DichThiet_vi_ulb/25-LAM.usfm

306 lines
26 KiB
Plaintext

\id LAM
\ide UTF-8
\h CA THƯƠNG
\toc1 CA THƯƠNG
\toc2 CA THƯƠNG
\toc3 lam
\mt CA THƯƠNG
\s5
\c 1
\p
\v 1 Thành nầy từng có nhiều người ở, giờ đây hoàn toàn ngồi một mình! Thành ấy nay như đàn bà goá, mặc dù vốn là một dân mạnh! Xưa vốn là quận chúa ở giữa các dân tộc, nay buộc phải làm nô lệ!
\v 2 Nó khóc lóc than vản vào ban đêm, và nước mắt tràn đôi má. Không một kẻ nào yêu mến nó yên ủi nó. Hết thảy bạn hữu nó phản nó. Họ trở nên nghịch thù nó.
\s5
\v 3 Sau khi nghèo khổ và khốn khó, Giu-đa đã bước vào cảnh phu tù. Nó sống giữa vòng các dân tộc và chẳng tìm được sự yên nghỉ. Mọi kẻ truy đuổi nó, giám sát nó trong chỗ tuyệt vọng.
\s5
\v 4 Các con đường của Si-ôn than vản vì chẳng ai đến với các kỳ lễ theo kỳ định nữa. Mọi cổng thành trống vắng. Các thầy tế lễ nó thở than. Các gái đồng trinh nó thật thảm sầu, và bản thân nó ở trong sự khốn khổ hoàn toàn.
\v 5 Kẻ nghịch nó trở thành chủ của nó, kẻ thù nó hanh thông. Đức Giê-hô-va đã làm cho nó phải khốn khổ vì mọi tội lỗi của nó. Con nhỏ nó phải làm phu tù cho kẻ nghịch nó.
\s5
\v 6 Và sự đẹp đẽ đã lìa khỏi con gái Si-ôn. Bậc vua chúa của nó giống như nai không tìm được đồng cỏ, và họ chẳng có sức để bước đi trước mặt kẻ đuổi theo.
\s5
\v 7 Trong lúc khốn khổ và vô gia cư, Giê-ru-sa-lem sẽ nhớ lại mọi của cải quí báu mà nó có trước đó. Khi dân nó sa vào tay kẻ nghịch, chẳng ai đến cứu cùng. Những kẻ nghịch thù nhìn nó và cười nhạo khi nó chịu huỷ diệt.
\s5
\v 8 Vì lẽ đó, Giê-ru-sa-lem phạm tội trọng, nên nó bị xem khinh giống như một thứ ô uế. Giờ đây, mọi kẻ tôn kính nó đều xem khinh nó một khi họ nhìn thấy nó trần trụi. Nó than vản rồi tìm cách xây đi.
\v 9 Nó bị ô uế bên dưới cái váy của nó! Nó không nghĩ đến tương lai của nó. Sự sụp đổ của nó rất là kinh khiếp! Chẳng có ai hề yên ủi nó. Nó kêu la: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin xem sự khốn nạn tôi, vì kẻ thù quá mạnh mẽ!”
\s5
\v 10 Kẻ nghịch đã tra tay trên mọi của cải quí báu nó. Nó đã nhìn thấy các dân ngoại bước vào nơi thánh nó, mặc dù Ngài có truyền rằng họ chẳng được bước vào nơi hội mạc của Ngài.
\s5
\v 11 Cả dân nó than vản khi họ đi xin bánh. Họ đã nhường mọi của cải quí báu để lấy thức ăn để phục hồi lại sự sống của họ. Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem xét tôi, vì tôi chẳng có giá trị gì nữa cả!
\v 12 Hỡi những kẻ qua đường, nó chẳng có giá trị gì đối với các ngươi sao? Hãy tra xét xem có sự khốn khổ nào của ai khác giống như sự khổ ải đã giáng trên ta, một khi Đức Giê-hô-va đã làm tan tác ta nơi cơn giận phừng của Ngài.
\s5
\v 13 Ngài đã giáng lửa từ trên cao vào thẳng xương cốt ta, và lửa ấy đã thắng hơn họ. Ngài đã giăng lưới dưới chân ta khiến cho ta phải trở lui. Ngài đã khiến cho ta nên đơn chiếc và suy yếu đi.
\v 14 Ách tội lỗi ta Ngài buộc vào hai tay Ngài. Cả bó chất nặng cổ ta, Ngài đã làm cho sức mạnh ta bị xuội đi. Chúa đã phó ta vào trong tay chúng, mà ta không thể đương cự được.
\s5
\v 15 Chúa đã vất bỏ các chiến binh, những kẻ bảo vệ ta. Ngài đã triệu tập một hội chúng nghịch cùng ta nghiền nát kẻ trai trẻ ta. Đức Giê-hô-va đã giày đạp con gái đồng trinh của Giu-đa như nho trong bàn ép.
\s5
\v 16 Vì cớ mọi sự nầy ta bật khóc. Nước mắt tuôn xuống từ đôi mắt ta kể từ khi kẻ yên ủi làm cho sự sống ta phục hồi đã cách xa ta. Con cái ta bị đơn chiếc vì kẻ thù đã thắng trận.
\v 17 Si-ôn đã giang tay mình rộng ra; chẳng có ai yên ủi nó. Đức Giê-hô-va đã truyền rằng những kẻ ở chung quanh Gia-cốp đều là nghịch cùng nó. Giê-ru-sa-lem là thứ ô uế đối cùng họ.
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va là công bình, vì ta đã loạn nghịch chống lại điều răn của Ngài. Hỡi các dân, hết thảy hãy lắng nghe và hãy xem sự khốn khổ của ta! Gái đồng trinh và trai trẻ của ta đã đi làm phu tù.
\v 19 Ta đã kêu gọi những kẻ yêu mến ta, nhưng họ đã phản bội ta. Các thầy tế lễ và trưởng lão của ta đã hư mất trong thành, khi họ tìm đồ ăn để phục hồi lại sự sống của họ.
\s5
\v 20 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem, vì tôi đương cơn khốn khổ; lòng tôi rối tung hết lên. Tấm lòng tôi xây trở trong tôi vì tôi loạn nghịch quá lắm! Ngoài đường phố gươm dao lấy mạng con trẻ của chúng tôi; trong nhà thì giống như thế giới của kẻ chết.
\s5
\v 21 Hãy nghe tiếng tôi than vản. Chẳng có một người nào đến yên ủi tôi. Mọi kẻ thù tôi nghe nói tới nghịch cảnh của tôi. Họ vui mừng vì Ngài đã làm ra sự ấy. Hãy đem đến ngày mà Ngài đã công bố; nguyện họ sẽ trở nên giống như tôi!
\v 22 Nguyền cho mọi tội ác chúng nó đến trước mặt Ngài! Xin làm cho chúng ra tan tác y như Ngài đã làm tôi phải tan tác vì cớ mọi tội lỗi tôi; vì tiếng than vản tôi nhiều quá, và lòng tôi phải mòn mỏi đi.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va che lấp con gái Si-ôn bằng một đám mây đen trong cơn giận của Ngài? Ngài đã quăng vẻ đẹp của Y-sơ-ra-ên từ trời xuống đất; Ngài chẳng còn biết đến bệ chân mình trong ngày thạnh nộ của Ngài.
\v 2 Chúa đã nuốt mất và chẳng có chút thương xót mọi làng mạc của Gia-cốp. Trong cơn giận dữ, Ngài đánh đổ mọi thành trì kiên cố của con gái Giu-đa; Ngài quật chúng xuống đất, làm nhục nước và các quan trưởng trong nước.
\s5
\v 3 Trong cơn giận phừng Ngài đốn bỏ hết mọi sức lực của Y-sơ-ra-ên. Ngài đã rút tay hữu lại khỏi trước mặt kẻ thù. Ngài đốt cháy Gia-cốp như lửa hừng thiêu nuốt mọi sự ở quanh nó.
\v 4 Ngài giương cung ra nhắm vào chúng tôi như kẻ thù. Ngài đứng trên bãi chiến trường sẵn sàng bắn giết giống như kẻ nghịch. Ngài đã tàn sát hết những kẻ quí báu nhất trước mặt. Trong trại của con gái Si-ôn Ngài đã đổ cơn giận Ngài ra như lửa.
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va đã trở giống như một kẻ thù. Ngài đã nuốt hết Y-sơ-ra-ên. Ngài đã nuốt hết các đền đài của nó; Ngài đã huỷ diệt các đồn lũy của nó. Ngài thêm lên sự rầu rĩ trong vòng con gái của Giu-đa.
\v 6 Ngài đã tấn công nhà tạm giống như túp lều ở trong vườn. Ngài đã hủy diệt nơi nhóm lại trang trọng kia. Đức Giê-hô-va đã khiến cho cả hai: nơi nhóm trọng thể cùng ngày Sa-bát bị quên đi ở Si-ôn, vì Ngài khinh dễ cả hai: vua và thầy tế lễ trong cơn thạnh nộ.
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va đã chối bỏ bàn thờ Ngài; Ngài gớm nơi thánh của Ngài. Ngài đã phó các tường thành cung điện vào trong tay quân nghịch. Chúng nó hô lên tiếng đắc thắng trong nhà Đức Giê-hô-va, như trong ngày hội trọng thể.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va đã nhất quyết phá diệt tường thành của con gái Si-ôn. Ngài kéo dài dây đo và chẳng cầm tay mình lại về sự phá diệt tường thành. Và Ngài làm cho tiếng than vản thảm sầu cùng các bức tường trở nên hao mòn.
\v 9 Các cổng nó sụp sát mặt đất; Ngài đã huỷ diệt và làm gãy các then chốt gài ở cổng. Vua và các quan trưởng nó ở giữa các dân ngoại, ở đó chẳng có luật pháp của Môi-se! Ngay cả các tiên tri cũng chẳng có một sự hiện thấy nào từ Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Các trưởng lão của con gái Si-ôn ngồi nín lặng trên đất. Họ rải tro bụi lên đầu; họ mặc bao gai. Các gái đồng trinh Giê-ru-sa-lem gục đầu đến đất.
\s5
\v 11 Nước mắt ta đã hết, mặt ta đỏ lên; các chi thể bên trong ta rối loạn. Gan ta đổ ra trên đất, vì cớ sự chà nát con gái dân ta, vì các con trẻ và các con còn đang bú thì yếu đuối vô vọng trên các đường phố của thành.
\v 12 Chúng nói với mẹ mình: “Thóc và rượu ở đâu?” ngất đi như kẻ bị thương trên các đường phố của thành, sự sống của chúng bị đổ ra trên hông của mẹ chúng.
\s5
\v 13 Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, ta có thể nói gì về các ngươi? Ta sẽ sánh các ngươi với điều gì đặng an ủi các ngươi đây, hỡi các nữ đồng trinh Si-ôn? Sự suy sụp của các ngươi lớn như đại dương. Ai sửa sang lại cho được chứ?
\v 14 Bậc tiên tri của các ngươi đã nhìn thấy những mặc thị giả dối và dại dột cho các ngươi. Họ chẳng tỏ ra sự quá phạm của các ngươi để phục hồi lại số phận của các ngươi, mà chỉ thấy những lời tiên tri và thử thách giả dối cho các ngươi.
\s5
\v 15 Hết thảy những kẻ qua đường thì vỗ tay của họ. Họ phỉ báng, lắc đầu nghịch cùng con gái của Giê-ru-sa-lem, họ nói: Có phải đây là thành mà họ gọi là “Sự Đẹp Đẽ Trọn Vẹn, Sự Vui Mừng Của Cả Đất” chăng?
\v 16 Mọi kẻ thù nghịch ngươi há miệng họ ra thật rộng rồi chế giễu các ngươi. Họ phỉ báng, nghiến răng; họ nói: “Chúng ta đã nuốt nó! Chắc chắn đây là ngày mà chúng ta đã trông đợi! Chúng ta đã tìm, đã thấy điều đó rồi!”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va đã làm những gì Ngài đã định. Ngài đã làm thành lời của Ngài mà Ngài đã truyền ra lâu lắm rồi. Ngài đã lật đổ; Ngài chẳng tỏ ra chút thương xót nào hết, vì Ngài đã cho phép kẻ thù vui mừng vì cớ các ngươi; Ngài đã dấy sức mạnh của kẻ thù nghịch các ngươi lên.
\s5
\v 18 Tấm lòng họ hô to với Chúa: “Hỡi các tường thành của con gái Si-ôn, nguyện nước mắt các ngươi ngày và đêm tuôn chảy như một dòng sông! Đừng để cho mắt các ngươi thôi không chảy nước mắt.
\v 19 Hãy chổi dậy kêu van lúc ban đêm; từ đầu các phiên canh hãy đổ lòng các ngươi ra giống như nước ở trước mặt Đức Giê-hô-va. Hãy giơ tay lên hướng về Ngài vì sự sống con nhỏ các ngươi, chúng nó ngất đi vì đói nơi từng góc phố."
\s5
\v 20 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xem coi Ngài đã từng đối xử với ai nghiệt ngã như thế chưa? Đàn bà há ăn bông trái của ruột mình, tức các đứa trẻ mà họ đã chăm sóc? Thầy tế lễ cùng tiên tri, há có nên bị giết trong nơi thánh của Chúa sao?
\s5
\v 21 Cả hai: kẻ trẻ và người già nằm sải trên đất trong các đường phố. Những gái đồng trinh và trai trẻ của ta đều ngã dưới lưỡi gươm. Ngài đã giết họ trong ngày thạnh nộ, Ngài tru diệt hết tay và chẳng tỏ ra chút xót thương nào cả.
\v 22 Ngài đã triệu tập những điều tôi kinh hãi ở chung quanh y như như ngày hội trọng thể; không một ai thoát khỏi, và chẳng có ai sống sót vào ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va. Những kẻ tôi đã bồng ẵm và thấy lớn lên, kẻ thù của tôi đã đưa đến chỗ tận cùng.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Ta là người đã nhìn thấy sự khốn khổ dưới cây gậy thạnh nộ của Đức Giê-hô-va.
\v 2 Ngài xua ta đi và khiến ta đi trong tối tăm thay vì trong sáng láng.
\v 3 Chắc Ngài trở nghịch cùng ta; Ngài hướng tay Ngài nghịch cùng ta suốt cả ngày.
\v 4 Ngài làm cho thịt và da ta phải cỗi đi; Ngài bẻ gãy xương ta.
\s5
\v 5 gài tạo ra nhiều việc nghịch cùng ta, và vây ta với sự cay đắng và nhọc nhằn.
\v 6 Ngài khiến ta phải sống trong các nơi tối tăm, giống như người đã chết từ lâu rồi.
\v 7 Ngài đã dựng lên bức tường bao bọc ta, và ta không thể thoát ra. Ngài làm cho xiềng ta ra nặng.
\v 8 Mặc dù ta kêu la và gào thét xin cứu, Ngài vứt bỏ những lời cầu nguyện ta.
\s5
\v 9 Ngài chặn lối ta bằng bức tường đá; từng nẻo ta đi ra cong quẹo.
\v 10 Ngài như con gấu rình rập, như sư tử đang núp chờ.
\v 11 Ngài khiến ta lạc đường. Ngài xé nát ta và khiến ta phải cô độc.
\s5
\v 12 Ngài giương cung lên rồi và chọn ta làm mục tiêu cho mũi tên Ngài.
\v 13 Ngài bắn các mũi tên trong bao Ngài vào trái cật ta.
\v 14 Ta làm trò cười cho cả dân ta, làm đề tài cho bài hát hết ngày nầy qua ngày kia.
\v 15 Ngài làm cho ta đầy dẫy sự cay đắng và buộc ta phải uống lấy sự khổ nhục.
\s5
\v 16 Ngài đã lấy sỏi cà răng ta; Ngài vùi ta vào trong tro.
\v 17 Ngài dời sự bình an ra khỏi đời sống ta; ta không còn nhớ phước lành nào nữa hết.
\v 18 Vậy ta nói: “Sự nhịn nhục ta đã hết, và sự trông cậy ta nơi Đức Giê-hô-va không còn nữa”.
\s5
\v 19 ”Ta nhớ đến sự hoạn nạn ta trong sự khốn khổ và cay đắng.
\v 20 Chắc chắn ta còn nhớ, và ta sấp mình xuống với thất vọng ở trong lòng.
\v 21 Khi ta nhớ lại, và đây là lý do tại sao ta hy vọng:
\s5
\v 22 Chính bởi sự thành tín giao ước của Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa bị huỷ diệt, vì những hành động thương xót của Ngài chẳng dứt.
\v 23 Những hành động thương xót của Ngài mỗi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm.
\v 24 Ta nhũ lòng: “Đức Giê-hô-va là cơ nghiệp ta", nên ta để lòng trông cậy nơi Ngài.
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va là nhân từ cho những ai trông đợi Ngài, tìm kiếm Ngài để được sự sống.
\v 26 Thật lấy làm tốt khi phải chờ đợi để được cứu nơi Đức Giê-vô-va.
\v 27 Thật là tốt cho một người mang ách lúc trẻ thơ.
\v 28 Nguyện người ngồi một mình và im lặng, vì Đức Giê-hô-va đã giáng điều đó trên người.
\v 29 Nguyện nó để miệng trong bụi đất, và có lẽ sẽ có sự cậy trông.
\s5
\v 30 Nguyện người đưa má mình ra cho kẻ vả. Nguyện người khá chịu đầy nhuốc nhơ.
\v 31 Vì Chúa sẽ chẳng chối bỏ người cho đến đời đời.
\v 32 Dầu Ngài đem lại sự lo buồn, Ngài sẽ tỏ ra sự thương xót theo sự dư dật của lòng nhân từ Ngài trong sự thành tín giao ước của Ngài.
\v 33 Vì Ngài không trái ngược đối với bổn tâm Ngài, hay làm khổ cho con cái loài người.
\s5
\v 34 Hoặc chà nát mọi kẻ phu tù trên đất dưới chân Ngài,
\v 35 khi gạt bỏ sự công bình của con người trước mặt Đấng Chí Cao,
\v 36 Khi điên đảo ai trong sự xét đoán — thì Chúa chẳng ưng chịu!
\s5
\v 37 Ai hay nói ra và sự ấy được thành một khi Chúa chưa truyền ra việc ấy?
\v 38 Cả hai: hoạ và phước, có phải đều ra từ miệng của Đấng Chí Cao không?
\v 39 Người nào đang sống sao lại than phiền? Người nào đang sống sao lại than phiền về sự sửa phạt đối với tội lỗi của người?
\s5
\v 40 Chúng ta hãy xét và thử đường mình, rồi trở về cùng Đức Giê-hô-va.
\v 41 Chúng ta hãy giơ lòng và tay lên cùng Đức Chúa Trời ở trên trời mà cầu nguyện:
\v 42 Chúng ta đã phạm tội và đã loạn nghịch chống lại Ngài, vì vậy Ngài chẳng tha thứ cho chúng ta.
\v 43 Ngài lấy giận che mình và đuổi theo chúng ta. Ngài tàn sát chúng ta, và Ngài chẳng thương hại chúng ta.
\s5
\v 44 Ngài lấy mây che mình, đến nỗi chẳng lời cầu nguyện nào thấu qua được.
\v 45 Ngài làm chúng tôi ra của bỏ, ra đồ rác rến trong dân sự.
\v 46 Mọi kẻ nghịch thù hả miệng chúng rộng ra chế giễu chúng tôi.
\v 47 Nỗi sợ hầm hố, hoang vu và nghiền nát giáng trên chúng tôi.
\s5
\v 48 Mắt tôi tuôn chảy giọt lệ vì cớ sự dày vò con gái dân sự tôi.
\v 49 Mắt tôi tuôn nước mắt, và chúng không ngưng cũng không ngớt
\v 50 cho đến khi Đức Giê-hô-va ngó xuống và đoái xem từ trời.
\s5
\v 51 Mắt tôi mang khổ ải đến cho sự sống tôi vì cớ mọi con gái của thành tôi.
\v 52 Kẻ thù tôi đã không ngừng săn tôi như săn loài chim, chẳng cần lý do gì hết.
\v 53 Họ muốn huỷ diệt sự sống tôi trong một cái giếng và trấn một hòn đá trên tôi.
\v 54 Nước tràn ngập đầu tôi; tôi nói: “Ta đã bị dứt bỏ!”
\s5
\v 55 Hỡi Đức Giê-hô-va, từ hố sâu thăm thẳm tôi kêu cầu danh Ngài.
\v 56 Ngài nghe tiếng tôi khi tôi nói, “xin đừng bịt tai Ngài không nghe tiếp kêu cầu, không nghe tiếng tôi cầu cứu”.
\v 57 Ngài đến gần nhằm ngày tôi kêu cầu Ngài; Ngài phán cùng tôi: “Chớ sợ!”
\s5
\v 58 Lạy Chúa, Ngài bảo hộ tôi khi tôi chịu thử thách trong đời sống tôi; Ngài đã cứu mạng sống tôi!
\v 59 Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nhìn thấy sự họ áp bức tôi. Xin đoán xét cách công bình trường hợp của tôi!
\v 60 Ngài đã nhìn thấy mọi hành động báo thù của họ, mọi chương trình của họ nghịch cùng tôi.
\v 61 Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nghe chúng nó sỉ nhục, bày mọi chương trình của chúng toan tính về tôi.
\s5
\v 62 Ngài đã nghe môi miệng của những kẻ dấy lên chống nghịch tôi; Ngài đã nghe mọi suy tưởng sâu kín của chúng nghịch cùng tôi suốt cả ngày.
\v 63 Lạy Đức Giê-hô-va, hãy xem xét sự chúng ngồi hay sự chúng đứng dậy! Tôi là đề tài cho bài ca chế giễu của chúng nó.
\s5
\v 64 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy báo trả chúng nó tổn hại nhiều y như những gì tay chúng nó đã làm.
\v 65 Hãy đặt lo sợ vào lòng chúng nó; hãy đặt sự rủa sả của Ngài giáng trên chúng nó.
\v 66 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy truy kích chúng nó trong cơn giận của Ngài và hủy diệt chúng nó bất cứ đâu ở dưới trời!
\s5
\c 4
\p
\v 1 Vàng trở nên mờ xấu; vàng ròng đã đổi thay! Đá nơi thánh bị đổ ra nơi mọi góc đường phố!
\v 2 Các con trai của Si-ôn quí báu, được xem trọng như vàng ròng. Song giờ đây họ bị coi chẳng ra gì hết khác nào loại bình đất sét là thứ tay thợ gốm làm ra!
\s5
\v 3 Ngay cả chó rừng còn đưa vú ra cho con nó bú, nhưng con gái dân ta độc ác như chim đà trong đồng vắng.
\s5
\v 4 Lưỡi trẻ sơ sinh khát sữa dính trên đốc vọng; trẻ nhỏ xin bánh, nhưng chẳng có ai cho.
\v 5 Những người thường dùng cao lương mỹ vị giờ đây bị bỏ, đói khát trên đường phố; những kẻ ăn mặc sang trọng nay ôm lấy đống phân tro.
\s5
\v 6 Tội lỗi con gái dân ta lớn hơn tội lỗi của thành Sô-đôm, họ bị sụp đổ trong giây lát, chẳng ai tra tay bắt lấy nó.
\s5
\v 7 Cấp lãnh đạo của nó thường rực rỡ giống như tuyết và trắng như sữa. Thân thể họ đỏ hồng hơn san hô; mình mẩy họ giống như bích ngọc.
\v 8 Nay mặt mày họ đen thui: và chẳng nhận ra trên đường phố, vì xương họ bọc lấy da khô ran như khúc gỗ.
\s5
\v 9 Người nào bị gươm giết còn may hơn kẻ chết vì đói; họ chẳng khá gì hơn những kẻ thiếu đói chẳng có gì ăn.
\v 10 Bàn tay người nữ có lòng thương xót luộc chín con ruột mình; mấy đứa con nầy dùng làm đồ ăn cho họ khi con gái dân ta bị chà nát.
\s5
\v 11 Giê-hô-va làm cho thoả cơn giận Ngài. Ngài đổ cơn giận phừng của Ngài ra; Ngài nhóm lửa tại Si-ôn, và lửa ấy thiêu nuốt các nền nó.
\s5
\v 12 Các vua trên đất, cả dân cư thế gian đều không tin quân thù nghịch sẽ tràn vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem.
\v 13 Nhưng họ đã tràn vào vì cớ tội lỗi của các tiên tri nó, và sự gian ác của các thầy tế lễ nó, họ đã làm đổ huyết của người công bình ở giữa nó.
\s5
\v 14 Các tiên tri và thầy tế lễ giờ đây đi lang thang như người mù trên đường phố. Họ bị ô uế do huyết đến nỗi chẳng ai rờ đến áo xống họ.
\v 15 Các tiên tri và thầy tế lễ nầy kêu la: “Hãy đi chỗ khác, ô uế”. “Hãy đi chỗ khác, ô uế! Đừng rờ đến chúng ta!” Khi họ lánh sang xứ khác, ngay cả dân ngoại kêu lên rằng: “Họ cũng không nên ngụ ở đây như các dân ngoại nữa."
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va đã tan rải họ khỏi sự hiện diện của Ngài; Ngài không nhìn xem họ với sự ưu ái nữa rồi. Chẳng có ai tiếp các thầy tế lễ với sự tôn trọng nữa, và họ cũng chẳng quan tâm gì đến các trưởng lão.
\s5
\v 17 Mắt chúng ta thường làng đi không thấy chút cứu giúp nào, mặc dù chúng ta trông ngóng một dân không thể cứu.
\v 18 Họ dò theo chân chúng ta trải qua các đường phố. Sự cuối cùng của chúng ta đã gần và thời thế của chúng ta đã xong, vì sự cuối cùng của chúng ta đã đến.
\s5
\v 19 Những kẻ truy kích chúng ta còn lẹ hơn con chim ưng trên trời. Họ đuổi theo chúng ta đến các núi và rình đợi chúng ta trong đồng vắng.
\v 20 Hơi thở trong mũi chúng ta, là kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va — bị bắt ở trong hầm của họ; đó là vua của chúng ta mà chúng ta hay nói rằng: “Chúng tôi sống dưới sự bảo hộ của người ở giữa các nước."
\s5
\v 21 Hãy vui mừng sung sướng, hỡi con gái Ê-đôm sống trong xứ Út-xơ, vì cái chén cũng sẽ chuyền qua cho các ngươi. Các ngươi sẽ say sưa và tự các ngươi bị lột trần.
\v 22 Hỡi con gái Si-ôn, tội lỗi các ngươi đã trọn. Ngài sẽ không giữ các ngươi trong cuộc lưu đày nữa! Nhưng Ngài sẽ phạt tội lỗi của các ngươi, hỡi con gái của Ê-đôm. Ngài sẽ phô bày tội lỗi các ngươi ra!
\s5
\c 5
\p
\v 1 Hỡi Đức Giê-hô-va, xin nhớ đến những gì đã xảy ra cho chúng tôi. Hãy nhìn đến và thấy sự xấu hổ của chúng tôi.
\v 2 Cơ nghiệp chúng tôi đã sang qua tay các dân ngoại; nhà cửa chúng tôi chuyển qua tay các dân ngoại.
\v 3 Chúng tôi trở thành kẻ mồ côi, vì chẳng có người cha nào nữa cả, và mẹ chúng tôi giống như đàn bà góa.
\v 4 Nước uống của chúng tôi phải trả bằng bạc, và người ta đem củi bán cho chúng tôi.
\s5
\v 5 Kẻ thù đuổi theo chúng tôi; họ ở gần đến nỗi hơi thở họ hà trên cổ chúng tôi. Chúng tôi đã mỏi mệt rồi; chẳng có chút nghỉ ngơi nào cho chúng tôi!
\v 6 Chúng tôi giang tay hướng về người Ai-cập và người A-si-ri đặng có bánh ăn no nê.
\v 7 Tổ phụ chúng tôi đã phạm tội; họ không còn sống nữa, và chúng tôi mang lấy sự gian ác của họ.
\s5
\v 8 Kẻ nô lệ cai trị trên chúng tôi, và chẳng có ai cứu chúng tôi khỏi tay họ.
\v 9 Chúng tôi liều mạng mình mới có được bánh ăn trước lưỡi gươm trong đồng vắng.
\v 10 Da chúng tôi nóng như lò lửa, nóng ran lên vì cơn sốt đói kém.
\s5
\v 11 Họ đã làm nhục phụ nữ trong Si-ôn, gái đồng trinh trong các thành của Giu-đa.
\v 12 Họ treo các quan trưởng lên bằng chính tay họ, và họ chẳng kính trọng các người già cả.
\s5
\v 13 Họ đưa kẻ trai tráng đến nhà xây cối, và trẻ con vấp ngã dưới gánh củi.
\v 14 Họ đuổi các người già cả khỏi cổng thành và kẻ trẻ tuổi không còn đàn hát chi nữa hết.
\s5
\v 15 Sự vui vẻ trong lòng chúng tôi đã dứt; cuộc nhảy múa đổi thành tang chế.
\v 16 Mão triều thiên rơi khỏi đầu chúng tôi! Khốn thay cho chúng tôi! Vì chúng tôi đã phạm tội!
\s5
\v 17 Lòng chúng tôi bị cùn đi, và mắt chúng tôi làng dần,
\v 18 vì chồn cáo qua lại trên núi Si-ôn, chốn ấy đã bị hoang vu.
\s5
\v 19 Hỡi Ngài là Đức Giê-hô-va; Ngài tễ trị cho đến đời đời, và ngôi Ngài còn từ đời nầy sang đời kia!
\v 20 Sao Ngài quên chúng tôi mãi mãi? Sao Ngài quên chúng tôi lâu vậy?
\v 21 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy xây chúng tôi trở về Ngài, thì chúng tôi sẽ ăn năn. Hãy phục hồi trở lại những ngày của chúng tôi giống như thưở xưa!
\v 22 trừ phi chúng tôi thực sự bị khước từ, cơn giận Ngài đối cùng chúng tôi lớn quá.