1272 lines
136 KiB
Plaintext
1272 lines
136 KiB
Plaintext
\id JDG
|
||
\ide UTF-8
|
||
\h CÁC QUAN XÉT
|
||
\toc1 CÁC QUAN XÉT
|
||
\toc2 CÁC QUAN XÉT
|
||
\toc3 jdg
|
||
\mt CÁC QUAN XÉT
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 1
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau cái chết của Giô-suê, dân Y-sơ-ra-ên cầu xin Đức Giê-hô-va như vầy: "Ai sẽ lãnh đạo chúng tôi đi lên nghịch cùng dân Ca-na-an để đánh trận?"
|
||
\v 2 Đức Giê-hô-va phán: "Giu-đa sẽ lãnh đạo các con. Hãy xem, ta đã giao cho họ quyền kiểm soát xứ nầy".
|
||
\v 3 Người Giu-đa nói với người Si-mê-ôn, anh em của họ: "Hãy đi lên với chúng tôi trong phần lãnh thổ đã phân phát cho chúng tôi, chúng ta cùng nhau đánh trận nghịch cùng dân Ca-na-an. Rồi chúng tôi sẽ đi cùng anh em đến phần lãnh thổ đã phân phát cho anh em". Thế là chi phái Si-mê-ôn cùng đi với họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Người Giu-đa đi lên, và Đức Giê-hô-va ban cho họ thắng hơn dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. Họ giết chúng mười ngàn người tại Bê-séc.
|
||
\v 5 Họ tìm gặp A-đô-ni Bê-séc tại Bê-séc, và họ đánh hắn cùng đánh bại dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Nhưng A-đô-ni Bê-séc bỏ trốn, và họ đuổi theo hắn rồi bắt lấy, họ chặt ngón cái của tay chân hắn.
|
||
\v 7 A-đô-ni Bê-séc nói: "Bảy mươi vua, ngón cái của tay và chân của họ đã bị chặt, lượm đồ ăn dưới bàn ta. Như ta đã làm, Đức Chúa Trời đã làm y như vậy cho ta". Họ đem hắn về Giê-ru-sa-lem, và hắn chết ở đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Người Giu-đa đã đánh trận nghịch cùng thành Giê-ru-sa-lem rồi chiếm lấy nó. Họ đã dùng gươm tấn công nó rồi thiêu đốt thành.
|
||
\v 9 Sau đó, người Giu-đa đi xuống đánh trận với người Ca-na-an, họ sống trong vùng đồi núi, trong vùng Nê-giép, và các chân núi ở phía Tây.
|
||
\v 10 Giu-đa tiến đánh dân Ca-na-an, họ sống trong Hếp-rôn (danh xưng Hếp-rôn trước đó là Ki-ri-át A-ra-ba), và họ đánh bại Sê-sai, A-hi-man, cùng Thanh-mai.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Từ đó người Giu-đa tiến đánh các cư dân ở Đê-bi-a (danh xưng Đê-bi-a trước đó là Ki-ri-át Sê-phe).
|
||
\v 12 Ca-lép nói: "Người nào tấn công Ki-ri-át Sê-phe rồi chiếm lấy nó, ta sẽ gã Ạt-sa, con gái ta làm vợ người".
|
||
\v 13 Ốt-ni-ên con trai của Kê-na (em của Ca-lép) chiếm lấy Đê-bi-a, vì vậy Ca-lép đã gả Ạt-sa, con gái mình làm vợ người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ạt-sa mau đến với Ốt-ni-ên, và nàng giục người hỏi xin cha nàng ban cho một cánh đồng. Khi nàng xuống khỏi lưng lừa, Ca-lép hỏi: "Ta sẽ làm gì cho con?"
|
||
\v 15 Nàng nói với ông: "Xin ban cho con một điều phước. Một khi cha đặt con vào trong xứ Nê-giép, cũng xin ban cho con các dòng suối nữa". Vì vậy Ca-lép ban cho nàng các thượng nguồn và hạ nguồn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Dòng dõi của Kê-nít cha vợ Môi-se đi lên thành Cây Chà Là với dân sự Giu-đa, vào trong đồng vắng Giu-đa, giờ đây ở trong xứ Nê-giép, để sống với dân sự Giu-đa gần A-rát.
|
||
\v 17 Và người Giu-đa đi với người Si-mê-ôn anh em họ và tấn công dân Ca-na-an nào ngụ trong Xê-phát và hủy diệt hoàn toàn nó. Danh xưng của thành được gọi là Họt-ma.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Người Giu-đa cùng chiếm lấy Ga-xa và đất điền ở chung quanh nó, Ách-ca-lôn và đất điền chung quanh nó, cùng Éc-rôn và đất điền chung quanh nó.
|
||
\v 19 Đức Giê-hô-va đã ở với người Giu-đa và họ đã chiếm lấy vùng đồi núi làm sản nghiệp, nhưng họ không thể đuổi cư dân của đồng bằng đi được vì chúng có xe bằng sắt.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Hếp-rôn đã được trao cho Ca-lép (y như Môi-se đã nói), và ông đuổi khỏi đó ba con trai của A-nác.
|
||
\v 21 Nhưng người Bên-gia-min không đuổi được dân Giê-bu-sít, họ ngụ tại thành Giê-ru-sa-lem. Vì vậy dân Giê-bu-sít đã sống với người Bên-gia-min tại thành Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Nhà Giô-sép sửa soạn tấn công Bê-tên, và Đức Giê-hô-va đã ở với họ.
|
||
\v 23 Họ sai người đi do thám Bê-tên (thành được gọi là Lu-xơ trước đó).
|
||
\v 24 Các thám tử nhìn thấy một người ra khỏi thành, họ nói cùng người như sau: "Làm ơn cho chúng tôi biết làm cách nào để vào trong thành, thì chúng ta sẽ đối xử tử tế với người".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Người ấy chỉ cho họ một lối vào bên trong thành. Và họ đã dùng gươm tấn công thành, nhưng họ để cho người ấy cùng với gia đình của người đi.
|
||
\v 26 Và người đi vào trong đất của dân Hê-tít rồi xây một thành đặt tên là Lu-xơ, danh xưng nầy ở đó cho đến ngày nay.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Người Ma-na-se không đuổi được những kẻ sống trong các thành ở Bết-san cùng làng mạc của nó, hay Tha-a-nát cùng làng mạc của nó, hay những kẻ sống trong Đô-rơ cùng làng mạc của nó, hoặc những kẻ sống trong Gíp-lê-am cùng làng mạc của nó, hoặc những kẻ sống trong Mê-ghi-đô cùng làng mạc của nó, vì dân Ca-na-an đã quyết sống trong xứ đó.
|
||
\v 28 Khi Y-sơ-ra-ên trở nên mạnh mẽ rồi, họ buộc dân Ca-na-an phải phục vụ họ với lao động nhọc nhằn, song không đuổi họ một cách trọn vẹn được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Ép-ra-im không đuổi được dân Ca-na-an nào sinh sống ở Ghê-xe, vì vậy dân Ca-na-an cứ tiếp tục sống trong Ghê-xe giữa vòng họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Sa-bu-lôn không đuổi được dân đang sinh sống trong Kít-rôn, hoặc dân sống trong Na-ha-lô, và vì vậy dân Ca-na-an tiếp tục sống giữa vòng họ, nhưng Sa-bu-lôn đã buộc dân Ca-na-an phục vụ họ với lao động nhọc nhằn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 A-se đã không đuổi được dân đang sống trong Ác-cô, hoặc dân sống trong Si-đôn, hay những kẻ sống trong Ách-láp, Ạt-síp, Hên-ba, A-phéc, hay Rê-hốp.
|
||
\v 32 Vì vậy chi phái A-se sống giữa vòng dân Ca-na-an (những kẻ sống trong xứ), vì họ không đuổi chúng đi được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Chi phái Nép-ta-li không đuổi những kẻ sống trong Bết Sê-mết, hay những kẻ sống trong Bết A-nát. Vì vậy chi phái Nép-ta-li sống giữa còng dân Ca-na-an (những kẻ sống trong đất đó). Tuy nhiên, dân cư Bết Sê-mết và Bết A-nát bị buộc vào lao động nhọc nhằn cho Nép-ta-li.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Dân A-mô-rít đã buộc chi phái Dan phải sống trong vùng đồi núi, không cho phép họ đi xuống đồng bằng.
|
||
\v 35 Vậy dân A-mô-rít đã sống ở Núi Hê-re, trong A-gia-lôn, và trong Sa-an-bim, nhưng sức mạnh quân sự của nhà Giô-sép đã chinh phục họ, và họ bị buộc phải phục vụ họ với lao động nhọc nhằn.
|
||
\v 36 Biên giới của dân A-mô-rít chạy từ núi Ác-ráp-bim ở Sê-la lên tới vùng đồi núi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 2
|
||
\p
|
||
\v 1 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi từ Ghinh-ganh lên đến Bô-kim, và phán: "Ta đã đem các con ra khỏi Ai-cập, rồi đã đưa các con đến vùng đất mà ta đã thề ban cho tổ phụ các con. Ta đã nói: 'Ta sẽ không hề phá vở giao ước với các con.
|
||
\v 2 Các con chớ lập ước nào với những kẻ đang sinh sống trong xứ nầy. Các con phải đánh đổ bàn thờ của chúng nó. Nhưng các con đã không nghe theo tiếng ta. Sao các con lại làm như vậy chứ?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Và giờ đây ta phán: 'Ta sẽ không đuổi dân Ca-na-an đi trước mặt các con, song họ sẽ như gai góc ở bên hông các con, và thần tượng của chúng sẽ trở thành cái bẫy cho các con".
|
||
\v 4 Khi thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán ra mấy lời nầy cho cả dân sự Y-sơ-ra-ên, dân sự bèn gào lên mà khóc.
|
||
\v 5 Họ đã gọi chỗ đó là Bô-kim. Ở đó họ đã dân các thứ của lễ cho Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Khi Giô-suê sai dân sự đi, dân Y-sơ-ra-ên mỗi người đi đến chỗ đã phân phát cho, để chiếm lấy quyền làm chủ đất của họ.
|
||
\v 7 Dân sự đã phục vụ Đức Giê-hô-va trong suốt đời Giô-suê cùng các trưởng lão sống lâu hơn ông, những người đã nhìn thấy mọi công việc lớn lao của Đức Giê-hô-va Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 8 Giô-suê con trai Nun, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã qua đời lúc được 110 tuổi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Họ đã chôn ông trong đường biên giới của xứ mà ông đã được phân phát cho tại Thim-nát Hê-re, trong vùng đồi núi của Ép-ra-im, về phía Bắc Núi Ga-ách.
|
||
\v 10 Hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về với tổ phụ của họ. Và dòng dõi khác dấy lên sau họ, dòng dõi nầy đã không nhìn biết Đức Giê-hô-va hay những gì Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Người Y-sơ-ra-ên đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và họ đã phục vụ thần Ba-anh.
|
||
\v 12 Họ từ bỏ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập. Họ chạy theo các thần khác, chính các thần của các sắc dân sống ở chung quanh họ, và họ đã sấp mình xuống trước chúng. Họ đã chọc cho Đức Giê-hô-va nổi giận vì
|
||
\v 13 họ đã từ bỏ Đức Giê-hô-va và thờ lạy thần Ba-anh và thần Át-tạt-tê.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, và Ngài đã phó họ cho những kẻ cướp lột, chúng cướp lấy của cải của họ. Ngài đã bán họ làm nô lệ, họ bị cầm giữ bởi sức mạnh của các kẻ thù ở chung quanh họ, vì vậy họ không còn tự bảo vệ mình chống lại các kẻ thù.
|
||
\v 15 Bất cứ đâu Y-sơ-ra-ên đi ra để đánh trận, tay của Đức Giê-hô-va cự lại họ đánh bại họ, y như Ngài đã thề cùng họ. Và họ đã sống trong hoạn nạn kinh khiếp.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Khi ấy Đức Giê-hô-va mới dấy lên các quan xét, họ giải cứu chúng ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp lột của cải của chúng.
|
||
\v 17 Tuy nhiên, họ chẳng chịu nghe theo các quan xét. Họ sống bất trung đối với Đức Giê-hô-va và tự phó mình giống như đĩ điếm cho các thần khác và thờ lạy chúng. Không bao lâu sau đó, họ xây khỏi con đường mà các tổ phụ họ đã sống — những người đã vâng theo các điều răn của Đức Giê-hô-va — song chính bản thân họ đã không làm theo như thế.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Khi Đức Giê-hô-va dấy các quan xét lên để cứu giúp họ, Đức Giê-hô-va đã trợ giúp các quan xét và giải cứu họ ra khỏi quyền lực của kẻ thù trọn đời vị quan xét đã sinh sống. Vì Đức Giê-hô-va có lòng thương hại họ khi họ than khóc vì cớ những kẻ áp bức và làm cho họ khốn khổ.
|
||
\v 19 Nhưng khi quan xét qua đời, họ lại xây đi và làm ra những việc còn đồi bại hơn các tổ phụ họ đã làm. Họ chạy theo các tà thần để phục vụ và thờ lạy chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ bất kỳ cách thực hành gian ác hoặc các đường lối ngoan cố của họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va phừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên; Ngài phán: "Vì dân nầy đã phá vỡ các điều khoản trong giao ước mà ta đã đề ra cho các tổ phụ của họ — vì họ không chịu nghe theo tiếng phán của ta —
|
||
\v 21 từ giờ trở đi, ta sẽ không đuổi khỏi chúng bất kỳ dân nào mà Giô-suê đã chừa lại khi qua đời.
|
||
\v 22 Ta sẽ làm điều nầy hầu cho ta sẽ thử dân Y-sơ-ra-ên, họ có giữ theo con đường của Đức Giê-hô-va và bước đi trên đó hay không, giống như tổ phụ chúng đã giữ vậy."
|
||
\v 23 Đấy là lý do tại sao Đức Giê-hô-va đã chừa lại các dân đó và không đuổi chúng ra cách mau chóng, và tại sao Ngài không để cho Giô-suê chinh phục chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 3
|
||
\p
|
||
\v 1 Giờ đây, Đức Giê-hô-va đã chừa lại các dân nầy để thử Y-sơ-ra-ên, nghĩa là mỗi người trong Y-sơ-ra-ên, họ chưa có kinh nghiệm bất kỳ cuộc chiến nào đã xảy có trong xứ
|
||
\v 2 (Ngài làm điều nầy để dạy chiến trận cho thế hệ mới dân Y-sơ-ra-ên, những ai chưa biết chiến trận trước đó):
|
||
\v 3 năm vua Phi-li-tin, tất cả dân Ca-na--an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít, chúng sống trong vùng Núi Li-ban, từ Núi Ba-anh Hẹt-môn cho đến cửa Ha-mát.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Các dân nầy bị chừa lại làm phương tiện bởi đó Đức Giê-hô-va sẽ thử dân Y-sơ-ra-ên, để khẳng định họ có vâng theo các điều răn mà Ngài đã ban ra cho các tổ phụ họ qua Môi-se hay không!?!
|
||
\v 5 Vì vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã sống giữa vòng dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít.
|
||
\v 6 Các con gái của họ bị chúng bắt làm vợ, và con gái của chúng, chúng gả cho các con trai của chúng, và chúng phục vụ các thần của chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Dân Y-sơ-ra-ên đã làm những việc gian ác trước mặt Đức Giê-hô-va và quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Họ thờ lạy thần Ba-anh và thần A-sê-ra.
|
||
\v 8 Vì lẽ đó cơn giận của Đức Giê-hô-va đã phừng ra lửa chống lại dân Y-sơ-ra-ên, và Ngài phó họ vào trong tay của Cu-san Ri-sa-tha-im vua của A-ram Na-ha-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên đã phục vụ Cu-san Ri-sa-tha-im trong tám năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu với Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va mới dấy lên một người đến cứu giúp dân Y-sơ-ra-ên, và sẽ giải cứu họ: Ốt-ni-ên con trai Kê-na (em của Ca-lép).
|
||
\v 10 Thánh Linh của Chúa mặc lấy quyền uy cho ông và ông đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên, ông đi ra đánh trận. Đức Giê-hô-va đã ban cho ông thắng hơn Cu-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram. Chính sức mạnh của Ốt-ni-ên mới đánh bại Cu-san Ri-sa-tha-im.
|
||
\v 11 Xứ được hòa bình trong bốn nươi năm. Thế rồi Ốt-ni-ên con trai Kê-na qua đời.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa bất tuân với Đức Giê-hô-va bằng cách làm ra những việc gián ác, và Ngài đã nhìn thấy mọi điều họ đã làm. Vì vậy, Đức Giê-hô-va ban sức mạnh cho Éc-lôn vua xứ Mô-áp khi ông ta đến nghịch cùng Y-sơ-ra-ên, vì Y-sơ-ra-ên đã làm nhiều việc gian ác, và Đức Giê-hô-va đã nhìn thấy mọi điều đó.
|
||
\v 13 Éc-lôn đã hiệp với dân Am-môn, dân A-ma-léc và họ ra trận đánh bại dân Y-sơ-ra-ên, rồi họ chiếm lấy thành Cây Chà Là làm của cải.
|
||
\v 14 Dân Y-sơ-ra-ên đã phục vụ Éc-lôn vua dân Mô-áp trong mười tám năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu với Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va mới dấy lên một người sẽ cứu giúp họ, Ê-hút con trai Ghê-ra, một người Bên-gia-min, là người thuận tay trái. Dân Y-sơ-ra-ên sai người, với cống phẩm của họ, nộp cho Éc-lôn vua dân Mô-áp.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Ê-hút làm cho mình một thanh gươm có hai lưỡi, dài 45cm27; ông đeo trong mình áo nơi háng bên phải.
|
||
\v 17 Ông nộp cống phẩm cho Vua Éc-lôn dân Mô-áp. (Bấy giờ Éc-lôn là một người rất mập).
|
||
\v 18 Sau khi Ê-hút trình dâng cống phẩm xong, ông ra về với những người khiêng gánh cống phẩm đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Tuy nhiên, một mình Ê-hút, khi ông đến chỗ các hình tượng chạm khắc được làm ra ở gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại, ông nói: "Tôi có một sứ điệp kín dành cho ông, hỡi vua của tôi". Éc-lôn nói: "Im đi!". Vì vậy hết thảy mọi người phục vụ ông đều rời khỏi cung điện.
|
||
\v 20 Ê-hút đến gần. Nhà vua đang ngồi trên đó một mình trong chỗ mát rượi của phòng cao. Ê-hút nói: "Tôi có một sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời dành cho ông". Nhà vua chỗi dậy trên ngai của mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Ê-hút chìa tay trái mình ra rút lấy gươm hơn háng bên phải, rồi ông đâm thẳng vào thân của nhà vua.
|
||
\v 22 Và cán gươm cũng lao thẳng theo lưỡi gươm, mũi gươm ra thẳng phía sau lưng, và mở ôm lấy lưỡi gươm, vì Ê-hút không rút lưỡi gươm ra khỏi thân thể ông ta.
|
||
\v 23 Khi ấy Ê-hút bước ra ngoài hiên cửa, ông khép hai cánh cửa phòng cao ấy rồi khóa chúng lại.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau khi Ê-hút đi rồi, các tôi tớ của vua bước vào; họ nhìn thấy hai cánh cửa của phòng cao đã bị khóa, họ bèn suy nghĩ: "Chắc Ngài đang nghỉ ngơi trong chỗ mát mẻ của phòng cao".
|
||
\v 25 Họ càng quan tâm hơn nữa, cho đến khi họ sợ bổn phận của họ bị trễ nãi khi nhà vua vẫn chưa chịu mở cửa phòng cao đó. Vì vậy, họ lấy chìa khóa mở cửa ra, và chủ của họ đang nằm dài chết ở đó trên sàn nhà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Trong khi các tôi tớ đang chờ đợi, họ lấy làm lạ không biết phải làm gì, Ê-hút đã thoát ngang qua bên kia chỗ các hình tượng được chạm khắc, và thế là ông thoát khỏi Sê-ri-a.
|
||
\v 27 Khi ông về đến, ông thổi kẻn lên trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Thế là dân Y-sơ-ra-ên từ đồi núi đi xuống với ông, và ông lãnh đạo họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Ông nói với họ: "Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va sắp- sửa đánh bại kẻ thù của các anh em, là dân Mô-áp". Họ đi theo ông và họ chiếm lấy các đồn lũy của sông Giô-đanh đối ngang Mô-áp, và họ không cho phép bất kỳ ai băng qua dòng sông.
|
||
\v 29 Lúc bấy giờ, họ giết khoảng mười ngàn người Mô-áp, và thảy đều là người có sức lực và có khả năng. Không một người nào trốn thoát.
|
||
\v 30 Cho nên, trong ngày ấy Mô-áp bị bắt phục bởi sức mạnh của dân Y-sơ-ra-ên. Và xứ yên nghỉ trong tám mươi năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Sau Ê-hút, vị quan xét kế đó là Sam-ga con trai của A-nát, là người giết 600 người Phi-li-tin với cây đót dùng để thúc trâu bò. Ông cũng giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nguy hiểm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 4
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau khi Ê-hút qua đời, dân Y-sơ-ra-ên đã bất tuân Đức Giê-hô-va một lần nữa, bằng cách làm nhiều việc gian ác, và Ngài đã nhìn thấy việc họ đã làm.
|
||
\v 2 Đức Giê-hô-va phó họ cho quyền của Gia-bin vua dân Ca-na-an, ông nầy cai trị ở Hát-so. Viên chỉ huy quân đội của ông ta có tên là Si-sê-ra, và ông ta sống ở Ha-rô-sết thuộc về các dân Ngoại.
|
||
\v 3 Dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va xin cứu khổ, vì Si-sê-ra có chín trăm xe sắt và hắn áp bức dân Y-sơ-ra-ên với sức mạnh trong hai mươi năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Bấy giờ Đê-bô-ra, một nữ tiên tri (vợ của Láp-bi-đốt), là một quan xét lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên khi đó.
|
||
\v 5 Bà thường ngồi dưới cây chà là của Đê-bô-ra giữa Ra-ma và Bê-tên trong vùng đồi núi Ép-ra-im, và dân Y-sơ-ra-ên đã đến với bà để ổn định mọi tranh chấp của họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Bà sai tìm Ba-rác con trai của A-bi-nô-am từ Kê-đe trong Nép-ta-li. Bà nói với ông: "Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, truyền cho ông: 'Hãy đi lên Núi Tha-bô, và đem theo với ông mười ngàn người từ chi phái Nép-ta-li và Sa-bu-lôn.
|
||
\v 7 Ta sẽ khiến Si-sê-ra, viên chỉ huy quân đội của Gia-bin, đi ra gặp con bên dòng sông Ki-sôn, với xe và binh lính của hắn, và ta sẽ ban cho con thắng hơn hắn".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ba-rác nói với bà: "Nếu bà cùng đi với tôi, tôi sẽ đi, song nếu bà không đi cùng tôi, tôi sẽ không đi đâu".
|
||
\v 9 Bà nói: "Chắc chắn tôi sẽ đi cùng ông. Tuy nhiên, con đường ông đang đi trên đó sẽ không dẫn tới vinh quang cho ông, vì Đức Giê-hô-va sẽ khiến một người đàn bà đánh bại Si-sê-ra bằng sức lực của bà ấy". Thế rồi Đê-bô-ra chỗi dậy và đi với Ba-rác đến Kê-đe.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Ba-rác kêu gọi người Sa-bu-lôn và Nép-ta-li cùng nhau đến tại Kê-đe. Mười ngàn người đi theo ông, và Đê-bô-ra đã cùng đi với ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Bấy giờ Hê-be (dân Kê-nít) tự biệt mình riêng ra với dân Kê-nít — họ là dòng dõi của Hô-báp (cha vợ của Môi-se) — và ông ta đóng trại mình bên cây sồi ở Sa-na-im gần Kê-đe.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi họ nói cho Si-sê-ra hay rằng Ba-rác con trai của A-bi-nô-am đã đi lên Núi Tha-bô,
|
||
\v 13 Si-sê-ra truyền cho mọi xe cộ của ông ta, chín trăm xe bằng sắt, và hết thảy binh lính nào đã có mặt cùng với ông ta, từ Ha-rô-sết thuộc dân Ngoại đến sông Ki-sôn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Đê-bô-ra nói với Ba-rác: "Đi nào! Vì đây là ngày mà Đức Giê-hô-va đã khiến cho ông thắng hơn Si-sê-ra. Có phải Đức Giê-hô-va không hướng dẫn ông sao?" Vậy, Ba-rác đi xuống từ Núi Tha-bô với mười ngàn người theo sau ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Đức Giê-hô-va khiến cho quân đội của Si-sê-ra lẫn lộn, hết thảy xe cộ, và toàn bộ quân đội của ông ta, và người của Ba-rác tấn công chúng, và Si-sê-ra xuống khỏi xe cộ mình và chạy bộ.
|
||
\v 16 Nhưng Ba-rác truy đuổi theo các xe cộ đó và quân đội cho đến Ha-rô-sết thuộc dân Ngoại, và toàn bộ quân đội của Si-sê-ra bị giết bởi lưỡi gươm, và không một người nào sống sót.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Nhưng Si-sê-ra chạy bộ đến trại của Gia-ên, vợ của Hê-be người Kê-nít, vì đã có hòa bình giữa Gia-bin vua của Hát-so, và nhà Hê-be người Kê-nít.
|
||
\v 18 Gia-ên đi ra gặp Si-sê-ra và nói cùng ông: "Hỡi chủ của tôi, hãy qua đây; hãy qua đây với tôi và đừng sợ nữa". Vì vậy, ông ta đã qua đó rồi vào trong trại của bà ta, và bà ta đắp mền lên người ông ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Ông ta nói với bà rằng: "Làm ơn cho tôi uống chút nước, vì tôi khát". Bà mở cáu túi bằng da đựng sữa trao cho ông ta uống, kế đó bà đắp mền lại cho ông ta.
|
||
\v 20 Ông ta nói như sau: "Hãy ra đứng nơi cửa trại. Nếu có ai đến và hỏi bà: 'Có ai ở đây không?' hãy đáp: 'không'".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Khi ấy Gia-ên (vợ của Hê-be) lấy cây nọc trại và cây búa cầm nơi tay rồi kín đáo đền gần ông ta, vì ông ta ngủ say lắm, và bà đóng cây nọc trại vài màng tang ông ta, nó đâm thủng đầu ông ta rồi găm xuống đất. Thế là ông ta chết đi.
|
||
\v 22 Khi Ba-rác đuổi theo Si-sê-ra, Gia-ên đi ra gặp ông rồi nói với ông rằng: "Hãy đến, tôi sẽ chỉ cho ông thấy người mà ông đang truy tìm". Ông đi theo bà ấy, và ở đó Si-sê-ra đang nằm gục chết, với cây nọc trại găm bên màng tang đầu ông ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Vậy, trong ngày đó Đức Chúa Trời đã đánh bại Gia-bin vua dân Ca-na-an trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 24 Sức mạnh của dân Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh mẽ hơn chống lại Gia-bin vua dân Ca-na-an, cho đến khi họ đã tiêu diệt ông ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 5
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong ngày đó Đê-bô-ra và Ba-rác con trai của A-bi-nô-am đã hát bài ca nầy:
|
||
\v 2 "Khi cấp lãnh đạo nắm lấy quyền lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên, khi dân sự vui vẻ tình nguyện bước vào chiến trận — chúng ta hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va!
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Hãy lắng nghe, hỡi các vua! Hãy chú ý, hỡi các cấp lãnh đạo! Ta, ta sẽ hát cho Đức Giê-hô-va; Ta sẽ ngợi khen Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 4 Hỡi Đức Giê-hô-va, khi Ngài ra từ Sê-i-rơ, khi Ngài diễu hành từ Ê-đôm, đất bèn lay động, và bầu trời cũng run rẩy; các đám mây cũng đổ nước ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Các núi rúng động trước mặt Đức Giê-hô-va; ngay cả Núi Sinai đã rúng động trước mặt của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 6 Trong thời buổi của Sam-ga (con trai của A-nát), trong thời của Gia-ên, các con đường chính đều bị bỏ hoang, và người nào đi bộ chỉ sử dụng các lối quanh quẹo.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Không có một người cày cấy nào trong Y-sơ-ra-ên, cho tới chừng Ta, Đê-bô-ra, nắm lấy quyền hành — một người làm mẹ nắm lấy quyền hành trong Y-sơ-ra-ên!
|
||
\v 8 Họ đã chọn các thần mới, và đã có đánh trận tại các cổng thành; cũng không thấy gươm giáo giữa vòng bốn mươi ngàn người trong Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Tấm lòng ta cùng đi ra với các tướng lãnh của Y-sơ-ra-ên, cùng với những người vui vẻ tình nguyện — chúng ta hãy cầu phước Đức Giê-hô-va cho họ!
|
||
\v 10 Hãy suy nghĩ về việc nầy — các người là người cỡi trên lưng lừa bạch, ngồi trên thảm, và các người là người đi đường.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Hãy nghe tiếng của những kẻ đứng chia bầy chiên ra giữa những nơi uống nước được. Ở đó họ làm chứng lại về những việc công bình của Đức Giê-hô-va, và các hành động công bình của lính chiến Ngài trong Y-sơ-ra-ên. Khi ấy dân sự của Đức Giê-hô-va bèn đi xuống các cổng thành.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Hãy tỉnh thức, hãy tỉnh thức, hỡi Đê-bô-ra! Hãy tỉnh thức, tỉnh thức, hãy hát một bài ca! Hỡi Ba-rác, hãy chỗi dậy, và bắt lấy những kẻ phu tù đi, hỡi người là con trai của A-bi-nô-am.
|
||
\v 13 Khi ấy, những kẻ còn sống sót đi xuống với những người giàu có — dân sự của Đức Giê-hô-va đi xuống với ta giữa vòng các chiến binh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Họ đã đến từ Ép-ra-im, gốc gác của họ là trong xứ A-ma-léc; người Bên-gia-min thì đi theo họ. Từ Ma-ki các tướng lãnh đi xuống, và từ Sa-bu-lôn những kẻ cầm cây trượng của cấp chỉ huy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Và các quan trưởng trong Y-sa-ca đã ở với Đê-bô-ra; và Y-sa-ca đã ở với Ba-rác xông xáo theo sau người vào trong đồng bằng dưới quyền chỉ huy của người. Giữa vòng họ hàng Ru-bên đã có nhiều nghị luận trong lòng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Sao các người ngồi bên lò sưởi, lắng nghe những người chăn bầy đã thổi sáo gọi bầy chiên của họ? Giống như các họ hàng của Ru-bên đã có nhiều nghị luận trong lòng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ga-la-át còn ở bên kia sông Giô-đanh; còn Đan, sao người cứ đi quanh mấy con tàu? A-se ở lại bên mé biển và sống gần với các cảng của mình.
|
||
\v 18 Sa-bu-lôn là một chi phái dám liều mạng mình cho tới chết, và Nép-ta-li cũng còn ở trong bãi chiến trường.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Các vua đã đến và tham chiến, khi ấy các vua Ca-na-an đã tham chiến, ở Tha-a-nát bên dòng sông Mê-ghi-đô. Nhưng họ không xem bạc là chiến lợi phẩm.
|
||
\v 20 Từ trời các ngôi sao đã tham chiến, từ các con đường dọc ngang trên các từng trời, chúng đánh trận chống lại Si-sê-ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Sông Ki-sôn đã kéo trôi chúng nó, dòng sông xưa ấy, Sông Ki-sôn. Hỡi linh hồn ta, hãy mạnh mẽ mà đi diễu hành!
|
||
\v 22 Khi ấy tiếng vó ngựa — phi nước đại, những ngựa chiến đang phi nước đại.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán: 'Hãy rủa sả Mê-rô!' 'Hãy rủa sả cư dân nó! — vì chúng không đến để trợ giúp Đức Giê-hô-va — để giúp Đức Giê-hô-va trong trận chiến chống lại các chiến binh mạnh sức'.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Gia-ên được phước nhiều hơn hết mọi người nữ khác, Gia-ên (vợ của Hê-be người Kê-nít), bà được phước nhiều hơn hết thảy những người nữ nào đang sống trong lều trại.
|
||
\v 25 Gã kia xin nước uống, và bà trao sữa cho hắn; bà đem cho hắn bơ đựng trong đĩa mà các vương tử dùng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Bà cầm trong tay cây nọc trại, và tay phải bà cầm cây búa của người thợ; với cây búa bà đánh Si-sê-ra, bà chà nát đầu của hắn. Bà bửa sọ hắn ra thành nhiều mảnh khi bà đâm thũng qua màng tang của đầu hắn.
|
||
\v 27 Hắn gục xuống dưới chân bà, hắn ngã xuống rồi nằm sải ở đó. Giữa hai chân của bà hắn lả đi. Chỗ hắn ngã xuống là nơi hắn bị giết hại dữ dội.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Bà nhìn qua khung cửa sổ — mẹ của Si-sê-ra nhìn qua khung cửa lưới rồi kêu la trong buồn thảm: 'Sao xe cộ nó lâu đến đây thế? Sao móng của những con ngựa kéo xe cộ lại bị trì hoãn?'
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Mấy cô con gái khôn khéo nhất của bà ta đáp: và chính bà ta cũng đưa ra cùng một câu trả lời:
|
||
\v 30 'Phải chăng họ không tìm đặng và phân chia chiến lợi phẩm ư? — Một tử cung, hai tử cung cho mỗi người; chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm dành cho Si-sê-ra, chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm thêu, hai mảnh vải nhuộm thêu cho cổ của người thắng trận?'
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Vì vậy, nguyện hết thảy kẻ thù nghịch của con bị hư mất đi, hỡi Đức Giê-hô-va ôi! Nhưng nguyện những ai yêu mến Ngài sẽ như mặt trời khi nó mọc lên trong sức mạnh của nó". Và xứ được hòa bình trong bốn mươi năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 6
|
||
\p
|
||
\v 1 Người Y-sơ-ra-ên đã làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và Ngài đặt họ dưới quyền kiểm soát của dân Ma-đi-an trong bảy năm.
|
||
\v 2 Quyền lực của dân Ma-đi-an đã áp bức dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ dân Ma-đi-an, người Y-sơ-ra-ên đã lập những nơi ẩn náu cho họ từ các hang động trong vùng đồi núi, hang hầm, và đồn lũy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Chuyện xảy ra, bất kỳ lúc nào dân Y-sơ-ra-ên gieo trồng mùa màng của họ, người Ma-đi-an và dân A-ma-léc cùng những người từ phương Đông đến tấn công dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 4 Chúng đóng quân trên đất của họ và tận diệt mùa màng, khắp cả xứ Ga-xa. Họ chẳng để lương thực lại trong Y-sơ-ra-ên, và chẳng có chiên, bò hay lừa chi hết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Bất cứ khi nào họ và bầy gia súc cùng lều trại của họ dựng lên, chúng sẽ loán đến như một bầy cào cào, và người ta cùng lạc đà vô số. Chúng vây hãm xứ để tận diệt nó.
|
||
\v 6 Dân Ma-đi-an làm suy yếu người Y-sơ-ra-ên thê thảm đến nỗi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va vì cớ người Ma-đi-an,
|
||
\v 8 Đức Giê-hô-va sai một đấng tiên tri đến với dân Y-sơ-ra-ên. Vị tiên tri nói với họ: "Đây là những gì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dạy: 'Ta đã đem các con ra khỏi xứ Ai-cập; Ta đã đem các con ra khỏi nhà nô lệ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Ta đã cứu các con ra khỏi quyền lực của người Ai-cập, và khỏi quyền lực của các dân hay lấn lướt các con. Ta đuổi chúng trước mặt các con, và ta đã ban xứ của chúng cho các con.
|
||
\v 10 Ta phán cùng các con: "Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con; Ta đã truyền cho các con đừng thờ lạy các thần của dân A-mô-rít, các con đang sống trong đất của họ". Nhưng các con đã không tuân theo tiếng phán của ta.'"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Giờ đây thiên sứ của Đức Giê-hô-va đã đến và ngồi dưới cây sồi ở Óp-ra, nơi thuộc về Giô-ách (người A-bi Ê-xê-rít), trong khi Ghê-đê-ôn, con trai Giô-ách, đang đập lúa trên bàn ép nho — để giấu lúa khỏi người Ma-đi-an.
|
||
\v 12 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng ông và phán với ông: "Đức Giê-hô-va ở cùng con, hỡi con, chiến binh mạnh sức!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ghê-đê-ôn thưa cùng Ngài: "Ôi Chúa ôi, nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng con, sao mọi sự nầy lại xảy đến cho chúng con? Mọi việc làm kỳ diệu mà tổ phụ chúng con kể lại cho chúng con nghe đang ở đâu, khi họ nói: 'Há Đức Giê-hô-va không đem chúng ta ra khỏi Ai-cập sao?' Song giờ đây Đức Giê-hô-va đã từ bỏ chúng con và phó chúng con vào quyền lực của dân Ma-đi-an".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Đức Giê-hô-va nhìn thẳng vào ông rồi phán: "Hãy đi với sức lực con đang có. Hãy giải phóng Y-sơ-ra-ên ra khỏi quyền lực của dân Ma-đi-an. Há ta không có sai con sao?"
|
||
\v 15 Ghê-đê-ôn thưa với Ngài rằng: "Lạy Chúa, con sẽ giải phóng dân Y-sơ-ra-ên bằng cách nào đây? Hãy xem, gia đình con là yếu kém nhất trong họ Ma-na-se, và con là nhỏ hơn hết trong nhà cha của con".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng người: "Ta sẽ ở với con, và con sẽ đánh bại toàn bộ quân đội Ma-đi-an".
|
||
\v 17 Ghê-đê-ôn thưa rằng: "Nếu Ngài đẹp lòng với con, thế thì hãy ban cho con một dấu cho thấy rằng chính Ngài là Đấng đang phán cùng con.
|
||
\v 18 Xin làm ơn, đừng rời khỏi đây, cho đến khi con đến với Ngài và bày ra của lễ và đặt nó trước mặt Ngài". Đức Giê-hô-va phán: "Ta sẽ đợi cho đến khi con trở lại".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Ghê-đê-ôn bèn đi, sửa soạn một con dê con và một ê-pha bột, ông làm bánh không men. Ông đặt thịt trong một cái rổ, và ông đổ nước thịt vào nồi rồi đem chúng đến dưới cây sồi, và bày chúng ra.
|
||
\v 20 Thiên sứ của Đức Chúa Trời phán cùng ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt chúng lên hòn đá nầy, rồi đổ nước thịt trên chúng". Ghê-đê-ôn bèn làm theo y như thế.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Khi ấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va cầm lấy đầu cây trượng trong tay mình. Với cây trượng đó Ngài chạm đến thịt và bánh không men; một ngọn lửa bốc lên từ hòn đá, thiêu đốt thịt và bánh không men. Khi ấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va biến đi và Ghê-đê-ôn không còn nhìn thấy Ngài nữa.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Ghê-đê-ôn hiểu rõ rằng đây là thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Ghê-đê-ôn nói: "Ôi Chúa Giê-hô-va! Vì con đã thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va mặt đối mặt!"
|
||
\v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng người: "Bình an cho con! Đừng sợ hãi, con sẽ chẳng chết đâu".
|
||
\v 24 Thế là Ghê-đê-ôn xây một bàn thờ ở đó cho Đức Giê-hô-va. Ông gọi bàn thờ đó: Đức Giê-hô-va là Sự Bình An. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn đứng tại Óp-ra thuộc người A-bi Ê-xê-rít.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Đêm đó Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy bắt con bò đực của cha của con, và con bò thứ nhì bảy tuổi, và phá dỡ bàn thờ của Ba-anh thuộc về cha của con, rồi đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở bên cạnh đó.
|
||
\v 26 Hãy dựng một bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con trên nóc của nơi ẩn náu nầy, rồi xây nó theo một hướng đúng đắn. Hãy dâng con bò đực thứ nhì làm của lễ thiêu, sử dụng gỗ từ hình tượng A-sê-ra mà con mới hạ xuống đó."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Thế là Ghê-đê-ôn chọn lấy mười người trong các tôi tớ mình và làm theo y như Đức Giê-hô-va đã phán với ông. Nhưng vì ông quá sợ hãi đối với nhà cha mình cùng người ở trong thành nên không làm việc ấy lúc ban ngày, ông đã làm việc ấy lúc ban đêm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Đến sáng, khi người trong thành thức giấc, bàn thờ của Ba-anh đã bị đập vỡ, và tượng A-sê-ra ở bên cạnh đã bị đốn hạ, và con bò thứ nhì đã được dâng lên trên bàn thờ đã được dựng lên.
|
||
\v 29 Người trong thành nói với nhau: "Ai đã làm việc nầy?" Khi họ nói với nhiều người khác nữa và tìm câu trả lời, họ nói: "Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách đã làm việc nầy".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Khi ấy người trong thành nói với Giô-ách: "Hãy đem con trai của ông ra hầu cho nó sẽ bị tử hình, vì nó phá dỡ bàn thờ của Ba-anh, và vì nó đánh hạ hình tượng A-sê-ra bên cạnh đó".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Giô-ách nói với mọi người chống đối ông: "Các người binh vực cho Ba-anh sao? Các người sẽ cứu hắn sao? Hễ ai binh vực hắn, nguyện kẻ ấy chết đi trong khi trời hãy còn sáng. Nếu Ba-anh là thần, hãy để cho hắn tự đối nại khi có ai đó giật đổ bàn thờ của hắn".
|
||
\v 32 Vì lẽ đó, vào ngày ấy Ghê-đê-ôn được người ta đặt cho danh xưng: "Giê-ru Ba-anh", vì ông có nói: "Hãy để cho Ba-anh tự đối nại với những ai nghịch cùng mình", vì Ghê-đê-ôn đã đánh hạ bàn thờ của hắn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 33 Bấy giờ hết thảy người Ma-đi-an, dân A-ma-léc, cùng những người ở phương Đông nhóm lại với nhau. Họ băng qua sông Giô-đanh rồi đóng trại trong đồng bằng Gít-rê-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Nhưng Thánh Linh của Đức Giê-hô-va bao phủ lấy Ghê-đê-ôn để trợ giúp cho ông. Ghê-đê-ôn thổi kèn, kêu gọi người A-bi Ê-xê-rít, họ chịu theo sau người.
|
||
\v 35 Ông sai sứ giả đi khắp Ma-na-se, và họ cũng được kêu gọi đi theo ông. Ông cũng sai sứ giả đến với A-se, Sa-bu-lôn, và Nép-ta-li, và họ đi lên để gặp ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Ghê-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời: "Nếu Ngài muốn dùng con để giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Ngài đã phán —
|
||
\v 37 Hãy xem, con đặt một lốt chiên trên sàn sân đạp lúa. Nếu có sương duy nhứt đóng trên lốt chiên, và đất thì khô ráo, khi ấy con sẽ nhìn biết Ngài sẽ sử dụng con để giải cứu Y-sơ-ra-ên, y như Ngài đã phán".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Đây là điều đã xảy ra — Ghê-đê-ôn dậy sớm sáng hôm sau, ông vắt lốt chiên, thì sương chảy ra đầy một chén nước.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 Thế rồi Ghê-đê-ôn thưa cùng Đức Chúa Trời: "Đừng nổi giận với con, con muốn nói thêm một lần nữa. Làm ơn cho con được phép sử dụng lốt chiên một lần nữa. Lần nầy lốt chiên thì khô ráo, và nguyện sương chỉ đóng trên đất ở xung quanh nó mà thôi".
|
||
\v 40 Đức Chúa Trời đã làm những gì ông xin trong đêm ấy. Lốt chiên thì khô, và có sương đóng trên đất ở chung quanh nó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 7
|
||
\p
|
||
\v 1 Khi ấy Giê-ru Ba-anh (nghĩa là, Ghê-đê-ôn) dậy sớm, và cả dân sự cùng dậy sớm với người và họ đóng trại bên cạnh suối Ha-rốt. Trại quân của dân Ma-đi-an nằm ở phía Bắc của họ trong đồng bằng gần núi Mô-rê.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Có nhiều binh lính quá đến nỗi ta không ban cho các con thắng hơn dân Ma-đi-an. Phải biết chắc rằng Y-sơ-ra-ên sẽ không khoe ngược đối với ta rằng: 'Sức mạnh của chúng ta đã cứu chúng ta'.
|
||
\v 3 Vì vậy, hãy công bố trong lỗ tai của dân sự như vầy: 'Hễ ai sợ, hễ ai run, người đó hãy trở về và rời khỏi Núi Ga-la-át'". Vì vậy, 22. 000 người trở lui, và còn lại 10. 000 người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Binh lính hãy còn quá đông. Hãy đưa họ xuống sông, và Ta sẽ giảm số lượng họ xuống thay cho con. Nếu ta bảo con: 'Người nầy sẽ đi với con', người sẽ đi với con; nhưng nếu ta bảo: 'Người nầy sẽ không đi với con', người ấy sẽ không đi".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Vì vậy, Ghê-đê-ôn đưa dân sự xuống sông, và Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy biệt riêng kẻ nào hớp nước, giống như con chó hớp, ra khỏi những kẻ quì gối xuống mà uống nước".
|
||
\v 6 Ba trăm người đã hớp nước. Phần còn lại dân sự quì gối xuống uống nước.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn: "Với ba trăm người hớp nước kia, Ta sẽ giải cứu các con và ban cho các con thắng hơn dân Ma-đi-an. Còn mỗi người khác hãy quay trở lại chốn của họ".
|
||
\v 8 Vậy, người nào đã được chọn cầm lấy lương thực và kèn của họ. Ghê-đê-ôn cho mọi người Y-sơ-ra-ên trở về, ai về trại nấy, nhưng ông giữ lại ba trăm người. Bấy giờ trại quân Ma-đi-an đóng ở dưới thấp trong đồng bằng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Chính đêm ấy Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Hãy chỗi dậy! Hãy tấn công trại quân đó, vì ta sẽ ban cho con thắng hơn nó.
|
||
\v 10 Nhưng nếu con sợ không đi xuống, hãy đi xuống đó với Phu-ra tôi tớ của con,
|
||
\v 11 và hãy lắng nghe những điều chúng nói, và lòng can đảm của con sẽ được mạnh mẽ để tấn công trại quân đó". Vậy Ghê-đê-ôn cùng đi với Phu-ra tôi tới người, xuống điếm canh của trại quân ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và hết thảy dân phương Đông đóng dọc theo đồng bằng, dày đặc như đám mây cào cào vậy. Lạc đà của chúng không thể đếm đặng; chúng còn đông hơn cát trên bờ biển.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Khi Ghê-đê-ôn đến đó, gã kia đang thuật lại điềm chiêm bao cho đồng đội mình nghe. Gã nói: "Kìa! Ta có điềm chiêm bao, và ta đã thấy một cái bánh lúa mạch hình tròn lăn vào trong trại quân Ma-đi-an. Nó lăn đụng đến trại, làm cho trại phải ngã xuống làm đảo lộn cả trại, hầu cho trại thành ra bình địa".
|
||
\v 14 Gã kia nói: "Điều nầy chẳng khác gì gươm của Ghê-đê-ôn (con trai Giô-ách), dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã ban cho hắn thắng hơn dân Ma-đi-an cùng cả quân đội của họ."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Khi Ghê-đê-ôn nghe kể lại điềm chiêm bao và cách lý giải nó, ông sấp mình xuống mà cầu nguyện. Ông trở về trại quân của Y-sơ-ra-ên rồi truyền lịnh: "Hãy chỗi dậy! Đức Giê-hô-va đã ban cho anh em thắng hơn quân đội của dân Ma-đi-an".
|
||
\v 16 Ông chia ba trăm người thành ba nhóm, và ông cung cấp kèn và bình không cho họ, với đuốc ở bên trong bình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ông nói với họ: "Hãy nhìn xem ta và làm theo điều ta làm. Hãy xem! Khi ta đến rìa trại quân, anh em phải làm theo điều ta làm.
|
||
\v 18 Khi ta thổi kèn, ta và hết thảy những ai ở với ta, khi ấy cũng hãy thổi kèn lên từng phía của cả trại quân rồi hô lên: 'Vì Đức Giê-hô-va và vì Ghê-đê-ôn!'"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Vậy Ghê-đê-ôn và mấy trăm người ở với ông đi đến rìa trại quân, ngay lúc bắt đầu canh nửa đêm. Giống như dân Ma-đi-an đang đổi gát, họ thổi kèn và đập vỡ những cái bình đang cầm trong tay họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ba đội quân thổi kèn và đập vỡ bình. Họ cầm đuốc bằng tay trái và kèn nơi tay phải để thổi. Họ hô to lên: "Gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn".
|
||
\v 21 Mỗi người đứng tại chỗ của mình quanh trại quân còn toàn bộ quân Ma-đi-an thì bỏ chạy. Chúng la hét rồi chạy đi tứ tán.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Khi họ thổi ba trăm cây kèn, Đức Giê-hô-va giơ gươm của từng người lính Ma-đi-an đánh lại đồng đội của họ và chống lại cả quân đội họ. Quân đội trốn đi thật xa đến tận Bết Si-ta hướng Xê-xê-ra, xa đến biên giới của A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát.
|
||
\v 23 Người Y-sơ-ra-ên tụ tập lại từ Nép-ta-li, A-se, và cả thảy Ma-na-se, và họ đuổi theo dân Ma-đi-an.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ghê-đê-ôn sai sứ đi khắp vùng đồi núi của Ép-ra-im mà rằng: "Hãy đi xuống chống lại dân Ma-đi-an và kiểm soát Sông Giô-đanh, cho đến tận Bết Ba-ra, để ngăn chặn chúng". Vậy, hết thảy người Ép-ra-im tụ tập lại và kiểm soát dòng sông, xa đến tận Bết Ba-ra và sông Giô-đanh.
|
||
\v 25 Họ bắt hai quan trưởng dân Ma-đi-an, Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp tại hòn đá Ô-rếp, và họ giết Xê-ép tại bàn ép nho Xê-ép. Họ đuổi theo dân Ma-đi-an, và họ đem hai cái đầu của Ô-rếp và Xê-ép cho Ghê-đê-ôn, ông đang ở bên kia sông Giô-đanh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 8
|
||
\p
|
||
\v 1 Người Ép-ra-im nói với Ghê-đê-ôn: "Sao ông làm việc nầy với chúng tôi chứ? Ông không kêu gọi chúng tôi khi ông ra trận chống lại dân Ma-đi-an". Và họ tranh luận dữ dội với ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 2 Ông nói với họ: "Giờ đây, những gì tôi đã làm có sánh được với anh em sao? Có phải nho mót ở Ép-ra-im còn tốt hơn mùa hái nho trong A-bi Ê-xe?
|
||
\v 3 Đức Chúa Trời đã ban cho anh em thắng hơn các quan trưởng của dân Ma-đi-an — Ô-rếp và Xê-ép! Những gì tôi đạt được há có sánh bằng anh em đâu?" Cơn giận của họ đối với ông dịu lại khi ông nói với họ như thế.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Ghê-đê-ôn đến tại sông Giô-đanh rồi băng qua nó, ông và ba trăm người đã ở với ông. Họ đã kiệt sức, tuy nhiên họ vẫn giữ cuộc truy kích.
|
||
\v 5 Ông nói với người ở Su-cốt: "Làm ơn cung cấp bánh cho những người theo tôi, vì họ kiệt sức rồi, vì tôi đang truy kích Xê-bách và Xanh-mu-na, hai vua của dân Ma-đi-an".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Các lãnh đạo của Su-cốt nói: "Ông đã thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na chưa? Chúng tôi không biết lý do tại sao chúng tôi phải cung cấp bánh cho quân đội của ông".
|
||
\v 7 Ghê-đê-ôn nói: "Khi Đức Giê-hô-va đã ban cho chúng tôi thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na, tôi sẽ làm tét thịt anh em với gai góc trong đồng vắng".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Ông đi lên từ đó đến Phê-nu-ên rồi nói với dân sự ở theo cùng một cách ấy, nhưng người của Phê-nu-ên đáp cùng ông y như người ở Su-cốt đã đáp vậy.
|
||
\v 9 Ông cũng nói với người ở Phê-nu-ên như sau: "Khi ta bình an trở lại, ta sẽ giật sập cái tháp nầy".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Bấy giờ, Xê-bách và Xanh-mu-na đã đến tại Cạt-cô, với quân đội họ, khoảng 15. 000 người, bấy nhiêu người còn lại từ cả đạo quân của người phương Đông. Vì đã có 120. 000 binh lính thuần thục đã bị gươm giết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Ghê-đê-ôn đi lên đến trại quân kẻ thù bằng cách đi dọc theo con đường Nô-mát, ngang qua Nô-bách và Giô-hê-ba. Ông đã đánh bại quân kẻ thù, vì họ không ngờ họ bị tấn công.
|
||
\v 12 Xê-bách và Xanh-mu-na chạy trốn, và khi Ghê-đê-ôn truy kích chúng, ông bắt được hai vua dân Ma-đi-an — Xê-bách và Xanh-mu-na — và khiến cả đạo quân rơi vào chỗ hoảng loạn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách trở về từ chiến trường đi ngang qua Hê-re.
|
||
\v 14 Ông gặp một thanh niên dân Su-cốt và hỏi han nó. Thanh niên nầy mô tả cho ông biết cấp lãnh đạo của Su-cốt cùng các trưởng lão ở đó, bảy mươi bảy người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Ghê-đê-ôn đến với người Su-cốt rồi nói: "Hãy nhìn xem Xê-bách và Xanh-mu-na, anh em đã chế nhạo ta về chúng mà nói: 'Há ông đã thắng hơn Xê-bách và Xanh-mu-na chưa? Chúng tôi chẳng biết lý do gì để chúng tôi cung cấp bánh cho quân đội của ông'"
|
||
\v 16 Ghê-đê-ôn bắt lấy các trưởng lão của thành đó, và ông đánh phạt người thành Su-cốt bằng gai góc trong sa mạc.
|
||
\v 17 Và ông giật sập tháp Phê-nu-ên rồi giết người của thành đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Khi ấy Ghê-đê-ôn nói cùng Xê-bách và Xanh-mu-na: "Chúng bay đã giết người ở Tha-bô như thế nào?" Chúng đáp: "Ông thể nào, chúng thể ấy. Mỗi người trong số họ trông giống như con trai của một vì vua".
|
||
\v 19 Ghê-đê-ôn nói: "Họ là anh em của ta, các con trai của mẹ ta. Như Đức Giê-hô-va là hằng sống, nếu chúng bay để cho họ sống, ta sẽ không giết chúng bay".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ông nói với Giê-the (con đầu lòng của ông): "Hãy chỗi dậy và giết chúng!" Song chàng trai trẻ không rút gươm mình ra vì nó sợ, vì nó hãy còn là một đứa trẻ.
|
||
\v 21 Khi ấy Xê-bách và Xanh-mu-na nói: "Hãy tự mình chỗi dậy mà giết chúng ta đi! Vì là người lớn, là người có sức lực". Ghê-đê-ôn chỗi dậy và giết Xê-bách và Xanh-mu-na. Ông cũng tước thứ trang sức hình lưỡi liềm đeo ở cổ lạc đà của chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên nói với Ghê-đê-ôn: "Hãy cai trị trên chúng tôi — hỡi người, con trai người, và cháu của người — vì người đã cứu chúng tôi ra khỏi quyền lực của dân Ma-đi-an".
|
||
\v 23 Ghê-đê-ôn nói với họ: "Ta sẽ không cai trị trên anh em, con trai ta cũng không cai trị trên anh em. Đức Giê-hô-va sẽ tể trị trên anh em".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Ghê-đê-ôn nói với họ: "Tôi có một yêu cầu đối với anh em: mỗi người trong anh em sẽ cho tôi những cái vòng từ chiến lợi phẩm kia". (Dân Ma-đi-an đã có những cái vòng bằng vàng vì họ là dân Ích-ma-ên)
|
||
\v 25 Họ đáp: "Chúng tôi bằng lòng trao chúng cho ông". Họ trải chiếc áo choàng ra và mỗi người ném vào đó những cái vòng vàng lấy ra từ số chiến lợi phẩm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Sức nặng của những chiếc vòng bằng vàng mà ông yêu cầu là 1. 700 siếc-lơ vàng. Số chiến lợi phẩm nầy thêm vào với đồ trang sức hình trăng lưỡi liềm, hoa tai, áo màu đỏ điều mà hai vua dân Ma-đi-an đã mặc, và thêm vào với những cây kiềng đeo ở cổ lạc đà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Ghê-đê-ôn làm một cái ê-phót từ những chiếc vòng vàng rồi đặt nó trong thành của mình, tại Óp-ra, và cả Y-sơ-ra-ên tự họ tà dâm bằng cách thờ lạy cái ê-phót đó. Nó trở thành cái bẫy cho Ghê-đê-ôn và cho những ai ở trong nhà của ông.
|
||
\v 28 Vậy dân Ma-đi-an bị bắt phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên và họ không còn ngước cái đầu của họ lên một lần nữa. Và xứ được hoàn bình trong bốn mươi năm trong thời của Ghê-đê-ôn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Giê-ru Ba-anh con trai của Giô-ách trở về sống trong chính ngôi nhà của ông.
|
||
\v 30 Ghê-đê-ôn sanh được bảy mươi con trai, vì ông có nhiều vợ.
|
||
\v 31 Vợ lẽ người sống tại Si-chem, cũng sanh cho người một con trai, và Ghê-đê-ôn đặt tên cho nó là A-bi-mê-léc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Ghê-đê-ôn con trai của Giô-ách qua đời lúc tuổi đã cao rồi được chôn cất trong mộ của Giô-ách cha người, ở Óp-ra thuộc dòng họ A-bi Ê-xe.
|
||
\v 33 Thế rồi không lâu sau khi Ghê-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên xây trở lại và tự họ tà dâm bằng cách thờ lạy Ba-anh. Họ lập Ba-anh Bê-rít làm thần của họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Người Y-sơ-ra-ên không nhớ làm vinh hiển cho Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã giải cứu họ ra khỏi quyền lực của các kẻ thù nghịch họ tứ phía.
|
||
\v 35 Họ không giữ lời hứa với nhà của Giê-ru Ba-anh (danh xưng khác của Ghê-đê-ôn), đổi lại mọi sự tốt lành mà ông đã làm trong Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 9
|
||
\p
|
||
\v 1 A-bi-mê-léc con trai Giê-ru Ba-anh đến với mấy người bà con của mẹ mình ở Si-chem và ông nói với họ và cả họ gia đình mẹ mình như sau:
|
||
\v 2 "Làm ơn nói như vầy, hầu cho hết thảy cấp lãnh đạo ở Si-chem nghe: 'Điều nào là tốt hơn cho các ông? Có cả thảy bảy mươi người con của Giê-ru Ba-anh cai trị trên các ông, hoặc chỉ một người cai trị trên các ông?' Hãy nhớ rằng tôi là xương là thịt của các ông".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Những người bà con của mẹ ông nói về ông cho các cấp lãnh đạo ở Si-chem nghe, và họ đồng ý theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: "Người là anh em của chúng ta".
|
||
\v 4 Họ trao cho ông bảy mươi miếng bạc lấy từ nhà của Ba-anh Bê-rít, và A-bi-mê-léc đã dùng bạc ấy thuê những kẻ sống phi luật pháp và hoang đàng, là những kẻ đi theo ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Ông đến nhà của cha mình tại Óp-ra, và trên một hòn đá ông giết bảy mươi anh em, con trai của Giê-ru Ba-anh. Chỉ có Giô-tham bị chừa lại, là con trai út của Giê-ru Ba-anh, vì người đã đi trốn.
|
||
\v 6 Hết thảy cấp lãnh đạo của Si-chem và Bết Mi-lô cùng đến với nhau, họ đến lập A-bi-mê-léc làm vua, bên cạnh cây sồi gần cột bằng đá ở trong Si-chem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi người ta đến nói cho Giô-tham biết sự nầy, ông bỏ đi và đứng trên đỉnh Núi Ga-ri-xim. Người gào lên rồi nói với họ: "Hãy nghe tôi, hỡi các cấp lãnh đạo của Si-chem, hầu cho Đức Chúa Trời sẽ lắng nghe anh em.
|
||
\v 8 Những cây nào từng đi ra xức dầu cho một vị vua cai quản họ. Và chúng nói với cây ô-li-ve: 'Hãy cai trị trên chúng tôi'.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Nhưng cây ô-li-ve nói với họ: 'Lẽ nào ta nhã dầu ra, là dầu được sử dụng để tôn vinh Đức Chúa Trời và người ta, để khi ta trở lại, chỉ để làm rối trên các cây khác thôi sao?'
|
||
\v 10 Các cây kia nói với cây vả rằng: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.
|
||
\v 11 Nhưng cây vả nói với chúng: 'Lẽ nào ta bỏ đi mùi dịu ngọt và trái tốt của mình, chỉ để khi ta trở lại và làm rối trên các cây khác sao'
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Những cây kia nói với cây nho: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.
|
||
\v 13 Cây nho nói với chúng: 'Lẽ nào ta bỏ rượu mới, là thứ làm vui vẻ Đức Chúa Trời và người ta, rồi trở lại làm rối trên các cây khác sao?'
|
||
\v 14 Khi ấy những cây đó nói với bụi gai: 'Hãy đến cai trị trên chúng tôi'.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Bụi gai nói với các cây đó: 'Nếu cây cối muốn xức dầu ta đặng làm vua trên các cây, thế thì hãy đến và tìm sự an ninh dưới bóng cánh của ta. Nếu không, thế thì nguyện lửa ra từ bụi gai và nó sẽ thiêu đốt rừng bá hương của Li-ban.'
|
||
\v 16 Vì lẽ đó, giờ đây nếu cây cối ứng xử theo lòng chơn thật và ngay thẳng, khi anh em lập A-bi-mê-léc làm vua, và nếu anh em đã xử sự tốt về Giê-ru Ba-anh và nhà của người, và nếu anh em sửa phạt người như người đáng phải chịu —
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 và nghĩ rằng cha ta đã đánh trận thay cho anh em, đã liều mạng sống mình, và giải cứu anh em ra khỏi tay của người Ma-đi-an —
|
||
\v 18 nhưng ngày nay anh em đã dấy lên chống nghịch nhà cha ta và đã giết các con trai của người, bảy mươi người, trên một hòn đá. Và anh em đã lập A-bi-mê-léc, con trai của tôi tớ gái của người, làm vua trên cấp lãnh đạo của Si-chem, vì người là bà con của anh em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Nếu anh em đã hành xử ngay thẳng, chân thành với Giê-ru Ba-anh cùng cả nhà người, thế thì anh em đáng phải vui mừng nơi A-bi-mê-léc, và nguyện người cũng vui mừng nơi anh em.
|
||
\v 20 Nhưng nếu không được như thế, nguyện lửa ra từ A-bi-mê-léc thiêu đốt người của Si-chem và nhà của Mi-lô. Nguyện lửa ra từ người của Si-chem và Bết Mi-lô, thiêu đốt A-bi-mê-léc."
|
||
\v 21 Giô-tham bỏ chạy trốn, rồi ông đến tại Bê-re. Ông đến sống ở đó vì nơi ấy rất xa đối với A-bi-mê-léc, anh người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 A-bi-mê-léc đã cai trị trên Y-sơ-ra-ên trong ba năm.
|
||
\v 23 Đức Chúa Trời sai một tà linh đến ở giữa A-bi-mê-léc cùng các cấp lãnh đạo Si-chem. Cấp lãnh đạo Si-chem đã phản bội lòng tin cậy mà họ đã có với A-bi-mê-léc.
|
||
\v 24 Đức Chúa Trời đã làm điều này, vì vậy bảy mươi con trai của Giê-ru Ba-anh đã được phục thù, và A-bi-mê-léc anh em của họ sẽ chịu trách nhiệm về việc giết chóc họ; và người Si-chem sẽ phải chịu trách nhiệm vì họ đã giúp người giết các anh em người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vậy cấp lãnh đạo Si-chem đặt người mai phục trên đỉnh núi để họ có thể chặn đánh người, và họ cướp lấy mọi người đi ngang qua đó dọc theo con đường. Điều nầy đã được tường trình cho A-bi-mê-léc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Ga-anh con trai của Ê-bết đã đến với những người bà con của họ và họ đi đánh Si-chem. Cấp lãnh đạo của Si-chem đã có lòng tin cậy nơi người.
|
||
\v 27 Họ vào trong đồng ruộng thu lấy nho từ các nhành nho, và họ đã giẫm đạp trên chúng. Họ tổ chức liên hoan tại nhà thần của họ, ở đó họ ăn uống, và họ rủa sã A-bi-mê-léc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Ga-anh con trai của Ê-bết nói: "Ai là A-bi-mê-léc, và ai là Si-chem, để chúng ta phục vụ người? Có phải hắn không là con của Giê-ru Ba-anh sao? Và Xê-bun há không phải là quan trưởng của hắn sao? Hãy phục vụ người Ha-mô, là cha của Si-chem! Sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ?
|
||
\v 29 Ta muốn rằng dân nầy ở dưới quyền chỉ huy của ta! Khi ấy ta sẽ dẹp bỏ A-bi-mê-léc. Ta sẽ nói với A-bi-mê-léc: 'Hãy triệu tập hết quân đội của người đi'"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Khi Xê-bun, quan trưởng của thành phố, đã nghe lời lẽ của Ga-anh con của Ê-bết cơn giận người bèn nhen lên.
|
||
\v 31 Người sai sứ đến cùng A-bi-mê-léc với ý đồ dối gạt, nói rằng: "Hãy xem, Ga-anh con của Ê-bết cùng bà con hắn đang đến tại Si-chem, rồi chúng đang khuấy động cả thành chống lại ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Bây giờ, hãy chỗi dậy trong ban đêm, ông cùng binh lính với ông, và sửa soạn mai phục ở ngoài đồng.
|
||
\v 33 Khi ấy lúc ban sáng, không bao lâu khi mặt trời mọc lên, hãy dậy sớm rồi mở chiến dịch đánh vào thành. Rồi khi hắn và binh lính với hắn xông ra chống lại ông, hãy làm bất cứ việc gì ông có thể làm đối với chúng".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Vậy, A-bi-mê-léc thức dậy trong đêm, ông cùng hết thảy binh lính có mặt với ông, và họ đi mai phục chống lại Si-chem — chia thành bốn đội.
|
||
\v 35 Ga-anh con của Ê-bết đi ra đứng nơi lối vào tại cổng thành. A-bi-mê-léc cùng binh lính ở với ông bước ra khổi chỗ ẩn mình của họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Khi Ga-anh nhìn thấy họ, người nói với Xê-bun: "Hãy xem, binh lính đang xuống từ trên núi!" Xê-bun nói với người: "Ông đã nhìn thấy mấy cái bóng trên núi y như chúng là người ta vậy".
|
||
\v 37 Ga-anh nói lại như sau: "Hãy nhìn kìa, có nhiều người đang đi xuống ở giữa xứ, và mỗi đội đang xuống theo đường cây sồi của những thuật sĩ."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Khi ấy, Xê-bun nói với người như sau: "Bây giờ, lời lẽ tự hào của ông ở đâu, ông là người đã nói: 'Ai là A-bi-mê-léc để phục vụ hắn?' Đây chẳng phải là người mà ông khi dể sao? Bây giờ, hãy đi ra mà chiến đấu chống lại họ đi".
|
||
\v 39 Ga-anh đi ra và ông lãnh đạo người Si-chem, rồi ông đánh A-bi-mê-léc.
|
||
\v 40 A-bi-mê-léc truy kích ông, và Ga-anh chạy trốn trước mặt người. Và nhiều người ngã chết do bị thương trước lối vào của cổng thành.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 41 A-bi-mê-léc ngụ lại trong A-ru-ma. Xê-bun đã buộc Ga-anh cùng bà con của hắn phải ra khỏi thành Si-chem.
|
||
\v 42 Qua hôm sau, dân sự Si-chem đi ra ngoài đồng, và người ta cho A-bi-mê-léc hay việc nầy.
|
||
\v 43 Ông đem theo người của mình, chia họ ra thành ba đội, và họ mai phục ở ngoài đồng. Ông quan sát và nhìn thấy dân sự vừa ra khỏi thành phố. Ông đã tấn công họ rồi giết họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 44 A-bi-mê-léc cùng các đội binh ở với ông đã tấn công và khóa ngay lối vào thành. Hai đội kia tấn công những kẻ ở ngoài đồng rồi giết họ.
|
||
\v 45 A-bi-mê-léc đánh trận chống lại thành phố suốt ngày ấy. Ông chiếm lấy thành, rồi giết người nào có mặt ở trong đó. Ông đánh phá các bức tường thành và rải muối trên đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 46 Khi các cấp lãnh đạo của tháp Si-chem hay được việc ấy, họ bước vào đồn lũy của nhà En Bê-rít.
|
||
\v 47 Người ta cho A-bi-mê-léc hay rằng cấp lãnh đạo đã tập trung lại nơi tháp Si-chem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 48 A-bi-mê-léc đi lên Núi Sanh-môn, ông cùng hết thảy người theo mình. A-bi-mê-léc lấy một cây búa rồi chặt nhiều nhánh cây. Ông vác nó lên vai rồi truyền cho những người đi với ông: "Anh em đã thấy điều ta làm, hãy mau làm y như ta đã làm".
|
||
\v 49 Vậy, mỗi người đều đốn hạ nhiều nhánh cây rồi đi theo A-bi-mê-léc. Họ chất chúng trên mặt hầm, rồi châm lửa đốt ở trên, hầu cho hết thảy người trong tháp Si-chem cũng ngã chết, khoảng một ngàn người nam người nữ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 50 Khi ấy, A-bi-mê-léc đi đến Thê-bết, rồi đóng trại đối ngang Thê-bết rồi chiếm lấy nó.
|
||
\v 51 Nhưng có cái tháp rất kiên cố trong thành, và mọi người nam người nữ cùng các cấp lãnh đạo của thành đều trốn trong đó rồi đóng cửa chặt lại. Khi ấy họ đi lên đỉnh tháp.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 52 A-bi-mê-léc đến tại tháp đó rồi phong tỏa nó, và ông đến gần tới cửa tháp và thiêu đốt nó.
|
||
\v 53 Nhưng một người nữ ném cái thớt xuống đầu của A-bi-mê-léc làm bể sọ người.
|
||
\v 54 Khi ấy ông mau gọi một thanh niên, là kẻ cầm binh khí cho người, rồi nói với hắn: "Hãy rút gươm ngươi ta mà giết ta đi, để không ai sẽ nói về ta: 'một phụ nữ đã giết ta chết'". Vậy, người lính trẻ kia đã đâm ông, và ông ngã chết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 55 Khi người Y-sơ-ra-ên thấy A-bi-mê-léc đã chết, họ bèn trở về nhà.
|
||
\v 56 Như vậy, Đức Chúa Trời đã báo ứng điều ác của A-bi-mê-léc đã làm cho cha mình bằng cách giết bảy mươi anh em của người.
|
||
\v 57 Đức Chúa Trời đã khiến cho mọi sự ác của người Si-chem xây trở lại trên đầu của chính họ và giáng trả trên họ sự rủa sả của Giô-tham con trai Giê-ru Ba-anh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 10
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau A-bi-mê-léc, Thô-la con của Phu-a cháu Đô-đô, một người ra từ Y-sa-ca sống ở Sa-mia, trong vùng núi đồi núi Ép-ra-im, dấy lên giải cứu Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 2 Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên hai mươi ba năm. Ông qua đời, được chôn ở Sa-mia.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Theo sau ông là Giai-rơ người Ga-la-át. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm.
|
||
\v 4 Ông có ba mươi con trai, chúng cởi ba mươi con lừa, và chúng có ba mươi thành, được gọi là Ha-vốc Giai-rơ cho đến ngày nay, hết thảy đều ở trong xứ Ga-la-át.
|
||
\v 5 Giai-rơ qua đời và được chôn ở Kha-môn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Dân Y-sơ-ra-ên đã thêm điều ác họ đã làm trước mặt Đức Giê-hô-va và đã thờ lạy Ba-anh, Át-tạt-tê, các thần của A-ram, các thần của Si-đôn, các thần của Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ từ bỏ Đức Giê-hô-va và không còn thờ lạy Ngài nữa.
|
||
\v 7 Đức Giê-hô-va nổi phừng cơn giận của Ngài đối cùng Y-sơ-ra-ên, và Ngài phó họ cho dân Phi-li-tin và cho dân Am-môn, để chinh phục họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Chúng chà nát và lấn lướt dân Y-sơ-ra-ên trong năm đó, và trong mười tám năm chúng đã áp bức hết thảy người Y-sơ-ra-ên nào sống ở bên kia sông Giô-đanh trong xứ của dân A-mô-rít, nằm trong Ga-la-át.
|
||
\v 9 Và dân Am-môn đã băng qua sông Giô-đanh giao chiến với dân Giu-đa, chống lại Bên-gia-min, và chống lại nhà Ép-ra-im, thế là dân Y-sơ-ra-ên bị áp bức rất nặng nề.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Khi ấy, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va mà rằng: "Chúng con đã phạm tội cùng Ngài, vì chúng con đã từ bỏ Đức Chúa Trời và thờ lạy Ba-anh"
|
||
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng dân Y-sơ-ra-ên: có phải ta không giải cứu các con khỏi người Ai-cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, dân Phi-li-tin,
|
||
\v 12 và cũng khỏi dân Si-đôn sao? Dân A-ma-léc và dân Ma-ôn hà hiếp các con; các con kêu cầu ta, và ta đã giải cứu các con ra khỏi quyền lực của chúng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Tuy nhiên, các con đã từ bỏ ta một lần nữa và đã thờ lạy các thần khác. Vì lẽ đó, ta sẽ không giải cứu các con nữa.
|
||
\v 14 Hãy đi mà kêu cầu những thần mà các con đã thờ lạy. Nguyện chúng giải cứu các con khi các con gặp hoạn nạn".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Dân Y-sơ-ra-ên thưa cùng Đức Giê-hô-va: "Chúng con đã phạm tội. Hãy làm cho chúng con bất cứ điều gì dường như là tốt lành đối với Ngài. Chỉ hãy làm ơn, giải cứu chúng con ngày nay".
|
||
\v 16 Họ xây khỏi các thần ngoại bang mà họ đã có, và họ thờ lạy Đức Giê-hô-va. Và Ngài đã nhịn nhục trước sự thống khổ của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Khi ấy dân Am-môn tập trung lại và đóng trại tại Ga-la-át. Dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại rồi dựng trại của họ tại Mích-ba.
|
||
\v 18 Các cấp lãnh đạo dân sự ở Ga-la-át nói với nhau: "Ai là người khởi sự ra đánh dân Am-môn đây? Người ấy sẽ trở thành lãnh tụ trên hết thảy những ai đang sinh sống trong xứ Ga-la-át".
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 11
|
||
\p
|
||
\v 1 Bấy giờ Giép-thê người Ga-la-át là một chiến binh mạnh sức, nhưng ông là con trai của một cô gái điếm. Ga-la-át là cha của ông.
|
||
\v 2 Vợ của Ga-la-át cũng sanh cho ông nhiều con trai khác nữa. Khi các con trai ông lớn lên, họ đã buộc Giép-thê phải rời khỏi nhà, họ nói cùng ông như sau: "Mầy sẽ chẳng hưởng gì từ gia đình chúng ta. Mầy là con của người đàn bà khác".
|
||
\v 3 Vì vậy Giép-thê trốn khỏi anh em mình rồi sống trong đất của Tóp. Những kẻ phi luật pháp hiệp cùng Giép-thê, họ đến và cùng đi với ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Sau đó ít ngày, dân Am-môn mở chiến tranh chống lại Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 5 Khi dân Am-môn lâm chiến chống lại Y-sơ-ra-ên, các trưởng lão của Ga-la-át đến đem Giép-thê về từ đất của Tóp.
|
||
\v 6 Họ nói với Giép-thê: "Hãy đến và làm lãnh tụ của chúng ta, để chúng ta có thể đánh trận với dân Am-môn".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Giép-thê nói với các cấp lãnh đạo của Ga-la-át như sau: "Mấy người thù ghét tôi và buộc tôi phải rời khỏi nhà cha tôi. Sao bây giờ mấy người lại đến với tôi khi mấy người đang lâm vào hoạn nạn chứ?"
|
||
\v 8 Các trưởng lão của Ga-la-át nói với Giép-thê: "Đấy là lý do tại sao chúng ta hướng về người đây; hãy đến với chúng tôi và đánh nhau với dân Am-môn, thì người sẽ trở thành lãnh tụ trên hết thảy những ai sống trong xứ Ga-la-át".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Giép-thê nói với các trưởng lão xứ Ga-la-át: "Nếu mấy người đưa tôi về nhà lại để đánh trận nghịch cùng dân Am-môn, và nếu Đức Giê-hô-va ban cho chúng ta thắng hơn họ, tôi sẽ trở thành lãnh đạo của mấy người".
|
||
\v 10 Các trưởng lão xứ Ga-la-át nói với Giép-thê: "Nguyện Đức Giê-hô-va làm chứng giữa chúng ta nếu chúng ta không làm theo như chúng ta nói!"
|
||
\v 11 Vì vậy, Giép-thê đi với các trưởng lão xứ Ga-la-át, rồi dân sự lập ông làm lãnh tụ và quan tướng chỉ huy họ. Khi ông đến trước mặt Đức Giê-hô-va ở Mích-ba, Giép-thê lặp lại mọi lời hứa mà ông đã đưa ra.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Khi ấy Giép-thê sai sứ giả đến vua của dân Am-môn, nói rằng: "Cuộc xung đột nầy giữa chúng ta là gì chứ? Tại sao ông lại đến với sức mạnh đặng chiếm lấy xứ của chúng tôi sao?"
|
||
\v 13 Vua của dân Am-môn trả lời cho các sứ giả của Giép-thê: "Vì khi Y-sơ-ra-ên lên khỏi xứ Ai-cập, họ đã chiếm lất đất của ta từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, qua sông Giô-đanh. Giờ đây, hãy trả lại các phần đất ấy trong sự hòa bình".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Một lần nữa Giép-thê sai sứ giả đến gặp vua dân Am-môn,
|
||
\v 15 người nói: "Đây là những gì Giép-thê nói: Y-sơ-ra-ên không chiếm lấy đất của Mô-áp và đất của dân Am-môn,
|
||
\v 16 song khi họ ra khỏi Ai-cập, và dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua đồng vắng đến Biển Sậy rồi tới tại Ca-đe.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Y-sơ-ra-ên sai sứ đến gặp vua Ê-đôm, nói rằng: 'Làm ơn cho chúng tôi đi ngang qua đất của mấy ông', nhưng vua Ê-đôm không chịu nghe. Họ cũng sai sứ đến gặp vua dân Mô-áp, nhưng người đã từ chối. Vì vậy Y-sơ-ra-ên đã trụ lại tại Ca-đe.
|
||
\v 18 Khi ấy họ đi ngang qua đồng vắng rồi quay khỏi đất của Ê-đôm và đất của Mô-áp, và họ đi dọc sườn phía Đông xứ của Mô-áp rồi họ đóng trại ở sườn bên kia của Ạt-nôn. Nhưng họ không đi vào lãnh thổ của Mô-áp, vì Ạt-nôn là biên giới của Mô-áp.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Y-sơ-ra-ên sai sứ đến Si-hôn, vua của dân A-mô-rít, ông ta cai trị trong Hết-bôn; Y-sơ-ra-ên nói với ông ta: 'Làm ơn, cho phép chúng tôi đi ngang qua đất của ông đến chỗ thuộc về chúng tôi'.
|
||
\v 20 Nhưng Si-hôn không tin dân Y-sơ-ra-ên chỉ đi ngang qua lãnh thổ của mình. Vì vậy Si-hôn tập trung quân đội của mình lại rồi dời chúng đến Gia-hát, rồi ở đó ông ta giao chiến với Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban cho Y-sơ-ra-ên thắng hơn Si-hôn và phó hết thảy dân sự người ở dưới quyền kiểm soát của họ. Vì vậy Y-sơ-ra-ên chiếm hết phần đất của dân A-mô-rít, họ đã sống trong xứ ấy.
|
||
\v 22 Họ chiếm hết mọi thứ trong lãnh thổ của dân A-mô-rít, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc, và từ đồng vắng cho đến sông Giô-đanh.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Thế là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đuổi dân A-mô-rít trước mặt Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài, và giờ đây ông chiếm lấy cơ nghiệp đất đai của họ sao?
|
||
\v 24 Có phải ông không chiếm được xứ mà Kê-mốt, thần của ông, ban cho ông chăng? Vì vậy, bất cứ phần đất nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta đã ban cho chúng ta, chúng ta sẽ chiếm lấy.
|
||
\v 25 Giờ đây có phải ông thực sự tốt hơn Ba-lác con trai của Xếp-bô, vua xứ Mô-áp chăng? Có phải hắn dám tranh luận gì với Y-sơ-ra-ên chăng? Có phải hắn dám tranh chiến nghịch cùng họ không?
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Trong khi Y-sơ-ra-ên đã sống trong ba trăm năm ở Hết-bôn cùng các làng mạc nó, và trong A-rô-e cùng các làng mạc nó, và trong tất cả các thành dọc theo hai bên bờ sông Ạt-nôn — tại sao ông không chiếm nó lại trong thời điểm ấy?
|
||
\v 27 Tôi chẳng có làm gì quấy đối với ông, nhưng ông đang làm quấy đối với tôi bằng cách tấn công tôi. Đức Giê-hô-va, là quan án, sẽ quyết định hôm nay giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân Am-môn".
|
||
\v 28 Nhưng vua dân Am-môn từ chối lời cảnh cáo mà Giép-thê gửi đến cho ông ta.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Thế rồi Thánh Linh của Đức Giê-hô-va ngự trên Giép-thê, và ông trải qua Ga-la-át và Ma-na-se, rồi qua Mích-ba thuộc Ga-la-át, và từ Mích-ba xứ Ga-la-át ông đi đánh dân Am-môn.
|
||
\v 30 Giép-thê lập một lời thề với Đức Giê-hô-va, ông nói: "Nếu Ngài ban cho con thắng hơn dân Am-môn,
|
||
\v 31 thế thì bất kỳ thứ gì ra khỏi cửa nhà con để đón con khi con trở về bình yên đối với dân Am-môn sẽ thuộc về Đức Giê-hô-va, và con sẽ dâng thứ đó lên làm của lễ thiêu".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Vậy Giép-thê trải qua dân Am-môn đánh trận nghịch cùng họ, và Đức Giê-hô-va đã ban cho ông chiến thắng.
|
||
\v 33 Ông đã tấn công họ và tạo ra một cuộc giết chóc rất lớn từ A-rô-e cho đến tận Mi-nít — hai mươi thành — và đến A-bên Kê-ra-mim. Vì vậy dân Am-môn bị đặt dưới quyền quản chế của dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Giép-thê về đến nhà mình tại Mích-ba, và ở đó con gái ông đi ra đón ông với trống nhỏ và nhảy múa. Nó chỉ là một đứa trẻ, và ngoài nó ra ông chẳng có con trai hay con gái nào nữa hết.
|
||
\v 35 Khi ông nhìn thấy nó, ông xé quần áo mình rồi nói: "Ôi! Con gái của ta ơi! Con đã làm cho lòng ta phải buồn rầu tan nát, và con đã trở thành kẻ khiến ta phải đau khổ! Vì ta đã lập lời thề với Đức Giê-hô-va, và ta không thể xây lưng lại với lời hứa của mình".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Nó nói với ông: "Cha ơi, cha đã lập một lời thề với Đức Giê-hô-va, hãy làm cho con mọi sự mà cha đã hứa đi, vì Đức Giê-hô-va đã báo thù cho cha chống lại dân Am-môn, là kẻ thù của cha".
|
||
\v 37 Nó nói với cha nó: "Nguyện lời hứa này phải được giữ vì con. Xin để con ở một mình trong hai tháng, để con rời đi và xuống núi than khóc cho sự đồng trinh của con, con và các bạn của con"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 38 Ông nói: "Hãy đi đi". Ông để cho nó đi trong hai tháng. Nó rời khỏi ông, nó cùng đồng bạn, và chúng than khóc sự đồng trinh của mình trong vùng đồi núi.
|
||
\v 39 Khi đến cuối hai tháng, nó trở lại cùng cha mình, ông đã làm với nó theo lời thề hứa mà ông đã lập. Giờ đây, nó chưa hề ngủ với một người nam nào, và điều đó trở thành thông tục trong Y-sơ-ra-ên
|
||
\v 40 rằng con gái của dân Y-sơ-ra-ên mỗi năm, trong bốn ngày, sẽ thuật lại câu chuyện nói tới con gái của Giép-thê người xứ Ga-la-át.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 12
|
||
\p
|
||
\v 1 Một lời kêu gọi đi ra cho người Ép-ra-im; họ đi ngang qua Xa-phôn và nói với Giép-thê: "Tại sao ông ra trận chống lại dân Am-môn mà không gọi chúng tôi cùng đi với ông? Chúng tôi sẽ thiêu đốt nhà ông trước mặt ông".
|
||
\v 2 Giép-thê nói với họ: "Ta và nhà ta đã ở trong cuộc xung đột lớn với dân Am-môn. Khi ta gọi anh em, anh em đã không giải cứu ta khỏi họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Khi ta thấy anh em không giải cứu ta, ta phó mạng sống ta vào chính sức lực của ta và đi ra đánh với dân Am-môn, và Đức Giê-hô-va đã ban cho ta chiến thắng. Tại sao ngày nay anh em lại nghịch cùng ta chứ?"
|
||
\v 4 Giép-thê tập trung hết thảy người nam xứ Ga-la-át và ông đánh lại người Ép-ra-im. Người xứ Ga-la-át đã tấn công người Ép-ra-im vì họ nói: "Mấy người Ga-la-át là hạng trốn tránh trong xứ Ép-ra-im — giữa Ép-ra-im và Ma-na-se".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Người Ga-la-át chiếm lấy các đồn lũy bên sông Giô-đanh dẫn đến Ép-ra-im. Khi những kẻ sống sót của Ép-ra-im nói: "Cho phép tôi qua sông", người Ga-la-át sẽ nói với người ấy: "Có phải mầy là người Ép-ra-im?" Nếu người ấy nói: "không",
|
||
\v 6 thế thì họ sẽ nói cùng người: "Hãy nói: Si-bê-lết". Và nếu người ấy nói: "Si-bô-lết" (vì người không thể phát âm chính xác chữ ấy cho được), người Ga-la-át sẽ bắt lấy người rồi giết đi tại đồn lũy của Giô-đanh. Bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã bị giết lúc bấy giờ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Giép-thê phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên trong sáu năm. Khi ấy Giép-thê người Ga-la-át qua đời và được chôn cất ở một trong các thành của Ga-la-át.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Sau ông, Iếp-san của Bết-lê-hem phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 9 Ông có ba mươi con trai. Ông đã gả đi ba mươi người con gái cho người ngoài, rồi ông đem ba mươi con gái của người khác gả cho các con trai mình. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong bảy năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Iếp-san qua đời và được chôn cất tại thành Bết-lê-hem.
|
||
\v 11 Sau ông, Ê-lôn người Sa-bu-lôn đã phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên. Ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong mười năm.
|
||
\v 12 Ê-lôn người Sa-bu-lôn qua đời và được chôn cất ở A-gia-lôn, trong đất của Sa-bu-lôn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Sau ông, Áp-đôn con của Hi-lên người Phi-ra-thôn đã phục vụ trong vai trò quan xét trên Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai. Chúng cỡi trên bảy mươi con lừa, và ông xét đoán Y-sơ-ra-ên trong tám năm.
|
||
\v 15 Áp-đôn con của Hi-lên người Phi-ra-thôn qua đời và được chôn cất ở Phi-ra-thôn trong đất của Ép-ra-im, trong vùng đồi núi của dân A-ma-léc.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 13
|
||
\p
|
||
\v 1 Dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa đã làm điều gian ác ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và Ngài cho phép dân Phi-li-tin cai trị trên họ trong bốn mươi năm.
|
||
\v 2 Có một người xuất thân từ Xô-rê-a, trong gia đình của người Đan, tên của người Ma-nô-a. Vợ người son sẻ vì thế nàng không thể có con được.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va hiện ra với người nữ ấy rồi phán cùng nàng: "Giờ đây, hãy xem, người vốn son sẻ, không thể có con được, nhưng người sẽ có thai và người sẽ sanh một con trai.
|
||
\v 4 Bây giờ, hãy cẩn thận được uống rượu hay thức uống làm say sưa, và đừng ăn bất kỳ thứ gì mà luật pháp tuyên bố là không sạch.
|
||
\v 5 Hãy nhìn đây, người sẽ có thai và sanh một con trai. Không một dao cạo nào đưa qua đầu nó, vì đứa con ấy sẽ là người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ lúc con còn ở trong tử cung của người. Nó sẽ khởi sự giải phóng dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi quyền lực của dân Phi-li-tin."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Khi ấy, người nữ ấy đến nói chồng mình biết: "Người của Đức Chúa Trời đã đến gặp tôi, và dáng dấp của Ngài giống như dáng dấp của một thiên sứ của Đức Chúa Trời, và Ngài làm cho tôi rất đỗi kinh sợ. Tôi không dám hỏi Ngài đến từ đâu, và Ngài không nói cho tôi biết danh của Ngài.
|
||
\v 7 Ngài phán với tôi: 'Hãy xem đây! Người sẽ chịu thai, và người sẽ sanh một con trai. Vì vậy, đừng uống rượu thay thứ chi uống say, và đừng ăn thức ăn nào mà luật pháp tuyên bố là không sạch, vì đứa trẻ sẽ là một người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời và từ khi nó còn ở trong tử cung của ngươi cho tới ngày nó qua đời.'"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi ấy Ma-nô-a cầu nguyện với Đức Chúa Trời mà rằng: "Ôi lạy Chúa, con xin Ngài khiến cho Người mà Đức Chúa Trời sai đến dạy dỗ để chúng con biết mọi điều phải làm cho đứa trẻ không sắp ra đời này".
|
||
\v 9 Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của Ma-nô-a, và thiên sứ của Đức Chúa Trời lại đến với người nữ khi người đang ngồi ở ngoài đồng. Nhưng Ma-nô-a chồng người không có ở đó với người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Vì vậy người nữ mau chạy về nói với chồng mình: "Hãy xem kìa! Người lại hiện ra cùng với tôi — là Người đã đến gặp tôi ngày trước!"
|
||
\v 11 Ma-nô-a chỗi dậy rồi theo chơn vợ mình. Khi ông gặp Người, ông nói: "Có phải Người là Đấng phán cùng vợ tôi chăng?" Người đáp: "Ta đây".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Vì vậy, Ma-nô-a nói: "Giờ đây, lời của Ngài đã thành ra sự thực. Nhưng có luật lệ nào dành cho đứa trẻ, và đâu sẽ là công việc của nó?"
|
||
\v 13 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng Ma-nô-a: "Vợ người phải cẩn thận làm theo mọi sự mà ta đã căn dặn.
|
||
\v 14 Vợ người sẽ không ăn bất cứ thứ chi ra từ cây nho, và chớ để cho người dùng rượu hay thứ chi uống say; đừng để cho người ăn bất cứ thức ăn nào mà luật pháp tuyên bố là không sạch. Người sẽ vâng theo mọi sự mà ta đã truyền cho người phải làm theo".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Ma-nô-a thưa cùng thiên sứ của Đức Giê-hô-va: "Làm ơn ở lại một chút, xin cho chúng tôi có thì giờ sửa soạn một con dê con cho Ngài".
|
||
\v 16 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán với Ma-nô-a: "Cho dù ta ở lại, ta sẽ không ăn đồ ăn của người làm đâu. Song nếu người dọn một của lễ thiêu, dâng của lễ ấy lên cho Đức Giê-hô-va." (Ma-nô-a không biết rằng Người là thiên sứ của Đức Giê-hô-va).
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Ma-nô-a thưa cùng thiên sứ của Đức Giê-hô-va: "Tên của Ngài là gì, để chúng tôi tôn vinh Ngài khi lời của Ngài thành ra sự thực?"
|
||
\v 18 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng ông: "Sao người hỏi tên ta? Tên Ta thật là diệu kỳ!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Vì vậy, Ma-nô-a bắt con dê con với của lễ chay rồi dâng chúng lên cho Đức Giêhôva trên một hòn đá. Ngài đã làm một việc lạ lùng đang khi Ma-nô-a cùng vợ người đang đứng xem.
|
||
\v 20 Khi ngọn lửa bay lên từ bàn thờ hướng lên trời, thiên sứ của Đức Giê-hô-va bay lên trong ngọn lửa của bàn thờ. Ma-nô-a cùng vợ người đã nhìn thấy điều nầy và nằm sấp mặt xuống đất.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va không hiện ra lại với Ma-nô-a hay với vợ người. Khi ấy Ma-nô-a mới biết rõ rằng Ngài là thiên sứ của Đức Giê-hô-va.
|
||
\v 22 Ma-nô-a nói với vợ mình: "Chúng ta chết chắc rồi, vì chúng ta đã nhìn thấy Đức Chúa Trời!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Nhưng vợ người nói lại rằng: "Nếu Đức Giê-hô-va muốn giết chúng ta, Ngài sẽ chẳng nhậm của lễ thiêu và của lễ chay mà chúng ta đã dâng lên Ngài. Ngài sẽ chẳng tỏ ra cho chúng ta mọi sự nầy, lần nầy Ngài khiến cho chúng ta phải nghe thấy mọi sự đó".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Sau đó vợ Ma-nô-a đã sanh một trai, và đã đặt tên cho nó là Samsôn. Con trẻ lớn lên và Đức Giê-hô-va đã chúc phước cho người.
|
||
\v 25 Thánh Linh của Đức Giê-hô-va khởi sự khuấy động người ở Ma-ha-ne Đan, giữa Xô-rê-a và Ê-ta-ôn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 14
|
||
\p
|
||
\v 1 Sam-sôn đi xuống Thim-na, rồi ở đó ông nhìn thấy một người nữ, một trong những con gái của người Phi-li-tin.
|
||
\v 2 Khi ông trở về, ông thưa cùng cha mẹ mình: "Con đã nhìn thấy một người nữ ở Thim-na, một trong các con gái của người Phi-li-tin. Giờ đây, hãy cưới nàng cho con làm vợ".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Nhưng cha mẹ người nói: "Bộ không có người nữ giữa vòng các con gái của người thân của con, hoặc giữa vòng dân sự của chúng ta sao? Có phải con cưới vợ từ người Phi-li-tin không chịu cắt bì kia ư?" Sam-sôn nói với cha mình: "Hãy cưới nàng cho con, vì khi thấy nàng, nàng đẹp lòng con".
|
||
\v 4 Nhưng cha mẹ người không biết vụ việc nầy đã đến từ Đức Giê-hô-va, vì Ngài muốn tạo ra một sự xung đột với người Phi-li-tin (vì lúc bấy giờ người Phi-li-tin đang cai trị dân Y-sơ-ra-ên).
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi ấy Sam-sôn đi xuống Thim-na với cha mẹ mình, và họ đã đến vườn nho của Thim-na. Và có một con sư tử tơ đến tại đó và thấy ông thì nó gầm gừ lên.
|
||
\v 6 Thần của Đức Giê-hô-va thình lình giáng trên ông, và ông xé con sư tử một cách dễ dàng như ông xé một dê con vậy, và ông chẳng có cầm vật gì trong tay. Nhưng ông không nói cho cha mẹ mình biết ông vừa mới làm gì.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Ông đến và nói với người nữ, và khi ông nhìn thẳng vào nàng, nàng đẹp lòng với Sam-sôn.
|
||
\v 8 Một vài ngày sau đó, khi ông trở lại để cưới nàng, ông đi vòng lại kiếm thây của con sư tử. Và có một bầy ong mật trong những gì còn lại nơi thây con sư tử.
|
||
\v 9 Ông bụm mật trong tay và tiếp tục đi, vừa đi vừa ăn. Khi ông đến gặp cha mẹ mình, ông trao một ít cho họ, và họ đã ăn. Nhưng ông không nói cho họ biết ông đã lấy mật từ trong phần thây còn lại của con sư tử.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Cha của Sam-sôn đi xuống nơi người nữ ở, và Sam-sôn đãi tiệc ở đó, vì đây là thông lệ của những người tuổi trẻ.
|
||
\v 11 Không lâu sau đó, bà con của nàng gặp ông, họ đem đến cho ông ba mươi người bạn của họ để ở với ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Sam-sôn nói với chúng: "Giờ đây, tôi muốn ra một câu đố với anh em. Nếu một ngày kia anh em có thể tìm ra và nói cho tôi biết câu trả lời trong bảy ngày tiệc, tôi sẽ trao cho anh em ba mươi cái áo và ba mươi bộ y phục.
|
||
\v 13 Nhưng nếu anh em không thể cho tôi biết câu trả lời, khi ấy anh em sẽ trao cho tôi ba mươi cái áo trong và ba mươi bộ y phục". Chúng nói với ông: "Hãy cho chúng ta biết câu đố của anh, để chúng tôi có thể nghe câu đố đó".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Ông nói với chúng: "Từ vật ăn ra thứ để ăn; từ thứ mạnh mẽ ra thứ ngọt ngào". Nhưng các thực khách của ông không thể tìm được câu trả lời trong ba ngày.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Đến ngày thứ tư, họ nói với vợ của Sam-sôn: "Hãy gạt chồng nàng, hầu cho hắn nói cho chúng ta biết câu trả lời cho câu đố, hoặc chúng ta sẽ thiêu nàng và nhà cha nàng. Có phải nàng mời chúng ta đến đây để làm cho chúng ta ra nghèo chăng?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Vợ của Sam-sôn khởi sự bật khóc ở trước mặt ông; nàng nói: "Mọi chuyện anh làm là ghét bỏ em! Anh không yêu em. Anh đã ra một câu đó cho một số người trong dân sự của em, nhưng anh không cho em biết câu trả lời". Sam-sôn nói cùng nàng: "Hãy xem kìa, nếu ta không nói cho cha mẹ ruột biết, ta lại nói cho nàng biết hay sao?"
|
||
\v 17 Nàng gào lên trong suốt ngày thứ bảy, khi bữa tiệc của họ kết thúc. Nhằm ngày thứ bảy, ông nói cho nàng biết câu trả lời vì nàng gây nhiều áp lực với ông. Nàng tỏ giải đáp ra cho mấy người bà con trong dân sự của nàng biết.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Và người của thành ấy đáp cùng ông, vào ngày thứ bảy trước khi mặt trời lặn: "Cái gì ngọt hơn mật? Cái gì mạnh hơn sư tử?" Sam-sôn nói với chúng: "Nếu mấy người đã không cày với bò cái tơ của ta, mấy người đã không tìm được câu trả lời cho cấu đố của ta".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Khi ấy Thần của Đức Giê-hô-va thình lình giáng trên Sam-sôn với sức lực. Sam-sôn đi xuống Ách-ca-lôn, giết ba người giữa vòng dân sự ấy. Ông lấy áo xống của họ, rồi ông trao những bộ y phục cho những kẻ đã giải được câu đố của ông. Ông nổi diên lên và trở về nhà cha mình.
|
||
\v 20 Còn vợ ông đã được gả cho người bạn thân nhất của ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 15
|
||
\p
|
||
\v 1 Sau ít lâu, vào thời điểm gặt lúa, Sam-sôn đem theo dê con rồi đến thăm vợ mình. Ông nhũ lòng: "Ta sẽ đến tại phòng của vợ ta". Nhưng cha nàng không cho phép ông bước vào.
|
||
\v 2 Cha nàng nói: "Ta thực sự nghĩ con ghét bỏ nó, vì vậy ta đã gả nó cho bạn con. Em gái nó còn xinh đẹp hơn nó nữa, có phải không? Hãy lấy nó mà làm vợ đi".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 ". Sam-sôn nói với họ: "Lần nầy ta sẽ là vô tội một khi ta gây hại cho người Phi-li-tin".
|
||
\v 4 Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó rừng, ông cột chúng lại với nhau thành từng cặp, đuôi con nầy cột với đuôi con kia. Khi ấy ông lấy những ngọn đuốc rồi cột chúng vào giữa từng cặp đuôi ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Khi ông đốt đuốc lên, ông để cho bầy chó rừng chạy vào đồng lúa của người Phi-li-tin, và chúng đốt lúa đã gặt bó lại và lúa còn đứng ngoài đồng, cùng với các vườn nho và vườn ô-li-ve.
|
||
\v 6 Người Phi-li-tin hỏi: "Ai làm việc nầy?" Họ nói: "Sam-sôn, con rễ của Thim-na, đã làm điều nầy, vì người Thim-na đã bắt vợ của Sam-sôn gả cho bạn của người". Khi ấy người Phi-li-tin đến thiêu đốt nàng và cha nàng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Sam-sôn nói với họ: "Nếu đây là điều mấy người làm, ta sẽ báo thù nghịch cùng mấy người, rồi sau khi báo thù xong, ta sẽ dừng lại".
|
||
\v 8 Khi ấy ông cắt chúng ra thành nhiều mảnh, với một cuộc tàn sát rất lớn. Thế rồi ông đi xuống và sống trong hang động ở sườn núi Ê-tam.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Khi ấy người Phi-li-tin kéo đến và họ chuẩn bị đánh nhau trong xứ Giu-đa và sắp sẵn quân đội ở Lê-chi.
|
||
\v 10 Người Giu-đa nói: "Tại sao mấy người kéo đến tấn công chúng ta chứ?" Họ đáp: "Chúng tôi tấn công để chúng tôi bắt cho kỳ được Sam-sôn, vì vậy chúng tôi sẽ làm cho hắn giống như hắn đã làm cho chúng tôi vậy".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Thế rồi ba ngàn người Giu-đa đi xuống hang đá ở sườn núi Ê-tam, và họ nói với Sam-sôn: "Có phải người không biết dân Phi-li-tin là những kẻ cai trị trên chúng ta sao? Người đã làm gì cho chúng ta vậy?" Sam-sôn nói với họ: "Họ đã đối xử với tôi như thế, và tôi đã làm thế với họ".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Họ nói với Sam-sôn: "Chúng ta đã đi xuống để trói người lại và giao cho quyền lực của người Phi-li-tin". Sam-sôn nói với họ: "Hãy thề với tôi rằng mấy người sẽ không giết ta".
|
||
\v 13 Họ nói với người: "Không, chúng ta sẽ trói người rồi giao người cho họ. Chúng ta hứa chúng ta sẽ không giết người đâu". Khi ấy họ trói người với hai sợi dây mới và đem người lên khỏi hang đá.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Khi người đến tại Lê-chi, người Phi-li-tin la lên khi họ gặp ông. Khi ấy Thần của Đức Giê-hô-va giáng trên ông với quyền phép. Hai sợi dây trói cánh tay ông giống như tim đèn tàn, chúng rớt xuống khỏi tay ông.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Sam-sôn thấy cái hàm lừa còn mới, và ông nhặt nó lên rồi dùng nó giết một ngàn người.
|
||
\v 16 Sam-sôn nói: "Với cái hàm lừa, thây chồng trên thây. Với cái hàm lừa, ta đã giết một ngàn người".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Khi Sam-sôn nói xong, ông quăng cái hàm lừa đi, và chỗ đó được gọi là Ra-mát Lê-chi.
|
||
\v 18 Sam-sôn rất khát nước, ông kêu cầu Đức Giê-hô-va và nói: "Ngài đã ban chiến thắng lớn lao nầy cho tôi tớ Ngài, nhưng giờ đây con sẽ chết vì khát, và con sẽ rơi vào tay của những kẻ không chịu cắt bì kia".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Và Đức Chúa Trời chẻ hòn đá bộng ở tại Lê-chi, thì nước trào ra. Khi ông uống xong, sức lực ông trở lại và ông được phục hồi. Vì vậy danh xưng của nơi ấy được gọi là En Ha-cô-rê, và nơi ấy ở tại Lê-chi cho đến ngày nay.
|
||
\v 20 Sam-sôn đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên trong những ngày dân Phi-li-tin quản hạt trong hai mươi năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 16
|
||
\p
|
||
\v 1 Sam-sôn đi đến Ga-xa rồi gặp một gái điếm ở đó, và ông lên giường với nàng ta.
|
||
\v 2 Dân Ga-xa hay được: "Sam-sôn đã đến đây". Dân Ga-xa vây quanh chỗ ấy rồi kín đáo chờ đợi ông suốt cả đêm tại cổng thành. Họ ở yên đấy suốt cả đêm. Họ đã nói: "Chúng ta hãy chờ suốt cả ngày, và rồi chúng ta hãy giết hắn".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Sam-sôn nằm trên giường cho đến nửa đêm. Đến nửa đêm ông trở dậy và nắm cái cổng thành và hai cây cột của nó. Ông nhổ chúng lên khỏi đất, cả then gài, vác chúng trên vai mình, đưa chúng lên đỉnh núi, ở phía trước Hếp-rôn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Sau việc nầy Sam-sôn lại yêu một người nữ sống trong đồng bằng Xô-réc. Tên nàng là Đa-li-la.
|
||
\v 5 Những người Phi-li-tin cầm quyền đến gặp nàng, và nói với nàng rằng: "Hãy dụ hắn để thấy sức lực lớn lao của hắn là ở chỗ nào, và làm sao chúng ta có thể thắng hơn hắn, hầu cho chúng ta có thể trói hắn để sỉ nhục hắn. Hãy làm việc nầy, và mỗi người chúng ta sẽ cho nàng 1. 100 miếng bạc".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Và thế là Đa-li-la nói với Sam-sôn: "Làm ơn đi, hãy nói cho em biết làm sao người có sức mạnh như thế, và làm sao người ta có thể trói người lại, để người ta khống chế người?"
|
||
\v 7 Sam-sôn nói với nàng ta: "Nếu họ cột ta với bảy sợi dây cung mới chưa bị khô, khi ấy ta trở nên yếu và giống như bao người khác".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Khi ấy những kẻ cầm quyền người Phi-li-tin đưa đến cho Đa-li-la bảy sợi dây cung tươi chưa bị khô, và nàng ta đã trói Sam-sôn lại với chúng.
|
||
\v 9 Bấy giờ nàng ta chứa nhiều người ở nơi kín đáo, ở phòng trong của nàng. Nàng ta nói với người: "Dân Phi-li-tin đang áp đến, Sam-sôn ơi!" Nhưng người bứt đứt những sợi dây cung như chỉ gai đụng đến lửa vậy. Và họ không biết được bí quyết sức mạnh của người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Khi ấy Đa-li-la nói với Sam-sôn: "Đây là cách người gạt gẫm em và nói dối với em. Làm ơn đi, hãy nói cho em biết làm sao thắng hơn người được".
|
||
\v 11 Người nói với nàng ta: "Nếu họ trói ta bằng những sợi dây mới chưa hề được sử dụng làm việc gì, ta sẽ trở nên yếu và giống như bao người khác".
|
||
\v 12 Vậy Đa-li-la lấy những sợi dây mới rồi dùng chúng trói người lại, rồi nói với người: "Dân Phi-li-tin áp đến kìa, hỡi Sam-sôn!" Những người kia nằm đợi ở phòng trong. Nhưng Sam-sôn bứt đứt các sợi dây khỏi hai cánh tay mình giống như chỉ có một sợi chỉ vậy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Đa-li-la nói với: "Mãi cho tới giờ nầy người đã gạt gẫm em và nói dối với em. Hãy nói cho em biết làm sao có thể thắng hơn người đi". Sam-sôn nói với nàng ta: "Nếu nàng cột bảy lọn tóc của ta vào trong canh chỉ của nàng, và rồi ta sẽ giống như bao người khác thôi".
|
||
\v 14 Trong khi người nằm ngủ, Đa-li-la cột bảy lọn tóc của người vào con sẻ, rồi nói cùng người: "Hỡi Sam-sôn, dân The Phi-li-tin đang áp sát gần người kìa!" Người tỉnh giấc rồi nhổ con sẻ của khung cửi ra luôn với canh chỉ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Nàng ta nói với người: "Sao người lại nói: 'Anh yêu em' cho được, khi người không nói cho em biết bí quyết ấy? Người đã chế giễu em ba bận và chưa nói cho em biết làm sao người lại có sức lực lớn lao thể ấy".
|
||
\v 16 Mỗi ngày nàng ta làm khó người với lời lẽ của mình, và nàng ta áp lực nhiều với người đến nỗi người muốn chết đi cho xong.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Vậy Sam-sôn nói cho nàng ta biết mọi sự như sau: "Ta không hề để cho dao cạo đưa qua đầu ta, vì ta là một người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời từ thuở còn trong lòng mẹ ta. Nếu đầu ta bị cạo, khi ấy sức lực sẽ rời khỏi ta, và ta sẽ trở nên yếu đi và giống như bao người khác".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Khi Đa-li-la thấy người đã nói cho nàng ta biết sự thực về mọi sự rồi, nàng ta mời gọi những người Phi-li-tin cầm quyền, nàng ta nói: "Hãy đến một lần nữa xem, vì người đã nói cho tôi biết mọi sự". Khi ấy những người Phi-li-tin cầm quyền đi đến cùng nàng, đem theo bạc trong tay họ.
|
||
\v 19 Nàng ta để cho người ngủ trong lòng mình. Nàng ta gọi một người đến cạo đi bảy lọn tóc trên đầu người, và nàng khởi sự bắt phục người, vì sức lực người đã rời đi.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Nàng ta nói: "Hỡi Sam-sôn, người Phi-li-tin đang áp đến người kìa!" Ông bực tỉnh giấc rồi nói: "Ta sẽ chỗi dậy như bao lần khác và làm cho mình ra thoải mái". Nhưng ông không biết rằng Đức Giê-hô-va đã lìa khỏi ông.
|
||
\v 21 Người Phi-li-tin bắt lấy ông rồi móc hai con mắt của ông đi. Họ đưa ông xuống Ga-xa rồi cột ông bằng những sợi xiềng bằng đồng. Ông phải xây cối trong nhà ngục.
|
||
\v 22 Nhưng tóc trên đầu ông khởi mọc lại sau khi nó đã bị cạo sạch.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Những người Phi-li-tin tụ tập lại để dâng của lễ cho Đa-gôn thần của họ, và để vui mừng. Vì họ nói: "Thần của ta đã bắt phục Sam-sôn, kẻ thù của chúng ta, rồi đặt hắn tầm tay của chúng ta".
|
||
\v 24 Khi ai nấy nhìn thấy người, họ ngợi khen thần của họ, vì họ nói: "Thần của chúng ta đã bắt phục kẻ thù của chúng ta rồi phó hắn cho chúng ta — kẻ hủy diệt xứ sở của chúng ta, hắn đã giết nhiều người trong chúng ta".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Khi họ ăn mừng, họ nói: "Hãy cho đòi Sam-sôn, để hắn chọc cười cho chúng ta". Họ đưa Sam-sôn ra khỏi ngục và người đã làm cho họ bật cười. Họ bắt người đứng giữa hai cây cột.
|
||
\v 26 Sam-sôn nói với cậu bé nắm hai tay của người: "Hãy cho phép ta chạm vào hai cây cột đỡ cả tòa nhà, hầu cho ta có thể dựa vào chúng".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Bấy giờ, ngôi nhà đầy ắp những người nam người nữ. Tất cả những người Phi-li-tin cầm quyền đều có mặt ở đó. Đã có trên mái nhà khoảng ba ngàn người nam người nữ, họ đứng quan sát trong khi Sam-sôn làm trò cho họ xem.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 28 Sam-sôn kêu cầu Đức Giê-hô-va như sau: "Lạy Chúa Giê-hô-va, xin nhớ đến con! Làm ơn ban sức lực cho con chỉ lần nầy thôi, lạy Đức Chúa Trời, hầu cho con báo thù chỉ một cú giáng trên dân Phi-li-tin vì đã móc hai con mắt của con".
|
||
\v 29 Sam-sôn đã xô hai cây cột đỡ lấy ngôi nhà, và ông đã nghiêng người đẩy chúng, một cây cột với tay phải, và cây cột kia với tay trái.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Sam-sôn nói: "Xin cho phép con chết với người Phi-li-tin!" Người dùng hết sức mình có, và tòa nhà sụp xuống trên những người cầm quyền và trên cả dân chúng có mặt ở trong đó. Vì vậy, số người chết mà người đã giết khi gục chết còn nhiều hơn cả lúc người còn sống nữa.
|
||
\v 31 Khi ấy, các anh em của người và cả nhà cha người xuống đến, và họ lấy xác rồi đem người về chôn ở giữa Xô-rê-a và Ê-ta-ôn, ở chỗ chôn Ma-nô-a, cha người. Sam-sôn đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên trong hai mươi năm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 17
|
||
\p
|
||
\v 1 Có một người sống trong vùng đồi núi Ép-ra-im, và tên người là Mi-ca.
|
||
\v 2 Người nói cùng mẹ mình rằng: "1. 100 miếng bạc của mẹ đã bị mất đi, vì đó mẹ đã rủa sã, và con có nghe — hãy xem đây! Con có số bạc đó. Con đã lấy nó". Mẹ người nói: "Nguyện Đức Giê-hô-va chúc phước cho con, hỡi con trai ta!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Người trả lại 1. 100 miếng bạc cho mẹ mình và bà nói: "Ta dành riêng số bạc này cho Đức Giê-hô-va, để làm một cái tượng bằng gỗ chạm cho con trai ta và một cái tượng bằng kim loại nữa. Vì vậy giờ đây, ta trao nó lại cho con".
|
||
\v 4 Khi ông nhận lấy số tiền rồi đưa nó cho mẹ mình, bà đã lấy hai trăm miếng bạc rồi giao nó cho người thợ kim loại, người thợ nầy làm chúng trở thành bức tượng gỗ chạm khắc và một cái tượng bằng kim loại nữa. Bức tượng ấy được đặt ở trong nhà của Mi-ca.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Như vậy, Mi-ca có một ngôi nhà đầy hình tượng và người làm một cái ê-phót cùng các thần giữ nhà, rồi người lập một trong các con trai làm thầy tế lễ của mình.
|
||
\v 6 Trong những ngày ấy chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên, và ai nấy làm theo mắt mình cho là phải.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Bấy giờ, có một thanh niên ở Bết-lê-hem xứ Giu-đa, thuộc gia đình của Giu-đa, đây là một người Lê-vi. Người ở lại đó để lo chu toàn các bổn phận của mình.
|
||
\v 8 Người rời khỏi Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa để ra đi tìm một nơi sinh sống. Khi người rời đi, người đến nhà của Mi-ca trong vùng đồi núi Ép-ra-im.
|
||
\v 9 Mi-ca nói với người: "Người từ đâu đến?" Người ấy nói như sau: "Tôi là một người Lê-vi thuộc Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa, và tôi đang đó đi đây tìm một nơi để tôi có thể ở".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Mi-ca nói với người rằng: "Hãy sống với ta rồi làm tư vấn và làm thầy tế lễ cho riêng ta. Ta sẽ ban cho ngươi mười miếng bạc một năm, một bộ quân áo, và thức ăn của người". Vậy, người Lê-vi đến sống ở nhà của Mi-ca.
|
||
\v 11 Người Lê-vi vốn hài lòng sống với người nầy, và đối với Mi-ca, chàng thanh niên nầy trở thành một trong các con trai của người.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Mi-ca biệt riêng người Lê-vi ra để làm các bổn phận thánh, và chàng thanh niên đó trở thành thầy tế lễ, và sống trong nhà của Mi-ca.
|
||
\v 13 Khi ấy Mi-ca nói: "Bây giờ, ta nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ làm lành cho ta, vì người Lê-vi nầy đã trở thành thầy tế lễ của ta".
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 18
|
||
\p
|
||
\v 1 Trong thời buổi ấy chẳng có vua nào trong Y-sơ-ra-ên. Dòng dõi của Đan đang tìm kiếm một lãnh thổ để sống trong đó, vì cho tới ngày ấy họ chưa lãnh được sản nghiệp nào từ giữa các chi phái của Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 2 Người Đan sai năm người từ hết thảy chi phái của họ, những người nam nào là chiến binh thuần thục từ Xô-rê-a và từ Ê-ta-ôn, đi do thám xứ. Họ nói với năm người nầy: "Hãy đi và do thám xứ". Họ đến vùng đồi núi Ép-ra-im, đến nhà của Mi-ca, và họ qua đêm ở đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Khi họ ở gần nhà của Mi-ca, họ nhận ra giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Thế là họ dừng lại rồi hỏi thăm: "Ai đưa người tới đây? Người đang làm gì ở chốn này? Tại sao người ở đây?"
|
||
\v 4 Người nói với họ: "Đây là điều Mi-ca đã làm cho tôi: Người đã thuê tôi làm thầy tế lễ cho người".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Họ nói với người: "Làm ơn tìm kiếm lời khuyên dạy của Đức Chúa Trời, hầu cho chúng ta biết được trường hợp chuyến hành trình chúng ta đây sẽ được thành công hay không!?!"
|
||
\v 6 Thầy tế lễ nói với họ: "Hãy đi, bình an. Đức Giê-hô-va sẽ dẫn anh em đi trong con đường mà anh em sẽ đi".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi ấy năm người nầy mới rời đi rồi đến tại La-ít, và họ thấy dân sự sống ở đó đang sinh sống trong sự an ninh — giống như dân Si-đôn họ đã sống đàng hoàng. Chẳng có một dân nào đến chinh phục họ trong xứ, hoặc dân nào gây rối với họ dù là thế nào đi nữa. Họ đã sống xa cách với dân Si-đôn, và họ chẳng có phiền hà chi với ai hết.
|
||
\v 8 Họ trở về với chia phái của họ ở Xô-rê-a Ê-ta-ôn. Người thân của họ hỏi thăm họ: "Đâu là tường trình của anh em?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Họ đáp: "Hãy đến! Chúng ta hãy tấn công chúng! Chúng ta đã nhìn thấy đất đai và đất ấy rất là tốt. Anh em chẳng làm gì hết sao? Đừng chậm chạp không tấn công và chinh phục xứ.
|
||
\v 10 Khi anh em đi, anh em sẽ đến với một dân, họ nghĩ họ đang sống an ninh, còn đất đai thì thật là rộng lớn! Nguyện Đức Chúa Trời ban đất ấy cho anh em — một nơi chẳng thiếu thứ chi trên đất".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 Sáu trăm người thuộc chi phái Đan, vũ trang với các thứ binh khí, ra khỏi Xô-rê-a và Ê-ta-ôn.
|
||
\v 12 Họ đi lên rồi đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim, trong Giu-đa. Đây là lý do tại sao dân sự gọi chỗ đấy là Ma-ha-ne Đan cho đến ngày nay; nơi ấy ở về phía Tây của Ki-ri-át Giê-a-rim.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Họ ra khỏi đó đến vùng đồi núi của Ép-ra-im và đến tại nhà của Mi-ca.
|
||
\v 14 Khi ấy năm người đi do thám xứ La-ít nói với người thân của họ: "Có phải anh em biết rõ trong mấy ngôi nhà kia có một cái ê-phót, các thần bảo hộ gia đình, và hình tượng chạm khắc, và một tượng bằng kim loại không? Hãy quyết định ngay đi, anh em sẽ làm gì đây?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Vì vậy, họ qua đó và đến tại nhà của chàng thanh niên người Lê-vi, đến nhà của Mi-ca, rồi họ chào thăm người.
|
||
\v 16 Bấy giờ sáu trăm người Đan, vũ trang với các thứ binh khí, đứng tại lối cổng vào.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Năm người đã đi do thám xứ ra tới đó và họ lấy cái tượng chạm, cái ê-phót, và các thần bảo hộ gia đình, cùng tượng kim loại, trong khi thầy tế lễ đứng gần nơi lối cổng vào với sáu trăm người vũ trang với các thứ binh khí.
|
||
\v 18 Khi số người nầy bước vào nhà của Mi-ca và lấy tượng chạm, cái ê-phót, mấy tượng thần bảo hộ gia đình, và tượng bằng kim loại, thầy tế lễ nói với họ: "Anh em làm điều chi vậy?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Họ nói với người: "Hãy im lặng đi! Hãy đặt tay vào mồm rồi đến cùng chúng ta, rồi làm cha và thầy tế lễ đối cùng chúng ta. Tốt hơn cho người làm thầy tế lễ cho nhà của một người, hay làm thầy tế lễ cho một chi phái và một họ trong Y-sơ-ra-ên?"
|
||
\v 20 Tấm lòng của thầy tế lễ rất vui sướng. Người lấy cái ê-phót, mấy bức tượng bảo hộ gia đình, và tượng chạm kia, và đi cùng với dân sự.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 21 Thế là họ quay người ra đi. Họ để mấy đứa trẻ nhỏ ở đàng trước, cũng như bầy gia súc và của cải của họ.
|
||
\v 22 Khi họ đi một khoảng xa xa nhà của Mi-ca, những người ở gần nhà của Mi-ca tập trung lại với nhau, rồi họ đuổi theo người Đan.
|
||
\v 23 Họ kêu la với người Đan, rồi họ xây lại nói với Mi-ca: "Sao người tập trung mấy kẻ kia lại chứ?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Người nói: "Anh em lấy cắp các tượng mà tôi đã làm, anh em lấy đi thầy tế lễ của tôi, rồi anh em rời đi. Tôi còn lại gì chứ? Anh em lại hỏi tôi: 'Điều gì làm cho anh em bối rối vậy?'"
|
||
\v 25 Người Đan nói với người: "Anh em không nên để cho chúng ta nghe điều gì anh em nói, hoặc một số người giận dữ sẽ tấn công anh em, thì anh em và gia đình anh em sẽ bị giết"
|
||
\v 26 Thế rồi, người Đan bèn đi đường của họ. Khi Mi-ca thấy họ quá mạnh đối với người, người trở lui về nhà mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Người Đan đã lấy đi những thứ Mi-ca đã làm, cũng như thầy tế lễ của người, rồi họ đến tại La-ít, với một dân không bị quấy rối và an ninh, họ dùng gươm giết chúng rồi thiêu đốt thành phố.
|
||
\v 28 Không có một người nào đến cứu chúng vì từ Si-đôn đến đó rất là xa, và họ không có nhờ cậy ai hết. Đó là vùng đồng bằng ở gần Bết Rê-hốp. Người Đan tái thiết lại thành phố rồi sống ở đó.
|
||
\v 29 Họ đặt tên thành là Đan, tên của Đan tổ phụ họ, là con trai trong các con trai của Y-sơ-ra-ên. Nhưng tên của thành thường được gọi là La-ít.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 30 Người Đan dựng tượng chạm cho chính họ, và Giô-na-than con của Ghẹt-sôn cháu của Môi-se, ông và các con trai của ông, đều là thầy tế lễ cho chi phái Đan cho đến ngày xứ bị làm phu tù.
|
||
\v 31 Vậy, họ thờ lạy tượng chạm của Mi-ca mà ông đã làm, bao lâu nhà của Đức Chúa Trời còn ở tại Si-lô.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 19
|
||
\p
|
||
\v 1 Vào thời buổi ấy, khi chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên, có một người Lê-vi, sống một thời gian ngắn trong vùng sâu vùng xa của đồi núi Ép-ra-im. Ông đem theo với mình một người nữ, một người vợ lẽ xuất thân từ Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa.
|
||
\v 2 Nhưng vợ lẽ của ông không chung thủy cùng ông; nàng ta bỏ ông rồi trở lại nhà cha nàng tại Bết-lê-hem xứ Giu-đa. Nàng ở lại đó trong bốn tháng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Khi ấy chồng nàng trở lên theo để khuyên nàng nên quay lại. Tôi tớ của ông ở với ông, và một cặp lừa. Nàng ta đưa ông về nhà cha của mình. Khi cha của cô gái gặp ông, ông rất vui vẻ.
|
||
\v 4 Cha vợ của ông, cha của cô gái, khuyên ông nên ở lại ba ngày. Họ cùng ăn cùng uống, rồi họ qua đêm tại đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Đến ngày thứ tư họ dậy sớm và ông sửa soạn ra đi, nhưng cha của cô gái nói với con rễ của mình: "Hãy dùng cái bánh để lấy sức, rồi hẳn đi".
|
||
\v 6 Thế là hai người ngồi xuống ăn uống với nhau. Khi đó cha của cô gái nói: "Làm ơn bằng lòng qua đêm và có thì giờ vui vẻ".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 7 Khi người Lê-vi dậy sớm để rời đi, người cha của thiếu nữ đó giục ông ở lại, vậy ông thay đổi chương trình rồi qua đêm ở đó một lần nữa.
|
||
\v 8 Đến ngày thứ năm, ông dậy sớm để rời đi, song cha của cô gái nói: "Hãy giữ sức, rồi đợi cho đến trưa". Thế là hai người có một bữa ăn.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 9 Khi người Lê-vi cùng vợ lẽ mình và gã tôi tớ chỗi dậy để ra đi, cha vợ của ông, cha của cô gái nói cùng ông: "Hãy xem, trời đã xế chiều rồi. Làm ơn ở lại tối đi, và có thì giờ vui vẻ. Hai người có thể dậy sớm vào ngày mai rồi hãy trở về nhà".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Nhưng người Lê-vi không bằng lòng qua đêm. Ông chỗi dậy rồi ra về. Ông đi về hướng Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem). Ông có một cặp lừa đã thắng yên — và vợ lẽ đi với ông.
|
||
\v 11 Khi họ đến gần Giê-bu, ban ngày gần như qua rồi, và gã tôi tớ nói với chủ mình: "Hãy đến, chúng ta hãy tạt vào trong thành Giê-bu-sít rồi qua đêm trong đó".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Chủ hắn nói cùng hắn: "Chúng ta sẽ không tạt vào trong một thành của dân ngoại, họ không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta sẽ tiếp tục đi đến Ghi-bê-a."
|
||
\v 13 Người Lê-vi nói với gã tôi tớ mình: "Hãy đến, chúng ta hãy đến với một địa điểm khác, rồi qua đêm ở Ghi-bê-a hay Ra-ma."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 14 Vậy, họ cứ đi tiếp, và mặt trời đã lặn khi họ đến tại Ghi-bê-a, trong lãnh thổ của Bên-gia-min.
|
||
\v 15 Họ tạt vào đó qua đêm ở trong Ghi-bê-a. Và ông ta ngồi xuống ở quảng trường thành phố, vì chẳng có ai tiếp họ vào nhà để qua đêm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Nhưng rồi có một cụ già lao động ở ngoài đồng về chiều đó. Ông cụ xuất thân từ vùng đồi núi Ép-ra-im, và ông ngụ một thời gian ngắn tại Ghi-bê-a. Những người sống trong địa điểm ấy là người Bên-gia-min.
|
||
\v 17 Cụ nhướng mắt lên nhìn thấy khách lạ ở quảng trường thành phố. Ông cụ nói: "Mấy người đi đâu vậy? Mấy người từ đâu đến?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Người Lê-vi nói với ông cụ: "Chúng tôi từ Bết-lê-hem xứ Giu-đa đang trên đường đến vùng sâu vùng xa ở đồi núi Ép-ra-im, là chỗ mà tôi đi đến. Tôi đến thành Bết-lê-hem trong xứ Giu-đa, và tôi sẽ đi đến nhà của Đức Giê-hô-va, nhưng chẳng có ai tiếp chúng tôi vào nhà của họ.
|
||
\v 19 Chúng tôi có rơm cho lừa ăn, và có bánh cùng rượu cho tôi và nữ tớ gái của ông, và cho gã thanh niên nầy với các tôi tớ của ông. Chúng tôi chẳng thiếu chi hết".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Ông cụ chào họ: "Chúc mấy người bình an! Tôi sẽ lo liệu cho mọi nhu cần của mấy người. Chỉ đừng qua đêm ở quảng trường thôi"
|
||
\v 21 Thế là ông cụ đưa người Lê-vi vào trong nhà mình rồi cho hai con lừa ăn. Họ rửa chơn rồi cùng ăn uống.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Họ có thì giờ vui vẻ, khi những người trong thành, ở quanh ngôi nhà đó, đến đập cửa. Họ nói với cụ già, là chủ nhà, như sau: "Hãy đem người mới đến nhà cụ ra, hầu cho chúng ta ngủ với hắn".
|
||
\v 23 Ông cụ, chủ của ngôi nhà đó, đi ra gặp họ rồi nói với họ rằng: "Không được, hỡi anh em của tôi, làm ơn đừng làm việc ác nầy! Một khi người nầy là khách trong nhà tôi, đừng làm việc gian ác nầy!
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Hãy xem, con gái đồng trinh của tôi cùng vợ lẽ của ông ta đang ở đây. Hãy để tôi đưa chúng ra ngoài liền đây. Hãy xúc phạm chúng và làm với chúng bất cứ điều chi anh em thích, nhưng đừng làm một việc gian ác như thế với người nầy!"
|
||
\v 25 Nhưng những kẻ ấy không chịu nghe lời ông, vì vậy người bắt vợ lẽ của người rồi đưa nàng ta ra cho họ. Họ túm lấy nàng ta, ngủ với nàng, rồi lạm dụng nàng suốt cả đêm, rồi lúc bình mình họ thả cho nàng ta đi.
|
||
\v 26 Lúc bình minh, người nữ ấy về đến rồi té ngã ngay cửa nhà của ông cụ nơi có mặt chủ của nàng ta, rồi nằm ở đó cho đến khi trời sáng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Chủ nàng chỗi dậy sớm rồi mở cửa nhà, bước ra đặng đi đường mình. Ông có thể thấy vợ lẽ của mình đang nắm gục ở đó, với hai bàn tay trên ngạch cửa.
|
||
\v 28 Người Lê-vi nói cùng nàng: "Dậy đi. Chúng ta lên đường đó". Nhưng chẳng có câu trả lời nào hết. Ông đặt nàng lên lừa, rồi lên đường về quê nhà.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Khi người Lê-vi về đến nhà mình, ông ta lấy một con dao, nắm lấy vợ lẽ mình, rồi chặt nàng ra, từng chi một, thành mười hai miếng, rồi gửi những chi đó đi khắp Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 30 Hết thảy ai thấy điều nầy đều nói: "Một việc thể ấy chưa bao giờ được làm ra hay được thấy kể từ thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập cho đến ngày nay. Hãy suy nghĩ về điều đó! Hãy cho chúng tôi một lời khuyên! Hãy bảo chúng tôi việc phải làm!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 20
|
||
\p
|
||
\v 1 Khi ấy, hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đi ra như một người, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, cũng gồm cả xứ Ga-la-át nữa, và họ tập trung lại trước mặt Đức Chúa Trời ở Mích-ba.
|
||
\v 2 Các cấp lãnh đạo của dân sự, của hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên, ngồi vào chỗ của họ nơi hội chúng của dân sự Đức Chúa Trời — 400. 000 lính bộ, họ đã sẵn sàng dùng gươm để đánh trận.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 3 Bấy giờ người Bên-gia-min hay được rằng dân Y-sơ-ra-ên đã đi lên đến Mích-ba. Người Y-sơ-ra-ên nói: "Hãy kể lại cho chúng ta biết thể nào việc gian ác nầy đã xảy ra?"
|
||
\v 4 Người Lê-vi, chồng của người nữ đã bị giết, trả lời: "Tôi đến xứ Ghi-bê-a trong lãnh thổ thuộc về người Bên-gia-min, tôi và vợ lẽ tôi, qua đêm ở đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 5 Suốt cả đêm, mấy người bà con trong xứ Ghi-bê-a đến tấn công tôi, vây quanh ngôi nhà và dự tính giết chết tôi. Họ bắt lấy rồi ngủ với vợ lẽ tôi, và nàng gục chết.
|
||
\v 6 Tôi nắm lấy vợ lẽ tôi rồi chặt nàng ra thành nhiều mảnh, rồi gửi chúng vào từng khu vục sản nghiệp của Y-sơ-ra-ên, vì họ đã phạm sự gian ác thể ấy và sỉ nhục Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 7 Bây giờ, hỡi hết thảy người Y-sơ-ra-ên, hãy phát biểu đi rồi đưa ra lời khuyên và sự chú ý đền việc nầy!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Hết thảy mọi người đều chỗi dậy như một người, họ nói: "Không một ai trong chúng ta sẽ vào trại mình và chẳng một ai trong chúng ta sẽ trở về nhà mình!
|
||
\v 9 Nhưng bây giờ đây là điều mà chúng ta phải làm với Ghi-bê-a: chúng ta sẽ tấn công nó theo thứ tự bóc thăm.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 10 Chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm trong các chi phái của Y-sơ-ra-ên, và một trăm trong một ngàn, và một ngàn trong mười ngàn, phải tìm lương thực cho số người nầy, hầu cho khi họ đến Ghi-bê-a trong xứ Bên-gia-min, họ sẽ trừng phạt chúng vì sự gian ác mà chúng đã phạm trong Y-sơ-ra-ên".
|
||
\v 11 Thế là hết thảy các chiến binh của Y-sơ-ra-ên tập trung chống lại thành phố, thống nhất với một mục đích.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 12 Các chi phái của Y-sơ-ra-ên sai người đến gặp Bên-gia-min, nói như vầy: "Sao sự gian ác nầy lại được làm ra giữa vòng anh em?
|
||
\v 13 Vì lẽ đó, hãy trao cho chúng tôi những người ở Ghi-bê-a, hầu cho chúng tôi tử hình họ, và nhờ đó chúng tôi sẽ cất bỏ hoàn toàn điều ác nầy ra khỏi Y-sơ-ra-ên". Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe theo tiếng của anh em họ, là dân Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 14 Khi ấy người Bên-gia-min tập trung lại ngoài các thành cho đến Ghi-bê-a sẵn sàng nghinh chiến chống lại Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 15 Người Bên-gia-min kéo ra từ các thành để đánh trận trong ngày ấy 26. 000 chiến sĩ, được huấn luyện dùng gươm thật thuần thục; thêm vào đó số bảy trăm người được chọn từ các cư dân ở Ghi-bê-a.
|
||
\v 16 Giữa vòng họ là bảy trăm người thuận tay trái; từng người một có thể ném một hòn đá trúng một sợi tóc mà chẳng sai trật.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 17 Các chiến sĩ của Y-sơ-ra-ên, không kể số người từ chi phái Bên-gia-min, tổng cộng là 400. 000 người, họ được huấn luyện dùng gươm thuần thục trong chiến đấu. Hết thảy những người nầy đều là người của chiến trận.
|
||
\v 18 Dân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy, đi lên đến Bê-tên, rồi xin lời khuyên đến từ Đức Chúa Trời. Họ hỏi: "Ai trước nhứt tấn công Bên-gia-min thay cho chúng ta?" Đức Giê-hô-va phán: "Giu-đa sẽ tấn công trước hết".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 19 Dân Y-sơ-ra-ên trở dậy vào ban sáng và, đối diện với Ghi-bê-a, họ sửa soạn ra trận.
|
||
\v 20 Binh lính Y-sơ-ra-ên đi ra trận nghịch cùng Bên-gia-min. Họ dàn trận tại Ghi-bê-a.
|
||
\v 21 Binh lính của Bên-gia-min dàn trận tại Ghi-bê-a, và họ giết 22. 000 người trong quân đội của Y-sơ-ra-ên vào ngày ấy.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Còn binh sĩ của Y-sơ-ra-ên tự mình củng cố lại, rồi họ dàn quân ở cùng chỗ mà họ đã dàn trận vào ngày thứ nhứt.
|
||
\v 23 Và người Y-sơ-ra-ên đi lên và họ bật khóc trước mặt Đức Giê-hô-va cho tới chiều tối. Và họ tìm kiếm sự chỉ dẫn của Đức Giê-hô-va: "Chúng tôi một lần nữa có nên đến gần giao chiến chống lại anh em của chúng tôi, là dân Bên-gia-min hay không?" Và Đức Giê-hô-va phán: "Hãy tấn công chúng!"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 24 Vì vậy, binh lính của Y-sơ-ra-ên ra trận chống lại binh lính của Bên-gia-min vào ngày thứ hai.
|
||
\v 25 Vào ngày thứ hai, Bên-gia-min đi ra chống lại họ từ Ghi-bê-a và họ giết 18. 000 người từ binh lính của Y-sơ-ra-ên. Mọi người nầy đã được huấn luyện để dùng gươm mà chiến đấu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 26 Khi ấy hết thảy binh sĩ của Y-sơ-ra-ên, cùng hết thảy dân sự, đi lên Bê-tên mà khóc, rồi ở đó họ ngồi xuống trước mặt Đức Giêhôva Đức Giê-hô-va và họ kiêng ăn trong ngày đó cho tới chiều tối và dâng của lễ thiêu, của lễ thù ân trước mặt Đức Giê-hô-va.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 27 Người Y-sơ-ra-ên cầu hỏi Đức Giê-hô-va — vì hòm giao ước của Đức Chúa Trời hiện diện ở đó trong thời buồi ấy,
|
||
\v 28 và Phi-nê-a và Ê-lê-a-sa con của A-rôn, đang phục sự trước hòm vào thời buổi đó — "Chúng ta có nên ra trận chống lại người Bên-gia-min, anh em của chúng ta, hay phải dừng lại?" Đức Giê-hô-va phán: "Hãy tấn công, vì ngày mai ta sẽ giúp các con đánh bại chúng".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 29 Vậy Y-sơ-ra-ên đặt người trong chỗ kín đáo quanh Ghi-bê-a.
|
||
\v 30 Binh lính của Y-sơ-ra-ên đã đánh với binh lính của Bên-gia-min trong ngày thứ ba, và họ hình thành các phòng tuyến nghịch cùng Ghi-bê-a y như họ đã làm trước đó.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 31 Người Bên-gia-min ra đánh trận chống lại dân sự, và họ kéo ra khỏi thành phố. Họ khởi sự giết một số người trong dân sự. Đã có khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngã chết trên chiến trường và trên các đường phố — một trong hai con đường đi lên Bê-tên, và con đường kia dẫn tới Ghi-bê-a.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 32 Khi ấy người Bên-gia-min nói: "Họ bị đánh bại và họ bỏ chạy khỏi chúng ta, giống như lần đầu vậy". Nhưng binh lính Y-sơ-ra-ên nói: "Chúng ta hãy quay trở lại rồi kéo chúng ra khỏi thành đến hai con đường kia".
|
||
\v 33 Tất cả binh lính của Y-sơ-ra-ên chỗi dậy ra khỏi vị trí của họ và dàn trận cho trận đánh ở Ba-anh Tha-ma. Khi ấy binh lính của Y-sơ-ra-ên đang ẩn nấp ở các chỗ kín đáo ra khỏi vị trí của họ từ Ma-a-re Ghi-bê-a.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 34 Mười ngàn người trong cả Y-sơ-ra-ên được chọn chống lại Ghi-bê-a, trận chiến rất dữ dội, nhưng người Bên-gia-min không biết tai họa rất gần với họ.
|
||
\v 35 Đức Giê-hô-va đã đánh bại Bên-gia-min trước mặt Y-sơ-ra-ên. Vào ngày ấy, binh lính của Y-sơ-ra-ên đã giết 25. 100 người của Bên-gia-min. Hết thảy những người nầy ngã chết đều là những kẻ được huấn luyện dùng gươm thuần thục để chiến đấu.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 36 Vậy, binh lính của Bên-gia-min đã nhìn thấy họ bị bại trận. Người Y-sơ-ra-ên đã nhường bước cho người Bên-gia-min, vì họ tin tưởng nơi những kẻ họ đặt ở các vị trí hiểm yếu tại Ghi-bê-a.
|
||
\v 37 Khi ấy những người nào đang ẩn nấp chỗi dậy, vội vã chạy ùa vào trong Ghi-bê-a, và họ dùng gươm giết những ai còn sống trong thành phố.
|
||
\v 38 Giờ đây, dấu hiệu được sắp đặt giữa binh lính của Y-sơ-ra-ên cùng những người ẩn nấp sẽ là một cột khói lớn bay lên ở phía ngoài thành phố
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 39 và binh lính của Y-sơ-ra-ên sẽ lui dần khỏi trận đánh. Bấy giờ người Bên-gia-min khởi tấn công và họ giết ba mươi người của Y-sơ-ra-ên, rồi họ nói: "Chắc chắn họ đã bị đánh bại trước mặt chúng ta, giống như trong trận đánh thứ nhứt vậy".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 40 Song khi trụ khói bắt đầu bay lên ở phía ngoài thành, người Bên-gia-min xây lại và nhìn thấy cột khói bay lên trời từ cả thành phố.
|
||
\v 41 Khi ấy binh lính của Y-sơ-ra-ên quay lại nghịch cùng họ. Người Bên-gia-min lấy làm kinh hãi, vì họ thấy tai họa đã giáng trên họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 42 Vì vậy họ chạy trốn trước mặt binh lính của Y-sơ-ra-ên, trốn chạy trên con đường vào trong đồng vắng. Nhưng cuộc chiến vẫn lan đến họ. Binh lính của Y-sơ-ra-ên ra khỏi các thành phố và giết họ nơi họ đứng.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 43 Họ bao vây người Bên-gia-min rồi truy đuổi họ; và họ truy kích họ đến Nô-ha, rồi giết họ suốt con đường về phía Đông Ghi-bê-a.
|
||
\v 44 Từ chi phái Bên-gia-min, 18. 000 binh sĩ ngã chết, hết thảy họ được biệt riêng ra trong chiến trận.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 45 Họ bỏ chạy hướng về đồng vắng đến vầng đá Rim-môn. Người Y-sơ-ra-ên giết năm ngàn người trong số họ dọc theo các con đường. Họ cứ giữ việc truy kích chúng, theo sau chúng gần con đường dẫn đến Ghi-đôm, và họ giết thêm hai ngàn người nữa.
|
||
\v 46 Tất cả các binh sĩ của người Bên-gia-min ngã xuống trong ngày ấy là 25. 000 người — những người được huấn luyện thuần thục với gươm; hết thảy họ đều được dành để cho chiến trường.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 47 Nhưng có sáu trăm người xây lại trốn vào đồng vắng, hướng tới vầng đá Rim-môn. Và họ ở lại vầng đá Rim-môn trong bốn tháng.
|
||
\v 48 Binh lính Y-sơ-ra-ên xây lưng chống lại người Bên-gia-min và đã tấn công cùng giết họ — toàn bộ thành phố, gia súc, cùng mọi thứ mà họ tìm gặp. Rồi họ thiêu rụi từng thị trấn trên đường tiến quân của họ.
|
||
|
||
\s5
|
||
\c 21
|
||
\p
|
||
\v 1 Bây giờ, người Y-sơ-ra-ên đã lập một lời hứa tại Mích-ba: "Không một ai trong chúng ta sẽ để cho con gái mình lấy người Bên-gia-min làm chồng".
|
||
\v 2 Khi ấy dân sự đến tại Bê-tên và ngồi ở đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối, rồi họ bật khóc lớn tiếng cách cay đắng.
|
||
\v 3 Họ gào lên: "Hỡi Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên ơi, sao điều nầy lại xảy ra cho Y-sơ-ra-ên, vì sẽ khuyết mất một trong các chi phái của chúng con hôm nay?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 4 Qua ngày sau dân sự dậy sớm rồi dựng một bàn thờ ở đó, dâng của lễ thiêu cùng của lễ thù ân.
|
||
\v 5 Người Y-sơ-ra-ên nói: "Có chi phái nào không tới trong hội chúng trình diện Đức Giê-hô-va không?" Vì họ đã lập một lời hứa quan trọng liên quan đến bất cứ ai không lên trình diện Đức Giê-hô-va tại Mích-ba. Họ nói: "Người đó chắc chắn sẽ bị tử hình".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 6 Người Y-sơ-ra-ên có lòng thương xót đối với anh em của họ là Bên-gia-min. Họ nói: "Ngày nay một chi phái đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên.
|
||
\v 7 Ai sẽ tiếp trợ những người vợ bị bỏ lại, một khi chúng ta đã lập một lời hứa với Đức Giê-hô-va rằng chúng ta sẽ không để cho bất kỳ ai trong số họ cưới con gái chúng ta làm vợ?"
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 8 Họ nói: "Chi phái nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên không đi lên cùng Đức Giê-hô-va tại Mích-ba?" Họ thấy rằng không một người nào đã đến với hội chúng từ Gia-be Ga-la-át.
|
||
\v 9 Vì khi dân sự đã được lập một cách trật tự, kìa, không một người nào trong dân cư của Gia-be Ga-la-át có mặt tại đó.
|
||
\v 10 Hội chúng bèn sai 12. 000 người dũng cảm nhất với những lời dặn dò đi đến Gia-be Ga-la-át rồi tấn công họ, giết họ, thậm chí cả phụ nữ và trẻ em.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 11 "Hãy làm điều nầy: anh em phải giết hết từng người nam và từng người nữ nào đã ngủ với người nam".
|
||
\v 12 Họ tìm gặp giữa vòng những kẻ sống trong xứ Gia-be Ga-la-át bốn trăm thiếu nữ chưa hề ngủ với một người nam, rồi họ bắt lấy chúng đưa đến trại quân ở Si-lô, trong xứ Ca-na-an.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 13 Toàn bộ hội chúng gửi một sứ điệp dặn người Bên-gia-min nào ở tại vầng đá Rim-môn rằng họ cung ứng cho chúng sự bình an.
|
||
\v 14 Vậy người Bên-gia-min trở về vào thời điểm đó và họ được cung ứng cho những người nữ tại Gia-be Ga-la-át. Nhưng chưa có đủ số phụ nữ cho hết thảy họ.
|
||
\v 15 Họ lấy làm tiếc về việc đã xảy ra cho người Bên-gia-min, vì Đức Giê-hô-va đã lập một điều khoản giữa các chi phái của Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 16 Khi ấy cấp lãnh đạo của hội chúng nói: "Chúng ta sẽ kiếm vợ cho người Bên-gia-min còn lại như thế nào đây, một khi những người nữ của Bên-gia-min đã bị giết?"
|
||
\v 17 Họ nói: "Phải có một sản nghiệp cho những người Bên-gia-min còn sống kia, hầu cho một chi phái không bị tuyệt diệt khỏi Y-sơ-ra-ên.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 18 Chúng ta không thể kiếm vợ cho chúng từ các con gái của chúng ta. Vì dân Y-sơ-ra-ên đã lập một lời hứa: 'Đáng rủa thay cho kẻ nào gả vợ cho người Bên-gia-min'".
|
||
\v 19 Vì vậy, họ nói: "Anh em biết có một lễ cho Đức Giê-hô-va mỗi năm tại Si-lô (ở phía Bắc Bê-tên, phía Đông con đường chạy thẳng tới Bê-tên đến Si-chem, và phía Nam của Lê-bô-na)."
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 20 Họ dặn người Bên-gia-min, mà rằng: "Hãy đi ẩn mình rồi chờ đợi trong vườn nho.
|
||
\v 21 Hãy canh giờ, lúc các thiếu nữ từ Si-lô đi ra nhảy múa, khi ấy hãy ùa đến từ các vườn nho và mỗi người trong anh em sẽ bắt lấy một người vợ từ các con gái của Si-lô, rồi trở về đất của Bên-gia-min.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 22 Khi cha của anh em họ đến phản đối chúng ta, chúng ta sẽ nói với họ: 'Xin cho chúng được ơn! Chúng còn sống đó vì chúng không kiếm được vợ trong chiến tranh. Và mấy ông thì vô tư đối với lời hứa, vì mấy ông không gả con gái mấy ông cho chúng'".
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 23 Người Bên-gia-min đã làm vậy, họ lấy số người vợ mà họ cần từ những thiếu nữ nào đang nhảy múa, rồi họ đưa chúng về làm vợ cho họ. Họ bèn đi rồi trở về địa điểm cơ nghiệp của họ; họ tái thiết các thị trấn, rồi sống trong đó.
|
||
\v 24 Khi ấy người Y-sơ-ra-ên rời khỏi chỗ ấy mà đi về nhà, mỗi người trong chi phái và họ hàng mình, và mỗi người trong sản nghiệp riêng của mình.
|
||
|
||
\s5
|
||
\v 25 Vào thời buổi ấy chẳng có vua trong Y-sơ-ra-ên. Ai nấy đã làm những gì là đúng theo mắt của họ.
|