phê-tu mở lời, rằng: “Tâu vua Ạc-ríp-ba và tất cả các ông có mặt ở đây với chúng tôi, quý vị đều thấy người này; toàn dân Do Thái đã nài xin tôi tại Giê-ru-sa-lem cũng như tại đây, lớn tiếng đòi không được để cho ông ta.
\s5
\v 25 Nhưng tôi biết được ông ta chẳng làm gì đáng chết; hơn nữa, vì chính ông ta khiếu kiện lên hoàng đế, nên tôi quyết định giải ông ta lên ngài. \v 26 Tuy nhiên, tôi chẳng có gì rõ ràng để tâu lên hoàng đế liên quan đến ông ta, nên tôi đưa ông ta ra đây trước mặt quý vị, đặc biệt là trước mặt bệ hạ, thưa vua Ạc-ríp-ba, để rồi sau buổi tra xét này, tôi sẽ có điều để tấu trình. \v 27 Vì tôi thấy giải phạm nhân đi mà không nói rõ hắn bị cáo về tội gì thì thật trái lẽ.”
\c 26
\s5
\v 1 Vậy, vua Ạc-ríp-ba nói với Phao-lô: “Ông có thể bào chữa cho mình.” Phao-lô giơ tay ra và tự biện hộ, rằng:
\s5
\v 2 “Tâu vua Ạc-ríp-ba, liên quan đến mọi điều tôi bị người Do Thái cáo buộc, tôi thấy mình thật may mắn khi bữa nay được tự bệnh vực mình trước mặt vua; \v 3 nhất là, vì vua biết rành các thói tục của người Do Thái cũng như các vấn đề tranh cãi của họ. Vì vậy, tôi xin vua nhẫn nại nghe tôi nói.
\s5
\v 4 Thật, mọi người Do Thái đều biết cách sống của tôi từ thuở thiếu thời, từ lúc ban đầu giữa vòng dân tộc tôi cũng như tại Giê-ru-sa-lem. \v 5 Vì biết tôi ngay từ đầu, nên họ có thể làm chứng, nếu họ muốn, rằng tôi sống như một người Pha-ri-si, tức theo phái khe khắt nhất trong tôn giáo chúng tôi.
\s5
\v 6 Bây giờ, tôi phải đứng đây chịu xét xử là vì hy vọng kiên định của tôi vào lời hứa Thiên Chúa đã lập với tổ phụ chúng tôi. \v 7 Vì đây là lời hứa mà mười hai chi tộc chúng tôi cố công nhận được khi họ ngày đêm sốt sắng phụng thờ Thiên Chúa. Tâu vua Ạc-ríp-ba, chính vì niềm hy vọng chắc chắn ấy mà tôi bị người Do Thái cáo tội. \v 8 Tại sao các vị lại xem việc Thiên Chúa khiến người chết sống lại là chuyện khó tin?
\s5
\v 9 Thật, chính tôi từng nghĩ rằng mình phải làm mọi việc để chống lại danh Giê-xu Na-xa-rét. \v 10 Tôi làm các việc ấy tại Giê-ru-sa- lem. Tôi thậm chí tống giam nhiều thánh đồ vào tù; và sau khi được các thầy tế lễ cả trao quyền cho, tôi cũng bỏ thăm ủng hộ khi họ bị xử tử hình. \v 11 Tôi thường trừng phạt họ trong mọi nhà hội, cố gắng buộc họ phải phạm thượng. Tôi căm tức họ đến độ đã truy bức họ đến tận các thành ở nước ngoài.
\s5
\v 12 Trong lúc làm như vậy, tôi lên đường đi Đa-mách với thẩm quyền và mệnh lệnh của các thầy tế lễ cả. \v 13 Trên đường đi thì, muôn tâu đức vua, lúc giữa trưa, tôi nhìn thấy ánh sáng từ trời chói chang hơn cả mặt trời chiếu chung quanh tôi và những người cùng đi với tôi. \v 14 Khi tất cả chúng tôi té xuống đất, tôi nghe có tiếng phán với mình bằng tiếng Hy-bá, rằng: Sau-lơ, Sau-lơ, sao con bức hại ta? Đá vào cọc nhọn thật khó chịu cho con đó.
\s5
\v 15 Rồi tôi hỏi: Ngài là ai, thưa Chúa? Chúa đáp : Ta là Giê-xu con đang bức hại. \v 16 Bây giờ, hãy ngồi dậy và đứng lên đi; vì mục đích ta hiện ra với con là để chỉ định con làm đầy tớ và chứng nhân về những điều con đã thấy về ta cũng như những điều ta sẽ tỏ cho con; \v 17 ta sẽ giải cứu con khỏi dân mình và khỏi các dân ngoại quốc mà ta sai con đến, \v 18 để mở mắt họ, hầu họ bỏ bóng tối mà về với ánh sáng, bỏ quyền lực của Sa-tan mà về với Thiên Chúa, để họ có thể nhận lãnh sự tha tội cùng cơ nghiệp giữa vòng những người đã được nên thánh bởi đức tin đặt nơi ta.
\s5
\v 19 Vì vậy, tâu vua Ạc-ríp-ba, tôi không dám bất tuân khải tượng từ trời ấy; \v 20 tôi đã giảng trước hết cho những người tại Đa-mách, rồi tại Giê-ru-sa-lem, và khắp cả xứ Giu-đê, cũng như cho các dân ngoại quốc, rằng họ phải ăn năn và trở về cùng Thiên Chúa, kết quả xứng đáng với lòng ăn năn. \v 21 Vì lý do đó, người Do Thái bắt giữ tôi trong đền thờ và tìm cách giết chết tôi.
\s5
\v 22 Nhờ sự cứu giúp của Thiên Chúa đến tận ngày nay, nên tôi vẫn đứng vững và làm chứng cho người lớn cùng kẻ nhỏ, không nói gì khác hơn điều mà các tiên tri và Môi-se cho biết sẽ xảy ra, \v 23 rằng Chúa Cứu Thế phải chịu khổ nạn, và vì là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, nên Ngài sẽ công bố sự sáng cả cho dân tộc chúng tôi lẫn các dân ngoại quốc.”
\s5
\v 24 Khi Phao-lô nói các lời ấy để tự bào chữa, thì Phê-tu lớn tiếng chen vào, rằng: “Phao-lô, ông điên rồi; học thức nhiều quá khiến ông mất trí.” \v 25 Nhưng Phao-lô đáp: “Tôi không điên đâu, thưa ngài Phê-tu khả kính, mà tôi đang nói những lời chân thật và tỉnh táo. \v 26 Vì đức vua biết những điều đó, nên tôi dạn dĩ thưa với đức vua; tôi tin chắc chẳng có điều nào đức vua không biết, vì việc đâu có xảy ra ở một xó xỉnh nào đó.
\s5
\v 27 Tâu vua Ạc-ríp-ba, vua có tin lời các nhà tiên tri chăng? Tôi biết là vua tin đó.” \v 28 Ạc-ríp-ba đáp lại Phao-lô: “ Ông định thuyết phục tôi làm tín đồ Cơ-đốc lẹ như vậy sao?” \v 29 Phao-lô đáp: “Tôi cầu xin Thiên Chúa chẳng chóng thì chầy, không phải chỉ vua, mà tất cả những người nghe tôi hôm nay sẽ trở nên giống như tôi đây, ngoại trừ mấy sợi xích tù này.”
\s5
\v 30 Rồi vua đứng dậy, cùng với quan tổng đốc, bà Bê-rê-nít và những người đang ngồi với họ. \v 31 Khi đi ra, họ nói với nhau: “Người này chẳng làm gì đáng chết hay đáng bị tù.” \v 32 Vua Ạc-ríp-ba nói với Phê-tu: “ Đáng ra có thể tha ông ta được, nếu ông ta chưa khiếu kiện lên Xê-xa.”
\c 27
\s5
\v 1 Khi đã quyết định chúng tôi phải đi Y-ta-li bằng đường biển, thì họ giao Phao-lô và một số tù nhân khác cho một viên đại đội trưởng tên Giu-lơ, thuộc Trung Đoàn Âu-gu- -tơ. \v 2 Từ A-tra-mít, chúng tôi lên một chiếc tàu sắp đi qua các nơi dọc theo bờ biển A-si. Vậy là chúng tôi khởi hành. A-ri-tạc, người thành Tê-sa-lô-ni-ca, xứ Ma-xê-đoan, đi cùng chúng tôi.
\s5
\v 3 Ngày hôm sau, chúng tôi ghé vào thành Si-đôn, tại đó, Giu-lơ đối đãi với Phao-lô rất tử tế và cho phép ông đi gặp các bạn hữu để được họ chăm sóc. \v 4 Từ đó, chúng tôi ra khơi và đi nép vào đảo Chíp-rơ để tránh gió vì gió đang thổi ngược. \v 5 Khi đã đi qua vùng biển Si-li-si và Bam-phi-li, chúng tôi đến thành My-ra thuộc vùng Ly-si. \v 6 Ở đó, viên đại đội trưởng tìm được một chiếc tàu từ A-léc-xan-tri đi Y-ta-li, nên ông đưa chúng tôi lên tàu đó.
\s5
\v 7 Sau nhiều ngày đi rất chậm và cuối cùng phải khó khắn lắm mới đến được Cơ-nít, gió không cho phép chúng tôi đi đường đó nữa, nên chúng tôi đi dọc theo phía khuất gió của đảo Cơ-rết, đối ngang Sa-môn. \v 8 Chúng tôi cứ đi xuôi theo bờ biển một cách khó nhọc như vậy cho đến một nơi gọi là Mỹ Cảng, gần thành La-sê.
\s5
\v 9 Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian, và chuyến đi cũng nguy hiểm vì đã qua kỳ kiêng ăn của người Do Thái. Vì vậy, Phao-lô cảnh báo họ, \v 10 rằng: “ Này, anh em, tôi thấy chuyến hải trình này sẽ chịu tổn hại và nhiều mất mát, không chỉ với hàng hóa và con tàu, mà còn cả tính mạng của chúng ta nữa.” \v 11 Nhưng viên đại đội trưởng nghe lời của thuyền trưởng và chủ tàu hơn lời Phao-lô nói.
\s5
\v 12 Vì cảng không thích hợp để neo đậu vào mùa đông, nên hầu hết thủy thủ đều quyết định ra đi để nếu xoay xở đến được thành Phê-nít, thì sẽ trải qua mùa đông tại đó. Phê-nít là một cảng tại Cơ-rết hướng nhìn ra phía tây nam và tây bắc. \v 13 Khi gió nam bắt đầu thổi nhẹ, các thủy thủ cho rằng đó đúng là điều họ cần. Vì thế, họ nhổ neo và cho tàu chạy gần mé biển dọc theo đảo Cơ-rết.
\s5
\v 14 Nhưng chẳng bao lâu sau, một cơn gió dữ gọi là gió đông bắc, từ đảo thổi xuống. \v 15 Khi tàu bị mắc bão và không thể chạy ngược gió được nữa, thì chúng tôi để mặc nó trôi theo chiều gió. \v 16 Chúng tôi đi dọc theo phía khuất gió của một hòn đảo tên Cơ-lô-đa; khó khăn lắm chúng tôi mới giữ được chiếc thuyền cứu sinh.
\s5
\v 17 Khi kéo nó lên xong, người ta lấy dây thừng của thuyền ràng thân tàu. Sợ rằng chúng tôi có thể mắc cạn trên những bãi cát ngầm quanh đảo Si-rơ-tơ, họ cho hạ neo và để tàu trôi dạt. \v 18 Nhưng chúng tôi bị bão đánh tơi tả đến nỗi ngày hôm sau, người ta bắt đầu quăng hàng hóa xuống biển.
\s5
\v 19 Sang ngày thứ ba, các thủy thủ tự tay quăng xuống biển những trang thiết bị trên tàu. \v 20 Trải qua nhiều ngày không nhìn thấy mặt trời hoặc trăng sao gì, trong khi cơn bão dữ vẫn cứ hành hại chúng tôi, chúng tôi mất hết hy vọng được cứu.
\s5
\v 21 Sau một thời gian dài họ không ăn uống, Phao-lô đứng lên giữa các thủy thủ, nói : “ Thưa anh em, lẽ ra anh em nên nghe tôi và đừng rời khỏi Cơ-rết, để rồi phải chịu tổn hại và mất mát như thế này. \v 22 Nhưng giờ đây, tôi khuyên giục anh em hãy can đảm lên, vì sẽ không có thiệt hại về nhân mạng giữa vòng anh em, g mà chỉ mất con tàu này thôi.
\s5
\v 23 Vì đêm qua, một thiên sứ của Thiên Chúa, là Đấng tôi thuộc về và cũng là Đấng tôi tôn thờ, đứng cạnh tôi, \v 24 phán: “Phao-lô, đừng sợ. Anh phải ứng hầu trước Xê-xa. Này, Thiên Chúa, bởi lòng nhân từ Ngài, đã ban cho anh mọi người đồng đi với anh. \v 25 Vì vậy, hỡi anh em, hãy vui tươi lên, vì tôi tin cậy Thiên Chúa, rằng việc sẽ xảy ra y như thiên sứ đã cho tôi biết. \v 26 Nhưng chúng ta phải mắc cạn tại một hòn đảo nào đó.”
\s5
\v 27 Đến đêm thứ mười bốn, khi chúng tôi vẫn lênh đênh như vậy trên Biển A-đờ-ria-tích, thì chừng giữa đêm, các thủy thủ cho rằng họ đang tiến gần đến một vùng đất nào đó. \v 28 Thế là họ thả trái dò và thấy độ sâu chừng hai mươi sải; sau khi đi thêm một khoảng nữa, họ lại đo thì thấy còn mười lăm sải.
\s5
\v 29 Vì sợ có thể va phải đá đâu đó, nên họ thả bốn mỏ neo xuống ở đàng đuôi tàu và cầu mong trời sáng. \v 30 Các thủy thủ tìm cách rời bỏ tàu và cho hạ thuyền cứu sinh xuống biển, làm bộ như đi thả neo ở mũi tàu. \v 31 Nhưng Phao-lô nói với viên đại đội trưởng và các binh lính : “Nếu những người này không ở lại tàu, các ông không thể được cứu.” \v 32 Vậy là binh lính cắt đứt dây thừng buộc thuyền cứu sinh và để cho nó trôi đi.
\s5
\v 33 Gần đến sáng, Phao-lô khuyên nài mọi người hãy ăn chút gì đó. Ông nói rằng: “Hôm nay đã là ngày thứ mười bốn anh em cứ nhịn đói mà trông ngóng, chẳng chịu ăn gì. \v 34 Vậy, tôi xin anh em hãy ăn chút gì đi, vì nó sẽ giúp anh em sống sót. Vì một sợi tóc trên đầu anh em cũng sẽ không mất đâu.” \v 35 Sau khi nói như vậy, ông lấy bánh và cảm tạ Thiên Chúa trước mặt mọi người. Rồi ông bẻ bánh ra và bắt đầu ăn.
\s5
\v 36 Vậy là mọi người đều được khích lệ và họ cũng ăn. \v 37 Chúng tôi có tất cả 276 người trên tàu. \v 38 Khi đã ăn đủ rồi, họ ném lúa mì xuống biển để làm nhẹ tàu.
\s5
\v 39 Đến sáng, họ không nhận ra vùng đất ấy, nhưng họ thấy một cái vịnh có bãi biển, nên họ bàn nhau xem có thể lái tàu vào đó được không. \v 40 Vậy, họ cắt bỏ neo để chúng rơi hết xuống biển. Đồng thời, họ cũng mở dây bánh lái và, sau khi giương buồm ở mũi lên để hứng gió, họ cho tàu chạy vào bờ.
\s5
\v 41 Nhưng họ gặp chỗ hai dòng nước gặp nhau, và tàu bị mắc cạn. Mũi tàu kẹt cứng ở đó, không nhúc nhích gì được, còn đuôi tàu thì bắt đầu vỡ ra vì sóng dữ. \v 42 Kế hoạch của binh lính là giết chết hết tù nhân để không ai có thể bơi thoát được. \v 43 Nhưng vì muốn cứu Phao-lô, nên viên đại đội trưởng ngăn cản kế hoạch đó; rồi ông ra lệnh cho ai biết bơi thì nhảy ra khỏi tàu trước và bơi vào đất liền. \v 44 Rồi những người còn lại theo sau, số thì bám vào các tấm ván, số thì dùng những thứ khác từ con tàu. Theo cách ấy, tất cả chúng tôi đều vào bờ an toàn.
\c 28
\s5
\v 1 Khi được an toàn rồi, chúng tôi mới biết rằng đảo đó gọi là Man-tơ. \v 2 Dân bản xứ đối đãi chúng tôi một cách tử tế khác thường; họ đốt lửa chào đón tất cả chúng tôi vì trời mưa suốt và lạnh giá.
\s5
\v 3 Nhưng khi Phao-lô gom được một bó củi bỏ vào lửa, thì một con rắn hổ lục bò ra vì nóng và quấn chặt lấy bàn tay ông. \v 4 Khi dân bản xứ nhìn thấy con rắn đeo trên tay ông, thì họ bảo nhau: “Người này hẵn là tay giết người vừa thoát khỏi biển, nhưng công lý không cho hắn sống.”
\s5
\v 5 Nhưng rồi ông rảy con rắn vào lửa mà không bị hại gì. \v 6 Họ tưởng ông sẽ sớm bị sưng phù hoặc thình lình ngã chết. Nhưng sau khi quan sát một hồi lâu và thấy chẳng có gì bất thường xảy ra cho ông, họ đổi ý và nói rằng ông là thần.
\s5
\v 7 Trong khu vực gần đó là điền sản của tù trưởng hòn đảo, tên Búp-li-u. Ông chào đón và tiếp đãi chúng tôi một cách tử tế trong ba ngày. \v 8 Lúc đó, cha của Búp-li-u bị sốt kèm kiết lỵ. Phao-lô đến gặp cụ, đặt tay trên cụ cầu nguyện, và chữa lành cho cụ. \v 9 Sau việc đó, mọi người dân khác trên đảo bị bệnh cũng đến và đều được chữa lành. \v 10 Dân chúng rất nể trọng chúng tôi. Khi chúng tôi chuẩn bị lên đường, họ đem cho chúng tôi những thứ chúng tôi cần.
\s5
\v 11 Vậy, sau ba tháng, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu xuất phát từ A-léc-xan-tri đã trú đông tại hòn đảo, mũi tàu có chạm hình “thần song sinh.” \v 12 Sau khi cập vào thành Sy-ra-cu-sơ, chúng tôi ở lại đó ba ngày.
\s5
\v 13 Từ đó, chúng tôi đi tiếp và đến thành Rê-ghi-um. Một ngày sau, có cơn gió nam nổi lên và sau hai ngày, chúng tôi đến thành Bu-xô-lơ. \v 14 Tại đó, chúng tôi gặp một số anh chị em và được mời ở lại với họ trong bảy ngày. Cứ như vậy, chúng tôi đến Rô-ma. \v 15 Từ nơi đó, sau khi nghe biết về chúng tôi, anh chị em đã đến tận Chợ Áp-bi-u và chỗ Ba Lữ Quán mà gặp chúng tôi. Khi Phao-lô nhìn thấy anh chị em, ông cảm tạ Thiên Chúa và được vững lòng.
\s5
\v 16 Khi chúng tôi đến Rô-ma, Phao-lô được phép sống một mình với người lính đang canh giữ ông. \v 17 Sau đó ba ngày, Phao-lô mời những người lãnh đạo trong dân Do Thái đến. Khi họ đã tập hợp lại, ông nói với họ: “ Thưa anh em, dầu tôi chẳng làm gì chống lại dân chúng hoặc phong tục của cha ông chúng ta, nhưng từ Giê-ru-sa-lem tôi bị giải như phạm nhân vào tay người La-mã. \v 18 Sau khi họ tra hỏi tôi, họ muốn trả tự do cho tôi vì chẳng tìm thấy nơi tôi tội nào đáng phải chịu xử tử hình.
\s5
\v 19 Nhưng khi người Do Thái phản đối, tôi buộc phải khiếu nại lên Xê-xa, dầu tôi chẳng có ý kiện cáo dân tộc mình. \v 20 Vậy, vì lý do đó, tôi đã xin được gặp và thưa chuyện cùng anh em. Bởi tôi chịu xiềng xích thế này là vì niềm hy vọng chắc chắn của Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 21 Họ nói với ông: “Chúng tôi chưa nhận được thư từ gì từ Giu-đê về anh, cũng chưa có một anh em nào đến để thông báo hoặc nói bất kỳ điều gì không tốt về anh cả. \v 22 Nhưng chúng tôi muốn biết anh nghĩ gì về giáo phái này, vì thật chúng tôi biết rằng nó bị phản đối khắp mọi nơi.
\s5
\v 23 Vậy, khi họ đã định ngày cho ông, có thêm nhiều người nữa đến chỗ ông ở. Ông trình bày vấn đề với họ và làm chứng về vương quốc Thiên Chúa. Từ sáng đến chiều tối, ông cố gắng dùng cả luật pháp Môi-se lẫn các sách tiên tri để thuyết phục họ về Chúa Giê-xu. \v 24 Một số người chịu tin những điều Phao-lô nói, nhưng số khác thì không tin.
\s5
\v 25 Khi không đồng ý với nhau, họ bỏ về sau khi Phao-lô nói thêm lời này: “ Qua tiên tri Ê-sai, Chúa Thánh Linh đã phán rất phải với tổ phụ các ông. \v 26 Ngài phán : Hãy đi đến dân này và nói : \q “ Các người nghe thì nghe, nhưng không hiểu;
\q
Các ngươi thấy thì thấy, nhưng chẳng lĩnh hội được.
\q \v 27 Vì dân này đã trở nên tối dạ,
\q
Tai họ khó nghe,
\q
Và mắt họ nhắm lại.
\q
Kẻo mắt họ thấy được,
\q
Tai họ nghe được, lòng họ hiểu được,
\q
Rồi họ sẽ trở lại, Và ta sẽ chữa lành cho họ.”’
\s5
\m \v 28 Vậy, anh chị em nên biết rằng sự cứu rỗi này của Thiên Chúa đã được truyền bá cho các dân ngoại quốc, và họ sẽ nghe.”
\s5
\v 29 \f +\ft Công Vụ 28:29 Một số cổ bản có câu 29: \fqa Khi Phao-lô nói xong mấy lời đó, thì người Do Thái bỏ về. Có sự tranh cãi gay gắt giữa vòng họ \fqa*.\*
\s5
\v 30 Phao-lô sống hai năm trong ngôi nhà mướn của mình và tiếp đón tất cả những ai đến gặp ông. \v 31 Ông rao giảng về vương quốc Thiên Chúa và dạy những điều về Chúa Cứu Thế Giê-xu với tất cả lòng dạn dĩ. Không ai ngăn cấm ông.